XIN CHÀO VÀ CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ ĐẾN VỚI BLOGSPOT.COM CỦA LUU VAN CHUONG

Thứ Tư, 12 tháng 11, 2025

HUYỆN NHƯ XUÂN THANH HOÁ - Vùng đất mãi Xuân

Thác Cổng trời, Đồng Quan.
Đền Chín Gian

Bài viết của Ngo Hoai Chung 

     Như Xuân là huyện miền núi nằm ở phía Tây Nam của tỉnh Thanh Hóa, cách trung tâm tỉnh khoảng 60km. Như Xuân phía Bắc giáp Thường Xuân, phía Đông giáp Như Thanh, phía Tây và Nam giáp tỉnh Nghệ An.

    Trước khi giải thể cấp huyện, Như Xuân có diện tích tự nhiên 721,72 km2, dân số khoảng  80.000 người gồm 4 dân tộc là Thái, Kinh, Thổ, Mường, trong đó dân tộc Thái chiếm khoảng 43%, dân tộc Kinh khoảng 37%, dân tộc Thổ khoảng 14,5% và dân tộc Mường khoảng 5,5%. Trục đường giao thông chính chạy qua huyện là đường Hồ Chí Minh và quốc lộ 45.

      Danh xưng Như Xuân lần đầu xuất hiện và được đặt cho một đơn vị hành chính là vào năm Thành Thái thứ 6 (1894), đó là châu Như Xuân. Sau Cách mạng tháng Tám 1945, xóa bỏ châu phủ, đổi thành huyện Như Xuân. Đến năm 1996, thực hiện Nghị định 72/CP của Chính phủ, chia huyện Như Xuân thành hai huyện là Như Xuân và Như Thanh.

    Như vậy, so với các huyện của tỉnh Thanh Hóa, Như Xuân trở thành đơn vị hành chính khá muộn. Trong thư tịch nhà Nguyễn, bản “Đồng Khánh địa dư chí” được làm thời vua Đồng Khánh (1886-1887) chưa có tên Như Xuân. Lúc bấy giờ vùng đất Như Xuân thuộc huyện Nông Cống, nằm trong phủ Tĩnh Gia. Thời ấy huyện Nông Cống có 12 tổng, 221 xã, thôn, tộc, sở, trang, giáp, ấp thì có 2 tổng: Lân Du 7 xã, Lãng Lăng 5 xã chính là  phần lớn vùng đất Như Xuân sau này.

    Sách “Đại Nam nhất thống chí” do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn vào đời Tự Đức năm thứ 18 (1865) hoàn tất vào năm Tự Đức thứ 35 (1882), được trùng tu vào đời Thành Thái (1889) và hoàn thành vào đời Duy Tân thứ 3 (1909). Trong “Đại Nam nhất thống chí tỉnh Thanh Hóa”, tập thượng, ở phần Kiến trí duyên cách, đã có châu Như Xuân. Sách viết: “Châu Như Xuân ở phía tây nam tỉnh, cách 47 dặm. Phía đông tới huyện Nông Cống phủ Tĩnh Gia; phía tây giáp châu Thường Xuân; phía nam tiếp phủ Quỳ Châu tỉnh Nghệ An; phía bắc liền huyện Lôi Dương phủ Thọ Xuân. Nguyên trước là đất của huyện Nông Cống và châu Thường Xuân. Năm Thành Thái thứ 6 (1894) tách 2 tổng Du Xuân (nguyên trước tên là Lân Du) và Lãng Lăng trong huyện Nông Cống, cùng mấy xã ven núi lập ra 3 tổng Xuân Du, Hạ Thưởng và Lãng Lăng. Lại lấy thêm tổng Như Lăng trong châu Thường Xuân cho thuộc thêm vào, đặt ra tên châu ngày nay và đặt chức Châu úy. Hiện nay lãnh 4 tổng 34 xã thôn”.

       Theo “Địa chí Thanh Hóa” vùng đất Như Xuân thời thuộc Hán là miền đất thuộc huyện Cư Phong. Thời Tam Quốc, Lưỡng Tấn là miền đất thuộc huyện Tùng Nguyên. Thời Tùy – Đường là miền đất thuộc huyện Cửu Chân. Thời Đinh, Lê, Lý vẫn giữ như Tùy Đường. Thời Trần – Hồ là miền đất thuộc huyện Nông Cống (châu Cửu Chân). Thời Lê và Nguyễn là 2 tổng Xuân Du và Lãng Lăng huyện Nông Cống. “Thành Thái thứ 5 (1893), tách hai tổng Xuân Du và Lãng Lăng của huyện Nông Cống đặt làm châu Như Xuân” (Sách “Đất nước Việt Nam qua các đời” của tác giả Đào Duy Anh). Như vậy, về năm thành lập châu Như Xuân sách “Đại Nam nhất thống chí” chép là năm Thành Thái thứ 6 (1894), còn tác giả Đào Duy Anh được dẫn trong Địa chí Thanh Hóa lại cho là năm Thành Thái thứ 5 (1893). Theo tôi, “Đại Nam nhất thống chí” do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn, là bộ sử chính thống của nhà Nguyễn nên có độ tin cậy cao hơn. Vì vậy có thể xác định danh xưng Như Xuân để đặt cho châu mới thành lập là năm Thành Thái thứ 6 (1894). Sau năm 1996, sau khi tách ra thành lập huyện mới Như Thanh, thì đơn vị hành chính cấp xã huyện Như Xuân có nhiều biến động, nhiều lần tách nhập các xã, thị trấn. Đến trước khi giải thể, ngày 1 tháng 7 năm 2025, Như Xuân có 15 xã và thị trấn Yên Cát.

        Như Xuân là huyện miền núi có tài nguyên rừng phong phú, hệ sinh thái đa dạng, đất đai phì nhiêu phù hợp phát triển kinh tế rừng và nông nghiệp. Như Xuân cũng là vùng đất có nhiều cảnh quan thiên nhiên độc đáo, những thắng cảnh hấp dẫn. Là vùng đất có nhiều tộc người sinh sống nên văn hóa của Như Xuân đa sắc màu và độc đáo.

    Về đặc điểm tự nhiên núi sông, Như Xuân có các ngọn núi lớn như núi Đá Chai (xã Hóa Quỳ), núi Bù Mùn (xã Thượng Ninh), núi Bù Kha (Thanh Quân), núi Mu (Thượng Ninh). Những người am hiểu miền núi Thanh Hóa đều biết, Như Xuân từng nổi tiếng là một vựa lim của Thanh Hóa. Gỗ lim Như Xuân có vân xoáy đẹp mê hồn, càng để lâu càng bóng lên nước và cứng như thép nguội. Thời trước những gia đình khá giả có nếp nhà, bộ bàn ghế, chiếc tủ bằng gỗ lim Như Xuân là đắng cấp và tự hào lắm. Tuy nhiên, đến nay do việc phá rừng, các rừng lim đã vắng bóng trên đất Như Xuân. Như Xuân có con sông duy nhất là sông Chàng bắt nguồn từ các khe suối thuộc xã Thanh Quân chảy qua xã Thah Phong trước khi đổ vào sông Hiếu của tỉnh Nghệ An.

    Như Xuân có khá nhiều thắng cảnh thiên nhiên nổi tiếng, có sức hấp dẫn khách du lịch, nhất là du lịch sinh thái, khám phá và du lịch cộng đồng. Từ đỉnh Bù Mùn với độ cao hơn 1.000m so với mực nước biển, nhiều dòng suối hợp lại, chảy qua 2 xã tạo thành 3 ngọn thác nổi tiếng là thác Thanh Lâm ở xã Thanh Phong, thác Đồng Quan và thác Cổng Trời ở xã Hóa Quỳ. Trong các ngọn thác này, thác Cổng Trời ở làng Chuối, Hoá Quỳ là điểm đến được nhiều du khách lựa chọn vì cảnh sắc hoang sơ kỳ vĩ, nằm giữa rừng nguyên sinh, cây cối xanh tốt um tùm, hệ thực vật đa dạng và vẻ đẹp hùng vĩ của thác nước. Thác gắn liền với truyền thuyết về Nàng Xuân (Xuốm Náng) gắn với tục thờ nữ thần Nước của đồng bào dân tộc Thái. Truyện kể rằng nữ thần Nàng Xuân vốn là một con thuồng luồng có thân rắn kỳ dị, biết biến hóa, có mào đỏ. Nàng yêu một nam thần tên là Tạo, dòng giống chim ở trên đỉnh núi Bù Mùn nên thường theo một đường ống ở khúc ghềnh của thác Cổng Trời thông lên núi để gặp nam thần. Hiện nay, trên khúc ghềnh của thác Cổng Trời vẫn có một địa điểm thờ Nàng Xuân. Truyền thuyết này không chỉ thể hiện đời sống tín ngưỡng phong phú của cư dân nơi đây mà còn góp phần tạo nên giá trị văn hoá đặc sắc cho địa danh thác Cổng Trời cũng như khẳng định ý nghĩa, sự gắn bó thiêng liêng, tầm quan trọng của thác nước này đối với đồng bào dân tộc Thái sinh sống từ lâu đời trong những bản làng nơi đây. Thác Cổng Trời có chiều cao hơn 30m, chân thác rộng, dòng nước thác đổ xuống những bậc đá tạo nên âm thanh sôi động như một bản hoà ca bất tận của rừng già. Những cánh rừng rộng lớn nơi đây quanh năm xanh tốt với lớp lớp cây cổ thụ gối lên nhau như những tầng mây tăm tắp đến tận chân trời. Rừng già xanh tươi, thác nước rào rào, không khí thanh sạch cùng dòng nước mát lành tạo nên một khung cảnh sơn thuỷ hữu tình không nỡ rời đối với bất kì ai có cơ hội tới thăm thác Cổng Trời.

     Thác Đồng Quan ở xã Hóa Quỳ được bao quanh bởi khu rừng nguyên sinh, cảnh quan rất phong phú, dòng nước từ trên cao dội xuống trắng xóa, tạo ra những bể bơi thiên nhiên với dòng nước sâu và trong vắt dưới chân thác, tạo ra khung cảnh lung linh giữa núi rừng hang sơ. Ngoài các ngọn thác trên, núi rừng Như Xuân còn có thác Mồng ở xã Thanh Quân, một xã giáp Nghệ An cũng là một điểm đến hấp dẫn đối với những tín đồ của du lịch khám phá.

     Vườn quốc gia Bến En nằm giữa hai huyện Như Xuân và Như Thanh, một “báu vật” với thiên nhiên hùng vĩ, hệ sinh thái đa dạng và cảnh quan làm say đắm lòng người. Dòng sông Mực đã bị đắp đập chặn lại, tạo nên hồ sông Mực trong không gian vườn quốc gia đã làm nên một “Vịnh Hạ Long trên cạn” của Thanh Hóa.

 Vườn quốc gia Bến En được thành lập ngày 27/01/1992, có tổng diện tích tự nhiên 14.634ha, gồm 16 tiểu khu sinh thái và vùng hồ sông Mực chứa 40 triệu m3 nước. Toàn bộ khu lòng hồ phía trên đập gồm có 21 hòn đảo lớn nhỏ được bao bọc bởi ba cánh cung núi đá, đồi đất, rừng cây tạo ra cảnh quan sơn thủy hữu tình. Phía dưới đập là dòng sông Mực uốn quanh núi đá tạo nên một quần thể hài hòa nên thơ. Vườn có hệ sinh thái rất đa dạng, phong phú. Theo kết quả điều tra cơ bản khu hệ động, thực vật rừng Bến En  đến năm 2013, hệ thực vật gồm 6 ngành, 7 lớp, 77 bộ, 1.417 loài thực vật thuộc 191 họ với 57 loài quý hiếm nằm trong Sách đỏ thế giới, 49 loài nằm trong Sách đỏ Việt Nam năm 2007, trong đó có một số loài ở mức độ cực kỳ nguy cấp và nguy cấp trên phạm vi toàn thế giới như: trầm hương, táu mặt quỷ, re hương, vệ hài, kim cang Poilane, sao hải nam, sao hòn gai, táu nước, lim xanh… Bên cạnh đó, động vật có 1.530 loài gồm: 102 loài thú, 277 loài chim, 66 loài bò sát, 47 loài ếch nhái, 97 loài cá, 50 loài động vật nổi, 163 loài động vật đáy và 728 loài côn trùng với nhiều loài quý hiếm như: gấu ngựa, vượn đen má trắng, cu li lớn, cu li nhỏ, khỉ vàng, rắn hổ mang chúa… Trong vườn quốc gia này, ngoài những cánh rừng xanh và hệ thống động thực vật phong phú, Bến En còn có những dãy núi đá vôi với nhiều hang động tự nhiên lung linh, kì vĩ như hang Ngọc, hang Dơi, hang Xuân Thái… trong đó nổi tiếng nhất là hang Ngọc. Với những gì thiên nhiên ban tặng, Vườn Quốc gia Bến En mang một ý nghĩa sinh thái đặc biệt, đồng thời cũng đem đến một tiềm năng du lịch to lớn. Với đa dạng sinh học và cấu trúc là địa hình rừng núi và hồ nước nên khí hậu ở đây rất mát mẻ, trong lành. Ngoài khu vực hồ, bán đảo và rừng, Bến En còn có dãy núi đá vôi, với hệ thống hang động đẹp còn giữ được nét đẹp nguyên sơ như hàng Ngọc, hang Cận. Đến với khu du lịch Bến En, du khách được trải nghiệm rất nhiều hoạt động du lịch đặc sắc bằng hai con đường bộ và đường thủy như: đi thuyền ngắm cảnh trên sông Mực, tham quan các đảo và hang động, tham quan các làng bản ở khu vực vùng đệm, tìm hiểu cuộc sống của người dân bản địa và giao lưu văn hoá với người dân ở đây; cắm trại qua đêm ở khu ngoài rừng; chiêm ngưỡng hoàng hôn buông xuống trên sông Mực và ngắm nhìn những đàn cò trắng bay về vùng ven sông để tìm mồi,... Du khách cũng có thể lựa chọn đi bộ theo con đường bê tông trải dài khoảng 5km vào sâu khám phá cánh rừng kì vĩ và đầy bí ẩn. Hiện nay, tập đoàn Sun Group đang có dự án đầu tư xây dựng khu Vườn Quốc gia Bến En thành một quần thể khu du lịch nghỉ dưỡng và vui chơi giải trí cao cấp tại với nhiều hạng mục được chia làm hai khu vực là khu vực tự nhiên (500 ha) và khu vực sinh hoạt văn hóa. Trong tương lai, khi dự án này hoàn thành, Vườn Quốc gia Bến En chắc chắn sẽ địa điểm lí tưởng thu hút rất nhiều khách du lịch trong và ngoài nước đến với Thanh Hoá. Vườn Quốc gia Bến En đã được công nhận là di tích thắng cảnh của tỉnh Thanh Hóa theo quyết định số 345/QĐ-UBND ngày 30/01/2015.

     Đền Chín Gian, còn có tên khác là đền thờ Trời, toạ lạc trên đỉnh đồi Pú Pỏm (đồi Tròn) thuộc địa phận thôn Thống Nhất, xã Thanh Quân. Đền Chín Gian là một công trình tâm linh gắn liền với lễ hội dâng trâu tế trời - một lễ hội truyền thống của người Thái. Đền thờ Pò Phạ (Ngọc Hoàng), Náng Xỉ Đả (con gái Ngọc Hoàng) và Tạo Ló Ỳ (người có công khai lập chín mường của người Thái ở vùng phía Tây Thanh Hóa - Nghệ An). Đền Chín Gian xa xưa còn có tên gọi là “Tến Xớ Quái” (Đền hiến trâu) làm bằng tre nứa được dựng tại mường Chiếng Ván của người Thái, đến năm 1937, được di chuyển về đây. Đền có tên gọi là Đền Chín Gian vì kiến trúc của đền là một nhà sàn bằng gỗ có 9 gian, mỗi gian trong đền tượng trưng cho một mường của người Thái. Năm 2016, đền được phục dựng lại theo kiến trúc nhà sàn của người Thái với 2 tầng và 9 gian thờ. Trong không gian di tích, bên cạnh đền Chín Gian còn có một số công trình tâm linh khác như miếu thờ thần Thổ địa, tượng Phật A Di Đà, nhà thờ Phật, nhà thờ Mẫu Thượng Ngàn.…nhằm đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa tâm linh, tín ngưỡng, tôn giáo của du khách thập phương. Dưới sân đền, có tượng 9 con trâu, trong đó 6 trâu đen, 3 trâu trắng. Trước mỗi tượng trâu đá có 1 chậu nước tượng trưng cho 9 cái giếng. Phía dưới chân đồi Pú Pỏm có dòng suối Tốn, thung lũng Phà Lẽm, bến Tá Tạo (bến Quan), bến Tà Phạ (bến Tắm Trâu của Trời). Hằng năm, tại đền, vào tháng Giêng âm lịch, đồng bào dân tộc Thái tổ chức lễ hội dâng trâu tế trời. Trong lễ hội, nhiều nghi lễ độc đáo mang đậm bản sắc văn hoá tín ngưỡng của đồng bào dân tộc Thái được tái hiện. Đây cũng là lễ hội thu hút rất nhiều du khách thập phương về thăm di tích đền Chín Gian.

    Đình Thi, còn có tên là đền Thi, nằm ở thôn Trung Thành, xã Như Xuân. Đình được xây dựng từ thế kỉ XV thờ hai vị thần là thần nhà Trời Dương Cảnh bạch y Thượng đẳng tối linh thần và Thành hoàng làng Lê Phúc Thành. Tương truyền, Lê Phúc Thành tên thật là Cầm Bá Thành, là một vị tướng lĩnh người Thổ có công phò trợ Lê Lợi trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Sau khi đất nước sạch bóng quân thù, vua Lê Thái Tổ ban cho ông quốc tính đổi tên thành Lê Phúc Thành, giao cho ông cai quản một vùng đất rộng lớn tương ứng với xã Như Xuân ngày nay. Sau khi tiếp quản đất đai, ông cùng với 4 người con trai của mình tiến hành khai hoang, mở làng, chiêu mộ nhiều người về đây sinh sống và sản xuất. Nhiều người Kinh, người Thái, người Mường,... khi về đây đều cải họ thành họ Lê, cùng với người Thổ bản địa tôn Lê Phúc Thành là tổ gốc của mình và thờ ngài ở đình Thi. Từ khi đình Thi thờ Lê Phúc Thành được xây dựng, đến những kì lễ, nhân dân tập trung về đình để dâng hương tế lễ thành hoàng làng. Trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử, đình Thi cũ không còn. Năm 1995, đình được xây dựng lại trên một nền đất bằng phẳng, rộng lớn, bên phải là cánh đồng, bên trái xóm làng và phía sau là dãy núi núi Mùn Tượng (núi Chóp Nón). Đình có cổng tam quan uy nghi, bề thế. Bước qua cổng tam quan, ở ngay bên tay phải, du khách sẽ được nhìn ngắm những nếp nhà cổ đơn sơ của người Thổ. Đi qua một khoảng sân rộng với những cây hoa sứ, hoa đại được uốn theo nhiều hình thù khác nhau mang sự trang nghiêm, du khách sẽ đến nơi thờ tự là khu ngôi nhà gỗ lim 3 gian được tôn cao so với sân 50cm chia thành nhà tiền đường và hậu cung. Nhà Tiền đường chia thành 3 ban thờ: ban hữu thờ 4 người con trai của ông; ban tả thờ Mẫu; ban còn lại nằm ở đầu hồi phía Nam nhà tiền đường thờ Dương Cảnh Bạch Y thượng đẳng tối linh thần và Thổ thần. Thành hoàng làng Lê Phúc Thành được thờ ở Hậu cung với 3 lớp hương án. Ngai thờ và thánh vị được đặt ở lớp trong cùng. Lớp hương án lớp thứ 2 có đèn thờ, hạc đồng thắp nến, đỉnh đồng. Lớp thứ 3 có đặt bát hương bằng gốm. Hai bên hương án được trang trí bằng chiêng (phía bên trái) và trống (phía bên phải). Phía trên hậu cung còn có tàn lọng màu vàng, phía trước treo hai bức trướng. Trong đình hiện nay còn lưu giữ sắc phong từ thời vua Khải Định và Bảo Đại trao năm 1922 và 1934, và đặc biệt là 4 bức trướng dệt bằng lụa ghi lại công đức của Lê Phúc Thành được thêu những hoa văn trang trí tứ linh, tứ quý tinh xảo mang đậm dấu ấn mĩ thuật cuối thời Lê đầu thời Nguyễn có giá trị nghệ thuật cao. Đình Thi còn là nơi diễn ra lễ hội đình Thi truyền thống vào tháng 3 âm lịch hằng năm. Đây là lễ hội tôn vinh công đức của Thành hoàng làng Lê Phúc Thành, cũng là dịp để người Thổ tổ chức lễ hội tế trâu truyền thống và biểu diễn một số trò chơi, trò diễn dân gian.

       Chùa Yên Cát, còn gọi là Thiền tự Yên Cát hoặc chùa Di Lặc, nằm ở thôn Thăng Bình, xã Như Xuân. Chùa nằm ở thị trấn Yên Cát cũ nên còn được gọi là Thiền tự Yên Cát. Chùa có từ xa xưa nhưng trải qua thời gian bị phá huỷ. Để bảo tồn và phát huy di tích, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hoá tâm linh của nhân dân trong huyện, năm 2018 chùa đã được xây lại. Hiện nay chùa đã khang trang hơn, có khu nhà chính thờ Tam bảo, thờ Mẫu, thờ Tổ. Chùa toạ lạc trên một quả đồi, nhìn xuống hồ nước, cảnh vật xung quanh “sơn thuỷ hữu tình”. Điểm nhấn của chùa là hệ thống tượng Phật: tượng Đức Phật bổn sư Thích Ca Mâu Ni với chiều cao 21m tính từ chân đế đến đỉnh, bề ngang 2 vai tôn tượng đức Phật là 10m, được xây dựng bằng xi măng cốt thép; tượng Phật Di Lặc lớn cao 7m rộng 10,5m chất liệu xi măng, tượng Phật Di Lặc cùng 12 con giáp cao 1m3. Chùa là nơi thu hút đông khách thập phương đến chiêm bái.

     Đến Như Xuân ta sẽ ghé thăm chợ Yên Cát, nằm ở trung tâm xã Như Xuân. Đây là một chợ cổ nổi tiếng được hình thành từ xa xưa mang đặc trưng của một chợ vùng núi Như Xuân, nơi sinh sống của rất nhiều dân tộc như Thái, Thổ, Mường, Kinh,... Vì vậy chợ Yên Cát không chỉ là trung tâm buôn bán, giao thương mà còn là nơi giao lưu văn hoá giữa các dân tộc Trong chợ có nhiều sạp hàng bày bán rất nhiều mặt hàng phong phú, đa dạng. Ngoài những mặt hàng thiết yếu phục vụ đời sống hàng ngày của nhân dân, phải kể đến những sản vật của các dân tộc thiểu số. Đến chợ, du khách dễ dàng mua được đồ thủ công những sản phẩm lưu niệm như túi xách, ví cầm tay, khăn, váy, áo,... được dệt thủ công với những hoạ tiết thổ cẩm đặc trưng. Ngoài ra, những mặt hàng nông sản cũng được bày bán rất nhiều ở chợ như gà, cá, rau, gạo,... Chợ còn bày bán những đặc sản của núi rừng như măng rừng, thịt lợn mán, lá sắn, mật ong, lá thuốc nam, rượu cần…

    Như Xuân là vùng đất giao thoa văn hóa giữa dân tộc Thái, Thổ, Mường và Kinh khá rõ nét, nhất là trong kiến trúc nhà ở, phong tục tập quán, văn hóa ẩm thực. Đến thăm Như Xuân ta sẽ thưởng thức cảnh sắc đặc trưng nơi vùng sơn cước với những nếp nhà sàn ẩn hiện trong sương và những con suối nhỏ chạy ven chân núi. Ta sẽ tìm hiểu và thực hành tín ngưỡng, cuộc sống của các dân tộc nơi đây. Ta sẽ có cơ hội được thưởng thức những đặc sản địa phương như rượu cần, cơm lam, gà nướng, canh gà lá sắn, cá suối nướng, măng nấu chua, vịt nấu canh chua, cá mè sông Mực nướng hoặc nấu canh chua, canh lá đắng, nem chua ống tre lợn mán, cơm lam, canh bồi…

     Ngày nay, sau khi sắp xếp lại tổ chức của bộ máy hành chính, huyện Như Xuân đã bị giải thể. Từ 16 xã và thị trấn, Như Xuân sắp xếp thành 6 xã, đó là các xã: Như Xuân, Thượng Ninh, Hóa Quỳ, Xuân Bình, Thanh Phong và Thanh Quân.

     Ngày nay, vùng đất Như Xuân tươi đẹp, giàu bản sắc, kết nối với khu kinh tế Nghi Sơn thuận lợi, cửa ngõ miền tây nam Thanh Hóa đi sang tỉnh bạn Nghệ An sẽ hứa hẹn có bước phát triển mạnh mẽ trong tương lai. Dẫu huyện Như Xuân không còn nhưng chắc chắn vùng đất này sẽ còn mãi xuân với những cánh rừng nguyên sinh, thác nước hùng vĩ và giá trị văn hóa đặc sắc, hấp dẫn nơi đây.

Ảnh: Thác Cổng trời, Đồng Quan.

            Đền Chín Gian

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét