Trong
thời quân Mông - Nguyên sang xâm chiếm nước ta, sau hội nghị quân sự ở Vạn Kiếp
để bàn định kế chống giặc Nguyên, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn viết
"hịch" cho phổ biến trong dân chúng để hiệu triệu các tướng sĩ và
nhân dân hãy cương quyết chống xâm lăng.
***
BẢN HÁN VĂN CÓ DIỄN NÔM
諭諸裨將檄文
Dụ chư
tỳ tướng hịch văn
余常聞之
Dư
thường văn chi:
紀信以身代死而脫高帝
Kỷ Tín
dĩ thân đại tử nhi thoát Cao Đế;
由于以背受戈而蔽招王
Do Vu dĩ
bối thụ qua nhi tế Chiêu Vương.
蓣讓吞炭而復主讎
Dự
Nhượng thốn thán nhi phục chủ thù;
申蒯断臂而赴國難
Thân
Khoái đoạn tí nhi phó quốc nạn.
敬德一小生也身翼太宗而得免世充之圍
Kính Đức
nhất tiểu sinh dã, thân dực Thái Tông nhi đắc miễn Thế Sung chi vi;
杲卿一遠臣也口罵禄山而不從逆賊之計
Cảo
Khanh nhất viễn thần dã, khẩu mạ Lộc Sơn nhi bất tòng nghịch tặc chi kế.
自古忠臣義士以身死國何代無之
Tự cổ
trung thần nghĩa sĩ, dĩ thân tử quốc hà đại vô chi?
設使數子區區為兒女子之態
Thiết sử
sổ tử khu khu vi nhi nữ tử chi thái,
徒死牖下烏能名垂竹白
Đồ tử dũ
hạ, ô năng danh thùy trúc bạch,
與天地相為不朽哉
Dữ thiên
địa tương vi bất hủ tai!
汝等
Nhữ đẳng
世為將種不曉文義
Thế vi
tướng chủng, bất hiểu văn nghĩa,
其聞其說疑信相半
Kỳ văn
kỳ thuyết, nghi tín tương bán.
古先之事姑置勿論
Cổ tiên
chi sự cô trí vật luận.
今余以宋韃之事言之
Kim dư
dĩ Tống, Thát chi sự ngôn chi:
王公堅何人也
Vương
Công Kiên hà nhân dã?
其裨將阮文立又何人也
Kỳ tỳ
tướng Nguyễn Văn Lập hựu hà nhân dã?
以釣魚鎖鎖斗大之城
Dĩ Điếu
Ngư tỏa tỏa đẩu đại chi thành,
當蒙哥堂堂百萬之鋒
Đương
Mông Kha đường đường bách vạn chi phong,
使宋之生靈至今受賜
Sử Tống
chi sinh linh chí kim thụ tứ!
骨待兀郎何人也
Cốt Đãi
Ngột Lang hà nhân dã?
其裨將赤脩思又何人也
Kỳ tỳ
tướng Xích Tu Tư hựu hà nhân dã?
冒瘴厲於萬里之途
Mạo
chướng lệ ư vạn lý chi đồ,
獗南詔於數旬之頃
Quệ Nam
Chiếu ư sổ tuần chi khoảnh,
使韃之君長至今留名
Sử Thát
chi quân trưởng chí kim lưu danh!
況余與汝等
Huống dư
dữ nhữ đẳng,
生於擾攘之秋
Sinh ư
nhiễu nhương chi thu;
長於艱難之勢
Trưởng ư
gian nan chi tế.
竊見偽使往來道途旁午
Thiết
kiến ngụy sứ vãng lai, đạo đồ bàng ngọ.
掉鴞烏之寸舌而陵辱朝廷
Trạo hào
ô chi thốn thiệt nhi lăng nhục triều đình;
委犬羊之尺軀而倨傲宰祔
Ủy
khuyển dương chi xích khu nhi cứ ngạo tể phụ.
托忽必列之令而索玉帛以事無已之誅求
Thác Hốt
Tất Liệt chi lệnh nhi sách ngọc bạch, dĩ sự vô dĩ chi tru cầu;
假雲南王之號而揫金銀以竭有限之傥庫
Giả Vân
Nam Vương chi hiệu nhi khu kim ngân, dĩ kiệt hữu hạn chi thảng khố.
譬猶以肉投餒虎寧能免遺後患也哉
Thí do
dĩ nhục đầu nỗi hổ, ninh năng miễn di hậu hoạn dã tai?
余常
Dư
thường
臨餐忘食
Lâm xan
vong thực,
中夜撫枕
Trung dạ
phủ chẩm,
涕泗交痍
Thế tứ
giao di,
心腹如搗
Tâm phúc
như đảo.
常以未能食肉寢皮絮肝飲血為恨也
Thường
dĩ vị năng thực nhục tẩm bì, nhứ can ẩm huyết vi hận dã.
雖
Tuy
余之百身高於草野
Dư chi
bách thân, cao ư thảo dã;
余之千屍裹於馬革
Dư chi
thiên thi, khỏa ư mã cách,
亦願為之
Diệc
nguyện vi chi.
汝等
Nhữ đẳng
久居門下
Cửu cư
môn hạ,
掌握兵權
Chưởng
ác binh quyền.
無衣者則衣之以衣
Vô y giả
tắc ý chi dĩ y;
無食者則食之以食
Vô thực
giả tắc tự chi dĩ thực.
官卑者則遷其爵
Quan ti
giả tắc thiên kỳ tước;
祿薄者則給其俸
Lộc bạc
giả tắc cấp kỳ bổng.
水行給舟
Thủy
hành cấp chu;
陸行給馬
Lục hành
cấp mã.
委之以兵則生死同其所為
Ủy chi
dĩ binh, tắc sinh tử đồng kỳ sở vi;
進之在寢則笑語同其所樂
Tiến chi
tại tẩm, tắc tiếu ngữ đồng kỳ sở lạc.
其是
Kỳ thị
公堅之為偏裨
Công
Kiên chi vi thiên tì,
兀郎之為副貳
Ngột
Lang chi vi phó nhị,
亦未下爾
Diệc vị
hạ nhĩ.
汝等
Nhữ đẳng
坐視主辱曾不為憂
Tọa thị
chủ nhục, tằng bất vi ưu;
身當國恥曾不為愧
Thân
đương quốc sỉ, tằng bất vi quý.
為邦國之將侍立夷宿而無忿心
Vi bang
quốc chi tướng, thị lập di tú nhi vô phẫn tâm;
聽太常之樂宴饗偽使而無怒色
Thính
thái thường chi nhạc, yến hưởng ngụy sứ nhi vô nộ sắc.
或鬥雞以為樂
Hoặc đấu
kê dĩ vi lạc;
或賭博以為娛
Hoặc đổ
bác dĩ vi ngu.
或事田園以養其家
Hoặc sự
điền viên dĩ dưỡng kỳ gia;
或戀妻子以私於己
Hoặc luyến
thê tử dĩ tư ư kỷ.
修生產之業而忘軍國之務
Tu sinh
sản chi nghiệp, nhi vong quân quốc chi vụ;
恣田獵之遊而怠攻守之習
Tứ điền
liệp chi du, nhi đãi công thủ chi tập.
或甘美酒
Hoặc cam
mỹ tửu;
或嗜淫聲
Hoặc thị
dâm thanh.
脱有蒙韃之寇來
Thoát
hữu Mông Thát chi khấu lai,
雄雞之距不足以穿虜甲
Hùng kê
chi cự, bất túc dĩ xuyên lỗ giáp;
賭博之術不足以施軍謀
Đổ bác
chi thuật, bất túc dĩ thi quân mưu.
田園之富不足以贖千金之軀
Ðiền
viên chi phú, bất túc dĩ thục thiên kim chi khu;
妻拏之累不足以充軍國之用
Thê noa
chi lụy, bất túc dĩ sung quân quốc chi dụng.
生產之多不足以購虜首
Sinh sản
chi đa, bất túc dĩ cấu lỗ thủ;
獵犬之力不足以驅賊眾
Liệp
khuyển chi lực, bất túc dĩ khu tặc chúng.
美酒不足以沈虜軍
Mỹ tửu
bất túc dĩ trấm lỗ quân;
淫聲不足以聾虜耳
Dâm
thanh bất túc dĩ lung lỗ nhĩ.
當此之時
Ðương
thử chi thời,
我家臣主就縛
Ngã gia
thần chủ tựu phọc,
甚可痛哉
Thậm khả
thống tai!
不唯余之采邑被削
Bất duy
dư chi thái ấp bị tước,
而汝等之俸祿亦為他人之所有
Nhi nhữ
đẳng chi bổng lộc diệc vi tha nhân chi sở hữu;
不唯余之家小被驅
Bất duy
dư chi gia tiểu bị khu,
而汝等之妻拏亦為他人之所虜
Nhi nhữ
đẳng chi thê noa diệc vi tha nhân chi sở lỗ;
不唯余之祖宗社稷為他人之所踐侵
Bất duy
dư chi tổ tông xã tắc, vi tha nhân chi sở tiễn xâm,
而汝等之父母墳墓亦為他人之所發掘
Nhi nhữ
đẳng chi phụ mẫu phần mộ, diệc vi tha nhân chi sở phát quật;
不唯余之今生受辱雖百世之下臭名難洗惡謚長存
Bất duy
dư chi kim sinh thụ nhục, tuy bách thế chi hạ, xú danh nan tẩy, ác thụy trường
tồn,
而汝等之家清亦不免名為敗將矣
Nhi nhữ
đẳng chi gia thanh, diệc bất miễn danh vi bại tướng hĩ!
當此之時
Ðương
thử chi thời,
汝等雖欲肆其娛樂
Nhữ đẳng
tuy dục tứ kỳ ngu lạc,
得乎
Đắc hồ?
今余明告汝等
Kim dư
minh cáo nhữ đẳng,
當以措火積薪為危
Đương dĩ
thố hỏa tích tân vi nguy;
當以懲羹吹虀為戒
Đương dĩ
trừng canh xuy tê vi giới.
訓練士卒
Huấn luyện
sĩ tốt;
習爾弓矢
Tập nhĩ
cung thỉ.
使
Sử
人人逄蒙
Nhân
nhân Bàng Mông;
家家后羿
Gia gia
Hậu Nghệ.
購必烈之頭於闕下
Cưu Tất
Liệt chi đầu ư khuyết hạ;
朽雲南之肉於杲街
Hủ Vân
Nam chi nhục ư cảo nhai.
不唯余之采邑永為青氈
Bất duy
dư chi thái ấp vĩnh vi thanh chiên,
而汝等之俸祿亦終身之受賜
Nhi nhữ
đẳng chi bổng lộc diệc chung thân chi thụ tứ;
不唯余之家小安床褥
Bất duy
dư chi gia tiểu đắc an sàng nhục,
而汝等之妻拏亦百年之佳老
Nhi nhữ
đẳng chi thê noa diệc bách niên chi giai lão;
不唯余之宗廟萬世享祀
Bất duy
dư chi tông miếu vạn thế hưởng tự,
而汝等之祖父亦春秋之血食
Nhi nhữ
đẳng chi tổ phụ diệc xuân thu chi huyết thực;
不唯余之今生得志
Bất duy
dư chi kim sinh đắc chí,
而汝等百世之下芳名不朽
Nhi nhữ
đẳng bách thế chi hạ, phương danh bất hủ;
不唯余之美謚永垂
Bất duy
dư chi mỹ thụy vĩnh thùy,
而汝等之姓名亦遺芳於青史矣
Nhi nhữ
đẳng chi tính danh diệc di phương ư thanh sử hĩ.
當此之時
Ðương
thử chi thời,
汝等雖欲不為娛樂
Nhữ đẳng
tuy dục bất vi ngu lạc,
今余
Đắc hồ!
今余歷選諸家兵法為一書名曰兵書要略
Kim dư
lịch tuyển chư gia binh pháp vi nhất thư, danh viết Binh thư yếu lược.
汝等
Nhữ đẳng
或能專習是書受余教誨是夙世之臣主也
Hoặc
năng chuyên tập thị thư, thụ dư giáo hối, thị túc thế chi thần chủ dã;
或暴棄是書違余教誨是夙世之仇讎也
Hoặc bạo
khí thị thư, vi dư giáo hối, thị túc thế chi cừu thù dã.
何則
Hà tắc?
蒙韃乃不共戴天之讎
Mông
Thát nãi bất cộng đái thiên chi thù,
汝等記恬然不以雪恥為念不以除凶為心
Nhữ đẳng
ký điềm nhiên, bất dĩ tuyết sỉ vi niệm, bất dĩ trừ hung vi tâm,
而又不教士卒是倒戈迎降空拳受敵
Nhi hựu
bất giáo sĩ tốt, thị đảo qua nghênh hàng, không quyền thụ địch;
使平虜之後萬世遺羞
Sử bình
lỗ chi hậu, vạn thế di tu,
上有何面目立於天地覆載之間耶
Thượng
hữu hà diện mục lập ư thiên địa phú tái chi gian da?
故欲汝等明知余心
Cố dục
nhữ đẳng minh tri dư tâm,
因筆以檄云
Nhân bút
dĩ hịch vân.
Tác giả:
Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn
*****
Bài hịch được cử nhân Nguyễn Văn Bình dịch
thành lối song thất lục bát như sau:
BẢN DIỄN SONG THẤT LỤC BÁT
Xưa Kỷ
Tín liều thân chịu chết,
Cứu Hán
Vuơng thoát khỏi Hoàng Dương
Do Vu
cháu Sở Chiêu Vương,
Giơ lưng
đỡ giáo tìm đường cứu vua.
Kìa Dự
Nhượng thuở xưa người Tấn,
Từng
nuốt than lận đận phục thù.
Kìa Thân
Khoái một Tể Phu,
Chặt tay
theo nạn với vua Tề.
Quan nhỏ
nhưa Uất Trì Kính Đức,
Giúp
Thái Tông khỏi bước trùng vi.
Cảo
Khanh quan ở biên thùy,
Già mồm
chửi giặc không hề tiếc thân.
Bậc
nghĩa sĩ trung thần từ trước,
Từng
diệt thân cứu nước có nhiều.
Những
người kia nếu chẳng liều,
Chết
suông như đám nữ lưu xó nhà.
Còn danh
tiếng đâu mà chép lại,
Cùng
kiền khôn truyền mãi không ngần.
Các ngươi
dòng dõi vũ thần,
Xưa này
nào có hiểu văn nghĩa gì.
Nghe câu
chuyện bán nghi bán tin,
Sự muôn
năm nhắc đến chi vay ?
Nay ta
hãy nói cho hay,
Thử xem
Tống, Thát truyện này ra sao ?
Vương
Công Kiên người nào thế vậy ?
Tướng
Nguyễn Văn Lập ấy người nào ?
Điếu ngư
thằng bé tẻo teo,
Chống
quân Mông Cổ ồn ào trăm muôn.
Khiến
quân Tống thắng luôn mấy trận,
Đến bây
giờ dân vẫn hàm ân.
Ngột
Lang là tướng Đốc Quân,
Với Tỳ
tướng Xích là nhân phẩm nào ?
Ngoài
muôn dặm quản bao nước độc,
Trong
mấy ngày phá rốc quân Nam.
Lòng vua
Thát Đát đã cam,
Đ^'n nay
lừng lẫy tiếng thơm nhường nào ?
Ta với
ngươi sinh vào đời loạn,
Vừa gặp
bao cơn vận hạn gian nan.
Sứ
Nguyên lai vãng bao lần,
Mọi nơi
đường sá muôn vàn nôn nao.
Triều
đình bị cú diều soi mói,
Tể tướng
thì lang sói rẻ khinh.
Mượn oai
Hốt Liệt tranh giành,
Lấy bao
của báu chưa đành lòng tham.
Cậy thế
chúa Vân Nam nạt nã,
Đòi bạc
vàng hết cả kho ta.
Thịt
nuôi hùm đói mãi a ?
Sao cho
thoát khỏi lo xa sau này.
Ta đây
những hàng ngày quên bữa,
Lúc đêm
thâu ngồi dựa gối kiêu.
Giọt
châu tầm tã tuôn trào,
Như nung
gan sắt, như bào lòng son.
Chí
nhừng muốn moi gan lấy tiết,
Lòng
những toan xẻ thịt vằm da.
Dù thân
dầu với cỏ hoa,
Dù da
ngựa bọc thân đà cũng vui.
Các
người vốn là người môn thuộc
Được
trông nom mọi việc binh cơ,
Áo không,
ta cỡi áo cho,
Cơm
không, ta sẻ cơm no cho lòng.
Quan nhỏ
thì ta phong chức cả,
Lộc ít
thì ta trả lương thêm.
Đi sông,
ta cấp cho thuyền,
Đi
đường, ta cũng lệnh truyền ngựa đi.
Cho cầm
quân an nguy cùng lối,
Cho nằm
yên, vui nói cùng hàng.
So Vương
Kiên với Ngột Lang,
Đãi chư
Tỳ tướng mọi người kém chi.
Nếu vua
nhục ngươi thì chẳng đoái,
Mà nước
nguy, ngươi lại làm ngơ,
Đừng hầu
tướng giặc không dơ,
Nghe ca
thết sứ vẫn trơ táo ngồi
Khi gà
chọi, khi thời cờ bạc,
Cuộc vui
chơi, gỡ gạc đủ trò.
Ruộng
vườn muôn sự ấm no,
Vợ con
vui thú riêng cho một mình.
Ham lập
nghiệp, quên tình nhà, nước,
Mãi đi
săn, nhác việc ngăn, ngừa.
Rượu chè
hôm sớm say sưa,
Hát hay,
đàn ngọt sớm trưa thỏa lòng
Đúng có
lúc quân Mông, Thát tới,
Cựa gà
không chọc nỗi áo da,
Những nghề
cờ bạc tinh ma,
Phải đâu
kế hoạch của nhà cầm quân ?
Ruộng
nương nào đủ phần chuộc mạng,
Vợ con
nào đủ cáng quân nhu ?
Của đâu
chuốc được đầu thù ?
Chó săn
đâu đủ sức khua giặc trời ?
Rượu
ngon khó làm mồi bã giặc,
Hát hay
không làm điếc tai thù.
Bây giờ
chẳng sót lắm ru ?
Vua tôi
bị trói gô một đàn !
Tước ấp
ta bị tan nát cả,
Bổng lộc
người cũng chẳng còn gì
Gia đình
ta bị đuổi đi,
Vợ ngươi
cũng phải đến khi nhục nhằn
Tông xã
ta, địch quân xéo đi,
Phần mộ
ngươi cũng bị quật lên.
Đời ta
khổ nhục liên miên,
Cái tên
nhơ nhuốc lưu truyền mãi sau !
Nhà các
ngươi cũng đều mang tiếng,
Không
khỏi làm những tướng bị thua.
Các
ngươi đang lúc bây giờ,
Muốn
mong vui thích như xưa được nào ?
Lời ta
nhũ thấp ca ngươi nhớ,
Phải coi
nằm trên lửa là nguy.
Kiềng
canh đưa cũng thổi xùy,
Luyện
quân sĩ tốt tập nghề đao cung.
Khiến ai
nấy nức lòng mạnh mẽ,
Sức Bàn
Mông, Hậu Nghệ cũng ham.
Bêu đầu
Hốt Liệt cho cam,
Phơi
luôn thịt chúa Vân Nam bên đường.
Tước ấp
ta chăn thường ấm chỗ,
Bổng lộc
ngươi hưởng có trọn đời
Gia đình
ta được yên vui,
Vợ con
ngươi cũng lo đời trăm năm.
Tông
miếu ta nghìn năm hương lửa,
Tổ tiên
ngươi muôn thuở cương thường,
Ta đây
phỉ chí bồng tang,
Các
ngươi dường cũng vẻ vang vô cùng.
Huy hiệu
ta tôn sùng mãi mãi
Tính
danh ngươi ghi với sử xanh.
Bấy giờ vui
thú linh đình,
Các
ngươi đều muốn buồn tênh được nào ?
Này binh
pháp soạn theo đời trước,
Là
"Binh Thư Yếu Lược" ban ra,
Các
ngươi theo đúng sách ta,
Ấy là
thần, chủ một nhà từ xưa.
Nếu bỏ
sách thờ ơ lời dạy,
Ấy kẻ
thù đã mấy đời nay,
Tại sao
mà lại thế vầy ?
Là thù
không đội trời này được chung.
Nếu các
ngươi lòng không biết hổ,
Không
coi đều "sát Lỗ" là cần,
Lại
không vâng dạy luyện quân,
Ấy là
quay giáo, bó thân quy hàng.
Giặn yên
rồi còn mang tiếng mãi,
Mặt mũi
nào đứng với ca cao đây ?
Muốn
ngươi hiểu rõ lòng đây,
Vậy nên
thảo bức hịch nầy cho nghe.
Nhờ có
bài Hịch trên đây mà quân Nam đã toàn thắng quân Mông Cổ hết sức vẻ vang, lưu
lại cho hậu thế một kỳ công hiển hách bia truyền vạn đại.
Tác giả: Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn
***
BẢN DỊCH
TIẾNG ANH CỦA GEORGE F, SHCULTZ
TRAN
HUNG DAO'S PROCLAMATION TO HIS OFFICERS
Translated
and adapted by George F. Schultz
I have
often read the story of Ky Tin who replaced the Emperor Cao to save him from
death, of Do Vu who took a blow in his back to spare King Chieu, of Du Nhuong
who swallowed burning charcoal to avenge his leader, of Than Khoai who cut off
an arm to save his country, of young Kinh Duc who rescued the Emperor Thai Tong
besieged by The Sung, and of Cao Khanh, a subject living far from the Court,
who insulted the rebel Loc Son to his face. Every century has produced heroes
who have sacrificed their lives for their country. If they had remained at home
to die by the fire, would their names have been inscribed on bamboo and silk to
live eternally in Heaven and on the Earth?
But as
descendants of warrior families, you are not well-versed in letters; on hearing
about these deeds of the past, you may have some doubts. Let us speak of them
no more. I shall tell you instead of several more recent events that have taken
place during the years of the Tong and Nguyen dynasties.
Who was
Vuong Cong Kien? And who was his lieutenant Nguyen Van Lap? They were the ones
who defended the great citadel of Dieu Ngu against Mong Kha's immense army;
Therefore, the Tong people will be eternally grateful to them.
Who was
Cot-Ngai Ngot-Lang? And who was his lieutenant Xich Tu Tu? They were the ones
who drove deep into an unhealthful country in order to put down the Nam-Chieu
bandits and they did it within the space of a few weeks; therefore, their names
have remained rooted in the minds of the Mongol military chieftains.
You and
I were born in a period of troubles and have grown up at a time when the
Fatherland is in danger. We have seen the enemy ambassadors haughtily traveling
over our roads and wagging their owlish tongues to insult the Court. Despicable
as dogs and goats, they boldly humiliate our high officials. Supported by the
Mongol emperor, they incessantly demand the payment of pearls, silks, gold and
silver. Our wealth is limited but their cupidity is infinite. To yield to their
exactions would be to feed their insatiable appetites and would set a dangerous
precedent for the future.
In the
face of these dangers to the Fatherland, I fail to eat during the day and to
sleep at night. Tears roll down my cheeks and my heart bleeds as if it were
being cut to shreds. I tremble with anger because I cannot eat our enemy's
flesh, lie down in his skin, chew up his liver, and drink his blood. I would
gladly surrender my life a thousand times on the field of battle if I could do
these things.
You have
served in the army under my orders for a long time. When you needed clothing, I
clothed you; when you lacked rice, I fed you; when your rank was too low, I
promoted you; when your pay was insufficient, I increased it. If you had to
travel by water, I supplied you with vessels; if you had to travel by land, I
supplied you with horses. In time of war, we shared the same dangers; at the
banquet table our laughter resounded in unison. Indeed, even Cong-Kien and
Ngot-Lang did not show more solicitude for their officers than I have displayed
for you.
And now,
you remain calm when your emperor is humiliated; you remain indifferent when
your country is threatened! You, officers, are forced to serve the barbarians
and you feel no shame! You hear the music played for their ambassadors and you
do not leap up in anger. No, you amuse yourselves at the cockfights, in
gambling, in the possession of your gardens and rice fields, and in the tranquility
of family life. The exploitation of your personal affairs makes you forget your
duties to the State; the distractions of the fields and of the hunt make you
neglect military exercises; you are seduced by liquor and music. If the enemy
comes, will your cocks' spurs be able to pierce his armor? Will the ruses you
use in your games of chance be of use in repulsing him? Will the love of your
wives and children be of any use in the Army? Your money would neither suffice
to buy the enemy's death, your alcohol to besot him, nor your music to deafen
him.
All of
us, you and I together, would then be taken prisoner. What grief! And not only
would I lose my fief, but your property too would fall into enemy hands. It
would not be my family alone that would be driven out, but your wives and
children would also be reduced to slavery. It would not be only the graves of
my ancestors that would be trampled under the invader's heel, but those of your
ancestors would also be violated. I would be humiliated in this life and in a
hundred others to come, and my name would be ignominiously tarnished. Your
family's honor would also be sullied forever with the shame of your defeat.
Tell me: Could you then indulge yourselves in pleasures?
I say to
you in all frankness: Take care as if you were piling wood by the fire or about
to imbibe a hot liquid. Exercise your soldiers in the skills of archery until
they are the equals of Bang Mong and Hau Nghe, those famous archers of olden
times. Then we will display Tat-Liet's head at the gates of the Imperial Palace
and send the King of Yunnan to the gallows.
After
that, not only my fief will be safe forever, but your privileges too will be
assured for the future. Not only my family will enjoy the comforts of life, but
you too will be able to spend your old age with your wives and children. Not
only the memory of my ancestors will be venerated from generation to
generation, but yours too will be worshipped in the spring and autumn of every
year. Not only will I have accomplished my aspirations in this life, but your
fame too will endure for a hundred centuries to come. Not only will my name be
immortalized, but yours too will find a place in our nation's history. At that
moment, would you not be perfectly happy even if you did not expect to be?
I have
studied every military treatise in order to write my manual entitled
"Principles of Military Strategy". If you will make an effort to
study it conscientiously, to instruct yourselves in its teachings, and to
follow my directions, you will become my true companions-in- arms. On the other
hand, if you fail to study it and ignore my advice, you will become my enemies.
Why? Because the Mongols are our mortal enemies; we cannot live under the same
sky with them.
If you
refuse to fight the Mongols in order to wash away the national shame, if you do
not train your soldiers to drive out these barbarians, it would be to surrender
to them. If that is what you want, your names will be dishonored forever. And
when the enemy has finally been defeated, how will you be able to hold your
head high between Heaven and Earth?
The
purpose of this proclamation is to let you know my deepest thoughts.
Bản dịch Việt Ngữ
Ta thường nghe: Kỷ Tín đem mình chết
thay, cứu thoát cho Cao Đế; Do Vu chìa lưng chịu giáo, che chở cho Chiêu Vương;
Dự Nhượng nuốt than, báo thù cho chủ; Thân Khoái chặt tay để cứu nạn cho nước.
Kính Đức một chàng tuổi trẻ, thân phò Thái Tông thoát khỏi vòng vây Thái Sung;
Cảo Khanh một bầy tôi xa, miệng mắng Lộc Sơn, không theo mưu kế nghịch tặc. Từ
xưa các bậc trung thần nghĩa sĩ, bỏ mình vì nước, đời nào chẳng có ? Ví thử mấy
người đó cứ khư khư theo thói nhi nữ thường tình thì cũng đến chết hoài ở xó
cửa, sao có thể lưu danh sử sách cùng trời đất muôn đời bất hủ được ?
Các ngươi vốn dòng võ tướng, không
hiểu văn nghĩa, nghe những chuyện ấy nửa tin nửa ngờ. Thôi việc đời trước hẵng
tạm không bàn. Nay ta lấy chuyện Tống, Nguyên mà nói: Vương Công Kiên là người
thế nào ? Nguyễn Văn Lập, tỳ tướng của ông lại là người thế nào ? Vậy mà đem
thành Điếu Ngư nhỏ tày cái đấu đương đầu với quân Mông Kha đường đường trăm
vạn, khiến cho sinh linh nhà Tống đến nay còn đội ơn sâu ! Cốt Đãi Ngột Lang là
người thế nào ? Xích Tu Tư tỳ tướng của ông lại là người thế nào ? Vậy mà xông
vào chốn lam chướng xa xôi muôn dặm đánh quỵ quân Nam Chiếu trong khoảng vài
tuần, khiến cho quân trưởng người Thát đến nay còn lưu tiếng tốt !
Huống chi, ta cùng các ngươi sinh ra
phải thời loạn lạc, lớn lên gặp buổi gian nan. Lén nhìn sứ ngụy đi lại nghênh
ngang ngoài đường, uốn tấc lưỡi cú diều mà lăng nhục triều đình; đem tấm thân
dê chó mà khinh rẻ tổ phụ. Ỷ mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa để phụng sự lòng
tham khôn cùng; khoác hiệu Vân Nam Vương mà hạch bạc vàng, để vét kiệt của kho
có hạn. Thật khác nào đem thịt ném cho hổ đói, tránh sao khỏi tai họa về sau.
Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ
gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ giận chưa thể xả thịt, lột da, ăn
gan, uống máu quân thù; dẫu cho trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn thây ta
bọc trong da ngựa, cũng nguyện xin làm.
Các ngươi ở lâu dưới trướng, nắm giữ
binh quyền, không có mặc thì ta cho áo; không có ăn thì ta cho cơm. Quan thấp
thì ta thăng tước; lộc ít thì ta cấp lương. Đi thủy thì ta cho thuyền; đi bộ
thì ta cho ngựa. Lâm trận mạc thì cùng nhau sống chết; được nhàn hạ thì cùng
nhau vui cười. So với Công Kiên đãi kẻ tỳ tướng, Ngột Lang đãi người phụ tá,
nào có kém gì?
Nay các ngươi ngồi nhìn chủ nhục mà
không biết lo; thân chịu quốc sỉ mà không biết thẹn. Làm tướng triều đình đứng
hầu quân man mà không biết tức; nghe nhạc thái thường đãi yến sứ ngụy mà không
biết căm. Có kẻ lấy việc chọi gà làm vui; có kẻ lấy việc cờ bạc làm thích. Có
kẻ chăm lo vườn ruộng để cung phụng gia đình; có kẻ quyến luyến vợ con để thỏa
lòng vị kỷ. Có kẻ tính đường sản nghiệp mà quên việc nước; có kẻ ham trò săn
bắn mà trễ việc quân. Có kẻ thích rượu ngon; có kẻ mê giọng nhảm. Nếu bất chợt
có giặc Mông Thát tràn sang thì cựa gà trống không đủ đâm thủng áo giáp của
giặc; mẹo cờ bạc không đủ thi hành mưu lược nhà binh. Vườn ruộng nhiều không
chuộc nổi tấm thân ngàn vàng; vợ con bận không ích gì cho việc quân quốc. Tiền
của dẫu lắm không mua được đầu giặc; chó săn tuy hay không đuổi được quân thù.
Chén rượu ngọt ngon không làm giặc say chết; giọng hát réo rắt không làm giặc
điếc tai. Lúc bấy giờ chúa tôi nhà ta đều bị bắt, đau xót biết chừng nào !
Chẳng những thái ấp của ta không còn mà bổng lộc các ngươi cũng thuộc về tay kẻ
khác; chẳng những gia quyến của ta bị đuổi mà vợ con các ngươi cũng bị kẻ khác
bắt đi; chẳng những xã tắc tổ tông ta bị kẻ khác giày xéo mà phần mộ cha ông
các ngươi cũng bị kẻ khác bới đào; chẳng những thân ta kiếp này chịu nhục đến
trăm năm sau tiếng nhơ khôn rửa, tên xấu còn lưu, mà gia thanh các ngươi cũng
không khỏi mang danh là tướng bại trận. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi muốn vui
chơi thỏa thích, phỏng có được chăng ?
Nay ta bảo thật các ngươi: nên lấy việc
"đặt mồi lửa dưới đống củi nỏ" làm nguy; nên lấy điều "kiềng
canh nóng mà thổi rau nguội" làm sợ. Phải huấn luyện quân sĩ, tập dượt
cung tên, khiến cho ai nấy đều giỏi như Bàng Mông, mọi người đều tài như Hậu
Nghệ, có thể bêu đầu Hốt Tất Liệt dưới cửa khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở
Cảo Nhaị Như thế chẳng những thái ấp của ta mãi mãi vững bền mà bổng lộc các
ngươi cũng suốt đời tận hưởng; chẳng những gia thuộc ta được ấm êm giường nệm,
mà vợ con các ngươi cũng trăm tuổi sum vầy; chẳng những tông miếu ta được hương
khói nghìn thu mà tổ tiên các ngươi cũng được bốn mùa thờ cúng; chẳng những
thân ta kiếp này thỏa chí, mà đến các ngươi, trăm đời sau còn để tiếng thơm;
chẳng những thụy hiệu ta không hề mai một, mà tên họ các ngươi cũng sử sách lưu
truyền. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi không muốn vui chơi, phỏng có được không ?
Nay
ta chọn lọc binh pháp các nhà hợp thành một tuyển, gọi là Binh Thư Yếu Lược.
Nếu các ngươi biết chuyên tập sách này, theo lời ta dạy bảo, thì trọn đời là
thần tử; nhược bằng khinh bỏ sách này, trái lời ta dạy bảo thì trọn đời là
nghịch thù.
Vì sao vậy ? Giặc Mông Thát với ta là kẻ
thù không đội trời chung, mà các ngươi cứ điềm nhiên không muốn rửa nhục, không
lo trừ hung, lại không dạy quân sĩ, chẳng khác nào quay mũi giáo mà xin đầu
hàng, giơ tay không mà chịu thua giặc. Nếu vậy, rồi đây, sau khi dẹp yên nghịch
tặc, để thẹn muôn đời, há còn mặt mũi nào đứng trong cõi trời che đất chở này
nữa ?
Cho nên
ta viết bài hịch này để các ngươi hiểu rõ bụng ta.
****
Chú thích
Kỷ Tín: tướng của Hán Cao Tổ Lưu
Bang. Khi Lưu Bang bị Hạng Vũ vây ở Huỳnh Dương, Kỷ Tín giả làm Hán Cao Tổ ra
hàng, bị Hạng Vũ thiêu chết. Hán Cao Tổ nhờ thế mới thoát được.
Do Vu: tướng của Sở Chiêu Vương thời
Xuân Thu. Theo Tả Truyện, Sở Chiêu Vương bị nước Ngô đánh phải lánh sang phương
Đông, một đêm bị cướp vây đánh. Do Vu đã chìa lưng ra đỡ giáo cho vua mình.
Dự Nhượng: gia thần của Trí Bá thời
Chiến Quốc. Trí Bá bị Triệu Tương Tử giết, Dự Nhượng bèn nuốt than cho khác
giọng đi, giả làm hành khất, mưu giết Tương Tử để báo thù cho chủ.
Thân Khoái: quan giữ ao cá của Tề Trang
Công thời Xuân Thu. Trang Công bị Thôi Trữ giết, Thân Khoái bèn chết theo chủ.
Kính Đức: tức Uất Trì Cung đời Đường.
Khi Đường Thái Tông (bấy giờ còn là Tần Vương Lý Thế Dân) bị Vương Thế Sung
vây, ông đã lấy mình che chở, hộ vệ cho Thái Tông chạy thoát.
Cảo Khanh: họ Nhan, một bề tôi trung
của nhà Đường. Khi An Lộc Sơn nổi loạn, đánh đuổi Đường Huyền Tông và Dương Quý
Phi, ông đã cả gan chưởi mắng An Lộc Sơn và bị cắt lưỡi.
Vương Công Kiên: tướng tài nhà Tống,
giữ Hợp Châu, lãnh đạo quân dân Tống cầm cự với quân Mông Cổ do Mông Kha chỉ
huy ở núi Điếu Ngư suốt bốn tháng trời. Mông Kha cuối cùng bị loạn tên chết,
quân Mông Cổ đành phải rút lui.
Điếu Ngư: tên ngọn núi hiểm trở ở Tứ
Xuyên, ba mặt nhìn xuống sông. Đời Tống, Dư Giới đắp thành ở đó.
Mông Kha: tức Mongke, anh của Nguyên
Thế Tổ Hốt Tất Liệt, làm Đại Hãn Mông Cổ từ năm 1251. Mông Kha trực tiếp chỉ
huy cuộc viễn chinh sang Trung Quốc và các nước phía Đông. Ông bị tử trận năm
1259 dưới chân thành Điếu Ngư trong cuộc vây hãm đội quân Tống do Vương Công
Kiên chỉ huy.
Cốt Đãi Ngột Lang: tức Uriyangqadai,
tướng giỏi của Mông Cổ, con của viên tướng nổi tiếng Subutai. Cốt Đãi Ngột Lang
nhận lệnh của Mông Kha, cùng Hốt Tất Liệt đánh chiếm nước Nam Chiếu. Cốt Đãi
Ngột Lang cũng là viên tướng chỉ huy đạo quân Mông Cổ xâm lược Đại Việt lần thứ
nhất (1258).
Xích Tu Tư: chép Xích theo Hoàng Việt
Văn Tuyển. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép Cân. Hai chữ gần giống nhau, không biết
quyển nào chép nhầm. Hiện nay, chưa có tài liệu nào nói gì về viên tướng này,
và việc khôi phục lại tên Mông Cổ từ Hán tự cũng không phải là chuyện đơn giản.
Nam Chiếu: nước nhỏ nằm ở khoảng giữa
tỉnh Tứ Xuyên và Vân Nam ngày nay; thủ đô là Đại Lý, thuộc Vân Nam.
Hốt Tất Liệt: tức Qubilai, em ruột và
là tướng của Mông Kha. Sau khi Mông Kha tử trận ở Điếu Ngư, Hốt Tất Liệt tự
xưng làm Đại Hãn ở Khai Bình, khiến xảy ra cuộc nội chiến tranh giành ngôi báu
với em ruột là Ariq-Buka. Năm 1264, Ariq-Buka đầu hàng, Hốt Tất Liệt bèn dời đô
về Yên Kinh (tức Bắc Kinh ngày nay), xưng Nguyên Thế Tổ, lập nên nhà Nguyên.
Vân Nam Vương: tức Hugaci hay Thoát
Hoan, con ruột Hốt Tất Liệt, được phong làm Vân Nam Vương năm 1267 với nhiệm vụ
khống chế các dân tộc thiểu số vùng này cũng như mở rộng biên cương nhà Nguyên
về phía Nam. Thoát Hoan là người chỉ huy quân Nguyên xâm lược Đại Việt lần thứ
hai năm 1285 và lần thứ ba năm 1287-1288.
Nghìn thây ta bọc trong da ngựa: điển
tích lấy từ câu nói của viên tướng khét tiếng Mã Viện đời Hán chép trong Hậu
Hán Thư - Đại trượng phu dương tử ư cương trường, dĩ mã cách khỏa thi nhĩ. (Bậc
đại trượng phu nên chết ở giữa chiến trường, lấy da ngựa mà bọc thây.)
Thái thường: tên loại nhạc triều đình
dùng trong những buổi tế lễ quan trọng ở tông miếu. Bấy giờ là thời kỳ ngoại
giao căng thẳng giữa ta và quân Nguyên, trong những buổi yến tiệc tiếp sứ
Nguyên, triều đình nhà Trần nhiều khi phải buộc dùng đến nhạc thái thường để mua
vui cho sứ giả. Trần Quốc Tuấn xem đó là một điều nhục nhã.
Thái ấp: phần đất vua Trần phong cho
các vương hầu.
Đặt mồi lửa dưới đống củi nỏ: từ câu
văn trong Hán Thư - phù bão hỏa, thố chi tích tân chi hạ nhi tẩm kỳ thượng, hỏa
vị cập nhiên nhân vị chi an. (Ôm mồi lửa, đặt dưới đống củi rồi nằm lên trên,
lửa chưa kịp cháy vẫn cho là yên.)
Kiềng canh nóng mà thổi rau nguội:
xuất xứ từ một câu văn trong Sở Từ - trừng ư canh nhi xuy tê hề. (Người bị bỏng
vì canh nóng, trong lòng đã e sợ sẵn, dù gặp rau nguội đi nữa, cũng vẫn thổi
như thường.)
Bàng Mông: danh tướng đời nhà Hạ, có
tài bắn cung trăm phát trăm trúng.
Hậu Nghệ: một nhân vật bắn cung giỏi
nữa trong thần thoại Trung Quốc.
Cảo Nhai: nơi trú ngụ của các vua chư
hầu khi vào chầu vua Hán ở Trường An.
Mãi mãi vững bền: nguyên văn chữ Hán
là vĩnh vi thanh chiên. Sách Thế Thuyết chép chuyện Vương Tử Kính đêm nằm ngủ
thấy bọn trộm vào nhà "sạch sành sanh vét" mọi vật. Ông từ tốn bảo
chúng rằng: cái nệm xanh (thanh chiên) này là đồ cũ của nhà ta, các ngươi làm
ơn để lại. Tác giả dùng điển tích này để chỉ những của cải được lưu truyền từ
đời này sang đời khác.
Binh Thư Yếu Lược: tức Binh Gia Diệu
Lý Yếu Lược, nay đã thất truyền. Tác phẩm với đầu đề tương tự được lưu truyền
hiện nay không phải là văn bản thực thụ, trong đó có vài đoạn chép các trận
đánh thời Lê Nguyễn sau này.
Dẹp yên nghịch tặc: nguyên văn chữ Hán
là bình lỗ chi hậu. Các dịch giả Dương Quảng Hàm, Trần Trọng Kim đoán Bình Lỗ
là tên đất ở đâu đó vùng Phù Lỗ thuộc tỉnh Vĩnh Phú ngày nay. Ở đây, chúng tôi
theo Ngô Tất Tố và Phan Kế Bính dịch thoát là bình định nghịch tặc nói chung.
Tác giả: Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn
(Bản
Dịch khuyết danh)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét