BÀI VIẾT TỪ 20 NĂM TRƯỚC, IN ĐỂ TƯỞNG NHỚ NHÀ THƠ LÒ NGÂN SỦN ĐÃ MẤT KHI KẼ TAY NGƯỜI NỞ HOA
Trần Mạnh Hảo
Tôi
xin mượn ý câu thơ của Lò Ngân Sủn: "Ơ, kẽ tay người Tà Lọng nở hoa"
làm đầu đề cho bài viết nhỏ này về thơ của nhà thơ dân tộc Dáy. Tôi được làm
quen với Lò Ngân Sủn qua nhà thơ Trúc Cương tại Hà Nội cách nay có lẽ cũng gần
mười lăm năm. Hồi ấy, nhà thơ của núi này dáng thanh mảnh,đẹp trai, da trắng
như da con gái, im lặng và nói ít như một cây mận hậu. Sau này, nghe ông có bài
thơ "Chiều biên giới" được nhạc sỹ Trần Chung phổ nhạc thành bài hát
rất hay và Lò Ngân Sủn nổi tiếng lên cũng nhờ đó.
Bẵng đi
một thời gian khá dài,đầu năm 1994 nhân vì tò mò đọc tập thơ "Một trăm bài
thơ hay" tổng kết cuộc thi thơ của báo văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, tôi
vui mừng gặp lại nhà thơ Lò Ngân Sủn với bài thơ "Người đẹp". Tôi đã
viết bài phê bình tập "Một trăm bài thơ hay" in trên tạp chí Văn nghệ
quân đội số tháng 6 năm 1994. Trong bài viết đó, tôi cho rằng "Một trăm
bài thơ hay" kia chỉ đúng một phần trăm, vì chỉ có bài thơ "Người
đẹp" của Lò Ngân Sủn là hay thật sự, rất tiếc con mắt xanh của ban chấm
giải thưởng cuộc thi thơ không để mắt tới :
Người đẹp trông như tuyết
Chạm vào lại thấy nóng
Người đẹp trông như lửa
Sờ vào lại thấy mát
Người không khát-nhìn thấy người đẹp cũng khát
Người không đói-nhìn thấy người đẹp cũng đói
Người muốn chết-gặp người đẹp lại không muốn
chết nữa...
Ơ
Người đẹp là ước mơ
Treo trước mắt mọi người ...
Đối với tôi, bài thơ này của Lò Ngân Sủn vừa
lạ, lại vừa rất hay, chỉ cần đọc một lần đã có thể thuộc. Bài thơ có mười câu,
chỉ có âm điệu mà không có vần, đặc biệt bảy câu đầu ở các âm tiết cuối đều là
thanh trắc. Tác giả phá bỏ mọi lề thói của thơ truyền thống đã đành mà còn vượt
qua cả giới hạn của ngay thơ tự do, thứ thơ mà có một số vị hiện nay đang lạm
dụng để tung hỏa mù vô thức với vô chiêu, hòng hũ nút hóa những con chữ vô hồn,
vô nghĩa và vô tội.
Lò Ngân Sủn nhìn "Người
Đẹp" bằng cái nhìn khởi thủy như khi lần đầu tiên Adam nhìn thấy nàng Eva.
Rằng đôi mắt thi sỹ vừa xuất hiện trên thế gian này đang còn ngơ ngác, hoang sơ,
thậm chí trống vắng trong một thế giới đi từ tuyết đến lửa, thấy xuất hiện một
sinh vật pha trộn cả ba yếu tố: Người-Ma qủy-Thần linh là đàn bà. Và ông, người
thi sỹ của dân tộc Dáy vừa choáng ngợp vừa bình tĩnh, vừa ngây dại lại khôn
ngoan, vừa bung phá lại vừa phải thu vén để cảm nhận hình ảnh tuyệt mỹ của tạo
hóa là người đàn bà đẹp.
Ông phải hết sức kiệm lời, mà kiệm
lời là phó bản của im lặng, để vẽ bằng được chân dung nàng Eva giữa tuyết nóng
bỏng và lửa mát lành kia. Đứng trước sự tuyệt mỹ của người đàn bà đẹp, một nhà
thơ có bản lĩnh là một nhà thơ không bị cái đẹp đẩy xuống vực thẳm hư vô, để
rồi lải nhải tán hưu tán vượn, mà ngược lại nhà thơ phải hiện thực ngay trong
cùng tận giấc mơ, để chỉ cần bằng vài ba hình ảnh, anh có thể đóng đinh được
hồn vía cái đẹp, người đẹp lên cây thánh giá của thi ca.
Lò Ngân Sủn dắt nàng Eva vào thi ca
qua ba cực đoan của cõi sống, qua ba đại nạn đe dọa loài người là đói, khát và
chết. Ở đó ,nhà thơ phát hiện ra tính triết học của cái đẹp, hơn nữa ông còn
đẩy người đẹp lên thành niềm cứu rỗi, giải thoát mọi tai ương và vấn nạn tột
cùng của nhân loại: "Người muốn chết -gặp người đẹp lại không muốn chết
nữa ...".
Đối với Lò Ngân Sủn, cái đẹp đã phục sinh cái
chết ,người đàn bà đã, đang và sẽ phục sinh lại thế giới đầy chết chóc của
chiến tranh và phái mạnh. Đấy là tính tư
tưởng mà thi ca của nhà thơ miền núi này thông điệp tới chúng ta thông
qua giọng nói chất phác và giản dị của quê hương ông.
Cám ơn
nhà thơ, bằng nhương câu thơ mộc mạc và tự nhiên, chân thành mà kỳ lạ, sâu sắc
hiện đại trong màu mắt quê kiểng núi non, ông đã giúp chúng ta phát hiện ra cái
đói, cái khát vĩnh hằng của loài người trong hình ảnh cứu chuộc lại thế giới là
người đàn bà đẹp. Trong lá thư viết gởi Lò Ngân Sủn sau khi đọc xong bài thơ
"Người Đẹp" này hồi đầu năm 1994, tôi đã mạo muội viết rằng bài thơ
của ông có thể đứng vào hàng những bài thơ tình hay của thi ca Việt Nam và thế
giới.
Đối với thi ca, phẩm chất trí tuệ thông
thường lại được biểu đạt qua cái ngu ngơ con trẻ, cái thực biết cách hiện hình
trong chóp cùng của cái ảo, cái huyên náo diễn đạt mình qua cái im lặng.Trước
khi có thể đạt được cái đích đó của thi ca, Lò Ngân Sủn đã biết tìm ra nét trí
tuệ ngay trong chất liệu bình thường của đời sống. Ấy là bài thơ
"Nàng":
Cha mẹ sinh ra Nàng
Gọi nàng là người con gái
Nghệ thuật sinh ra Nàng
Gọi nàng là thần Vệ Nữ
Nàng sinh ra lần thứ nhất - để chết
Nàng sinh ra lần thứ hai - để sống mãi.
Vâng, bài thơ này có vẻ là một bài thơ duy lý,
cái tứ của nó là sự lập luận thông minh. Sự thông minh ai bảo chỉ là phẩm chất
của khoa học mà không phải là phẩm chất của thi ca ? Đèn điện kia, máy hát,
tivi, ô tô, máy bay ...kia đều là sản phẩm của trí thông minh con người cả, sao
bật lên, ấn nút, khởi động, cất cánh ... nó lại mang đến cảm xúc cho con người
nhiều thế ? Đừng sợ những câu thơ thông minh, những bài thơ thông minh, nếu cái
thông minh của anh không phải là thứ thông minh hàng xén vụn vặt.
Thơ hay
vốn dĩ có nhiều cách. Những bài thơ đầy thông minh, thông tuệ của Chế Lan Viên
đã làm ngạc nhiên người đọc và mang lại xúc cảm đầy ắp thi ca. Bài thơ
"Nàng" trên của Lò Ngân Sủn làm người đọc ngạc nhiên đến thú vị về
lối lập luận sắc sảo của ông. Mượn người đàn bà thực để nói về cái bất tử của
người đàn bà không thực là nghệ thuật, tựu trung cũng để tôn vinh hình ảnh vĩnh
hằng của cái đẹp.
Một số bài thơ ngắn muốn vươn lên tầm
khái quát của Lò Ngân Sủn có nét gì đó gần như mô phỏng lối viết những bài thơ
ngắn của nhà thơ dân tộc Raxun Gamzatốp của Liên bang Nga. Chừng như có nét
tương đồng giữa quê hương Bát Xát Lào Cai của nhà thơ dân tộc Dáy và núi đồi miền Cô-ca-dơ của nhà thơ xứ
Đaghettan ?
Có
lẽ,trong thi ca, sở trường của Lò Ngân Sủn là thơ tình, thường là những bài thơ
ngắn và có tứ, lại khá hiện đại trong lối viết không câu nệ vào vần vèo bằng
trắc. Ông còn là nhà thơ của thiên nhiên, của núi đồi, của tiếng kèn pí lè dân
tộc Dáy, của những cuộc vui bất tận quanh chảo thắng cố phiên chợ người Mông
với xòe ô và bát rượu ngô say khướt ...Hãy xem ông nhìn ngọn gió đêm đang rải
lụa trong rừng, y hệt như xiêm y của tiên nữ: "Gió đêm thổi mềm như nõn
chuối ...". Hay nghe ông mô tả tiếng ễnh ương như mô tả cái đẹp của màu
sắc, cái mùi gợi cảm của hương vị: "Ễnh ương giao cốm ngoài đường
..."
Đôi khi,
trước tạo vật, Lò Ngân Sủn biết phổ hồn vía mình vào vũ trụ như con chồn hương
biết phổ mùi thơm kỳ lạ của mình vào đêm rừng, để mời gọi bạn tình phương xa
tới. Bài thơ "Dạo cảnh" của ông là một bức tranh tĩnh vật, biết phép
tràn cái TĨNH ra khỏi khung tranh, thoát khỏi VẬT để tạo ra cái ĐỘNG trong mắt và
trong tâm người thưởng ngoạn:
Đường lượn một khúc ve ngân
Chầm chậm bước, chầm chậm nghĩ
Núi núi, cây cây, cỏ cỏ
Trời trời, mây mây, gió gió
Thoang thoảng bờ suối mùa nếp tan
Bất ngờ trăng khuya nở đầy tràn.
Bài thơ này phảng phất hơi thơ nôm, thậm chí
hồn thơ nôm của Nguyễn Trãi, tuy nhiên ngôn ngữ vẫn là của ngày hôm nay. Cái
thủ pháp của tranh Tống trong bài thơ chỉ gợi mà không mở, chỉ khai mà không
phá, chỉ cảm mà không động, chỉ âm mà không vang tạo ra sự dồn nén tối đa của
thơ,khiến người đọc phải lặng lẽ đọc đi đọc lại và ngẫm nghĩ. Cái thế tự tại,
tự nhiên, tự giác của bài thơ chứng tỏ sự từng trải của người viết, biết chắt
lọc cảm xúc và hồn vía mình hòa vào trời đất, như vẫn hằng hòa hơi thở mình vào
vũ trụ vô biên. Bài thơ có sáu câu, đủ vần điệu, tả toàn trăng nhưng chỉ có câu
cuối nói về trăng. Ấy là ánh trăng hóa giải, như rượu đã rót đầy chén, nước đã
đổ đầy bình, phim đã thoát khỏi cuộc đời âm bản. Lò Ngân Sủn đã mượn ánh trăng
mà nghĩ ngợi việc đời, thậm chí còn nghĩ ngợi cả công việc của cõi "mờ mờ nhân
ảnh" của trời đất nữa. Bài thơ tuy cái hơi cổ song le cái tâm,cái tình,cái
cảnh thì vẫn mới.
Ngoài những bài thơ khá hay trên, Lò Ngân Sủn
còn có một số bài thơ khá như: "Mù Kang Chải", "Sa Pa",
"Chiều biên giới", "Cái đầu lưỡi", "Đổi thay", "Bất
chấp", "Yêu"...Người Kinh có câu :nghĩ bụng, chắc người Dáy của
Lò Ngân đã tìm ra phép nhìn bằng bụng nên những qủa đồi trong thơ ông đều nằm
trong tư thế thóc giống: "Đồi chất
như thóc đống ...".Ông nhìn ra nét ngḥịch lý của Sa Pa : "Ngỡ gần
mặt trời,trời lại rét.../ Rõ ở trên cao mà lại thấp...".
Lò Ngân
Sủn là một con người lặng lẽ, ưa giam mình trong suy tư, xúc cảm thi ca của ông
thường đến sau do năng lượng của xung động tỏa ra, nhưng lại biết đường đến
thẳng trái tim người đọc. Ấy là khi ông viết được những câu thơ khá hay có tính
khái quát cao: "Trời trên đầu đất dưới chân/Cái cột chống đỡ là thân con
người...".
Kinh Cựu
Ước ghi: thuở bình minh nhân loại,loài người nói chung một ngôn ngữ .Họ rủ nhau
xây một cái tháp rất cao có tên là Babel, vừa để đỡ trời,vừa để giải tỏa tính
tò mò của mình với quyết tâm leo lên trời coi trên ấy có món gì mà bí mật vậy?
Nhưng Thượng Đế,người độc quyền trời xanh, đã làm cho loài người không xây được
tháp Babel, bằng cách bắt mỗi người nói một thứ tiếng. Do ngôn ngữ bất đồng, công
việc đỡ trời và lên trời của con người bị bỏ giở. Nhưng nhà thơ đã tìm thấy
tháp Babel kia trong mỗi dáng người đi trên mặt đất bằng hình tượng ngạo nghễ
và hùng vĩ: mỗi thân người là cái cột chống trời. Trong cảm thức vũ trụ hoành
tráng và mênh mông ấy, Lò Ngân Sủn đã viết được những câu thơ hay, khi ông phát
hiện ra dung chứa của ngôi nhà mình có thể vẫn thừa chỗ cho cả trái đất đến cư
trú: "Ước gì trái đất tý ty / Để ta đi lại như đi trong nhà ...". Và
qủa thật, với nhà thơ, biết đâu trái đất rộng thật nhưng chưa chắc đã rộng bằng
tâm hồn người vợ mình,ngôi nhà của mình, bản mường của mình ...Lò Ngân Sủn đã
viết được những câu thơ hay đến ngạc nhiên,thí dụ như câu tả nghịch cảnh của
quê ông: "Ước mơ bay vút lên trời/Bữa ăn lại tụt xuống chân thang
...". Hoặc khi ông dùng cách nói hình tượng và trực giác của dân tộc mình
để diễn đạt tình cảm: "Thương nhau/Xoay trời làm bạn/Xoay đất nên
tình...", hay khi ông diễn tả sự nối tiếp của cuộc sống bằng một lối nói
chân mộc và rất lay động: "Và trước
lúc sắp đi xa bà hôn con dâu út /Để truyền lại hơi thở cho đời sau ..."
Người bà của nhà thơ đã truyền hơi thở mình
lại cho con dâu út, cũng như nhà thơ đã truyền lại hơi thở của hồn mình cho mỗi
câu thơ. Tuy nhiên, công cuộc truyền dương khí cho thơ của Lò Ngân Sủn không
phải lúc nào cũng thuận buồm mát mái. Ấy là khi ông chưa chế ngự được bệnh dễ
dãi,bệnh ưa triết lý,bệnh lạm dụng cách nói phóng đại,ngoa ngôn trong thơ ca
dân gian và thơ cổ của các dân tộc. Lò Ngân Sủn dễ thành công hơn trong những
bài thơ ngắn và thường là ngược lại. Ví dụ như trường hợp của bài thơ: "Chuyện
từ đôi guốc hoa" kể lại câu chuyện người vợ dặn chồng về thành phố nhớ mua
cho nàng một đôi guốc hoa. Người chồng đã mang ước mơ kia về cho vợ ,nhưng nàng
vẫn cứ tiếp tục đi chân đất...Nếu nhà thơ bỏ đi một nửa bài khá dài giải thích
việc vợ mình không thể xỏ chân vào ước mơ nhỏ bé kia vì còn phải lên nương
rẫy...thì bài thơ có thể đã đứng được. Chúng tôi đang có trong tay năm tập thơ
của Lò Ngân Sủn: "Những người con của núi", "Dòng sông
mây", "Chiều biên giới", "Đường dốc" và tập "Đám
cưới" vừa được giải A của Ủy ban Trung Ương liên hiệp VHNT Việt Nam.Ngoài
ra ông còn dành được khá nhiều các giải thưởng thơ khác. Nghe nói, ông lại sắp
in hai tập thơ nữa.
Một
người năm mươi tuổi, đã làm thơ ba chục
năm nay, vẫn chưa có dấu hiệu gì là chựng lại, đủ biết sức viết của Lò Ngân Sủn
qủa là đáng nể thật. Có điều, ông cần phải chắc lọc và nâng tay nghề lên cao
hơn bằng cách ý thức được bản năng mình,đồng thời biết cách tránh lối mòn của
chính mình .Nếu ít năm nữa, Lò Ngân Sủn chọn lọc chừng ba chục bài thơ để in
thành tuyển, tôi tin rằng chúng ta sẽ có một tập thơ hay. Và thơ hay thì không
phải thi sĩ dù nổi tiếng nào cũng có sẵn trong tay đâu. Cùng với hai nhà thơ
lứa tuổi năm mươi là Vương Anh và Y Phương, Lò Ngân Sủn không chỉ là gương mặt
thơ bật trội vào hàng đầu trong số các nhà thơ dân tộc ít người, mà ông còn là
nhà thơ đáng nể trọng trong các nhà thơ Việt Nam đương đại.
Khi
chúng ta bước vào cõi thơ của Lò Ngân Sủn, ông đã có một lời mời hóm hỉnh:
"Thương nhau ta cùng lên rừng /Và đừng buộc đuôi ngựa vào nhau bạn nhé
...". Hi vọng người viết bài này đã không buộc đuôi ngựa thi ca của ông
vào cái đuôi con nghẽo phê bình vốn dĩ còi cọc hơn cả con chiến mã ho hen
Rossinante của Don Quichotte của mình. Vâng,tôi đã hứa với Lò Ngân Sủn ,dịp nào
sẽ quay lại Sa Pa trong mùa tuyết rơi,để cưỡi ngựa cùng ông lội qua những vùng
núi đồi xinh đẹp và mênh mông hơn cả những trang bản thảo đầy khát vọng của
chúng ta. Ở đó, trong giá rét, có thể tâm hồn tôi sẽ bị rán lên xèo xèo trong
đôi mắt của người con gái miền núi mà Lò Ngân Sủn đã tả trong thơ mình: "Đôi
mắt ướt như mỡ nóng trong chảo"...
Sài
Gòn.. ngày 21 tháng 4 năm 1995
T.M.H.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét