HOÀNG TUẤN PHỔ
Năm
1962, Khảo cổ học nước ta ghi nhận một phát hiện quan trọng: trên ngọn đồi thôn
Định Kim, tục gọi làng Sỏi (nay thuộc xã Tân Phúc, huyện Nông Cống) xuất lộ di
tích một nơi cư trú cổ, rất lớn. Đó là địa điểm khảo cổ học Núi Sỏi. Gọi là núi
theo ngôn ngữ dân gian, đúng ra Núi Sỏi hiện thấy thuộc dạng đồi, gò. Núi Sỏi
hiện tại chỉ cao 19m so với mặt biển, rộng 250m, dài tới 1.000m, cách đây 2.000
năm chắc cao hơn và dài rộng hơn. Núi Sỏi cách núi Nưa khoảng 1km đường chim
bay về phía tây. Di chỉ là tầng văn hóa khảo cổ thời đại đồng thau phủ kín khắp
bề mặt gò đồi, từ đỉnh xuống chân, và còn lan cả ra chung quanh, diện tích gần
một triệu mét vuông. (Qua nghiên cứu bước đầu là 910.000m2).
Đây là
địa điểm khảo cổ học di chỉ miền núi Nưa loại hình cư trú “lớn chưa từng thấy
trên đất Thanh và cũng hiếm thấy trên miền Bắc” nước ta. Theo giáo sư sử học Lê
Văn Lan: vào những thế kỷ đầu Công nguyên, địa điểm cư trú (và có thể cả khu mộ
địa nữa) Núi Sỏi là đất huyện Cư Phong của quận Cửu Chân đời Hán và huyện Di
Phong của quận Cửu Chân đời Ngô… Quanh vùng này cho đến nay, chưa tìm thấy một
di chỉ khảo cổ nào tương tự di chỉ Núi Sỏi về mặt tính chất văn hóa và niên
đại… Như vậy, rất có thể những cư dân đông đúc của di tích Núi Sỏi, sau khi đã
theo các vua Hùng dựng nước trước Công nguyên, tránh được sự tàn sát của Mã
Viện đầu Công nguyên, đến giữa thế kỷ III sau Công nguyên là những người đầu
tiên đi theo và làm nòng cốt cho khởi nghĩa của Bà Triệu ở núi Nưa…(1)
Bộ di
vật khảo cổ bước đầu tìm thấy ở Núi Sỏi có vũ khí: giáo, lao, mũi tên, đoản
kiếm, dao găm,…một ít dụng cụ lao động, nhạc khí như trống đồng,… Các di vật
này chủ yếu bằng đồng thau mang đặc trưng văn hóa Đông Sơn giai đoạn cuối,
trong khoảng thời gian vài ba thế kỷ sau Công nguyên. Đó là giai đoạn bắt đầu
chuyển tiếp sang sơ kỳ thời đại đồ sắt, thể hiện ở lớp trên cùng của tầng văn
hóa khảo cổ.(2)
Cũng năm
1962, công nhân mỏ Crômmít Cổ Định ở chân núi Nưa cách Núi Sỏi khoảng 2 – 3km
đường chim bay đào được một thanh đoản kiếm bằng đồng thau, cán kiếm là tượng
tròn, đúc một phụ nữ với đầy đủ trang phục quý tộc: khăn, áo, yếm, váy, thắt
lưng, đệm váy… Sau đó ít lâu người ta lại tìm thấy hai thanh đoản kiếm khác, có
hình dáng tương tự, nhưng các chi tiết không đẹp bằng, cũng trên địa bàn núi
Nưa vè phía bắc (nay thuộc huyện Triệu Sơn mới). Thanh đoản kiếm núi Nưa (Cổ
Định) dài 0,5m, mặt phẳng, cán kiếm tượng người phụ nữ chống nạnh, gấu váy xòe
ra ôm lấy đuôi kiếm, không chứng tỏ là loại vũ khí chiến đấu mà giống như thanh
kiếm lệnh dùng để truyền lệnh chiến đấu và có sức mạnh quyền lực tựa quyền
trượng hay vương trượng của bậc quyền chức cao cả. Những thanh đoản kiếm ấy có
mối quan hệ với những lưỡi dao găm Núi Sỏi về mặt tạo dáng, khiến nhà nghiên
cứu không thể không nghĩ tới chủ nhân của chúng là thủ lĩnh miền núi Nưa, cư
trú tại trung tâm chạ Kẻ Sỏi rộng lớn, hùng mạnh,…
Thanh đoản kiếm núi Nưa với số lượng
3 chiếc, trong đó có một chuôi kiếm đúc đẹp nhất, chưa tìm thấy ở bất cứ đâu
tiêu bản thứ hai; xét về mặt loại hình khảo cổ, chúng từ những lưỡi dao găm của
văn hóa Đông Sơn phát triển lên, hoàn toàn không thể nghĩ là vật du nhập từ bên
ngoài. Một trong những vẻ đặc sắc của thanh kiếm là tượng người phụ nữ đúc tròn
toàn thân. Lối ăn mặc là lượt, đủ bộ lệ của tượng người phụ nữ chưa thấy ở
những pho tượng đồng thau nào thuộc văn hóa Đông Sơn có niên đại tương đồng.
Trong khi tượng cán thanh kiếm núi Nưa trang phục kiểu quý tộc, tương tự phụ nữ
ở các di chỉ khác: Đào Thịnh (Yên Bái), Bảo Vệ (Hà Tây), Tràng Kênh (Hải
Phòng)…và ngay ở Đông Sơn (Thanh Hóa) niên đại những thế kỷ cuối trước Công
nguyên và đầu Công nguyên, tất cả đều chỉ một lối phục trang mặc váy, cởi trần,
như là họ thuộc lớp bình dân. Nếu ta quan sát thêm một số hình phụ nữ khắc họa
trên các trống đồng, rìu đồng của văn hóa Đông Sơn, cũng thấy như vậy. Bộ trang
phục váy, áo, khăn, cùng những chiếc vòng tai rất lớn và cả hai chuỗi vòng tay
ken kín từ cổ tay lên tới tận khuỷu tay khiến giáo sư sử học Lê Văn Lan cho
rằng: Đây chính là hình ảnh truyền thống của những nữ thủ lĩnh bản địa khoảng
trước, sau Công nguyên, nếu không phải là hình ảnh của chính ngay Bà Triệu.(3)
Người
Việt Cửu Chân (Thanh Hóa) thời Hùng vương – An Dương vương tìm thấy Núi Sỏi,
một nơi cư trú lý tưởng không kém làng chạ Đông Sơn bên sông Mã, nhưng vị trí,
địa hình nhiều điểm khác Đông Sơn. Cách núi Nưa chỉ độ 2km, Núi Sỏi thuộc sơn
hệ núi Nưa, như một hòn núi sót bé nhỏ, bị ngăn cách bởi sông Hầm Hầm (sau là
sông đào nhà Lê hay Lãng Giang), hóa thành “xa lạ”. Thuở ấy, chắc Núi Sỏi nối
liền núi Nưa bởi một thung lũng rộng, dài mọc đây sim, mua, lau, sậy, cỏ
tranh,…và chằng chịt khe, hón, hồ, mau,…mùa mưa, thung lũng hứng nước lũ ngàn
Nưa để tiêu dần ra sông Hoàng, con sông vốn là dòng cũ Lương Giang (sông Chu),
cũng là nhánh lớn của sông Mã, chảy vòng vèo qua sông Yên, đổ xuống cửa lạch
Ghép. Sông đào nhà Lê hiện thấy, có các tên sông Hầm Hầm, sông Lãng Giang, sông
Nhơm, tiền thân là khe Hầm Hầm, ngày càng mở rộng do cây cối trên núi Nưa bị
chặt phá, nước lũ đổ xuống ầm ầm suốt mùa mưa. Nhà Lê đào khe thành kênh, mở
thêm một đường nước tiêu thủy xuống Cầu Quan rồi cùng sông Hoàng đổ ra sông Yên
để quy về biển lớn. Theo truyền ngôn, đất đào sông đắp lên bờ thành gò, đống,
dân nghèo không đất rủ nhau đến san gò bạt đống, cư trú dọc dài ven bờ, lập lên
các làng: Ngẳn, Cầu Nhân, Lai Thôn, Đống Bằng, Đống Cao,…
Núi Sỏi ở khoảng giữa sông Hoàng và
sông Nhơm, nhưng gần với sông Hoàng hơn. Nó giống con rùa khổng lồ bò lên từ
sông Hoàng giúp người dân an cư lạc nghiệp. Dựng làng trên đồi, gò bên sông,
nhìn ra sông là truyền thống cư trú của người Lạc Việt. Không chỉ có núi và
sông, hai tay phải chạ Kẻ Sỏi, khu đồng Lai “Tam thiên mẫu”(4), nhìn không thấy
bờ, nối liền ba xã huyện Nông Cống: Tân Phúc, Tân Khang, Trung Chính ngày nay.
Kề bên cánh đồng mênh mông này là dãy núi đá vôi Hoàng Sơn điệp trùng, tác dụng
như con đê thiên tạo cao ngất trời, ngăn nước sông Hoàng tràn lên trong mùa mưa
lũ. Mùa mưa, nước trên núi đá vôi rào rạt đổ xuống đồng “Tam thiên mẫu”, giúp
người thau chua rửa phèn để cấy lúa, năm/hai mùa tươi tốt. So với các điểm cư
trú thời đại đồng thau ven sông Mã, không nơi nào thuận lợi hơn cho nghề trồng
lúa nước mở mang rộng lớn như cư dân Núi Sỏi cổ đại. Có lẽ đây là nguyên nhân
chủ yếu tạo nên làng chạ Kẻ Sỏi thời đại đồng thau, một cộng đồng cư dân trù
phú hiếm thấy. Bấy giờ người chạ Kẻ Sỏi còn được thừa hưởng nguồn lợi trời cho
là Ngàn Nưa vô số đồi núi đỉnh cao ngọn thấp giăng bày trùng trùng điệp điệp,
chỗ nào cũng chất đầy củ quả, rau cỏ, với những khe, vực, hồ, mau…ngang dọc bàn
cờ, đông đặc tôm cá, và đàn đàn lũ lũ chim thú đua nhau bay lượn, chạy nhảy…
Ngay ở trước mặt họ, chỉ cần quờ tay là tóm bắt được, biết bao thủy sản sông
Hoàng, muông thú Hoàng Sơn (trăn, rắn, lợn lòi, khỉ, cày, sáo, chồn, hùm beo…)
những đối tượng săn bắn hàng ngày của cư dân cổ đại.
Tuy
nhiên, đối với cư dân lúa nước, tài nguyên thiết yếu vẫn là đồng “Tam thiên
mẫu”, một khúc sông lớn từ thời tiền sử đã đổi dòng do nạn đại hồng thủy, tạo
nên cả một “giang đảo” phù sa nổi nênh giữa biển “lúa trời”, “lúa ma” hoang
dại. Môi trường sống thuận lợi, càng thuận lợi, dân số càng phát triển mạnh,
đông lên nhanh chóng, người Núi Sỏi không thể chỉ sống bằng kinh tế hái lượm,
dù cho phương thức săn bắn, hái lượm vẫn tiếp tục tồn tại. Họ phải biến đồng
hoang lúa trời, lúa ma thành bờ xôi ruộng mật. Chắc hẳn họ đã biết cày trâu với
lưỡi cày đồng hay sắt, những chỗ sâu trũng, lầy lội, không loại trừ biện pháp
dùng trâu quần nát đất, khiến cây cỏ bị thối lũn, ruộng thêm màu mỡ…
(Gần 2.000 năm sau, cư dân Núi Sỏi
thời hiện đại, còn phổ biến tập quán đốt đồng sau vụ gặt. Thu hoạch vụ mùa
xong, đồng tháo cạn nước, nông dân dùng dao phát “chém” rạ ngọt xớt, đem cây
nạng đổ dồn thành đống. Qua ít hôm, rạ khô se nhanh chóng trong thời tiết hanh
heo giá lạnh, chỉ cần mồi lửa châm vào, khói bốc lên trùm kín khu đồng. Đó là
kinh nghiệm đốt rẫy làm nương của thời kỳ kinh tế nương rẫy đem áp dụng vào
kinh tế lúa nước. Lửa đốt đồng, đốt luôn cả sâu, keo làm vệ sinh cho ruộng được
sạch sẽ bệnh tật. Than rạ trả lại chất màu cho đất mà cây lúa đã lấy trong vụ
vừa qua. Mùa hè, nông dân gánh hai đầu hai cái gầu sòng lội xuống ao xúc bùn
hoa đổ lên bờ, tải thành lớp mỏng để phơi chóng khô. Bùn khô nỏ, nứt ra từng
mảng, họ lật lên đập vỡ, tán nhỏ, tưới nước tiểu, gánh xuống đồng, vãi tung
khắp ruộng. Đó là cách bón đạm, lân, kali, ,…hữu cơ hiệu quả, làm cho lúa cứng
cây, lá xanh tốt, bông sây, hạt chắc. Trước năm 1945, đồng các làng: Sỏi, Ngẳn,
Cầu, Lai,…năng suất có thể đạt tới 25 thúng thóc một mẫu Trung bộ (khoảng 650kg
thóc) trong khi nơi khác chỉ độ 15 – 20 thúng. (Đây là năng suất một vụ, nếu
ruộng chỉ cấy một vụ mùa thì năng suất cao hơn
nhiều).
Theo
truyền thuyết, nhà họ Triệu nhiều đời là hào trưởng miền núi Nưa (Có thuyết nói
Triệu Quốc Đạt, anh Triệu Thị Trinh làm huyện lệnh). Dĩ nhiên, gia đình họ
Triệu phải bao quát cả đất đai, đồng ruộng trong vùng cho đến núi sông, hồ chằm
thuộc phạm vi nhất định, với hàng ngàn đinh tráng, hàng vạn nhân khẩu. Đất
rộng, người đông, của cải lắm, tài vật nhiều khiến tiếng tăm họ Triệu vượt khỏi
miền núi Nưa đến các nơi xa xôi khác. Nắm trong tay một lực lượng người, của
hùng hậu, lại ở chốn núi hiểm, rừng sâu, sông dài, vực thẳm,…tiến có thể
“công”, lui có thế “thủ”, là cơ sở quan trọng, điều kiện tiên quyết để một cô gái 20 tuổi ngang nhiên đối địch với
chính quyền đô hộ của phương Bắc. Những tiếng trống đồng tụ nghĩa thiêng liêng,
âm vang, hùng tráng do chính tay người phụ nữ mang sứ mệnh thần thánh, có sức
cảm thông với đất trời, mà vai trò nam giới của chế độ phụ quyền chưa thể hoàn
toàn thay thế, đã dội vào Ngàn Nưa hùng vĩ, theo gió bay đi, lan xa, lan xa tận
hang thâm cùng cốc, lay động lòng dân, thúc giục hào kiệt… Đúng như câu nói
truyền tụng bao đời: “Na Sơn nhất phiến, nhất hô thiên hạ biến!”
Ngày
nay, miền núi Nưa làng xóm đông đúc, hiền hòa, quây quần dưới bóng Ngàn Nưa
hùng vĩ. Trước năm 1945, hùm cọp vẫn đêm đêm mò vào tận làng bắt bò, lợn. Những
chúa tể rừng xanh ấy đôi khi ngồi bên bờ khe dưới ánh trăng khuya, ngắm bóng
mình lung linh dưới dòng nước chảy, mặc dù bờ khe bên kia, con người đang kéo
vó hoặc rình bắt cá sộp ăn đêm… Những mẩu chuyện hùm beo, rắn rết,…người già
miền núi Nưa kể sáng đêm không hết.
Những
thế kỷ đầu Công nguyên, miền núi Nưa, ngoài chạ Kẻ Na của họ Trịnh (theo gia
phả), hầu như chỉ tồn tại một làng Kẻ Sỏi (theo khảo cổ). Trong thế giới tự
nhiên có bạn, có thù, càng lắm bạn càng nhiều thù, con người phải chụm lại nơi
thuận lợi nhất, để nương tựa lẫn nhau, cùng nhau tồn tại và phát triển. Hơn
thế, địa thế ấy còn rất thích hợp để anh hùng luyện chí, tuấn kiệt mài đao, bốn
phương tụ nghĩa. Di vật khảo cổ Núi Sỏi nhiều nhất vũ khí, những dao găm, kiếm
ngắn, mũi tên, mũi lao, giáo mác,…không giống loại vũ khí đã tìm thấy ở các di
chỉ núi Trịnh, Thiệu Dương, Đông Sơn,… Hẳn là Núi Sỏi thời ấy có riêng xưởng
đúc binh khí để đúc ra hàng loạt vũ khí, đáp ứng nhu cầu chiến đấu của quân sĩ.
Có lẽ
sau khi Bà Triệu thất bại ở Bồ Điền (xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc, Thanh Hóa)
giặc Ngô truy sát tận quê quán và làng chạ Núi Sỏi đã bị chúng “làm cỏ”. Truyền
thuyết “Ngô thì phá tán” kể rằng miền núi Nưa, từ chạ Kẻ Sỏi đến chạ Kẻ Nưa bị
quân Ngô san phẳng làng mạc, tất cả chìm trong máu lửa, chỉ còn lại mười tám
người đàn ông chạy vào núi Nưa. (Cố nhiên, con số “mười tám” chỉ là tượng
trưng). Giặc Ngô đuổi theo ráo riết. Nhờ con rùa từ dưới mau, hồ bò lên xóa
sạch dấu vết, chúng sục tìm quanh quẩn một hồi, không biết đi lối nào, đành
phải lui quân. Người Núi sỏi vẫn còn, nhưng làng quê Bà Triệu không thể phục
hồi do chính sách trả thù tàn bạo, diệt tận gốc rễ của quân xâm lược. Một làng
Sỏi khác, tên chữ Định Kim, nay thuộc xã Tân Phúc, huyện Nông Cống, cũng ở trùm
lên Núi Sỏi, ra đời đến hơn ngàn năm sau, khoảng cuối đời Trần, đầu đời Lê,
hoặc cũng có thể sớm hơn…
*
* *
Giáo sư
Trần Quốc Vượng, đồng tác giả “Lịch sử Việt Nam” tập I – NXB Đại học và Trung học
chuyên nghiệp – Hà Nội, 1983, cho rằng: “Bà Triệu hay Nàng Trinh (Triệu Ttrinh
nương, Triệu Thị Trinh) của truyền thuyết dân gian, người miền núi Quân Yên,
quận Cửu Chân. Quân Yên, trái núi đó vẫn giữ tên gọi ấy cho đến tận ngày nay,
đứng sững bên bờ sông Mã gần ngã ba Bông, thuộc địa phận hợp tác xã Định Công
của tỉnh Thanh Hóa. Dưới chân núi đó, khảo cổ học đã tìm thấy – trên cánh đồng
Nếp Bắt – một làng cổ thời Đông Sơn muộn, một khu mộ táng cổ Đông Hán – Lục
triều ở cồn Bạng, cồn Chùa, với rất nhiều trống đồng cổ loại I muộn. Khu lăng,
khu mộ ấy chính là đất quê hương Bà Triệu, cũng là quê hương tiến sĩ Khương
Công Phụ thế kỷ VIII ngày sau”. Để chứng minh thêm, tác giả kể truyền thuyết
“Đá biết nói”, đại ý: Bà Triệu cùng chúng bạn vây bắt con voi trắng một ngà rất
dữ tợn để trừ hại cho dân, lùa nó xuống đầm lầy và dũng cảm nhảy lên cưỡi đầu
voi buộc nó phải khuất phục. Nghĩa quân Bà Triệu, những ngày đầu tụ nghĩa đã
đục núi Quân Yên, bí mật cho người ngồi trong hốc đá, đọc bài đồng dao: “Có bà
Triệu tướng, vâng lệnh trời ra, trị voi một ngà, dựng cờ mở nước, lệnh truyền
sau trước, theo gót Bà vương”. Nhờ đó cả vùng đồn ầm lên rằng núi Quân Yên biết
nói, báo hiệu cho dân chúng biết Bà Triệu là “Thiên tướng giáng trần” giúp dân
cứu nước. Vì vậy, hàng ngũ nghĩa quân thêm lớn, thanh thế thêm to. Họ kéo nhau
xuống Phú Điền dựng căn cứ… (tr.344).
Vè tư
liệu khảo cổ học, tác giả đưa ra quá sơ sài, chưa đủ để làm căn cứ rằng đất
Quân Yên là quê hương Bà Triệu. Về truyền thuyết “Đá biết nói” càng chững tỏ Bà
Triệu không ở Quân Yên, vì chính quyền đô hộ lẽ nào để yên cho Bà Triệu cùng
nghĩa quân xuất hiện ngay trước mũi chúng.
Xin ghi
lại đây để bạn đọc tham khảo.
HTP (trích
từ "Những làng cổ tiêu biểu xứ Thanh"-Hoàng Tuấn Phổ-NXB Dân
trí-2000)
Chú thích:
(1+2+3) -Cuộc
khởi nghĩa của Bà Triệu. Ty Văn hóa Thanh Hóa, 1972.
(4)-Đồng này đã chia xẻ thành nhiều khu, nhưng quan sát kỹ vẫn có thể hình dung diện tích mênh mông thuở xa xưa của nó.
Thanh
kiếm được phát hiện ở
khu vực núi Nưa - Ảnh:ST
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét