Phần 1: Những cuộc tàn phá và thảm sát
- Trần Hưng
- •
- Thứ Bảy, 28/07/2018 • 82.6k Lượt Xem
Sự thất bại của quân Tây Sơn trước nhà Nguyễn thường được cho là vì cái chết của vua Quang Trung. Tuy nhiên, nhìn lại lịch sử, tại sao Nguyễn Phúc Ánh bao nhiêu lần tay trắng bại vong lại vẫn nhận được sự ủng hộ của người dân? Nhà Tây Sơn đã làm những điều gì để mất lòng dân đến như vậy?
Hội An: Thương cảng hàng đầu châu Á bị tàn phá
Từ thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên, Hội An được xây dựng và phát triển trở thành thương cảng tiêu biểu của châu Á và nổi tiếng khắp thế giới. Rất nhiều thương nhân từ Nhật Bản, Trung Quốc, châu Âu đến đây giao thương, biến Hội An thành hải cảng quốc tế tiêu biểu ở châu Á. Hội An là đô thị rất trù phú, được nhiều nơi trên thế giới biết đến, có rất nhiều khu phố dành cho thương gia nước ngoài.
Một người Ý là Christoforo Borri cư trú ở Hội An vào năm 1618 đã mô tả rằng:
“Hải cảng đẹp nhất, nơi tất cả người ngoại quốc đều tới và cũng là nơi có hội chợ danh tiếng chính là hải cảng thuộc tỉnh Quảng Nam”.
“Người Hoa và Nhật Bản là những thương nhân chủ yếu của chợ phiên, năm nào cũng mở và kéo dài trong bốn tháng. Người Nhật thường đem lại 4, 5 vạn nén bạc, người Trung Hoa thì đi một thứ thuyền buồm đem lại nhiều tơ lụa tốt và sản vật đặc biệt của họ”
“Do chợ này mà Quốc vương thu được số tiền thuế lớn, toàn quốc nhờ vậy cũng được nhiều lợi ích”.
Thế nhưng quân chúa Trịnh và quân Tây Sơn sau khi chiếm Quảng Nam đã tàn phá tất cả Hội An. Không chỉ sử liệu thời nhà Nguyễn mà nhiều thương gia phương Tây cũng chứng kiến ghi nhận cảnh này.
Vào thời điểm 1774-1775 là giai đoạn mà quân Trịnh tiến đánh Phú Xuân (Huế), chúa Nguyễn phải chạy về Quảng Nam, lại bị quân Tây Sơn đánh ra uy hiếp. Một bức thư năm 1775 của Halbout đã ghi nhận:
“Quân nổi loạn đã cướp bóc, cướp phá chẳng nương tay, đến nổi các tỉnh Cham cứ 20 người thì có 19 người chết vì bị đầy đọa khổ sở. Các giáo khu ở Hàn và Cầu Né đều không còn… Năm ngoái, ở Bầu Nghé từ tháng 4 đến tháng 9 âm lịch số giáo dân bị giết đến sáu trăm người… Ở một nơi khác cũng thời gian ấy, ít nhất có đến 1500 giáo dân bị giết. Suốt hai năm ròng gần như quanh tôi lúc nào cũng có người chết và hấp hối…”
Thư của các giáo sĩ thừa sai, NXB Văn học Hà Nội.
Một người Anh Charles Chapman phải thốt lên rằng:
“Khi tới Hội An, thành phố lớn này chẳng còn lại là bao những khu phố được quy hoạch quy củ với những ngôi nhà xây bằng gạch, đường lát đá mà chỉ thấy một cảnh hoang tàn làm cho ta cảm thấy xót xa. Trời ơi, những công trình ấy bây giờ chỉ còn đọng lại trong ký ức mà thôi”
Kiến trúc phố cổ Hội An – Việt Nam, NXB Thế giới
Sau này thành phố Hội An đã được xây dựng lại nhưng không thể được như trước nữa, những khu phố sầm uất đã không còn, nhiều thương gia chứng kiến cảnh tàn phá cướp bóc cũng sợ hãi mà không dám quay lại.
Nhà nghiên cứu Tạ chí Đại Trường dẫn lời Linh mục Labartette miêu tả:
“Ở Cửa Hàn (Đà Nẵng) không còn một con heo, gà, vịt, đường cát trước kia sản xuất rất nhiều nay biến mất, tiền mất giá một quan còn giá trị độ một đồng, tình trạng đói khổ ăn xin xuất hiện phổ biến trong xứ.”
Lê Quý Đôn cũng ghi nhận trong thảm cảnh ở Quảng Nam trong “Phủ biên tạp lục” như sau:
“…quá đỗi đói khổ cùng khốn, họ chỉ ngóng trông quân nhà vua đến giải cứu cho họ…”
Cù lao Phố: Trung tâm thương mại sầm uất nhất Nam Bộ bị tàn phá
Trung tâm thương mại ở Nam Bộ là cù lao Phố nằm bên sông Đồng Nai thuộc xã Hiệp Hòa, Biên Hòa ngày nay. Nguồn gốc của nó là do một số tướng lĩnh nhà Minh do không quy phục nhà Thanh nên đến xin chúa Nguyễn được làm con dân Đại Việt và được cho phép khai phá vùng đất này. (Xem bài: Các đời chúa Nguyễn mở rộng lãnh thổ Đại Việt như thế nào? – Phần 3: Lãnh thổ mở rộng đến Gia Định)
Thời ấy thương nghiệp phát triển dẫn đến các nghề thủ công như dệt chiếu, tơ lụa, gốm, đúc đồng, nấu đường, làm bột, đồ gỗ gia dụng, chạm khắc gỗ, đóng thuyền, làm pháo v.v.. rất phát triển. Nơi đây thuận tiện giao thông thủy bộ, buôn bán tấp nập, nên bắt đầu phồn thịnh và nhanh chóng trở thành trung tâm thương mại và giao dịch quốc tế của cả vùng Nam Bộ.
Sách “Đại Nam nhất thống chí” mô tả rằng Nông Nại đại phố lúc đầu do Trần Thượng Xuyên (tức Trần Thắng Tài – từng là tổng binh ba châu Cao – Lôi – Liêm dưới triều Minh) khai phá, ông “chiêu nạp được người buôn nước Tàu, xây dựng đường phố, lầu quá đôi từng rực rỡ trên bờ sông, liền lạc năm dặm và phân hoạch ra ba nhai lộ: nhai lớn giữa phố lót đá trắng, nhai ngang lót đá ong, nhai nhỏ lót đá xanh, đường rộng bằng phẳng, người buôn tụ tập đông đúc, tàu biển, ghe sông đến đậu chen lấn nhau, còn những nhà buôn to ở đây thì nhiều hơn hết, lập thành một đại đô hội…”
Trịnh Hoài Đức mô tả trong “Gia Định thành thông chí” của mình như sau:
“Các thuyền ngoại quốc tới nơi này (cù lao Phố) bỏ neo, mướn nhà ở, rồi kê khai các số hàng trong chuyến ấy cho các hiệu buôn trên đất liền biết. Các hiệu buôn này định giá hàng, tốt lẫn xấu, rồi bao mua tất cả, không để một món hàng nào ứ động. Đến ngày trở buồm về, gọi là ‘hồi đường’, chủ thuyền cần mua món hàng gì, cũng phải làm sẵn hóa đơn đặt hàng trước nhờ mua dùm. Như thế, khách chủ đều được tiện lợi và sổ sách phân minh. Khách chỉ việc đàn hát vui chơi, đã có nước ngọt đầy đủ, lại khỏi lo ván thuyền bị hà ăn, khi về lại chở đầy thứ hàng khác rất là thuận lợi…”.
Khi quân Tây Sơn đánh vào Nam bộ, lịch sử ghi nhận rằng cù lao Phố bị tàn phá, người Hoa kiều bị tàn sát. Quân Tây Sơn cướp bóc của cải chở về Quy Nhơn, những gì còn lại đều bị đốt sạch. Các cơ sở thủ công bị phá, dân chúng bị tàn sát, nước đỏ ngầu vì máu. Những người Hoa may mắn sống sót chạy về Bến Nghé, sau này thành lập lại trung tâm thương mại ở vùng Chợ Lớn.
Trịnh Hoài Đức mô tả sự việc này trong “Gia Định thành thông chí” rằng từ khi bị Tây Sơn tàn phá, “nơi đây biến thành gò hoang, sau khi trung hưng người ta tuy có trở về nhưng dân số không được một phần trăm lúc trước”.
Sau khi chợ búa cùng phố xá bị tàn phá nặng nề, các thương gia người Hoa rủ nhau xuống vùng Chợ Lớn, sinh sống và lập những cơ sở thương mãi khác cho đến nay. Kể từ đó, vùng cù lao Phố đánh mất vai trò là trung tâm thương mại của Đàng Trong mà thay vào đó là Chợ Lớn và Mỹ Tho.
Mỹ Tho: Vùng kinh tế hưng thịnh bị tàn phá
Vào năm 1679, một nhóm khoảng ba ngàn người Minh Hương được Chúa Nguyễn cho định cư vùng đất mới này. Trong nhóm có Dương Ngạn Địch đứng ra lập Mỹ Tho đại phố ở làng Mỹ Chánh, huyện Kiến Hòa. Khu đại phố này kéo dài đến Cầu Vĩ, Gò Cát, tức khu vực xã Mỹ Phong hiện nay. Rất nhiều làng xã mọc lên xung quanh khu vực Mỹ Tho: Thái Trấn lập làng An Hoà (sau đổi là Thạnh Trị), Nguyễn Văn Trước lập làng Điều Hòa (khu vực đường Nguyễn Hùynh Đức bây giờ ).
Vào thế kỷ 17, Mỹ Tho đã trở thành một trong hai trung tâm thương mại lớn nhất Nam Bộ lúc bấy giờ (trung tâm còn lại là cù lao Phố). Sự hưng thịnh của phố chợ Mỹ Tho cho thấy nền sản xuất nông – ngư nghiệp và kinh tế hàng hóa địa phương ở thời điểm đó đã có những bước phát triển đáng kể, đặc biệt là đối với ngành thương mại.
Tuy nhiên quân Tây Sơn đã tàn phá vùng kinh tế hưng thịnh này một cách không thương tiếc. Nhà nghiên cứu Sơn Nam đã mô tả trong “Lịch sử khẩn hoang miền Nam” rằng:
“Chợ phố lớn Mỹ Tho, nhà ngói cột chàm, đình cao chùa rộng, ghe thuyền ở các ngả sông biển đến đậu đông đúc làm một đại đô hội rất phồn hoa huyên náo. Từ khi Tây Sơn chiếm cứ, đổi làm chiến trường, đốt phá gần hết, từ năm 1788 trở lại đây, người ta lần trở về, tuy nói trù mật nhưng đối với lúc xưa chưa được phân nửa”.
Thậm chí người ta đã coi quân Tây Sơn như cường đạo. Tại Vĩnh Thanh, trong lúc Tây Sơn vào chiếm cứ thì dân chúng “đều chôn cất của cải không dám phơi bày ra, cho nên bọn cường đạo không cướp lấy được vật gì”.
Thảm sát người Hoa ở Chợ LớnTừ khi cù lao Phố bị phá hủy thì các hoạt động thương mại phải di dời tập trung về Chợ Lớn.
Năm 1782 Nguyễn Nhạc đến “18 thôn vườn trầu” thì bị phục kích thua trận. Nhận ra quân phục kích là đạo binh Hòa Nghĩa gồm nhiều người Hoa ủng hộ Nguyễn Phúc Ánh, Nguyễn Nhạc đã thực hiện một cuộc thảm sát đối với người Hoa.
Nhà nghiên cứu Sơn Nam căn cứ theo “Gia Định thông chí” viết trong cuốn “Lịch sử khẩn hoang miền Nam” như sau:
“Nhạc bèn giận lây, phàm người Tàu không kể mới cũ đều giết cả hơn 10.000 người. Từ Bến Nghé đến sông Sài Gòn, tử thi quăng bỏ xuống sông làm nước không chảy được nữa. Cách 2, 3 tháng người ta không dám ăn cá tôm dưới sông. Còn như sô, lụa, chè, thuốc, hương, giấy, nhất thiết các đồ Tàu mà nhà ai đã dùng cũng đều đem quăng xuống sông, chẳng ai dám lấy. Qua năm sau, thứ trà xấu một cân giá bán lên đến 8 quan, 1 cây kim bán 1 quan tiền, còn các loại vật khác cũng đều cao giá, nhân dân cực kỳ khổ sở”.
Ngoài việc trả thù riêng người Tàu, Nguyễn Nhạc còn có dụng tâm tiêu diệt đầu não kinh tế của miền Nam, nơi chúa Nguyễn nắm được nhân tâm từ lâu.
Sự thật là quân Tây Sơn đã tàn sát bao nhiêu người? Linh mục Andre Tôn trong bức thư viết ngày 1/7/1784 mô tả số người chết trong cuộc thảm sát này là 10.000 đến 11.000 người, trong đó phần lớn là người Hoa. Linh mục Castuera, người đã có mặt ở Chợ Quán ngày 7/7/1782, ghi nhận có 4000 người Hoa bị giết. Số nạn nhân thật sự trong những cuộc thành trừng của Tây Sơn là không thể biết chính xác, nhưng một bầu không khí khủng bố đối với người Hoa ở đây là có thật.
Phần 2: Lại bàn về chữ “Nghĩa”
Sự thất bại của nhà Tây Sơn trước nhà Nguyễn thường được cho là vì cái chết của vua Quang Trung. Tuy nhiên, nhìn lại lịch sử, tại sao Nguyễn Phúc Ánh bao nhiêu lần tay trắng bại vong lại vẫn nhận được sự ủng hộ của người dân? Nhà Tây Sơn đã làm những điều gì để mất lòng dân đến như vậy?
Trong chuyên đề “Điều gì khiến nhà Tây Sơn bại bởi nhà Nguyễn?”, kỳ trước chúng ta đã bàn tới những cuộc tàn phá và thảm sát của quân Tây Sơn đối với các trung tâm kinh tế lớn của Đàng Trong, đặc biệt có Hội An là thương cảng mang tầm cỡ thế giới cũng bị phá hoại. Kỳ này, xin được mạn đàm về những góc tối khác trong phong trào Tây Sơn.
Tóm tắt bài viết:
- Tổ tiên từ họ Hồ đổi sang họ Nguyễn
- Khẩu hiệu phò chúa Nguyễn nhưng lại giết hoàng tộc nhà Nguyễn
- Phá lăng tẩm và đào mả nhà Nguyễn
Tổ tiên từ họ Hồ đổi sang họ Nguyễn
Tám đời chúa Nguyễn đã có công rất lớn đối với dân tộc và đất nước khi kế tục nhau mở nước về phương Nam, đến tận Cà Mau, Châu Đốc, cống hiến cho Đại Việt non một nửa nước, trải dài từ Phú Yên trở vào Nam, với đất đai trù phú, nguồn lợi dồi dào, rộng hơn lãnh thổ Nam tiến của các triều Lý, Trần, Hồ và Hậu Lê cộng lại. (Xem loạt bài: Các đời chúa Nguyễn mở rộng lãnh thổ Đại Việt như thế nào?) Cũng nhờ có công lao của chúa Nguyễn mà tổ tiên nhà Tây Sơn có thể vào Nam an cư lập nghiệp.
Theo Gia phả họ Hồ Quỳnh Đôi, thì tổ tiên nhà Tây Sơn vốn họ Hồ ở làng Hương Cái, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Khi các chúa Nguyễn mở mang bờ cõi về hướng Nam, cuộc sống sung túc, họ Hồ từ Nghệ An vào Đàng Trong lập nghiệp. Ông cố của Nguyễn Huệ tên là Hồ Phi Long vào giúp việc cho nhà họ Đinh ở thôn Bằng Chân, huyện Tuy Viễn, tức An Nhơn. Sau đó ông cưới vợ họ Đinh và sinh được một trai tên là Hồ Phi Tiễn. Hồ Phi Tiễn không theo việc nông mà bỏ đi buôn trầu ở ấp Tây Sơn, cưới vợ và định cư tại đó.
Vợ của Hồ Phi Tiễn là Nguyễn Thị Đồng, con gái duy nhất của một phú thương đất Phú Lạc. Cả hai đổi họ của con cái mình từ họ Hồ sang họ Nguyễn của mẹ. Người con là Nguyễn Phi Phúc cũng chuyên nghề buôn trầu và làm ăn phát đạt. Cũng có tài liệu cho rằng họ Hồ đã đổi theo họ chúa Nguyễn ngay từ khi mới vào Nam. Đến đời ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ thì gia đình giàu có, được học văn võ rất chu đáo. (Nguyễn Huệ có tên tiếng Hán là: 阮惠; Nguyễn Ánh có tên tiếng Hán là: 阮暎. Như vậy họ Nguyễn được Hồ Phi Tiễn chuyển qua là họ Nguyễn của chúa Nguyễn).
Khẩu hiệu phò chúa Nguyễn nhưng lại giết hoàng tộc nhà Nguyễn
Dù có công mở mang lãnh thổ nhưng đến cuối đời, chúa Nguyễn Phúc Khoát bị quyền thần Trương Phúc Loan thao túng, dẫn đến cảnh giang sơn tan nát, người dân ca thán gọi Trương Phúc Loan là Trương Tần Cối (Tần Cối là một gian thần bán nước thời Nam Tống).
Cuộc khởi nghĩa Tây Sơn ban đầu lấy khẩu hiệu là diệt Trương Phúc Loan, phò hậu duệ chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Dương, nên dễ dàng được sự hưởng ứng của người dân, vì lúc đó trăm họ đều oán thán Trương Phúc Loan.
Bên cạnh đó, tháng 10 năm 1774, chúa Trịnh Sâm, sau 100 năm giữ hòa bình với chúa Nguyễn, sai Quận Việp Hoàng Ngũ Phúc, một viên tướng lão luyện, mang 4 vạn quân vào Nam tấn công Phú Xuân (Huế), cũng lấy danh nghĩa trừng phạt Trương Phúc Loan. Mặc dù chúa Nguyễn Phúc Thuần buộc phải trói Loan nộp cho Hoàng Ngũ Phúc nhưng rồi quân Trịnh vẫn tiến.
Quân Nguyễn không chống nổi, quân Trịnh chiếm thành Phú Xuân, buộc họ Nguyễn phải bỏ chạy về Quảng Nam. Nhưng tại đây chúa Nguyễn lại bị Tây Sơn đánh ra uy hiếp, bắt được hoàng tôn Dương. Chúa Nguyễn cùng thế phải vượt biển trốn vào Gia Định (tức Sài Gòn).
Như vậy là quân Tây Sơn đã có được Nguyễn Phúc Dương, và cũng biết rằng Trương Phúc Loan đã bị bắt. Tuy nhiên, họ không hề có ý định ngừng lại. Tháng 4 năm 1777, dưới sự chỉ huy của Nguyễn Huệ, quân Tây Sơn lại đánh quân Nguyễn.
Năm 1777, quân Tây Sơn chiếm được Gia Định, nhưng Nguyễn Phúc Dương (người được Tây Sơn dương khẩu hiệu phò tá), Nguyễn Phúc Thuần, cùng hoàng tộc anh em của Nguyễn Phúc Ánh đều bị giết cả. Riêng Nguyễn Phúc Ánh năm ấy mới 15 tuổi, may mắn có đứa trẻ nhà kép hát che dấu nên mới thoát chết.
Sau đó Nguyễn Phúc Ánh chạy vào Hà Tiên, nhờ Giám mục Bá Đa Lộc (Pigneau de Behaine) giúp đỡ ấn nấp trước sự truy tìm của quân Tây Sơn. Quân Tây Sơn nhiều lần truy tìm, nhưng nhờ được sự giúp đỡ của người dân Nam Bộ nên Nguyễn Phúc Ánh thoát được.
Mỗi năm cứ đến mùa gió thuận thì binh Tây Sơn trẩy thuyền vào Nam ruồng kiếm, quyết tận diệt dòng chúa Nguyễn Phúc.
Xem thêm: Câu chuyện trung nghĩa đằng sau cuộc chiến giữa quân Nguyễn và quân Tây Sơn tại thành Bình Định
Phá lăng tẩm và đào mả nhà Nguyễn
Sách Đại Nam thực lục có ghi chép rằng:
“Trước kia giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Huệ tham bạo vô lễ, nghe nói chỗ đất phía sau lăng Kim Ngọc (tức lăng Trường Mậu) [lăng của chúa Ninh Nguyễn Phúc Thái] rất tốt, định đem hài cốt vợ táng ở đó. Hôm đào huyệt, bỗng có hai con cọp ở bụi rậm nhảy ra, gầm thét vồ cắn, quân giặc sợ chạy. Huệ ghét, không muốn chôn nữa.
Sau Huệ đánh trận hay thua, người ta đều nói các lăng liệt thánh [các chúa Nguyễn] khí tốt nghi ngút, nghiệp đế tất dấy. Huệ bực tức, sai đồ đảng đào các lăng, mở lấy hài cốt quăng xuống vực. Lăng Hoàng Khảo ở Cư Hóa [lăng Cơ Thánh của Nguyễn Phúc Côn, thân sinh vua Gia Long] Huệ cũng sai Đô đốc Nguyễn Văn Ngũ đào vứt hài cốt xuống vực ở trước lăng.
Nhà Ngũ ở xã Kim Long bỗng phát hỏa. Ngũ trông thấy ngọn lửa chạy về. Người xã Cư Hóa là Nguyễn Ngọc Huyên cùng với con là Ngọc Hồ, Ngọc Đoài ban đêm lặn xuống nước lấy vụng hài cốt ấy đem giấu một nơi.”
Như vậy là vua Quang Trung đã làm hai việc: Phá lăng tẩm 8 đời chúa Nguyễn và quật mộ của thân sinh vua Gia Long. Tám đời chúa Nguyễn không hề có hận thù gì với anh em Tây Sơn, hơn nữa lại có công rất lớn đối với dân tộc và đất nước. Vậy mà bị vua Quang Trung đối xử tàn tệ. Không lạ gì khi vua Gia Long đối xử tàn tệ với hài cốt của Nguyễn Huệ và Nguyễn Nhạc cùng con cháu và tướng tá thuộc hạ của Nguyễn Huệ.
Nhà viết sử Trần Gia Phụng có bình trong “Việt Sử Đại Cương” về hành động trả thù của vua Gia Long sau này rằng:
“Không kể cá nhân ông bị quân đội Tây Sơn truy đuổi nhiều lần suýt chết, vua Gia Long thâm thù nhà Tây Sơn vì ba việc chính: thứ nhất, năm 1777 Định Vương Nguyễn Phúc Thuần [chú ruột vua Gia Long], Tân Chính Vương Nguyễn Phúc Dương [em chú bác ruột] và Nguyễn Phúc Đồng [anh ruột] bị quân Tây Sơn bắt giết ở Gia Định. Thứ nhì, hai người em [ruột] của Gia Long là Nguyễn Phúc Mân và Nguyễn Phúc Thiển bị chết về tay quân Tây Sơn năm 1783. Thứ ba, vua Quang Trung cho quật mộ của Nguyễn Phúc Côn (phụ thân của Gia Long), đem hài cốt đổ xuống sông năm 1790.”
*******
Bản thân tổ tiên lựa chọn đổi từ họ Hồ sang họ Nguyễn, hưởng phúc nhờ công mở mang bờ cõi của 8 đời chúa Nguyễn, vậy mà nhà Tây Sơn không có thâm thù đại hận lại tàn nhẫn quật lăng quật mả nhà Nguyễn, vứt hài cốt xuống sông. Khẩu hiệu phò chúa Nguyễn, nhưng khi tới Gia Định nhà Tây Sơn lại muốn tận diệt hoàng tộc nhà Nguyễn. Đi kèm với đó là những cuộc tàn phá và thảm sát của quân Tây Sơn đối với người dân Đàng Trong. Tất cả đã cho thấy lý do tại sao nhà Tây Sơn thảm bại.
Phần cuối: Lòng người hướng về ai?
Sự thất bại của nhà Tây Sơn trước nhà Nguyễn thường được cho là vì cái chết của vua Quang Trung. Tuy nhiên, nhìn lại lịch sử, tại sao Nguyễn Phúc Ánh bao nhiêu lần tay trắng bại vong lại vẫn nhận được sự ủng hộ của người dân? Nhà Tây Sơn đã làm những điều gì để mất lòng dân đến như vậy?
Sự hà khắc của nhà Tây Sơn
George Dutton từng là Phó Giáo sư khoa ngôn ngữ và văn hóa Á châu đồng thời là Giám đốc chương trình Liên Khoa Đông Nam Á học của trường đại học California tại Los Angeles có viết sách nghiên cứu về thời Tây Sơn, và được trình bày tại “Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần 2”, tổ chức ở Sài Gòn vào tháng 7/2004.
Theo những gì trình bày tại cuộc hội thảo này thì quân Tây Sơn nổi tiếng ưa cướp bóc và đốt phá, lại áp dụng chế độ cưỡng bức tuyển quân và lao dịch hà khắc. Vì thế mà quân Tây Sơn đi đến đâu thì dân chúng đều tìm cách trốn khỏi vùng họ kiểm soát. Ban đầu nhiều người vào hàng ngũ quân Tây Sơn, nhưng về sau ngày càng ít, chỉ còn là lính quân dịch.
Những nơi quân Tây Sơn chiếm đóng, người dân phải chịu cảnh lao dịch hà khắc, bị bắt buộc phải đi xây dựng các công trình quân sự và dinh thự. Ví như năm 1775 Nguyễn Nhạc bắt dân phục dịch xây dựng thành Chà Bàn (sau này Nguyễn Phúc Ánh đổi tên là thành Bình Định) để làm kinh đô cho mình, tiếm xưng là “thành Hoàng Đế”. Nguyễn Huệ cũng bắt dân phục dịch gây phản ứng xấu trong dân chúng.
Sau khi chiếm được Phú Xuân (kinh thành ở Huế), Nguyễn Huệ bắt dân phải ra sức làm ngày làm đêm nhằm củng cố thành lũy để cố thủ. Vài năm sau, Nguyễn Huệ có ý dời đô nên bắt người dân xây một công trình tầm vóc rất lớn trong thời gian ngắn là “Phượng Hoàng Trung Đô” ở Nghệ An. Theo các sử liệu nước ngoài thì người dân đã phản đối mạnh mẽ, thậm chí mạnh ai nấy trốn.
Chế độ lao dịch của Tây Sơn còn hà khắc hơn cả chúa Trịnh, khi mà quân lính Tây Sơn bắt cả nhà sư, phụ nữ, trẻ em đi phu, chỉ có các bà mẹ cho con bú mới được miễn.
Ngay trong trận chiến đánh quân Thanh, vua Quang Trung cũng đưa ra chế độ tuyển quân và lao dịch vô cùng hà khắc. Khi đó, các tướng Tây Sơn đều mang chức đô đốc, cưỡi ngựa đứng trên gò cao nhìn vào làng đếm nóc nhà, rồi tính ra số người mà mỗi làng phải nộp. Làng nào không nộp đủ thì bị tàn sát cả làng, dân chúng hãi hùng nên làng nào không đủ con trai phải bắt con gái giả trai để nộp cho đủ nhằm cứu cả làng. Sau khi đánh thắng quân Thanh, số lính mới tuyển này bị bỏ mặc, họ phải xin ăn để tìm đường trở lại quê quán.
Khi đánh trận Đống Đa, lo lắng quân Thanh phản công, Nguyễn Huệ lệnh cho dân chúng phải đắp một chiến lũy xung quanh để cố thủ, trong 3 ngày phải làm xong. Các giáo sĩ phương Tây chứng kiến cảnh này lo lắng thay cho dân chúng, vì 3 ngày thì không thể thực hiện được. Thế nhưng họ cũng không thể tưởng tượng được rằng dân chúng Thăng Long đã làm được điều đó. Người dân làm đến kiệt sức bởi lo sợ rằng nếu không hoàn thành sẽ bị tàn sát.
Lòng người hướng về ai?
Quân Tây Sơn không lấy được lòng dân vì thế lòng dân cứ nghiêng dần về quân Nguyễn. Năm 1792 Nguyễn Vương Nguyễn Phúc Ánh thân chinh đi đánh thành Quy Nhơn nhưng không thành. Từ đó hàng năm cứ đến mùa gió nồm (gió thổi từ hướng Nam), Nguyễn Phúc Ánh lại cho quân theo đường biển tiến ra đánh miền Trung; khi có gió bấc (gió thổi từ phía Bắc) thì lại rút quân về Gia Định.
Quân Tây Sơn không lấy được lòng dân vì thế lòng dân cứ nghiêng dần về quân Nguyễn. Năm 1792 Nguyễn Vương Nguyễn Phúc Ánh thân chinh đi đánh thành Quy Nhơn nhưng không thành. Từ đó hàng năm cứ đến mùa gió nồm (gió thổi từ hướng Nam), Nguyễn Phúc Ánh lại cho quân theo đường biển tiến ra đánh miền Trung; khi có gió bấc (gió thổi từ phía Bắc) thì lại rút quân về Gia Định.
Chính về thế người dân vùng Quảng Nam, Thuận hóa (tức Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế ngày nay) cứ trông ngóng quân Nguyễn Vương từ Gia Định ra miền Trung đánh quân Tây Sơn. Nên thời bấy giờ có câu ca dao truyền tụng đến bây giờ:
Lạy trời cho cả gió nồm
Để cho chúa Nguyễn kéo buồm thẳng ra.
Để cho chúa Nguyễn kéo buồm thẳng ra.
Câu ca dao này cũng cho thấy rõ lòng dân ngả về ai.
Sự thất bại của nhà Tây Sơn trước nhà Nguyễn thường được cho là vì cái chết của vua Quang Trung. Tuy nhiên, nhìn lại lịch sử, tại sao Nguyễn Phúc Ánh bao nhiêu lần tay trắng bại vong lại vẫn nhận được sự ủng hộ của người dân? Lòng người hướng về ai thì đã rõ, nhưng rốt cuộc Nguyễn Phúc Ánh bại vong bao nhiêu lần?
Truyền kỳ “tay trắng bại vong” Đầu năm 1777, quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy tiến đánh Sài Gòn – Gia Định, các hoàng tộc chúa Nguyễn như chúa Nguyễn Phúc Thuần, Tân Chính Vương Nguyễn Phúc Dương (người ban đầu được quân Tây Sơn có khẩu hiệu phò tá lúc ban đầu) đều bị bắt và giết cả. Nguyễn Phúc Ánh may mắn có được một đứa trẻ con nhà kép hát che dấu mà trốn thoát được đến Rạch Giá.
Tại Hà Tiên, Nguyễn Phúc Ánh bị quân Tây Sơn truy tìm ráo riết, Bá Đa Lộc đã giúp đỡ ông chạy đến đảo Thổ Châu (còn gọi là Thổ Chu nằm ở phía tây nam đảo Phú Quốc). Sau một thời gian, quân Tây Sơn truy tìm không được phải rút đi, Nguyễn Phúc Ánh trở lại Long xuyên rồi Sa Đéc tập hợp các quân tướng của mình.
Năm 1782, Nguyễn Nhạc cùng Nguyễn Huệ đi đường biển nam tiến, Nguyễn Phúc Ánh chỉ huy quân đánh chặn ở vùng biển Cần Giờ. Quân Tây Sơn ban đầu tỏ ra yếu hơn, nhưng sau đó vẫn giành được chiến thắng dù hao tổn binh lực. Nguyễn Phúc Ánh thua trận phải bỏ chạy, bị truy gắt gao phải chạy sang tận khu rừng Romdoul thuộc Cao Miên (thuộc phía bắc tỉnh Svay Rieng, Campuchia ngày nay).
Quân Tây Sơn sang tận Cao Miên bắt vua Ang Eng phải hàng phục và buộc tất cả người Việt ở Cao Miên phải về nước, nhưng Nguyễn Phúc Ánh vẫn trốn kịp.
Sau đó Nguyễn Phúc Ánh trở về Nam bộ, bị quân Tây Sơn truy tìm khắp nơi, nhờ người dân Nam bộ che chở nên lần nào cũng thoát được, sau đó dùng thuyền nhỏ trốn ra đảo Phú Quốc.
Đến tháng 5 âm lịch năm 1782, nhận thấy Nguyễn Phúc Ánh không còn sức phản kháng, quân Tây Sơn rút về Quy Nhơn, để lại 3.000 quân ở đồn Bến Nghé để giữ Gia Định. Một tướng trước đây từng theo Tây Sơn là Châu Văn Tiếp cùng Nguyễn Phước Mân đánh chiếm lại được Gia Định và đón Nguyễn Phúc Ánh trở lại. Nguyễn phúc Ánh tổ chức lại quân binh, nhưng lực lượng rất rệu rã và yếu ớt.
Tháng 2 âm lịch năm 1783, Nguyễn Nhạc sai Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ đưa quân đến đánh Gia Định, tuyến phòng thủ ở cửa biển Cần Giờ bị đánh tan, một số tướng bị bắt hoặc tử trận. Nguyễn Phúc Ánh cùng tàn quân khoảng 100 người chạy thoát về Ba Giồng (tức Hóc Môn, Sài Gòn).
Tháng 4 âm lịch năm 1783, Nguyễn Phúc Ánh cho đóng quân ở Đồng Tuyên. Nguyễn Huệ hay tin đưa quân tới đánh khiến quân Nguyễn Phúc Ánh thua to, nhiều tướng lĩnh chi huy bị tử trận. Nguyễn Phúc Ánh bỏ chạy đến sông Lật Giang (nay là đoạn sông Vàm Cỏ Đông ở Bến Lức – Long An) dưới sự truy sát của quân Tây Sơn. Khi bơi qua sông nhiều lính đi theo bị chết đuối cả, Nguyễn Phúc Ánh may mắn nhờ bơi giỏi mà thoát chết.
Đến khúc sông Đăng Giang, theo “sử quán triều Nguyễn” ghi chép lại thì thời ấy sông nhiều cá sấu nên không thể bơi qua, phía sau quân Tây Sơn đang truy đuổi sát phía sau, lúc đó may thay lại có con trâu nước đang nằm trên bờ, nhờ đó Nguyễn Phúc Ánh cưỡi trâu sang sông mà thoát chết.
Sau đó Nguyễn Phúc Ánh đến Mỹ Tho mang theo mẹ cùng vợ con lên thuyền ra đảo Phú Quốc. Tháng 6 âm lịch năm 1783, quân Tây Sơn bất ngờ đến đảo Phú Quốc truy tìm, trong lúc cùng đường rồi thì tướng Lê Phước Điển mặc áo ngự đóng giả Nguyễn Vương, quân Tây Sơn chạy theo bắt được Nguyễn Vương giả cùng các tướng lĩnh, trong khi đó Nguyễn Vương thật đi thuyền đến đảo Côn Lôn (tức Côn Đảo ngày nay). Quân Tây Sơn dụ hàng các tướng, nhưng Lê Phước Điển cùng các thuộc tướng khác thà chết không hàng nên bị quân Tây Sơn giết cả.
Tháng 7 âm lịch năm 1783, quân Tây Sơn dò biết được Nguyễn Phúc Ánh đang ở đảo Côn Lôn, liền cho quân kéo đến vây 3 vòng trùng điệp, quyết không cho Nguyễn Phúc Ánh trốn thoát nữa. Thế nhưng lúc này đột nhiên có bão biển, khiến một số tàu Tây Sơn bị đánh chìm, các thuyền khác phải giãn ra; đồng thời mây mù cũng kéo đến kín mít, nhìn ra biển cũng không thấy gì. Nhờ đó Nguyễn Phúc Ánh mới có cơ hội lên thuyền chạy thoát. Sau 7 ngày lênh đênh triển biển, Nguyễn Phúc Ánh đến đảo Cổ Cốt (còn gọi là Hòn Chanh, nay thuộc tỉnh Trat của Campuchia)
Sau đó Nguyễn Phúc Ánh đi thuyền về cửa biển Bình Thuận để tìm cách về lại Gia Định. Thế nhưng quân Tây Sơn biết được liền cho 20 thuyền đuổi theo, khiến ông phải đổi hướng, lênh đênh chạy trốn trên biển suốt 7 ngày đêm rồi đến đảo Phú Quốc. Thời gian này quân Tây Sơn liên tục mai phục nhằm rình bắt Nguyễn Phúc Ánh trên biển , các đảo và các vùng ven biển. Một lần ở cửa biển sông Đốc (thuộc Cà Mau), Nguyễn Phúc Ánh bị 50 thuyền Tây Sơn phục kích sẵn, may mắn Nguyễn Phúc Ánh lại chạy thoát được ra biển, 50 thuyền Tây Sơn truy đuổi theo nhưng không kịp.
Năm 1783 Nguyễn Phúc Ánh muốn cầu viện người Pháp nhằm có vũ khí hiện đại nên nhờ Giám mục Bá Đa Lộc giúp mình sang Pháp một chuyến, nhưng khi Bá Đa Lộc còn chưa kịp đi do đang thời kỳ ngược gió thì Nguyễn Phúc Ánh liên tục bị quân Tây Sơn truy đuổi nên đành phải đến cầu viện Xiêm La. Sang năm 1784 Bá Đa Lộc mang theo quốc thư cùng quốc ấn đi Pháp, và dẫn tới hiệp ước bất bình đẳng với chính phủ Pháp, dù nó không bao giờ được thực hiện.
Năm 1784 Nguyễn Phúc Ánh sang Xiêm để nhờ giúp đỡ mặc cho can ngăn của vị tướng thân cận là Nguyễn Văn Thành. Vua Xiêm cho 2 vạn quân cùng 300 chiến thuyền sang giúp.
Tháng 7/1784 quân Nguyễn Phúc Ánh cùng quân Xiêm đến Nam Bộ đánh bại quân Tây Sơn ở các vùng Rạch Giá, Ba Thắc, Trà Ôn, Mân Thít, Sa Đéc. Thế nhưng vị tướng trụ cột của Nguyễn Phúc Ánh là Châu Văn Tiếp tử trận khi trao tranh với quân Tây Sơn ở Mân Thít khiến không có ai kiềm chế nổi quân Xiêm.
Quân Xiêm La đến Nam bộ không khác gì quân cướp, đối xử rất tàn bạo với người dân Nam bộ, điều này khiến Nguyễn Phúc Ánh từ thất vọng đến phẫn uất, ân hận vì không nghe lời khuyên của Nguyễn Văn Thành.
Trong cuốn sách “54 vị Hoàng Đế Việt Nam” của Đặng Việt Thủy và Đặng Thành Trung, nhà xuất bản quân đội nhân dân năm 2008 có mô tả Nguyễn Phúc Ánh than rằng:
“Được nước là nhờ lòng dân. Nay Châu Văn Tiếp đã mất không ai kiềm chế nổi quân Xiêm. Nếu có lấy lại được Gia Định mà mất lòng dân thì ta cũng không nỡ làm. Người xưa nói mưu lợi để lấy của cải của người gọi là quân tham mà quân tham thì nhất định phải thua, quân nước Xiêm là thế đấy. Ta sẽ lui quân không nỡ để cho dân tình khốn khổ.”
Trong trận Rạch Gầm – Xoài Mút tháng 12, quân Tây Sơn vào Nam Bộ đánh 2 vạn quân Xiêm đại bại, chỉ còn sót lại vài nghìn lính chạy trối chết về nước.
Lúc này Nguyễn Phúc Ánh cùng một ít quân tướng trốn đến đảo Cổ Cốt, lúc lại sang đảo Thổ Châu (ở phía tây nam đảo Phú Quốc), theo các sử liệu thì cuộc sống vào thời gian này vô cùng thiếu thốn và khổ sở, nhưng số quân tướng ít ỏi này đều đi theo và trung thành với chủ của mình đến cùng. Quân Tây Sơn cũng kéo đến hai đảo này truy lùng, Nguyễn Phúc Ánh thấy cần phải ổn định một nơi để vừa an toàn vừa tập hợp quân, nên quyết định đến Xiêm La.
Tháng 4 âm lịch năm 1785, Nguyễn Phúc Ánh đến Xiêm La, quân tướng các nơi nghe tin liền tập hợp đến đây, quân số ban đầu có được là 1.000 người.
Sau đó Nguyễn Phúc Ánh xây dựng quân đội của mình ngày càng mạnh. Năm 1786 quân Nguyễn giúp vua Xiêm đánh bại quân Miến Điện là Sài Lặc. Vua Xiêm cảm tạ đồng thời cho mượn quân để lấy lại Gia Định, nhưng nhớ lại cảnh quân Xiêm đối xử tàn bạo với dân chúng lại thêm Nguyễn Văn Thành một lần nữa ngăn cản, nên Nguyễn Phúc Ánh đã từ chối.
Sau 3 năm ở Xiêm, nhận thấy vua Xiêm có vẻ không hài lòng khi lực lượng của mình ngày càng lớn mạnh, Nguyễn Phúc Ánh lặng lẽ trở về nước vào ban đêm để lại lá thư cảm ơn gửi vua Xiêm.
Quân Nguyễn tiến đến đánh chiếm lại vùng Nam bộ, đồng thời có thêm nhiều người gia nhập quân Nguyễn, trong khi đó quân Tây Sơn ở Nam Bộ nhưng lại không được lòng dân chúng ở đây.
Tuy nhiên quân Nguyễn vẫn không lấy lại được Sài Gòn – Gia định, bởi tướng Phạm Văn Tham quyết bám trụ cùng thành chứ không lui binh, đồng thời Phạm Văn Tham cũng nhiều lần cho quân tấn công quân Nguyễn.
Lúc này tướng Tây Sơn là Nguyễn Văn Hưng đưa 30 thuyền đến giúp Phạm Văn Tham. Tuy nhiên quân Nguyễn đến Nam Bộ lại được dân chúng ủng hộ nên binh lính tăng nhanh chóng, quân ngày càng mạnh. Trong khi Thái Đức Nguyễn Nhạc chỉ lo phòng bị trước người em là Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ, nên không đoái hoài gì đến việc cứu viện cho Sài Gòn – Gia Định.
Năm 1788 quân Nguyễn bao vây tấn công vùng Sài Gòn – Gia Định, Phạm Văn Tham cố giữ nhưng không được đành chạy về Quy Nhơn, nhưng trên đường thì bị quân Nguyễn chặn lại, cùng đường nên phải đầu hàng quân Nguyễn.
Năm 1789, Bá Đa Lộc về đến Nam bộ, dù không cầu viện được chính phủ Pháp, nhưng ông đã kêu gọi các thương gia góp tiền mua vũ khí; đồng thời chiêu mộ được khoảng 20 người giỏi về kỹ nghệ, kỹ thuật quân sự đưa về phục vụ cho Nguyễn Vương. (Xem bài: Không nhận được viện trợ từ chính quyền Pháp, điều gì giúp Nguyễn Phúc Ánh thắng được nhà Tây Sơn?)
Nguyễn Phúc Ánh xây dựng Nam bộ thành nơi trù phú và giàu có, đời sống người dân ổn định, lương thực dư dả. 20 người Pháp cũng giúp xây dựng thành trì cùng quân đội hiện đại. Từ đó Nguyễn Phúc Ánh phòng thủ chắc chắn vùng Nam Bộ. Không chỉ thế Nguyễn Phúc Ánh cũng đưa quân ra Bắc đánh bại nhà Tây Sơn và lên ngôi vua vào năm 1802.
Điểm tính lại, Nguyễn Phúc Ánh đã hơn chục lần tay trắng bại vong, giả như ông không có được lòng dân, thì liệu có thể cuối cùng vẫn đánh bại nhà Tây Sơn mà lên ngôi vua hay không? Nếu lòng dân miền Bắc hướng về nhà Tây Sơn như lòng dân miền Nam hướng về Nguyễn Phúc Ánh, chắc hẳn mọi việc đã khác. Dẫu cho Nguyễn Phúc Ánh có sai lầm khi cầu viện quân Xiêm vào năm 1784, thì ông cũng đã không lặp lại sai lầm đó dù được quân Xiêm tình nguyện giúp đỡ vào năm 1786. Nói Nguyễn Phúc Ánh tay trắng bại vong, nhưng thật ra ông không hề trắng tay, bởi vì ông có được sự ủng hộ hết mực của người dân Nam Bộ.
*******
Lời kết
Loạt bài “Điều gì khiến nhà Tây Sơn bại bởi nhà Nguyễn?” không có ý định phủ định những đóng ghóp của nhà Tây Sơn cho lịch sử đất nước, mà chỉ muốn chỉ ra những mặt tối của phong trào Tây Sơn, và đồng thời cũng nhắc lại công lao rất lớn của nhà Nguyễn – triều đại quân chủ cuối cùng – đối với đất nước. Thiết nghĩ thành hay bại, được hay mất, tất cả đã là lịch sử. Nhưng lịch sử cũng cần được đánh giá dưới nhiều góc độ khác nhau.
Chúng ta không thể vì thần tượng vua Quang Trung để rồi che đi những cuộc thảm sát của nhà Tây Sơn khiến người dân miền Nam điêu đứng, khiến những khu kinh tế tầm cỡ thế giới của Đàng Trong suy sụp, khiến chính bản thân vua Quang Trung không tài nào đặt nền móng vững chắc cho nhà Tây Sơn ở miền Nam. Ngược lại, chúng ta cũng không thể vì vua Gia Long mượn quân Xiêm, hay nhờ sự trợ giúp của chính phủ Pháp không thành, mà che đi những công lao của 8 đời chúa Nguyễn, cũng như của bản thân vua Gia Long và hậu duệ của ông đối với việc mở mang bờ cõi đất nước.
Công và tội của hai vị vương ấy vẫn sẽ là một đề tài tranh cãi trong lịch sử. Nhưng chắc chắn, dù ít, vẫn có những người yêu mến vua Gia Long, giống như tình cảm của những người khác dành cho vua Quang Trung vậy. Âu đó cũng là việc bình thường.
Trần Hưng
Nguồn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét