LÂM NGỮ ĐƯỜNG
TRUNG HOA ĐẤT NƯỚC CON NGƯỜI
NHÀ XUẤT BẢN VĂN HÓA THÔNG TIN
TRẦN VĂN TỪ dịch theo nguyên tác tiếng Anh: MY COUNTRY MY PEOPLE
Lời giới thiệu của PEARL S. BUCK, Giải Nobel Văn Chương 1938
Nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin 2001
Ngày
nay một trong những phong trào quan trọng nhất ở Trung Quốc là sự tìm
tòi, khám phá ngay chính tổ quốc của họ bởi những nhà trí thức Trung
Quốc, một thế hệ trước đây, những người tiến bộ nhất ở hàng ông cha họ
đã bắt đầu cảm thấy bức xúc bất mãn với chính ngay tổ quốc của họ. Họ đã
ý thức được – thật ra thật lòng họ đã buộc lòng phải ý thức được rằng
nước Trung Hoa nếu cứ như trong thời quá khứ thì không thể đối phó được
với sự tân tiến đầy nguy hiểm và hung hãn của Tây phương. Tôi không có ý
nói về sự tân tiến về mặt chính trị nhiều hơn là sự tiến triển về các
diễn biến kinh tế, giáo dục và quân sự. Những bậc tiền bối Trung Hoa
này, những vị ông cha của thế hệ hiện tại ở Trung Hoa, là những nhà cách
mạng thật sự. Họ đã diệt trừ ách thống trị quân quyền cổ lỗ, với một
tốc độ khó tin được họ đã thay đổi hệ thống giáo dục; với một nhiệt tâm
không bao giờ mệt mỏi, họ đã hoạch định và thành lập một chính quyền
hiện đại. Thời xưa không một chính quyền nào dưới tay một vị Hoàng đế
lại có thể hoàn thành được những sự thay đổi lớn lao như vậy trong một
nước lớn như vậy, với một tốc độ nhanh chóng hơn.
Giới
thanh niên trí thức Trung Hoa hiện nay đã trưởng thành trong khung cảnh
đầy thay đổi này. Khi các vị tiền bối được thấm nhuần các học thuyết
Khổng Tử và học lần kinh sách, rồi nổi lên chống lại các thứ đó, thì các
thanh niên này bị nhiều sức mạnh của thời đại mới tấn công dồn dập. Họ
được giảng dạy một đôi điều về khoa học, đôi điều về Cơ đốc giáo, về
thuyết vô thần, về tự do luyến ái, về chủ nghĩa cộng sản, về triết học
tây phương, về chủ nghĩa quân phiệt mới, thật ra một đôi chút của tất cả
mọi thứ. Đứng giữa tâm trạng trung cổ đặc sệt của quảng đại quần chúng
dân trong nước, những thanh niên trí thức đã được giảng dạy những điều
cực đoan nhất của mọi nền văn hóa. Về mặt tinh thần họ đã bị xô đẩy vào
cùng một sự sơ sót lớn lao mà nước Trung Hoa đã phạm phải về mặt thể
chất, nói một cách bóng bẩy, họ đã nhảy vọt từ thời kỳ đường sá thô sơ
nơi thôn quê tới kỷ nguyên của máy bay, sự sơ sót quá lớn lao. Trí tuệ
không thể bù đắp vào chỗ đó. Tinh thần bị mất đi trong cuộc va chạm.
Do
đó, kết quả đầu tiên của sự thiếu sót này chắc chắn là việc phát sinh
ra một lớp thanh niên Trung Hoa, cả nam giới lẫn nữ giới, nhưng cơ cốt
là nam giới, là những người thật tình không hiểu phải sống thế nào trong
chính nước của họ, hay trong thời đại mà họ còn đang trải qua. Phần lớn
bọn họ được theo học ở nước ngoài, ở đó họ đã quên mất các thực trạng
của giống nòi họ. Thật là khá dễ dàng cho những lãnh tụ cách mạng để
thuyết phục những tâm hồn phẫn nộ này rằng sự lạc hậu của Trung Hoa
chính yếu là do sự can thiệp về chính trị và vật chất của các thế lực
ngoại bang. Thế giới được đưa ra làm vật tế thần cho chế độ trung cổ tại
Trung Hoa. Thay vì nhận thức được rằng đường lối riêng của mình Trung
hoa đang thực hiện những bước tiến chậm chạp, đúng thế, đôi khi khó
khăn, tới chỗ văn minh hiện đại; thật là việc dễ dàng khi la lối lên
rằng nếu không có người ngoại quốc thì nước Trung Hoa đã ngang hàng về
mặt vật chất với các quốc gia khác rồi.
Kết
quả của việc này là một cuộc cách mạng còn nóng hổi Trung Hoa đã thực
sự rũ bỏ được hai nỗi bất bình lớn, ngoài vụ Nhật Bản ra, đó là quyền
lãnh sự tài phán và quan thuế biển. Không có sự thay đổi lớn lao nào
xuất hiện rõ ràng như một hậu quả. Người ta thấy rõ ràng những gì được
coi là yếu kém khi xưa thì nay vẫn còn là yếu kém, và những điều đó đã
ăn sâu trong ý thức hệ của dân chúng. Chẳng hạn ta thấy rằng khi một
lãnh tụ cách mạng nào đó mà địa vị đã được vững chắc, thì biến ngay ra
một kẻ bảo thủ rồi hủ bại, chẳng khác gì bọn quan liêu cũ. Mọi cách khác
thì tình hình cũng giống như thế. Trung Quốc cũng có nhiều thanh niên,
thành thật và có tri thức, biết rõ sự thực ấy, rằng thế giới bên ngoài
không can gì tới tình trạng của Trung Quốc và trước kia nếu có liên quan
thì cũng dễ ngăn chặn và dứt bỏ đi nếu Trung Quốc sớm bỏ được một chút
tính lười biếng và các lãnh tụ của họ bỏ bớt được tâm lý ích kỷ và mù
quáng.
Rồi tiếp sau là một thời kỳ thất vọng và bồng bột, sùng bái Âu
Tây một cách duy tâm hơn nữa. Sự cường thịnh huy hoàng của các cường
quốc rõ ràng là do kết quả trực tiếp của nền khoa học tiến bộ. Đó là
thời kỳ gây tự ti mặc cảm khiến bọn thanh niên ái quốc có xu hướng theo
hai đường lối: Một là uất ức chán nản về hiện trạng quốc gia; hai là
muốn che giấu người ngoài tình trạng thực tại của quốc gia mình. Sự thực
gì liên quan đến nước họ thì đừng mong tìm ở nơi họ. Họ vừa hờn giận
vừa cảm phục người ngoại quốc.
Ví
bằng các nước Âu Tây cứ giữ mãi được sự phồn thịnh và bảo vệ được hòa
bình thì tâm lý người Trung Quốc sẽ đến thế nào, điều này thật khó biết.
Nhưng thật ra, người Âu Tây cũng không giữ được tình trạng thuận lời đó
mãi mãi, thật đáng buồn thay! Người Trung Quốc có thái độ gần như khoan
khoái khi nhìn thế giới đại chiến bộc phát, các xí nghiệp phồn thịnh bị
phá tan, cuộc khủng hoảng kinh tế xảy ra, cùng những thất bại của các
khoa học gia đem tài năng ra mà không cứu vãn được các tai họa đó. Họ
bèn cho rằng dù sao Trung Quốc cũng không đến nỗi nào. Rõ ràng là ở đâu
cũng có đói kém, ở đâu cũng có cướp bóc, dân tộc này so với dân tộc kia
cũng chẳng hơn gì. Cú theo tình trạng đó mà nói thì có thể cho rằng nước
Trung Hoa thời xưa cũng khá và chúng ta cũng nên tìm hiểu trở lại các
thời đại trước xem triết lý của Trung Quốc xưa thế nào? Ít nhất triết lý
đó cũng dạy cho người ta tính điềm đạm, tri túc, vui sống với mệnh
trời, hài lòng hưởng ít khi không có được nhiều, ổn định cuộc nhân sinh
và đặt được nền tảng sống an toàn vững chắc. Gần đây người Tây phương
hứng khởi muốn nghiên cứu Trung Quốc và một số học giả Tây phương ao ước
hình thái sinh hoạt của người Trung Quốc: yên ổn vững vàng, thán phục
nghệ thuật và triết học của Trung Quốc, khiến cho thanh niên Trung Quốc
vững lòng tự tin.
Ngày
nay, kết quả rõ ràng là người ta lại nhắc lại câu cách ngôn xưa “Đời
cha ăn mặn, đời con khát nước”. Giới trẻ của nước Trung Hoa đã chán sự
hăng say làm cách mạng của ông cha họ, nên trở lại với khuynh hướng phục
cổ. Nhìn bọn họ quyết tâm, cố gắng để trở thành con người Trung Quốc
hoàn toàn, thuần túy; như họ ăn những món ăn Trung Quốc, mặc quần áo
bằng vải Trung Quốc, và sống theo nếp sinh hoạt của người Trung Quốc thì
quả thật đôi khi cũng thấy vui vui. Một số lớn thanh niên Trung Quốc đã
Âu hóa, ngày nay muốn trở lại phương thức sinh hoạt thuần túy của Trung
Quốc, gần như một “mốt” (một kiểu cách), chẳng khác gì cha mẹ họ trước
kia ưa mặc âu phục, đi giày da, ăn cơm Tây bằng dao, dĩa và muốn đi học ở
trường đại học Harvard. Bọn thanh niên này nay đã mặc âu phục, ăn cơm
Tây từ lâu và đã làm học sinh của đại học Harvard, họ tinh thông văn học
Anh quốc hơn cả tiếng mẹ đẻ, thì nay họ cảm thấy chán ngấy những cái đó
và muốn trở lại với tổ tiên mình.
Khuynh
hướng này đều hiện rõ khắp nơi, không những chỉ ở phục sức và phong
cách. Quan trọng hơn nhiều là khía cạnh nghệ thuật và văn học, ví dụ mấy
năm trước đây đề tài các tiểu thuyết mới của Trung Quốc phần lớn là nói
về các cuộc tình duyên lối mới, về các mối tình Âu-Á hay cách mạng
chống lại gia đình, cha mẹ. Toàn bộ sách có giọng điệu gần như bệnh
hoạn, thật không hợp với tình hình của Trung Quốc. Những thứ này vẫn còn
nhiều trong văn nghệ, nhưng ý hướng lành mạnh đang dần dần tới vì chúng
phát xuất từ nếp sinh hoạt kiện toàn của giới bình dân chất phác. Thanh
niên trí thức mới bắt đầu tìm ra quần chúng của họ. Họ bắt đầu hiểu rõ
cuộc sinh hoạt ở tỉnh nhỏ, ở nông thôn là cuộc sinh hoạt cố hữu và trung
thực của Trung Quốc. Nếp sinh hoạt này may mắn chưa bị pha trộn màu sắc
mới, vẫn giữ nguyên được phần bẩm tính thuần khiết, lành mạnh, chứ
không bệnh hoạn như đời sống của họ. Họ bắt đầu thấy vui sướng mà nhận
ra rằng dân tộc mình còn giữ được một nền tảng lớn lao và chắc chắn. Vì
thế, họ nhiệt thành hướng về đấy để mong tìm thấy những cảm hứng mới.
Cái đó đối với họ là những gì lạ thương, thanh cao, là thú vị, là đáng
có và nhất là nó thuần túy Trung Quốc.
Họ
tìm đến được cái quan điểm mới ấy cũng là nhờ người giúp sức. Theo tôi
hiểu nếu cứ tự họ thì hẳn cũng không có được thành tích tốt đẹp ấy nhưng
chính người Âu, Mỹ giúp đỡ họ thành công vậy. Người Âu Tây chúng ta
chẳng những giúp họ bằng cách tiêu cực là tỏ ra nền văn hóa chúng ta có
một phần nào đang đi đến chỗ tan vỡ, chúng ta lại còn giúp họ một cách
tích cực bằng khuynh hướng sống thuần phác của chúng ta. Người Âu Tây
chúng ta sốt sắng với tất cả các cuộc vận động cách mạng vô sản của nước
họ. Rồi họ bắt đầu tìm hiểu ra những tính chất tốt đẹp của người dân
nước họ, nếp sinh hoạt vẫn còn giữ được tính chất thuần khiết cố hữu
không bị xáo trộn bởi thế giới bên ngoài. Lẽ tự nhiên mỗi khi những phần
tử trí thức gặp hoàn cảnh khốn khổ, lo lắng, loạn lạc thì nếp sống an
ổn điềm tĩnh ấy rất hấp dẫn đối với họ.
Chủ
nghĩa cộng sản cũng đã giúp họ. Chủ nghĩa này đã truyền bá ý thức giai
cấp, khiến mọi người bình dân dám lên tiếng, dám đưa ra những yêu sách.
Nền giáo dục theo cách thức mới của Trung Quốc đã được phổ cập trong con
em của giới bình dân, cho bọn này một thứ ngôn ngữ để họ bày tỏ ý kiến
của họ. Những tác giả trong nhóm thanh niên khuynh tả của Trung Quốc
sáng tác những nghệ thuật văn học đều chứa đựng sự khai triển gấp rút
những nhận xét về giá trị của nam nữ thường dân trong giới vô sản. Kỹ
thuật tuy tỏ ra hơi thô xuất và còn chịu nhiều ảnh hưởng nghệ thuật
ngoại quốc, nhưng đã có ý niệm nòng cốt. Ta đã có lúc được xem những bức
vẽ theo kiểu mới, có hình một phụ nữ nhà nông chứ không phải là một con
chim nhỏ đậu đầu cành trúc; có hình một người đàn ông đang gắng đẩy
chiếc xe cút kít chứ không phải là mấy con cá vàng lượn dưới lá sen.
Có
điều người Tây phương chúng ta muốn được thấy nhóm tác giả trong hàng
ngũ mới vùng lên giải phóng này, tìm được một ngôn ngữ thành thực và rõ
ràng để nói về Trung Quốc, thì e rằng phải chờ một thời gian dài, sợ
rằng một đời chúng ta cũng không chắc gì được thấy. Nhưng đáng mừng còn
có một số tác giả đừng ngoài lề lối đó, có tinh thần mạnh mẽ đủ giúp họ
giữ gìn được sự thuần khiết không đến nỗi lạc lõng bởi những khuấy động
của thời đại, với óc hài hước tinh vi của hàng bao nhiêu đời học thức để
lại, họ im lặng thâm trầm, đủ sức nhận xét được bộ mặt thật của cuộc
sống, đủ sáng suốt để thấy rõ nền văn hóa của chính mình và nền văn hóa
của người ngoài, đủ khôn ngoan để lựa chọn những gì vốn có và vì thế mới
là thuần túy của chính mình. Tôi mong mỏi từ lâu trong thiểu số tác giả
ấy có một vị vì chúng tôi, mà viết ra một cuốn về Trung Quốc của mình,
một quyển sách thực có giá trị thấm nhuần tinh túy của nhân dân Trung
Quốc. Đã nhiều lần tôi lật dở tìm đọc loại sách viết về đề tài này, lòng
đầy nhiệt tình và hy vọng, để rồi cuối cùng lần nào cũng thất vọng vì
nó thiếu chân thật, vì nó toàn một giọng khoe khoang, vì tác giả đã quá
ân cần biện hộ cho một cái gì vĩ đại quá đến nỗi tự nó không cần ai biện
hộ. Những tác phẩm này được viết ra chỉ chuyên vào mục đích lòe người
ngoại quốc, bởi vậy đã không xứng đáng với Trung Quốc vậy.
Một
tác phẩm về Trung Quốc, xứng đáng với đề tài ấy, không thể là một thứ
tác phẩm nào những đã nói trên. Nó phải được trình bày thẳng thắn không
có ý e thẹn, vì người Trung Quốc bao giờ cũng là người khôn ngoan và sâu
sắc, được lòng người. Tác phẩm ấy lại cần có tính chất hài hước, vì hài
hước là tính thiên bẩm của nhân dân Trung Quốc, sâu sắc, dịu dàng, hiền
hòa phát sinh từ những từng trải thảm sầu, vá quan niệm vui sống hợp
với lẽ trời mà có; tác phẩm ấy lại cần có một giọng văn trôi chảy, chính
xác và đẹp đẽ, vì người Trung Quốc thường coi trọng vẻ đẹp tinh tế và
chính xác. Như thế chỉ có người Trung Quốc mới viết nổi một tác phẩm như
vậy. Nhưng tôi lại nghĩ rằng: Ở Trung Quốc khó tìm được một ai đủ khả
năng viết cuốn sách đó. Vì kiếm đâu được một tác giả người Trung Quốc
mới, viết sách bằng Anh ngữ mà không sống cách biệt quá xa với dân tộc
mình như một người ngoại quốc, và đồng thời đứng trên địa vị khá khách
quan để có thể nhận xét được toàn bộ ý nghĩa của dân tộc và thời đại của
họ.
Nhưng
quả thật không ngờ, cũng như những tác phẩm vĩ đại đã ra đời từ xưa tới
nay, cuốn “MY COUNTRY AND MY PEOPLE” bỗng nhiên xuất hiện. Nó đã làm
thỏa mãn lòng mong mỏi tha thiết của chúng ta, nó đã bày tỏ mọi vấn đề
trung thực không e thẹn một chút nào. Bút pháp lại rất hào hùng, hài
hước, nguy nga rực rỡ, thật nghiêm trang mà vui vẻ.
Đối
với thời xưa cũng như thời nay, tác giả đều thông suốt và hiểu rõ một
cách tường tận. Tôi nghĩ rằng cuốn sách này là một tác phẩm rất trung
thực, rất lớn lao, rất đầy đủ, rất trọng yếu trong những tác phẩm viết
về Trung Quốc ra đời từ trước đến nay. Lại đáng quý hơn nữa, tác giả của
nó là một người Trung Quốc, một tác giả của thời đại này có cội rễ rất
sâu ở nền tảng xưa, lại nở đầy hoa tươi ở thời đại mới.
PEARLS BUCK
BÀI TỰA CỦA TÁC GIẢ
Trong
cuốn sách này, tôi chỉ nghĩ đến sự phát biểu ý kiến riêng của mình, đó
là những gì tôi đã phải qua một thời gian dài khổ công suy nghĩ, xem đọc
và tự mình xét đón mà thu hoạch được. Tôi không tìm cách biện luận với
mọi người, cũng không muốn chứng minh các luận đề của tôi, nhưng tôi sẽ
vì quyển sách này mà được khen hay bị kết án như Khổng Phu Tử đã nói:
“Hiểu ta cũng bởi kinh Xuân Thu chăng! Bắt tội ta cũng bởi kinh Xuân Thu
chăng!”. Trung Quốc là một quốc gia rộng lớn. Sinh mệnh dân tộc nước
này có nhiều khía cạnh phức tạp, muốn trình bày thế này cũng được, ngược
lại cũng được. Vị nào muốn đưa ra một luận đề trái ngược, bỉ nhân xin
sẵn lòng cung cấp tài liệu vào bất cứ lúc nào để vị đó tiện làm công
việc ấy. Nhưng chân lý vẫn là chân lý, nó sẽ khắc phục được tất cả mọi ý
kiến riêng tư. Con người lĩnh ngộ được chân lý chỉ ở một thời gian
thoáng hiện hiếm có. Cái lĩnh ngộ trong thời gian thoáng hiện đó sẽ còn
mãi mãi, còn ý kiến riêng tư sẽ tiêu tan mất. Cho nên sưu tập đại qui mô
những tài liệu để chứng minh khiến người ta chóa mắt, chỉ đưa đến những
kết luận cũ rích mà rỗng tuếch.
Vì
vậy trình bày những chân lý đã lĩnh ngộ được, cần áp dụng một cách thức
giản dị tức là tinh tế, hơn nữa bởi vì chân lý không chứng minh được,
chỉ gội ý ra thì hiểu thôi.
Viết
cuốn sách này, tôi đã mạo phạm đến một số đông tác giả viết về loại
khảo sát Trung Quốc nhất là đồng bào và các nhà đại ái quốc của tôi nữa.
Các nhà đại ái quốc đó tôi với họ thật không có liên hệ gì vì thần
tượng họ tôn thờ không phải là thần tượng của tôi; lòng ái quốc của họ
không giống lòng ái quốc của tôi.
Có
lẽ tôi cũng yêu nước như họ, nhưng tôi thường cẩn thận che giấu không
phô bày trước mặt mọi người, là vì thường thấy có những người khoác cái
áo ái quốc đến rách tả tơi mà vẫn mặc nó tả tơi để đi diễu khắp phố
phường ở ngay Trung Quốc hay ở mọi nơi trên thế giới.
Tôi thú thật rằng, khác với các nhà ái quốc kia, tôi không thấy xấu hổ về nước tôi. Tôi có thể trình bày
tất cả những nỗi khốn khổ, đau đớn của nước tôi vì lúc nào tôi cũng vẫn
hy vọng ở nó. Trung Quốc vĩ đại hơn các nhà ái quốc nhỏ mọn của nó, vì
thế không cần bọn họ phải tô điểm cho nó. Nó sẽ tự điều chỉnh như quả
trình lịch sử đã từng cho ta nhận thấy.
Tôi
cũng không vì những nhà ái quốc Tây phương mà viết ra cuốn sách này;
nói vậy vì tôi rất sợ người ta trích dẫn những đoạn rút trong sách của
tôi mà khen, điều này còn tai hại hơn là việc quốc dân hiểu lầm tôi nữa.
Tôi
viết cuốn này để cống hiến cho hạng người thuần phác, trung thứ, đạo
trung thứ là điểm cao quý đặc biệt của Trung Quốc thời xưa mà nay như đã
mất hẳn không còn thấy nữa. Cuốn sách này của tôi chỉ có thể được hiểu
theo quan điểm thuần phác đó thôi. Những gì tôi nói, là chỉ cốt ý nói
với hạng người còn ý thức được những giá trị căn bản của loài người mà
chỉ những người này mới hiểu rõ thôi.
LÂM NGỮ ĐƯỜNG
LỜI MỞ ĐẦU
Những
nhân sĩ của các nước bạn đến ngụ ở Trung Quốc hẳn phải có cảm tưởng về
nước này bao giờ cũng đi với lòng thương xót, cũng có khi với nỗi thất
vọng, nhưng rất ít khi thấu triệu nhận rõ tình trạng Trung Quốc. Hoặc
người ta có cảm tình yêu Trung Quốc, hoặc người ta ghét Trung Quốc. Lại
nữa, một người chưa bao giờ đặt chân đến Trung Quốc, thì cũng có lúc họ
cho rằng Trung Quốc là một quốc gia rộng lớn, lâu đời ở một miền hẻo
lánh mịt mù hình như không có liên hệ gì với thế giới. Nhưng cái hẻo
lánh mịt mù ấy hình như lại có một sức hấp dẫn với mọi người. Đến một
lúc nào, đích thân họ đặt chân lên nước này, thì lại cảm thấy như bị
chìm đắm, không có ý nghĩ tìm tòi, so sánh gì hết, mà chỉ còn nhận ra
rằng có nó đó, nó là một cái gì lớn lao, lớn lao đến mức vượt hẳn ra
khỏi tâm trí con người. Nó lại giống như cái gì có vẻ hỗn độn vô lý,
tuân theo luật sinh tồn của nó, trên thân nó đã diễn ra biết bao tấn
tuồng nhân sinh vĩ đại, lúc thì buồn, lúc thì vui, nhưng lúc nào cũng
rất là thực. Sau đó, người ta không khỏi phải lạ lùng, kinh ngạc mà suy
nghĩ. Lần này thì là một phản động lực tùy theo tâm tính, nó chỉ biểu lộ
rằng người này là con người lãng mạn của chủ nghĩa đại đồng, hay là một
người kiêu căng tự phụ. Hoặc người ta yêu Trung Quốc, hoặc người ta
ghét Trung Quốc, từ đó người ta bắt đầu chứng minh. Người ta phải có một
thái độ đối với Trung Quốc để tỏ ra rằng mình là người thông minh.
Chúng ta cứ nhắm mắt tìm tòi những lý lẽ biện minh, bắt đầu kể cho nhau
nghe những mẩu giai thoại, lời dật sự, những chuyện vặt thường ngày,
những cái quan trọng ghê gớm biến ta thành triết nhân và khiến cho ta
bình thản chỉ trích cay nghiệt Trung Quốc, không bao giờ có một lời khen
hoặc là biến thành những người nhiệt tình thán phục Trung Quốc. Đương
nhiên khái quát hóa như vậy là vô lý, nhưng ở cõi đời này dư luận đều do
đường lối như vậy mà tạo ra, thế thì tình trạng trên không thể tránh
được. Thế rồi hai bên tiến đến chỗ tranh luận. Có một vài ông anh sau
khi kết thúc cuộc bàn cãi, hoàn toàn tự mãn cho rằng mình hiểu biết rất
chính xác về Trung Quốc và người Trung Hoa. Những con người đó là những
người sung sướng cầm quyền thống trị cả thế giới, là bác nhà buôn mang
hàng hóa nước này nhập cảng nước kia và bao giờ cũng phải. Một số người
khác thì lại buồn phiền bởi những điểm nghi ngờ phân vân sinh ra cảm
giác e ngại rụt rè hỗn loạn, hoặc có cảm giác e ngại rụt rè bởi những gì
thần bí khó hiểu, thành ra cứ lẩn quẩn mãi. Nhưng tất cả chúng ta đều
cảm thấy rằng Trung Quốc có đó, thế thì Trung Quốc là một Dasein(1) vĩ
đại huyền bí.
Trung
Quốc rõ ràng là một thực tại lớn lao khó hiểu của thế giới hiện đại chỉ
vì nó đã lâu đời già nua quá hay lãnh vực nó bao la quá.
Trung
Quốc hiện nay là một trong những quốc gia lâu đời nhất, mà vẫn giữ một
nền văn hóa cổ truyền, liên tục nhất quán; nó lại có một dân số rất lớn
so với các nước trên thế giới; nó đã có lúc là một đế quốc lớn mạnh dòm
ngó cả hoàn cầu, đã có lúc chiến thắng các dân tộc khác; đã cống hiến
cho thế giới một vài phát minh trọng yếu; nó có nền văn chương và nhân
sinh quan của nó. Ở địa hạt nghệ thuật, nó đã tung cánh bay cao trong
khi các dân tộc khác còn tập vỗ cánh bay chuyền. Thế mà ngày nay, rõ
ràng nó là một quốc gia hỗn loạn nhất, thất bại nhất trên hoàn cầu, nó
cũng rất thê thảm, khốn cùng, bất lực, khó có thể trấn định tinh thần mà
tiến được. Thượng đế - nếu thật có Thượng đế - định cho nó là một dân
tộc vào hạng nhất trong hoàn vũ nhân quần, nhưng trong Hội Quốc Liên nó
được xếp vào hạng bét ngang hàng với xứ Guatemala, một quốc gia nhỏ ở
Trung Mỹ. Mà mặc dù rõ ràng là Hội Quốc Liên đã có lòng tốt hết sức nâng
đỡ nó, cũng không thể giúp nó chỉnh đốn lại nội bộ, dẹp được nội chiến,
cứu nó ra khỏi thay bọn chính khách, văn nhân, quân phiệt và cách mạng
của nó.
Đồng
thời – một hiện tượng gần như rất lạ lùng – nó không bao giờ tìm đường
tự cứu. Có thể vì nó như một con bạc lõi đời đương ngồi trong canh bạc,
có lúc nó bỏ mất miếng đất to gần bằng nước Đức, mà vẫn thản nhiên như
thường, không tỏ thái độ gì cả. Khi tướng Thang Ngọc Lân ở Nhiệt Hà rút
binh một cách mau lẹ phá kỷ lục thế giới, trong tám ngày bị mất một vùng
đất rộng lớn tới năm mươi vạn cây số vuông, trong lúc đó ở mặt Tứ
Xuyên, hai ông đại tướng là chú cháu với nhau đang xua quân đánh lộn
kịch liệt. Người ta tự hỏi hay là Thượng đế sẽ an bài hay là Thượng đế
tự tay sẽ giúp Trung Quốc trở thành một dân tộc vào hạng nhất mặc dầu
Trung Quốc muốn hay không như vậy.
Có
một mối nghi ngờ nảy ra trong lòng người là vận mệnh Trung Quốc rồi đây
sẽ ra sao? Nó có thể tồn tại được như trong quá khứ không? Một quốc gia
già nua nào đã làm được như vậy không? Thượng đế có thực lòng thành
toàn cho nó trở nên một dân tộc vào hạng nhất không? Hay muốn nó chỉ là
một “thai nhi đẻ non của bà lão địa cầu”?
Nó
đã có lúc nắm được quyền uy chí tôn, đã có lúc hào hùng chiến thắng.
Đến ngày nay, hình như vận mệnh của nó chỉ còn là sống sót và người ta
chỉ còn niềm tin vào khả năng sống sót đó thôi, khi người ta nhớ ra là
nó còn sống sót trong khi văn minh Hy Lạp sán lạn, những vinh quang của
La Mã hiển hách đã mất từ lâu rồi; chúng ta hẳn cũng nhớ rằng Trung Quốc
đã đồng hóa tư tưởng, hành vi của các dân tộc ngoại lai như thế nào, đã
thu hút huyết thống của các dân tộc ấy ra sao. Cái sự kiện nó tồn tại,
cái lịch sử dài lâu kia, thật rõ ràng là những điểm làm chúng ta phải
suy nghĩ kỹ. Đối với một quốc gia cổ kính, hẳn rằng ta cũng phải có một
niềm tôn kính tương đương thành thật, cũng như kính trọng một người già
đầu râu tóc bạc. Phải, dù chỉ là với mội người già lão, dù chỉ là còn
sống sót mà thôi.
Cho
rằng Trung Quốc có khuyết điểm cả về mọi mặt, nhưng nó vẫn có một bản
năng sinh hoạt rất mạnh, một sức sống bền bỉ khác thường, không thể chối
cãi được. Nó đã phát triển hết mức cái bản năng sinh hoạt của nó; nó
theo thời mà biển đổi cho thích ứng với hoàn cảnh kinh tế, chính trị, xã
hội của nó, những hoàn cảnh đã làm sụp đổ các chủng tộc khác, kém mạnh
mẽ phải diệt vong. Nó được hưởng những ân huệ của thiên nhiên ban cho,
nương tựa vào những núi non hoa cỏ tươi đẹp đẽ di dưỡng tính tình và đạo
đức. Nhờ vào cái hoàn cảnh thiên nhiên đó mà nó giữ gìn được tâm linh
thuần khiết, kiện toàn, tránh cho chủng tộc khỏi bị thoái hóa về những
phương diện chính trị và xã hội. Nó không sống yên lặng trong cái bãi
hoang rộng của đại tự nhiên, ban ngày nó tắm gội trong ánh sáng mặt trời
đầm ấm, buổi chiều nó ngắm vẻ đẹp của dáng trời mây nổi, thân nó thấm
nhuần mưa móc ban mai, thở hít hương thơm của ngũ cốc; nương tựa vào
những gì nên thơ của nó; những bài thơ nói lên sinh hoạt tập quán, cũng
như những bài thơ miêu tả hoặc đầy lời hoa mỹ, nó hiểu rõ cách di dưỡng
để làm lành nhũng vết thương mà linh hồn nó đã nhiều lần bị tổn hại đau
đớn. Nói một cách khác rõ hơn, nó sống được đến cái tuổi già nua như vậy
cũng nhờ bằng một phương pháp giữ gìn sức khỏe như một cá nhân, nó biết
sinh hoạt ngoài trời, để thâu nhận lấy ánh nắng và không khí trong
sạch. Nó đã trải qua những thời kỳ gian nan, khốn khổ, những cuộc chiến
dằng co qua lại, cũng những tai ương dịch tễ, rồi còn biết bao nhiều
thiên tai nhân hại khác. Những lúc đó nó có một thái độ hơi hài hước,
thô bạc và cuối cùng dẹp được loạn lạc, giết được kẻ cường bạo, để trở
lại nếp sống bình thường. Phải, tuổi già dù chỉ là tuổi già thôi cũng
đáng cho ta phải lấy làm kỳ lạ rồi!
Bây
giờ nó đã đến tuổi kỳ di vượt trên mọi thống khổ về tinh thần và thể
xác, nhưng thường vẫn có người cho rằng như vậy là tuyệt vọng, là hết
phương cứu chữa. Bởi người ta nghĩ rằng: Với tuổi tác ấy, đó lại là một
sức lực chăng? Hay chỉ là một thể chất yếu hèn, hủ bại? Trung Quốc hình
như có thái độ thách thức thế giới này, nó lãnh đạm đối với các dân tộc
khác. Điều này thực do tuổi tác già nua của nó cho phép. Dẫu rằng gặp
bước thế nào, nếp sống bình tĩnh của nó không bao giờ bị tao nhiễu mà
vẫn êm đềm vượt qua, không lẩn tránh u sầu, thống khổ mà cũng không bị
dao động bởi hư vinh hay khuất nhục. Những tình cảm nhỏ nhoi chỉ đủ sức
làm dao động những tâm linh ấu trĩ mà thôi, chẳng hạn như khoảng hai
trăm năm vừa qua, có khi bị đe dọa hủy diệt, tiêu ma cả uy thế, nhưng
không vì thế mà nó sợ hãi. Thắng lợi hay thất bại không lai được lòng
nó; tai ách, thống khổ, chết chóc đối với nó mất hết năng lực kích
thích; cho nên sinh mệnh dân tộc, trong khoảng hai trăm năm, có nằm
trong vòng đen tối, nhưng tất cả đều không có nghĩa lý gì. Cũng như ở
hình ảnh đại dương trong văn chương của Nietzsche: Đại dương lớn hơn tất
cả các loài cá, các loài sò ốc tôm cua và các con sứa nuốt, lớn hơn bùn
lầy rác rưởi vứt xuống mình nên đại dương chứa đựng được tất cả, không
từ chối bất cứ vật gì chảy vào. Cũng như biển cả, Trung Quốc lớn hơn tất
cả những lời tuyên truyền mang tính cách phỉ báng, méo mó lệch lạc của
bọn du học sinh về nước; lớn hơn tất cả cái tham tàn của bọn quan lại,
bọn tướng tá phản loạn, bọn cách mạng ba phái, bọn giả đạo đức; lớn hơn
tất cả mọi thứ bần cùng đói kém. Nó đã chấp nhận được tất cả mọi khó
khăn khổ cực để trường tồn. Sống trong phản loạn, chiến tranh, đàn con
cháu nghèo khổ vây xung quanh, lão già Trung Quốc lụ khụ kia, vẫn vui vẻ
ung dung nhấm nháp chén trà thơm; tủm tỉm nụ cười, trên nụ cười ấy ta
thấy sức mạnh thực sự hay đôi khi ta nhận thấy vẻ lười biếng không chịu
cải cách hoặc thấy phong vị đặc biệt của tính bảo thủ cao ngạo. Lười
chăng? Cao kỳ ngạo nghễ chăng? Thật khó hiểu. Chẳng qua ở tâm linh nó
hình như có ẩn nấp cái vẻ tinh khôn của một con chó già, một vẻ tinh
khôn huyền diệu làm kinh động mọi người. Tâm linh già nua kỳ lạ biết
bao! Vĩ đại biết bao!
Những
cái vĩ đại đó phải trả giá thế nào? Carlyle hình như đã nói tới ở một
chỗ nào rằng cái ấn tượng đầu tiên trước một nghệ thuật thực sự vĩ đại,
thường làm cho người ta thất thần đến độ cảm thấy đau đớn. Cho nên số
mệnh của vĩ nhân là sẽ bị người ta hiểu làm. Số mệnh Trung Quốc cũng
vậy. Trung Quốc đã có lúc bị người ta hiểu lầm một cách hùng tráng vĩ
đại. Hai tiếng “vĩ đại” thường là một danh từ đặc biệt, chuyên dùng để
chỉ những sự vật mà chúng ta không hiểu rõ và muốn dứt cho xong. Tuy
nhiên. ở giữa hai đường, một là được người ta hiểu rõ và hai là được gọi
là vĩ đại, thì Trung Quốc mong được người ta hiểu rõ, và như thết thì
càng tốt hơn nữa cho mọi người. Nhưng mà làm sao cho người ta hiểu rõ
Trung Quốc được? Ai chịu đứng giữa để làm công việc chuyển dịch? Trung
Quốc có một lịch sử lâu dài như thế, trong khoảng ấy đã có biết bao
nhiêu vua thánh chúa hùng, hiền triết thi nhân, thầy hay trò giỏi cho
đến những bà mẹ hiền, những cô gái giỏi giang; có một nền văn nghệ,
triết học cố hữu, một nghệ thuật hội họa, hý kịch đặc biệt, mang lại cho
người dân ý thức đạo đức, phân biệt được thiện ác, thêm vào đó còn
không biết bao nhiêu văn học của giới bình dân, những ca dao, tục ngữ.
Nhưng chỉ vì vấn đề ngôn ngữ bất thông tạo ra một hàng rào ngăn cách khó
lòng vượt qua. Có thể nào Trung Quốc được hiểu qua tiếng Anh bồi. Có
thể nào các tay “Hoa học chuyên môn” tìm hiểu được tiếng Trung Quốc qua
miệng một anh bồi bàn, một anh chạy hàng xách, một anh thợ bạc? Hay đọc
mục thông tin của báo North China Daily News để tìm hiểu chăng? Những ý
kiến này rõ ràng không thích đáng rồi.
Chắc
chắn là muốn tìm hiểu rõ ràng một dân tộc khác và nền văn hóa rất khác
của nó, chẳng hạn như Trung Quốc khác hẳn với mình thì công việc đó
không phải một người thường làm nổi. Vì công việc này đòi hỏi một tình
giao hữu rộng rãi, một lòng bác ái giữa loài người với nhau. Kẻ làm công
việc này mỗi bước tiến tất phải dựa theo lý lẽ của trái tim, lấy cái
nhìn của tâm linh để cảm ứng. Ngoài ra, phải gạt bỏ hết mọi ý kiến riêng
tư, những thành kiến đã ăn rễ từ thuở nhi đồng, những ấn tượng đã in
sâu ở tuổi thành nhân, những ý nghĩa của những từ ngữ viết hoa như “Dân
chủ”, “Phồn vinh”, “Tư bản”, “Thành công”, “Tôn giáo”, “Lợi tức” v.v… Và
cũng không thể để người nghiên cứu xa cách hẳn với quốc gia mình đang
tìm hiểu. Kẻ này một mặt cần có một quan niệm siêu việt, một mặt cần có
một tấm lòng thuần phác. Tấm lòng thuần phác đó đã được đại thi gia
Robert Burns nêu ra điển hình rõ ràng, nhà thơ đó đã lột trần tinh thần
chúng ta, bày tỏ rõ tính cách chung của con người từ tình yêu đến ưu tư.
Phải giữ tấm lòng khoáng đạt và thuần phác thì một cá nhân mới có thể
nhìn rõ nội dung một dân tộc khác.
Trở
lại vấn đề, vậy ai sẽ làm công việc truyền bá và thông dịch đó? Vấn đề
này hình như là một vấn đề nan giải. Số học giả ở hải ngoại tinh thông
học thuật Trung Quốc, cùng những nhân viên quản lý thư viện, họ là những
người chỉ nhìn Trung Quốc qua những cảm tưởng đã thâu nhận được trong
kinh sách đạo Khổng, thế thì tất nhiên họ không phải là người xứng đáng
gánh cái công việc ấy. Một người gốc Âu Châu sống ở Trung Quốc, họ sẽ
không nói tiếng Trung Quốc mà một người thuần túy họ cũng không nói
tiếng Anh. Một người Âu Châu, nếu nói tiếng Trung Quốc rành rẽ, tâm lý
tập quán sắp trở nên đồng hóa với người Trung Hoa, sẽ bị người bản quốc
coi là kỳ quái. Người Trung Quốc nếu nói tiếng Anh rất sành sõi, tâm lý,
tập quán giống hẳn như người Âu Tây, thì người đó sẽ bị đồng bào cho là
mất gốc, hoặc là họ không biết tiếng Trung Hoa, hoặc giả là biết nhưng
nói toàn giọng Anh. Những hạng người này đương nhiên ta không thể trông
mong gì vào họ. Chúng ta đã phải lạo bỏ tất cả những người đó, thế tất
nhiên chúng ta đành nhờ vào các nhà “Hoa học chuyên môn” và tùy thuộc
vào trình độ hiểu tiếng Anh bồi của họ.
Loại
này, chúng ta hãy dừng lại ở đây để phác họa anh ta vì anh ta là người
duy nhất có uy tín về vấn đề Trung Quốc của các bạn. Arthur Ransome đã
từng miêu tả một nhân vật như vậy. Nhưng theo tôi nghĩ hẳn là một nhân
vật hoạt bát, chúng ta có thể dễ dàng hình dung ra được nhưng nhất là
đường sai lầm về hắn. Hắn có thể là một nhà truyền giáo hay một thuyền
trưởng, hoa tiêu hay một bí thư lãnh sự quán, cũng có thể là anh chủ
hiệu bụng phệ. Đối với anh này Trung Quốc là thị trường để tiêu thụ cá
mồi và cam Mỹ. Hắn không hẳn là người thất học; thực ra hắn có thể là
một ký giả xuất sắc của một tờ báo, một mặt chú trọng vào những hoạt
động cố vấn chính trị, một mặt làm trung gian vay mượn để lấy hoa hồng.
Trong vòng giới hạn của mình, có khi hắn nhặt nhạnh được khá nhiều tin
tức; nhưng cái giới hạn là hắn không hiểu quá ba chữ trong tiếng Trung
Hoa và nhờ cậy vào những bạn bè Trung Quốc hiểu biết tiếng Anh để họ
cung cấp cho hắn tài liệu. Nhưng hắn vẫn tiếp tục công việc của hắn; hắn
đánh golf vì đánh golf khỏe người. Hắn nhấm nháp trà Lipton đọc “North
China Daily News” và nổi lòng công phẫn vì các tin cướp bóc, bắt cóc,
nội chiến khiến cho bữa ăn sáng mất ngon. Hắn bao giờ ũng mày râu nhẵn
nhụi, áo quần bảnh bao hơn hẳn bạn bè Trung Quốc, đôi giày được đánh
bóng hơn lúc hắn ở nước Anh, việc này cũng chẳng có gì đáng khen cho hắn
vì bồi Trung Quốc đánh giày rất giỏi. Mỗi buổi sáng ở nhà đến sở đi xe
thẳng độ ba bốn dặm Anh, và tin rằng mình cần phải chiếu cố đến bữa trà
của cô Smith. Trong huyết quản hắn không chắc có một chút máu quý tộc
nào, trong phòng khách của hắn cũng không có tranh vẽ hình tổ tiên bằng
sơn dàu, nhưng hắn có thể tìm tòi từ lịch sử thượng cổ đến thời đại
nguyên thủy hoang vu, để chứng minh rằng tổ tiên xưa vốn là quý tộc,
điều này làm cho người hắn nhẹ nhõm quên tất cả những nỗi bực bội, buồn
phiền để nghiên cứu Trung Quốc. Tuy vậy cũng có những lúc hắn cảm thấy
khó chịu mỗi khi hắn có việc phải đi qua các phố Trung Quốc, ở đó có
biết bao nhiêu con mắt của những người khác chủng tộc, chăm chú nhìn hắn
lén lút chiếc khăn tay xì mũi ầm ĩ rồi mạnh dạn đi mau trong khi đó sợ
hãi mất mặt. Hắn nhìn lướt qua làn sóng người mặc áo màu xanh. Hắn cảm
thấy hình như mắt của đám người này không đến nỗi xếch như người ta
thường vẽ ở bìa những cuốn tiểu thuyết ba xu. Bọn người này có thể đâm
lén sau lưng người ta chăng? Giữa ban ngày bạn mặt này, hắn không thể
tin là có chuyện đó xảy ra, nhưng ai biết đâu! Tất cả những khí phách
của con người thể thao mà hắn đã rèn luyện được ở bãi đánh cầu bây giờ
bỗng nhiên biến đâu mất cả. Hắn nghĩ rằng thà bị một gậy đánh cầu nện
mạnh vào sọ còn hơn phải đi qua con đường phố quanh co này lần nữa. Quả
thực đây là một cơn sợ hãi, nỗi sợ hãi của người nguyên thủy trước cái
gì xa lạ.
Tuy
vậy nhưng đối với hắn không phải chỉ đơn thuần như vậy. Chính vì lòng
“nhân từ” hắn không nỡ nhìn cái quang cảnh nghèo nàn sầu khổ, không nỡ
ngồi yên trên chiếc xe kéo nhìn “Con ngựa người” kéo nặng rạp mình xuống
đất; vì thế hắn cần phải ngồi xe hơi. Xe hơi không phải chỉ là một đồ
vật thay bước chân, mà còn là một cái ụ nấp có mui che chở hắn từ chỗ ở
đến bàn giấy, bởi chiếc xe che chở khiến hắn và cái xã hội Trung Quốc
cách biệt hẳn ra. Hắn không muốn rời bỏ chiếc xe, cũng như hắn không
muốn rời bỏ ý nghĩ văn minh của hắn. Trong lúc uống trà, hắn nói với cô
Smith rằng chiếc xe hơi ở trên đất Trung Quốc này không phải là một vật
xa xỉ mà là một vật cần thiết. Mỗi ngày lái xe ba dặm Anh từ chỗ ở đến
phòng làm việc, trái tim khép chặt của hắn cất kỹ trong cái lồng kính,
ngụ cư trên đất Trung Quốc hai mươi lăm năm, chưa có một ngày nào sống
ra ngoài lề lối đó. Tuy vậy, khi hắn trở về Anh-Cát-Lợi. hắn tuyệt nhiên
không bao giờ nhắc đến tình hình ấy. Hắn viết thơ gởi cho tờ “Times” ở
Luân Đôn. Trong thơ hắn tự xưng mình là một “lữ khách kiều cư ở Trung
Quốc hai mươi lăm năm”. Nghe rất oai. Lẽ tất nhiên, hắn nhất định phải
biết rõ về những điều gì hắn nói.
Thường
ngày hắn chỉ dong ruổi trong khoảng ba dặm Anh, trừ khi nào phóng người
đi chơi ở đồng quê Trung Quốc. Như thế là ở giữa chỗ rộng rãi và hắn
cũng có cách tự vệ. Nhưng về điểm này thì hắn lầm, vì có ai đánh đâu mà
phải tự vệ. Hắn cũng biết vậy, bởi thế hắn chỉ nói giọng đó khi đi xem
đá bóng. Hắn chưa từng quan tâm tới một gia đình Trung Quốc nào và
thường lẩn tránh các quán ăn Trung Quốc; hắn cũng chưa từng đọc đến một
trang báo Trung Quốc. Chiều tối, hắn đến ngay một quán rượu xa hoa danh
tiếng nhất thế giới nhấm nháp rượu cốc tai, nhặt nhạnh những mẩu chuyện
lăng nhăng vô căn cứ, uống cho đến say, người bạn ngồi cùng bàn nói thao
thao về chuyện bờ biển Trung Hoa như đọc một quyển Sơn Hải kinh, mà
những điều nói ra toàn là những truyền thuyết từ xưa mà có, tài liệu nào
cũng từ thế kỷ 17 do người Bồ Đào Nha vượt bể Trung Quốc truyền lại.
Hắn hậm hực rằng Thượng Hải không phải là Sussex và thường hắn ăn nói
hệt như thể hắn đang ở nước Anh. Hắn sung sướng khi biết
rằng người Trung Hoa đã bắt đầu ăn tết Giáng sinh, nhưng hắn vẫn lấy làm
lạ tại sao người Trung Quốc lại không biết tiếng Anh. Còn những lúc hắn
đi ngoài phố, dáng điệu dương dương rất cao bước, dưới mắt coi như
không có người Trung Quốc, nếu chẳng may có dẫm chân vào kẻ khác thì hắn
cũng chẳng nói lấy một tiếng “sorry” dù là bằng tiếng Anh, Pháp, hắn
chưa học lấy mấy câu Hoa ngữ khách sáo ứng dụng cho người lữ khách đi
qua xứ này tương đương với mấy tiếng “danke sehr. Hitte schon và
verzeihen Sie” mà hắn chỉ phàn nàn người Trung Hoa luôn có óc bài ngoại
và giận về sự thiêu hủy Di Hòa Viên sau loạn Quyền phỉ năm Canh Tý 1900
vẫn chưa làm cho người Trung Quốc mở mắt. Hắn thấy thất vọng. Đó! Nhà
khoa học có uy tín của các bạn đó. Ôi! Biết bao giờ mới thắt được giải
đồng tâm cho nhân loại!
Những
điều trên đây đều là những điều người ta thừa hiểu; nó rất tự nhiên,
chẳng lạ lùng gì; nếu nó không có can hệ tới ý kiến của người Tây phương
về Trung Quốc thì hẳn tôi không phải phí giấy mực mà kể ra ở đây. Các
bạn chỉ cần nghĩ đến cái khó khăn về ngôn ngữ. Văn tự Trung Quốc thật là
khó học lại còn tình trạng hỗn loạn về chính trị, học thuật, văn
chương, nghệ thuật ở Trung Quốc ngày nay đến những điều khác biệt sâu xa
giữa văn hóa Tây phương và Trung Quốc cũng phải được nhận định rành rẽ
mới dủ nói rằng hiểu rõ về Trung Quốc được.
Cuốn
sách này có thể nói là một thiên đáp án đối với những người hiểu lầm về
Trung Quốc, nó sẽ căn cứ vào những điểm lý giải khá cao để tìm ra những
câu trả lời tạm đúng.
Còn
một số người tự mệnh là Hoa học chuyên môn, nếu họ muốn tiếp tục viết
những tác phẩm hay những bài văn ngắn về Trung Quốc thời ta cũng không
thể vì cớ họ không biết văn tự Trung Quốc mà can thiệp vào quyền tự do
sáng tác của họ được. Tóm lại, những cuốn sách và những đoạn văn đó chỉ
nên dùng làm tài liệu cho những cuộc nhàn đàm ở phòng trà quán rượu mà
thôi.
Tuy
vậy cũng có những trường hợp ngoại lệ như Robert Hart và Bertrand
Russell họ đã có thể thấy ý nghĩa trong một phương thức sinh hoạt khác
hẳn với sinh hoạt bản thân họ. Nhưng có được một Hart thì đồng thời lại
có hàng vạn Rodney Gilbert; Có được một Russell thì lại có hàng vạn
H.G.W.Woodhead. Kết quả là không đứt được những chuyện có tính cách hài
hướng, khinh thị người Trung Hoa. Những câu chuyện này nội dung sai
lệch, ngây thơ nhưng người Tây phương lại thích nói tới, có thể nói rằng
những chuyện này là tiếp nối truyền thống dã sử do những tay thủy thủ
Bồ Đào Nha để lại, có khác chăng là đã bỏ hết giọng nói hạ lưu của bọn
thủy thủ thời đó mà thay bằng lối nói khác, nhưng vẫn giữ nguyên những ý
nghĩ thấp kém bản thỉu của bọn thủy thủ đó.
Người
Trung Quốc cũng có lúc nảy ra ý tự hỏi tại sao bờ biển Trung Quốc chỉ
có thể hấp dẫn được một bọn hàng hải hạ lưu và một số nhà thám hiểm?
Muốn trả lời rõ ràng câu hỏi này, tốt hơn hết hãy đọc một vài cuốn trong
tác phẩm của HB Morse viết về Trung Quốc (Morse đã từng làm việc ở các
miền cửa biển, miền quan ải Trung Quốc, đã viết nhiều cuốn về vấn đề
nghiên cứu Trung Quốc. Trong số đó có cuốn nhan đề là “Sự quan hệ giữa
Trung Quốc với quốc tế” là nổi tiếng nhất). Sau đó mới tìm hiểu ngược
lên đến cái pháp bảo gia truyền của bọn hàng hải có dây dưa tới hiện đại
thế nào, cũng là xét rõ cái tầm mắt của bọn người Bồ Đào Nha xưa với
bọn Hoa học chuyên môn ngày nay giống nhay thế nào, rồi xét đến những gì
lợi hại có quan hệ đến họ, quá trình đào thải tự nhiên và áp lực hoàn
cảnh đã khiến họ phải đi xa nghìn dặm, vì đâu họ phải phiêu lưu đến xứ
này, tấp nập không ngừng, liền vai khít cánh chen nhau đến cái góc địa
cầu này. Vàng và phiên lưu đã khiến Kha Luân Bố, một nhà hàng hải mạo
hiểm trứ danh nhất của họ, phải tìm đường biển sang Trung Quốc.
Do
đó người ta mới hiểu rõ thực chất về sự tiếp nối đời đời đó mới hiểu rõ
tại sao truyền thống hàng hải Kha Luân Bố phát triển vững chắc tiếp tục
mãi đến nay và người ta mới nảy ra ý nghĩ thương hại Trung Quốc; thương
hại rằng không phải là vì những đức tính tốt của xã hội Trung Quốc; mà
chính là vàng và mãi lực của nó đã hấp dẫn người Tây phương đến bờ biển
viễn đông này. Thế là vàng và lợi đã khóa chặt người Tây phương và người
Trung Quốc lại với nhau, rồi lôi nhau xuống cái vòng xoáy thấp hèn, nhơ
bẩn, tuyệt nhiên chẳng có một chút tinh thần nhân đạo nào trong sự kết
hợp này. Chính bọn họ - người Trung Hoa và người Anh – đều không nhận ra
sự thực đó, vì thế người Trung Hoa thường chất vấn người Anh là nếu
ghét xã hội Trung Hoa thì sao không ra khỏi Trung Quốc; người Anh cũng
có lúc hỏi lại người Trung Hoa là sao không ra khỏi mảnh đất tô giới;
kết quả là hai bên cũng chẳng biết trả lời ra sao. Nguyên do chỉ tại
người Anh chưa bao giờ buồn làm cho người Trung Hoa hiểu rõ về mình, mà
con người Trung Hoa lại càng không thèm nghĩ đến phải làm thế nào để
mình được người Anh hiểu rõ.
o0o
Nhưng
người Trung Hoa liệu có hiểu rõ mình không? Họ có thể gánh vác được
trách nhiệm làm một nhà truyền dịch xứng đáng cho Trung Quốc không? Sự
“sáng suốt biết mình” là điều mà ai cũng thấy là tương đối khó khăn, khi
hoàn cảnh lại đòi hỏi một óc phê bình lành mạnh và sáng suốt. Cái khó
khăn về ngôn ngữ đối với người Trung hoa được học tập đến bậc khá cao
thì không còn là vấn đề trở ngại nữa, ngược lại lịch sử lâu dài Trung
Quốc là vấn đề tương đối khó thấu hiểu hơn; về nghệ thuật, triết học,
thơ văn, kịch hát cũng không dễ gì thông suốt được để có một nhận thức
xác đáng; rồi đến các bạn bè, đến người hành khách thường cùng đi trên
xe điện, rồi đến ông bạn cùng học lúc thơ ấu, nay đang làm ra bộ cầm
chính quyền một tỉnh, đối với kẻ làm công việc truyền dịch tất cả những
người đó đều không khoan dung được.
Những
chi tiết gần gũi, thường che mắt nhà quan sát ngoại quốc, cũng làm khốn
cả một anh thanh niên thời mới của Trung Quốc. Có thể thái độ trầm lặng
lạnh lùng của anh thanh niên thời mới kia thua kém nhà nghiên cứu ngoại
quốc, cũng chưa biết chừng. Trong lòng anh ta chất chứa một hay nhiều
điều vật lộn giằng xé đau buồn không bỏ đi được. Ở anh ta có một Trung
Quốc lý tưởng và một Trung Quốc hiện thực, giữa hai cái đó đã có một sự
mâu thuẫn rồi lại còn một tâm lý tự tôn từ tổ tiên truyền lại với một
tâm lý hâm mộ người ngoài mới nảy ra trong nhất thời, giữa hai điều này
lại có một sự mâu thuẫn mạnh hơn nữa. Linh hồn anh ta bị dằn vặt giằng
xé giữa hai mâu thuẫn cực đoan và chịu sự dày vò của chúng. Một đằng
trung thành với cái nước Trung Hoa già nua kia, nửa do nhiệt tình lãnh
mạn, nửa do ý tự tư; một đằng khác trung thành với trí tuệ khai phóng,
nó đang mong mỏi một cuộc cách mạng xã hội, làm sao có một lần không
nương tay quét sạch hết những gì cổ lỗ hủ bại, nhơ nhớp, ghẻ lở đó đi.
Có khi sự mâu thuẫn phát sinh ra giữa tâm lý hổ thẹn và tâm lý tự tôn,
mâu thuẫn này lại càng trọng yếu, vì nó giới hạn đơn thuần trong ý thức
trung thành với gia tộc, và nỗi hổ thẹn về sự việc trước mắt, chính là
những bản năng tốt lành. Cũng có lúc tâm lý tự tôn từ tổ tiên truyền lại
chiếm được uy thế, nhưng lòng tự tôn chính đáng và óc phản động chỉ
cách nhau một đường tơ kẽ tóc. Cũng có lúc lòng hổ thẹn của anh ta chiếm
ưu thế, nhưng nguyện vọng chân thành thiết thực đổi mới cùng với lòng
sùng bái theo thời nông nổi, cũng chỉ cách nhau một ly mà thôi; lầm lẫn
là hỏng cả. Muốn tránh được mâu thuẫn đó thực không phải là việc dễ.
Vậy
ta phải làm thế nào để nắm được một quan niệm hiểu biết nhất trí? Lấy
thái độ phê bình chân chính thành thật hợp với con mắt nhận định sự vật
tinh tường, dùng tâm linh để quan sát, dùng trí tuệ để suy tư, phối hợp
tất cả những điều đó tạo nên một cảnh giới thần diệu, không phải nhờ vào
chắp nhặt từng câu từng ý mà đến được điểm đó. Bởi làm công việc ấy
chính là việc cứu vãn một nền văn hóa xa xưa, cũng như việc sắp đặt đồ
gia bảo và ngay đến con mắt kẻ sành sỏi cũng bị che mờ, bàn tay có lúc
bù trừ không quyết định được. Việc làm này đòi hỏi can đảm, lại cần có
một đức tính hiếm có là lòng thành khẩn cũng một đức tính hiếm có hơn
nữa là óc luôn luôn có gắng biện luận.
Lấy
một thanh niên Trung Quốc so với một nhà nghiên cứu ngoại quốc làm công
việc này, người thanh niên Trung Quốc vẫn có ưu thế hơn. Vì hắn là
người Trung Quốc nên chẳng những có thể dùng tâm linh để quan sát, lại
còn có thể dùng trí tuệ để suy nghĩ nữa, hắn lại biết rằng trong huyết
quản mình có dòng máu tự tôn và hổ thẹn dồn chảy đều đều, đó là máu
người Trung Quốc. Dòng máu đó là một thần bí trong cái thần bí mang
trong cơ cấu sinh hóa, quá khứ và tương lai của Trung Quốc, mang theo
tất cả những gì vinh quang hay sỉ nhục của Trung Quốc. Đến đây cái so
sánh với việc xếp đặt bảo vật gia truyền không còn thích hợp và hoàn
toàn đúng nữa vì cái tính chất di truyền của dân tộc nằm ngay trong
huyết quản hắn là một phần trong cơ thể hắn. Hắn có thể tập chơi đá
banh, như người Anh, nhưng thực tâm hắn không thích đá banh, hắn có thể
trọng năng suất của người Mỹ, nhưng thực lòng hắn phản đối; hắn có thể
thường dùng khăn ăn khi ngồi vào bàn nhưng thực lòng hắn không ưa; qua
khúc nhạc của Schubert hay Brahms hắn nghe thấy tiếng vọng của một điệu
dân ca thời cổ, hay một điệu tình ca của đứa mục đồng đang gọi hắn trở
về. Rồi không ngăn nổi được sự kích thích của điệu tình ca cố quốc ấy,
tâm linh hắn bỗng cảm thấy hồn cố quốc bừng dậy. Hắn tìm hiểu và thấy
rằng văn hóa Tây phương tốt đẹp rạng rỡ, nhưng hắn quay về Đông phương
khi tuổi hắn đã gần bốn chục, dòng máu Đông Á trong người hắn đã thắng.
Nhìn bức ảnh phụ thân đội mũ xường chỉ bằng doạn, bỗng một xúc cảm khiến
hắn bỏ ngay bộ Âu phục, thay bằng chiếc áo dài và đôi giày vải; chao
ôi! Không ngờ lối ăn vận này lại rộng rãi dễ chịu và trang nhã như vậy!
Thế lại mặc cái dài kiểu Trung Quốc, đi đôi giày vải, hắn cảm thấy tâm
hồn thư thái. Từ đó hắn không những nhận ra rằng cái “cổ dề” của Tây
phương không có nghĩa lý gì mà còn tự trách không hiểu tại sao trước kia
mình đã đeo nó được lâu đến thế. Từ đó hắn không thích đá banh nữa mà
hắn bắt đầu tập luyện phương pháp thể thao Trung Quốc; hắn rong chơi
trong bãi dâu rừng trúc; nghỉ mát dưới bóng thông rặng liễu, những hàng
động này không giống như quan niệm của người Anh về một cuộc tản bộ ở
đồng quê; mà nó hàm súc một ý nghĩa ngao du hoàn toàn có tính cách Đông
phương, có ích lợi cho thể xác mà cũng bổ ích cho tinh thần nữa. Hắn cảm
thấy ghét cái chữ tập luyện (Exercise). Tập luyện cái gì đây? Cái ý
niệm kiểu Tây phương này thật đáng buồn cười.
Ối
chà! Hãy nhìn bọn người uy nghi đường bệ đã trưởng thành kia, trên bãi
rộng họ chen đẩy, nhảy nhót, xông xáo ngang dọc tranh nhau đuổi bắt một
quả cầu nhỏ bằng da, cứ tưởng tượng đến đã thấy nực cười; lại còn có lúc
nằng hè như đốt, sau cuộc vận động, họ dùng những mảnh nhung hay những
áo đan bằng len mặc vào người, đó mới thật là kỳ. Hắn nghĩ quanh quẩn
vẩn vơ, không biết tại sao lại thế! Hắn hồi tưởng lại, trước kia hắn
cũng hâm mộ trò đó lắm, lúc đó hắn còn thanh niên chưa được chín chắn,
cái thằng người ở thời đó,, không phải là thật hắn; chỉ nên coi đó là
một ý thích trong chốc lát; thực tình hắn không có bản tính thích vận
động. Hán sinh ra khác hẳn; hắn sinh ra để lạy chào, để ung dung nhàn
hạ, văn vẻ, chứ không phải sinh ra để đá cầu, để đeo cổ dề, để dùng khăn
ăn, học phép trọng năng suất. Có lúc hắn tự coi mình như một con heo,
coi người Tây phương như một con chó, chó thường hay cắn đùa heo, nhưng
heo chỉ biết đáp lại bằng tiếng ụt ịt. Cái tiếng ụt ịt đó có thể là một
cách tỏ ý thỏa mãn. Quá đi nữa, có lúc hắn muốn được là một con heo
thật, vì thấy cuộc sống của heo rất dễ chịu. Hắn không ao ước cổ dề của
chó, cái năng suất của chó cũng như những thành công bằng lối ma giáo
của chó. Hắn chỉ còn một điều mong mỏi duy nhất: Chó đừng nên trêu chọc
quấy phá hắn, hãy để cho hắn được yên thân.
Một
người Trung Hoa mới mà nhận xét cả hai nền văn hóa Tây phương và Trung
Quốc thì thế đấy. Đó là cách độc nhất để khảo sát và nhận thức văn hóa
Đông phương. Bởi cha hắn là người Trung Quốc, mẹ hắn cũng vậy, nên mỗi
khi nói đến Trung Quốc là hắn nghĩ ngay đến cha mẹ, đến cả nét mặt và
đường ăn lối ở của các người. Đó là một cuộc đời, cuộc đời của họ đầy đủ
những can đảm, nhẫn nại, đau khổ, vui sướng, mạnh mẽ chưa bị ảnh hưởng
hiện đại, nhưng không kém vẻ cao cả, thành thực và khiêm cung, hắn đã
thực sự hiểu rõ Trung Quốc!
Tôi
cho rằng phương pháp duy nhất để tìm hiểu Trung Quốc cũng là phương
pháp duy nhất để tìm hiểu bất cứ quốc gia nào trên thế giới: Cần phải
tìm ra tất cả những giá trị chung của cuộc sống con người; đừng nhìn vào
cái đặc biệt, xa lạ; cần nhìn sâu vào cái dáng điệu lễ phép cổ xưa, kỳ
quái mà tìm đức lễ độ thực sự; cần nhìn dưới nếp y phục lòa loẹt, lạ mắt
của phụ nữ mà tìm bản chất thực của người đàn bà và khuôn mẫu một người
mẹ; cần nhận xét cái nghịch ngợm của thằng con trai và những ước mơ của
đứa con gái. Tất cả những cái bướng bỉnh của thằng con trai, những ước
mơ của đứa con gái, cho đến tiếng cười giòn giã và cái dẫm chân bành
bạch của đứa trẻ con, tiếng khóc của người đàn bà, vẻ lo lắng của người
đàn ông – Tất cả những cái đó là biểu tượng chung của mọi miền trên thế
giới – Vì vậy chúng ta chỉ có cách nhìn xuyên qua cái ưu tư của người
đàn ông, tiếng khóc than của người phụ nữ mới có thể thấy rõ được tính
chất của một dân tộc. Có khác chăng đi nữa thì chỉ là ở phần hình thức,
trong hành vi xã giao mà thôi. Đây là những điểm căn bản để phê bình
quốc tế đúng đắn vậy.
Chú thích
(1) Dasein: Hiện hữu (Chú thích của dịch giả).
CHƯƠNG I
NHÂN DÂN TRUNG QUỐC
I. PHƯƠNG NAM VÀ PHƯƠNG BẮC
Nghiên
cứu văn học lịch sử của bất cứ một thời đại nào, cái nỗ lực cuối cùng
và cao tột thường dùng vào việc tìm hiểu rõ ràng tường tận con người của
thời đại đó. Bởi bên trong sự sáng tác về văn học hay biến cố lịch sử
nhất định phải có cá nhân khiến chúng ta thấy quan tâm nhất. Khi chúng
ta nghĩ đến Marcus Aurelius hay Lucian trong thời kỳ La Mã suy đồi, hoặc
ta nghĩ đến Francois Villon trong thời Trung cổ thì các thời đại ấy ta
thấy rõ ràng và quen thuộc ngay. Như “thế kỷ 18” muốn gọi là thời đại gì
cũng không bằng gọi là “thời đại Johnson” mới thật là có ý nghĩa. Bởi
vì chỉ cần nhắc nhở đến cách sống của Johnson như là ông ta thường sống,
ra vào các quán rượu tại Luân Đôn, cùng với bạn bè qua lại trò chuyện
thế nào, là một thời đại đã sống lại rõ ràng và đầy đủ ý nghĩa. Có thể
là đời sống của một nhân vật không có danh tiếng bằng Johnson về văn
học, hay là đời của một người dân thường ở thành phố Luân Đôn cũng có
những điểm đáng được chúng ta biết, nhưng một người dân thường ở Luân
Đôn không gây cho ta một hứng thú gì, vì người thường bao giờ cũng vẫn
giống nhau. Một người thường uống la-ve hay uống trà Lipton thì cũng chỉ
là một sự kiện ngẫu nhiên trong xã hội, không có gì quan trọng, không
có gì đáng nói là vì hắn chỉ là một người thường.
Nhưng
nếu như Johnson, thì việc ông ta hút thuốc hay ông ta thường thường ra
vào các quán rượu ở Luân Đôn đều là những sự kiện lịch sử quan trọng.
Tinh thần của vĩ nhân phản ứng đặc biệt với xã hội đương thời, khiến
chúng ta phải quan tâm. Thiên tài siêu việt của họ ảnh hưởng đến những
sự vật họ tiếp xúc, mà họ cũng chịu ảnh hưởng của những sự vật ấy. Họ
chịu ảnh hưởng ở những quyển sách họ đọc, những người đàn bà họ tiếp
xúc. Nếu một người so với họ sút kém hẳn về tài năng mà cũng ở trong
cảnh đó, thì sẽ không có một dấu tích gì đặc biệt đáng được nêu ra. Vì
thế trong sinh mệnh một vĩ nhân là có sinh mệnh một thời đại nằm ở đó.
Nó thâu nhận tất cả những gì có thể hấp thụ được, mà phản xạ bằng một
sức mẫn cảm rất tốt đẹp, rất mạnh mẽ.
Nhưng
nói đến việc muốn nghiên cứu tường tận về một quốc gia, thì quyết nhiên
không thể bỏ qua người thường dân được. Nhân dân Hy Lạp thời xưa không
phải ai cũng là Sophocle, mà ở thời Elizabeth của Anh Cát Lợi cũng không
phải là ở đâu cũng có Bacon và Shakespeare. Bàn về Hy Lạp mà chỉ nhằm
vào mấy nhân vật như: Sophocle, Pericles, Aspasia thì hẳn không nhận ra
tình trạng đúng đắn về người Nhã Điển. Chúng ta phải chú ý đến việc con
trai Sophocle thưa kiện cha vì ông để việc nhà bê bối; hay cần chú ý đến
những nhân vật của Aristophane, thường không phải là những người hoàn
toàn chuộng cái đẹp hay tìm tòi chân lý; mà suốt ngày chỉ ăn no uống
say, cãi vã lung tung, dối trá, lừa lọc, chỉ cốt sao cho có lợi, mới
thực điển hình cho hạng người Nhã Điển bình thường. Tính cah1 chỉ biết
vụ lợi, dối trá lừa lọc của người Nhã Điển đã giúp ta hiểu rõ lý do nước
cộng hòa Nhã Điển sụp đổ, cũng như Pericles và Aspasia đã cho ta thấy
tại sao dân tộc Nhã Điển trở nên vĩ đại. Nếu đánh giá riêng rẽ, thì giá
trị của họ là con số không, nhưng nếu quan sát chung lại, thì họ đã ảnh
hưởng lớn tới vận nước. Ở thời đại đã qua rồi, không có cách gì tái tạo
ra họ mà nghiên cứu, nhưng ở một quốc gia hiện đại, hạng được coi là
thường dân bao giờ cũng ở cạnh chúng ta.
Nhưng
hạng thường dân là ai? Mà hạng thường dân làm những gì? Trong ý nghĩ
chúng ta cái được gọi là “người Trung Hoa” chỉ là một quan niệm trừu
tượng. Bỏ qua tính cách thống nhất về văn hóa mà nói, - văn hóa là yếu
tố kết hợp nhân dân Trung Quốc thành một dân tộc thống nhất – nhân dân
miền Nam Trung Quốc tính tình, thể cách, tập quán có khác với người dân
phương Bắc, cũng như nhân dân ở bờ biển Địa Trung Hải khác hẳn với dân
tộc Bắc Âu. May thay là trong quỹ đạo văn hóa Trung Quốc, chỉ có óc địa
phương từng tỉnh, chứ không có quốc gia chủ nghĩa, vì vậy dưới quyền
thống trị của các vua chúa, lâu dài hàng vài thế kỷ mà nước vẫn được hòa
bình yên ổn. Lịch sử cũng truyền lại một phương thức phổ biến rất quý
báu, văn tự cũng là một phương pháp rất đơn giản, giải quyết sự khó khăn
trong vấn đề thống nhất ngôn ngữ của Trung Quốc. Tính chất dung hòa của
văn hóa Trung Quốc, có thể tiến dần trong vài thế kỷ, gieo rắc rồi đồng
hóa một dân tộc thổ trước khác bằng cách êm đềm. Điểm này đã xây dựng
được tinh thần hữu ái của Trung Quốc biểu thị trong câu “Tứ hải chi nội,
giai huynh đệ dã” (bốn bể đều là anh em), ngày nay Âu Châu người ta vẫn
mong mỏi tinh thần đó mà không có được. Còn nói đến sự khó khăn về phát
âm, thì giọng nói của Trung Quốc cũng không đến nỗi quá phức tạp, phân
chia như ở Âu Châu hiện nay. Một người dân hộ tịch Mãn Châu nếu đến miền
biên giới Tây Nam như tỉnh Vân Nam chẳng hạn, tuy rằng cũng có phiền
phức, nhưng vẫn có thể bày tỏ ý tứ cho người khác hiểu được. Kỹ xảo về
nói năng của Trung Quốc có thể dần dần mở rộng nhờ sự khai thác làm ăn,
và một phần lớn nhờ chữ viết, dấu hiệu rõ ràng về sự thống nhất của
Trung Quốc.
Sức
đồng hóa của nền văn hóa này, có lúc khiến chúng ta quên hẳn rằng nội
bộ Trung Quốc vẫn có sự khác biệt về chủng tộc, khác biệt về huyết
thống. Quan sát kỹ lưỡng thì ý niệm trừu tượng trong ba chữ “người Trung
Hoa” mất đi, mà hiện ra ấn tượng một chủng tộc không đồng nhất. Thái
độ, tính tình, nhận thức của người dân mỗi miền đều khác nhau. Có những
dấu vết rõ ràng ta có thể nhận thấy. Giả sử ta lấy một vị chỉ huy vốn
quê quán miền Nam để điều khiển quân đội người miền Bắc, thì ta có thể
thấy ngay tính chất bất đồng giữa hai bên. Bởi điểm này, chúng ta chia
ra nhân dân miền Bắc, dân chúng miền này quen với nếp sống gian khổ, ưa
tư tưởng đơn sơ, giản dị, vóc người cao lớn, gân thịt rắn rỏi, sức khỏe
dẻo dai, tính tình thành thực, mau mắn mà nóng nảy, thích ăn loại hành
lớn, không sợ mùi hôi, ưa khôi hài đùa cợt, thường có thái độ rõ ràng,
tự nhiên, mọi vẻ họ gần với giống nòi Mông Cổ và có tính bảo thủ hơn nếu
so sánh họ với người dân sống ở miền phụ cận Thượng Hải, vì họ không có
vẻ gì tỏ ra suy đồi dòng giống. Họ là những tay quyền phỉ ở Hà Nam,
những tay trộm cướp ở Sơn Đông, cho đến những bậc vũ lược tranh bá đồ
vương cũng thường sinh ra ở miền này. Bọn họ đã cung cấp cho lịch sử
nhiều triều đại vua chúa và là chất liệu cho một số lớn tiểu thuyết cổ
thuộc loại tả chiến tranh và nghĩa hiệp của Trung Quốc.
Theo
dòng sông Dương Tử xuống bờ biến phía Đông Nam thì tình trạng sinh hoạt
của nhân dân lại khác hẳn. Nhân dân ở đây quen với nếp sống yên ổn,
nhàn hạ, dung hòa chất thực và văn vẻ, khéo bày đặt giả dối, trí khôn
phát triển nhưng thể xác có phần suy kém, ưa vẻ u nhã văn chương, thường
trầm tĩnh ít hoạt động. Con trai thường trắng trẻo thấp nhỏ, con gái
thường nõn nà, yếu ớt. Yến hấp chè sen, bát ngọc chén vàng, nấu nướng
đến hết vị ngon, ăn uống đủ mùi sang trọng, tính việc buôn bán, chỗ thừa
nơi thiếu thì rất linh lợi sáng suốt, nhưng vác kích múa đao thì rụt cổ
không dám tiến bước, thơ văn bay bướm thật tỏ ra phú tính tài hoa, gặp
địch thì bỏ chạy, chưa bị đấm đã ngã lăn chiêng mà kêu má! Má! Hậu duệ
của các gia đình văn học đã cuốn gói thư họa, vượt sông Dương Tử trong
khoảng cuối đời Tần, lúc Trung Quốc bị rợ Hồ xâm lăng tràn ngập.
Lại
đi xuống miền Nam cho tới Quảng Đông, thì nhân dân lại có thói tục, tập
quán khác hẳn. Ở đây giống người khỏe rõ rệt. Người dân từ ăn uống đến
làm lụng thật đáng coi là nam nhi; giàu tinh thần sự nghiệp, ít lo âu,
hào sảng mà thích tranh đấu, coi tiền như đất, nóng nảy, ưa mạo hiểm
tiến thủ. Lại còn một tục lạ là người Quảng Đông vẫn còn giữ tập quán ăn
thịt rắn của thổ dân thời xưa; họ thích thịt rắn lắm, vì vậy ta có thể
biết người miền Quảng Đông có dòng máu pha trộn với chủng tộc “Bách
Việt” xưa kia sống ở miền này. Đến miền Nam, Bắc Hán khẩu đó là miền Hoa
trung, người dân ở đây tính nóng nảy, hay nguyền rủa; ưa dối trá thì
phải kể người Hồ Bắc. Trung Quốc đã có câu tục ngữ “Trên trời có chim
chín đầu, dưới đất có người Hồ Bắc”, người Hồ Bắc tinh khôn ác độc, cay
như hồ tiêu mà họ vẫn chưa cho là kích thích, còn phải rang bằng dầu,
như vậy mới đủ được tính ghiền cay, họ được ví với chim chín đầu thần
bí. Đến người miền Hồ Nam thì chuộng vũ dũng, chịu đựng lao khổ, cho nên
quân đội miền Tương vẫn nổi danh khắp nước, họ vốn là dòng dõi các
chiến sĩ nước Sở thời xưa, đến nay họ còn giữ được nhiều đặc tính đáng
yêu.
Vì
sự buôn bán đổi chác, vì chế độ cai trị xưa, kẻ đi buôn hay thi đậu
thường đi làm việc ở miền khác nên có sự thay đổi chỗ ở, lẽ tự nhiên đưa
đến chỗ hòa hợp các chủng tộc trong nhân dân, hòa đồng được tính chất
khác nhau giữa tỉnh này và tỉnh kia, chỉ có phần đại thể thì vẫn giữ
nguyên. Một sự thực đáng chú ý là người miền Bắc giỏi chiến đấu, người
miền Nam giỏi buôn bán, những bậc đế vương sáng nghiệp của các triều đại
gần như không có vị nào phát tích ở miền Nam. Tương
truyền rằng con người ở miền Nam ăn gạo không có phúc được ngồi ngai
rồng, chỉ có người ăn mì miền Bắc làm vua. Trên thực tế trừ một vài
trường hợp ngoại lệ, như nhà Đường, nhà Chu các vua sáng nghiệp lúc ban
đầu, phát tích ở miền Đông bắc tỉnh Cam Túc, vì thế có sự hiềm nghi cho
rằng các nhà này có huyết thống Thổ Nhĩ Kỳ, còn các bậc đế vương của các
triều đại lớn khác thì đều khởi lên ở những miền tương đối núi non hiểm
trở, sát đường xe lửa Lũng Hải, dải đất này bao quát miền Đông bộ tỉnh
Hà Nam, Nam bộ tỉnh Hà Bắc, Tây bộ tỉnh Sơn Đông và Bắc bộ tỉnh An Huy.
Miền đất nảy ra những bậc đế vương khai quốc này, nếu lấy trung tâm là
đường xe lửa Lũng Hải, thì ngang dọc khoảng độ bao nhiêu cũng dễ trắc
lượng để biết. Hán Cao Tổ khởi nghiệp ở huyện Bái, hiện nay là miền Từ
Châu, Thủy Tổ nhà Tấn khởi nghiệp ở Hà Nam, Thái Tổ nhà Tống khởi nghiệp
ở Trắc huyện thuộc nam bộ tỉnh Hà Bắc, vua Thái Tổ nhà Minh họ Chu niên
hiệu Hồng Vũ quê ở Phượng Dương thuộc tỉnh An Huy.
Cho
đến ngày nay, trừ tướng quân Tưởng Giới Thạch xuất thân ở tỉnh Triết
Giang – dòng họ và thế phả nhà ông thế nào chưa được công bố - còn phấn
lớn các tướng súy thường phát xuất ở những tỉnh Hà Bắc, Sơn Đông, An
Huy, Hà Nam, như vậy trung tâm của vùng đất này vẫn là đường sắt Lũng
Hải. Tỉnh Sơn Đông có Ngô Bội Thu, Trương Tôn Xương, Tôn Truyền Phương,
Lư Vĩnh Tường; tỉnh Hà Bắc có Tề Tiếp Nguyên, Lý Cảnh Lâm, Trương Chi
Giang, Lộc Chung Lân; tỉnh Hà Nam có Viên Thế Khải, Tỉnh An Huy có Phùng
Ngọc Tường, Đoàn Kỳ Thụy. Tỉnh Giang Tô không thấy nảy ra một đại tướng
nào, nhưng đã nẩy ra được mấy anh bồi phòng nhà trọ xuất sắc. Năm chục
năm trước miền trung bộ Trung Quốc, tỉnh Hồ Nam nảy ra ông Tăng Quốc
Phiên, điều đó có thể coi như một ngoại lệ, nó càng chứng minh được định
luật nêu trên. Tăng Quốc Phiên là một bậc học giả hạng nhất, mà cũng là
một danh tướng bậc nhất nhưng ông ta vốn sinh trưởng ở miền Nam, là
người dân miền ăn gạo chứ không phải người dân miền ăn mì,
vậy thì mệnh vận của ông ta đã định sẵn: Ông chỉ là bậc đại thần hiển
hách quyền quý mà thôi, chứ không thể vì dân tộc Trung Hoa mà khai sáng
được một triều đại mới. Việc khai sáng một hoàng triều, cần hạng người
có thái độ hào phóng, mộc mạc điển hình của phương Bắc, điểm chút tính
giang hồ đáng yêu, lại phải thích chiến tranh, náo động vì chiến tranh,
họ thường khinh học vấn và coi rẻ luân lý của Khổng tử, đến lúc đại cục
đã yên, ngảnh mặt phương Nam lên ngôi Hoàng đế, lúc đó tư tưởng tôn quân
của Khổng tử lại là đắc dụng.
Tính
chất thô bạo, hào phóng của phương Bắc, và tính mềm dẻo, hiền hòa của
phương Nam – hai điểm khác biệt này, có thể nhận ra ở ngôn ngữ, âm nhạc
và thi ca của hai miền. Bạn có thể lấy một ca khúc của tỉnh Thiểm Tây so
sánh với một ca khúc của miền Tô Châu, thì thấy ngay chỗ khác nhau rõ
rệt. Một đằng ca khúc của tỉnh Thiểm Tây thì âm thanh, nhịp điệu cao
gắt, nhạc khí thường dùng cây đàn trúc, gõ nhịp phách gỗ mà cùng ca,
giọng cao mà vọng đi xa, có thể gần giống như giọng ca của mục đồng Thụy
Sĩ, giọng ca cất lên như gió lốc bay tung trên ngọn núi, trên bãi
hoang, trền cồn cát. Một đằng ca khúc của Tô Châu thì êm đềm, thấp giọng
có tính cách đam mê an lạc, quyến luyến phong tình, thanh âm nhịp điệu
nức nở, nghẹn ngào như thở vắn than dài, như rên rỉ vì hen suyễn lâu
ngày, như vậy là bởi quen thói ngân nga mà thành một âm điệu run rẩy.
Lại từ chỗ đối thoại tầm thường, ta cũng nhận ra rằng giọng quan thoại
của Bắc Bình rõ ràng, sáng sủa, thanh điệu nặng nhẹ chuyển biến rõ ràng,
khiến người ta ưa thích; còn giọng nói của phụ nữ Tô Châu thì ngọt
ngào, mềm mại, nhiều nguyên âm phát ra bằng cách tròn môi, chỗ xuống chỗ
lên như đợt sóng, đến những chỗ nặng thì không phát thanh cao tiếng mà
chỉ kéo dài bằng âm điệu mềm mại, uyển chuyển đặt vào cuối câu. Hai
giọng nói của hai miền khác nhau rõ ràng.
Người
ta thường kể lại một câu chuyện lý thú sau đây: “Có một lần một sĩ quan
người Tô Châu. Trước đoàn quân vị sĩ quan này hô: “Khai bộ… tẩu” (Cất
bước… đi) nhưng đoàn quân vẫn đứng nghiêm không nhúc nhích, ông ta lại
hô tiếp mấy lần nhưng đều vô hiệu. Đang lúc không biết làm sao để ra
lệnh được, thì viên đoàn trưởng của đoàn quân ấy vốn ở Tô Châu đã lâu,
hiểu phong tục miền này, bèn xin vị sĩ quan kia cho phép ông ta ra lệnh,
vị sĩ quan cho phép. Viên đoàn trường bèn dùng lối phát thanh trái với
giọng nói mau mạnh, cao to: “Khai bộ… tẩu” của vị sĩ quan kia. Ông ta hô
bằng giọng uyển chuyển, gợi cảm của lối phát âm Tô Châu: “… Khai… bộ…
tẩu nại… ái…” (cất bước đi nào…) thì quả nhiên ông vừa dứt tiếng là đoàn
quân bước đi đều”.
Trong
thi ca, sắc thái khác nhau giữa hai miền tỏ rõ hẳn ra từ thế kỷ thứ 4,
5, 6. Lúc này Bắc bộ Trung Quốc đã bị dân tộc Thát Đát dày xéo lần đầu,
những người Hán có học bắt đầu qua sông Dương Tử xuống miền Nam. Lối thơ
trữ tình bắt đầu phồn thịnh chốn triều đình miền Nam, giai cấp thống
trị miền Nam phần nhiều là những tay tài ba về lối thơ trữ tình. Trong
dân gian thì lưu hành một loại thể tài có màu sắc đặc biệt là những tình
khúc nho nhỏ, được gọi là “Tí dạ ca”. Nay đem những bài thơ nhỏ nồng
nàn tình cảm này so sánh với những bài thơ chất phác của phương Bắc, đầy
khí lực của buổi ban mai, ta thấy ngay tình cảm và giọng điệu khác nhau
hẳn. Bây giờ chúng ta hãy nhận xem lúc đó tác phong những ca khúc của
Nam triều thế nào.
Một bài Độc khúc ca:
Đả sát trường minh kê
Đạn khứ ô cửu điểu
Nguyện đắc liên minh bất phục thự
Nhất niên độ nhất hiểu
Dịch:
Đánh chết con gà hay gáy,
Bắn chim ô cửu hay kêu.
Muốn tối hoài đừng sáng,
Mỗi năm một sáng là nhiều.
Một bài Tĩnh dạ ca khác:
Lộ sáp vô nhân hành,
Mạo hàn vãng tương mịch.
Nhược bất tín nùng thời,
Đản khan tuyết thượng tịch.
Dịch:
Lầy lội đường vắng tanh,
Tìm nhau không ngại rét.
Nếu không tin lời ta,
Hãy nhìn dấu trên tuyết.
Trong
khoảng thời đại Nam Tống, lại phát hiện một lối thơ trữ tình gồm những
câu ngắn dài ghép lại thành bài được gọi là “Từ”. Nội dung lối thơ này
thường tả nỗi u sầu của người khuê phụ, ý thương xuân ở chốn phòng the,
hay ngâm vịnh mày ngài má phấn, tán thưởng trang sức nhạt nồng, hay tả
cảnh nến hồng gác tía, màn thê trướng gấm, kể hết mọi nỗi sầu khổ tương
tư, tình nhân võ vàng.
Thí dụ mấy câu sau đây:
Hồng chúc tự lân vô hảo kế,
Dạ hàn không thế nhân thùy lệ.
Tích loan loan thiến đại,
Trường trường nhỡn.
Dịch:
Đuốc hồng tự hân không mưu kế,
Đêm lạnh vì người sa giọt lệ
Tiếc nét mày cong cong
Con mắt dài dài.
Những
vần thơ thường tương tư như vậy. Nhân dân học đòi những tình tự ủy mị
của lối thi ca tình ái đó, nên bị dân tộc phương Bắc có giọng thơ cởi
mở, hào phóng, chất phác chinh phục, đó là lẽ tự nhiên. Thi ca miền Bắc
lấy đề tài ngay ở cảnh sắc hoang vu của miền này mà không cần sửa đổi
thêm bớt. Thí dụ như bài thơ này:
Sắc lặc xuyên
Âm sơn hạ
Thiên tự khung lư, lung cái tứ dã
Thiên thương thương, địa mang mang, phong xuy thảo để kiến ngưu dương.
Dịch:
Dòng sông Sắc lặc
Dưới núi Âm Sơn
Trời như lều vải bao trùm bốn phương.
Trời xanh xanh, đất mênh mông, gió lay dưới cỏ thấy bầy trâu dê.
Đọc
bài thơ nhỏ này, ta phải nhận rằng nó có một sức lôi cuốn khác thường.
Tương truyền một vị đại tướng của Bắc triều, đã nhờ vào khí lực của mấy
câu thơ này, mà sau khi bại trận ông đã khích lệ được quân sĩ, khiến
lòng quân lại phấn khởi, để trở lại chiến trường. Sau đây lại xin được
đưa ra một bài nữa của một ông tướng miền Bắc vịnh cây đao quý vừa mua
được; phong cách, tình tự so với các vài tình thi của phương Nam thì
thật khác hẳn.
Tân mãi ngũ xích đao
Huyền trứ trung lương trụ
Nhất nhật tam ma sa
Kịch ư thập ngũ nữ.
Dịch:
Mua được gươm năm thước
Treo trên cột chon von
Ngày ba lần ve vuốt
Quý hơn gái trăng tròn.
Thêm một bài nữa để thấy rõ cách thức, âm điệu hùng tráng:
Giao vọng Mạnh Tân hà
Dương liễu uất bà bà
Ngã thị Lỗ gia nhi
Bất giải Hán nhi ca
Kiện nhi tu khoái mã
Khoái mã tu kiện nhi
Tất bạt hoàng trần hạ
Nhiên hậu biệt thư hùng.
Dịch:
Dòng Mạnh Tân xa xa
Bóng dương liễu thướt tha
Ta vốn dòng Hồ lỗ
Chẳng hiểu giọng Hán ca
Ngựa mạnh trai hùng thích
Trai hùng ngựa mạnh ưa
Dưới bụi hồng rong ruổi
Sẽ tỏ mặt hơn thua.
Các
bài thi ca này – tác phẩm của miền Nam và miền Bắc hoàn toàn khác nhau
về cả nội dung và kỹ thuật – đối với việc chúng ta nghiên cứu về các
phần tử cấu tạo nên dân tộc Trung Hoa, ta thấy rằng trên vấn đề hai dòng
huyết thống Nam, Bắc khác nhau đã cho ta rất nhiều khía cạnh lý thú
đáng chú ý. Nhờ đó chúng ta có thể đi xa hơn mà tìm hiểu ra tại sao một
nước có đến hơn hai nghìn năm lịch sử lạy chào, sinh hoạt trong cửa ngõ
nhà mình và một nền văn minh thiếu thể thao, mà không đến nỗi theo gót
Ai Cập, La Mã, Hy Lạp bị nòi giống suy bại. Trung Quốc đã tránh được cái
vạ đó như thế nào?
***
Suy
bại là một danh từ dễ bị người ta hiểu sai, vì ý nghĩa của nó chỉ là
tương đối, chứ không có ý nghĩa tuyệt đối. Từ khi có những bàn cầu dội
và máy hút bụi, con người ngày nay thường lấy mức sạch sẽ của một cá
nhân đế đánh giá cao thấp về phẩm hạnh của họ. Vì vậy đã có một người
cho rằng văn hóa của loài chó đã tăng cao, là vì ngày nay mỗi tuần lễ
chó được tắm một lần, đến mùa đông lại được mặc áo che bụng. Tôi đã được
nghe mấy vị nhân sĩ nước bạn hay có hảo ý nói chuyện với nhau về sự
sinh hoạt của người nông phu Trung Quốc, cho rằng sự sinh hoạt của giới
này thật “không phải là sự sinh hoạt của loài người” vậy cần phải tìm
cách giúp đỡ, việc đầu tiên nếu không đem gian nhà tranh và tất cả những
dụng cụ thủ tiêu để khử độc thì không xong.
Thực
ra, dấu hiệu suy bại của con người, không phải ở sự nhơ bẩn, mà chính ở
chỗ sợ nhơ bẩn, còn việc lấy bề ngoài của một người để phê bình về thể
cách và phẩm hạnh họ tốt hay xấu thì quả thật là điều nguy hiểm. Nói cho
đúng, người Âu châu sống trong những công ốc tiện nghi, ấm cúng, dùng
những xe hơi lộng lẫy, dễ chết hơn người nông phu Trung Quốc sống trong
gian nhà tranh lụp xụp mà cũng chẳng biết khử độc là cái gì. Hung ác, là
bẩm tính thiên nhiên của trẻ con hay một dã nhân, cũng không phải là
một dấu hiệu suy bại, ngược lại sợ đau mới thật là chứng tích suy bại.
Một con chó mà chỉ biết sủa chứ không biết cắn, thường được dắt chơi
ngoài phố, dùng làm đồ chơi cho phụ nữ, thì con chó đó chỉ được coi là
một con chó sói suy bại. Lại nữa, có sức khỏe như Jack Dempsey lúc ra
khỏi võ đài cũng không thể tự khoe là một vinh quang cho nhân loại được,
mà họ chỉ kiêu căng về năng lực làm việc của mình đã cho mình được
hưởng một nếp sống sung sướng, đầy đủ. Đến như một vài loài động vật
được coi là tiến hóa khá cao, thân thể chúng có một cơ cấu đầy đủ tương
đối gọi là mẫn cảm và phức tạp, lại thêm những khả năng đặc thù và những
ham muốn tế nhị, những loài động vật này không hoàn toàn là những động
vật tráng kiện và vô bệnh. Vấn đề thật đúng về thể chất và phẩm hạnh
kiện toàn hay không, thì loài người và tất cả các loài động vật đều
không có gì khác, chỉ ở chỗ năng lực làm việc của nó thế nào, nó khôn
khéo để hưởng lạc trong cuộc sống thế nào, và nó đã làm thế nào để thích
ứng mà tồn tại.
Nhận
xét những chứng cớ cụ thể trước mắt, ta cũng có thể thấy rõ ràng hậu
quả do nền văn hóa từ hơn hai ngàn năm nay tạo ra. Nhân dân Trung Quốc
vốn vẫn thích ứng cuộc sống cho thích hợp với hoàn cảnh văn hóa xã hội
mà nhu yếu cho hoàn cảnh đó là một tính lực vững bền, một sức chống cự,
một sức lực tiêu cực, vì thế nó đã mất đi một phần trí lực và thể lực về
tài năng mạo hiểm và chiến thắng, tài năng đó vốn là đặc tính cuộc sinh
hoạt của tổ tiên họ ở thời kỳ nguyên thủy sống trong rừng hoang. Người
Trung Quốc phát minh ra thuốc nổ để rồi dùng làm pháo đốt mừng ngày sinh
nhật ông cha, chỉ một điểm này, đủ thấy sự phát minh của người Trung
Quốc bao giờ cũng tiến hành trên đường lối hòa bình. Trên phương diện mỹ
thuật họ cần một công trình tinh tế hơn là nét bút hoạt bát, tỏ ra là
do sức sinh hoạt đã yếu kém và bản năng suy nhược. Trên vấn đề triết học
người Trung Quốc ưa sự biết điều hơn là những biện luận có tính cách
gay gắt, cứ trông cái má tròn và gò má bằng phẳng của người Trung Quốc
đủ thấy rõ dấu hiệu đặc biệt này.
Vì
coi khinh vũ dũng và sự hoạt động, lại có nếp sinh hoạt chung hiếu tĩnh
không ưa phấn đấu, do đó ảnh hưởng ngay đến sự thoái hóa về sức khỏe
của cơ thể. Giới trưởng giả ở thành thị bị cái ảnh hưởng này quá rõ
ràng. Khi có cảnh kẹt xe ở đường phố hay khi có cuộc họp giáo ban, lúc
người Âu Châu, người Trung Quốc ngồi đứng cạnh nhau thì tình trạng này
lại càng dễ nhận ra. Nếp sống thiếu vệ sinh và thói ăn uống quá độ đã
nói rõ tại sao giai cấp trưởng giả của Trung Quốc thường có bộ vai và
thớ thịt hai mạng sườn sệ xuống cùng đôi mắt lờ đờ như không có thần.
Đứa trẻ trong tuổi học của Âu Châu và đứa trẻ trong tuổi học của Trung
Quốc, phần tiên thiên của chúng cũng có sự khác nhau, điều này cũng rất
dễ nhận. Trên sân vận động, ta nhận thấy đứa trẻ nào cha nó hay mẹ nó là
người Âu châu thì nó vẫn có vẻ mẫn tiệp, hoạt bát, khỏe mạnh trội hẳn,
nhưng đến sức nhẫn nại và việc học tập thì xem ra có phần hơi kém. Thời
kỳ 1927 hội nghị quốc dân chính phủ họp ở Hán Khẩu đã bị Borodin thao
túng, người này ở nước họ chỉ là nhân vật tầm thường, vậy tại sao lại
thao túng được chính phủ quốc dân? Lý do thật đơn giản là bởi sức làm
việc của Borodin có thể gấp ba lần một viên chức Trung Quốc, lại có tài
ăn nói thao thao bất tuyệt từ tối đến sáng, đến nỗi các lãnh tụ Trung
Quốc mỏi mệt phát buồn ngủ, thế là đành chịu thua để được yên.
Nhiều
người ngoại quốc của các sứ quán tại Thượng Hải đều lấy làm lạ về thái
độ nhạt nhẽo, ơ hờ của những người bạn Trung Quốc. Họ không hiểu tính
người Trung Quốc không chịu được những cuộc bàn cãi dài dòng phí sức,
lại thêm nữa phải dùng ngôn ngữ ngoại quốc để đối thoại thì lại càng khó
chịu lắm. Vì vậy, trong công việc, trong sự buôn bán hay trong những
cuộc hơn nhân giữa người Trung Hoa và người ngoại quốc thường cuối cùng
đi đến tan vỡ. Duyên cớ thường chỉ tại người Âu Châu không chịu nổi cái
tính từ tốn thong thả của người Trung Hoa, mà người Trung Hoa cũng không
chịu nổi cái tính vội vàng, hiếu động của người Âu Tây. Dưới mắt người
Trung Hoa nhận xét, dáng điệu của anh nhạc trưởng nhún nhảy rung rung
đầu gối để điều khiển ban nhạc Jazz, hay cái lối vừa nhảy vữa chạy trên
boong tàu của người Âu Châu, thật đã khiến họ tức cười đến đau dạ bụng.
Trừ
Tưởng Giới Thạch và Tống Tử Văn là những trường hợp ngoại lệ ít có, còn
các nhà lãnh tụ chính trị của Trung Quốc phần lớn không chịu được sự
làm việc khắc khổ; họ không “hùng hục làm việc như trâu ngựa”; họ chỉ
làm việc như những con người văn minh; nhân sinh quan của họ là đời
người không bõ cho ta nhọc thân, mệt trí, vì vậy mà họ Tưởng họ Tống đã
trở thành những lãnh tụ tối cao, chỉ bởi họ có đức tính kiên nhẫn và sức
chịu đựng khó nhọc. Tống Tử Văn khi từ chức bộ trưởng tài chánh, ông
vẫn lấy câu tục ngữ Trung Quốc là “sức khỏe như trâu” để tự ví mình còn
khỏe mạnh lắm. Ông không mượn cớ mắc bệnh tiểu tiện có đường hay bệnh
đau gan làm suy giảm tinh lực để xin từ chức. Xưng bệnh để từ chức vốn
là thói quan của bọn quan liêu vô sỉ. Quan lại của Trung Quốc mỗi khi
gặp lúc chính trị khó khăn thường mượn cớ là bệnh cũ lại phát ra để
tránh trách nhiệm; còn nói là bệnh gì, thì từ thể xác đến tinh thần
thiếu gì bệnh, nào là thận yếu, ruột đau, nhức đầu, buốt óc, nếu khai ra
thì có lẽ phải nằm hết mọi phòng của một y viện tối tân. Nhưng thực ra
thì chỉ có bệnh chính trị đó thôi.
Lãnh
tụ chính trị của Trung Quốc vốn là học giả thượng thừa còn có đặc tính
nữa là một khi đã lên vũ đài chính trị rồi, thì đại đa số không chịu học
hỏi thêm nữa, mà cũng không chịu sáng tác – chỉ có Tôn Trung Sơn tiên
sinh là ngoại lệ.
Ví
trong giới lãnh tụ của Trung Quốc cũng có một cuốn tự truyện như cuốn
tự truyện nổi tiếng của Léon Trotzky ra đời, thì có lẽ nó là một chuyện
lạ không thể tưởng tượng được. Tôn Trung Sơn đã mất mười hai năm nay rồi
mà cũng không tìm được ở trên phố một quyển truyện ký đầy đủ về ông do
người Trung Quốc viết, tuy rằng viết một quyển sách như thế rất ra tiền
mà đến những truyện ký đầy đủ, xác thực về Tăng Quốc Phiên, Lý Hồng
Chương, Viên Thế Khải cũng không thấy có cuốn nào.
Hình
như khi đã làm qua ngồi vào nha môn nâng chén trà thơm nhấm nháp, về tư
thất cắn hạt dưa, bàn những chuyện không bờ, không bến, thong thả ung
dung là tiêu ma hết cả ngày tháng “học giả”. Những sự kiện này có thể
cho thấy tại sao trong những tác phẩm của các nhà văn nổi tiếng của
Trung Hoa những bài thơ nhỏ đẹp như ngọc, những bài đoản văn tinh tế,
những bài đề tựa giúp cho bè bạn, những bài văn bia khắc vào mộ chí hay
những bài du ký ngắn chiếm hết đến chín mươi lăm phần trăm. Khi người ta
không thể mạnh mẽ được thì thượng sách là ra vẻ văn nhã, khi người ta
không lấn át được thì phải biết điều hợp lẽ.
Thỉnh
thoảng cũng có được những nhân vật như Tư Mã Thiên, Trịnh Tiều, Cố Viêm
Vũ; những trước tác vĩ đại của những vị này cho ta thấy một sinh lực
dồi dào khỏe khoắn của Victor Hugo hay Balzac. Đấy, hai ngàn năm chỉ dập
đầu cúi lạy khiến cho chúng ta như vậy đó.
Lại
thử nhận xét về lông, da, râu, tóc của dân tộc này, hẳn cũng có thể cho
ta biết kết quả thế nào về nếp sống văn minh của vài ngàn năm không
bước chân khỏi cửa. Thông thường nam giới thường không có râu ria, dẫu
có thì cũng rất thưa thớt, đó cũng là một hậu quả của nếp sống nói trên,
vì thế mà người Trung Quốc thường không biết dùng dao cạo. Đến những
người đàn ông có lông mọc đầy ở bụng, ở ngực, thì ở Âu châu ta thấy nhan
nhản, nhưng ở Trung Quốc thì là chuyện không có, còn như phụ nữ trên
mép môi có ria ở Âu châu thường thấy, nhưng ở Trung Quốc thì cho hiện
trạng đó là lạ lùng lắm. Chẳng những thế, theo các nhà y học, họ nói hay
họ viết trong sách, thì phần nhiều phụ nữ Trung Quốc không có lông ở gò
Vệ nữ mà thông tục thường họi là “Bạch Hổ”. Lỗ chân lông trên da người
phụ nữ Trung Quốc thường nhỏ hơn đối với phụ nữ Âu châu, vì thế mà nước
da họ có vẻ mịn, đẹp, thớ thịt họ cũng nhẽo, đó là kết quả của chế độ bó
chân xưa tạo nên, chế độ bó chân còn có nhiều vẻ hấp dẫn khác của nữ
giới. Người Trung Hoa biết rõ hiệu quả này nên ở miền Tân Phong, tỉnh
Quảng Đông, các nhà nuôi gà nhốt gà vào những cái lồng rất chật, ngay từ
lúc chúng còn nhỏ, khiến con gà không còn chỗ mà quay cựa nữa, vì thế
mà gà ở miền Tây Phong nổi tiếng là béo và mềm thịt. Mồ hôi của người
Trung Quốc cũng ít hơn, có lẽ vì các tuyến mồ hôi bài tiết yếu đi. Vì
vậy người Trung Quốc cho rằng, người Tây phương có thói quen mỗi ngày
phải tắm một lần là vì cần phải trừ cái mùi hôi khét dữ dội ở da họ bài
tiết ra. Một điều đặc biệt rất đáng chú ý là giọng nói của người Trung
Quốc so với người Âu Tây kém hẳn tính chất âm vang.
Đến
cảm giác của ngũ quan, thì thực tôi chưa nghiên cứu kỹ, nhưng nhận xét
về cảm giác của tai, mắt thì cũng không có điểm gì khác lạ đáng nói; còn
đến khứu giác thì người Trung Quốc quả thật là linh mẫn, điểm này ta
nhận ra là bởi người Trung Hoa có tài nấu nướng khéo đặc biệt. Lối nói
địa phương của tỉnh Bắc Bình, thì khi một người nói đến động tác hôn một
em nhỏ họ không gọi là “hôn” mà gọi là “hít” một em nhỏ, thật là họ đã
bày tỏ được cảm giác rất chính xác, vì thực tế khi ta hôn một em nhỏ ta
đã “hít ngửi” thật. Như trên đã chứng tỏ người Trung Quốc có một khứu
giác tinh vi. Rồi đến cả trong văn học Trung Quốc cũng có rất nhiều
tiếng đồng nghĩa với tiếng Pháp “odeur de femme” để nói về vẻ đẹp. Xin
nêu ra một vài tiếng thường thấy như: ngọc nhãn phương dịch (người ngọc
mồ hôi thơm), ỷ cốt hương cơ (xương gấm da thơm), hoa dung nguyệt mạo
(dáng như hoa, mặt như nguyệt), lan chất, huệ tâm (thể chất như la, tấm
lòng như huệ), quá nữa còn dùng đến những chữ: phương danh (tên thơm),
phương linh (tuổi thom) thật là cái gì cũng “phương” (thơm), chỗ nào
cũng “hương” (thơm); tuy vậy ta cũng phải nhận rằng cách bày tỏ như vậy
quả thật tài tình. Trái lại, đối với sự mẫn cảm về nóng, lạnh, đau đớn,
âm thanh ồn ào, lẫn lộn thì người Trung Quốc thua hẳn người da trắng;
nguyên nhân bởi người Trung Quốc sống trong chế độ gia đình chịu đựng
mọi sự khốn khổ mài dũa, nên đối với những cái khổ kể trên họ chịu đựng đã
thành thói quen, chưa biết có lẽ vì thế mà người Âu Tây phải bái phục
cái “hệ thống thần kinh” của chúng ta cũng nên. Người Trung Quốc có một
vài loại mỹ nghệ đặc biệt, bởi thiên tài khéo léo, tỷ mỉ, chứng tỏ một
tình cảm tinh vi, tế nhị - thủ công nghệ của Trung Quốc có thể chứng
minh được điều này – còn trong hoàn cảnh đau đớn, khổ sở thì cảm giác họ
tương đối kém cỏi, trì độn; người dân Trung Quốc có sức chịu đau rất
cao, thật có thể nói là ngoài sức tưởng tượng!
2. NHỮNG HUYẾT THỐNG MỚI PHA TRỘN VÀO
Tuy
vậy, dân tộc Trung Hoa được kế tiếp sinh tồn mãi, không phải chỉ nhờ
vào sức chịu đau giỏi và những sợi dây thần kinh thô lỗ trong mình họ,
mà thực ra họ đã sinh tồn đến ngày nay là nhờ vào sự thu hút được dân
tộc Mông Cổ. Tác dụng phát sinh bởi sự thay đổi về sinh lý mà nảy nở,
bạn sẽ quan sát thấy ngay rằng họ không hoàn toàn tránh khỏi sự suy yếu,
già nua, do ảnh hưởng nền văn hóa mà họ có những đặc tính khiến cho nếu
có một dân tộc hiếu chiến phát khởi lên tấn công là họ không sao tự cứu
vãn được. Sinh mệnh của dân tộc Trung Hoa hình như chậm chạp, yên lặng
tiến lên, trầm tĩnh khác hẳn nếp sống mạo hiểm tiến thủ; từ tinh thần
đến đạo đức, tập quán đều có sự tương xứng với nhau và chứa đựng tính
chất hòa bình và tiêu cực. Đó là căn nguyên khiến trên lịch sử thường có
những chu kỳ bị các dân tộc từ phương Bắc chinh phục. Trên phương diện
chính trị, thì dân tộc này đã nhiều lần bị loại xâm lược này diệt vong.
Đến đây vấn đề lại chuyển khác đi là: Trong hoàn cảnh chính trị bị áp
bức như vậy, làm thế nào để giữ gìn được dân tộc? Không phải là nó dùng
cách nào ngăn trở được xâm lược, như với trận đáng ở thành Tours những
nước theo Cơ Đốc giáo liên hợp với nhau để kháng cự quân đội Hồi Giáo;
mà thực ra là bằng cách nào bảo vệ được sự sống còn dưới bàn tay ác độc
của kẻ xâm lược, mà trên sự thực nó còn thu hút được dòng máu mới của
dân tộc đến xâm lược đó, để bồi dưỡng cho mình, mà không để mất cá tính
dân tộc, cùng giữ gìn được nền văn hóa của mình còn mãi. Vì vậy sinh
mệnh dân tộc Trung Hoa, thực đã được hun đúc bằng một khuôn khổ đặc
biệt, cho nên sức phấn đấu của tổ tiên có mất đi thì cũng không đến nỗi
mất hẳn sức cầm cự chống đối và bản chất của dân tộc. Then chốt bản chất
cầm cự của nòi giống là then chốt trong sự sinh tồn nối tiếp của dân
tộc Trung Hoa vậy.
Những
dòng huyết thống pha trộn vào, đã có thể lý giải sức tự tồn của dân tộc
Trung Hoa ngày nay đến trình độ nào. Trên lịch sử, khi một dòng huyết
thống mới pha trộn vào thường xảy ra theo một chu kỳ đều đặn lạ lùng,
phỏng độ tám trăm năm. Hình như đó là một thời gian cần có để dân tộc
Trung Hoa đổi mới. Mà sự đưa đến những cuộc đảo lộn lớn có chu kỳ đó là
nền móng đạo đức nội bộ bị hủ hóa, chứ không do xâm lược từ ngoài vào.
Tờ Trung Quốc khoa học, mỹ thuật tạp chí có đăng một bài nghị luận của
J.S. Lee nhan đề là “Chu kỳ tuần hoàn của nội chiến ở Trung Quốc”, nội
dung bài này trình bày tình trạng chiến tranh, loạn lạc của các triều
đại Trung Quốc thành một bảng thống kê để nghiên cứu, rồi chứng minh cứ
một thời trị đến một thời loạn theo chu kỳ tuần hoàn. Thời kỳ trước đến
thời kỳ sau có khoảng cách gần như một định kỳ chuẩn xác, không phải một
sự ngẫu nhiên, và không thể là do khả năng nhân sự.
Theo
bác sĩ Lee, lịch sử Trung Quốc có thể phân chia một cách giản dị mỗi
khoảng trăm năm là một giai đoạn, hay một chu kỳ. Mỗi chu kỳ thường bắt
đầu bằng một dòng vua ngắn nhưng có quân lực và uy thế mạnh, để kết thúc
một cuộc nội chiến kéo dài mà thống nhất Trung Quốc. Sau đó nối tiếp
đến một thời đại thái bình thịnh trị độ bốn năm trăm năm, qua thời kỳ
này lại có cuộc thay đổi một triều đại, rồi các cuộc nội chiến lại diễn
ra liên tiếp, rồi kinh đô lại từ Bắc rồi xuống Nam. Thế là thành hình
cuộc Nam Bắc phân tranh, rồi tình hình cứ ngày đêm nguy hiểm, cuối cùng
sa vào vòng bị dân tộc khác thống trị, thế là kết thúc một chu kỳ. Từ đó
mọi việc lại bắt đầu trở lại, Trung Quốc lại trùng tân và thống nhất
lại quyền cai trị về mình, đến lúc này trên lãnh vực văn hóa lại nẩy ra
những vẻ đẹp mới mẽ, rực rỡ.
Trong
mỗi một chu kỳ, sự diễn tiến của dấu tích lịch sử, từ thời gian đến
nguyên nhân, kết quả thế nào đã biểu diễn rất giống nhau theo một hình
thức máy móc mà không dùng lý lẽ gì giải thích được, vì thế chu kỳ trước
và chu kỳ sao giống nhau như một vết xe. Theo bác sĩ Lee nêu ra: Mỗi
chu kỳ là một thời kỳ tương đương trùng hợp với thời mở đầu cho một thời
kỳ văn hóa mới phát dương, mỗi lần như thế đều có một công trình xây
dựng vĩ đại ra đời, nhưng lần nào cũng xảy ra một việc không may để bị
hủy diệt. Chu kỳ thứ nhất, Tần Thủy Hoàng xây Vạn Lý Trường Thành thật
là hùng vĩ và cung A Phòng bị đốt cháy, khói lửa liên miên ba tháng mới
tắt; chu kỳ thứ hai, nhà Tùy đã đào Vận Hà, Tùy Dạng Đế đã xây Ly Cung
rất hoa lệ, xa xỉ đến cùng cực. Chu kỳ thứ ba thì Trường Thành được xây
đắp lại, hình thức mới này còn bền vững đến ngày nay. Đến đời Minh, niên
hiệu Vĩnh Lạc, nhà vua đã cho đào thêm một vài dòng Vận Hà và xây thêm
đập ngăn nước; trứ danh nhất là thành Bắc Kinh và pho “Vĩnh Lạc đại
điển” phải coi nó là một công nghiệp rất to tát của thời kỳ này.
Những
chu kỳ đó gồm: 1) Thời kỳ từ đời Tần đến đời Lục triều, rồi bị dân tộc
Thát Đát xâm chiếm (trước Thiên Chúa 221, đến sau Thiên Chúa 588 năm)
gồm lại là hơn tám trăm năm; 2) Thời kỳ từ đời Tùy đến lúc bị dân tộc
Mông Cổ xâm chiếm (từ 589 đến 1367 sau T.C.) gồm lại độ bảy trăm tám
mươi năm; 3) Thời kỳ này là chu kỳ hiện tại, từ lúc bắt đầu đời Minh cho
đến nay; chu kỳ này chưa đến phần kết thúc, nhưng cứ theo những dấu vết
lịch sử từ sáu trăm năm nay mà nhận xét, thì sự diễn tiến vẫn theo như
quỹ tích của chu kỳ trước, hai đời Minh, Thanh đã có một cuộc thái bình
đến năm trăm năm, vậy có thể coi như nhiệm vụ của chu kỳ này đã hoàn
thành, cuộc cách mệnh của Thái Bình thiên quốc năm 1850 là đợt sóng lớn
mở đầu cho một cuộc nội chiến, chúng ta hiện nay đang ở vào giai đoạn
chiến tranh, loạn lạc, đói kém đến mức độ cao nhất, tất cả những tai vạ
đó tiến triển là hợp với phương thức di truyền lại từ các đời trước, năm
1927 việc dời đô về Nam Kinh cũng là lẽ đó.
Như
vậy, có lẽ chúng ta chẳng cần bói toán cũng có thể biết trước cục diện
của hai trăm năm sau này: Nam, Bắc lại phân chia, Bắc bộ lại bị người
ngoài chinh phục. Tất cả những việc này lại tái diễn chăng?
Bác
sĩ Lee còn cho biết, trước chu kỳ thứ nhất là đời Chu, dấu vết lịch sử
cũng vẫn diễn tiến như vậy. Đời Chu là thời kỳ thứ nhất văn hóa Trung
Quốc nảy nở sán lạn, đẹp đẽ. Thủy tổ nhà Chu lên ngôi vua vào năm 1122
trước Thiên Chúa giáng sinh, qua chín trăm năm nhà Chu mất. Nửa trên của
chu kỳ này khoảng hơn bốn trăm năm, nội bộ Trung Quốc tương đối thái
bình, cường thịnh, từ năm 770 trước Thiên Chúa giáng sinh, bắt đầu bị
ngoại chủng ở phía Tây Bắc áp bức. Kinh đô bắt buộc phải dời về miền
Đông là vùng Lạc ấp. Bắt đầu từ đây, chiến tranh kéo dài, chư hầu liệt
quốc thôn tính, tranh cướp lẫn nhau, tình thế phân chia mỗi ngày một
quá, chính phủ trung ương dần dần mất hết quyền quân chủ phong kiến.
Thời kỳ từ năm 722 đến năm 481 trước Thiên Chúa giánh sinh, là thời kỳ
đức Khổng Tử chép pho sử biên niên là Kinh Xuân Thu, ghi việc theo thời
đại và thứ tự từng năm, vì thế thời kỳ này được gọi là thời Xuân Thu. Từ
năm 402 đến năm 221 trước Thiên Chúa được gọi là thời Chiến quốc, lúc
này nước Sở đã bành trướng lớn, lãnh vực gần chiếm hết nam bộ Trung Quốc
làm miền dân cư đã được khai hóa. Chu kỳ này kết thúc vào lúc Tần Thủy
Hoàng diệt hết chư hầu và thống nhất Trung Quốc, bằng một bộ lạc có dòng
máu man di với những phong tục, tập quán mới mẻ.
Một
sự pha trộn dòng máu Nhật Hoa, tuy là rất hiếm cũng đã sản sinh ra được
hai người Trung Hoa đáng kể: một là Trịnh Thành Công (Quốc tinh gia),
một tướng tài kháng cự tuyệt vọng với nhà Thanh, và Tô Mạn Thù, một thi
sĩ đầu thế kỷ này (chú thích của tác giả).
Những
sự kiện này phải dùng những nguyên nhân thuộc phạm vi nhân chủng, kinh
tế và khí hậu để giải thích. Vấn đề nhân khẩu quá thừa cũng là một
nguyên nhân chính. Trong khuôn khổ tự nhiên, dân tộc nào được một cuộc
sống thái bình độ bốn, năm trăm năm là tới mức nhân mãn. Không có nước
nào trên thế giới giữ được một nền hòa bình và văn hóa tiến triển đều
trong khoảng bốn, năm trăm năm. Không có lý do gì Trung Quốc lại ngoài
thông lệ đó. Tuy nhiên văn học sử của Trung Quốc hình như lại cho ta một
giải đáp khác. Mỗi khi gặp lúc Nam, Bắc phân tranh, cảnh nhiễu nhương,
thối nát sinh ra, nền móng đạo đức tan vỡ, tình trạng này thường phản
ảnh trong thi ca và những tác phẩm văn học khác. Tiết thứ nhất của
chương này có nêu ra một vài bài thơ ngắn cho thấy rõ điểm này. Chu kỳ
thứ nhất khi dân tộc phương Bắc vào xâm lấn được gọi là đời Lục triều,
từ đời Đông Tấn đến đời Tùy là triều đại thống nhất được Trung Quốc,
trong thời đó miền Hoa bắc hoàn toàn nằm vào khu vực của giống di địch
chiến thắng; chu kỳ thứ hai khi dân tộc phương Bắc xâm nhập, bắt đầu từ
đời Nam Tống cho đến lúc người Mông Cổ dựng nên cơ nghiệp nhà Nguyên,
thời kỳ này xã hội có những thói ưa chuộng ủy mị, văn học có phong cách
sa đọa, gần giống nếp sinh hoạt của thời Lục triều, Lục triều có lối văn
biền ngẫu phù hoa, lả lướt nổi tiếng, thì đời Tống, đời Nguyên cũng nảy
ra lối từ khúc có giọng điệu đẹp đẽ, ẻo lả, tình cảm chứa chan. Những
loại thi văn ấy. phong cách sở dĩ thấp kém không phải tại dùng chữ quá
nghèo nàn, thiếu thốn; mà lỗi tại dùng chữ quá rườm rà, phức tạp; không
còn ngầm chứa phong vị điền dã thuần phác, mà có vẻ ẻo lả ngây thơ, nõn
nà tế nhị của nơi khuê các. Người Trung Quốc ở những thời kỳ đó, thường
nảy ra một phong vị “fin de sièle” 1 trong văn học, nghệ thuật rất tinh
tế, và ý thức ưa chuộng nếp sống quý tộc phong mã.
Bởi
vậy thời kỳ này, ta thấy nghệ thuật hội họa và phép viết chữ rất phát
đạt. Giai cấp quý tộc nêu lên và truyền bá các hệ thống nghệ thuật, vấn
đề phê bình văn học của Trung Quốc cũng đến đời Lục triều mới thấy nổi
bật, rồi nhà thư pháp gia nổi tiếng nhất của Trung Quốc là Vương Hy Chi,
xuất thân trong một gia đình quý tộc, cũng ra đời đúng vào thời kỳ này.
Một nền chính trị yếu kém không còn kỷ cương, thường đi song đôi với
một nền nghệ thuật khéo léo, tỉ mỉ, nên thời kỳ này các vị vua chúa của
Nam triều, trên phương diện chính trị không đủ sức bảo tồn vững vàng
ngôi hoàng đế, nhưng có thể làm được những bài thơ tuyệt tác. Các ông
hoàng đế thi sĩ như vua Vũ Đế nhà Lương, Nam Đường hậu chủ, Trần hậu chủ
đều là những ông vua ở ngôi rất ngắn, nhưng lại là những “tay thánh” về
thi ca tình cảm; vua Huy Tông nhà Nam Tống là một họa gia nổi tiếng.
1 Tiếng Pháp trong nguyên bản
Tuy
vậy, nhưng mầm mống tân sinh của chủng tộc cũng được gieo xuống từ lúc
này, vì các vị vua anh hùng của Bắc triều chỉ là kẻ chiến thắng cầm
quyền ở triều đình mà thôi, còn các cơ cấu ở hạ tầng thì vẫn do người
Hán tộc nắm giữ. Giai cấp thống trị hùng mạnh của đời Bắc Ngụy là dòng
giống rợ Tiên Ti, họ chẳng những tiếp nhận văn hóa Hán tộc, lại còn công
khai dựng vợ, gả chồng với người Hán tộc nữa; nước Kim (giống Mãn) ở
thời đại Nam Tống tình hình cũng tương tự; trong cơ thể họ phần lớn là
dòng máu người Hán. Như vậy sự diễn biến lịch sử, quả thực đã tiến hành
như tác dụng ủ men rượu vậy. Những thời đại này cũng là thời đại tiếp
thu những ảnh hưởng của chủng tộc khác vào nền văn hóa Trung Quốc, cuối
chu kỳ thứ nhất Phật giáo và nghệ thuật điêu khắc của Ấn Độ được truyền
vào Trung Quốc, cuối chu kỳ thứ hai những vở hát và âm nhạc của Mông Cổ
được Hán hóa, đây là những chuyển biến rõ ràng trên lịch sử mà ta không
thể bỏ qua được. Đến vấn đề pha trộn dòng máu thì lại càng rõ ràng lắm,
những điểm phát hiện để ta nhận rõ là những đặc tính về ngôn ngữ và vóc
dáng của người miền Bắc ngày nay: họ vẫn còn giọng nói khó khăn, ấp úng
khi biến âm, vóc người cao lớn, tình tình vui vẻ nhưng chất phác, đó là
những đặc biệt của chủng tộc họ từ xưa. Sự pha trộn với những dòng máu
mới và sự hòa đồng trên địa hạt văn hóa là một nguyên nhân lớn để dân
tộc Trung Hoa trường tồn vậy.
3. TÁC DỤNG DO SỰ CỦNG CỐ CỦA VĂN HÓA
Những
gì trình bày ở phần trên, thực cũng chưa đủ giải quyết được toàn bộ vấn
đề. Vấn đề vẫn là dân tộc Trung Hoa làm thế nào để vượt qua những định
kỳ chính trị nguy hiểm để khỏi bị tiêu diệt dưới gót sắt của kẻ xâm
lược, như dân tộc La Mã bị tiêu diệt bởi người Lambards; sức giữ vựng
được nền tảng dân tộc và tài thu hút được dân tộc khác của người Trung
Quốc nằm ở những đặc điểm nào? Hãy nhận xét sâu xa vấn đề này, thì trước
tình cảnh hiện nay chúng ta mới có được một nhận thức đúng đắn.
Bản
chất dân tộc và sinh lực bền bỉ của nó có thể cho đó là phần tiên
thiên, còn phần nữa là sự giáo dục và kết quả của văn hóa, mặc dầu đặc
tính thoái hóa của giới tư sản quý tộc Trung Quốc đã giúp cho giống Hán
tộc vượt qua những tai vạ về chính trị và thu hút được dòng máu mới của
dân tộc khác mà dần dần đổi mới. Sự củng cố sức giữ gìn bền bỉ của dân
tộc do lực lượng văn hóa thì điểm có giá trị nhất phải kể ngay là chế độ
gia tộc của Trung Quốc. Chế độ này được tổ chức rất hoàn bị, nguyên tắc
đưa ra rất rõ ràng, cho nên bất cứ người nào cũng không thể quên được
dòng dõi tổ tiên mình. Cái chế độ gia tộc tiếp nối muôn đời ấy, người
Trung Quốc lấy nó làm vật quý có giá trị vượt lên trên tất cả những gì
quý giá ở đời, tâm lý này thực có màu sắc tôn giáo, thêm nữa là nghi
thức sùng bái tổ tiên càng làm tăng màu sắc đó, vì vậy ý thức này được
in sâu vào lòng người.
Một
chế độ gia tộc được tổ chức hoàn thiện lại ngầm chứa tính chất tôn giáo
ấy mỗi khi tiếp xúc với người dân chủng tộc khác có ý thức gia tộc lỏng
lẻo thì nảy ngay ra một hiệu năng có tác dụng rất mạnh. Dân tộc dã man
hay đứa bé hai dòng máu thường thấy thích thú trong việc đóng góp vào
gia đình để hưởng một danh phận trong thế hệ gia tộc nối tiếp mãi và say
mê trong một lý tưởng đẹp đẽ là nhận rằng phần xác một cá nhân dẫu
chết, nhưng linh hồn nó còn sống mãi, sống hòa vào dòng sinh mệnh của
gia tộc. Chế độ gia tộc này còn là nguyên nhân trực tiếp kích động số
lượng sinh sản của giống nòi. Nay muốn cho hương khói nhà họ Lâm còn
mãi, thì hẳn phải cần làm thế nào cho họ Lâm sinh sản nối đời, muốn họ
Lâm ngành ngọn tốt tươi thì sinh ra càng nhiều Lâm tí nhau càng tốt chứ
sao?
Có
thuyết cho rằng Trung Quốc đã thu hút cả giống người Do Thái ở miền Hà
Nam, cũng nhờ ở tác dụng của chế độ gia tộc này. Hiện nay giống người Do
Thái ở Hà Nam đã đồng hóa hoàn toàn với người Trung Quốc, tập quán
truyền thống không ăn thịt lợn của họ nay trở thành quá khứ. Ý thức dân
tộc của người Do Thái đã sớm bị mai một trong ý thức của một dân tộc
tương đối lớn đó là tổ chức gia tộc bành trướng của người Trung Quốc,
kết quả trên địa hạt biến hóa giống nòi, Trung Quốc đã thu hoạch được
một lợi ích vĩ đại. Còn các dân tộc kém hẳn người Do Thái về ý thức dân
tộc và ý tự tôn, chẳng hạn như dân tộc Thát Đát, nên họ xâm nhập lãnh
thổ Trung Quốc thì giống người thổ trước là Hán tộc thường giữ được ưu
thế hơn hẳn kẻ xâm lược, điểm này thật đã hiển nhiên. Vì vậy không cần
biết sự thay đổi của chính trị rồi sẽ đưa dân tộc đi đến đâu, nhưng các
gia tộc Trung Hoa sẽ mãi mãi là gia tộc Trung Hoa.
Lại
còn lực lượng văn hóa cũng là một điều kiện để củng cố cơ cấu xã hội
Trung Quốc; xã hội Trung Quốc không có giai cấp cố định tồn tại, vì thế
cơ hội nâng cao địa vị được công khai tuyệt đối, mọi người đều có quyền
hưởng chế độ khảo thí để lập công danh. Chế độ gia tộc tồn tại khiến con
cháu sinh sản thêm đông, làm số lượng của dân tộc lớn mãi lên, còn thi
hành chế độ khảo thí nên chọn lựa được người tài trí, khuyến khích sự
học nâng cao tính chất dân tộc, hai điều này thi hành song song, khiến
dân tộc Trung Hoa còn mãi. Chế độ khảo thí được định rõ ràng từ đời
Đường, mà ban đầu thoát thai từ chế độ tuyển cử của đời Hán. Trung Quốc
có câu tục ngữ: “Tướng, tướng bản vô chủng, nam nhi đương tự cường” (Tể
tướng, đại tướng vốn không bởi giống, người con trai nên cố gắng) thật
là nguyên lý cơ bản của chế độ khảo thí vậy.
Từ
đời Ngụy, Tấn trở về sau (thế kỷ thứ ba, thứ tư) quyền giám độc việc
tuyển cử thay đổi, biến ra một chế độ mới, dựng nên một ty đặt tên là
“Cửu phẩm trung chính” chuyên phê bình nhận định các nhân vật trong
vùng, để cung cấp theo những tiêu chuẩn dùng người của chính phủ, các
cấp trong Ty Trung Chính thì lấy người bản xứ có đức vọng làm việc trong
mọi phủ công, khanh, cùng các viên lang (thị lang) lại (đề lại) ở các
đài, tỉnh (phòng hành chính phủ, huyện, tỉnh) sung vào, nhân viên Ty
Trung Chính đã là quan lại, nên thường thân cận với các nhà giàu có,
quyền thế vì vậy việc bình nghị nhân vật thường có sự riêng tư thiên vị,
chỉ có lợi cho những nhà quyền thế mà mất hết tính chất của việc tuyển
cử, đương thời đã có câu ngạn ngữ “Thượng phẩm vô hàn môn, hạ phẩm vô
thế tộc” (giai cấp cao không có người hàn sĩ, giai cấp thấp nhất không
có con nhà thế gia lệnh tộc), thành ra nhà thế gia lệnh
tộc được nối đời vinh hiển, kẻ dân hèn nghèo khó không có lối để tiến
lên, vì lý do này đời Tấn đã nẩy ra một giai cấp quý tộc đặc biệt.
Đời
Đường lập ra chế độ khảo thí rõ ràng, gọi là “khoa cử”, nội dung nó các
đời sau cũng thay đổi đi nhiều, nhưng chế độ này đã tồn tại mãi đến năm
1905 mới chấm dứt, nó đã duy trì được một cửa ngõ cho mọi người tiến
vào quan trường, mọi người có thể từ địa vị nghèo hèn mà lập được công
danh. Tính chất của chế độ khoa cử không khỏi có tính cách máy móc, nó
không đủ sức lôi cuốn được những bậc kỳ tài, nhưng cũng đủ để lựa chọn
được nhân tài, và chỉ có thể coi là sự khảo hạch để trắc nghiệm thông
minh mà thôi. Chế độ khoa cử này khiến kẻ sĩ có tài cán ở hương thôn,
lần lần quy tụ vào thành thị, mà bổ sung cho phần tinh lực tiêu hao của
thượng tầng giai cấp, một mặt lại duy trì được chu kỳ tái tạo nội bộ để
kiện toàn xã hội. Chúng ta hãy nhìn qua những chứng tích lịch sử từ hơn
một nghìn năm qua, thì hẳn phải tin rằng chế độ khảo thí này đối với
phẩm chất của giai cấp thống trị đã có hiệu năng chọn được người tài,
thải được kẻ kém, nên nó đã giúp đỡ nhiều cho việc ổn cố xã hội.
Tác
dụng của chế độ khảo thí còn có điểm trọng yếu hơn nữa, là chẳng những
giai cấp thống trị từ nông thôn nẩy ra, mà nó còn trở lại với nông thôn
nữa, vì điển hình của nếp sống hương thôn vẫn được coi là đẹp đẽ lý
tưởng nhất. Lý tưởng về nông thôn được phô bày trong nghệ thuật, triết
học và trong cuộc sinh hoạt, rồi ăn sâu vào ý thức mọi người Trung Quốc,
mà trở nên một nhân tố lớn giúp cho sự kiện khang dân tộc ngày nay.
Điển hình cuộc sinh hoạt của dân Trung Quốc ngay từ lúc ban đầu là vẫn
giữ được sự bình hành giữa tập quán sinh hoạt nguyên thủy và văn minh,
thủ đoạn đó quả thực khéo léo? Phải chăng bản năng kiện
toàn đã dẫn dắt người Trung Quốc biết ưa chuộng cái văn minh trong nếp
sống cấy cầy và chán ghét những kỹ xảo máy móc, cùng lựa chọn được một
nếp sống đơn thuần? Phải chăng cái bản năng kiện toàn ấy đã làm cho họ
thấy rõ niềm vui sướng của đời người và không ưa những gì mệt thân, nhọc
trí, vì thế trên lãnh vực hội họa, văn học từ đời này qua đời khác đều
tán dương tư tưởng trở về đồng ruộng.
Bởi
càng sống gần thiên nhiên, càng dễ giữ được trạng thái lành mạnh của
thể xác và tư cách đạo đức. Con người sống ở nông thôn không bị hủ hóa,
chỉ có con người sống ở thành thị là suy bại. Hạng người có học và hạng
người có nếp sống trung bình ở nơi thành thị, luôn luôn nghe thấy tiếng
gọi của đất lành. Những bức thư gửi cho gia đình, hay những bức thư
khuyên răn con em của các nhà học giả trứ danh, nội dung luôn luôn chứa
đựng tư tưởng này, chẳng những đã miêu tả được một phần trọng yếu cái
dung mạo của nền văn minh Trung Quốc, mà đối với sự trường tồn của dân
tộc Trung Hoa thực đã cống hiến những gì vi diệu và sâu sắc. Trong lúc
rảnh rỗi, tôi đã lựa chọn bài văn sau đây, nó là một bức thư gửi cho em
của Trịnh Bản Kiều (1693-1765) nội dung rất thành thực đáng yêu, có thể
góp phần vào những tác phẩm vĩ đại của thế giới.
Em ta,
Chỗ
nhà đất em vừa mua, kín đáo chắc chắn, thật là chỗ ở rất tốt. Có điều
thiên tỉnh (khoảng trống giữa nhà) nhỏ quá, trông lên thấy khoảng trời
không được rộng, anh vốn tính ưa phóng khoáng nên không thích ở như vậy.
Từ miếng đất này đi ngược lên phía bắc độ một trăm bộ đến cầu Anh Vũ,
lại từ cầu Anh Vũ lên lầu Hạnh Hoa độ ba mươi bộ (5 thước) khoảng đường
này hai bên còn nhiều đất trống; lúc còn trẻ có lần anh ngồi uống rượu ở
đấy, thấy có miếng đất hoang vu, một quãng đê xơ xác liễu già, dưới cây
cầu khe nước nhỏ róc rách, lòng thật ưa thích; nếu có được năm chục
nghìn chế tiền, thì có thể mua được một bãi đất rộng, để sau này làm nhà
ở. Ý anh chỉ muốn dựng một căn nhà vách đất, trước cửa trồng trúc,
liễu, cỏ, hoa, lấy gạch vụn lót một con đường nhỏ đi từ cổng vào; bên
trong nhà tranh chia làm hai gian, một gian để tiếp khách, một gian làm
viện chứa sách vở, kinh sử, đồ họa, bút nghiên, rói chén uống rượu, đồ
chuyên trà để cùng bè bạn và bọn con em bàn luận văn bài ngâm thơ vịnh
phú ở đó. Sau căn nhà này dựng ba gian nhà ở, nhà bếp hai gian, chỗ ở
cho người làm một gian, cộng tất cả làm tám gian, đều lợp tranh, thế là
đủ lắm rồi. Lúc tinh sương mặt trời chưa mọc, nhắm về đông một dải mây
hồng, chiều đến ánh tà dương nhuộm lá, đứng chỗ cao trước viện nhìn ra
mây nước ngang cầu. Trong nhà thết khách, ngoài tường, kẻ qua lại thấy
rõ ánh đèn. Phía nam cách nhà em độ trăm ba chục bộ, phía đông là một
mảnh vườn nhỏ, một lạch nước chảy qua thật là tiện quá. Có người nói
rằng: “Chỗ ở như vậy rất tốt, nhưng chỉ e trộm cướp”. Anh thì nghĩ rằng
trộm cướp cũng chỉ là dân nghèo, vậy ta mở cửa đón vào, thương lượng với
họ để chia nhau cùng hưởng những gì vốn có; cái gì tiện dụng cho họ thì
họ lấy đi; nếu chẳng một thứ gì đáng giá, thì đến cái thảm xanh của
Vương Hiến Chi1 cũng có thể lấy được, cầm độ trăm tiền để cứu cấp tạm
khi cần vậy.
Em
hãy lưu tâm miếng đất ấy, để người anh cuồng phóng này có chỗ yên vui
lúc tuổi gia, nhưng không biết có được toại nguyện không nhỉ?
1
Thảm xanh của Vương Hiến Chi: Hiến Chi có một đêm bị cướp vào lấy vơ
vét của cải đồ vật. Lúc cướp sắp ra, ông nói: cái thảm xanh là vật cũ
của nhà tôi xin hãy để lại. Đây ý nói của gia bảo.
Đoạn
văn này, có thể lấy làm điển hình về một khía cạnh tình cảm trong văn
học Trung Quốc. Cái tư tương điền viên của Trịnh Bản Kiều bắt nguồn từ
một ý nghĩa nên thơ, đồng tình với nông phu nghèo khổ, ý nên thơ đó có
tính chất thiên nhiên hợp với tinh thần Đạo giáo. Còn tư tưởng điền viên
của Tăng Quốc Phiên thì bắt nguồn từ lý tưởng bảo tồn gia tộc, rất gần
với chế độ gia tộc của Khổng giáo. Tư tưởng về nếp sống điền viên, rõ
ràng là một bộ phận của chế độ xã hội, chế độ xã hội này đã khiến gia
tộc trở nên một đơn vị của hệ thống chính trị văn hóa, rồi chính trị văn
hóa lại khiến xóm làng thành một đơn vị. Tăng Quốc Phiên ở chức quan to
trong tay nắm giữ binh quyền lúc đó, nhưng những bức thư gửi về nhà cho
con cháu (cháu gọi bằng chú bác) thường luôn luôn khuyên nhủ phải tránh
nếp sống xa xỉ làm sang, cố gắng việc cấy lúa, trồng rau chăm hoa, xới
bón. Những khuyên bảo nên cố gắng, giữ nếp sống thật thà mộc mạc và chịu
khó cần lao đều ngầm chứa hy vọng đến mục đích giữ cho gia tộc phồn
thịnh, yên lành, những ý này thật rõ ràng vậy.
Nếu
nếp sống thật thà mộc mạc khiến cho gia tộc được phồn thịnh, yên lành
lâu dài, thì đồng thời nó cũng giúp cho quốc gia như vậy. Lý tưởng của
Tăng Quốc Phiên thật dễ dàng nhận thấy. Ông cho rằng:… thường một nhà
quan cách (làm quan) con em quan thói xa xỉ, nên chỉ thịnh vượng được
một hai đời; nhà làm ăn buôn bán, thường cần kiệm, cố gắng, nên sự phồn
thịnh cũng được ba bốn đời; còn nhà làm ruộng đọc sách vốn thật thà,
thận trọng thì sự phồn thịnh được đến năm sáu đời; nếu biết tu chỉnh đức
hạnh: ở nhà có hiếu đễ, ra ngoài biết giữ trung tín, thì sự phồn thịnh
có thể được đến bảy tám đời. Vì thế Tăng Quốc Phiên lấy việc thả cá,
nuôi heo, trồng rau, trồng trúc là bốn điều cần yếu trong nhà. Thư gửi
về nhà cho các em có đoạn ông viết: … trong nhà thì việc trồng rau,
quyết không thể sao nhãng được. Ao trước cửa phải nuôi cá, đó cũng là
một nguồn lợi, nuôi heo cũng là một việc trọng yếu trong nhà, trên nhà
gò phía sau, trúc mới trồng qua ba tuần nắng hạ có bị khô héo không! Bốn
việc này khiến người ta có thể thấy rõ khí tượng hưng suy của một nhà,
mà cũng là sự kính cẩn vâng lời dạy bảo của tổ tiên, lại cũng là khuôn
phép để chỉ dẫn con cháu, vậy cần lưu ý luôn luôn…”. Nội dung đoạn thư
ông đã nhấn mạnh đến điểm thuần phác như vậy.
Từ
lời gia huấn của Nhan Chi Suy (531-591), Phạm Trọng Yêm (898-1052), Chu
Hi (1130-1200) cho đến những gia huấn của Trần Hoằng Mưu (1696-1771)
Tăng Quốc Phiên (1811-1872), cái lý tưởng cần cù, thuần phác chuộng sự
đơn giản trong nếp sống gia đình, đều được mọi nhà giữ vững, mà coi nó
là định luật đạo đức truyền thống, rất có giá trị của dân tộc. “Giản dị”
là một chữ lớn trong văn chương Hy Lạp, thì chữ “thuần phác” cũng là
một liên ngữ lớn trong văn chương Trung Hoa. Hình như loài người vốn vẫn
biết văn minh là lợi ích, nhưng đồng thời cũng nhận ra tính chất nguy
hiểm của nó. Loài người biết thế nào là hạnh phúc và khoái lạc trong
cuộc sống đồng thời tính chất ngắn ngủi sớm sinh, chiều mất cũng thường
được thức tỉnh trong lòng, họ thường lo sợ sự ghét ghen của con tạo, cho
nên thà sống thuần phác mà được dài lâu vẫn hơn. Nếu ở đời được hưởng
những điều sung sướng may mắn quá phận, thì người Trung Quốc cho rằng vì
đó mà đời mình giảm bớt phúc phận. Vì thế, “người ta nên tìm hạnh phúc
mà tránh tai vạ, hai điểm này nên nhận rõ”. Một học giả cuối đời Minh
lại nói “người ta nên tìm lấy cái hạnh phúc nào có thể gọi là thanh
đạm”, trong lòng mọi người Trung Quốc đều có một tâm lý như vậy. Hạnh
phúc và sự giàu có của đời người có tính chất không xác định, mà sống
trở lại với sự chất phác, chân thực là phương pháp duy nhất để phòng
ngừa và bảo vệ cho cuộc đời. Đó là lẽ thật không chối cãi được, người
Trung Quốc lấy trực giác mà nhận ra, họ muốn gia tộc trường tồn, rồi nhờ
đó mà khiến dân tộc cũng được trường tồn.
4. TÍNH CHẤT NON TRẺ CỦA CHỦNG TỘC
Bởi
vậy ta thấy rằng, nhân dân Trung Quốc tránh khỏi sa ngã trước nguy cơ
chính trị, là do họ không tin tưởng vào văn minh mà chỉ cần giữ được nếp
sinh hoạt nguyên thủy. Có thể phải hiểu văn minh Trung Quốc theo một
nghĩa đổi khác nhiều, cái văn minh đó là sự ưa chuộng, trạng thái nguyên
thủy là văn minh, và chưa muốn thoát ly trạng thái nguyên thủy. Đương
nhiên nó không phải là một nền văn minh hoàn hảo về mọi phương diện, nó
không thể bảo đảm tránh được tất cả các thời kỳ loạn lạc, lưu huyết,
cũng không có thể khiến chiến tranh, đói kém, thủy tai mất hẳn ở đời
này.
Trải
qua thời gian hai ngàn năm được coi là sống văn minh đã sản sinh được
một số sử liệu sống động, khiến các nhà văn có tài liệu viết nên những
bộ truyện xuất sắc như bộ Thủy Hử chẳng hạn, bối cảnh thời đại của bộ
truyện này thật ác liệt hủ bại, đến nỗi có khi người ta còn ăn thịt
người, chẳng phải nó cho ta biết tầm mức cái bí mật cơ cấu của một xã
hội liên tục chống lại sự phá hoại của văn minh Tống Giang, Lý Quỳ và
các tay hảo hán ở Lương Sơn Bạc dẫu sống xa thời đại của Khổng Tử đến
một nghìn năm trăm năm, không hiện ra như những nhân vật tiêu biểu cho
một nền văn hóa đã cằn cỗi già nua, mà có thể nói rằng họ là những hài
nhi sung sướng của một nền văn hóa vừa ló dạng. Bọn họ sinh trưởng ở một
thời đại mà cuộc đời không có gì bảo đảm an ninh. Dân tộc Trung Quốc
hình như vẫn chưa đạt tới tuổi già nua thành thực với Khổng Tử mà vẫn
hưởng thụ mãi mãi nếp sống trẻ thơ kéo dài.
Do
đó đã đưa đến một vấn đề lý thú lớn lao trên cơ cấu dân tộc: Ví ta đứng
trên phương diện nhân chủng học coi dân tộc Trung Hoa như một thực thể,
thì những đặc tính của nó biểu hiện ra cho thấy không phải nó là một
người già mà trái lại tỏ ra nó đương ở tuổi thơ ngây mà còn lâu nữa nó
mới đến được thời kỳ thành thực của một dân tộc? Điểm này có thể chia
làm nhiều khía cạnh mà nói, Trung Quốc trên phương diện văn hóa thì quả
là đã già nua, nhưng sinh mệnh của chủng tộc thì vẫn còn non nớt. Cái lý
luận này, hiện thời trong giới nhân chủng học rất nhiều người nói đến.
Griffith Taylor đã lấy lẽ đó mà đặt Trung Quốc vào hạng ấu trĩ trong sự
tiến hóa của nhân loại. Havelock Ellis cũng cho rằng nhân dân Á châu còn
giữ được tính dung hòa, nhu thuần do tuổi nhi đồng thuần phác sinh ra,
nó gần với bản chất của con người thời nguyên thủy, khi chưa đạt tới
thời kỳ đặc tính phát triển. Vậy danh từ “tuổi nhi đồng kéo dài” có thể
coi là đúng, nếu dùng những danh từ “ấu trĩ tính” “đình chỉ phát triển”
“trầm trệ tính” thì có thể rất dễ hiểu lầm.
Cho
rằng văn hóa của Trung Quốc đứng lại là một khái niệm sai lầm của người
chỉ quan sát bề ngoài mà không nhận rõ sự sinh hoạt bên trong, bạn chỉ
cần nghĩ đến sự phát đạt của ngành đồ sứ Trung Quốc. Người Tây phương đã
hiểu lầm về ngành kỹ nghệ này, họ cho rằng nó đã phát triển từ thời
Khổng Tử rồi truyền bá đến ngày nay. Thật ra bắt đầu từ thế kỷ thứ mười
ngành kỹ nghệ này mới bắt đầu có mầm mống. Sau đó tiến bộ dần dần, đến
thế kỷ thứ mười bảy vào khoảng niên hiệu Khang Hy, Càn Long, mới thật
được hoàn toàn tinh xảo; thời kỳ này cách chúng ta không xa gì, mà trái
lại hình như ngay ở trước mắt. Nghề sơn mài, ấn loát, hội họa tiến bộ
cũng rất chậm, nhưng qua mỗi triều đại thẩy đều có tiến lên một bước,
nổi tiếng xa gần là nghệ thuật hội họa của Trung Quốc, nhưng nó bắt đầu
ra đời cũng mới được độ gần một ngàn năm, đó là thời kỳ muộn trong một
nền văn hóa lâu đời vậy. Trên phương diện văn học, ban đầu chỉ cần xét
sự phát đạt trễ muộn của lối tản văn hùng tráng (prose epic) và loại
tiểu thuyết chí dị về Thủy Hử và Tây Du Ký phải cho là tản văn hùng
tráng và tiểu thuyết chí dị. Thời kỳ hoàn thành của những tác phẩm loại
này đều từ thế kỷ 11 trở về sau, cách xa thời kỳ Khổng Tử, Lão Tử đến
gần hai ngàn năm.
Có
điều lạ là cổ đại Trung Quốc không có anh hùng ca, hay có thể cho rằng
nó gặp những tai ách, biến đổi mà mất đi nên không còn một dấu gì sót
lại đến ngày nay. Thơ tự sự đến đời Hán mới thấy xuất hiện, nhưng mới có
rất ít. Các vỏ hát phát đạt vào đời Nguyên, lúc này là thế kỷ 11, tiểu
thuyết ảo tưởng Tây Du Ký cũng ra đời lúc này, là lúc tư tưởng người
Trung Quốc bị triết lý Phật giáo kích thích. Loại tiểu thuyết đúng nghĩa
mãi đến thế kỷ thứ chín mới bắt đầu có mầm mống, mãi đến thế kỷ thứ 14,
15 mới phát đạt đến đầu đời Thanh thì phồn thịnh nhất với cuốn Hồng Lâu
Mộng; tác phẩm này tương đương với cuốn Clarissu Harlowe, mà lại ra đời
cùng một thời. Giả thử sau Khổng Tử độ vài thế kỷ văn hóa Trung Quốc
phồn thịnh lên rồi điêu tàn đi như văn hóa Hy Lạp, thì có lẽ nó cũng chỉ
để lại cho chúng ta được một số nhỏ những câu cách ngôn về đức hạnh và
một số ca dao bình dân mà thôi, đâu có được những kết quả vĩ đại về hội
họa, tiểu thuyết, kiến trúc rạng rỡ trên đàn nghệ thuật thế giới? Có vẻ
như là không phải chúng ta đang chứng kiến sự đứng dừng của một nền văn
hóa đã tới thời cực thịnh như văn hóa Hy Lạp, mà là đang chứng kiến tuổi
ấu thơ kéo dài của một chủng tộc, trải hàng nghìn năm rồi mới đạt tới
thời kỳ toàn thịnh, rồi có lẽ sẽ còn can đảm để tìm cuộc phiêu lưu tinh
thần nữa.
CHƯƠNG II
ĐỨC TÍNH NGƯỜI TRUNG QUỐC
1. TÍNH CHÍN CHẮN (VIÊN THỤC)
Đức
tính (character) là một chữ thuần túy điển hình Anh quốc. Ngoài trừ
nước Anh, rất ít có nước nào trên lý tưởng giáo dục và nhân cách lại lấy
“đức tính” làm trọng như Trung Quốc. Tâm linh người Trung Quốc như hoàn
toàn bị đức tính ngự trị, khiến cho tất cả bộ môn triết học của họ,
không chỗ nào không nhắc nhở tới nó. Hoàn toàn xa lánh mọi tư tưởng thế
ngoại và không bị lôi cuốn bởi sự tuyên truyền khoe khoang của tôn giáo,
đức tính đã được vun trồng làm trung tâm lý tưởng. Từ văn học, hí kịch,
ngạn ngữ đều được dùng làm sức mạnh dẫn dắt nó đến với cả người nông
dân ở hạ tầng giai cấp, khiến họ đã có cái nương tựa để noi theo triết
lý nhân sinh. Chữ “character” trong Anh ngữ chẳng qua chỉ biểu hiện được
ý nghĩa của sức mạnh, dũng khí, tính nết riêng, cũng có khi chỉ sự uất
ức phát hiện trong lúc tức giận, thất vọng mà thôi; còn chữ “đức tính:
trong văn học Trung Hoa gợi cho ra một ấn tượng con người tính tình ôn
hòa và chín chắn, con người đó dù sống trong hoàn cảnh nào cũng giữ được
trái tim bình tĩnh không dao động, sáng suốt nhận định về mình, và cũng
sáng suốt nhận định người khác.
Các
nhà lý học đời Tống rất tin tưởng rằng “tâm” có thế lục rất mạnh có thể
khống chế được mọi tình cảm. Họ tự phụ nói quyết rằng người ta nếu làm
cho bản tâm mình được sáng suốt và hiểu rõ được lẽ sống của con người
thì có thể thắng được những hoàn cảnh bất lợi. Cuốn Đại Học là sách nhập
môn của Khổng giáo. Trẻ con của Trung Quốc mới đi học thường bắt đầu
học ngay sách đó. Trong sách này định nghĩa bốn chữ “Đại học chi đạo” là
“tại minh minh đức” (cái đường lối của Đại học là làm sáng tỏ cái đức
sáng trời đã phú cao) cái ý nghĩa đó e rằng không thể dùng tiếng Anh để
giải thích được, chỉ có thể nói đó là trí thức được vun đắp rồi phát
triển đi đến chỗ sáng suốt nhận định. Sự hiểu rõ chín chắn những bẩm
tính về đời người và con người vốn là lý tưởng về đức tính của Trung
Quốc. Thực tế thì lực lượng của đức tính tức là lực lượng của tâm! Các
học giả của môn phái Khổng Tử đã đưa ra một thuyết rằng: Một cá nhân nào
đã được huấn luyện về trí dục trở nên đức hạnh như đã nói ở trên, thì
chúng ta có thể cho rằng “đức tính” của người đó đã nảy nở vậy.
Thường
thường sự tu chỉnh và tiến bộ của những đức hạnh đó nhờ vào sức mạnh
của thuyết túc mệnh trong Nho giáo. Trái với điều mọi người thường lầm
tưởng thuyết này là nguồn gốc của hòa bình và an phận. Một cô gái đẹp
lại có tài cán muốn phản đối một cuộc hôn nhân không xứng đáng, nhưng
nếu hoàn cảnh ngẫu nhiên nào đó trong khi gặp mặt anh chàng khiến nó tin
rằng đó là ý trời muốn dẫn dắt cho hai người kết hợp thành vợ thành
chồng, thì lập tức nó nhận ngay rằng đó là mệnh vận và trở nên người vợ
vui vẻ và an phận. Bởi trước mắt nó người chồng đó là mối oan gia đã
định sẵn trong số mạng mình. Tục ngữ Trung Quốc có câu “oan gia từ kiếp
trước, gặp nhau ở quãng đường hẹp”. Nhờ lý luận giải thích đó vợ chồng
nó thân ái sống với nhau, rồi cũng có lúc lời qua tiếng lại, dằng xé,
đánh nhau nhưng đó cũng là oan trái như vậy. Nó tin rằng cao quá đỉnh
đầu ba thước là có thần minh soi xét, ông đã có ý định khiến họ không
sao tránh được sự cãi lộn, ẩu đả đó.
Chúng
ta nếu kiểm điểm, thảo luận kỹ về dân tộc Trung Hoa, rồi miêu tả những
đức tính của dân tộc đó thì chúng ta có thể kể ra những đặc tính sau
đây: 1) ổn kiện (vững vàng cẩn thận); 2) thuần phác, 3) ưa thích tự
nhiên, 4) nhẫn nại, 5) thế nào cũng được, 6) lõi đời, 7) mắn đẻ, 8) chịu
khó, 9) thanh đạm, 10) yêu mến nếp sống gia đình, 11) hòa bình, 12) an
phận, 13) hài hước thú vị, 14) bảo thủ, 15) hiếu sắc. Đại thể như trên,
những tính tình này dân tộc nào cũng hay có. Trên đây cho rằng những
tính tình đó đều nằm trong đức tính, nhưng thực tế có vài cái là những
tính xấu chứ không phải tính tốt, một vài tính thì vô thưởng vô phạt,
những tính đó là những nhược điểm của dân tộc Trung Hoa mà đồng thời nó
cũng là một sức mạnh. Tâm trí mà vững vàng cẩn thận quá thì thường làm
mềm yếu sức mạnh của trí tưởng tượng và làm sút kém sự huy hoàng của
ngông cuồng lý thú; tính hòa bình có thể trở nên tính xấu là nhát sợ;
tính nhẫn nai có thể biến ra thái độ khoan dung lệch lạc là dung nạp tội
ác; tính bảo thủ có lúc trở nên thói xấu chậm chạp lười biếng, còn sinh
đẻ nhiều thì đối với dân tộc là một điều tốt, nhưng đối với cá nhân thì
cũng là một khuyết điểm.
Tất
cả những tính chất trên đây đều có thể thâu tóm nằm trong danh từ “viên
thục” (ù lỳ chín chắn). Nó đều có tính cách tiêu cực, nó cho thấy rõ
tính cách trầm tĩnh tiêu cực, không có một chút lực lượng hoạt bát của
tuổi thanh niên và thiếu hẳn tính chất phóng túng, nhiệt tình. Nó lại
còn cho thấy tính chất của văn hóa hình như lấy sức cầm cự và chịu đựng
làm nền tảng, mà thiếu hẳn tính chất tiến thủ và tinh thần quyết thắng.
Đó là thứ văn hóa khiến cho mỗi cá nhân bất cứ gặp hoàn cảnh nào cũng
chỉ biết tìm lấy hòa bình. Khi một cá nhân giàu tinh thần thỏa hiệp và
tự mãn trong trạng thái hòa bình thì hắn không hiểu được sự nhiệt tình
tiến thủ và đổi mới của tuổi trẻ. Đó là một nền văn hóa cổ kính của một
dân tộc già nua, biết được chân giá trị của cuộc đời mà không chịu mệt
nhọc một cách vô ích để tìm đến một mục đích vu vơ không thể đạt được.
Người Trung Quốc coi địa vị của tâm quá cao, đến nỗi vì đó mà bỏ những
hy vọng và lòng ham thích tiến thủ. Vô hình trung họ đã phổ biến một
định luật: “Hạnh phúc không phải là vật chúng ta cố tìm mà thấy được”,
vì thế họ bỏ mất cả lòng mong muốn hạnh phúc. “Lui một bước” như người
Trung Hoa thường nói, họ thấy hạnh phúc nằm nép trong bàn tay, suýt chết
nghẹt trong khi họ sốt sắng đuổi theo một cái bóng ma.
Cái
gọi là viên thục đó là vật nẩy ra do một hoàn cảnh đặc thù. Trên thực
tế thì dân tộc nào đặc tính của họ cũng có một tính chất cộng thông cơ
hữu. Tính chất đó có thể hiểu được bằng hoàn cảnh xã hội, hay chính trị.
Cho nên “viên thục” đã bất kỳ nẩy ra trong hoàn cảnh xã hội Trung Quốc,
như một giống lê đặc biệt đã nảy nở trong ruộng đất tự nhiên của nó. Đã
có những người Trung Quốc sinh trưởng ở Mỹ quốc và sinh trưởng trong
hoàn cảnh khác, nên họ cũng không có những đức tính phổ thông của một
người Trung Quốc: giọng hát âm kỳ quái đơn thuần ở mũi của họ và lối nói
năng thố suất mạnh mẽ của họ có thể làm tan vỡ một giáo ban; họ đã
thiếu hẳn cái ưu điểm đặc biệt của người Trung Quốc là tính chất viên
thục của đức nhu hòa. So sánh lớp sinh viên đại học của Trung Quốc với
thanh niên Mỹ quốc cùng ở tuổi ấy thì họ có vẻ già dặn hơn; vì người
thanh niên Trung Quốc khi mới vào đại học ở Mỹ quốc năm đầu, thường
không thích đá banh, hay lái xe hơi. Bọn họ đã có cái thị hiếu, cái hứng
thú của một người trưởng thành quá sớm; đại đa số họ đã lập gia đình,
rồi gia đình và người vợ yêu quý đã ràng buộc tâm họ, lại còn cha mẹ
khiến họ phải để tâm đến, hay còn phải giúp đỡ cho một vài người anh em
con chú, bác đi học. Vì có trách nhiện gánh vác nên đã khiến con người
trở nên nghiêm trang, đúng mực, rồi quan niệm truyền thống của văn hóa
dân tộc đã khiến tư tưởng của họ trở nên vững vàng, cẩn thận quá sớm,
đối với quá trình phát triển tự nhiên của sinh lý.
Thực
ra, cái viên thục của người Trung Quốc không bởi sách vở nẩy ra nó, mà
do hoàn cảnh xã hội mà có; cái xã hội đó nhìn sự nhiệt tình mạnh mẽ của
giới trẻ, thì cười đến vỡ bụng. Người Trung Quốc có một tính đã ăn sâu
là coi khinh nhiệt tình của giới trẻ và những tính toán mới mẻ về việc
cải cách xã hội. Họ chê cười sự tiến bước quá bạo của giới thanh niên và
sự tin tưởng “trên đời này không có việc khó”, vì thế người thanh niên
Trung Quốc đã sớm bị dạy dỗ là phải ràng mồm, gắn miệng trước mắt người
lớn, không được nói năng bừa bãi. Thanh niên Trung Quốc cũng rất mau
hiểu ra lẽ đó, nên họ cũng không dám cứng đầu, cứng cổ mà điều khiển kế
hoạch đổi mới xã hội, mà ngược lại còn phụ theo để chê bai, chỉ trích,
vạch ra những cái trắc trở khó khăn và bằng cách như vậy họ bước vào xã
hội của hạng người trưởng thành. Do đó các sinh viên tốt nghiệp ở Âu Mỹ
về thì làm ngay nghề chế thuốc đánh răng, được mệnh danh là “thực nghiệp
cứu quốc”; hay là dịch một vài bài thơ ngắn của nước Mỹ và gọi đó là
“giới thiệu Tây dương văn hóa”. Lại còn vì phải gánh vác đại gia đình,
phải giúp đỡ anh em trong họ tìm một chỗ ngồi. Nếu như anh ta giữ một
chức trong ngành giáo dục, thì tình thế không cho phép anh ngồi yên ở
cái ghế đó được, mà anh ta phải tìm ra một phương pháp nào để thăng
chức, giả dụ như được thăng chức khoa trưởng một trường đại học, thì đó
mới là phần tử tốt của gia đình. Cái quá trình ngỏng cổ lên trên mà leo
đó, đã dạy cho con người đó những bài học vững chắc về cuộc đời và tình
người. Nếu hắn vượt khỏi được những kinh nghiệm đó, mà vẫn còn là một
thanh niên đầy nhiệt huyết, ngây thơ ở tuổi ngoài ba mươi, còn hăng hái
chủ trương những việc cải cách để tiến bộ, thì không phải là một thằng
rất ngu nổi hứng, thì cũng là một thiên tài loạn óc.
2. NHẪN NẠI
Nay
lại xin nói đến ba đức tính rất ác liệt và trọng yếu: Nhẫn nại, thế nào
cũng được, lõi đời khinh bạc. Những đức tính này do đâu mà nảy ra? Tôi
tin rằng nó là kết quả của văn hóa và hoàn cảnh tạo ra. Những đức tính
này không chắc hẳn là một bộ phận của tâm tính người Trung Quốc. Sở dĩ
nó còn mãi đến ngày nay là vì chúng ta sinh tồn hàng vài ngàn năm chịu
ảnh hưởng của nền văn hóa và xã hội nào đó. Nếu các ảnh hưởng đó được
trừ bỏ đi, thì các phẩm tính đó cũng yếu kém rồi biến mất, đó là kết quả
tự nhiên. Tính nhẫn nại là kết quả của vấn đề dân tộc tìm cách sống
thích hợp với hoàn cảnh, ở một nơi nhân khẩu quá đông và áp lực kinh tế
khiến người dân không còn đủ chỗ sống rộng rãi thoải mái phải chen chúc,
thêm nữa lại do kết quả của chế độ gia tộc mà gia đình vốn là xã hội
Trung Quốc thu nhỏ. Tính “thế nào cũng được”, một phần lớn cấu tạo ra
bởi vấn đề tự do cá nhân thiếu hẳn sự che chở của pháp luật, mà pháp
luật lại không có hiến pháp để bảo chứng và kiểm soát. Tính lõi đời
thành khinh bạc khơi nguồn từ nhân sinh quan của người theo Đạo giáo, -
danh từ “lão hoạt tiếu bì” lõi đời thành khinh bạc chưa đủ nêu rõ được
nội dung huyền diệu của phẩm tính đó, nhưng cũng không tìm được từ ngữ
nào thích đáng hơn để hình dung nó. Đương nhiên, ba phẩm tính nêu trên
đều nẩy ra trong một hoàn cảnh, nhưng ta cho mỗi tính do một nguyên nhân
khác nhau, là cốt để thấy rõ điểm đặc biệt của nó vậy.
Nhẫn
nại là một tính tốt rất quan trọng của người Trung Quốc, không ai có
thể nghi ngờ gì điều đó và nó cũng không có gì đáng để phê bình, bài
bác. Thế mà trên thực tế, nó cũng có phương diện đáng phải phê bình và
bài bác, hơn nữa có thể coi nó là một tính xấu. Nhân dân Trung Quốc đã
từng nhẫn nại để chịu đựng những vua chúa tàn bạo, chính trị hà khắc, và
tất cả bao nhiêu thảm sầu của những giai đoạn hỗn loạn vô chính phủ,
sức chịu đựng này vượt hẳn người Tây phương, vả chăng họ còn cho rằng
những thống khổ đó là một phần của tự nhiên, mà người Trung Quốc gọi nó
là ý trời. Một miền ở tỉnh Tứ Xuyên, đã bị dự thu thuế luôn ba mươi năm,
đóng một lúc, thế mà nhân dân ngoài việc chửi rủa ngấm ngầm, không thấy
có một sức phản kháng nào. Nếu lấy sự nhẫn nại của tín đồ Cơ Đốc giáo
đem so sánh với sự nhẫn nại của người Trung Quốc thì có thể còn coi là
nóng nảy; tính nhẫn nại của người Trung Quốc có thể nói là trên đời này
có một không hai, cũng như đồ sứ sản xuất vào niên hiệu Cảnh Thái (1450)
của Trung Quốc đã được coi là độc nhất trên thế giới. Những nhà du lịch
thế giới, thiết tưởng nên mang về một chút chất “nhẫn nại” của người
Trung Quốc, cũng như họ đã mang đồ sứ đời Cảnh Thái về nước, bởi thật
thà mà nói thì cá tính đó không đâu bắt chước hay làm giả được. Chúng ta
chịu sự hà khắc, sưu cao thuế nặng của bọn vua chúa tàn bạo, như những
con cá nhỏ bơi vào miệng con cá lớn, vì vậy có ý kiến cho rằng nếu sức
chịu nhịn nhục đau khổ của chúng ta kém đi một chút, thì tai vạ ta phải
chịu có lẽ chưa biết chừng cũng nhỏ bớt đi. Thế mà sức chịu đựng mài dũa
này được đặt cho một cái tên gọi rất đẹp là “nhẫn nại”, rồi môn luân lý
học của họ Khổng lại luôn luôn lấy sự nhẫn nhục chịu đựng làm một tính
tốt nền tảng để dạy dỗ con người, thế thì biết làm sao. Tuy vậy chúng ta
cũng phải nhận rằng nhẫn nại là một đức tính tốt lớn của người dân
Trung Quốc. Chúa Cơ Đốc đã nói: “Đáng ban phúc lành: Ôn hòa, lương
thiện, khiêm tốn, cung kính, chỉ có hạng người ấy mới có thể vâng mệnh
nhận lấy thế giới này”; tôi dám tin hẳn rằng Trung Quốc đã lấy đức tính
nhẫn nại mà vâng mệnh nhận khoảng đất rộng một nửa đại châu mà giữ được
nó. Trung Quốc vốn coi nhẫn nại là một đức tính đáng được đề cao và tôn
sùng; chúng ta có câu tục ngữ: “Tiểu bất nhẫn tắc loạn đại mưu” (không
nhịn nhục ở điểm nhỏ, thời sai lầm trong mưu toan lớn).
Nơi
trường sở tốt nhất để huấn luyện đức tính đó là dưới mái một đại gia
đình, ở đó có một nhóm nàng dâu, em vợ, em rể, anh rể, cha già con bé,
sớm chiều tập luyện mãi đức tính đó hết sức chịu đựng nhịn nhục nhau,
trong một đại gia đình, không có chỗ nào riêng tư, không có đủ chỗ rộng
rãi thoải mái cho cá nhân. Mọi người, trên thực tế vì nhu yếu cuộc sống
và do sự dạy dỗ của cha mẹ từ lúc họ còn nhỏ, phải nhường nhịn lẫn nhau,
cho thích hợp với sự liên hệ giữa người này với người kia. Nhưng ta cần
phải biết rằng mỗi ngày những sự đụng chạm nhỏ nhặt cứ chất chứa, mài
dũa, in sâu lần lần rồi ảnh hưởng đến cá tính của họ. Đời Đường gia đình
tể tướng Trương Công Nghệ chín đời ở chung với nhau, được người đời rất
khen ngợi. Một lần vua Đường Cao Tông có việc ở núi Thái Sơn, ngự giá
ghé qua nhà ông, và hỏi lý do tại sao mà giữ được sự hòa mục như vậy.
Trương Công Nghệ xin cho giấy bút rồi viết hơn một trăm chữ nhẫn dâng
lên, nhà vua xem xong phải sa nước mắt rồi ban cho the lụa. Người Trung
Quốc không cho đó là những uất ức buồn phiền do chế độ gia tộc gây ra,
mà trái lại từ đời này qua đời khác đều khen nhà họ Trương là có phúc,
mà chữ “bách nhẫn” đã trở thành một câu cách ngôn để đời; nó thường được
viết trên giấy hoa tiên màu chu sa làm câu đối dán cửa trong dịp tết
nguyên đán. Chỉ cần chế độ gia tộc tồn tại, và xã hội được xây dựng trên
nền tảng đó, thì con người sẽ không phải là một cá thể độc lập, mà chỉ
phát triển trọn vẹn khi là một phần tử sinh hoạt hài hòa trong những
quan hệ của xã hội; do đó nó sẽ hiểu rõ ngay sự nhẫn nại tại sao được
coi là một đức hạnh tối cao, mà hẳn phải nẩy ra do chế độ xã hội như
vậy. Vì trong một hoàn cảnh xã hội như vậy, nhẫn nại có lý do tồn tại.
3. TÍNH THẾ NÀO CŨNG ĐƯỢC
Tính
nhẫn nại của người Trung Quốc thật trên đời có một không hai, nhưng đến
tính gặp sao hay vậy cũng được nổi tiếng từ lâu. Tính này tôi cũng cho
là sản phẩm của hoàn cảnh xã hội. Dưới đây xin đưa ra một bằng chứng đối
chiếu; câu chuyện thật ý vị, thật sâu xa, đáng để ta suy nghĩ. Chúng ta
hãy đọc truyện Tom Brown’s schooldays trong văn học Anh quốc. Bà mẹ của
Tom Brown lúc lâm chung dặn con rằng “Ngửa mặt, ngẩng đầu lên cao, lớn
tiếng dõng dạc khi trả lời một người nào”. Bây giờ ta lại đưa ra lời di
chúc truyền thống của các bà mẹ Trung Quốc để so sánh, các bà mẹ này dặn
dò con cái rất kỹ càng rằng “Chớ bao giờ can dự vào công việc của xã
hội”. Tại sao các bà mẹ này lại phải đinh ninh dặn con như thế? – Chỉ vì
sống trong một xã hội mà quyền lợi của cá nhân không có pháp luật che
chở một tý nào, chỉ có thái độ lãnh đạm tiêu cực, mập mờ ở giữa là an
toàn và ổn thỏa hơn cả; đó cũng là điểm làm mọi người phải chú ý. Cái vi
diệu của tôn chỉ này, người Âu Tây khó lòng nhận ra được.
Theo
tôi nghĩ, thì thái độ “thế nào cũng được” không phải là một bản tính
thiên nhiên trời phú cho người dân ở đây, mà nó là một sản vật lạ lùng
do nền văn hóa của nước này tạo ra; nó cũng do sự trù liệu, suy nghĩ sâu
xa của sự khôn ngoan trong hoàn cảnh đặc biệt thế giới cũ rèn luyện
nên. Taine đã nói: “Thói xấu và đức tốt như một món được chế ra như
đường và giấm”. Tuy không chấp nhận quan điểm tuyệt đối ấy, ta rất dễ
đồng ý với lối nói rằng bất kỳ tính nết nào, nếu dễ dàng được người ta
cho là tốt, thời nó rất dễ hấp dẫn mọi người rồi sẽ được khuyến khích
trong xã hội, và cũng rất dễ được người ta chấp nhận thành một phần
trong cuộc sống.
Người
Trung Quốc có thái độ “thế nào cũng được” cũng như người Anh đối với
cái dù vậy, vì gió mưa trên trường chính trị, đối với một cá nhân mạo
hiểm tiến bước, thì sự nguy hiểm, ác liệt thế nào cũng đã có thể dự liệu
mà biết được, nói một cách khác, ở Trung Quốc tính lãnh đạm, đã nêu rõ
“giá trị thích ứng với cuộc sống” vậy. Thanh niên Trung Quốc cũng có một
tinh thần đoàn thể không kém gì thanh niên Âu Mỹ; họ cũng nhiệt tâm
tham gia vào các việc công cộng như tất cả thanh niên các quốc gia khác;
nhưng đến lúc họ đã hai mươi lăm hay ba mươi tuổi thì họ trở nên khôn
ra và bắt đầu biết lãnh đạm (chúng ta nói là “láu cá”). Trung Quốc có
câu tục ngữ “mọi người hãy quét sạch tuyết ở trước cửa nhà mình, đừng
bận tâm đến sương phủ trên mói ngói nhà khác. Tính lãnh đạm thật đã có
sức giúp đỡ cho nết viên thục (ù lỳ) và sự giáo dục vậy. Có kẻ do trí
khôn thiên bẩm mà láu cá; có kẻ vì can dự vào việc ngoài mà mắc vạ hay
bị một vài lần thiệt hại mà láu cá ra. Bọn già thì đều một giọng là
không rỗi hơi, rồi có thủ đoạn là mập mờ đứng giữa; nhân đó bọn hoạt đầu
đều cho rằng thái độ đó là điều ích lợi khi xử sự ngoài xã hội – loại
xã hội mà quyền lợi cá nhân không có gì che chở, loại xã hội mà vì lo
rỗi hơi thành mắc vạ, một lần cũng đủ khổ rồi.
Tính
thế nào cũng được có đủ “giá trị thích nghi với cuộc sống”, vì vậy nó
nằm ngay trong sự thực ở trường hợp quyền lợi cá nhân không được che chở
mà cá nhân lại dính líu vào việc công cộng, hay trường hợp kẻ lo rỗi
hơi mà sốt sắng thì rất dễ mắc tai vạ. Như trường hợp Thiệu Phiên Bình
và Lâm Bạch Thủy - hai nhà ký giả rất có can đảm của chúng
ta – năm 1926 bị bọn quân phiệt ở Mãn Châu bắn chết tại Bắc Kinh, mà
chưa từng được xét xử một lần nào; thế là các ký giả khác học ngay cái
triết lý “thế nào cũng được” mà trở nên láu cá. Mấy nhà ký giả thành
công của Trung Quốc là những ký giả không có một chủ trương gì. Cũng như
một nhóm văn nhân, thân sĩ của Trung Quốc, hay những nhà ngoại giao Âu
Mỹ họ thường tự khoe là không có một chút thành kiến nào, dù là đối với
những vấn đề nhân sinh, hay những vấn đề thời cuộc trước mắt, họ đều tỏ
ra không có ý kiến gì. Họ có thể làm được gì? Khi mà quyền lợi cá nhân
được che chở, chỉ phải coi chừng luật trị tội phỉ báng. Khi quyền lợi
không được bảo vệ, thì bản năng tự tồn của chúng ta bảo rằng “đừng lo
rỗi hơi” là cái bảo chứng tốt nhất cho tự do cá nhân.
Nói
khác đi, tính thế nào cũng được không phải là một đức tính cao quý, mà
nó chỉ là một thái độ xã giao, chỉ vì thiếu pháp luật che chở mà ta thấy
nó là vật tất yếu; cái phương thực tự vệ này từ quá trình phát triển
cho đến tác dụng có thể coi giống như con rùa có cái mai vậy. Trung Quốc
nổi danh về cái nhìn vô tình, nhạt nhẻo, đó chẳng qua cũng chỉ là một
cái nhìn có tính cách tự vệ, đã được dạy dỗ đầy đủ và công phu rèn luyện
vậy. Chúng ta lại đưa ra một lệ chứng nữa để thuyết này càng thêm sáng
tỏ. Bọn thổ phỉ, trộm cướp ở Trung Quốc, không cần sự che chở của pháp
luật, cho nên họ không có những tính lãnh đạm tiêu cực, họ đã trở nên
những tay nghĩa hiệp dưới mắt, trong lòng người dân Trung Quốc; họ là
những người rất quan tâm đến công chúng, xã hội. Trong văn chương Trung
Quốc hai chữ nghĩa hiệp gần như đi liền với chữ trộm cướp như trong pho
Thủy Hử. Loại tiểu thuyết kẻ lại chuyện anh hùng thảo mãng rất được ưa
chuộng ở Trung Quốc; nhân dân đều thích đọc những gì về thân thế và việc
làm của loại anh hùng hào kiệt đó, như vậy là có ý gửi nỗi bất bình nào
đó vậy. Cũng như Elinor Glyn (1864-1943) – nữ tiểu thuyết gia người Anh
hoạt động tại Hoa Kỳ - mà được ưa chuộng là vì nước Mỹ còn vô số gái
chết già. Kẻ có sức mạnh thường quan tâm đến công chúng, xã hội, bời vì
họ nhận thấy sức họ có thể làm được vậy; đa số còn lại gồm toàn bọn
người nhu nhược, thì có óc tiêu cực và lãnh đạm, vì bọn này phải trước
tiên lo bảo vệ chính họ đã.
Xem
trong lịch sử, những việc được ghi trong sử đời Ngụy, đời Tấn đủ để
chứng minh cho điều này; lúc đó giai cấp trí thức im lặng không để ý gì
đến việc nước, ý khí rất tồi tệ, thế là trong khoảng quay gót ngắn ngủi
thế nước suy vi; miền Bắc bộ Trung Quốc rơi vào tay giống người Hồ. Đời
Ngụy, Tấn bọn văn nhân, học giả trôi theo một phong khí là uống rượu,
thanh đàm, rồi mê tín thuyết thần tiên của Đạo giáo tìm tòi những phương
thuốc trường sinh bất tử. Thời đại này là thời đại nền chính trị của
Trung Hoa tồi tệ nhất kể từ đời Chu, Hán về sau, giai đoạn cuối cùng của
sự thoái hóa chủng tộc lúc đó, dần dần đứa đến thảm họa là lần thứ nhất
bị dân tộc khác thống trị. Sự sùng bái thanh tĩnh đạm bạc ấy, có phải
là bởi thiên tính của người đương thời nảy ra không, nếu không phải như
vậy thì bởi nguyên nhân nào sinh sản và diễn biến ra nó. Lịch sử đã cho
ta sự giải đáp, rất rõ ràng và xác đáng.
Vào
khoảng cuối đời Hán, thái độ của học giả Trung Quốc không lãnh đạm tiêu
cực, trái lại sự phê bình chính trị rất thịnh, lãnh tụ giới nho sinh và
bọn học trò đại học có đến ba mươi nghìn người, thường đua nhau nghị
luận về những lỗi lầm của chính trị, bới móc những gì thầm lén của người
cầm quyền, cả gan công kích hoàng tộc và bọn hoạn quan, có khi động đến
cả cá nhân nhà vua mà không cần kiêng kỵ. Sau chỉ vì không có hiến pháp
che chở, cuộc vận động đó bị bọn hoạn quan áp bức, nghiêm cấm và kết
thúc. Ngay lúc đó hai ba trăm học trò cũng gia tộc họ bị đem xử tử hay
bị giam cầm, không thoát một người. Cái án này xảy ra vào khoảng năm
166-169 sau K.T., đây là một vụ đảng cố (bắt giam người có đảng) lớn
trong lịch sự, rồi do tra khảo mà liên lụy rất rộng, ảnh hưởng rất to,
bắt bớ hết những người tình nghi đến nỗi tất cả những người trong cuộc
vận động đó đều bị chết yểu, khí thế ác liệt ảnh hưởng đến hàng trăm năm
sau còn thấy. Vì thế nảy ra một phản ứng rồi biến thành thời thượng là
sùng bái sự thanh tĩnh lãnh đạm. Phụ vào thói tục này là hành vi say
rượu mê gái, làm thơ, làm đạo sĩ, bàn chuyện thần tiên. Có một vài vị học
giả lại vào rừng ẩn trốn, tự cất nhà bằng đất mà ở, không để cửa ngõ,
đồ ăn uống đưa qua một cửa gỗ nhỏ, cứ sống như vậy cho đến chết; cũng có
vị giả làm tiều phu, nài nỉ bạn bè thân thích đừng thăm viếng sợ bị lộ
tung tích.
Sau
đó, lại nẩy ra bọn Trúc lâm thất hiền (bẩy người hiền sống trong rừng
trúc), bọn này được gọi là thất hiền vì họ đều là những thi nhân lãng
mạn. Như Lưu Linh có thể uống rượu suốt tháng mà không say, ông thường
ngồi xe hươu, đem theo một bình rượu, sai gia nhân vác mai, cuốc đi theo
và dặn rằng: Ta chết đâu thì chôn ở đấy. Người dân lúc đó không lấy thế
làm trái mắt, mà lại cho như vậy là khôn ngoan đạt lý, đồng thời còn có
nhiều văn nhân có những phong khí nổi tiếng, như sống thô dã đến cực
đoan, hay hoang dâm rất mực, hay hời hợt cùng cực. Nói riêng như đại thi
nhân Nguyễn Hàm, ông thường tư thông với một thị tỳ. Một hôm ông vừa
vắng nhà đến dự tiệc ở nhà một người bạn, đang lúc khách khứa rất đông,
bà vợ ông ở nhà thừa cơ đuổi ngay thị tỳ đó đi. Nguyễn Hàm đang dự tiệc
biết tin, đòi phải cho mượn ngựa ngay, đuổi kịp thị tỳ đó đèo về nhà mà
không e dè gì trước mặt các tân khách; hành vi này thật quả là phóng
khoáng. Thế mà những người này lại là hạng người được xã hội lúc đó hoan
nghênh. Nhân dân hoan nghênh họ khác nào những con rùa bé khen con rùa
lớn có bộ mai dày.
Những
trường hợp đó đã khiến ta thấy rõ cái vạ của chính trị thối nát, và
cũng nhận ra thái độ tiêu cực “thế nào cũng được” bởi đâu mà ra, thái độ
lãnh đạm tiêu cực này đã phải chịu biết bao nhiêu cười cợt, trào phúng
của các cường quốc trên thế giới hiện nay, vì họ cho rằng nguyên do nết
xấu này bởi “người Trung Quốc vô tổ chức”. Nhưng xét kỹ, môn thuốc hay
để chữa bệnh này thật đơn giản, chỉ cần sao nhân dân được luật pháp che
chở cho quyền lợi công dân của họ là đủ rồi, nhưng thật ra chưa ai nhận
ra điểm đó. Không người nào mong mỏi làm việc này mà cũng không người
nào thành thực hết lòng cầu nó.
4. LÕI ĐỜI
Chẳng
có gì ngăn trở, chúng ta cứ tùy tiện nói tiếp, tại sao bản tính người
Trung Hoa rất giàu tính chất kích thích? Thảng thốt không tìm ra được
một danh từ thích đáng, vậy ta hãy tạm gọi nó là “Lão hoạt tiếu bì” (bợm
già đóng kịch). Đức tính này khó có thể dùng lời nói để giảng cho người
Tây phương hiểu rõ được mà thực nó là một đặc tính rất lạ lùng, kỳ
diệu, bởi nó trực tiếp bắt nguồn ở một căn bản khác hẳn với triết học
nhân sinh của Tây phương. Nếu đem nhân sinh quan của hạng người “đóng
kịch” ra so sánh với cơ cấu văn minh của người Tây phương, thì có thể
thấy rõ văn minh của Tây phương hãy còn thô suất hoàn toàn chưa thể gọi
là thành thực được. Ta hãy thử thí dụ: Một buổi tinh mơ vào tháng chín,
gió thu đã có chiều rét buốt, một chàng thanh niên khỏe mạnh, rảo bước
đến trước mặt ông nội anh ta với vẻ mặt cao hứng, khoác tay vào ông cụ
nâng đứng dậy, rồi nhất định mời ông cụ cùng đi tắm biển với anh ta, ông
cụ lấy làm khó chịu cự tuyệt ngay lời mời, anh chàng trẻ này có vẻ hơi
khó chịu, nhịn không nổi lộ vẻ mặt giận dỗi, còn ông già thì cứ bình
tĩnh mỉm cười vui vẻ, nụ cười này là nụ cười đóng kịch. Như vậy ai cũng
có thể biết trong hai người đó, người nào phải. Tất cả những bồng bột
thiếu trầm tĩnh của tính người thanh niên đưa đến đâu? Và tất cả những
hứng khởi, tự tín, lấn cướp, chiến tranh, chủ nghĩa quốc gia quá khích
sẽ đưa đến đâu? Tất cả cái đó để làm gì? Trước những vấn đề này mà tìm
giải đáp thật vô ích; ép buộc phe này phải chấp nhận ý kiến của phe kia,
cũng lại vô ích như vậy; bởi tất cả mọi khía cạnh đều thuộc vấn đề tuổi
tác cả.
Trở
nên, “lõi đời khinh bạc” là bởi người đó đã trải quá nhiều tình cảnh và
mùi vị cuộc đời, họ trở nên có óc thực lợi (ích lợi thực sự). tính lãnh
đạm và hoài nghi. Đứng về phương diện hay của tính “lõi đời” mà nói thì
tính này đã khiến ta dễ chịu, vui vẻ hòa dịu, nó cũng khiến một số lão
già lừa dối được bọn con gái ưa lấy họ. Giả sử có giá trị gì là ở chỗ nó
dạy người ta nên lấy hòa khí, êm ái mà sống. Người Trung Quốc đã đi tới
quan điểm này , không phải do sự phát giác ý nghĩa thánh thiện của tôn
giáo mà bởi sự quan sát sâu xa, rộng rãi vì thế sự thăng trầm. Cái quan
niệm triết học láu lỉnh đó có thể thấy rõ điển hình của nó trong lời đối
thoại giữa hai vị thi tăng đời Đường.
Một
hôm, Hàn Sơn bảo Thập Đắc rằng: “Nay có người lấn áp ta, khinh rẻ ta,
dùng nụ cười như để cợt ta, liếc mắt để nhìn ta, hủy hoại ta, gây thương
tích cho ta, hiểm ác, oán hận ta, dối trá đánh lừa ta, thời ta làm thế
nào?”. Thập Đắc trả lời rằng: “Anh hãy nhẫn nhục mà chịu, chiều theo ý
hắn, kính cẩn hắn, tránh xa hắn, cố nén lòng mà nhịn hắn, giả điếc giả
câm, im lặng mặc hắn. Vài năm nữa, anh sẽ chỉ cần nhìn xem hắn thôi”.
Cái
tinh thần của Lão tử này thường qua nhiều hình thức, luôn luôn xuất
hiện trong văn, thơ, tục ngữ nước ta, muốn lấy thí dụ, thì nhặt ở đâu
cũng được, như những câu “tam thập lục trước, tẩu vi thượng trước” (ba
mươi sáu kế, chạy là kế hơn cả), “quai nhân bất ngật nhỡn tiền khuy” (kẻ
láu lỉnh không chịu thiệt thòi trước mắt), “thoái nhất bộ trước tưởng”
(tính toán lui lại một bước) “phụ nhất tử nhi thắng toàn cục” (thua một
con, nhưng thắng cả ván), tất cả đều do một nguồn gốc của thái độ trên.
Những thái độ để ứng phó với cuộc sống đó, đã thấm nhập hoàn toàn vào cơ
cấu tư tưởng của Trung Quốc, vì thế đời sống đầy những ý nghĩa “đo đắn
kỹ càng” “ba mươi sáu kế”, tính chất cứng rắn dần dần mất hết, để biến
thành hoàn toàn viên thục (ù lỳ chín chắn) đó là điểm đặc biệt của văn
hóa Trung Quốc.
Đứng
trên phương diện tồi tệ nhất mà nói, lõi đời là sự khôn ngoan rất mực
của Trung Quốc – đã ngăn trở lý tưởng và hành động. Nó đập tan hết mọi
nguyện vọng đổi mới, nó chê bai mọi nỗ lực của con người và cho rằng đó
chỉ là uổng phí tâm cơ, nó đã khiến người Trung Quốc mất hết lý tưởng và
năng lực hành động. Nó dùng một phương pháp thần diệu làm giảm sút mọi
hoạt động của con người đến mực chỉ cần no bụng và những gì cần thiết
cho một sinh vật. Mạnh tử là một nhà “lõi đời” (đại tiếu bì gia) khi ông
nếu rõ rằng điều mong muốn nhất của con người là ăn, uống và đàn bà,
ông nói ăn uống, trai gái là bản tính vậy (thực, sắc, tính dã). Cố Tổng
Thống Lê Nguyên Hồng cũng là một vị “lõi đời”, vì hiểu sâu xa cách ngôn
chính trị của Trung Quốc khi đưa ra nguyên tắc hòa giải đảng tranh: “Có
cơm tất cả cùng ăn” (Hữu phạn đại gia ngật). Lê tổng thống đã là một nhà
thực tế mà ông không tự biết. Ông đã nói một câu khôn ngoan quá, chính
ông cũng không ngờ, là vì ông đã nói rõ được bối cảnh kinh tế của hiện
đại sử Trung Quốc. Lấy con mắt nhà kinh tế để giải thích lịch sử, cũng
như phái Emile Zola lấy môn sinh lý học để giải thích đời sống con người
thì ở Trung Quốc đã có từ lâu, ở Zola thì là một “mốt” trí thức, ở
chúng ta là ý thức quốc gia”. Ở Trung Quốc người là không phải học để
thành thực tế, người ta sinh ra đã là một thực tế rồi. Lê Nguyên Hồng
không phải là một chuyên gia nổi danh dùng sức óc để nghiên cứu, nhưng
vì ông là người Trung Quốc, ông biết rằng mọi vấn đề chính trị ở đây
không ngoài vấn đề bát cơm; vì ông là người Trung Quốc nên ông đã tìm
được một giải thích tinh vi, sâu sắc cho vấn đề chính trị của Trung
Quốc.
Thái
độ lãnh đạm ưa thực lợi này đặt nền tảng trên một nhân sinh quan rất
tài tình, huyền diệu ái nhân sinh quan đó chỉ có hạng người già cả tạo
thành và một dân tộc già cả lão thành mới hiểu rõ được mọi phần bí yếu,
hạng thanh niên chưa đầy ba mươi tuổi không sao hiểu rõ được, vì vậy
những dân tộc còn thanh niên ở Âu Mỹ cũng không thể hiểu rõ nó. Cho nên
người viết ra Đạo Đức kinh là Lão tử, sở dĩ ông có cái tên như vậy cũng
không phải là điều ngẫu nhiên vậy. Cũng có một số người cho rằng, bất cứ
kẻ nào cứ đến tuổi ngoài bốn mươi là biến thành một anh dối trá, không
kể hạng người nào, chúng ta tuổi càng cao càng coi nhẹ thể diện, điều
này thật không thể phủ nhận được. Các cô gái xấp xỉ hai mươi, thì không
thể hiểu mục đích lấy chồng vì tiền, nhưng các cô, các bà đến tuổi bốn
mươi thì đều nhận rõ ra mục đích vì tiền mà lấy chồng – Bọn họ mượn cớ
là nhờ vậy mà được yên ổn vững vàng. Trong thần thoại Hy Lạp có câu
chuyện ý nghĩa gần như vậy, mặc dầu nội dung có vẻ bịa đặt hoang đường;
truyện rằng: Có chàng thanh niên tên Icarus chỉ vì anh ta bay cao quá
đến nỗi bộ cánh bằng sáp ong tan mất, anh bị rơi xuống đại dương. Còn
ông già Dacdalus thì chỉ bay là là, thấp thấp, nên được yên ổn về tới
nhà. Khi người đã nhiều tuổi, người ấy phát triển ra cái tài tình bay
thấp, mà lý tưởng của nó đã dịu đi bằng cái khôn ngoan thông thường mà
lạnh nhạt, bình tĩnh và thận trọng, cũng như có ý nghĩa về giá trị đồng
bạc, đồng cắc. Thực lợi chủ nghĩa vì vậy trở nên đặc tính của thanh
niên. Đến tuổi ngoài bốn chục, mà con người nào vẫn không trở nên một
“đồ tồi”, thì có thể nó là một kẻ ngu dại hay là một thiên tài. Trong
thiên tài này có những “bé bự” như Tolstoy, Robert Louis Stevenson, Sir
James Barrie, họ có bản chất ngây thơ do bẩm tính, tính ngây thơ hòa hợp
với kinh nghiệm trong đời sống, khiến họ giữ mãi được tác phong trẻ
trung mà chúng ta gọi đó là “bất hủ”.
Nói
tóm lại tất cả cái đó đều nằm trong triết lý Đạo gia, từ lý luận cho
đến thực tế; bởi lẽ nếu ta nhặt hết những sách triết lý nhân sinh tiếu
bì (đóng kịch) ở khắp thế giới, cũng không thể có một pho thứ hai ngắn
ngủi nhưng trước tác tinh vi, sâu xa như quyển Đạo đức kinh. Trên phương
diện lý luận và thực tế triết học của Đạo gia là một thứ lãnh đạm có
tính cách khinh bạc, tròn nhẵn, mà cũng là thứ hoài nghi chủ nghĩa có
tính cách sâu xa kín đáo và hủ bại, nó chê bai, giễu cợt sự phí công
nhọc sức tranh giành, xung đột của nhân loại, nó cười cợt mọi cái thất
bại của chế độ, pháp luật, chính phủ, hôn nhân, thêm vào nó còn có chút
ít không tin cậy vào chủ nghĩa lý tưởng, lòng không tin cậy đó có thể
cho là bởi sự thiếu đức tin, thì đúng hơn cho là bởi thiếu nghị lực. Nó
là loại triết học đối nghịch với chủ nghĩa thực nghiệm của Khổng tử, mà
đồng thời nó lại là một nắp an toàn cho những thiếu sót của một xã hội
theo Khổng giáo. Bởi vì, Khổng tử lấy con mắt tích cực để nhìn cuộc
sống, mà Đạo gia trái lại, dùng con mắt tiêu cực, bởi hai nguyên tố khác
hẳn về căn bản đã hun đúc mà nẩy một cái bất hủ là đức tính dân tộc
Trung Quốc.
Bởi
thế gặp lúc hanh thông, thuận lợi thì mọi người Trung Quốc đều là người
của chủ nghĩa Khổng tử, như khi thất bại thì mọi người đều là người của
chủ nghĩa Đạo giáo. Chủ nghĩa Khổng tử ở trong chúng ta là nỗ lực kiến
thiết và cần lao, chủ nghĩa Đạo giáo, là bó gối ngồi xem và cười tủm
tỉm. Chỉ vì vậy nên những bậc văn nhân của Trung Quốc khi còn tại chức
thì giảng dạy đức hạnh, lúc nhàn cư thì ngâm vịnh túy tình, thường trước
tác nhiều thứ phú có tư tưởng Đạo giáo. Đến đây đã cho ta biết tại sao
phần lớn văn nhân Trung Quốc hay làm thơ, và tại sao đa số các tập văn
chương thường phần lớn hay hơn cả, là thơ.
Tư
tưởng Đạo gia như chất morphine, nó có một tác dụng tê mê, ngây ngất
thần bí, nên nó đã khiến con người cảm thấy thư thái, dễ chịu khác
thường. Nó chữa căn bệnh đau tim, nhức đầu của người Trung Quốc. Những
tư tưởng lãng mạn, những ý thơ mộng những tư tưởng sùng bái thiên nhiên
của Đạo giáo gặp thời loạn đã làm nhẹ nhõm tâm hồn một số lớn người
Trung Quốc, cũng như học thuyết Khổng tử đã lập công trong thời đại thái
bình thịnh trị. Như vậy, gặp khi thể xác phải chịu đau đớn thì Đạo giáo
đã vì linh hồn người Trung Quốc chuẩn bị một đường lối rút lui an toàn
và một liều thuốc chỉ thống (hết đau). Lối thơ đơn thuần tư tưởng Đạo
giáo, đã có sức khiến người ta chịu đựng nổi nếp sống nghiêm nghị vốn là
điển hình của Khổng giáo; còn những tư tưởng lãnh mạn của nó cũng cứu
giúp được nền văn học Trung Quốc nhưng khi rơi vào lề lối ca tụng “thánh
đức” (ca tụng vua chúa), hay nhặt nhạnh những tư tưởng vô ý nghĩa để
dạy đời về đạo học (Tống nho giảng tính lý). Tất cả những tác phẩm văn
chương ưu mỹ của Trung Quốc đáng được mọi người đọc, có khả năng thỏa
mãn trí tuệ và xoa dịu tâm tư thì đều nhuộm sâu tinh thần Đạo giáo. Tinh
thần Đạo giáo và tinh thần Khổng giáo là hai cực Âm, Dương của tư tưởng
Trung Quốc, sinh mệnh dân tộc Trung Quốc cũng nhờ đó mà hoạt động vậy.
Nhân
dân Trung Quốc do tính thiên bẩm gần với tư tưởng Lão, Trang hơn là do
giáo dục làm cho họ gần với tư tưởng Khổng tử. Với tư cách một dân tộc
chúng ta đủ lớn lao để soạn ra một bộ pháp điển đặt căn bản trên quan
niệm công lý tinh túy, mà cũng đủ lớn lao để có thể bất tín nhiệm luật
sư và pháp đình. Chín mươi lăm phần trăm những vụ tranh tụng đã được
giải quyết ở ngoài pháp đình. Chúng ta đủ lớn lao để có thể chế định
được điển lễ rất tinh tế, nhưng thực ra chúng ta vẫn chỉ coi nó như một
trò hề trong cuộc sống, có những bữa ăn uống, những hoạt động nhộn nhịp
trong tang lễ của người Trung Quốc chính vì lẽ đó. Chúng ta đủ lớn lao
để có thể chê bai trách mắng mọi nết xấu, mà cũng có thể thấy những gì
xấu xa mà lạ lùng bối rối. Chúng ta đủ lớn lao để có thể phát động liên
tiếp những cuộc cách mệnh, nhưng cũng có thể thỏa hiệp và khôi phục lại
chế độ chính trị cũ vốn có. Chúng ta đủ lớn lao để tổ chức đàn hạc làm
hoàn bị chế độ quan lại, quy tắc giao thông, điều lệ người công dân phải
gánh vác, quy tắc đọc sách tại thư viện, nhưng chúng ta cũng đủ lớn lao
để phá hoại tất cả mọi điều lệ, chương trình, chế độ, có thể không thèm
nhìn nhận cái gì, có thể dối trá, giả mạo, bướng bỉnh và cũng có thể có
những thái độ vượt lên trên nó. Chúng ta không phải giảng dạy thanh
niên ở các trường đại học khoa học chính trị, bảo họ những điều lý tưởng
về việc quản lý hành chính, mà thường chỉ cho họ biết việc hành chính ở
một huyện, một tỉnh hay chính phủ trung ương trên thực tế phải làm việc
thế nào. Những lý tưởng không thiết thực đối với chúng ta đều không cần
dùng, vì chúng ta không thể chịu đựng được những không tưởng của môn
thần học. Chúng ta không chỉ dẫn thanh niên để họ trở thành con cháu
Thượng đế, nhưng phải làm cho bọn họ từ lời nói đến việc làm bắt chước
thánh hiền để thành những con người bình thường và lành mạnh. Bởi vậy
tôi tin chắc rằng bản chất Trung Quốc là “Duy nhân”, Cơ Đốc giáo chắc
chắn thất bại ở Trung Quốc, nếu không muốn như vậy thì nó cần phải thay
đổi nhiều về nội dung, giáo lý của Cơ Đốc Giáo được người Trung Quốc
thành thực tiếp nhận một phần nào là vì trong những lời răn dạy có những
điều sau đây, cần “hiền lành như chim bồ câu” và “linh mẫn như rắn”.
Hai đức tính: nhân từ như chim bồ câu, tinh khôn như rắn, đó là hai đặc
tính liên thuộc của tính “lõi đời”.
Tóm
lại, chúng ta vẫn thừa nhận sự cố gắng của con người là điều cần thiết,
nhưng chúng ta cũng cần nhận rõ sao hỏng của nó. Trong trạng thái tâm
lý phổ thông, bao giờ cũng có một khuynh hướng, là phát triển một cách
bị động trí khôn tự vệ (việc lớn thành việc nhỏ, việc nhỏ hóa ra không
có gì) (đại sự hóa tiểu sự, tiểu sự hóa vô sự), theo cái nguyên tắc cơ
bản ấy, nên tất cả mọi người Trung Quốc dù tranh luận cái gì cũng chỉ
qua loa mà thôi; tất cả mọi cương lĩnh, kế hoạch của những việc lớn đều
có thể sửa đổi, tất cả mọi phương châm, dự án cách mệnh đều có thể cắt
xén bỏ bớt, cốt sao cho yên ổn và tất cả đều có cơm ăn. Chúng ta có câu
tục ngữ là “thêm lên một việc, không bằng bớt đi một việc” ý nghĩa câu
này cũng như câu “đừng thêm việc”, “đừng đánh thức con chó đang ngủ”.
Sự
sinh hoạt của con người di chuyển trên con đường ít tranh đấu nhất và
ít kiên cố nhất. Do đó nảy ra một thứ tâm lý hiếu tĩnh, khiến con người
chịu đựng tất cả những khinh khi, nhục nhã để sống điều hòa với vũ trụ.
Tâm lý ấy cũng phát sinh ra được những chiến thuật phòng thủ, có lúc lại
còn đáng ghê sợ hơn chiến thuật xâm lược. Khi một người vào quán cơm,
bụng đói réo từng hồi, nhưng đợi mãi không thấy món ăn đưa lên; ruột sót
như cào, nóng như đốt, lúc đó tất phải giục anh bồi bàn; nếu anh bồi
bàn có thái độ thô lỗ thiếu lễ phép, thì phải mách ông quản lý để ông ta
mắng hắn; nhưng nếu người bồi bàn cứ trả lời bằng một giọng cung kính
rằng “đang lên, đang lên”, mà thân thể anh ta không chuyển động một
bước, thì khách ăn cũng không còn biện pháp nào nữa, đành khấn trời giúp
cho, hoặc chửi rủa một vài câu nhưng vẫn bằng cái giọng rất văn nhã.
Xem tình hình đó đủ thấy rõ sức tiêu cực của người Trung Quốc đến mực
nào, một sức mạnh mà ai đã chạm phải mới biết phục nhất. Nó chính là cái
mạnh của kẻ lõi đời vậy.
5. TÍNH HIẾU HÒA
Trên
đây ta đã nói về ba đức tính rất ác liệt, nó đã làm tê liệt không thể
hành động có tổ chức được. Những đức tính đó phát xuất từ một nhân sinh
quan, mẹo mực khôn ngoan, tròn trặn chín chắn, nhất là thái độ lạnh lùng
chịu đựng. Tuy vậy nhân sinh quan đó cũng rõ ràng không phải không có
đức tính tốt có giá trị, đức tính tốt đó là đức tính của một dân tộc
già, không ham muốn xưng bá trên thế giới này, mà chỉ là một dân tộc mắt
nhìn thấy biết bao nhiêu biến cố ở đời, họ đối với cuộc sống không có
những hy vọng gì lớn lao, cuộc sống không kể cay, ngọt, đắng, chát gì đi
nữa họ đều vui vẻ chấp nhận, họ giữ vững một tôn chỉ, là sống vui vẻ
cho hết kiếp trong phạm vi số phận trời đã ban cho mình.
Dân
tộc Trung Hoa đã già dặn với thói đời. Sự sinh hoạt của nó không có gì
là hão, không giống môn đồ Cơ Đốc tự xưng sống để mà tìm tốt đẹp cho
chết, mà cũng không giống các nhà tiên đoán Tây phương mong tìm đòi đến
một thế giới chân thiện mỹ không tưởng. Họ chỉ nghĩ sao cho được yên ổn
cái mạng sống hiện tại, mạng sống thật là chứa chất đầy những thống khổ,
ưu sầu, họ hiểu rõ lắm; họ mong được yên ổn và làm ăn, quảng đại mà
chịu đựng, cốt sao được sống vui vẻ sung sướng. Còn những đức tốt mà
người Tây phương quý trọng như: quý phái, chí khí lớn, hăng say đổi mới
tinh thần cộng đồng, ý chí tiến thủ hay dũng khí anh hùng, người Trung
Quốc thiếu hẳn tất cả. Người Trung Quốc không thích leo núi Mont Blanc
hay thám hiểm Bắc cực; mà chỉ cảm thấy hứng thú ở cái thế giới tầm
thường này, bởi họ có một sức nhẫn nại không bờ bến, không lẩn trốn mọi
gian lao, một lòng giữ tròn trách nhiệm và cố gắng, tính suy tư thận
trọng, tinh thần vui vẻ, khí độ rộng rãi, tính tình hòa bình đó là những
bản năng không ai sánh kịp, mà chỉ chuyên làm sao cho thích hợp với
hoàn cảnh gian nan để tìm ra hạnh phúc, chúng ta gọi đó là trí túc (an
phận) đó là một tính đặc thù của người Trung Hoa làm cho cuộc sinh hoạt
bình thường, giản dị có một cảm xúc vui vẻ êm đềm. Nhất là tính hiếu hòa
và khoan dung nó là dấu hiệu của nền văn hóa chín chắn không có ở Âu
châu.
Nhìn
cảnh tượng Au châu hiện nay, chúng ta có lúc thấy rằng họ buồn phiền vì
chưa lỗi lạc được như ý, chứ không phải họ buồn phiền vì không đủ khôn
ngoan, chín chắn. Cũng có lúc lại thấy rằng Âu châu sẽ có một ngày kia
vượt qua cái tuổi trẻ trung nóng nảy và thời kỳ phát triển quá mạnh của
trí thức. Khoa học tiến bộ theo đà này, nếu trải qua một thế kỷ nữa, thế
giới càng hẹp lại, càng gần nhau, người Âu châu sẽ phải tập có thái độ
khoan dung hơn đối với cuộc sống và phải nhường nhịn giữa con người với
nhau, để tránh khỏi cái vạ cùng đi đến chỗ tuyệt diệt. Họ sẽ cho rằng
thà mất đi một chút khí thế phồn thịnh mà thêm lên một chút chín chắn
già dặn có lẽ còn hơn. Tôi tin rằng sự thay đổi thái độ đó sẽ không phải
do lý thuyết huy hoàng nào tạo ra mà do bản năng tự tồn mà có được. Đến
đây, người Âu Mỹ có lẽ mới giảm bớt sự cố chấp tự tín, mà có thêm sức
khoan dung. Bởi thế giới đã gần lại với nhau và có nhiều sự ràng buộc,
tất phải có sự chịu đựng lẫn nhau chút ít. Họ sẽ bớt ham tiến thủ đi một
chút và sẽ mong mỏi hiểu đời sống hơn chút nữa. Tiếng nói của Lão tử,
con người cưỡi trâu xanh ra khỏi cửa quan Hàm Cốc, sẽ truyền bá rộng
hơn.
Theo
quan điểm của người Trung Quốc mà nhìn nhận, hiếu hòa không phải là một
cái gì cao quý và đáng sùng bái, chẳng qua nó cũng chỉ là một đức tính
khả thủ, bởi nó là một sự khôn ngoan thông thường của mọi người. Ví bằng
cái sinh mệnh của hiện thế là tất cả sinh mệnh chúng ta có được, thì
nếu chúng ta muốn được sống yên vui, tất mọi người đều phải có óc hòa
bình một chút. Theo quan điểm như vậy thời ý nghĩa cố chấp và tinh thần
hoạt động bồn chồn của người Âu Mỹ chỉ đáng coi là dấu hiệu của tuổi trẻ
thô lỗ mà thôi. Người Trung Quốc thấm nhuần trong quan niệm triết học
Đông phương, đã thấy rõ cái đức tính thiếu chín chắn đó rồi sẽ hết khi
Âu châu trưởng thành. Bởi vì cái triết học Đạo gia rất tinh khôn sống
động kia, kỳ quặc thay! Ở bất cứ chỗ nào cũng thấy liên từ “dung nhẫn”
(chịu đựng) hiện ra. Dung nhẫn là một đặc tính lớn nhất của văn hóa
Trung Quốc mà nó cũng sẽ trở thành một đức tính lớn nhất của văn hóa thế
giới hiện nay, khi nào nền văn hóa đó trưởng thành. Muốn rèn luyện để
trở nên dung nhẫn, bạn cần phải có một chút khí khái khinh thế ngạo tục
(coi thường đời và bất chấp thói thường) và âm uất (uất ức âm thầm) là
điển hình của Đạo gia. Con người thẳng thắn khinh thế ngạo tục là con
người rất nhân từ trên thế giới, bởi nó đã trông rõ cái hư không của đời
người, bởi cái nhận thức “hư không” đó, mà sinh ra tấm lòng thương xót
bao la cả vũ trụ này.
Hiếu
hòa cũng là vấn đề hiểu rõ con người đến cao độ. Một người nếu nó hơi
biết khinh thế ngạo tục thì khuynh hướng hiếu chiến ở nó sẽ giảm đi, như
vậy là nguyên nhân khiến tất cả những con người thông minh đều trở nên
nhút nhát. Người Trung Quốc là những chiến sĩ kém nhất thế giới, chỉ vì
nó là một giống người thông minh được giáo dục bằng tư tưởng khinh thế
ngạo vật của Đạo giáo hòa hợp với sự cổ lệ tích cực lý tưởng hòa đồng
của Khổng giáo. Dân tộc này không thích chiến tranh, vì trong loài người
nó là phần từ tính toán nhất và vị kỷ nhất thế giới. Một đứa trẻ con
Trung Hoa cũng có thể biết những điều mà những nhà chính trị bạc đầu của
Âu châu chưa nghĩ tới, đó là: đánh nhau thì không chết cũng què cụt dù
là một quốc gia hay là một cá nhân. Hai người Trung Quốc tranh chấp nhau
là dễ can nhất. Cái triết học tính toán kia dạy họ thong thả mới tranh
chấp và mau tiến tới thỏa hiệp. Triết lý viên thục lão luyện và tiếu bì
đã dạy người Trung Quốc biết nhẫn nại, khi gặp cảnh khốn khổ, loạn lạc
thì nảy ra một sức đề kháng tiêu cực, nó cũng răn bảo phải đề phòng cái
hiếu thắng nhất thời và tự đắc lúc thành công. Trung Quốc có câu châm
ngôn khuyên răn nên khiêm tốn và dè dặt là: “Tiền tài bất khả dụng
khánh” (phúc phận không nên hưởng hết). Quá độc đoán hay quá lợi dụng
địa vị cá nhân thì người ta gọi là “phong mang thái lộ” (mũi bén nhọn
thò ra rõ quá), phong mang thái lộ là điều người đời cho là hành vi thô
bỉ mà cũng là triệu chứng báo hiệu sự suy sụp. Nước Anh có câu tục ngữ
được mọi người cho là rất đúng và thường xử sự theo đó, là “đừng đánh kẻ
đã ngã”, câu này phát xuất từ tâm lý tôn trọng sự cạnh tranh đường
đường chính chính. Trung Quốc cũng có câu ngạn ngữ ý nghĩa gần như vậy:
“Đừng dồn ai vào chân tường” cũng là câu thuần túy do giáo dục mà có;
chúng tôi gọi đó là “công phu hàm dưỡng”.
Cho
nên lấy con mắt người Trung Quốc mà nhìn thì hòa ước Versailles chẳng
những là không công bình mà còn có chỗ thô bạo, thiếu tính cách hàm
dưỡng. Giả thử người Pháp trong khi chiến thắng có một chút tinh thần
Đạo giáo, hẳn không cưỡng ép việc ký hòa ước này, thì đến ngày nay đầu
họ có thể yên ổn trên gối. Chỉ vì người Pháp non nớt thiếu chín chắn, mà
kẻ ở địa vị thắng người Đức cũng vậy, cả hai bên không bên nào giác ngộ
thành ra cùng lầm lẫn, tưởng rằng sẽ vĩnh viễn trấn áp được đối phương
dưới gót sắt của mình. Thật chỉ tại ông Clémenceau không đọc qua Đạo Đức
kinh mà nay Hitler cũng vậy. Vậy thì hai bên cứ đánh nhau đi còn bọn
môn đồ Lão, Trang khoanh tay nhìn cảnh tượng đó mà mỉm cười.
Tính
ưa hòa bình của người Trung Quốc phần lớn do bản chất thiên nhiên và do
sự hiểu rõ con người. Việc trẻ con Trung Quốc đánh nhau ở ngoài phố ít
xảy ra hơn so với trẻ con Âu Mỹ. Với tư cách một dân tộc, chúng tôi cũng
đánh nhau tương đối ít thôi, mặc dầu nội chiến liên miên. Nếu đặt địa
vị người Mỹ sống dưới một chế độ chính trị hủ bại như chúng tôi, thì
trong khoảng hai mươi năm vừa qua, ít nhất cũng phải có đến ba chục cuộc
cách mạng chứ không phải chỉ có ba. Xứ Ái Nhĩ Lan hiện tại được yên ổn,
là vì dân Ái Nhĩ Lan đã chiến đấu dữ dội; chúng tôi hiện nay vẫn còn
đang đánh nhau là bởi chúng tôi chiến đấu không được dữ dội lắm.
Trên
sự thức những cuộc nội chiến ở Trung Quốc không đúng với ý nghĩa hai
chữ chiến tranh. Cho đến gần đây nội chiến không bao giờ được đề cao.
Không có nghĩa vụ quân dịch ở xứ này; những binh sĩ đem thân ra chiến
trường phần nhiều là những người dân nghèo đói, không có cách gì kiếm
được miếng ăn. Những binh sĩ đó vốn không thích tác chiến. Còn bọn tướng
thì rất ham chiến tranh, vì họ không phải đích thân ra chiến trường.
Mấy phen nội chiến lớn, kẻ thắng trận đều nhờ vào tiền bạc của ngoại
quốc, mặc dầu vị đại tướng thắng trận uy phong lẫm liệt khải hoàn trong
tiếng đại pháo nổ long trời dậy đất. Những tiếng súng lớn vang dậy khi
vị đại tướng khải hoàn là biểu thị tiếng vang chiến tranh, nó là điển
hình từ trước đến nay vẫn thế, bởi ở Trung Quốc khi những tư nhân đánh
nhau, cãi nhau hay những nhà quân phiệt gây ra nội chiến thì những tiếng
động ầm ầm đó là phần chính của cái được gọi là chiến tranh. Người ta
không được nghe chiến tranh mà thôi. Tôi đã hai lần được “nghe thấy”
chiến tranh theo lối đó, một lần ở Bắc Bình, một lần ở Hạ Môn. Kể cũng
đã thích tai. Thông thường phía quân đội mạnh thường uy hiếp tinh thần
mà đẩy lui phía quân đội yếu, ở Âu châu thì tình trạng chiến tranh này
thường kéo dài ra thành một chiến dịch, nhưng ở Mỹ quốc thì chỉ độ một
tháng là kết thúc. Tướng thua trận thường được đãi ngộ theo lý tưởng
công bình cổ truyền của Trung Quốc, là cấp cho độ mươi vạn đồng hoa viên
để chi phí cho một cuộc Âu du khảo sát vè thực nghiệp; đối xử như vậy
là bởi kẻ chiến thắng đã hiểu rõ những bí yếu của lẽ tuần hoàn; biết đâu
một lần nội chiến khác mình chẳng phải nhờ cậy vào tài cán của kẻ chiến
bại này. Mà rồi đúng như vậy, một phen thời cuộc lại thay đổi, thì mười
lần có đến tám chín lần ta lại trông thấy kẻ chiến thắng và kẻ bại trận
trước kia lại ngồi cùng xe với nhau như anh em kết nghĩa vậy. Đó là
điểm “kỳ diệu” của thuật hàm dưỡng Trung Hoa. Tình trạng ấy rõ ràng
không được can dự gì đến nhân dân, quả thực dân rất ghét chiến tranh; họ
bao giờ cũng ghét chiến tranh. Những người dân tốt của Trung Quốc
thường không bao giờ can dự vào chiến tranh, bởi lẽ “Thép tốt không làm
đinh, người tốt không làm lính”. (Hảo thiết bất đả đinh, hảo nhân bất
đương binh).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét