TÌNH SỬ VÕ TẮC THIÊN là một tác phẩm của Lâm Ngữ Đường, người đồng thời với lịch sử diễn biến của Trung Hoa thời Đường Cao Tôn.
Đây
là một bộ truyện ký, tác giả ghi lại bằng tay nghe, mắt thấy, vì Thân
phụ của Lâm Ngữ Đường lúc đó làm vua Cao Tôn, bị bộ hạ của Võ Tắc Thiên
đày ra khỏi Kinh đô, phải đưa gia đình đi trấn nhậm phương xa, và bị tù
đày tra tấn.
Khác
với các bộ truyện Tàu khác, mà chúng ta thường đọc, trình bày những
trận chiến giữa nước này và nước khác, TÌNH SỬ VÕ TẮC THIÊN viết theo
lối ký sự, ghi lại diễn biến muốn trận chiến trong thâm cung bằng ái
tình, làm điêu đúng giang sơn nhà Đường lúc đó.
Đọc
TÌNH SỬ VÕ TẮC THIÊN chúng ta thấy những quyến rũ của đam mê dục vọng,
những âm mưu tranh đoạt uy quyền để hưởng thụ, làm cho xã hội biến loạn
vì chối bỏ đạo nghĩa làm người.
Đọc
TÌNH SỬ VÕ TẮC THIÊN chúng ta góp nhặt được những bài họa về tâm lý xã
hội, tác dụng của uy quyền và sức mạnh của lòng người khi đứng trước một
cuộc sống thiếu nhân tính.
Chúng
tôi khảo dịch tập sách này của tác giả Lâm Ngữ Đường là muốn giữ lại
một nguyên tắc di lưu tự ngàn xưa, không bị thời gian làm lu mờ những
nét ký sự trong cuốn truyện mà tác giả là nhân vật đương thời.
Cũng
có những chỗ không phù hợp với các truyện khác, nhưng đó là việc tất
yếu của những tác phẩm đã trải qua chiều dày của thời gian không thể
tránh khỏi.
Chúng tôi có tham gia lời bình xét sau mỗi chương, mục đích là để góp vui với bạn đọc.
Dù sao đây cũng là một bộ sách có giá trị về lịch sử.
MỘNG BÌNH SƠN
Vua Đường Thái Tông trong lúc lâm chung
Nơi
rặng núi Thái Bạch, cách kinh đô nhà Đường một thung lũng xinh tươi, cỏ
cây xanh tốt, một dòng suối uốn quanh, thấp thoáng một cung điện không
lấy gì nguy nga lộng lẫy, nhưng ẩn chứa một kỳ quan của những ai có tâm
hồn thơ mộng trong chốn thanh u.
Đây
là nơi nghỉ ngơi của vua Đường Thái Tôn vào mùa hè, nhưng nay thì nơi
đó đã trở thành cung điện dưỡng lão của nhà vua trong lúc sắp lâm chung.
Cung
điện rất đơn sơ, giản dị như những ngôi nhà nghỉ mát, được dựng lên với
những vật liệu bằng gỗ lấy từ một tòa điện cổ của các tiên vương để lại.
Là
một ông vua dựng lên sự nghiệp nhà Đường, nhưng nhà vua bản tính rất
đơn sơ, không đam mê những ngôi đền nguy nga tráng lệ nhất là trong lúc
cuối đời lại càng tỏ ra một con người có tâm hồn hòa nhịp với mọi thú
vui trong cảnh vật thiên nhiên.
Khi
thắng được nhà Tùy, ông sửa sang lại cung điện cũ để ở, không vì quyền
uy mà tham lam hưởng thụ. Ông biết rằng dân chúng đã lầm than trong bao
nhiêu năm chinh chiến, rất nghèo khổ, nếu xây dựng cung điện mới sẽ tốn
phí rất nhiều của cải và sức lao động nhân dân. Vì vậy, ông chỉ xây một
ngọn tháp ở trong cung để tưởng niệm hai mươi bốn vị hiệp sĩ đã từng
giúp ông chiến đấu trong gian khổ để khôi phục giang sơn và đem lại hòa
bình cho bờ cõi.
Ông
mắc bệnh kiết lỵ kinh niên, đã chữa trị rất nhiều, nhưng chỉ thuyên
giảm chứ không thể dứt hẳn. Bởi vậy, sức khỏe ông càng ngày càng sút
kém, thân hình hốc hác, tiều tụy.
Khác
với trước kia, ông là một kiện tướng có tinh thần chiến đấu rất cao,
một nhà lãnh đạo thiên tài, lại nổi tiếng là một ông vua đầy lòng nhân
ái, không tự cao, tự phụ. Ông thường thẳng thắn phê bình thuộc hạ cũng
như nghe thuộc hạ phê bình bản thân mình để hối cải. Bên cạnh ông là
những hiền thần có nghĩa khí và biết trọng danh dự.
Vua
tôi nhà Đường đã từng xông tên đụt pháo, chinh phục nước Cao Ly và các
quốc gia ở phía Bắc, mở rộng bờ cõi ở phía Tây, xây dựng một quốc gia
đại Đường giàu mạnh thời bấy giờ.
Triệu
Quốc Công Trương Tôn Vô Kỵ là một trong những cột trụ của triều đình.
Ông luôn luôn ở gần vua. Ông không những là em ruột của bà Hoàng hậu
nhân từ đã qua đời mà còn là một hiệp sĩ trong hai mươi bốn vị được thờ
tại bảo tháp trong cung. Thực ra, ông vừa là một chiến lược gia, vừa là
cố vấn thân tín của nhà vua.
Khi
được năm mươi hai tuổi, nhà vua cảm thấy mình đã kiệt sức, không còn
sống được bao lâu nữa, nên rời cung điện, đến ẩn trú nơi dãy núi Thái
Bạch ổn định tinh thần trước lúc lâm chung.
Một hôm Đường Thái Tôn gọi Vô Kỵ đến hỏi:
- Ta có vài điều quan trọng muốn bàn với khanh.
Các thị vệ hiểu ý vua muốn tỏ bày chuyện cơ mật nên lui ra ngoài hết.
Vua nói:
- Ta biết không còn sống được bao lâu nữa. Ta vẫn thường ấp ủ mấy điều…
Vô Kỵ tâu:
- Tâu chúa công, hôm nay Thánh thể bất an, nhưng mai mốt thì sẽ bình ổn.
Vua nói:
-
Không đâu! Ta biết ta sắp chết, nhưng khi ta chết phải chôn ta cùng với
Ái Hậu của ta. Điều ta quan tâm hơn hết là khanh phải tạc tượng tám con
chiến mã của ta bằng đá và đặt chúng nó ở lối vào gần lăng. Chắc khanh
đã biết chúng nó là những con gì rồi.
Vô Kỵ thoáng thấy vẻ tươi cười trên mặt vua, nên nói:
- Hạ thần xin sẽ tuân hành Thánh ý.
Vua nói:
-
Đôi khi ta cảm thấy chúng thương ta và hiểu ta hơn những người xung
quanh. Trong những ngày sắp tới Hoàng nhi là Cao Tôn sẽ cần đến khanh
rất nhiều. Nó là một con người nhân từ, nhưng tình cảm yếu đuối và còn
trẻ quá. Ta rất hài lòng là vợ nó cũng thuộc dòng Tôn thất, lại rất nết
na, khiêm hòa và đoan chính. Ta không cần người đàn bà thông minh, sắc
sảo. Một ông vua đã có rất nhiều chuyện bên ngoài để đối phó thì trong
nhà cần phải cho yên tĩnh. Ta chết đi mà lòng vẫn không yên chỉ vì Hoàng
nhi còn trẻ quá, khanh hãy ráng lo cho nó. Khanh hãy lại gần đây.
Vô Kỵ bước lại gần long sàn, Vua thì thầm:
-
Lý Thuần Phong đã nhắc nhở ta mà trước kia ta không tin nhưng trong hai
tháng gần đây ta đã để ý mọi chuyện. Võ Mỵ Nương làm cho ta lo quá.
Nàng đã hầu ta rất tận tâm, luôn luôn tỏ ra lanh lợi, mau mắn và chu
đáo, nhưng sau lưng ta đang có nhiều chuyện xảy ra. Gần đây ta bắt gặp
ánh mắt khác lạ của Hoàng nhi với nàng, thì thấy lời nói của Lý Thuần
Phong không phải là vô cớ. Khanh còn nhớ con ngựa dỡ chứng có bờm nâu
không? Không ai có thể cỡi được nó, vậy mà tối hôm nọ Mỵ Nương nói với
ta nàng có cách cỡi được. Ta hỏi cách nào thì nàng trả lời: “Bệ hạ hãy
cho thiếp một cây roi sắt, một cái búa và một con dao nhọn. Nếu thiếp
dùng roi đánh nó không được thì thiếp sẽ dùng búa đập vào đầu nó. Nếu nó
vẫn không tuân thì thiếp dùng dao thọc vào cổ nó”. Không hiểu nàng nói
như vậy là đùa hay thật. Nhưng một nguời đàn bà trẻ tuổi mà có thể thốt
ra những câu nói như vậy thì thật đáng sợ. Đó không phải là cách làm cho
thuần ngựa. Vậy mà vẻ mặt nàng vẫn thản nhiên như việc đó có thể làm dễ
dàng vậy.
Vô Kỵ hỏi một cách thận trọng:
- Tâu Chúa Công! Giữa hai người có tình ý với nhau không?
Vua nói:
- Rất có thể.
Vô Kỵ nói:
-
Muốn đưa nàng ra khỏi hoàng cung thì cũng chẳng khó gì, chỉ cần đuổi
nàng về quê mà không cần nói lý do, hay gởi nàng vào chùa là xong. Theo
lệ, các cung phi mỹ nữ hầu hạ vua không được thành thân với một người
đàn ông nào khác. Nhưng nhiều người đã đi lấy chồng sau khi vua chết,
trừ trường hợp có lời thề.
Sau một phút đắn đo, vua Thái Tôn nói:
-
Ta không đành tâm giết Mỵ Nương như Lý Thuần Phong đã khuyên vì Lý
Thuần Phong là người chỉ biết rõ huyền cơ của tạo hóa mà không hiểu rõ
tình cảm trong lòng người. Vậy hãy gọi Mỵ Nương vào đây cho ta thử lòng
xem sao.
(Nguyên trước khi được tuyển vào cung, Võ Tắc Thiên tên là Mỵ Nuơng, sau đổi là Võ Minh Không).
Trong khi chờ người đi gọi Mỵ Nương, Thái Tôn hỏi:
- Lý Tích đã đi trấn nhiệm miền Bắc hay chưa?
Vô Kỵ nói:
- Tâu chúa công, ông ta đã ra đi từ mấy hôm truớc, ngay khi có chiếu chỉ.
Thái Tôn nói:
-
Tốt lắm! Có lẽ Lý Tích thắc mắc tại sao ta lại phái ông ta đi như vậy,
nhưng ông ta đã tuân lệnh không cần biết lý lo. Điều đó làm cho ta rất
hài lòng.
Hồi
đó, Võ Hậu còn là một thị nữ trong cung, đuợc xếp vào loại Tài nhân.
Nàng có phận sự hầu vua trong lúc thay quần áo và tắm rửa. Theo triều
nghi, các công nương trong nội cung của vua gồm có một Hoàng hậu, bốn
cung phi, chín cung tần, bốn mỹ nữ và năm tài nhân. Ngoài ra còn có hai
mươi bảy mỹ nhân và tài nhân nữa nhưng không được vào nội cung. Tất cả
các cung nương này đều được phép nhận ân huệ của vua bằng một danh từ để
chỉ việc chăn gối và mỗi lần chăn gối đều được ghi chép vào gia phả để
xác nhận con cái.
Võ
Mỵ Nương lúc đó được hai mươi bốn tuổi và đã vào cung đượïc mười năm.
Cha nàng đã từng theo Thái Tôn đi chinh chiến và khi vua ghé thăm nhà
nàng ở Kinh châu thì đã đặc ân tuyển nàng vào cung. Nhưng số nàng lúc đó
cũng hẩm hiu, sau mười năm trời vẫn không ngoi lên khỏi bậc thấp nhất
trong đám cung nương.
Lúc
này vào cuối tháng năm, tiết trời oi ả, nhưng nhờ nơi đây có núi cao,
gió mát nên không đến nỗi nóng lắm. Sáng nay, sau khi Mỵ Nuơng vào chầu
vua xong thì lui về phòng mình, cửa phòng nàng trông qua khu vườn của
Thái tử ở phía đông. Bên kia khu vườn có tường bao bọc là nơi của Thái
tử trú ngụ. Nàng biết rất rõ khu vườn ấy từng gốc cây, ngọn cỏ, ngõ
ngách ra vào, vì nàng đã tìm cách làm quen với Vương phi, vợ của Thái
tử.
Nàng
ngồi đây, giữa khung cảnh tráng lệ trong cung cấm, nàng có cảm giác
cũng quyền thế như ai. Trong phòng nàng cũng có những tỳ nữ riêng để sai
bảo. Nàng đã quá quen thuộc với các nghi thức, tập tục trong cung cấm
và nàng đã tìm thấy thoải mái trong cuộc sống hàng ngày. Nàng ngồi suy
nghĩ về cặp vợ chồng khờ khạo của Thái tử và Vương phi, nàng cảm thấy họ
cao quí, đa tình, hay giận dỗi nhưng cũng dễ nguôi. Thái tử thì chỉ
thích môn thể thao hoặc ngồi ngắm các cung nữ khi rảnh học. Mấy ngày gần
đây, một mối hy vọng nẩy sanh trong lòng nàng. Nàng đã mạo hiểm liếc
mắt hoặc mỉm cười với Thái Tử và nàng còn tìm cách đụng chạm vào người
Thái tử để dò la ý thích của chàng. Thế rồi Thái tử đến với nàng thật là
dễ dàng và Vương phi không chút nghi ngờ.
Nhưng nàng vẫn lo lắng. Vua sắp băng hà và nàng sẽ ra sao nàng đang miên man suy nghĩ thì đứa thị tỳ đã đến nói với nàng:
- Có lệnh vua gọi hầu.
Nàng
vội vã chạy xuống bếp cắt một miếng hành, lấy nước quẹt vào mắt làm cho
đôi mắt ướt đẫm như đang khóc rồi mới chải lại tóc và đến yết kiến vua.
Khi bước vào phòng, nàng không ngẩng đầu lên vẫn nhận ra có sự hiện diện của Vô Kỵ. Nàng tâu:
- Bệ hạ cho gọi thần thiếp?
Thấy nàng vào, nhà vua và Vô Kỵ ngưng câu chuyện đang nói, Vô Kỵ đứng dậy, trong lúc vua Thái Tôn phán:
- Nàng hãy bước lại gần trẫm.
Giọng nói nhà vua có vẻ yếu đuối và mệt nhọc, nhưng vẫn phảng phất vẻ uy mãnh hàng ngày.
Mỵ Nương buớc tới, vua nắm tay nàng có vẻ quan thiết lắm.
- Ái khanh đã khóc?
Mỵ Nương tâu:
- Thật vậy! Tâu Bệ hạ.
Tuy nàng trả lời nhưng đầu vẫn cúi xuống.
Như chợt nhớ ra điều gì, vua buông tay nàng ra, nói:
- Giờ đây ái khanh có thấy khỏe hơn chăng? Ái khanh có muốn trẫm làm điều gì không?
Vua nhìn vào mặt nàng rồi chậm rãi nói tiếp:
-
Mỵ Nương! Khanh đã chăm sóc trẫm trong suốt mấy năm. Giờ đây số trẫm
sắp dứt. Sau khi trẫm chết, khanh định làm gì? Khanh có muốn về quê
không?
Mỵ
nương linh cảm có điều không ổn. Nàng nhìn thấy Vô Kỵ lại đang chăm chú
nhìn nàng thì biết vua và Vô Kỵ đang tìm hiểu nàng, nên nàng trả lời
thật nhanh:
-
Muôn tâu Bệ hạ! Bấy lâu Bệ hạ đã ra ơn cho thần thiếp được kề cận sớm
hôm. Giờ đây Bệ hạ an bài thế nào thì thần thiếp xin chịu, chỉ xin Bệ hạ
một điều là đừng bắt thần thiếp phải về quê. Nếu bệ hạ cho phép, thần
thiếp xin được chết theo để có thể tiếp tục phục dịch cho Bệ hạ. Thần
thiếp không muốn sống nữa.
Vua Thái Tôn nói:
- Khanh không được làm như vậy. Ta rất ghét cách hy sinh đó.
Mỵ Nương cố kìm chế xúc động và nói như nũng nịu:
-
Một khi thiếp đã đem thân gởi nơi họ Lý, thì thiếp đã thành đàn bà họ
Lý, không gì có thể làm thay đổi được điều đó. Vậy thì thiếp có thể làm
gì hơn là hy sinh?
Trong phòng chợt im lặng. Vua và Vô Kỵ đều đưa mắt nhìn về phía Mỵ Nương.
Vô Kỵ nói:
-
Tâm nguyện của công nương rất đáng tôn trọng, nhưng công nương nên tiếp
tục sống và gởi thân vào chốn tu hành để có thể cầu nguyện cho linh hồn
chúa công.
Mọi việc đã rõ ràng. Mỵ Nương đã hiểu hết ý định của vua tôi trò chuyện với nhau. Nàng tự nhủ: “Thì ra là vậy”. Nàng nói:
- Thiếp xin đội ơn Bệ hạ. Nếu Bệ hạ muốn vậy thiếp xin cắt tóc đi tu và sống với chuỗi ngày còn lại để cầu nguyện cho Bệ hạ.
Vua nói:
-
Trẫm chắc rằng ái khanh sẽ được thảnh thơi tại chùa Hưng Long. Mấy
nương tử kia có lẽ cũng muốn theo ái khanh. Vậy ái khanh nên đến đó mà
ở.
Mỵ nương lui ra, vua nhìn theo thở dài, nhưng cảm thấy nhẹ nhõm:
- Thế là bớt được mối lo. Nhưng ta đoán trước nàng đóng kịch rất khéo, khanh có nghĩ vậy không?
Vô Kỵ tâu:
- Tâu chúa công! Quả là nàng đóng kịch rất khéo.
Vua Thái Tôn nói:
-
Ta nghĩ rằng ta đã làm một việc hợp lý. Hoàng nhi là một đứa con ngoan,
biết vâng lời, nhưng lại không đủ cương nghị để gánh vác giang san.
Theo lời khuyên của khanh, ta đã bỏ hai đứa lớn để lập nó làm Đông cung
Thái tử. Vậy khanh có bổn phận dẫn dắt và che chở cho nó. Hãy gọi Chữ
Toại Lương đến đây, ta muốn phó thác Thái tử cho hai khanh.
Vô Kỵ tâu:
- Hạ thần sẽ sai gọi ngay. Chắc trưa nay Toại Lương sẽ đến.
Nói xong, Vô Kỵ bước ra cửa, truyền lệnh cho thị vệ, rồi lại trở vào hầu hạ bên vua.
Vua phán:
- Trong khi chờ đợi, khanh kêu Hoàng nhi vào đây cho ta. Ta có vài điều muốn nói với nó.
Vô Kỵ nói:
- Tâu chúa công, chắc chúa công đã mệt, xin hãy nghỉ ngơi đôi chút.
Vua Thái Tôn nói:
- Không sao đâu. Ta muốn nói chuyện với nó một đôi lời để khỏi bận tâm. Khanh hãy để cho ta nói khi ta còn có thể nói được.
Chẳng bao lâu, Thái tử bước vào đứng hầu.
Thái
tử là một thanh niên hai mươi mốt tuổi, tính tình vui vẻ, không thông
minh lắm, nhưng cũng như vua cha, ít khi được dồi dào sức lực.
Việc
chọn lựa người kế nghiệp đã làm cho vua cha bận tâm lo lắng không ít.
Vua Thái Tôn có tất cả mườí bốn người con trai, trong số đó có ba người
do Hoàng hậu sinh ra, được dự tuyển làm Thái tử. Mới đầu người con lớn
nhất là Kiên được chọn làm Thái tử, nhưng về sau Kiên có nhiều hành vi
phóng túng, nên vua muốn chọn người con thứ hai tên là Thái. Người này
mẫu mực cả về mặt tính tình lẫn về trí năng. Trông Thái rất giống vua
cha. Tuy chưa phế người con trưởng nhưng vua thường đem Thái về Đông
cung để rèn luyện. Ai cũng cho rằng chẳng bao lâu Thái sẽ chiếm ngôi vị
của người anh, nên giữa hai anh em vì thế mà bất hòa, xung đột lẫn nhau.
Kiên nghe lời dèm pha, mưu toan giết Thái, nhưng không thành. Vua Thái
Tôn biết được nổi giận cầm gươm dọa sẽ tự tử nếu cảnh đó còn tái diễn.
Về
sau, theo lời khuyên của Vô Kỵ và một vài tôi thần khác, vua chọn Cao
Tôn làm Thái tử. Mọi ngươì đều đồng ý rằng nếu một trong hai người kia
mà lên ngôi thì người còn lại sẽ bị giết.
Để
tránh thảm cảnh đó, vua đã hạ chiếu phong Cao Tôn làm Thái tử. Trong
chiếu chỉ, vua nhấn mạnh rằng nếu bất cứ ai còn dị nghị sẽ bị bêu đầu.
Đó là chuyện sáu bảy năm về trước.
Còn lúc này Cao Tôn Thái tử được lệnh đòi bước vào phòng vẻ mặt lo lắng như thường lệ, vẫn đứng thật nghiêm để nghe lời cha dạy:
-
Hoàng nhi! Cha cho gọi con vào đây vì cha biết cha không qua khỏi lần
này. Bấy lâu nay cha đã chăm lo cho dân và đem lại cho họ một cuộc sống
thanh bình. Bây giờ đến lượt con phải gánh vác xã tắc. Con đừng lo sợ,
vì cậu của con đây và nhiều người khác sẽ giúp con, nếu con biết nhún
mình, con sẽ có cơ hội học hỏi được rất nhiều. Chính cha đây cũng có vài
lời muốn khuyên con vậy con có muốn nghe không?
Thái tử tâu:
- Thưa phụ vương, việc tuy khó nhưng con rất muốn học.
Thái Tôn nói:
-
Vậy thì tốt lắm! Cha có mấy lời vắn tắt nhưng con phải luôn luôn ghi
nhớ, nhất là khi con gặp khó khăn. Một ông vua thường hay mù quáng làm
theo ý riêng mình. Điều khó khăn nhất là phải nghe lời can gián của các
trung thần. Mẹ của con đã dạy cha điều đó. Điều quan trọng là con phải
nghe lời cậu con, người đã cùng cha tạo dựng sự nghiệp ngày nay. Điều
thứ nhì, con phải nhớ rằng quyền hành là một thứ đáng sợ, con phải biết
đối xử nhân từ với nhân dân. Ngôi vua chỉ là một trách nhiệm, một sự phó
thác của thượng đế. Chắc con còn nhớ triều đại trước, vì vua Tùy không
được lòng dân mà phải mất ngôi. Mẹ con đã dặn cha đừng xây lăng cho
người lớn quá, vì người không muốn dân nghèo phải lầm than thêm nữa.
Cũng vì lời khuyên đó mà cha đây cũng hạn chế xây thêm đền đài, cung
điện. Mẹ con đã thông cảm được nỗi đau khổ của muôn dân trong mấy chục
năm khói lửa. Con đừng bao giờ quên tấm lòng cao cả của mẹ con. Con
không cần phải dựng nhiều chiến lũy, chính lòng dân là chiến lũy kiên cố
nhất của con. Ngày xưa, chính cũng nhờ sức mạnh của lòng người mà đạo
quân của cha trở nên vô địch. Chìa khóa trong việc trị vì là ở chỗ đó.
Chắc con đã hiểu.
Thái tử tâu:
- Con xin đội ơn phụ vương đã phán dạy.
Vua Thái Tôn nói:
-
Còn một việc nữa. Lý Tích là một tướng tài, nhưng bướng bỉnh và thật
thà quá. Trước kia ông ta vì cha mà xông pha lửa đạn. Gần đây cha có ý
cử đi trấn nhậm ngoài biên ải, để thử lòng trung thành. Khi con lên
ngôi, con có thể yên trí triệu hồi về. Lúc đó chắc ông ta sẽ coi con
không khác gì cha thuở trước.
Thái tử tâu:
- Thì ra phụ vương có ý đó mà mọi người đều thắc mắc, không biết họ Lý có lỗi gì.
Trong số các tướng nơi trận mạc thuở trước, nhiều người đã chết, hiện thời Lý Tích là người có thế lực nhất.
Vua Thái Tôn nói tiếp:
- Một điều nữa cha muốn nói với con là vấn đề đàn bà. Con và Vương Thị vẫn vui vẻ chứ?
Thái tử tâu:
- Tâu phụ vương, chúng con rất hạnhphúc.
Thái Tôn nói:
- Vậy thì tốt lắm. Còn Triệu thị thì sao?
Thái tử tâu:
- Nàng rất khả ái. Nàng mới sinh được một trai chắc phụ vương đã biết.
Thái Tôn nói:
-
Khi làm vua, con có quyền năm thê bảy thiếp, có quyền hưởng thụ. Vương
thị là người hiền đức, chắc nó cũng thông cảm cho con về vấn đề này. À,
còn Vương thị và Mỵ Nương chơi thân với nhau lắm phải không?
Giọng vua bỗng trở nên nghiêm khắc và ngừng nói chờ phản ứng của con.
Thái tử có vẻ ngượng ngập khi nghe nhắc tới Mỵ Nương, rồi ấp úng trả lời:
- Dạ họ chơi với nhau thân lắm. Mỵ Nương rất tốt, luôn luôn sốt sắng…
Vua ngắt lời:
- Mỵ Nương vừa tình nguyện đi tu sau khi ta chết.
Thái tử nhìn vua không hiểu vua cha đã biết chuyệïn chưa. Vua cha tiếp lời:
- Chuyện đó không có gì quan trọng. Ta chỉ muốn bảo cho con biết vậy thôi.
Sau khi Cao Tôn Thái tử lui ra, vua Thái Tôn nói với Vô Kỵ:
- Chúng ta đã nhận xét đúng. Mỵ Nương Phải đi tu.
Chiều
hôm đó, Toại Lương là Phó Thừa tướng từ Kinh đô ra đến nơi, được dẫn
vào ra mắt Thái Tôn. Ông là một lão thần nổi tiếng về tánh thẳng thắn,
được vua coi như anh em kết nghĩa. Lúc ấy Cao Tôn Thái tử và Vương Phi
cũng được đòi vào hội kiến, vì đây là một dịp đặc biệt. Vô Kỵ và Toại
Lương sẽ nhận lời ủy thác của vua. Vua biết rằng chỉ có hai người này là
có thể tin cậy được.
Vô Kỵ, Toại Lương và hai vợ chồng Thái tử đều quây quần quanh vua để chờ nghe vua phán.
Vua Thái Tôn cầm tay Toại Lương nói:
-
Hai khanh đã tận trung với ta trong nhiều năm, giờ đây ta có việc phải
gởi gắm hai khanh. Hoàng nhi là một đứa con ngoan của ta, vợ nó do chính
ta chọn lựa. Ta gởi hai vợ chồng nó lại cho hai khanh. Hai khanh hãy
ráng che chở và hướng dẫn chúng làm sao cho rạng rỡ cơ nghiệp nhà Đường.
Ta cho phép hai khanh được trọn quyền hành động.
Nói
đến đây, nhà vua quay lại bảo Thái tử và Vương phi quỳ một chân trước
mặt hai vị đại thần để nhìn nhận hai vị đại thần nhận chức phận mới của
họ.
Vua nói:
- Các con sẽ không phải lo lắng điều gì một khi Toại Lương và Vô Kỵ còn ở bên cạnh.
Sau đó, Vua bảo Toại Lương chép lời di chiếu, rồi dặn thêm:
-
Vô Kỵ là cánh tay mặt của ta hồi còn chinh chiến, đã dày công giúp ta
lên ngôi báu. Khanh phải hứa với ta là khanh sẽ không để cho con ta bị
lôi cuốn vào vòng thị phi hay bị hại vì lý do chính trị. Nếu khanh không
làm được như vậy thì phụ lòng ta đó.
Toại
Lương nghiêm trang hứa tuân lời. Vua cảm thấy yên lòng, nhưng có biết
đâu về sau Toại Lương đã không làm tròn lời hứa chỉ vì thua trí một
người đàn bà.
LỜI BÀN
Vua
Đường Thái Tôn là một vì vua oanh liệt, cầm quân ra trận, gồm thâu
giang san, lập nên đại nghiệp, nhưng trước khi chết đã thấy được vận
mệnh của đất nước, tìm cách gởi con cho đại thần và ngăn chặn những hậu
quả manh nha xảy đến.
Hậu
quả của vua Đường Cao Tôn sau này không phải xảy ra bằng giáo gươm ở
trận mạc, mà là tình ái ở ngay trong cung. Võ Tắc Thiên đã bắt đầu manh
nha đem tình ái khống chế quyền uy, mê hoặc triều đình, tạo thành một
sức mạnh khuynh thành đổ nước.
Điều
đó vua Thái Tôn lúc lâm chung đã thấy rõ, nhưng tình ái diễn biến phức
tạp hơn giáo gươm ngoài chiến địa, chính vì vậy mà dù vua Thái Tôn có
ngăn ngừa trước vẫn không đối phó nổi với mọi diễn biến phức tạp trong
ái tình.
Bước đầu chinh phục quân vương
Vua
Thái Tôn băng hà vào ngày hai mươi sáu tháng năm. Tin này được giữ kín
cho đến khi các biện pháp an toàn được thực hiện triệt để.
Cao Tôn Thái tử được hộ giá về triều. Bốn ngàn ngự lâm quân được trải dài theo dọc đường để đưa linh cữu Thái Tôn về Kinh đô.
Ba
ngày sau, linh cữu mới đem về đặt ở điện Thái Ất. Mọi việc đều êm xuôi.
Ngày mồng một tháng sáu vua Cao Tôn làm lễ đăng quang. Mãi cho đến
tháng tám thi hài của vua Thái Tôn mới được an táng.
Mấy
ngày sau khi vua Thái Tôn mất, hơn mười công nương đã từng hầu hạ vua
Thái Tôn mới được đưa đến chùa Hương Long để làm lễ xuống tóc. Nàng Võ
Mỵ Nương cũng ở trong số ấy.
Suốt
ngày đêm cầu siêu cho vua Thái Tôn, Mỵ Nương được cử hầu hạ vua Cao
Tôn. Căn phòng làm lễ cầu siêu chỉ lờ mờ ánh đèn sáp, mùi hương trầm tỏa
ra thơm nức.
Thế là hai người có nhiều dịp tâm sự riêng với nhau. Mỵ Nương giúp đỡ vua và Hoàng hậu rất chân tình.
Vua Cao Tôn đã lợi dụng những lúc chỉ có riêng hai người trong phòng để nói chuyện với Mỵ Nương.
Vua nói:
- Thế là nàng sắp lìa bỏ ta.
Mỵ Nương buồn bã nói:
-
Thiếp đâu muốn xa cách Bệ hạ, nhưng hoàn cảnh biết làm sao bây giờ. Bệ
hạ và thiếp sẽ phải mỗi người một ngả. Thiếp chẳng hy vọng gì còn đặt
chân vào cung điện nữa, nhưng lòng thiếp vẫn gắn liền với thâm cung suốt
đời.
Vua Cao Tôn hỏi:
- Thật lòng nàng không muốn xa ta chứ?
Mỵ Nương than:
-
Bệ hạ không tin thiếp sao. Thiếp vẫn ước ao tình thế không đến nỗi éo
le thế này để thiếp có thể hầu hạ Bệ hạ. Nhưng đó chỉ là ước mơ hão
huyền. Thiếp chỉ còn muốn mong sao Bệ hạ đừng quên thiếp là thiếp toại
nguyện rồi.
Vua Cao Tôn nói:
- Ta quên nàng làm sao được? Điều đó không thể có đâu.
Mỵ Nương nói:
- Thiếp biết Bệ hạ không nỡ quên thiếp, còn đời thiếp trọn đời kể như đã hết.
Vua Cao Tôn nói:
- Nàng đừng nói vậy. Nàng còn trẻ lắm…
Mỵ Nương nói:
- Đã vào đến đây thì trẻ hay không cũng thế thôi.
Vua Cao Tôn nói:
- Tình cảm nàng tuyệt vọng như thế sao?
Mỵ Nương im lặng nhìn vua trong giây lát rồi nói:
-
Dù Bệ hạ là đấng Thiên tử, Bệ hạ cũng không thể làm gì hơn. Thiếp chỉ
mong Bệ hạ tưởng nhớ thỉnh thoảng đến thăm để cho thiếp được thấy mặt mà
thôi.
Vua Cao Tôn nói:
- Thôi được! Trẫm hứa thỉnh thoảng sẽ đến.
Đó
là lần cuối cùng hai người gặp riêng nhau. Mấy ngày kế tiếp vua Cao Tôn
bận rộn lo việc triều chính, xung quanh vua lúc nào cũng đầy những
triều thần nội thị.
Mị
Nương đã bắt đầu tỏ ra là một người nhiều thủ đoạn, nếu là một người
khác vua gởi vào chùa thì chỉ biết tu hành và thủ phận, nhưng Mỵ Nương
đã hành động. Chính điểm khác thường ấy đã đưa nàng tới chỗ thao túng
thiên hạ sau này. Nàng biết rằng muốn thành công phải có một người giúp
đỡ và phải duy trì liên lạc với nội cung. Vì vậy, trước khi rời cung,
nàng thu góp đồ đạc rồi đem những món trang sức quí báu phân phát cho
đám thị tỳ. Riêng Lan Anh người tỳ nữ riêng của nàng, nàng đã tặng một
chiếc nhẫn hồng ngọc rất lớn, một chiếc áo lông chồn và ba rương đầy lụa
là, gấm vóc. Đặc biệt nàng còn đem tặng Vương Phi một chiếc nhẫn ngọc
bích rất quí. Nàng nói với Vương Phi:
-
Xin tặng phu nhân chiếc nhẫn này để tò lòng kính mến của tôi đối với
phu nhân và để đánh dấu những ngày tôi được sống vui vẻ bên phu nhân.
Vương Phi dò hỏi:
- Công nương có tặng Triệu Phi vật gì không?
Mỵ Nương nói:
- Tôi không tặng gì hết. Tôi chỉ mến có một mình phu nhân thôi.
Vương Phi hỏi:
- Chúng ta không gặp lại sao?
Mỵ Nương nói:
-
Nếu muốn, phu nhân ghé lại chùa Hưng Long, còn tôi thì không thể về
cung để thăm phu nhân được. Tôi rất mong được phu nhân tới viếng.
Nói xong, nàng đưa tay chỉ con tỳ nữ Lan Anh và tiếp:
-
Lan Anh là đứa hầu tận tâm nhất của tôi, xin phu nhân thu dụng nó để
sai khiến. Nó có thể tin cậy được. Nếu phu nhân cần một người tâm phúc
thì nó rất xứng đáng.
Những
ngày kế tiếp, Lan Anh thường lui tới nơi chùa tìm gặp Mỵ Nương, ngoài
những lời thăm hỏi thì Lan Anh còn đưa những tin tức trong cung và những
quà biếu của Vương Phi gởi đến.
Qua
sự trung gian của Lan Anh, Mỵ Nương biết được Vương Phi hiện nay đã là
Hoàng hậu và đang gặp việc rắc rối vì Hoàng hậu không có con trai, nên
theo lời khuyên của các vị lão thần, nàng đem Lý Trung, con của một cung
tần về nuôi lập làm Thái Tử. Trong khi đó vua Cao Tôn tối ngày miệt mài
bên Tây cung ham mê dâm dục với Triệu Phi. Vua đã mê đắm người đàn bà
lẳng lơ đó nhưng khôn ngoan và rất khéo léo. Nàng biết chiều chuộng, dám
làm những việc mà một người đàn bà nết na không dám làm, hoặc nghĩ đến.
Hoàng hậu quả không phải là đối thủ của Triệu Phi khi muốn làm cho vua
Cao Tôn yêu mến.
Thế
là vua Cao Tôn bắt đầu nghe hai người than phiền nhau, vua được nếm mùi
sống với hai người đàn bà ganh tỵ, hằn học với nhau trong đống lửa
tình. Vua phải tìm cách dàn xếp cho ổn thỏa. Nhưng qua cử chỉ của vua
Cao Tôn, Vương hậu thấy rõ vua càng ngày càng lạnh nhạt với mình.
Nhân
ngày cầu nguyện vua Thái Tôn, buổi lễ được tổ chức long trọng tại chùa
Hưng Long, Vương hậu mời vua đi dự lễ. Vua rất hân hoan nhận lời. Hai
người đem tỳ nữ Lan Anh theo, và trong suốt quãng đường từ cung điện ra
đến chùa hai người không nói với nhau một lời nào.
Cuộc
thăm viếng của vua được dự báo trước nên các ni cô trong chùa đều xôn
xao, họ mặc đồng phục màu nâu thẫm và xếp hàng nơi đại điện để chờ đón
đoàn người trong hoàng gia. Bộ quần áo tu hành vẫn không che được nét
trẻ đẹp và quyến rũ của một số ni cô. Vua Cao Tôn biết mặt nhiều người
từ lúc họ ở trong cung, nhưng nơi đây có cái gì khác lạ.
Khi họ quì xuống để tiếp đón, vua truyền tất cả đều đứng dậy để nhớ lại từng khuôn mặt của mỗi người.
Lan
Anh chạy đến tiếp chuyện với Mỵ Nương. Sau đó Hoàng hậu và vua Cao Tôn
cũng bước đến hỏi thăm. Mỵ Nương chào vua và Hoàng hậu mà nước mắt đầm
đìa.
Trong
khi vua và Hoàng hậu đi một vòng đề thăm hỏi vị nữ ni trụ trì và các
người quen thì Lan Anh kéo Mỵ Nương ra ngoài kể cho nàng nghe những dự
tính của Vương hậu.
Lan Anh nói:
- Vương hậu dự tính tìm cách đưa Mỵ Nương trở về cung.
Mỵ Nương mỉm cười hỏi:
- Taị sao có việc lạ lùng ấy?
Lan Anh nói:
-
Vương hậu muốn dùng một con rắn độc để trị một con rắn độc, tức là mượn
tay Mỵ Nương để trừ khử Triệu Phi. Mỵ Nương sẽ ăn đứt Triệu Phi, mà vua
Cao Tôn Không hay biết về việc này.
Sau
lễ dâng hương và cầu siêu, vua và Hoàng hậu được mời dự bữa cơm chay.
Mỵ Nương được phép ngồi đồng bàn với vua và Hoàng hậu. Trong khi ăn
uống, Hoàng hậu hoạt bát khác hẳn ngày thường bà luôn luôn đưa đẩy câu
chuyện để bàn tiệc được vui vẻ. Trái lại, Mỵ Nương thì ít nói, vì sau
khi được Lan Anh đưa tin, nàng mãi suy tính kế hoạch mai sau, tâm hồn
nàng như để đâu đâu, nàng chỉ dâng bánh cho vua có một lần để rồi ánh
mắt hai người thoáng gặp nhau.
Trước khi trở về cung, Hoàng hậu nói nhỏ với Mỵ Nương:
- Hãy chờ một vài hôm sẽ có tin vui.
Rồi trong lúc ngồi trên xe, Hoàng hậu nói với vua:
- Mỵ Nương buồn lắm, thiếp muốn tìm cách giúp nàng và thiếp cũng muốn có nàng để bầu bạn. Thiếp định đưa nàng trở về cung.
Vua có vẻ nghi ngờ:
- Ái Hậu muốn vậy thật sao?
Vương hậu nói:
- Dĩ nhiên thiếp muốn như thế.
Vua nói:
- Vậy thì dễ lắm. Chỉ cần phái một chiếc xe đến đón nàng, nói là cần có nàng để lo việc tế tự trong cung.
Vua
Cao Tôn không giấu được nỗi vui mừng. Đây chính là điều mà vua đem lòng
mong ước. Vua không ngờ chính Hoàng hậu lại làm cho điều mong ước của
mình trở thành hiện thực một cách dễ dàng như vậy. Mỵ Nương sẽ được về
cung để sớm hôm hầu hạ vua.
Vua Cao Tôn nói:
- Ý kiến của Ái hậu thật tuyệt vời. Ngày mai trẫm sẽ cho người đón nàng về.
Vua cảm thấy một cái gì bất ngờ, thích thú sắp xảy ra với mình và có cảm giác sao ngày mai đến chậm chạp như thế.
Vương hậu cảm giác được việc ấy, nên hỏi:
- Bệ hạ đang trông chờ lắm phải không?
Vua nói:
- Đúng vậy! Trẫm mừng lắm. Nhưng Ái hậu sẽ không ghen chứù?
Vương hậu Nói:
- Thiếp sẽ không ghen đâu, xin Bệ hạ đừng lo.
Tối hôm đó Vương hậu nói vớùi vua:
-
Chắc Bệ hạ cho rằng thiếp ghen với Triệu Phi. Thực ra thiếp không ghen.
Thiếp không phải là con người hẹp lượng. Là vua, Bệ hạ được quyền có
nhiều quí phi, nhưng thiếp muốn trong nhà phải hòa thuận yên vui. Thiếp
muốn đem Mỵ Nương về để phục vụ bệ hạ. Nàng rất kính trọng và trung
thành với thiếp. Nàng và thiếp sẽ hòa thuận để cùng nhau chăm sóc Bệ hạ.
Thiếp hết chịu nổi về tánh hỗn láo và khiêu khích của Triệu Phi.
Hai
ngày sau, Mỵ Nương được lén đưa về cung bằng chiếc xe của Hoàng hậu.
Việc này được giữ rất bí mật, nhất là đối với Triệu Phi. Nhưng rồi chẳng
bao lâu nàng mang bầu và khi chiếc áo tu hành dù rộng thênh thang cũng
không còn che dấu được cặp mắt của bọn thị nữ nữa và câu chuyện bị tiết
lộ.
Thực
ra Triệu Phi đã sớm biết việc ấy, khi bỗng nhiên vua có vẻ đổi tính,
thích ngự bên chánh cung hơn và ít lui tới với Triệu Phi.
Triệu Phi đã buộc vua nói điều này và vua đã thú thật hết với nàng.
Triệu Phi không ngờ một người hay ghen tức và xấu mồm như Vương Phi Hoàng hậu lại có bản lãnh sắp xếp như vậy.
Nàng nghĩ thầm:
- Chuyện này chắc chắn sẽ đồn đại ra ngoài và mọi người xem đó là một vụ loạn luân.
Thấy
được vua say mê, Mỵ Nương lại càng quyết tâm đem hết mánh khóe quyến rũ
của mình để mê hoặc ông vua trẻ tuổi, lãng mạn. Nàng chỉ lớn hơn vua ba
tuổi, nhưng lão luyện thì gấp mấy lần. Nàng biết cách làm cho vua hoàn
toàn sung sướng. Nàng rất rành về cách dâm dục mà nàng đã học được những
kinh nghiệm yêu thương của các công nương khác trong chùa Hưng Long, vì
những công nương này toàn là những người đi tu vì bắt buộc. Họ đã từng
là những tay lão luyện trong nếp sống truy hoan, đã trải qua những cuộc
ái ân điên đảo.
Mỵ
Nương đã ghi nhận là con người rất dẻo dai và táo bạo trong việc phòng
the. Vị vua trẻ tuổi và thiếu thực tế kia làm sao mà thoát khỏi tay
nàng. Vua đã mê mệt vì nàng, quên hết những người khác, quên cả Triệu
Phi đúng như Vương hậu đã đoán.
Võ Mỵ Nương sắp đặt chương trình hành động để đạt tới mục tiêu. Con đường đưa nàng đến uy quyền đã bắt đầu rộng mở.
LỜI BÀN
Trong
xã hội loài người nếu đã xảy ra chiến tranh triền miên ngoài chiến
trận, hoặc trong triều nội các gian thần và trung thần âm mưu hãm hại
nhau để tranh đoạt quyền lợi thì trong cung cấm cũng âm thầm xảy ra
những cuộc tranh chấp không ngừng để củng cố ngôi vị.
Ở đây, tác giả Lâm Ngữ Đường đã ghi lại một giai đoạn lịch sử tranh chấp quyết liệt trong cung cấm thời vua Đường Cao Tôn.
Vũ
khí trong cung cấm là tranh đoạt tình ái để làm vũ khí chiếm lãnh uy
quyền. Một Vương hậu, vì tài chinh phục tình ái không thắng nổi Triệu
Phi, nên phải âm mưu đưa Võ Mỵ Nương về cung trừ khử đối thủ. Đây là một
thủ đoạn mà bản lãnh của người đàn bà không thua kém gì mưu trí của các
bậc nhân tài nơi trận mạc. Muốn thắng đối phương trong trận chiến thì
phải dùng đến tài năng vũ khí, muốn chế ngự một tình yêu của một vị Đế
Vương phải dùng đến nghệ thuật ái ân. Vương hậu muốn trừ Triệu Phi tất
yếu phải tìm cách sử dụng một tài năng có kinh nghiệm trong tình ái để
giúp mình. Việc Vương hậu đưa Mỵ Nương vào cung cốt là để trả thù Triệu
Phi, để rửa nhục trong việc thua kém về mặt chinh phục quân vương.
Trong
lãnh vực này rất phức tạp, mà kẻ sử dụng chiến thuật không thể không có
bản lãnh. Bản lãnh của người đàn bà trong cung cấm.
Một chiến sĩ ái tình ra trận
Võ
Mỵ Nương nóng lòng muốn được mọi người biết mình là ái nương của vua,
vì thực ra nàng đã chiếm lãnh được điều ấy, nhưng ý nguyện của nàng
không phải chỉ đến đó mà còn xa xôi hơn nữa. Đứa con nàng sinh ra nàng
muốn nó phải là Hoàng tử. Nàng đã để tóc mọc lại nhưng vẫn chưa đủ dài
để chải chuốc cho thật đẹp, nên nàng phải mang tóc giả. Nàng thích trông
thấy mình lộng lẫy trước mọi người.
Thế
rồi một chuyện bất ngờ lại xảy ra. Mấy ngày hôm sau, khi nàng trút bỏ
bộ áo tu hành; một buổi tiệc đặc biệt được tổ chức tại nhà Mỵ Nương để
ra mắt các công nương thì Triệu Phi cũng đến dự, có mang theo đứa con ba
tuổi của nàng. Đứa bé ấy tay cầm một thỏi kẹo dài lân la đến bên Mỵ
Nương chơi, không biết vô tình hay cố ý nó cầm thỏi kẹo quơ vào mái tóc
của Mỵ Nương, làm cho mái tóc giả rơi ra. Mỵ Nương đỏ mặt vì xấu hổ.
Triệu Phi vội nói:
- Ấy chết! Xin lỗi công nương.
Nói
rồi quay ra bảo một thị tỳ bế đứa bé đi chỗ khác, còn mấy thị tỳ khác
thì vào sửa lại mái tóc cho Mỵ Nương. Chính Triệu Phi cũng làm bộ sờ mó,
nắn nót mái tóc rồi nói thầm vào tai nàng:
- Đẹp lắm rồi! Dù Thái Tôn có mặt ở đây cũng phải khen ngợi.
Trò
châm chọc chỉ có vậy nhưng cũng đủ làm cho Mỵ Nương sượng sùng. Nàng
không nói gì, nhưng tự nhủ thầm là một ngày kia Triệu Phi sẽ trả một giá
rất đắt cho chuyện xảy ra ngày hôm nay.
Bấy
giờ Trương Tôn Vô Kỵ không hay biết gì việc vua lén đưa Mỵ Nương về
cung. Ông mãi lo việc triều chính và đã bị Mỵ Nương qua mặt. Ông không
ngờ từ lúc ả chùa Mỵ Nương đã theo dõi việc triều chính qua sự trung
gian của tỳ nữ Lan Anh. Đến khi Cao Tôn báo cho ông biết nàng đã có mang
và muốn lập nàng làm Quí Phi thì ông mới ngã ngửa. Chức Quí Phi là ngôi
vị cao nhất, chỉ thua có chánh cung Hoàng hậu mà thôi.
Đây
là một vấn đề hết sức quan trọng đối với chính sự nhà Đường, vì nó có
liên quan đến Triều Nghi. Nếu Triều đình thuận theo lời vua thì chính
thức thừa nhận một trường loạn luân, vì Mỵ Nương trước đây là tỳ thiếp
của vua cha. Lễ nghi không cho phép làm như vậy.
Tất
cả các lão thần đều phản đối, vì cho rằng phạm luân lý, phạm tập tục
của tiền nhân. Các triều đại trước đây phần nhiều sụp đổ vì vua ham mê
sắc dục. Hơn nữa bốn người cung phi đều đã có đủ, họ không thể và cũng
không muốn phá lệ luật của triều đình vì một người đàn bà, nhất là khi
người đàn bà đó đã từng phục vụ ái tình cho tiên đế.
Vô
Kỵ tâu cho vua hay quyết định của quần thần. Sau đó Mỵ Nương chỉ được
phong làm Chiêu Nghi, tức là người đứng đầu trong chín nàng cung tần.
Đây không phải là ngôi vị của Mỵ Nương mơ ước, nhưng lại là ngôi vị nàng chưa từng đạt được dưới triều vua Thái Tôn.
Nàng được dời về cung riêng. Tuy không còn được ở chung với Vương hậu nữa, nhưng ngoài mặt nàng vẫn là đồng minh của bà.
Đối
với Hoàng hậu, nàng luôn luôn tỏ vẻ kính trọng và quí mến. Nàng đã vượt
qua hai trở ngại lớn trong bước đầu của nàng là bỏ được bộ áo tu hành
và tội vô luân. Còn những trở ngại khác không làm cho nàng nhụt chí.
Chỉ
ít lâu sau, Mỵ Nương đã chiếm được ưu thế trong cung. Các thị nữ đều
biết nàng, nhờ đó nàng dễ dàng theo dõi các diễn biến bên Chánh cung
Hoàng hậu và bên Triệu Phi.
Việc
nàng ghi nhận lúc này là Hoàng hậu vì hay khó tánh nên bọn tỳ nữ không
tâm phục. Mỵ Nương lợi dụng tình trạng này mua chuộc bọn tỳ nữ. Mỗi khi
được vua ban tặng thứ gì thì nàng đem phân phát cho bọn tỳ nữ, nhất là
những đứa không ưa Hoàng hậu. Kết quả là nàng đã nắm được các thị nữ
trong cung. Chúng sốt sắng đem tin và sẵn sàng thi hành theo mệnh lệnh
của nàng.
Đến
ngày khai hoa, Mỵ Nương sanh được một gái, nàng rất thất vọng. Với điều
kiện là nàng mong muốn có được con trai, nhưng sự thế nàng biết phải
làm sao đây.
Mỗi lần nghĩ đến điều này nàng nhưng trải qua một cơn bão lòng. Thượng đế đã thương nàng sao không thương cho trót.
Một
hôm, khi đứa bé mới sinh đã được hơn mười ngày thì Hoàng hậu sang thăm.
Vì không có con nên Hoàng hậu rất thích trẻ con. Được tin Hoàng hậu
tới, Mỵ Nương nghĩ ra một mưu độc, nàng lập tức lánh mặt. Hoàng hậu bế
đứa bé nựng nịu một hồi rồi đặt trả vào nôi. Sau đó Hoàng hậu trở về
chánh cung. Mỵ Nương liền chạy vào phòng bóp chết đứa con rồi phủ xác
đứa nhỏ lại bằng một tấm chăn bông. Nàng biết sắp đến giờ bãi trào thế
nào vua cũng về thăm con.
Khi vua bước vào, nàng chào hỏi và bảo nữ tỳ thân tín là Lan Anh:
- Hãy đem con ta ra cho Hoàng thượng bồng.
Lan Anh bồng đứa nhỏ ra trao cho nàng.
Vừa bồng đứa bé, nàng rụng rời khi thấy đứa bé đã tắt thở đôi mắt trợn ngược lên.
Nàng hốt hoảng khóc rống lên, nói:
- Sao thế này? Sáng nay nó còn cử động như thường mà?
Khóc nức nở một lúc, nàng hỏi con tỳ nữ:
- Lúc nãy khi ta ra ngoài có ai vào đây không?
Tỳ nữ thưa:
- Thưa Công Nương! Chỉ có Hoàng hậu tới nựng nịu công chúa một hồi rồi lại đặt vào nôi mà ra về thôi.
Bất giác vua và Mỵ Nương đưa mắt nhìn nhau. Thật khó tin là Hoàng hậu đã ám hại đứa bé bằng hành động tàn ác như vậy.
Câu
chuyện này được vua hỏi lại Hoàng hậu, nhưng dĩ nhiên Hoàng hậu không
biết gì đến chuyện đó. Dù vậy, không có lý lẽ nào để minh oan, vì Hoàng
hậu là người bế đứa nhỏ sau cùng, làm sao chối cãi được. Chung qui cũng
chỉ vì bà không được lòng bọn tỳ nữ.
Vua
Cao Tôn vốn đã ít cảm tình với Hoàng hậu, nay lại càng ghét nàng hơn.
Vua cho rằng vì ganh tỵ với Mỵ Nương cũng như bà đã từng ganh tỵ với
Triệu Phi vậy. Nhưng một bà Hoàng hậu là bậc mẫu nghi không có quyền làm
như vậy.
Vua nói với Mỵ Nương:
- Trẫm muốn phế bỏ người đàn bà độc ác đó. Nàng ta không còn xứng làm Hoàng hậu nữa.
Mỵ Nương ra vẻ cao thượng nói:
- Xin bệ hạ chớ làm như vậy! Việc đã qua rồi bệ hạ nên bỏ qua là hơn.
Thế rồi Mỵ Nương càng ngày càng được vua yêu quí. Năm sau, nàng may mắn nàng sanh được một trai đặt tên là Hiền.
Điều
mà nàng mong mỏi đã đến với nàng. Tuy may mắn nhưng nàng vẫn chưa đạt
được ngôi vị mà nàng ấp ủ là ngôi Chánh cung Hoàng hậu. Nàng biết với
ngôi vị đó nàng có thể cùng vua điều khiển việc triều đình.
Vua
Cao Tôn dần dần hiểu thế nào là sống với ba bà cùng một lúc. Suốt ngày
phải nghe những lời họ than phiền về nhau, nhưng người gần vua nhất vẫn
là Mỵ Nương. Khi vua mệt mỏi, Mỵ Nương săn sóc, khi vua bối rối Mỵ Nương
thường khuyên lơn, còn những khi vua tức giận hay buồn bực nàng biết
cách làm để xoa dịu. Nàng thực tâm muốn trở thành người bạn đồng hành
của vua.
Sau
sáu năm khi vua Cao Tôn lên ngôi thì chuyện tranh chấp trong cung càng
ngày càng trở nên trầm trọng. Vương hậu bị bắt quả tang dùng tà thuật
trù ếm vua người ta đào được dưới gầm giường của bà một hình nhân có ghi
tên họ và ngày sanh vua Cao Tôn.
Được mật báo tin này, vua bèn đích thân mở cuộc điều tra. Người báo tin cho vua hay dĩ nhiên không phải Mỵ Nương.
Trước
mắt vua, Hoàng hậu uất nghẹn không nói nên lời. Bà biết nói gì để chúng
minh mình vô tội. Bà chỉ còn có cách quì xuống xin vua soi xét.
Bà
trù ếm vua để làm gì? Bà đón biết ai đã sai người chôn hình nộm ấy dưới
gầm giường bà, nhưng chứng cớ đâu? Bà chợt hiểu là bà đã trừ đi một con
rắn độc, nhưng lại bị một con bọ cạp độc hơn cắn đến chết. Đàn bà thật
đáng sợ!
Câu
chuyện được đồn đại đến tai quần thần, ai nấy đều xúc động. Họ tự hỏi
có thật Vương hậu ếm vua hay chỉ là một âm mưu thù oán lẫn nhau? Nếu bà
ếm một người nào khác như Mỵ Nương chẳng hạn chẳng hạn thì còn có lý.
Nhưng nếu Vương hậu có muốn trù ếm ai thì cũng phải nhờ đến một mụ phù
thủy. Vậy mụ phù thủy đó là ai? Chỉ cần vặn hỏi đám tỳ nữ thì sẽ biết
Vương hậu có tội hay không. Lại có người thắc mắc không biết Vương hậu
phen này có bị truất ngôi hay không? Nếu có thì ai sẽ lên thay? Võ Mỵ
Nương chăng? Trong vòng ba năm, Võ Mỵ Nương đã sanh được hai trai và một
gái dĩ nhiên nàng có rất nhiều hy vọng.
Triều
thần bàn cãi sôi nổi làm cho Toại Lương và Vô Kỵ là người có trách
nhiệm trực tiếp trông nom vua và Hoàng hậu như Thái Tôn đã gởi gắm trước
khi băng hà, lấy làm bối rối. Hai người linh cảm sẽ có điều không hay
xảy đến.
Mà việc trước mắt là việc Vương hậu bị đe dọa do bàn tay bí mật gây nên.
Muốn
truất phế Hoàng hậu cần phải có những lý do vững chắc. Hơn nữa, Hoàng
hậu lại chính do Thái Tôn chọn cho Cao Tôn thì làm sao hai ông có thể để
cho vua lấy một người đàn bà đã hầu hạ tiên đế. Như thế là loạn luân,
làm mất uy tín của Hoàng tộc. Vì lời hứa với Thái Tôn và vì lợi ích cho
xã tắc hai ông quyết định sẽ phản đối.
Mỵ
Nương biết rằng trong đám quần thần, Vô Kỵ là tay khó chơi nhất, vì ông
là người đứng đầu trong Tam Công, lại là Nguyên Soái cầm hết binh
quyền, lại cũng chính là cậu ruột của vua. Nàng phải tìm cách kéo ông về
cùng phe. Nếu thành công, mọi chuyện khác không khó khăn gì. Nàng xin
vua đưa nàng đến tận dinh của Vô Kỵ để thăm viếng.
Vua
đến nhà quan là một vinh dự đặc biệt, nhưng Vô Kỵ rất thắc mắc về mục
đích thăm viếng ấy. Đến khi ông thấy có cả Mỵ Nương cùng đi theo thì ông
không còn nghi ngờ gì nữa.
Vừa bước vào nhà, Mỵ Nương rất ân cần hỏi han, để chứng tỏ đây là cuộc thăm viếng có tính cách gia đình.
Vô Kỵ mời hai người vào trong dinh, Cao Tôn và Mỵ Nương đều tỏ vẻ tự nhiên thân mật, nhất là Mỵ Nương luôn luôn vồn vã.
Hai bên chuyện trò rất lâu nhưng tránh đề cập đến vấn đề chính trị.
Bữa tiệc được dọn ra, Mỵ Nương đề nghị cả mọi người trong nhà đều ngồi lại cùng ăn.
Bốn
người con trai của Vô Kỵ cũng có mặt trong buổi tiệc. Trong bốn người
đó chỉ có người con lớn đã trên hai mươi tuổi hiện làm chức Thủ Thư
trong triều, còn ba người kia không có danh phận gì. Vô Kỵ là một người
dạy con rất nghiêm, nên các con của ông không vì chức tước mà tham vọng,
chỉ nên rèn luyện bàn thân cho nên người.
Vua Cao Tôn thấy vậy liền phong cho ba người con thứ của Vô Kỵ đều lãnh chức đại phu.
Vô Kỵ sửng sốt, không dám nhận. Mỵ Nương vội nói:
-
Cậu đừng từ chối. Cậu là người đã xả thân vì xã tắc nhiều hơn ai hết.
Đây chỉ là sự đền bù, một quyền lợi mà cậu phải được hưởng.
Không có cách gì từ chối, Vô Kỵ đành phải bảo các con ra lạy tạ ơn.
Bữa
tiệc bỗng nhiên cởi mở và vui vẻ. Vua Cao Tôn nhân cơ hội này nhắc đến
việc Hoàng hậu trù ếm, hơn nữa bà lại không có con trai thì nên truất
phế ngôi Chánh Hậu.
Mỵ
Nương ngồi êm lặng theo dõi tình hình. Vô Kỵ chỉ ậm ừ, trách trả lời
thẳng vào vấn đề. Ông không tán thành mà cũng không phản đối. Ông nghĩ
một vấn đề quan trọng như vậy không thể quyết định hấp tấp được.
Vua Cao Tôn thấy Vô Kỵ không có ý kiến thì rất e ngại và bữa tiệc trở nên lạt lẽo.
Vua và Mỵ Nương ra về.
Ngày
hôm sau, Mỵ Nương nhân danh vua, gởi tặng Vô Kỵ mười xe vàng bạc và lụa
là gấm vóc. Chính thân mẫu của Mỵ Nương thân hành đem đến để tỏ lòng
kính mến.
Vô
Kỵ biết được rõ hành động về ý nghĩa của việc này, vì mới hôm trước ba
đứa con của ông được thăng chức nay trao tặng vàng bạc, thì rõ ràng Mỵ
Nương đã tìm cách mua chuộc ông.
Vô Kỵ chỉ chọn vài cây lụa tượng trưng để nhận, còn bao nhiêu vàng bạc châu báu đều trả về hết.
LỜI BÀN
Võ
Mỵ Nương là một người đàn bà mưu lược, nhưng khác với những mưu lược
của các vị anh hùng hào kiệt khác từ xưa đến nay. Nếu phạm vi tranh bá
đồ Vương của nàng chỉ ở trong phạm vi cung cấm thì mưu lược của nàng là
mua chuộc nhân tâm để kéo họ về phe của nàng. Đối với vua, thì nàng mua
chuộc bằng nghệ thuật ái tình, làm cho vua say mê hưởng thụ những gì
người khác không thể có, đối với Hoàng hậu thì nàng mua chuộc bằng tình
cảm thân thương để loại bỏ tất cả những ghen tuông trong giới nữ, đối
với bọn hầu hạ thì nàng mua chuộc bằng tiền bạc, lụa là, cung cấp cho
những gì chúng thiếu thốn. Còn đối với quần thần thì nàng mua chuộc bằng
chức tước.
Tất
cả những điều đó thuộc về tâm lý vì ai cũng thích những cái mình đang
thiếu thốn, không ai thích những gì mình không cần đến.
Tất
cả những hành động mua chuộc này đều nằm trong kế sách chiến đấu của
nàng để đạt đến mục tiêu là củng cố tham vọng, chiếm đoạt quyền lợi
trong triều đình.
Ấy
vậy, cuộc chiến đấu trong cung cấm của một kỳ nữ có khác hơn thủ đoạn
của một vị anh hùng ngoài mặt trân trọng việc đoạt thành, phá ải, chiếm
đất, gồm thâu thiên hạ.
Những bất bình sơ khởi trong triều đình
Võ Mỵ Nương bắt đầu gặp khó khăn.
Hai
vị Quốc công cùng các quan triều thần đều họp nhau phản đối việc truất
ngôi Vương hậu và không chấp nhận Mỵ Nương lên thay. Như thế là một mình
Mỵ Nương phải đối phó với bốn vị lão thần trong chiều chánh, mà Vô Kỵ
và Toại Lương là hai vị được vua Thái Tôn gửi gắm vua Cao Tôn lúc băng
hà.\
Bởi vậy hai ông này thường họp các quan cận thần để bàn tính đối phó với những nguy cơ xảy ra.
Vô
Kỵ đã kể hết cho Toại Lương nghe cuộc viếng thăm của vua Cao Tôn và Võ
Mỵ Nương tại tư dinh của ông. Việc này các triều thần đều có vẻ lo lắng
như đang chờ đợi một cơ bão tố sắp thổi đến. Họ phải tìm cách ngăn cản
vua, nhưng chưa biết ai sẽ lên tiếng trước.
Dĩ nhiên Vô Kỵ là người đầu tiên phải gánh vác trọng trách khó khăn này. Nhưng Toại Lương nói:
- Tướng quân hãy để tại hạ tâu cho. Tướng quân là cậu của Hoàng Thượng, nên bị tình cảm gia đình khó ăn nói.
Vô Kỵ nói:
- Thế thì cứ để cho quan trung Lệnh Thư tâu có được không?
Toại Lương nói:
-
Cũng không được, vì chức vụ đó đứng đầu trong bá quan, nếu Hoàng Thượng
khăng khăng không nghe lời thì sẽ sinh ra xung đột lớn.
Vô Kỵ nói:
- Còn chức tả Bộ Xa của ngài không lớn sao?
Toại Lương nói:
-
Bản thân tôi không đáng kể. Tôi xuất thân từ một gia đình tầm thường,
quan chức đối với tôi chỉ là tạm bợ. Tôi đã hứa với tiên đế phải làm
tròn phận sự. Nếu không, làm sao tôi có thể gặp tiên đế nơi chín suối.
Bây
giờ các triều thần xếp hàng để vào chầu. Một hồi chuông báo hiệu vua
lâm trào, còn Võ Mỵ Nương ngồi sau một bức rèm bằng lụa sau ngai vua để
theo dõi buổi chầu mà nàng biết sẽ có liên quan rất nhiều đến nàng.
Trong
buổi chầu, vua Cao Tôn kể chuyện Hoàng hậu dùng tà phép trù ếm ông, như
vậy là không xứng đáng làm bậc mẫu nghi trong thiên hạ nữa. Cần phải
truất phế.
Toại Lương liền bước ra tâu:
-
Xin Bệ hạ xét lại, Hoàng hậu là người do tiên đế chọn. Khi hấp hối,
tiên đế có bảo với hạ thần: “Đây là con hiền, dâu thảo của trẫm, nay
trẫm gởi lại cho khanh”! chính Bệ hạ cũng đã nghe như vậy. Hoàng hậu là
người tốt. Không có bằng cớ gì để bắt tội trù ếm Bệ hạ. Tôi e rằng đây
là một việc làm của kẻ xấu để vu oan.
Vua Cao Tôn bình tĩnh lấy ra một hình nhân bằng gỗ, nói:
- Khanh hãy xem đây.
Rồi vua đưa hình nhân cho mọi người xem.
Các
quan thấy một chiếc đinh nhọn đóng ngay vào tim của hình nhân, trên
thân hình nhân lại có ghi tên họ và ngày sinh của nhà vua.
Toại Lương vẫn thản nhiên tâu:
-
Sao Bệ hạ không điều tra? Chắc có nhiều người dính liếu đến việc này.
Người đẽo tượng, các tòng phạm và một tay phù thủy. Các thị nữ phải biết
một trong những người đó. Cứ hỏi chúng là biết ngay. Sao Bệ hạ biết
chắc là vụ này không do tay người nào đó muốn vu hại Hoàng hậu?
Vua ngồi yên. Quan Trung Thư Lệnh tiến ra tiếp lời Toại Lương:
-
Xin Bệ hạ tha tội cho những lời không phải của hạ thần. Thay đổi Hoàng
hậu một cách khinh xuất rất có hại cho xã tắc, hạ thần e rằng sẽ có
nhiều xáo trộn trong triều đình cũng như ngoài dân chúng. Hạ thần đồng ý
với quan Tả Bộ Xa là không nên phế Hoàng hậu.
Khi Vô Kỵ toan bước ra tâu thêm thì vua tức giận quát lớn:
- Lui ra hết !
Thế là buổi chầu chấm dứt ngang.
Tối hôm đó, một số triều thần họp riêng tại tư dinh Vô Kỵ để trao đổi những biến cố vừa xảy ra.
Trong
buổi họp, mọi người đều tỏ ý bất mãn và quyết định sẽ tiếp tục tranh
đấu. Riêng Toại Lương có ý sẽ ra mặt quyết liệt vào buổi chầu sáng hôm
sau.
Sáng hôm sau, vua lâm triều. Lần này vua Cao Tôn mở lời trước bằng câu nói của Mạnh Tử:
-
Trong các tội bất hiếu, tội nặng nhất là không có con để nối dõi. Vương
hậu không có con trai, Mỵ Nương có hai đứa. Vậy ý trẫm đã quyết.
Toại
Lương thong thả bước ra, quì trước Bệ rồng, hai tay nâng tấm thẻ ngà là
chiếc thẻ mà mỗi tôi thần phải cầm nơi tay khi vào tầu vua, ông tâu:
-
Muôn tâu Bệ hạ! Thần muốn nhắc nhở Bệ hạ. Nay Bệ hạ quyết ý như vậy
thần cũng không còn gì để nói. Thần xin hoàn lại tấm thẻ hầu trào này,
xin Bệ hạ tha thứ cho tội vô lễ của hạ thần.
Dứt lời, Toại Lương đặt tấm thẻ bài trên bệ, rồi dập đầu xuống đất bình bịch tỏ ý phản đối.
Vua
Cao Tôn rất kinh ngạc trước cử chỉ và lời nói của Toại Lương, nhưng
chưa kịp nói gì thì một giọng nói trong trẻo và lạnh lùng từ sau bức màn
vọng ra:
- Đem tên khốn nạn đó ra ngoài giết đi.
Vô Kỵ vội tâu:
- Toại Lương can gián Bệ hạ chỉ vì bổn phận, không nên trách phạt.
Cao Tôn phán:
- Hãy đem nó ra ngoài.
Buổi chầu lại một lần nữa gián đoạn nữa chừng.
Toại
Lương bị bãi chức Tả Bộ Xa và biến ra làm Thứ sử tại một quận miền rừng
núi đất Quí Châu. Hình phạt này thường áp dụng cho các đại thần phạm
tội nghịch ý vua.
Toại Lương ra đi không ân hận điều gì. Ông chỉ buồn bã là không biết còn việc gì xảy ra nữa.
Mỵ
Nương đã sử dụng vua Cao Tôn như một con bù nhìn làm cho nhà vua có
những quyết định táo bạo, độc đoán, không còn nghe lời can gián của
triều thần nữa.
Vua
Cao Tôn và Mỵ Nương thấy trong các buổi chầu vừa qua không đến dự có Lý
Tích là kẻ có quyền năng, nhưng không ở trong phe phái của các vị lão
thần, nên gọi đến hỏi:
- Những ý kiến vừa rồi của các đại thần khanh nghĩ sao?
Lý Tích tâu:
- Đó là việc riêng trong gia đình của bệ ha, kẻ bề tôi không dám xen vào...
Vua nghe nói rất mừng, bèn xuống chiếu truất ngôi Vương hậu và phong cho Mỵ Nương làm Chánh cung Hoàng hậu.
Tin
này đồn ra ngoài làm cho dân chúng bất mãn, sau đó trở thành trò cười
cho những kẻ châm biếm. Họ còn thêm thắt cho câu chuyện trở thành một vụ
bỉ ổi ghê gớm. Họ nói tân Hoàng hậu đã từng là vợ của vua cha, sau đó
đi tu, đáng lẽ bây giờ còn là bà vãi trong chùa Hưng Long, thế mà bà đã
có con với vua từ lúc còn làm ni cô.v.v. Vậy bà là một con đĩ. Khắp các
trẻ đình, tửu điếm đâu đâu cũng có tiếng xầm xì.
Lúc này Vô Kỵ nằm bẹp ở nhà, nghiền ngẫm nỗi buồn của mình.
Ngày
lễ tấn phong Hoàng hậu được định vào tháng mười một tức là sau đó một
tháng. buổi lễ được cử hành cực kỳ long trọng với đầy đủ nghi thức, hơn
cả một lễ đăng quang của một vị Hoàng Đế, để chứng tỏ Võ Mỵ Nương là một
vị Hoàng hậu chính thức. Vả lại, những điều xa hoa lộng lẫy đều hợp
tính với Mỵ Nương. Hứa Kỉnh Tôn người đứng ra tổ chức phải lo cả hàng
ngàn việc, trong vòng một tháng trời, nào lễ phục, xe ngựa, âm nhạc, vũ
công, người giúp vui, sửa soạn cho các vị Hoàng tử, Công chúa và các
triều nghi.v.v.
Ngày
lễ tới, trong tiếng nhạc tưng bừng, thị nữ đỡ Mỵ Nương lên xe, trông
nàng lộng lẫy với chiếc vương miện đầy châu ngọc và chiếc áo triều phụng
rực rỡ. Từ cách ăn mặc đến cử chỉ trông nàng đúng là một Hoàng hậu.
Nàng rất điềm tĩnh và bình thản nhận lấy tử ấn do Lý Tích giao tận tay.
Và sau đó, nàng bước lên ngôi Chánh Hậu. Các đại thần đều đến chúc mừng.
Theo
sự sắp xếp của Ban Tổ Chức, sau buổi lễ tại chánh điện, Võ Hậu sẽ ra
mắt quần thần tại bảo tháp ngoài Tây Môn. Chiếc xe ngựa đặc biệt dành
cho Hoàng hậu vào những dịp đại lễ đã được sẵn sàng. Đây là một chiếc xe
lớn, thân xe màu xanh vàng, có tám cửa sổ lồng khung kính và màn che
màu đỏ, quanh xe có cắm lông trĩ tượng trưng cho Hoàng hậu. Những con
ngựa kéo xe cũng được trang điểm rực rỡ. Chiếc xe được dẫn đường do một
toán kỵ binh ăn mặc rất đẹp.
Khi
tới Tây Môn, Võ Hậu bước lên bảo tháp và đứng tại lan can. Bá quan văn
võ và xứ thần các nước đều quì dưới chân tháp. Tất cả đều mặc lễ phục.
Những người ở hàng đầu mặc lễ phục mày đỏ thẵm, dây lưng vàng là ngũ phẩm.
Còn những người mặc áo xanh lá cây, dây lưng bạc là lục và thất phẩm.v.v.
Võ
Hậu mỉm cười để đáp lại cử chỉ cung kính của các bề tôi. Sau đó, bà trở
về cung để chủ trì một buổi tiếp tân đặc biệc dành cho các phu nhân của
các quan và các sứ thần.
Các
phu nhân đều phán phục phong thái và vẻ ung dung của Võ Hậu. Họ cố quên
đi nguồn gốc của bà. Có người nhận xét miệng bà hơi rộng, chứng tỏ bản
lĩnh tham lam. Có người lại sợ ánh mắt của bà sắc sảo nhưng rất cương
quyết. Bà không bao giờ ngượng ngập, luôn luôn thích gặp và tiếp chuyện
với mọi người và nhất là thích nghe mọi người tâng bốc.
Ngày lễ hôm nay bà đã bỏ rất nhiều tục cũ.
Sau
buổi tiếp tân, một tiệc yến dọn ra để tiếp khách, có các đoàn ca vũ tới
trình diễn. Cuộc vui kéo dài đến khuya, khiến vua càng mệt phờ ra.
LỜI BÀN
Một
ông vua khi đã ly gián với triều thần thì không còn sáng suốt nữa, bởi
lẽ những ý nghĩ của riêng mình chỉ là quan điểm của cá nhân, mà cá nhân
chỉ là sản phẩm của một bộ óc, dù sáng suốt đến đâu cũng không thể thu
nhặt hết mọi ưu tú trong mọi sự việc.
Ở
đây, vấn đề càng nguy hiểm hơn nữa là bộ óc của vua đã không thể thu
thập được những tinh vi của mọi người, lại còn mù quáng vì sự mê hoặc
của một kẻ âm mưu chiếm đoạt thiên hạ.
Sự mù quáng ấy đã che lấp lẽ phải, chỉ còn lại một ý thức tuân theo kẻ làm cho mình bị ham mê.
Nếu
là một người thường bị mê hoặc thì tai hại bản thân không là bao, nhưng
nếu một ông vua, trong tay có cả một uy quyền thì khi sa vào sự mê hoặc
thật là tay hại không sao lường được.
Kẻ
mê hoặc người khác là kẻ lợi dụng, cho nên kẻ ấy luôn luôn tìm người có
quyền thế để sai khiến. Còn kẻ bình thường không sợ ai mê hoặc làm gì.
Hành
động của Võ Hậu mê hoặc vua Cao Tôn là tấm gương cho những kẻ trong tay
đang nắm quyền thế và không biết nghe sự góp ý của người thân của mình,
chỉ đeo đuổi vào kẻ mình thích nghe, tất nhiên phải bị kẻ ấy mê hoặc,
lôi cuốn để sai khiến trục lợi.
Sự hình thành quyền uy của Võ Tắc Thiên
Võ
Hậu được tấn phong vào tháng 2 năm 655, khi bà được 30 tuổi và đã đạt
được danh hiệu cao quý nhất của người đàn bà. Nhưng tham vọng của bà
không phải dừng tại đó, mà còn tìm đến chỗ cao xa hơn.
Không ai hiểu được đàn bà, trừ khi đã cưới họ về là vợ. Vua Cao Tôn nhận ra điều ấy rất sớm.
Chỉ
một tháng sau khi chính thức tôn phong vào ngôi Chánh Hậu, vua Cao Tôn
đã nhìn ra bản chất của Mỵ Nương. Ông thấy Võ Hậu không chỉ là một món
đồ chơi xinh đẹp như Triệu Phi mà bên trong còn có nhiều những gì sâu xa
khó hiểu. Ông bắt đầu suy xét về bà Hoàng hậu mà ông đã kết tội. Bỗng
dưng ông cảm thấy tràn trề hối hận. Nhưng dù sao ông cũng không dám để
lộ cho Võ Hậu thấy những ý nghĩ đó.
Một hôm, Võ Hậu rời cung đi thăm vài người họ hàng, vua Cao Tôn quyết định đi thăm hai người đàn bà đáng thương kia.
Ông
đi thẫn thờ về phía lãnh cung, trong lòng nóng nảy và có cảm giác như
kẻ phạm tội. Khi đến nơi ông thấy lãnh cung cửa khóa rất kỹ, chỉ chừa
một cái lỗ trống ở bên cạnh để đủ đưa cơm nước vào bên trong.
Thông thường khi các Hoàng hậu hay cung phi khi có tội đều bị giam tại lãnh cung, nhưng đâu đến nỗi phải nhốt kín như vậy?
Vua cao tôn ghé miệng vaò lỗ hổng gọi lớn:
- AiÙ Hậu! AiÙ Phi! Hai khanh ở đâu?
Bên trong có tiếng đáp:
- Sao Bệ hạ lại gọi thiếp như vậy? Bọn thiếp đâu còn là Hoàng hậu hay Quí Phi nữa.
Ngừng một lát, Triệu Phi lại nói tiếp:
- Xin Bệ hạ hãy vì nghĩa cũ mà tha bọn thiếp ra. Chỉ cần ra khỏi trốn này thì bọn thiếp đội ơn bệ hạ muôn đời.
Cao Tôn cảm thấy bồi hồi xúc động, nên an ủi:
- Hai khanh đừng lo, trẫm sẽ liệu cách.
Cao
Tôn quay về cung, tâm tư nặng trĩu và cảm thấy như hổ thẹn. Ông có biết
đâu mấy đứa tâm phúc của Võ Hậu theo hầu đã theo dõi và báo cáo với Võ
Hậu tức khắc.
Võ
Hậu đã thừa hiểu ông là người yếu đuối về mặt tình cảm nên bà đã bố trí
một hệ thống gián điệp rất đắc lực, tai mắt bà rải khắp nơi để đề phòng
những chuyện bất ngờ.
Khi
Cao Tôn về đến cung thì Võ Hậu đã chận trước. Bà gạn hỏi vua về việc
đến thăm lãnh cung thăm Hoàng hậu và Triệu Phi, nhưng vua một mực chối
phăng. Cuối cùng, Võ Hậu nói:
- Nếu Bệ hạ không đi thăm họ thì hay lắm.
Võ
Hậu không phải là người không thể chấp nhận việc vua đến thăm hai người
đàn bà kia, mà bà ý muốn trả thù hai người đàn bà xấu số ấy, đồng thời
cảnh cáo tất cả cung phi mỹ nữ trong cung không được lân la với vua Cao
Tôn. Là đàn bà, bà biết rõ đàn bà nguy hiểm như thế nào.
Võ
Hậu ra lệnh cho thuộc hạ đánh hai người đàn bà khốn khổ ấy mỗi người
một trăm roi. Sau đó bà cho chặt hết chân tay rồi ngâm trong nước rượu.
Vài ngày sau, hai người đều chết vì không chịu nổi sự hành hạ quá tàn nhẫn.
Tiếp
đó, Võ Hậu còn chuyển tất cả họ hàng, thân thích của Vương hậu và Triệu
Phi ra Quảng Đông, một miền đất xa xôi ở phía nam. Võ Hậu còn bắt Cao
Tôn phải cho người đào mả thân phụ của Vương hậu để bầm thây. Vua thấy
làm như vậy là quá bất nhân, nhưng cũng phải nghe theo.
Từ
đó, Võ Hậu càng ngày càng độc ác, đánh giá một âm mưu chiến thắng trên
xác chết của hai người đàn bà khác. Còn vua Cao Tôn cảm giác rất rõ Võ
Hậu có thân hình rất xinh đẹp, da thịt thơm tho, nhưng tất cả chỉ là nọc
độc giết người. Ông tự hỏi: ông là vua hay chỉ là một đứa ăn mày? Lương
tâm ông bắt đầu nổi dậy chống lại người đàn bà độc ác ấy, nhưng ông
không nói gì. Chiến tranh lạnh bắt đầu.
Dần
dần mọi người hiểu mục đích của Võ Hậu khi bà hành động như vậy: “Bà
muốn trong nhà phải được quét dọn sạch sẽ, hay nói cách khác chế độ đa
thê phải chấm dứt, dù là vua cũng vậy. Nhiều thê thiếp quá, vua chỉ đuối
sức thêm. Vậy không cần cung phi, mỹ nữ gì nữa. Tuy vậy để vua khỏi mất
mặt với các Vương hầu, bà sẽ giữ lại một số cung nữ để phụ tá vua trong
việc giữ gìn đạo đức và bảo vệ luân lý. Bà đặt ra hai chức phụ tá đạo
đức thay bốn cung phi và bốn chức giám sát tinh thần thay thế chín cung
tần, để giúp vua và nhắc nhở vua khỏi lạc bước vào cảnh mê sa tội lỗi.
Đàn
ông sinh ra có người tự nhiên đạo đức, có người bị bắt phải đạo đức.
Vua Cao Tôn ở trong đám người thứ hai. Hành động của Võ Hậu khiến ông xa
lánh mọi người. Ông sống trong cắn rứt và đau buồn. Tình yêu của ông
đối với Võ Hậu đã biến thành sự sợ hãi. Ông có cảm tưởng như rằng mình
đã lấy phải một con beo gấm. Hình ảnh con beo này luôn luôn theo ông vào
giấc ngủ và tạo nên những giấc mơ hãi hùng.
Người
ta không thể yêu đương một người đàn bà mà người ta sợ hãi. Tuy chưa
già, mới hai mươi tám tuổi nhưng vua cảm thấy bà vợ không còn kích thích
ông nữa.
Điều
đó làm ông xấu hổ và hối hận. Ngọn lửa ham muốn của ông đã bị Võ Hậu
dập tắt. Đây là lý do mà mãi sáu năm sau Võ Hậu mới sanh được người con
thứ tư đặt tên là Đẩu và đó cũng là nguyên nhân đưa đẩy Võ Hậu vào những
cuộc ngoại tình liên miên.
Ngoài
ba mươi tuổi, vua cao Tôn mắc bệnh thần kinh và một số các bệnh khác mà
các quan Thái y không tìm ra. Tóc ông bạc trắng, tính ông càng ngày
càng nhút nhát, ghét việc triều chính, thường để mặc cho Võ Hậu thao
túng. Điều mong ước của ông lúc đó là hãy để cho ông yên.
LỜI BÀN
Khi Võ Hậu cầm quyền, khống chế được uy quyền của nhà vua thì lại hiểu rõ nguy cơ trong cung cấm. Đó là đàn bà.
Thường tình, kẻ cầm quân ra trận, sử dụng gươm đao, nhưng khi đã chiến thắng kẻ thù thì thấy gươm đao là loại vũ khí nguy hiểm.
Võ
Hậu ở trong trạng thái ấy. Chính nàng đã dùng vũ khí ái tình để chinh
phục đối phương, nhưng giờ đây nàng cố dẹp bỏ hết thứ vũ khí tai hại đó.
Chính
vì là đàn bà mà Võ Hậu thấy rõ được cái nguy cơ ấy, một sự hiểu biết mà
người khác không thể nghĩ đến trong chốn thâm cung.
Vua
Cao Tôn đứng trước miếng mồi ngon của Võ Hậu chẳng khác nào một con cá,
khi đã nuốt phải lưỡi câu vào bụng rồi thì không còn cách nào để thoát
được, đành phải ngậm hờn mà chịu chết. Dù có hối hận, đau khổ bao nhiêu
thì cũng là việc đã rồi.
Cuộc sống trong đời người phải luôn luôn tự kiểm lấy mình trong lúc sai lầm, nếu để đến lúc hối hận thì đã muộn.
Kế hoạch của Võ Hậu củng cố triều đình
Võ
Tắc Thiên không chỉ là người chỉ thích được quần chúng tôn sùng, quần
thần xem như một bà Hoàng hậu lộng lẫy, xinh đẹp mà thôi, tham vọng của
bà còn cao xa hơn nữa. Bà muốn mình phải là một bà Hoàng thật sự, một bà
Hoàng kinh thiên động địa, để cái tên Võ Tắc Thiên phải được in đậm
trong sử sách mai sau.
Công
việc đầu tiên bà cần phải làm là chỉnh đốn chính quyền. Theo ý nghĩ của
bà thì bộ máy chính quyền chỉ hoạt động mạnh mẽ khi mọi người tuyệt đối
nghe lời một người duy nhất. Bà không bao giờ quên được bốn kẻ luôn phá
rối và cản bước của bà.
Hai
tháng sau khi bà được tấn phong Hoàng hậu thì Thái tử Lý Trung con của
Vương hậu bị phế, để Hoàng tử con của Võ Hậu lên thay. Hứa Kỉnh Tôn là
người được Võ Hậu tín nhiệm được phong làm Cấp Sự Trung, tối tối đến Tây
Môn để chờ lệnh Võ Hậu. Võ Hậu tin dùng Hứa Kỉnh Tôn vì ông này rất
rành về pháp luật. Bà dùng ông ta như chiếc roi để đập lên đầu các triều
thần bắt họ làm việc cho đúng nguyên tắc. Theo bà, công việc là công
việc không thể xen tình cảm vào được.
Để
thực hiện việc thống nhất chính quyền, bà thanh trừng những kẻ chống
đối. Toại Lương đã bị đuổi đi xa, nhưng Vô Kỵ, Hàn và Lai cũng không
thực sự chống đối, họ chỉ là những lão thần quá thẳng thắn và cương
nghị, nên không chịu theo bà ngay, nhưng bà cũng không chấp nhận được.
Bà không thích một triều đình lộn xộn, mỗi người một ý riêng. Đã đến lúc
bà củng cố thế lực mà mọi người phải tuân theo mệnh lệnh của bà.
Trong
ba người đó, Võ Hậu thấy chỉ có Vô Kỵ là tay khó chịu nhất, vì ông là
chỗ nương tựa của vua Cao Tôn, lại là người có thế lực rất lớn. Bà quyết
định sẽ không triệt ba người này mà chỉ chặt hết vây cánh của Vô Kỵ
trước, chờ đến khi ông ta cô thế bà mới ra tay.
Quyết định này chứng tỏ tài năng chính trị của Võ Hậu rất sâu sắc.
Hàn
là người đầu tiên gây ra cớ để Võ Hậu triệt hạ. Ông đã dám xin tội cho
Toại Lương bị chuyển đi xa, làm cho lương tâm ông không lúc nào được
yên.
Sau
một năm chờ đợi, ông thấy đã đến lúc phải làm bổn phận của một người
bạn và nhiệm vụ của một quan trào, xóa bỏ sự bất công đối với Toại
Lương. Là người thừa hưởng truyền thống bất khuất của người vua trước,
ông luôn luôn giữ vững lập trường, sẵn sàng chỉ trích vua và mất chức
nếu cần.
Trong
khi tranh đấu cho Toại Lương được trở về, ông đã vào chầu và đọc một
bài sớ rất dài, nhắc nhở vua nguyên tắc căn bản trong việc trị vì là
phải trọng dụng các triều thần thẳng thắn, cương nghị. Ông nêu trong
lịch sử những trường hợp nước mất nhà tan chỉ vì sự ra đi của các bậc
trung thần. Rồi ông kết luận: Dù Toại Lương có xúc phạm đến Bệ hạ thì đã
phải hình phạt trong suốt một năm, xin Bệ hạ hãy tha tội cho ông ta.
Khi
đọc sớ, có lẽ là ông không biết Võ Hậu đang ngồi sau bức màn, hoặc ông
biết mà không cần. Khi Cao Tôn nghe sớ xong liền phán:
-
Trẫm rất tôn trọng những lời của khanh vừa nêu ra, nhưng Trẫm nghĩ
khanh chỉ làm cho sự việc thêm rắc rối. Trẫm biết Toại Lương thẳng thắn,
nhưng lại lỗ mãng quá sức, Trẫm trừng phạt như vậy không đúng sao?
Hàn trả lời:
-
Tâu bệ hạ! Thần lại nghĩ khác. Để xây dựng một triều đình vững mạnh,
công việc tiên quyết là phải chọn lựa và trọng dụng các hiền thần. Vấn
đề là Bệ hạ muốn dùng nhân tài hay kẻ nô lệ. Người ta thường nói: Một
hạt cát có thể làm ngưng chạy một bộ máy. Thần e rằng có vài cá nhân
đang lợi dụng sơ hở để bôi nhọ và khai trừ các công thần, phương hại đến
toàn triều đình.
Những
lời này đương nhiên phỉ báng Võ Hậu. Bà không nói gì trong suốt buổi
chầu, nhưng sự yên lặng của bà càng đáng sợ hơn. Số phận của Hàn từ đó
được được quyết định.
Sự
quyết định đó là âm mưu của Võ Hậu gán cho Hàn trong việc truất phế
Thái tử Lý Trung lúc đó. Lý Trung chỉ là con một cung tần tầm thường
được Vương hậu đem về nuôi. Nay Vương hậu đã chết nên Lý Trung hết chỗ
nương tựa. Võ Hậu nghĩ ra một kế, phao tin Trung muốn cướp ngôi và bịa
ra một âm mưu soán nghịch. Sau đó, bà tiếp tục ghép những người chống
đối hoặc làm vướng chân bà vào âm mưu tưởng tượng đó. Thế là mấy năm
tiếp theo, mũi dùi chính trị hướng vào cậu bé đáng thương mới mười bảy
tuổi đầu này. Trung bị luôn luôn theo dõi và sống trong phập phồng lo
sợ.
Đầu
tiên, Hán và Lai bị ghép vào tội phản nghịch vì đã kết bè đảng với Lý
Trung, mưu đồ nổi dậy. Hàn bị đày ra đảo Hải Nam, còn Lai thì đày ra
miệt Triết Giang, tận bờ biển phía đông, để hai người có dịp suy ngẫm về
những lỗi lầm của mình.
Vì vua Cao Tôn cũng muốn tránh mặt mấy vị đại thần đó nên rất hài lòng về việc này.
Hứa
Kỉnh Tôn, một tay sai đắc lực, ngang nhiên làm thủ tục đưa họ đi đày,
không hề chứng minh tội trạng mà vua cũng chẳng truy vấn. Giả thử âm mưu
có thật thì Lý Trung và hai ông đã bị đưa ra xử trảm rồi. Hứa Kỉnh Tôn
không cần để ý đến chi tiết đó, vì Võ Hậu là chỗ dựa vững chắc, nếu có
làm sai cũng chẳng tội lỗi gì.
Thế
là Toại Lương, Hàn và Lai đã bị quật ngã, giờ đây chỉ còn lại một mình
Vô Kỵ. Ông cảm thấy điều bất thường sắp xảy ra, nên ông dành hết thì giờ
để viết nên bộ sử về hai triều đại trước. Khi hoàn tất bộ sử gồm tám
mươi tập, ông được vua ban thưởng hai ngàn cây lụa.
Nhưng rồi việc gì tới phải tới...
Mùa
Xuân năm 659, Hứa Kỉnh Tôn thấy đã đến lúc phải dùng mọi biện pháp để
buộc tội Vô Kỵ. Hắn lại dùng chiêu bài cuộc phản loạn của Lý Trung để
hại ông.
Sự
việc này do Vô Kỵ có một người bạn họ Vi. Một hôm Vi bị bắt về tội ăn
hối lộ. Hứa Kỉnh Tôn bảo Vi nếu chịu vu cáo cho Vô Kỵ thì sẽ được tha.
Vi nhất định không chịu bán bạn cầu an nên bị Hứa Kỉnh Tôn tra tấn dã
man. Vi bèn tìm cách tự sát. Thấy Vi sắp chết, Hứa Kỉnh Tôn tâu báo là
Vi đã cung khai Vô Kỵ mới là đầu não của cuộc mưu phản, chứ không phải
Toại Lương.
Được
tin này, vua Cao Tôn rất xúc động. Vua ra lệnh cho một vị quan khác là
Viên Công Hữa điều tra lại. Nhưng Viên Công Hữa lại là một phe phái với
Hứa Kỉnh Tôn, nên kết quả cuộc điều tra giống hệt như lời báo cáo của họ
Hứa.
Vua Cao Tôn vẫn không tin, nói:
- Báo cáo láo! Cậu ta không bao giờ lại làm việc đó. Làm như vậy ông có lợi gì?
Hứa Kỉnh Tôn đã sắp sẵn câu trả lời:
-
Tâu Bệ hạ! Ngày trước chính Vô Kỵ là người đề nghị lập Lý Trung làm
Thái tử, nay Trung bị truất, ông cảm thấy địa vị mình bấp bênh nên phải
tính kế. Vả lại ông là người chống đối Hoàng hậu, dĩ nhiên ông phải sợ
mất chức, ông mưu đồ đưa Trung lên ngôi là để bảo vệ địa vị hiện có.
Vua Cao Tôn rất buồn vì bãi chức Vô Kỵ là mất cánh tay phải, nên rất do dự, thở dài nói:
- Ta rất xấu hổ về việc này. Người trong gia đình mà phải bắt bớ nhau.
Kỉnh Tôn tâu thêm:
- Cần phải bắt Vô Kỵ ngay, vì ông thế lực rất lớn, nếu biết được việc này ông có thể hành động liều lĩnh.
Cao Tôn cũng cảm thấy không thể vì tình cảm mà không đề phòng mọi biến cố có thể xảy ra.
Tối
hôm đó, trước mặt Võ Hậu, vua Cao Tôn đã phải ra lệnh chuyển Vô Kỵ ra
đất Quí Châu. Vô Kỵ là người góp phần vào việc tạo lập Nhà Đường. Tên
ông gắn liền với Thái Tôn, vì vậy Cao Tôn cho phép ông giữ nguyên phẩm
tước và ra lệnh cho các quan địa phương phải tiếp đón ông như bậc đại
thần của triều đình.
Năm
sau, Hứa Kỉnh Tôn lại sai Viên Công Hữu ra Quí Châu buộc Vô Kỵ phải
khai những đồng lõa trong việc phản động để lấy cớ buộc tội những người
bất phục mệnh lệnh của triều đình.
Vô Kỵ không thể làm việc bất công ấy và thấy đã hết chỗ dung thân, nên tự treo cổ tự vẫn.
Thế
là ông không cung khai gì cả, nhưng Viên Công Hữu lại làm tờ khai giả
mạo gởi về triều. Dĩ nhiên bọn Hứa Kỉnh Tôn lợi dụng cái chết của ông để
giả mạo lập tờ khai giả mạo vu cáo cho những kẻ không phục tùng.
Viên Công Hữu còn có nhiệm vụ ra đảo Hải Nam để hạch sách họ Hàn và ép ông này tự sát. Nhưng khi đến nơi Hàn đã chết.
Sau đó gia đình Vô Kỵ và Hàn bị đuổi ra Quảng Đông để làm nô lệ.
Lúc
đó Hoàng tử Lý Trung đã được 18 tuổi, đáng lẽ trong tuổi xuân tới tình
cảm phải được tươi vui, nhưng trái lại, chàng lúc nào cũng buồn bực, lo
âu, khi thấy tên mình gắn liền với một âm mưu tưởng tượng, đã làm hại
không biết bao nhiêu trung thần. Chàng bị giáng xuống làm thứ dân, rồi
lại bị đày đi Qúi Châu, nơi Vô Kỵ đã thở hơi cuối cùng.
Qua
một thời gian chứng kiến những thảm họa trong triều đình và những âm
mưu sâu độc của người trong phe Võ Hậu, Lý Trung cảm thấy mình lúc nào
cũng sống trong đe dọa. Chàng thường ăn mặc giả gái và thay đổi chỗ ngủ
để tránh một cuộc ám sát có thể xảy ra.
Càng
ngày chàng càng tiều tụy, cô độc, không ai dám nhắc đến. Tuy nhiên, Võ
Hậu vẫn không đả động gì đến chàng, vì thấy chàng còn có thể dùng được
việc.
Qua
năm năm, kể từ khi Võ Mỵ Nương lên ngôi Hoàng hậu, bốn đối thủ lớn nhất
của bà đã bị triệt hạ. Đó là Toại Lương, Vô Kỵ, Hàn và Lai. Riêng Lai
không phải bị Võ Hậu giết, mà vì thất vọng nên đã tìm cách tử trận.
Giờ đây, Võ Hậu tự do thao túng triều đình, không còn ai ngăn trở. Mọi việc đều theo đúng ý bà.
LỜI BÀN
Từ
âm mưu len lỏi vào cung để chinh phục quân vương, Võ Hậu trước tiên
lộng quyền hãm hại đối thủ gần nhất là Hoàng hậu và Vương Phi, sau đó
khống chế và mua chuộc quần thần để kết thành phe đảng. Đó là một cuộc
chiến trong nội cung rất có mưu lược.
Tuy
nhiên, ngoài việc chiếm uy quyền để sai khiến thiên hạ, Võ Hậu có một
chủ trương độc quyền, phá bỏ ý thức dân chủ, tự ý mình điều chỉnh chính
sự, không chịu ai tham gia.
Chế
độ độc quyền thì quyền hành chỉ ở trong tay một người, còn chế độ dân
chủ thì được sự tham gia đóng góp của những người để sàng lọc những cái
hay đem ra áp dụng.
Cái
mạnh của chế độ độc quyền là không bị rắc rối xáo trộn trong công tác
điều hành, nhưng lại mù quáng, độc ác, bởi lẽ muốn độc quyền tất nhiên
phải tập trung quyền uy, mà tập trung quyền uy tất phải diệt trừ những
kẻ chống đối, nên trở thành một chế độ tàn nhẫn. Võ Hậu đã chọn lựa một
chế độ độc tài nên hành động tàn nhẫn, trái nhân đạo là chuyện đương
nhiên.
Độc
tài chỉ mạnh một lúc, còn dân chủ thì tồn tại lâu dài, vì độc tài chỉ
làm thỏa mãn một người còn dân chủ thì làm thỏa mãn được quần chúng.
Kinh nghiệm từ xưa, không có một chế độ độc tài nào mà tồn tại lâu dài được.
Kế hoạch tằm ăn lá dâu của của Võ Hậu
Lúc
này vây cánh của vua Cao Tôn bị cắt đứt, nhưng Võ Hậu không cướp hẳn
chính quyền mà cứ từ từ chiếm lãnh từng mặt uy thế. Càng ngày bà càng
tham dự nhiều hơn vào việc triều chính.
Sở
dĩ bà đạt được lợi thế như vậy là vì tính bà có quan điểm dứt khoát và
nghị lực theo đuổi mọi việc không chịu bỏ dở. Bà đã thực sự giúp cho vua
Cao Tôn rất nhiều nếu đứng về mặt cai trị thuần tuý.
Vua
Cao Tôn cũng thừa nhận rằng triều thần nghe lời Võ Hậu nhiều hơn ông.
Trong triều không ai dám đứng ra bênh vực ông nữa. Guồng máy cai trị trở
nên êm ả quá, không còn những lời phản kháng. Các gian thần như Hứa
Kĩnh Tôn, Viên Công Hữu tha hồ hoành hành, vơ vét của cải, chiếm vợ và
tài sản của người khác. Lố bịch nhất là họ Lý, hắn đã tổ chức đám tang
của người mẹ dài hàng mười dặm, vậy mà Võ Hậu vẫn làm ngơ, chỉ vì nuôi
dưỡng trong lòng mọi người hễ ai vâng lệnh bà thì được chức trọng quyền
cao. Chính bà là người duy nhất có quyền ban cho những vinh dự ấy.
Nhưng
có một chuyện khiến niềm vui của Võ Hậu không được trọn vẹn trong cuộc
sống của bà. Đó là chuyện gia đình thuở trước. Hồi còn nhỏ bà không được
sung sướng gì, đến năm muời bốn tuổi bà được đưa vào cung và sống xa
nhà mấy năm liền. Thân phụ bà đã có hai người con trai trước khi cưới
thân mẫu bà. Thân phụ bà tên Võ Song, từng làm tướng dưới thời vua Thái
Tôn nên bà cũng thuộc con nhà tướng.
Một
hôm bà tổ chức một buổi họp trọng thể, mời tất cả thân quyền họ Võ của
bà được vào nội cung. Hai người con riêng của thân phụ bà cũng có mặt.
Hai người này hiện là quan trong triều và là những cái gai trước mắt Võ
Hậu, vì tính tình không muốn a dua nịnh thần.
Thân mẫu Võ Hậu gọi là Dương Phu Nhân, hôm đó tỏ ra ngạo nghễ với hai người con riêng của chồng. Bà nói:
- Chắc các ngươi còn nhớ những ngày cũ? Và bây giờ thì sao?
Một người nói:
-
Kể ra cũng hơi khó chịu. Em gái tôi bây giờ là Hoàng hậu, chắc mọi
người tưởng lầm rằng chúng tôi có địa vị hiện thời là nhờ em gái chứ
không phải nhờ cha chúng tôi thưở trước.
Câu nói châm biếm đó làm Dương Phu Nhân giận tái người.
Bà nói với Võ Hậu:
- Không để chúng nó lân la trong triều chính.
Võ
Hậu lập tức đuổi hai người ra làm quan ở những miền xa xôi hẻo lánh.
Trong chiếu chỉ, Võ Hậu có ghi: “Làm như vậy để chứng tỏ Hoàng hậu không
thiên vị người nhà”.
Một
người vừa ra tới Lũng Châu thì chết, còn một người cố sống, nhưng rồi
cũng bị ghép tội và bị xử tử. Cái chết của hai người không cần ai biết
tới…
Vua
Cao Tôn lúc này tánh nết trở nên bất thường. Ông phẫn uất vì có miệng
mà nói không ra lời, nên thường cáu kỉnh và buồn rầu. Khi ăn uống ông
không còn cảm thấy ngon miệng nữa. Trái lại Võ Hậu thì ăn uống rất khỏe,
nên trong các bữa ăn vua thường ngồi đờ ra nhìn bà vợ ăn hết món này
đến món khác.
Thấy vua không ăn, Võ Hậu hỏi:
- Bệ hạ không ăn sao?
Vua đáp:
- Không.
Vua
Cao Tôn nhìn sự vật xung quanh với vẻ chán ghét kể cả những thức ăn cao
lương mỹ vị nữa, lòng ông chứa ẩn một mối hận triền miên. Chỉ những lúc
hài hước ông mới mở miệng nói vài câu cho đỡ buồn, nhưng giọng nói mỉa
mai, chua chát đến cùng cực.
Hồi còn làm Chiêu Nghi, Võ Hậu có viết một đoạn văn, nhan đề: “Các đức tính của người vợ hiền”. Một hôm Cao Tôn nói với bà:
-
Tối hôm qua trẫm đọc lại đoạn văn của ái hậu, trẫm rất thích đoạn văn
nói: “Việc quan trọng của người đàn bà là giữ phận mình trong nhà. Người
đàn bà phải gọn gàng sạch sẽ, ít nói và chăm chỉ may vá, thêu thùa,
phải coi trọng những ý thích của chồng và nhất là phải hiếu thuận với
cha mẹ chồng và họ hàng nhà chồng để giữ được hòa khí trong gia đình…”.
Thật là một đoạn văn súc tích. Ái hậu có nghĩ như thế không?
Võ Hậu biết vua châm biếm mình, nhưng chỉ trả lời bằng cách im lặng.
Trong
thời gian thành đạt trên quyền uy, có hai thứ mà Võ Hậu sợ nhất là cái
chết của Vương hậu và mèo. Đã nhiều lần, bà thấy bóng ma của Vương hậu
và Triệu Phi hiện về và bà đâm ra sợ mèo khủng khiếp, vì người ta bảo
mèo là hiện thân của ma quỉ. Bà có cảm giác những hồn ma lởn vởn trong
cung không rời. Có lần bà trông thấy hai bóng ma xuất hiện ngoài hành
lang, đầu tóc bù xù, chúng quơ hai bàn tay đã cụt hết ngón, máu chảy
ròng ròng tiến tới định chụp lấy người bà… Trong giấc ngủ, bà thường
trông thấy một dòng sông nhuộm máu, nổi lềnh bềnh hàng trăm bàn tay đỏ
chói.
Sở dĩ Võ Hậu bị ám ảnh như vậy là vì lúc Vương hậu sắp chết chỉ buồn rầu nói:
-
Đó là lỗi nơi tôi. Tôi đã tưởng lầm Võ Mị Nương là người bạn tốt. Khi
chết tôi sẽ biến thành một con mèo. Lúc con điếm đó ngủ tôi sẽ cắn cổ nó
cho đến chết.
Những
lời nói này được bọn thám tử thuật lại cho Võ Hậu nghe và cứ ám ảnh mãi
trong tâm bà. Vì vậy bà ra lệnh đuổi hết mèo ra khỏi cung điện. Thà bà
chịu đựng hàng đàn chuột lúc nhúc còn hơn là trông thấy một con mèo.
Một hôm Võ Hậu nói với vua Cao Tôn:
- Thiếp đang tìm một vị ngự y để săn sóc Bệ hạ. Một người còn trẻ tuổi như Bệ hạ tại sao không thể…
Cao Tôn ngắt lời nói:
-
Trẫm đâu có bệnh tật gì. À, phải rồi, trẫm đang nghĩ đến Triệu Phi và
Vương hậu. Ta nhớ đến tình bạn khắng khít giữa khanh và Vương hậu. Khanh
đã dùng nàng làm phương tiện để tiến thân. Miệng khanh thơm tho mà
trong bụng rất độc. Khanh đã hại nàng. Nếu nàng không đem khanh ra khỏi
cõi tu hành thì ngày nay khanh ra sao? Một mình Triệu Phi giá trị gấp
mười đứa… ni cô như khanh.
Võ Hậu nói:
- Hãy im miệng ngay! Bệ hạ không phải là người đàn ông. Đàn ông gì lại chỉ biết đỗ lỗi cho người khác.
Trong
cung, Võ Hậu chỉ không thấy ma khi bà đi Lạc Dương để giải khuây, vì bà
đoán chừng như những con ma đó không theo bà đến Lạc Dương. Do đó, bà
thường đi Lạc Dương và nghỉ ở đó thật lâu. Ví dụ như năm 657, bà đi Lạc
Dương ba lần vào tháng giêng, tháng bảy và tháng chạp. Bà có ý định biến
nơi này thành Đông Đô.
Vào
tháng hai năm 660, khoảng thời gian Vô Kỵ bị buộc phải tự sát, vua Cao
Tôn bắt đầu ngã bệnh, không lúc nào được khỏe khoắn trong người. Lợi
dụng cơ hội ấy, Võ Hậu cho xây một cung điện mới gọi là Bồng Lai Điện,
lấy cớ là ngôi điện trước bị ẩm thấp, hại cho sức khỏe của vua, nhưng
thật ra bà hy vọng đổi chỗ ở sẽ tránh khỏi những hồn ma ám ảnh bà.
Tòa
Bồng Lai Điện về sau đổi tên là Đại Minh Điện, rất rộng rãi, vô số
phòng ốc và vườn thượng uyển. Xây cung điện ngoài sức dân các quan văn
võ đều phải đóng góp một tháng lương để giúp vào việc chi phí.
Nhưng không may, hồn ma lại xuất hiện trong cung điện mới. Việc này làm cho vua Cao Tôn và Võ Hậu xích mích nhau hơn.
Bà
làm cho vua Cao Tôn điên đầu về những ý tưởng kỳ lạ. Tháng tư năm 662
bà đổi tên cơ cấu chính quyền từ cao xuống thấp, mãi tám năm sau mới
được đổi lại tên cũ. Bà thích cái gì mới lạ, nặng về mê tín dị đoan.
Thời
gian này có bà Hồ Lao, nữ Công Tước đất Hàn thường đến Hoàng cung chơi,
vì là chị em ruột với Võ Hậu. Bà được phép tự do ra vào cấm cung và ăn
uống cùng bàn với vua và Hoàng hậu.
Mọi
người thường thấy bà bên cạnh vua Cao Tôn. Bị Võ Hậu chế nhạo mình
không phải đàn ông, vua Cao Tôn bực mình thường cặp kè với bà Công Tước
và người con gái chưa tới hai mươi của bà. Vua tìm thấy một sức lôi cuốn
ở bà này mà Võ Hậu không có.
Sự
thân mật giữa vua Cao Tôn và bà Công Tước làm cho Võ Hậu ngứa mắt. Khi
gần gũi bà Công Tước này vua có vẻ yêu đời trở lại sau mấy năm sống gần
Võ Hậu. Người khác thì có thể chấp nhận hai chị em sống chung một chồng,
nhưng Võ Hậu thì không chịu nổi. Bà quyết ra tay.
Một
hôm, bà Công Tước bị chết co quắp sau bữa cơm tối. Hiển nhiên bà đã bị
đầu độc. Người ta đã quá quen thuộc với cảnh đàn ông trái ý Hoàng hậu bị
đuổi đi xa rồi chết ngoài ngàn dặm còn đàn bà được lòng vua thì bị
trúng độc lăn ra chết ngay trong cung.
Võ Hậu tỏ ra rất thương xót bà chị, tổ chức đám tang rất linh đình.
Một
lần nữa vẻ mặt vua Cao Tôn lại chứa đầy chán nản và thất vọng. Ông ngồi
kiểm điểm lại những hành động của Võ Hậu làm cho ông cảm thấy rùng
mình, sợ hãi và khinh bỉ. Vương hậu, Triệu Phi rồi bà Công Tước, rồi đến
ai nữa đây? Bỗng dưng vua cảm thấy mình có lỗi.
Cao
Tôn càng ngày càng thấy mình cô độc, bị giam trong bốn bức tường cao
ngất, không biết ai trò chuyện. Ông đã mất quyền cai trị bên ngoài lại
còn mất cả tự do trong nhà. Mỗi bước đi của ông đều bị theo dõi, quản
thúc. Ông không thể đến gần một bóng hồng nào hết, vì bóng hồng và thuốc
độc đã gắn liền nhau.
Vua
Cao Tôn bề ngoài vẫn giữ vẻ bình thản với Võ Hậu, nhưng Võ Hậu linh cảm
thấy ông rất thù hận bà. Vì vậy bà muốn an ủi ông, dỗ dành ông như đứa
trẻ. Bà đóng kịch rất khéo làm cho vua Cao Tôn có lúc mềm lòng tưởng
chừng như bà vẫn thương ông như tự thuở nào. Nhưng dù sao Cao Tôn vẫn
không tìm thấy sự thoải mái, ông thường nơm nớp sợ mình có điều gì sơ hở
và bị Võ Hậu chộp lấy để khai thác.
Dần
dần trong đầu vua Cao Tôn nghĩ phải trừ khử Võ Hậu. Ông ao ước được
sống tự do, ông tưởng tượng cảnh ông làm vua, có cung nữ hầu hạ ríu rít
xung quanh, giờ đây không còn nữa, đến việc trị thiên hạ cũng vượt khỏi
tầm tay rồi. Xung quanh đầy nhóc những gian thần như Hứa Kỉnh Tôn. Còn
các trung thần như Vô Kỵ, Toại Lương, Hàn, Lai đều đã chết, chỉ còn có
một Lý Tích còn sống nhưng đang chinh chiến tại Cao Ly.
Năm
663, sau khi tòa cung điện mới hoàn tất, Cao Tôn tìm thấy một cơ hội
tốt. Võ Hậu cho xây dựng cung điện mới này là để tránh những hồn ma,
nhưng chúng vẫn theo đuổi bà. Điều này rất dễ hiểu vì hai tòa cung điện
chỉ cách nhau một khu vườn. Võ Hậu cho mời một tay pháp sư đến để trấn
ếm. Thời gian trấn ếm kéo dài trong nhiều đêm, khiến người ta phải nghi
ngờ. Ai có thể biết được Võ Hậu và tên pháp sư đã làm những trò gì trong
mấy đêm đó.
Một hoạn quan cho Cao Tôn hay chuyện này. Nhà vua rất hồ nghi và quyết định đi xem thực tế việc này ra sau.
Tối
hôm đó, Cao Tôn đi thẳng đến địa điểm. Sau khi đi hết dãy hành lang thì
tới ngôi bảo tháp, nơi cầu đảo của tên pháp sư, ông thoáng thấy một con
tỳ nữ đứng canh chừng nơi góc vườn, vừa trông thấy vua, con tỳ nữ liền
biến mất. Sau đó, ông thấy bóng con tỳ nữ in trên khung cửa sổ sáng lờ
mờ của ngôi cổ tháp. Ông vội chạy tới góc vườn, nơi đây ông có thể thấy
rõ bóng người từ tầng thứ hai ánh sáng chói lên. Nhưng ông phải làm gì
bây giờ? Xông vào bắt quả tang chăng? Chắc chúng đã được báo động vì ánh
đèn tự nhiên tắt phụt. Biết đã chậm, vua lững thững quay về phòng.
Ngày hôm sau Võ Hậu tìm cách giải thích:
- Tối hôm qua Bệ hạ làm gì mà lảng vảng ở ngôi cổ tháp vậy?
Vua Cao Tôn nói:
- Trẫm đi dạo mát cho khỏe đấy mà.
Võ Hậu nói:
- Sao Bệ hạ lại đi dạo nơi tối tăm đó? Sao bệ hạ không lên tháp để xem pháp sư trấn ếm?
Vua Cao Tôn nói:
- Trẫm lên đó để làm gì? Trẫm đâu có thích pháp sư!
Mấy
ngày liền, vua Cao Tôn không nhắc nhở đến chuyện này cốt để Võ Hậu
không đề phòng. Rồi một tối ông lại đi rình xem hành động của hai người.
Rất
may cho ông là lần này con tỳ nữ không trong thấy ông. Mãi đến khi đến
chân tháp nó mới phát giác và lập tức chạy lên lầu. Ông vội chạy theo để
nó không kịp báo động.
Lên
đến nơi, ông thấy hai người vừa buông nhau ra, tên pháp sư đang sửa lại
dây lưng, còn Võ Hậu thì quần áo xốc xếch, y như ông đã thấy nhiều lần
trong phòng ngủ của ông. Hai ly rượu còn đặt trên sàn.
\Võ Hậu có vẻ luống cuống:
- Bệ hạ đến xem pháp sư trấn ếm ư? Pháp sư vừa ngưng tay để nghỉ một lát thì Bệ hạ đến …
- Trẫm biết rồi.
Cao Tôn vừa nói vừa quay lưng trở xuống. Võ Hậu nói vói theo:
- Sao Bệ hạ không ở lại xem. Ở trên này cần phải tắt đèn thì mới yên lặng để trấn ếm được.
Cao Tôn nói:
-
Tại sao trấn ếm lại phải có người đứng xem? Một mình hắn trấn ếm không
được sao? Trẫm tưởng việc trấn ếm, trừ khử tà ma thì phải làm ở ngoài
trời, tại sao phải làm ở trong phòng kín và tắt đèn?
Nói
xong, Cao Tôn bỏ xuống dưới, mặc cho hai người trong phòng đang ngồi
thở hổn hển. Ông đã nhìn thấy tận mắt như vậy là đủ rồi.
Cao
Tôn đã khổ quá nhiều với cuộc sống với Võ Hậu, nay ông lại tìm ra một
bằng cớ để truất phế Hoàng hậu. Giờ đây ông chỉ còn cần đến can đảm là
xong.
Một lúc sau, Võ Hậu lại vào phòng Cao Tôn nũng nịu:
-
Sao Bệ hạ không ở lại. Cung điện này luôn luôn có ma, chắc Bệ hạ không
biết thiếp ngày đêm sợ hãi dường nào. Thiếp tin rằng tên pháp sư kia có
thể trấn ếm được. Cuộc trấn ếm hấp dẫn lắm, sao Bệ hạ không ở lại xem?
Vua Cao Tôn nổi giận nói:
- Hừ! Đối với người khác thì ngươi là một Hoàng hậu còn đối với ta ngươi chỉ là một đứa đạo đức giả, một con điếm.
Võ Hậu hết lời giải thích và năn nỉ, nhưng vô ích. Cuối cùng bà đứng dậy và nói:
- Thôi được! Thiếp ra ngoài để Bệ hạ có thời giờ để suy nghĩ. Bệ hạ sẽ thấy thiếp làm như vậy là phải.
Ngày
hôm sau, Cao Tôn kể chuyện này và nói ý định mình cho quan Trung Thư
Thị Lang là Thương Quan Nghị nghe. Ông này là người duy nhất còn tại
triều vua có thể tin cậy được.
Thương Quan nghị tâu:
-
Xin bệ hạ giao cho thần soạn cho Bệ hạ một chiếu chỉ, nhưng Bệ hạ đừng
cho ai biết. Trong chiếu chỉ thần sẽ không nói đến chuyện ngoại tình, mà
chỉ buộc tội Hoàng hậu đã dùng tà thuật trong cung và tội đã đầu độc bà
Công Tước, tội đã giết hại các công thần như Vô Kỵ, Toại Lương. Đại để
nói là Hoàng hậu không còn xứng đáng nữa nên phải truất phế.
Vua gật đầu nói:
- Được lắm! Khanh hãy về mà thảo chiếu. Nhớ giữ tuyệt đối bí mật.
Nhưng
mọi việc không đơn giản như vua Cao Tôn nghĩ. Thực ra mọi việc làm của
vua Cao Tôn đều được theo dõi và được báo lại cho Võ Hậu biết.
Chiều
hôm đó Cao Tôn đang ngồi đọc lại bản chiếu chỉ thì Võ Hậu bước vào. Bà
nhìn cử chỉ vua Cao Tôn một cách nghi ngờ, mắt bà như toé lửa, còn Cao
Tôn thì mặt mày xanh như tàu lá.
Bà rít lên:
- Có đúng như vậy không?
Vua Cao Tôn hỏi:
- Đúng cái gì?
Võ Hậu nói:
- Bệ hạ đừng giả vờ nữa. Thiếp biết cả rồi. Đây là chiếu chỉ mà!
Bà đưa mắt nhìn tờ giấy vàng để trên bàn, làm cho Vua Cao Tôn lúng túng, nói:
- Không phải! Đây chỉ là một bản thảo.
Võ Hậu gầm lên:
- Đưa đây !
Như cái máy vua Cao Tôn đưa tờ chiếu cho Võ Hậu. Bà đọc qua một lần, rồi nghiến răng xé nát tờ chiếu ra làm mảnh vụn, rồi hỏi:
- Ai viết tờ chiếu này?
Vua Cao Tôn ngồi yên.
Võ Hậu nói:
- Đây là nét bút của Thương Quan Nghị, có đúng không?
Cao Tôn gật đầu.
Võ Hậu nói:
-
Chắc Bệ hạ không ngờ thiếp lại biết hồi trưa này Bệ hạ vào phòng Thương
Quan Nghị và đóng kín cửa để bàn luận. Trứơc khi đọc tờ chiếu thiếp đã
biết nội dung nó ra sao rồi.
Cao Tôn vẫn yên lặng.
Võ Hậu ngồi xuống dịu giọng nói:
-
Thiếp có vài lời ấp ủ từ lâu mà chưa có dịp nói với Bệ hạ. Nhân tiện
đây thiếp xin tỏ bày. Thiếp mong Bệ hạ đừng bao giờ nghe những lời dèm
pha lếu láo. Thiếp cậy người đến trừ ma trong cung có gì mà Bệ hạ phải
giận dữ như vậy. Có bao giờ thiếp thiếu bổn phận với Bệ hạ đâu.
Vua Cao Tôn ngồi yên. Võ Hậu nói tiếp:
-
Gần đây, thiếp thấy bệ hạ càng ngày càng phiền muộn và cáu kỉnh, thiếp
nghĩ rằng Bệ hạ không khỏe nên không nói gì. Thiếp còn bận bao nhiêu
công chuyện cung điện mới, chuyện triều chính… Tại sao thiếp lại trằn
trọc mỗi đêm? Đó là vì mãi suy tính các việc phải làm, phác họa các kế
hoạch, quyết định những vấn đề quan trọng về triều thần và đường lối cai
trị. Tất cả những việc đó là để giúp Bệ hạ muốn Bệ hạ được những công
nghiệp vĩ đại. Nếu có ai muốn thay thiếp lo cho Bệ hạ, thiếp sẵn sàng
nhường ngay.
Vua Cao Tôn đang bối rối và nhức đầu. Ông không muốn bàn đến chính trị trong giờ phút này ông nói:
- Làm ơn để cho tôi yên.
Nhưng Võ Hậu vẫn cứ nói tiếp:
-
Bệ hạ kém thông minh khi nghĩ rằng thiếp đã giết chị ruột thiếp, thiếp
có những điều mờ ám trong đó. Hơn nữa Bệ hạ nên nhớ rằng có những việc
mình không muốn nhưng vẫn phải làm. Ví dụ như trường hợp Vô Kỵ và Toại
Lương. Bệ hạ yếu lòng quá nên mới tin được bọn họ. Bệ hạ tưởng tượng xem
số phận của chúng ta sẽ ra sao khi không ra tay trước?
Vua Cao Tôn bực bội nói:
- Khanh lúc nào cũng có lý.
Võ Hậu nói:
-
Đúng như vậy. May mà thiếp phá vỡ âm mưu kịp thời. Nếu thiếp không cứng
rắn thì giờ này Bệ hạ đâu còn ung dung ngồi trên ngai vàng. Làm vua, Bệ
hạ phải xử sự như một ông vua. Thiếp chỉ tiếp tay cho Bệ hạ mà thôi. Bệ
hạ có biết vì sao thiếp xây tòa cung điện này không? Đây cũng vì Bệ hạ.
Thiếp luôn luôn bận rộn là để giúp Bệ hạ trở thành ông vua vĩ đại. Bệ
hạ hãy nhìn xem đất nước rộng lớn của chúng ta đã sai khiến bao nhiêu
lân quốc. Nước Cao Ly cũng trở thành chư hầu. Có bao việc bệ hạ phải
làm, thiếp đang sắp đặt nhiều chương trình lớn lao giúp Bệ hạ. Chúng ta
sẽ xây thêm nhiều đền đài, cung điện thật hùng vĩ hơn các triều đại khác
để tỏ ra mình là ông vua có cơ nghiệp lớn. Bệ hạ đừng ngồi đây để nghe
lời kẻ khác nói vào nói ra.
Qua
lời thuyết dụ của Võ Hậu, Cao Tôn muốn xiêu lòng. Ông cảm thấy choáng
váng vì bị xúc động. Cuối cùng ông nói một cách buồn rầu:
- Ta biết khanh có thể tự mình cai trị, không cần đến trẫm.
Võ Hậu nói:
-
Điều đó thiếp làm được, nhưng thiếp chỉ muốn giúp Bệ hạ. Có lẽ bệ hạ
đang yếu trong người, vậy Bệ hạ nên đi ngủ, đừng nghỉ ngợi vẩn vơ nữa.
Vua Cao Tôn thở dài, cam chịu số phận. Bao nhiêu hy vọng được tự do đã trở thành mây khói.
Với
phản ứng nhanh nhẹn, Võ Hậu đã lật ngược tình thế. Bà càng nghĩ bao
nhiêu bà càng căm giận kẻ đã âm mưu truất phế ngôi Hoàng hậu của bà.
Võ
Hậu biết mình luôn luôn có sẵn một con dao trong tay để cho các triều
thần một bài học đầu tiên mà cũng là cuối cùng trong ý thức chính trị.
Bà cho gọi Hứa Kỉnh Tôn gắn cho Thượng Quan Nghị liên quan âm mưu phản
loạn của Lý Trung, rồi ra lệnh chém đầu ông. Gia đình ông ta bắt làm nô
lệ tại các vùng xa.
Mỉa
mai thay, ngày sau một đứa cháu gái của Thương Quan Nghị được đem vào
cung và làm lũng đoạn triều đình dưới thời vua Trung Tôn. Nhưng việc này
chúng ta sẽ gặp lại cô bé ấy ở cuối truyện.
Những
âm mưu tưởng tượng xung quanh việc Lý Trung đã được lợi dụng quá mức và
trở nên cũ rích, Võ Hậu cảm thấy không còn dùng vào việc gì nữa nên Võ
Hậu cho phép vị Hoàng Tử này được treo cổ tự vận, khỏi bị xử tử giữa
công chúng. Lúc đó hoàng Tử Lý Trung mới hai mươi hai tuổi. Vua Cao Tôn
biết việc đó nhưng không cứu được đứa con của mình.
LỜI BÀN
Âm mưu chính trị là một con dao để tiêu diệt kẻ thù. Võ Hậu đang nắm con dao ấy trong tay.
Nhà
chính trị nào lại không mưu đồ sự nghiệp của mình và tiêu diệt đối
phương, nhưng khác nhau ở chỗ nhân đạo hoặc vô nhân đạo mà thôi.
Kẻ
vô nhân đạo khi cầm con dao ấy trong tay thì chỉ nghĩ đến quyền lợi mà
không nghĩ đến tình người, còn kẻ có lòng nhân thì mưu đồ cho hạnh phúc
của thiên hạ.
Võ
Hậu đã giết cả các trung thần, đến những người thân thích của mình nữa,
chỉ vì tham vọng cá nhân. Tham vọng cá nhân càng lớn thì sự tàn nhẫn
càng to.
Sau
khi ra tay tàn sát mọi người, Võ Hậu cũng bị lương tâm cắn rứt. Vì sự
cắn rứt ấy mà sanh ra sợ hãi, mộng mị triền miên. Ấy vậy dù lòng người
tham vọng, tàn ác đến đâu cũng có lúc lương tâm trỗi dậy trừng phạt.
Đó là một tấm gương xử thế.
Khi một ông vua không làm vua
Từ
ngày vua Cao Tôn mưu sự không thành, tình trạng ông trở nên bi đát.
Chứng đau thần kinh hành hạ ghê gớm làm cho ông đau nhức, tê liệt mình
mẩy, lúc thì tỉnh táo, lúc thì thẩn thờ.
Ông
thường lấy thú vui bằng tay chân để giải khuây. Ông cưa các hình gỗ để
đánh bóng, có lúc lại bày những đồ chơi trẻ con để vui với cô Sao San,
con gái bà Công Tước đã qua đời. Cô này đã trở nên một thiếu nữ mười tám
tuổi rất xinh đẹp. Hiển nhiên ông không quan tâm gì đến việc triều
chính, để giao cho Võ Hậu đảm đương.
Mấy
năm tiếp theo, sức khoẻ ông bị nhiều khủng hoảng nên ông thường bãi bỏ
các buổi chầu, vì ông có lâm trào, các triều thần tâu gì ông cũng chẳng
nghe. Do đó một thông lệ được đặt ra là trong mỗi buổi chầu Võ Hậu ngồi
phía sau một bức rèm giúp vua đối đáp với triều thần. Dần dần các quan
vào chầu quen chờ nghe tiếng đàn bà hơn tiếng đàn ông. Điều này chẳng
hay ho gì, nhưng Võ Hậu viện cớ phải giúp vua trong lúc bệnh hoạn.
Người ta gọi chế độ này là là chế độ nhị thánh lâm trào.
Một
Hoàng hậu hiếu động đã làm cho vua mệt nhoài. Trong lúc Cao Tôn chỉ
thích thơ thẩn trong cung để cùng Sao San ngắm những con cá vàng bơi lội
thì Võ Hậu lại cứ bày trò bắt ông phải đi. Khi thì thăm cung điện nơi
Lạc Dương, lúc thì ra chơi tận Thiên Sơn, vừa đi vừa về phải mất sáu
tháng. Nhất là bà bắt vua đi dự những nhũng cuộc lễ tế thánh ở Phong Sơn
và các lễ hành hương để kỷ niệm một triều đại mới.
Vua Cao Tôn nói:
- Trẫm có thể ủy nhiệm cho người khác không?
Võ Hậu nói:
- Bệ hạ phải đi vì đây là một trọng lễ.
Cao Tôn nói:
- Nhưng núi thánh ở gần Sơn Đông, cách đây cả ngàn dặm, làm sao trẫm đi nổi?
Võ Hậu nói:
- Bệ hạ đừng lo. Bệ hạ sẽ nghỉ nhiều lần ở dọc đường và có đủ mọi tiện nghi cho Bệ hạ.
Vua Cao Tôn thở dài nói:
- Mục đích tổ chức lễ Phong Sơn là để làm gì vậy?
Võ Hậu nói:
-
Để cảm tạ Thượng đế đã cho chúng ta thái bình và thịnh trị. Ngày xưa
các tiên đế cũng thường tổ chức đi lễ này. Bệ hạ phải noi gương.
Vua Cao Tôn có vẻ bực bội, nói:
- Thái bình thịnh trị là gì? Vứt bỏ hết, trẫm mang theo mấy con dế được không?
Võ Hậu cau mày, nói:
- Thôi đừng nói xàm nữa.
Cao Tôn nói:
- Trẫm nói thực mà. Khanh phải chọn bốn đứa để trông dế cho trẫm. Có bao nhiêu người đi tất cả.
Võ Hậu nói:
- Khoảng mấy trăm người.
Cao Tôn nói:
-
Trời đất! Các Thượng Thư và các triều thần đều muốn tháp tùng chúng ta
trong chuyến ngự giá đặc biệt này, nếu kể cả người hầu cũng phải trên
một ngàn người mới đủ. Nhưng Sao San có đi theo đượckhông?
Võ Hậu hỏi:
- Nó đi để làm gì?
Cao Tôn nói:
- Vậy trẫm cũng không đi.
Sao
San được phong làm nữ Công Tước sau khi mẹ nàng mất. Nàng là một cô bé
vui tươi, quen sống trong nhung lụa. Tánh nết vui tươi trước những trò
chơi quí phái của đàn ông. Tâm hồn nàng còn ngây thơ đến nỗi có thể khóc
hu hu khi mất một con dế của nàng bị thua con dế của vua. Cao Tôn thấy
vậy cũng làm bộ ôm mặt khóc theo, rồi bất chợt hai người nhìn nhau cười
xòa. Hai người vẫn tự hào là không ai hiểu được họ. Đã mấy năm nay, Sao
San ở trong cung mà không ai nói cho nàng hay về những điều mờ ám trong
cái chết của mẹ nàng. Thực ra không ai dám rước họa vào thân.
Còn nàng, tuy tận mắt chứng kiến mẹ nàng chết, nhưng chỉ cũng tưởng đó là một tai nạn ngẫu nhiên.
Vẻ hồn nhiên của Sao San làm cho Vua Cao Tôn thích thú.
Một
hôm hai người đi dạo chơi trong vườn, nàng đưa tay ôm choàng qua người
ông. Đối với nàng, Cao Tôn chỉ là chồng của dì mình, nên cử chỉ nàng rất
tự nhiên. Nhưng Cao Tôn vội nói:
- Đừng làm như vậy.
Sao San thụt tay lại, ngạc nhiên hỏi:
- Sao thế?
Cao Tôn ngẫm nghĩ một chút rồi nói:
- Coi chừng dì cháu trông thấy.
Sao San càng ngạc nhiên:
- Trông thấy thì sao? Cháu không hiểu.
Cao Tôn hỏi lại:
- Cháu không hiểu thật sao?
Ông nhìn mặt cô bé một lát, rồi bất giác ông thở dài, đưa mắt nhìn về phía xa lẩm bẩm:
- Ta đã giết mẹ cháu. Thật ra ta phải chịu trách nhiệm về cái chết của mẹ cháu. Vì ta quá thân mật với bà mà bà bị giết.
Sao San có vẻ bàng hoàng. Những việc này vượt ra ngoài bộ óc ngây thơ của nàng.
Nhưng rồi Cao Tôn lại nói tiếp:
-
Chuyện này rất bí mật. Mẹ cháu bị chết vì bị đầu độc. Dì cháu dám làm
bất cứ điều gì, vì vậy ta bảo cháu phải coi chừng, đừng bao giờ để lộ
cho dì cháu biết là ta rất mến cháu. Nếu có việc gì xảy ra ta phải ân
hận suốt đời.
Cao
Tôn không nói những chi tiết bí mật, những nguyên nhân sâu xa của sự
việc, vì ông không muốn đầu độc bộ óc ngây thơ non trẻ của Sao San.
Sau đó, Sao San được theo Cao Tôn và Võ Hậu đi Thái Sơn.
Lễ
Phong Sơn là một lễ lớn, tổ chức vào tháng tám vào dịp thật đặc biệt.
Đó là một cuộc hành trình xa xôi, chậm chạp, làm tê liệt guồng máy chính
quyền trong hàng sáu tháng thời và ảnh hưởng đến các sinh hoạt địa
phương, những nơi mà vua ngự giá đi qua. Cuộc lễ lôi cuốn theo tất cả
triều đình vời hàng chục ngàn người ngựa, xe, trâu, các thị vệ của vua
cũng như các vương hầu.
Lệnh
triệu tập ban ra, tất cả các vương tước và đại thần trừ những người mắc
việc quân binh, còn tất cả phải tập trung nơi Lạc Dương. Gần đến ngày
khởi hành ngoài đường luôn luôn tấp nập ngựa xe. Các đoàn người kéo dài
hơn bốn mươi dặm, chật ních xe cộ. Nói tóm lại, vùng đất của ba tỉnh lớn
bị đảo lộn dưới gót chân của đoàn người vĩ đại này.
Tháng mười hai, đoàn người tiến vào địa phận tỉnh Sơn Đông và nghỉ tại Tế Châu mười ngày trước khi đi Thái Sơn.
Cuộc hành lễ dự định bắt đầu từ ngày mồng một tết.
Ngày
mồng một tháng giêng lễ trời, ngày mồng hai lễ núi, ngày mồng ba lễ đất
vua và các người dự lễ phải tẩy uế và cữ sắc dục từ mấy ngày trước.
Một
điều đặc biệt có vẻ khôi hài là trong buổi lễ lại có Võ Hậu. Theo cổ
lệ, đàn bà không được dự lễ, nhưng lần này Võ Hậu nói với vua là phải
sửa đổi để bà tham dự. Vua biết làm như vậy là sai luật, phạm vào điều
cấm kỵ của tiền nhân nhưng cũng phải chấp thuận, vì nếu không, cuộc lễ
cũng không thành.
Đoàn
người đến Lạc Dương vào tháng tư. Vừa đi vừa về đúng sáu tháng. Chuyện
đáng nói nhất trong chuyến đi này là chuyện về Sao San, cô gái ngây thơ
của bà Công Tước.
Đối
với Võ Hậu, về bà con thân thuộc, không kể hai người anh cùng cha khác
mẹ đã bị đày đi xa và chết vì tay bà, thì còn có một số người khác như
anh em họ và ba người chú.
Trong
thời gian hành lễ tại Thái Sơn, hai người anh họ của bà là Vị Lương và
Hoài Nguyên cũng có đến dự. Sao San được gặp hai ông cậu, nên rất mừng
vui. Trong lúc chuyện trò nàng không quên kể cho hai người nghe chuyện
Võ Hậu mưu hại hai người anh cùng cha khác mẹ của bà và chuyện bà đã
giết mẹ nàng bằng thuốc độc. Không may lúc ba người nói chuyện có kẻ
rình nghe và báo lại cho Võ Hậu biết. Bà vẫn làm lơ như không để ý, ân
cần mời hai người anh họ về kinh đô chơi. Hai người này đang làm quan
tại Sơn Đông.
Rồi
một ngày kia, Vị Lương và Hoài Nguyên được mời cùng dự yến. Theo lời
dặn của Võ Hậu, hai người lựa vài món thổ sản thật ngon đem đến cùng ăn.
Trong
khi chờ đợi Cao Tôn đến, Võ Hậu bảo thị nữ mang mấy thứ hai người mới
mang tới để ăn thử. Sao San cũng được chia phần, nhưng khi nàng vừa nuốt
vào một lúc thì bụng quặn đau, mặt nàng tái nhợt. Một lúc sau, máu từ
mũi nàng trào ra mọi người sợ hãi đem nàng đi nằm. Có điều đáng chú ý là
trừ nàng ra, không ai bị điều gì cả.
Khi
vua Cao Tôn tới, thấy cô bé đang lăn lộn, giống như những trường hợp
ông đã thấy, nên ông đoán biết là cô ta sẽ không khỏi chết. Cao Tôn nhớ
lại trường hợp bà Công Tước trước đây cũng giống hệt như vậy.
Đêm
hôm đó Sao San tắt thở. Nàng ra đi giữa tuổi tươi đẹp nhất của người
con gái, làm cho Cao Tôn ruột gan tan nát lòng ông lại trải qua những
chua chát cay đắng đã từng nếm.
Đối với một cô bé ngây thơ, vô tội, người ta lại có thể tàn ác như vậy sao?
Anh em Vị Lương cũng rất kinh hoàng, còn Võ Hậu thì giả đò khóc lóc, than:
-
Trời ơi! Cháu tôi! Chị tôi mất để lại có mình nó, bây giờ trời cũng bắt
nó đi nữa sao? Cũng tại hai tên sát nhân này. Thiếp biết chúng định
giết Bệ hạ, nhưng không may Sao San ăn phải.
Thế là Vị Lương và Hoài Nguyên bị bắt quả tang về tội giết người, có Võ Hậu làm chứng. Hai người bị đem ra xử tử.
Cả ba người biết nhiều về chuyện Võ Hậu đã trở thành những người kín miệng nhất.
LỜI BÀN
Tham
vọng và lương tâm không thể tồn tại trong một con người Võ Hậu giết hại
tất cả chị em, con cháu cũng chỉ vì tham vọng đã thắng đạo nghĩa làm
người.
Trong
con người tham vọng nặng về cá nhân, lúc nào cũng muốn có người tâng
bốc mình là kẻ lỗi lạc hơn kẻ khác. Chính vì thế mà khi một người nào
biết được cái xấu của mình thì Võ Hậu tiêu diệt không để tiết lộ ra
ngoài, dù người đó là chị em, con cháu.
Lòng
vị kỷ con người xuất phát từ háo danh, tự cao, tự đại. Võ Hậu đã viết
ra một tập sách dạy người đời phải nhân từ, thế mà Võ Hậu lại không làm
được điều mình nói.
Ấy
vậy, giá trị con người căn cứ vào việc làm, không thể căn cứ vào lời
nói. Lời nói chỉ là phương tiện để phỉnh phờ, lừa gạt, còn hành động mới
thực là giá trị chân chính của con người.
Những chấm đen trên ngày tàn ngôi báu
Vua
Cao Tôn cảm thấy mình không khác gì một con chim bị nhốt trong lồng,
khônng còn một con chim nào khác để bầu bạn, đùa hót. Đã vậy, các cơn
đau hành hạ triền miên, tóc ông đã bạc màu rất nhiều. Niềm an ủi của ông
hiện giờ là Thái tử Hoằng, một vị Thái tử có nhiều triển vọng khi nối
ngôi.
Hoằng
là một thành niên trẻ tuổi, hăng hái, luôn giữ tư cách của một Thái tử
và là con trai đầu lòng của Võ Hậu, dĩ nhiên không ai có thể mưu giết
chàng.
Năm
673, vua hoàn toàn suy yếu, Thái tử phải thay vua lo việc trong các Bộ
để vua và Hoàng hậu về nghỉ tại Đông Đô ở Lạc Dương. Chỉ những việc quan
trọng Thái tử mới hỏi ý kiến vua, hay nói đúng hơn là hỏi ý kiến của Võ
Hậu.
Nói
tóm lại việc triều chính bây giờ có thể chia làm ba giai đoạn: Mười năm
đầu, việc lâm trào thường xuyên do vua Cao Tôn, thỉnh thoảng có Võ Hậu.
Mười năm thứ nhì là giai đoạn Nhị Thánh, hai người cùng lâm trào nghị
sự và mười năm cuối cùng là giai đoạn Thánh Hậu, chỉ có Võ Hậu thường
xuyên dự việc triều chính, còn vua Cao Tôn thì nằm liệt giường..
Trong
giai đoạn thứ ba, từ năm 674 trở đi, Võ Hậu toàn quyền hành động. Kỷ
nguyên mới bắt đầu với một chương trình hành động rất kêu. Võ Hậu khởi
thảo ra một bức thư trình với vua Cao Tôn đường lối chính trị của mình
và công bố cho triều thần biết.
Trong bản thào có những điều cải tổ xã hội như sau:
1) Phát triển nông nghiệp và nghề tằm, tăng, giảm bớt công việc cho giới lao động.
2) Miễn thuế cho các tỉnh phía Tây Bắc.
3) Vãn hồi đạo đức để chung sống hòa bình.
4) Cấm xa hoa, lãng phí.
5) Giảm thiểu đến mức tối đa việc trưng tập binh lính.
6) Tự do phát biểu ý kiến.
7) Không chấp nhận những quan lại bất chính và những quan lại chỉ biết nghe lệnh một cách mù quáng.
8) Tất cả các quan lại và các bậc vương tôn, công tử đều phải học Đạo Đức Kinh của Lão Tử là người cùng họ Lý với vua đời Đường.
9) Thời gian để tang cho mẹ là ba năm dù cha còn sống, tượng trưng sự bình đẳng giữa nam và nữ.
10) Những quan lại về hưu vẫn giữ nguyên chức hiệu và phẩm trật.
11) Các quan ở Kinh đô từ bát phẩm trở lên đếu được tăng luơng.
12) Các quan thâm niên đều được cứu xét và thăng trật nếu có công.
Ba
điểm sau cùng giúp Võ Hậu được lòng nhiều người trong giới quan lại
toàn quốc. Nói một cách tổng quát thì các nhà chính trị có một cái nhìn
chung không ai chê trách bảng kế hoạch hành động này, nhất là điểm vãn
hồi đạo đức để chung sống hoà bình.
Tuy
vậy, những chuyện bực mình vẫn xảy ra, luôn luôn đeo đuổi vua Cao Tôn,
để ông trở thành con người không còn biết đâu là chân giả nữa.
Thái
tử Hoằng là người có học thức, có chút lý tưởng và nhạy cảm giống như
vua cha thuở còn trẻ, nên từ lúc còn thơ ấu chàng đã tự rèn luyện để sau
này làm người kế vị. Các học giả uyên bác được mời vào cung để chỉ dẫn
chàng tất cả các môn, kể cả làm quen với việc triều chính. Hiện chàng đã
hai muơi ba tuổi và được trao quyền dần dần. Trong hai năm 671 và 672
chàng đã giữ trọn quyền tại Trường An để vua cha dưỡng bệnh ở Lạc Dương.
Chàng cưới con gái một vị học giả, nên vị học giả này cùng các bạn của
ông hết lòng phò tá chàng. Mọi việc tiến triển rất tốt đẹp.
Trong
thời gian nghiên cứu nghệ thuật cai trị, Hoằng đã học tập rất nhiêu đức
tính của các tiên vương, tức là lòng nhân ái và việc lo lắng cho dân.
Chàng rất cảm thông đời sống cơ cực của đám binh lính, nhưng vì chưa lên
ngôi nên chưa có một cải cách nào để giúp họ. Chàng chê trách việc bắt
vợ con các lính đào ngũ làm nô lệ. Tuy chế độ này giúp quân đội Thái Tôn
hùng mạnh, nhưng theo chàng biết có nhiều lính không đào ngũ mà lại bị
ghép vào tội đào ngũ. Vì sau một trận đánh luôn luôn có những kẻ thất
lạc không về trình diện được vì lý do bất khả kháng như người bơi qua
sông bị chết đuối, người bị đau ốm bất ngờ, hay bị quân thù bắt v.v. Sẽ
có sự lầm lẫn lớn nếu chỉ kiểm điểm xác chết tại trận chiến và những
người mất tích đều coi là đào ngũ và đem vợ con họ ra trừng trị.
Năm
672 – 673 trời làm hạn hán, nạn đói khắp nơi, khi đi viếng thăm binh
lính, Thái tử Hoằng thấy họ chỉ ăn toàn vỏ trái cây rừng, chàng bèn ra
lệnh lấy gạo từ kho riêng ra để phân phát cho họ. Chàng còn xin phép vua
cha chia đất công cho họ cày cấy.
Những
hàng động trên đưa Tháu tử Hoằng đến chỗ chống đối với mẫu hậu. Chàng
tán thành việc thi hành kỷ luật, nhưng phản đối gay gắt những hành vi
tàn ác, tư thù vị kỷ.
Một
hôm Hoằng đến Lạc Dương chơi và khám phá hai người con gái của Triệu
Phi là Nghi Dương và Cao An hiện đang sống cô độc nơi hậu cung. Họ đều
đã luống tuổi mà chưa hề được tính chuyện chồng con. Thật ra họ bị giam
lỏng, không có cách gì đi lấy chồng được.
Thái tử Hoằng đi tìm Võ Hậu nói:
-
Thưa mẹ! Trong sách thánh hiền con gái lớn lên phải đi lấy chồng, sao
con thấy hai chị của con vẫn phải ở độc thân. Họ không thể làm hại triều
đình được đâu, xin mẹ hãy dung tha cho họ đi lầy chồng.
Võ
Hậu không thể từ chối những lý lẽ hợp với nhân đạo này. Tuy nhiên, bà
nghĩ rằng đối xử với hai người như hiện thời cũng đã là dễ dãi rồi. Tất
cả thân quyến của Triệu Phi đều phải bị đày xa xứ, nhưng bà để lại hai
người con ruột của Triệu Phi ở trong cung là để tránh tiếng dị nghị bên
ngoài. Bà trả lời với Thái tử Hoằng là bà nhiều việc quên mất hai người
ấy và hứa sẽ cho họ đi lấy chồng. Sau đó bà đem hai ngườigã cho hai tên
thị vệ. Hàng động này có vẻ bỉ ổi, vì dù sao hai cô gái này cũng là con
ruột của vua Cao Tôn. Võ Hậu làm những việc sai trái như vậy, nhưng bà
lại không muốn con bà đem sự việc ra phán đoán.
Cách một tháng sau, lại một chuyện nữa làm cho Thái tử giận điên người, và vợ chàng cũng rất buồn.
Đó
là vợ Hoàng tử Triết là Đào Phi, một người đàn bà rất hiếu thuận. Mẹ
của Đào Phi là Công Chúa Trường Lạc hay ra vào nội cung và đã mấy lần Võ
Hậu bắt gặp bà cặp kè với Cao Tôn. Võ Hậu giận lắm, nhưng không giết
chỉ đổi hai vợ chồng Công chúa đi xa và cấm lai vãng về triều. Dĩ nhiên
việc này không dính dáng gì đến Đào Phi, nhưng Võ Hậu cũng đem nàng nhốt
vào một căn buồng và sai người ngày ngày đưa cơm cho nàng. Ít lâu sau
người ta phát hiện nàng đã chết trong buồng vì đói khát.
Thái
tử Hoằng biết rõ Võ Hậu đã ra lệnh bỏ đói nàng. Hoàng tử Triết cũng
biết vậy, nhưng không dám đến thăm vợ, hoặc có ý kiến gì. Triết thì muốn
im lặng, nhưng Hoằng nhất định phải nói và chàng đi tìm mẹ để phản đối.
Khi thấy chàng, Võ Hậu đã biết ý, bà giữ vẻ mặt rất nghiêm Thái tử đến trước mặt Hoàng hậu nói:
-
Muôn tâu Mẫu Hậu! Hài nhi trộm nghĩ Mẫu hậu đã viết một cuốn sách tán
dương những người đàn bà đạo đức, vậy mà nay trong nhà mình lại có một
người đàn bà bị bỏ chết đói thì thật là đáng buồn.
Câu
nói như một tiếng sét đánh vào đầu Võ Hậu, làm cho bà giận run lên. Gã
con trai của bà dám nói với bà như vậy sao? Con bà muốn ám chỉ gì đây?
Từ khi bà đuổi cha mẹ Đào Thị đi xa, Đào Thị tỏ ý bất mãn, mấy ngày liền
không mở miệng nói với bà một tiếng, cử chỉ như vậy không đáng tội sao?
Một con dâu dám trái ý với mẹ chồng đâu còn là đạo đức.
Võ Hậu nói với Thái tử Hoằng:
-
Đứa con dâu vô lễ, ta trừng phạt như vậy không đáng hay sao? Còn nó
muốn nhịn đói mà chết để phản đối ta thì đó là quyền của nó. Đừng quên
bổn phận làm con. Đừng lên mặt dạy ta.
Thái tử vẫn bình tỉnh nói:
-
Vậy mà hài nhi tưởng Mẫu Hậu muốn nghe những lời thẳng thắn cởi mở. Nếu
hài nhi không lầm thì tự do phát biểu ý kiến là một trong mười hai điều
mà Mẫu Hậu đã đưa ra để tránh bất công. Hài nhi vào đây chỉ muốn can
ngăn, giúp đỡ Mẫu Hậu.
Võ Hậu ngắt lời, giọng đầy vẻ hăm dọa:
- Đủ rồi, ngươi có thể lui ra.
Muời
tám ngày sau Thái tử Hoằng chết trong một cuộc đi chơi cùng vua cha và
Hoàng hậu. Chàng ăn phải một món ăn khó tiêu nào đó, dù chàng là con
ruột đầu lòng của Võ Hậu.
Thái
tử Hoằng chết làm cho mọi người náo loạn. Ngay tối hôm đó, vua và Hoàng
hậu trở về cung, Cao Tôn thương Hoằng hơn tất cả mọi thứ trên đời. Ông
lẩm bẩm tính những người bị giết trong gia đình: Vương hậu, Triệu Phi,
Bà Công Tước, Sao San, Đào Phi, Lý Trung và bây giờ là Hoằng.
Suốt
đêm đó, Cao Tôn run rẩy bên xác con. Hôm sau, ông không chịu ăn cơm.
Khi mọi người ép vào phòng ăn, ông cũng chỉ ngồi vào bàn chứ không ăn.
Trông ông thật tiều tụy, chỉ đăm đăm nhìn Võ Hậu với vẻ khác lạ.
Võ Hậu nói:
- Bệ hạ đừng buồn rầu thái quá. Nên ăn một chút cho khỏe.
Vua Cao Tôn bất bình, đứng vùng dậy, đưa tay gạt hết các món ăn trên bàn, rồi chỉ mặt Võ Hậu, với giọng nói khàn khàn:
- Chính ngươi đã giết con ta.
Võ Hậu tái mặt. Vua Cao Tôn lẩm bẩm:
-
Ta với ngươi đến đây là hết. Ngươi không thể tha thứ ai trên đời này.
Tại sao ngươi lại bắt mẹ Đào Thị đi xa để ta không được gặp bà. Tại sao
ngươi lại bỏ đói Đào Thị cho chết.
Cao Tôn ngưng một chút rồi tiếp:
-
Tại sao Sao San lại chết? Hãy nói cho ta biết, ngươi đã làm gì nó?
Ngươi giết nó bởi vì nó biết nhiều chuyện của ngươi làm phải không?
Mặt
Võ Hậu bỗng xanh lè trông thật gớm ghiếc. Cao Tôn định đưa tay tát vào
mặt Võ Hậu, nhưng chưa tát đã té xỉu xuống đất, may có Hoàng tử Hiền
chạy đến kịp đỡ lên. Chàng đưa vua vào phòng, nhưng mắt vua vẫn còn đang
toé lửa, hơi thở dồn dập. Võ Hậu bỏ ra ngoài không trở lại thăm Cao
Tôn. Chưa bao giờ trong cung lại xảy ra chuyện như vậy.
Hoàng tử Hiền ở lại săn sóc vua Cao Tôn và đêm đó vua Cao Tôn nói với chàng:
- Ta trao tất cả cho con đó. Ta không muốn làm vua nữa. Ta muốn được yên thân. Sơn hà xã tắc mà làm gì? Hãy để ta yên.
Ngày
hôm sau, Cao Tôn cho gọi một số triều thần vào và tỏ ý nhường ngôi lại
cho Hiền, nhưng mọi người đều can gián. Cao Tôn nghĩ lại và truy phong
cho Hoằng làm Hoàng đế và ra lệnh tổ chức đám tang theo nghi thức của
nhà vua. Lăng Thái tử Hoằng được xây cất rất đồ sộ. Công việc xây cất
rất công phu.
Một năm sau, vợ Hoằng cũng buồn rầu sinh bệnh mà chết.
LỜI BÀN
Tình
mẫu tử là thiêng liêng, trời ban cho con người mối tình đó trong cõi
sống. Không có người mẹ nào lại không thương con, nhưng ở đây tình mẹ
của Võ Hậu lại bị hủy diệt trước tham vọng quyền uy và danh lợi.
Võ
Hậu đã xây dựng danh dự mình trên quyền uy mà quyền uy chỉ là cái địa
vị hão huyền trong cuộc sống, còn bản chất và giá trị con người lại là
phẩm chất cao cả của con người.
Muốn
có danh thơm tiếng tốt không phải chỉ củng cố địa vị, uy quyền, mà phải
chú trọng đến bản chất con người. Dù có quyền uy, địa vị cao đến đâu mà
phẩm chất con người không xứng đáng thì danh vọng không ai kính nể.
Bản
chất con người phải lệ thuộc và xây dựng trên hành động của mình, không
phải che dấu những hành động xấu xa của mình mà trở nên có phẩm chất
tốt. Quan niệm Võ Hậu đi tìm phẩm chất con người đã lầm lạc về ý thức.
Những mâu thuẫn dẫn tới sự xáo trộn ngôi kế vị
Thái
tử Hiền là người thực tế và khôn ngoan hơn Thái tử Hoằng. Rút kinh
nghiệm từ cái chết mờ ám của Hoằngï, chàng muốn tránh xa Võ Hậu, nhất là
không bao giờ chịu ăn cùng mâm với bà. Chàng thường ở Trường An và ít
khi đi Lạc Dương. Võ Hậu có cảm giác thấy sự khác lạ của Hiền và trong
lòng bà ngầm tức giận. Bà đoán rằng trong tương lai phe ngoại thích, họ
Võ sẽ xuống dốc vì tay chàng.
Năm
679, vua Cao Tôn bị một trận đau nặng và Thái tử Hiền được phong làm
Phụ Chính, tức là người cùng nhiếp chính với vua. Chàng tránh đến mức
tối đa việc viếng thăm cha mẹ, vì tình mẹ con giữa chàng và Hoàng hậu đã
bị nứt rạn và chàng không muốn đi vào vết xe đổ của Thái Tử Hoằng.
Từ
ngày lên làm Phụ Chính chàng rất chăm chú vào công việc triều đình, vì
chàng biết vua cha có thể qua đời bất kỳ lúc nào. Chàng đã ở vào tuổi
hai mươi bảy, không còn ngây thơ, khờ dại để kẻ khác có thể lợi dụng
danh nghĩa của chàng để thao túng triều đình.
Ít
lâu sau, chàng nghe trong cung có dư luận đồn rằng chàng là con của bà
Công Tước, chị ruột Võ Hậu. Tin này chắc hẳn do Võ Hậu tung ra với mục
đích mờ ám. Hiền còn nhận được mấy lá thơ của Võ Hậu trách Hiền thiếu
bổn phận làm con. Hiền rất buồn về những chuyện này. Chàng lo lắng không
biết mẹ chàng đang âm mưu gì và số phận chàng sẽ ra sao. Có lẽ chàng
phải tự vệ để giữ gìn thân mình.
Trong
lúc đó, tại Đông Đô, Võ Hậu thường đi lại với tên Đạo sĩ kiêm Tướng số
là Minh Tôn Yên. Bản tánh xưa nay, Võ Hậu vẫn thích Môn Tướng số và thầy
thuốc. Những kẻ bà ưa thích đều được bà cho vào khuê phòng của bà.
Hơn
một tuần nay, Cao Tôn bệnh nằm liệt giường, nên bà không còn sợ vua bắt
quả tang như trước kia nữa. Nhờ sự đi lại thân mật, tên Đạo sĩ đã dò ý
bà và bịa ra những câu nói làm cho bà rất đẹp lòng, nhưng lại làm chia
rẽ thêm tình mẫu tử giữa hai mẹ con Võ Hậu.
Thái tử Hiền rất ghét tướng số, mê tín dị đoan và rất khinh những người đàn bà mê tín.
Mùa
Đông năm 679, đạo sĩ Minh bị giết trên đường từ Lạc Dương đến Trường
An. Đoạn đường này dài hơn một trăm dặm và phải đi ngang qua đèo Đồng
Quang dẫn tới sông Hoàng Hà. Cuộc ám sát xảy ra trên đường đèo và không
bắt được thủ phạm.
Có
thể Hiền nhúng tay vào việc này, mà cũng có thể không. Nhưng giết chết
một tên dùng miệng lưỡi lừa đảo thiên hạ có gì là quan trọng đâu, thế mà
Võ Hậu khi nghe tin này lại nổi trận lôi đình, nghi cho Hiền là thủ
phạm và cho gọi chàng về Lạc Dương.
Trong
khi Hiền về đến Lạc Dương thì Võ Hậu sai người khám xét tư dinh của
chàng tại Trường An và tìm thấy ba trăm món vũ khí trong chuồng ngựa.
Những vũ khí này có thể do Hiền dự trữ khi cần đến, mà cũng có thể do
người khác mang đến vu cho chàng. Thế là Hiền bị ghép vào tội phản loạn,
mặc dù mọi người tự hỏi chàng có thể phản loạn với một số vũ khí như
vậy hay không? Và chàng phản ai? Khi chính chàng là người sắp lên ngôi
kế vị vua cha.
Không
cần xét nguyên do, Hiền bị bắt quả tang tàng trữ vũ khí cũng như Vương
hậu trước đây bị bắt quả tang về cái hình nộm trấn ếm vua chôn dưới chân
giường. Muốn sự việc có chứng cớ, Võ Hậu mua chuộc tên bộ hạ của Hiền
và bảo hắn khai là chính Hiền đã giết đạo sĩ Minh và mưu phản.
Các
Đại thần được họp lại để xét xử hành đông của Hiền và họ đã hùa theo Võ
Hậu để buộc tội Hiền có âm mưu phản nghịch và bị tội tử hình.
Vua
Cao Tôn hay tin rùng mình, kinh ngạc, nghĩ đến số phận của hai người
con trước là Trung và Hoằng. Ông vội vã can thiệp để gỡ tội cho Hiền.
Ông viện lẽ là Hiền đã có công lớn trong khi làm Phụ Chính, không có lý
do nào buộc tội mưu phản. Vả lại một vị Phụ Chánh có thừa thẩm quyền giữ
vũ khí trong nhà và dù chàng có giết tên đạo sĩ thì đã sao?
Dù sao vua cũng có quyền ân xá tội nhân, bác bỏ quyết định của triều thần, giữ quyền quyết định tối hậu.
Thật
là phi lý, khi một Thái Tử đang nhiếp chánh phải đền mạng cho một gã
Đạo sĩ quèn. Giả sử Võ Hậu không có ý trừ khử Hiền vì thấy chàng có khả
năng tự lập thì bà đã không cho lục soát tư dinh và buộc tội chàng.
Kết quả Hiền không bị tội tử hình như ý muốn của Võ Hậu, nhưng Hiền bị truất phế và bị cầm tù. Hoàng Tử Triết lên thay.
Lúc
bấy giờ Võ Hậu còn phong độ lắm. Răng bà còn nguyên và ăn uống ngon
lành lắm, người bà còn tràn trề nhựa sống...tất cả đang chờ đợi bà ngự
trị để hưởng thụ.
Dĩ
nhiên Võ Hậu không quên tìm người kế vị Cao Tôn, nhưng ý muốn của bà là
có nên lập Triết, người con thứ ba lên làm vua hay không? Lúc này Triết
đã được hai mươi tám tuổi. Võ Hậu đắn đo mãi, không biết nên lập con
mình làm vua hay tự mình lên ngôi.
Bà đã chán công việc của người phụ tá. Mẹ vua hay vợ vua cũng chưa thể đem lại cho bà một quyền uy tối thượng.
Quan
Trung Thư Xá Nhân họ Bạch rất ngạc nhiên khi thấy Võ Hậu chần chờ trong
việc lập người kế nghiệp. Theo thông lệ, vua chết phải có người thay
thế trong một hai ngày. Ông vào triều nhắc nhở Võ Hậu, nhưng mãi đến sáu
ngày suy tính kỹ càng, Võ Hậu thấy chưa nên vội vàng chiếm ngôi nên đã
nghe lời quan Thượng Thư lập Thái Tử Triết lên làm vua. Song theo vài
người tiên đoán sẽ có sóng gió trong triều.
Nhưng sự thật không xảy ra sóng gió mà lại xảy ra một cơn lốc rất mạnh.
Chưa đầy hai tháng sau ngày 5/2/681, Triết bị Võ Hậu truất ngôi bỏ vào ngục, sau đó bị chuyển đi xa.
Hình
như giữa Triết và quan Thượng Thư họ Bạch đã có một cuộc đấu khẩu gay
gắt. Triết thì muốn cha vợ làm Thị Trung, một chức vụ cao tột đỉnh trong
triều, còn quan Trung Thư cực lực phản đối, viện cớ rằng cha vợ Triết
chưa từng giữ chức vụ quan trọng, thiếu kinh nghiệm để làm Thị Trung.
Sau cuộc cải vã Triết nói:
- Khanh đừng quên ta là vua. Ta có quyền nhường cả giang sơn cho nhạc phụ ta nếu ta muốn.
Câu
nói trong lúc nóng giận đã là cơ hội tốt để Võ Hậu truất ngôi vua.
Triết như một con nai tơ gặp đồng cỏ xanh nhởn nhơ đùa bỡn, đâu có để ý
đến con cọp cái đang rình rập vồ mồi.
Viên Thị vệ trưởng được gọi vào cung để bố trí một hành động bí mật.
Sáng
ngày mồng năm tháng hai năm 684, khắp cung điện đều có lính canh phòng
rấùt nghiêm. Triều thần không ai hiểu chuyện gì, vẫn vào chầu như thường
lệ. Đến gần giờ lâm trào mọi người đều ngạc nhiên khi thấy Võ Hậu xuất
hiện, dẫn theo vị vua trẻ tuổi.
Triết
vừa định bước lên ngôi thì quan Trung Thư kéo lại và rút trong tay áo
ra một tờ chiếu. Sau đó ông dõng dạc đọc cho mọi người nghe. Lúc đó quần
thần mới biết Võ Hậu giáng Triết xuống làm Lư Lăng Vương và giam chàng
trong cung. Một tên đội trưỡng Thị vệ tiến tới bắt Triết.
Quá tức giận, Triết la lớn:
- Buông ta ra! Ta có tội gì?
Võ Hậu lạnh lùng nói:
-Tội gì ư? Tội của ngươi là dám tính chuyện đem giang sơn đặt vào tay cha vợ.
Trong lúc tức giận người ta có thể nói những câu thiếu suy nghĩ. Chàng cố gắng biện hộ, nhưng không ích gì.
Sau
năm mươi bốn ngày làm vua, Triết bị lính dẫn đi một cách nhục nhã trước
mặt quần thần. Chàng vừa bàng hoàng vừa tức giận. Một vị vua lại có thể
đối xử như vậy sao?
Triết
bị tạm thời giam giữ trong cung, một tháng sau chàng được đưa ra Phong
Châu. Cha vợ chàng và gia quyến cũng bị đày xuống phía Nam.
Ba
tháng đầu năm 684 là thời kỳ biến động nhiều nhất. Quần chúng chưa hết
xúc động về chuyện nọ, Võ Hậu đã dồn đến chuyện kia. Trong một bài hịch
Lạc Tấn Vương có nhắc đến chuyện này và kết tội Võ Hậu như sau:
"Mồ cha chưa khô, những người con côi đã bị bạc đãi."
Thực
ra mộ của Cao Tôn chưa bắt đầu xây, trong khi đó Hiền vẫn bị quản thúc
tại Tứ Xuyên, và chàng đã xa gia đình hơn ba năm. Vì có tài, chàng được
Võ Hậu kiêng dè, sợ chàng có thể nổi loạn, hay đứng ra làm trọng tâm cho
cuộc khởi nghĩa, hoặc tìm cách liên hệ với Triết. Bà quyết định hành
động trước để trừ hậu hoạ.
Ba
ngày sau khi phế Triết, Võ Hậu sai một tên đội trưởng Thị vệ đến Tứ
Xuyên để bảo vệ an ninh cho Hiền. Khi đến nơi tên này nhốt Hiền vào
trong một căn buồng kín, rồi buộc chàng tự treo cổ. Trước khi chết,
chàng viết một bài ca nhan đề: " Bài ca của cây dưa chuột "
Bài thơ ấy còn lưu truyền đến ngày nay:
Cây dưa chuột sống nơi lầu ngọc
Trái đã già đem bọc hái chơi.
Một lần hái, cây còn tươi,
Hai lần, cây héo còn vài lá xanh
Ba lần, cây yếu mong manh,
Bốn lần, hết trái biến thành cây khô.
Hiển nhiên bài ca ám chỉ cái chết của Trung, Hoằng và sự tù đày của Triết, Đán.
Khi
tin Hiền tự sát về đến Kinh Đô,Võ Hậu tổ chức một lễ cầu siêu rất trọng
thể và ra lệnh cho cả nước để tang. Bà qui tất cả tội lỗi cho tên Đội
trưởng Thị vệ. Bà bảo nó đã lơ là trong nhiệm vụ nên Hiền mới tự sát
được. Bà giáng chức và đổi nó đi xa, nhưng chỉ nửa năm sau, Võ Hậu cho
gọi nó về và phục chức như cũ. Lúc đó mọi người mới vỡ lẽ.
Giờ đây quyền hành đã hoàn toàn nằm trong tay Võ Hậu, bà tha hồ tác yêu tác quái để thoả mãn ý thích riêng tư.
Những
kẻ vô trách nhiệm không còn nghĩ đến cơ nghiệp nhà Đường đều rất hoan
nghênh chủ trương hưởng thụ tối đa của bà. Bà hành động tham lam, vội vã
như một tên tướng cuớp, bỗng dưng trở thành triệu phú.
Võ
Hậu rất tin tưởng những lời chúc tụng và những từ ngữ có vẻ thiêng
liêng. Bà tưởng tượng lời chúc tụng là hình thức cầu nguyện và đã cầu
thì các bậc linh thiêng sẽ chứng giám.
Bà đổi tên Lạc Dương ra Thành Đô, nơi ở của Thượng Đế. Quốc kỳ cũng được đổi ra màu vàng và màu đỏ trông có vẻ tân kỳ.
Với
việc làm đó, Võ Hậu cỏ vẻ đắc ý lắm. Bà đã thật sự làm vua và cần phải
có thê thiếp để hầu hạ như ai. Vấn đề đặt ra là thê thiếp của bà sẽ là
đàn bà hay đàn ông?
Ngẫu
nhiên sự việc này đưa đến nhà sư điên được sủng ái và làm lũng đoạn
triều đình. Cuối cùng Võ Hậu nổi tiếng về mặt dâm đãng hơn là mặt chính
trị, trái hẳn với điều bà mơ ước.
Nhà
sư điên tên là Hoài Nghĩa. Thực ra ông ta không phải là sư, mà cũng
không có tên đẹp như vậy. Ông ta nguyên là một tên mãi võ, bán thuốc dạo
trong thành Lạc Dương, thường biểu diễn sức mạnh và quyền cước để lôi
kéo đám dân ngu mua thuốc cao, thuốc tễ. Với thân hình cao lớn, lực
lưỡng, gã này thích biểu diễn trần truồng để khoe thân thể của mình và
có tài làm cho đàn bà điên đảo. Qua sự giới thiệu của một tên thị vệ, gã
được gặp công chúa Tiền Kim, rồi công chúa Thái Bình. Sau khi biết rõ
tài năng của gã, công chúa Thái Bình ân cần giới thiệu lại cho mẹ. Võ
Hậu rất mừng, cho đòi gã vào ngay. Gã tên thật là Phong, nhưng mọi người
thường gọi là Bé Cưng, mặc dù gã chẳng bé chút nào. Về sau tên gã được
đổi thành Hoài Nghĩa cho đỡ chướng. Hai mẹ con Võ Hậu cùng nhau hưởng
thụ thú vui xác thịt với tên sư hổ mang này, cũng như họ cùng nhau mưu
đồ những việc bất chính.
Võ
Hậu cảm thấy mình hoàn toàn lệ thuộc vào tên mãi võ. Bà không sống nổi
nếu thiếu gã. Bà phải làm ngơ trước hành động ngang ngược của gã để
chiều chuộng gã.
Bao
nhiêu nghị lực chế ngự tình cảm, bao nhiêu cứng rắn nghiêm khắc trong
lãnh vực chính trị của bà biến đi đâu mất, để nhường cho quỵ lụy đam
mê...
Hay
cũng có thể Võ Hậu quan niệm ngược lại là các cuộc truy hoan là một
phần trong đời sống xa hoa của các vị Đế vương, mà nay bà phải tìm nó để
hưởng thụ. Thêm vào đó, bà lại nghe theo lời dẫn dụ, mê hoặc của nhà sư
điên và đi đến chỗ tin tưởng rằng tất cả quần chúng đều coi bà là hiện
thân của một vị Phật. Bà cho xây Điện Thiên Đường cao hơn một trăm thước
ở phía sau điện Thái Hòa cho tên mãi võ ở đó làm Sư trưởng. Trong suốt
thời gian gần gũi với nhà sư, Võ Hậu luôn luôn ám ảnh với tư tưởng vừa
thấp hèn nhuốm mùi xác thịt trần tục, vừa cao cả đượm màu siêu thoát. Bà
tự tin mãnh liệt là đức Phật tái sinh xuống trần để phán xét người ngay
kẻ gian, ai tin ở bà là ngay, ai không tin bà là gian. Chính bà cũng
tin tưởng rằng hình ảnh của Phật đã giúp triều đại bà thành công.
Tự
tin ở uy thế đối với Võ Hậu, sư Hoài Nghĩa không cần thay đổi cách ăn
mặc lôi thôi cũ. Gã có vẽ nghênh ngang tự đắc và thường là mối đe dọa
đối với dân chúng tại Kinh Đô. Mỗi khi đi dạo trong thành gã thường chễm
chệ trên lưng ngựa, có quân hầu đi mở đường. Vô phúc cho ai không tránh
kịp chắc chắn sẽ lãnh vài ngọn roi sắt vào đầu. Có lần gã đánh một vị
quan biện lý ngay giữa phố vì ông này từng buộc tội gã. Để lấy lòng gã,
hai người cháu của Võ Hậu là Thừa Tự và Tam Tư thường bợ đỡ gã một cách
hèn hạ, giữ ngựa để cho gã leo lên hay bước xuống.
Có
một lần, gã sư hổ mang vào cửa hoàng cung bằng cửa Đoan Võ, là cửa dành
riêng cho Vương hầu và các công thần. Quan Thị Trung họ Tô là một vị
Quốc công tuổi cao chức trọng, thấy thế bước ra nhưng gã vẫn tảng lờ như
không thấy, cứ tiếp tục tiến vào.
Quan Thị Trung nổi giận nói lớn:
- Sao ngươi dám vào đây tên đầu trọc kia? Ngươi vào đây làm gì?
Gã sư trợn mắt nhìn ông, rồi bằng một điệu rất hài hước khoa tay múa chân và thách thức:
- Muốn chơi nhau chăng?
Giọng
gã sặc mùi dao búa của bọn lưu manh. Nhưng khôi hài hơn nữa, chiều hôm
đó gã mang một bộ mặt sưng húp đi kiếm Võ Hậu để mách là quan Thị Trung
đã sai cận vệ tống cổ gã ra ngoài và một cuộc ấu đả đã xảy ra. Sau khi
chế ngự được gã, bọn cận vệ không quên tặng gã mấy chục bạt tai.
Nghe chuyện này, Võ Hậu phá ra cười:
- Sao ái khanh lại đi lối đó? Lần sau ái khanh nhớ đi cửa phía Bắc.
Võ Hậu rất khôn ngoan, không đả động đến quan Thị Trung họ Tô, vì bà sợ làm lớn chuyện chỉ mang tiếng thêm.
Vì
Võ Hậu không muốn Hoài Nghĩa bỏ bà trong cung một mình, hơn nữa bà sợ
gã ra ngoài nhiều sẽ làm lộ chuyện, bà giao cho hắn công tác xây cất
cung điện, trông nom vườn Thượng Uyển.
Theo
tục lệ cổ truyền, chỉ có đàn bà hay hoạn quan thì mới được ra vào nội
cung, nay thấy Hoài Nghĩa ra vào nơi khu vực đàn bà, mọi người đều xầm
xì bàn tán. Tuy gã là sư nhưng chưa hoạn.
Vương
Châu Lập thấy gai mắt bèn dâng sớ xin thiến Hoài Nghĩa nếu gã còn tiếp
tục hiện diện trong nội cung. Làm như vậy để bảo vệ tiết hạnh cho các
Thị nữ và Công nương.
Võ Hậu khi xem sớ cười ngất và nghĩ thầm:
-Vị quan này quả có óc khôi hài.
Một lần nữa, Võ Hậu lại có óc khôn ngoan ém nhẹm tờ sớ để mọi việc dần dần chìm vào quên lãng.
LỜI BÀN
Lời xưa nói: Túi tham con người không có đáy.
Khi con người đã có lòng tham thì không bao giờ thỏa mãn lòng tham, dù đã đạt được những gì đã có hơn kẻ khác.
Võ
Hậu, đã là vợ vua, làm mẹ vua, uy quyền gồm thâu trong tay không còn gì
thiếu thốn, thế mà lòng bà vẫn thấy chưa đủ. Tham vọng hưởng thụ từ uy
quyền đến hưởng thụ vật chất của xác thịt lúc nào cũng đòi hỏi.
Lòng
tham vọng thường đi đôi với âm mưu tranh đoạt, mà muốn tranh đoạt tất
phải sát phạt đến nỗi đi dần đến hành động dã man. Nhưng hành động dã
man đến đâu cũng không vượt quá sức mình, nên phải viện trợ đến sự giúp
đỡ của thần thánh, rồi vì lẽ đó mà ngã vào con đường mê tín, dị đoan.
Kế
hoạch trị nước, an dân phải dựa vào khoa học tự nhiên để vạch ra những
đường lối cai trị, thì Võ Hậu lại tin vào phù phép của linh thiêng, phải
chăng ý thức tham lam cũng vượt qua cuộc sống bình thường nên không còn
kỳ vọng nữa.
Trong
cuộc sống bình thường, những kẻ bất tài mà ham hưởng thụ, thường dựa
vào mê tín mà cầu xin. Chính những kẻ mê tín là những người bất lực
trong cuộc sống lại ham hưởng thụ cá nhân một cách mạnh mẽ.
Những cuộc phản ứng trong dân gian
Tất cả những người lưu tâm đến thời cuộc đều trải qua một cơn xúc động trước những biến cố trong mấy tháng vừa qua.
Võ
Hậu đã tự ý chuyên quyền, hết truất ngôi anh thì đến giam giữ em. Người
ta thầm thì hỏi nhau chẳng biết người đàn bà góa bụa kia đang mưu toan
việc gì? Dân chúng đều ngã về phe Triết và Đán, vì hai người này là cháu
nội của vị vua vĩ đại Thái Tôn, ông vua đã xây nên sự nghiệp nhà Đường.
Nếu
Võ Hậu khôn ngoan thì từ bỏ ý thức xâm phạm vào dấu Thái Miếu nhà
Đường, đàng này Võ Hậu lại bắt đầu thiết lập những nơi thờ phượng dòng
họ Võ tại Lạc Dương. Các chức vụ quan trọng đều do con cháu họ Võ nắm
giữ, trong khi các vương tước nhà Đường đều dần dần bị tước hết quyền
hành.
Võ
Hậu có tất cả mười bốn người cháu kể cả Võ Thừa Tự và Võ Tam Tư. Thừa
Tự là người nhiều tham vọng và thích hoạt động nhất. Tuy chỉ là một
chính trị gia nửa mùa, ít học thô bỉ, tối mắt trước danh lợi, nhưng Thừa
Tự vẫn được phong làm quan Thị Trung vào tháng 5 năm 684. Nhưng chỉ
trong vòng nửa tháng sau, Võ Hậu không chịu nổi sự vụng về, ngu xuẩn của
gã nên phải cách chức.
Lúc
bấy giờ dân chúng thường thấy nhà sư Hoài Nghĩa là kẻ bám đuôi Võ Hậu
để ăn theo, còn Thừa Tự và Tam Tư thì bám đuôi nhà sư Hoài Nghĩa để
nương cậy thế lực. Các đám quan lại trong triều thì bám đuôi con cháu họ
Võ để mưu quyền lợi. Võ Hậu là người lạm quyền thái quá đã biến triều
đình thành một lũ bù nhìn. Bọn họ Võ kiêu căng và lố bịch như vậy mà Võ
Hậu vẫn dùng trong các chức vụ quan trọng, mục đích là để lật đổ cơ
nghiệp nhà Đường.
Điều
làm cho mọi người bất bình nhất là Thừa Tự trù tính xây thêm miếu thờ
họ Võ tại Đông Đô, tuy đền thờ họ Võ đã có rất nhiều tại Tràng An. Những
miếu thờ mới xây theo kiểu Hoàng gia. Võ Hậu muốn nâng tất cả ông bà
ông vải họ Võ từ năm đời trước lên hàng vương tước.
Mọi
người thấy vậy đều xôn xao, bàn tán. Hiển nhiên Võ Hậu đang dụng tâm
cướp ngôi. Vì nhớ ơn vua Đường Thái Tôn mọi người đều phẫn nộ và quyết
định hành động. Nhưng chưa biết ai là người khởi xướng. Hai vị Hoàng tử
trẻ tuổi là Triết và Đán đã bị giam giữ và tước hết quyền. Các Vương
tước nhà Đường cũng đã phân tán đi các nơi và đang sống trong lo âu chờ
đợi sự bất hạnh xảy đến. Chỉ còn lại đám người trí thức. Vậy những người
trí thức phải ra gánh lấy trách nhiệm đánh đổ thế lực phản động đó.
Người
đầu tiên phất cờ khởi nghĩa là Từ Kỉnh Nghiệp, chàng là cháu nội của
Quốc Công Lý Tích, người đã đứng ra điều khiển lễ tấn phong Võ Hậu ngày
trước.
Kỉnh
Nghiệp cùng với một nhóm nho sĩ khác họp nhau tại Dương Châu để bàn
định kế hoạch. Họ đã dùng mưu cướp được Thành Dương Châu và khởi nghĩa
với đám binh lính trong thành. Họ suy tôn một người trông giống Thái Tử
Hiền, viện cớ là Thái Tử Hiền chưa chết và đang mưu đồ đánh đuổi kẻ soán
nghịch.
Chính
nghĩa của họ được hưởng ứng và cuộc khởi nghĩa hy vọng thành công.
Trong vòng nửa tháng, họ tuyên bố đã chiêu nạp được mười vạn binh lính.
Trước
khi động binh, Kỉnh Nghiệp sai Lạc Tấn viết một bài hịch truyền đi khắp
nơi. Bài hịch này làm cho dân chúng ở Kinh đô xúc động còn hơn khi họ
nghe tin Kỉnh Nghiệp khởi nghĩa. Bài hịch không những có giá trị về mặt
văn chương mà nói lên được tất cả những điều mà mọi người hằng ấp ủ
trong lòng họ hoặc lâu nay chỉ dám thì thầm trong những nơi kín đáo.
Bài hịch như sau:
“Kẻ
soán ngôi là một người đàn bà đồi trụy, họ Võ xuất thân từ một gia đình
tầm thường. Trước khi nó được đưa vào cung chỉ để giữ quần áo cho vua
Thái Tôn, nhưng rồi nó bị đuổi vì bỉ ổi làm hoen ố trong cung. Sau đó nó
tìm cách quyến rũ Cao Tôn mặc dù nó đã từng kề cận vua cha. Nó làm nhơ
danh Hoàng tộc vì những vụ ghen tương vô lối và những mánh khoé hèn hạ
để mê hoặc vua. Nó đã bôi nhọ hình ảnh của chim phượng hoàng, biểu hiện
một vị Hoàng hậu đoan trang và dụ vua vào đường loạn luân.
Với
lòng dạ thâm độc như rắn rết và tàn ác như muông thú, nó trừ khử những
hiền thần để thay vào đó một bọn tham quan ô lại. Nó đã đầu độc chị ruột
và giết hai người anh cùng cha khác mẹ. Nó đã ám sát vua và đầu độc mẹ
ruột. Những hành động đó trái với thiên luân và đi ngược với sự an bài
của tạo hóa.
Giờ
đây thì theo đuổi một mục đích ghê gớm. Nó đang dòm ngó ngôi Thiên tử,
giam cầm con yêu của vua và đưa bọn lưu manh lên cầm quyền. Hiển nhiên
nó đang lật đổ nhà Đường.
Nay,
Kỉnh Nghiệp tôi nhận thấy mình là bề tôi của nhà Đường và là con cháu
của một vị Quốc công, có bổn phận phải nhớ ơn tiên đế khôi phục nhà
Đường, đáp lại lòng mong đợi của toàn dân, tôi mạo muội đứng ra phất cờ
khởi nghĩa, trừ hết lũ gian tà, quét sạch bờ cõi. Bánh xe lịch sử sẽ lăn
và tiếng vó ngựa vang rền từ nam chí bắc. Chính nghĩa quân ta sáng
ngời, uy lực quân ta còn sức mạnh nào ngăn nổi.
Hỡi
toàn thể đồng bào: Hãy vùng lên. Chúng ta là con dân đất nước này,
không ít thì nhiều đều liên hệ đến triều đại hiện tại. Chúng ta hãy đáp
lại tiếng gọi của người trước còn văng vẳng bên tai. Chúng ta hãy nhìn
cảnh đau thương của các vị Hoàng đế, mồ cha chưa khô những người con côi
đã bị bạc đãi. Những người có tâm huyết hãy đứng dậy nắm lấy thời cơ,
xoay chuyển tình thế, làm hậu thuẫn cho những người đang sống để đền ơn
những người đã khuất.
Tôi
xin thề với non sông là những ai tình nguyện gia nhập đoàn quân khởi
nghĩa sẽ được đền bù xứng đáng. Hãy nhìn xung quanh chúng ta một lần nữa
và tự hỏi đất nước này thuộc về ai?"
Khi đọc bài hịch này, Võ Hậu cũng tấm tắc khen:
- Một văn tài như vậy mà bị bỏ quên. Thật đáng tiếc!
Nhưng
điều đáng tiếc hơn là những người cầm đầu cuộc khởi nghĩa đều là nho
sĩ, chưa từng cầm quân đánh giặc, nên chưa rành chiến lược trong binh
thư. Đáng lẽ họ kéo quân thẳng vào Thành đô thì dọc đường các quận huyện
đem quân gia nhập vào thành một lực lượng hùng hậu, nhưng Kỉnh Nghiệp
lại chọn kế hoạch lập chiến lũy tại Nam Kinh để phòng thủ chớ không chịu
đánh ngay. Ông đã mất yếu tố tâm lý và lỡ cơ hội thành công. Dân chúng
ngã lòng vì điều mong đợi của họ đâu phải là lập thêm một chính phủ tại
Nam Kinh Đô để trường kỳ kháng chiến.
Võ
Hậu sai Lý Thừa Nghiệp đem quân đến Dương Tử Giang, bọc theo chân đồi
để đối phó. Tuy nhiên, Võõ Hậu còn đề phòng Thừa Nghiệp làm phản nên sai
Trương Tể đi theo giám sát.
Quân hai bên chiến đấu giằng co ở hai bên bờ sông hoàøn toàn bị lau sậy bao phủ.
Cuối
cùng, tình thế đã đưa quân khởi nghĩa đến thất vọng, vì nhân có gió
ngược, Thừa Nghiệp đã dùng lửa đốt bờ lau, làm cho quân của Kỉnh Nghiệp
bị cháy, kéo nhau chạy dài.
Thất
vọng trước tình thế, Kỉnh Nghiệp quyết định tìm thuyền trốn sang Cao
Ly, nhưng chưa kịp thì bị bọn thuộc hạ ám sát, các bạn ông cũng bị bắt
hết. Riêng Lạc Tấn Vương bỗng dưng mất tích, về sau không thấy nói tới
ông nữa.
Thế
là hai mươi lăm chiếc đầu của các nho sĩ trong cuộc khởi nghĩa bị bêu
trước cổng thành Lạc Dương. Võ Hậu không những đem tru di gia quyền các
người cầm đầu, mà còn kết tội cả Lý Tích, người đã nằm yên trong lòng
đất mà cũng là vị Quốc công làm lễ tấn phong cho bà thuở trước. Bà thản
nhiên ra lệnh quật mồ và đem hài cốt ông bằm nát để linh hồn ông không
có chỗ nương tựa. Hành động tàn nhẫn này vừa để thỏa mãn tư thù, vừa để
dằn mặt quần thần.
Cuộc
phiến loạn còn là một dịp tốt để các phe phái hại nhau. Võ Thừa Tự rất
ghét quan Trung Thư họ Bạch, vì ông này thường cản trở công việc làm của
Thừa Tự, do đó nhân cơ hội này Thừa Tự ghép ông ta có liên quan đến vụ
phản loạn. Thực ra quan Trung Thư họ Bạch không hề dính líu đến vụ này.
Sau
khi giết quan Trung Thư họ Bạch, Võ Hậu lại ra lệnh giết luôn hai vị
tướng khác là Vương Phương Nghi và Trịnh Võ Đinh vì hai ông này quen
biết với gia đình kẻ phiến loạn.
Cuộc khởi nghĩa đã bị dẹp tan. Giờ đây Võ Hậu ngồi ung dung trong điện, tán thưởng chiến thắng của mình.
Bà nói với quần thần bằng giọng tự thị:
- Các khanh thấy ta đã hết sức với xã tắc chưa?
Các quan đồng thanh nói:
- Tâu lệnh bà, đúng vậy:
Võ Hậu tiếp:
-
Trong hai mươi năm qua ta đã cực khổ gánh vác công việc của Cao Tôn,
không lúc nào được rảnh rỗi. Ta đã cho các khanh chức vị và quyền hành,
ta đã đem hòa bình, an lạc cho bờ cõi, thế mà lại có những quan cao,
tướng giỏi hùa theo bọn phản loạn mà chống lại ta. Trong các khanh có ai
đủ can đảm làm việc đó thì cứ làm, nếu không thì nên ngoan ngoãn nghe
theo lời ta cho an thân, khỏi lo tai nạn.
Mọi người đều im lặng, không ai dám ngước mặt lên.
LỜI BÀN
Trong
luật thiên nhiên, cái gì tiến tới cực đoan thì cũng phải bị tiêu diệt
để trở về với trạng thái hòa đồng. Một đất nước mà lòng dân bị ly tán
thì loạn lạc xảy ra để tìm con đường hòa hợp, xây dựng cuộc sống, bảo
tồn lẫn nhau.
Võ
Hậu tuy mạnh về thế lực, nhưng ngược lại vì thế lực ấy mà làm chi phối
lòng người. Lòng người là nền tảng, là sức mạnh của sinh tồn, chỉ có
những gì trái lòng người thì mới bị huỷ diệt mà thôi.
Qua
một thời gian tranh quyền đoạt lợi để hưởng thụ, tất nhiên Võ Hậu phải
thấy được chỗ suy yếu của hành động mình. Kẻ làm chính trị không thể chỉ
nhìn vào uy quyền nhất thời mà không thấy mọi diễn biến sâu xa trong
cuộc sống xã hội.
Những bài học của người thời xưa rất quí báu.
Lấy bạo lực chế ngự sức mạnh
Một
cuộc bạo loạn bùng nổ rồi tắt ngấm làm hài lòng Võ Hậu không ít. Sự
việc nầy làm cho bà khinh thường lực lượng đối kháng trong dân chúng.
Tuy vậy, nó cũng nhắc nhở cho bà biết mọi áp lực đều có phản ứng, phải
đề phòng và tiêu diệt lực lượng ấy. Bà khám phá ra rằng chính sách của
bà không được quần chúng tán thưởng, càng phải kiểm soát chặt chẽ hơn và
làm câm miệng tất cả những ai dám chống đối bà.
Nhưng
trong lúc hoạch định kế sách đối phó, bà có vẽ nghi ngờ kế sách mới có
vẻ tàn bạo hơn. Bà cần phải thay đổi hẳn bầu không khí chính trị, cải tổ
và siết chặt tổ chức chính quyền và biến quần thần thành bộ máy sai
khiến có hiệu quả hơn nữa. Có lẽ bà phải dùng uy quyền để tạo ra uy
quyền. Những chiếc đầu rơi sẽ làm cho mọi người lạnh mình, chột dạ.
Lấy
uy quyền tạo ra uy quyền bà phải dùng một số tay sai nòng cốt thật tàn
ác, không cần phải học thức và một hệ thống mật thám đắc lực để tóm cổ
ngay những kẻ có ý thức chống đối.
Bà
sẽ cố ý tạo ra một bầu không khí luôn luôn khẩn trương vì bị đe dọa bởi
các cuộc khởi nghĩa, tức là lấy sức mạnh để đối phó với sức mạnh. Như
vậy các hành động của bà phải được sắp đặt cẩn thận và có mục đích hẳn
hoi. Nếu thực hiện được, chắc chắn bà sẽ thành công.
Tháng
ba năm 685, hệ thống mật thám bắt đầu họat động bằng cách thiết lập
những thùng thư tại khắp mọi nơi ở các cấp chính quyền. Thùng thư này có
bốn ngăn gắn liền nhau. Mỗi ngăn có một khe hở phía trên nắp để những
điểm chỉ viên bỏ thư vào.
Bất
cứ ai, dù một anh lao động hay một tên trộm cướp, muốn tố cáo những kẻ
có hành vi hay lời nói phương hại đến triều đình, đều có thể bỏ thư mà
không e ngại điều gì.
Theo
tinh thần chiếu chỉ của Võ Hậu thì việc thiết lập thùng thư này mục
đích gom góp ý kiến của dân chúng đạo đạt thẳng lên chính quyền để công
lý được soi sáng mọi nơi.
Thực
ra mọi việc không đơn giản như vậy. Mục đích ngấm ngầm của Võ Hậu là
dùng những thùng thơ để kiếm cớ buộc tội những người bà không ưa. Các
nịnh thần có thể sai thuộc hạ bỏ thư vu khống để chúng có cớ tra tấn
những người vô tội.
Thùng
thư trở thành một hình ảnh khủng khiếp đối với bản thân các quan lại và
dân chúng, cũng như đối với gia đình họ. Mọi người có thể làm mật thám
đắc lực cho triều đình. Hàng xóm có thể trả thù nhau, trộm cướp kết tội
quan toà, bạn bè hại nhau, làm cho cuộc sống trong xã hội xáo trộn đến
rợn người. Chưa từng có một hệ thống mật thám nào vĩ đại như vậy trong
dân gian.
Tâm
nguyện duy nhất của những người bình thường là được sống. Còn đối với
những kẻ gian manh thì vui mừng được cơ hội để tiến thân, chúng có thể
đưa bạn bè thân thích đến cầu vinh một cách dễ dàng. Chưa bao giờ nền
luân lý quốc gia lại sa sút như vậy. Giá trị con người không bằng hạt
cát. Người ta tranh nhau giành giật sự sống.
Đồng
thời với việc thiết lập thùng thư, Võ Hậu còn ra lệnh cho tất cả các
quan viên tại các Châu, Quận phải nghiêm chỉnh tiếp nhận những lời tố
cáo của mọi người, kể cả tù phạm, để kịp thời khám phá các âm mưu phản
loạn. Các quan viên nào không tiếp nhận ý kiến của họ sẽ bị ghép vào tội
che chở phiến loạn.
Còn
các mật báo viên nếu muốn sẽ được phép đi thẳng đến Kinh đô để gặp Võ
Hậu. Trong khi đi đường được cung cấp nơi ăn, chốn ở như một vị quan ngũ
phẩm. Khi tới Kinh đô bọn này sẽ được Võ Hậu đích thân tiếp kiến.
Do
đó, những tên ăn nói lanh lợi, mặt mày hung ác từng vào tù ra khám,
hoặc những kẻ nham hiểm, mưu mô có thể dùng làm tay chân đắc lực đều
được Võ Hậu ban thưởng và phong làm pháp quan hoặc mật thám lưu động.
Còn những tên nào đưa tin bậy bạ, hoặc không lanh lợi cũng không bị
trách phạt. Võ Hậu không bao giờ muốn làm nản lòng các mật báo viên.
Phong
trào điềm chỉ và vu khống trở nên sôi động và lôi cuốn rất nhiều kẻ ăn
không ngồi rồi và những bọn đầu trộm đuôi cướp có dịp may trở thành một
nghề có thể trở nên giàu có và được ngôi vị chỉ bằng một vài cử chỉ lợi
dụng đúng thời cơ. Chúng kết bè, kết đảng thành một bọn có tai mắt khắp
nơi. Chúng đua nhau thi hành những thủ đoạn tàn ác để lập công. Chúng
bắt bớ làm tội nhiều người để tỏ ra trung thành với Võ Hậu.
Trong đám đao phủ ấy có ba tên lợi hại và thế lực nhất là: Sở Vọng Lợi, Lai Tuấn Trân và Châu Trân.
Họ
Sở xuất thân từ một bộ lạc man rợ, thuộc giống rợ Hồ. Trước khi làm
điểm chỉ, hắn chẳng có tiếng tăm gì. Họ Lai là tên lợi hại nhất nhưng ít
nổi tiếng nhất. Hắn đang ngồi tù vì tội ăn cướp, bỗng xin ra để làm mật
báo và được Võ Hậu trọng dụng. Họ Châu căn bản có nghề nghiệp vững
vàng. Hắn từng học luật và làm quan đến tam phẩm. Ngoài ra phải kể đến
hai người họ Hầu và họ Vương là hai tên bán bánh bao mù chữ. Khi làm
quan xử án, mọi người phải cố nhịn cười trước những cử chỉ khôi hài và
lời lẽ tục tằn của hắn. Vương là một tên mõ làng, bị gia đình coi như
một con chó ghẻ, nay ra làm quan nhờ có công mật báo một đám phiến loạn,
nhưng thực ra đây chỉ là một đám dân làng họp nhau để ăn uống, vui
chơi.
Ba tên Lai, Sở, Châu trở thành những cơ quan truy tố và xử phạt đặc biệt của chế độ thù nghịch thời bấy giờ.
Sở
được phong làm Khâm Sai Đại thần và trùm mật thám, có quyền tiền trảm
hậu tấu. Lai được phong làm Phó Đô Ngự Sử và Châu giữ chức Phó Thượng
Thư bộ Hình, rồi sau đó thăng lên chứ Bộc Xa, tức là Phó Thừa Tướng.
Nhưng được mấy tháng thì chết. Những tên này được nhắc đến như những
hung thần. Người ta kể rằng nhà nào được bộ hạ của chúng đến viếng thì
trong vòng một tháng thì chủ nhà sẽ bị tận số, gia quyến bị bán làm nô
lệ, nhà cửa bị phá tan hoang. Nói tóm lại, nạn nhân trong chế độ trù ếm
này phần nhiều là những vị quan chức đời Đường bị chết về tay họ Châu.
Riêng
họ Lai hoành hành lâu nhất. Sau khi Võ Hậu cướp ngôi Lai vẫn còn tiếp
tục hoạt động và nắm quyền sinh sát bá quan trong tay, khiến mọi người
đều sợ hãi cho đến khi hắn bị chết, mọi người mới thở phào ra như thoát
khỏi một giấc ác mộng.
Có lần Võ Hậu hỏi các quan:
- Tại sao các khanh sợ họ Lai quá vậy?
Các quan đáp:
-
Tâu lệnh bà! Nếu chúng tôi phạm pháp thì chỉ riêng chúng tôi phạm tội,
nhưng nếu trái ý họ Lai thì toàn gia chúng tôi sẽ bị tru diệt.
Nói
đến hành động tàn ác của những tên này phải nói đến việc tra tấn của họ
Sở. Dựa vào bầu không khí căng thẳng sau cuộc khởi nghĩa của Kỉnh
Nghiệp, họ Sở tha hồ bắt bớ và tra tấn người một cách dã man chưa từng
thấy.
Hắn
thường dùng một chiếc đai sắt niền vào đầu phạm nhân rồi chèn thêm
những chiếc nêm siết chặt lại cho đến nứt sọ, nếu kẻ nào không chịu nhận
lời vu cáo.
Cách
tra tấn thứ hai là bắt phạm nhân nằm thẳng rồi treo một tảng đá phía
trên đầu, sau đó hắn cho tảng đá gõ vào đầu phạm nhân, nặng nhẹ tuỳ theo
trạng thái tinh thần của từng người.
Cách
tra tấn thứ ba là trói phạm nhân rồi treo ngược lên chúc đầu xuống đất,
buộc phạm nhân khai bừa những người khác để có thêm tòng phạm.
Kết quả hắn rất được Võ Hậu tin cậy. Về sau họ Lai và Châu cũng bắt chước phương pháp tra tấn của hắn.
Hệ thống tư pháp trong thời kỳ này hoàn toàn tan rã...
Phạm
nhân có thể bị giết rồi báo cáo sau. Điều đáng sợ nhất là truy tố và
xét xử đều do một người hay một cơ quan đảm nhận, một khi bị bắt chắc
chắn nạn nhân có tội. Thêm vào đó hình phạt luôn luôn liên can đến gia
đình của nạn nhân.
Tuy
nhiên, giữa lúc nền văn minh đang bị thoái hóa, giá trị con người giảm
sút thậm tệ như vậy, vẫn có những nhân vật can đảm đứng ra tranh đấu để
hoặc bị giết, hoặc phá vỡ chế độ man rợ của những tên quan tòa man rợ
đó.
Trước hết phải kể đến quan Thị Lang Lưu Vệ Chi.
Người
ta kể rằng khi nói chuyện với bạn bè quan Thị Lang đã tuyên bố Võ Hậu
nên trả ngôi lại cho con cái và ông bị truy tố. Ông từ chối đến trình
diện và trát đòi bất hợp pháp, không có con dấu của Môn Hạ Tĩnh. Ông
không chịu rút lại lời nói mặc dù bạn bè đã khuyên ông rất nhiều. Theo
ông: Câu nói Võ Hậu nên trả lại ngôi cho Đán không phải là tội bất
trung. Ông cũng không chịu khai ra những người khác mặc dù họ Lai cố tìm
hết cách.
Ông nói:
- Thượng Đế không cho phép tôi làm một tên điểm chỉ.
Vì
kính trọng ông, Võ Hậu cho phép ông tự treo cổ. Trước khi chết, ông
viết một bức thư tuyệt mệnh gởi cho Võ Hậu, thẳng thắn binh vực lý lẽ
của ông. Sau đó ông dùng một bữa cơm cuối cùng với gia đình rồi tự treo
cổ mà chết.
Trong số những người noi gương ông phải kể đến Ngụy Phương Tế, Ngụy Tuyên Đồng và Aâu Dương Đông.
Song
song với bọn chủ trương khủng bố còn có những vị quan tòa luôn luôn đề
cao giá trị của luật pháp, không chịu tiếp tay cho lũ hung thần. Đáng kể
nhất là Hứa Ngọc Cung và Đỗ Kinh Kiến. Hai người này đang còn giữ chức
vụ quan trọng, thường dùng quyền của mình để che chở những người vô tội.
Có
lần mẹ vợ Đán bị đem ra xử, Hứa đại nhân không chịu kết tội bà vì không
đủ bằng cớ. Nội vụ được đưa lên Võ Hậu, ông vẫn một mực bênh vực tội
nhân.
Võ Hậu hỏi ông:
- Nghe nói khanh tha nhiều người lắm phải không?
Hứa đại nhân ngang nhiên trả lời:
- Tâu lệnh bà, có thể thần tha lầm vài người, nhưng đó chỉ là lỗi nhỏ, còn bảo vệ những người vô tội mới là việc lớn.
Võ Hậu đày ông đi xa, nhưng vẫn phục ông nên mấy năm sau, bà vời ông trở về làm đại thần.
Lúc
này Võ Hậu ngồi vững trên ngai, nên không áp dụng chính sách khủng bố
nữa. Bà cho gọi những người có khả năng trở về làm quan.
Tháng
ba năm 686, thi sĩ Trần Tử Ngang, là một thi sĩ nổi tiếng vào thời nhà
Đường, trước thời Đỗ Phủ và Lý Bạch đã viết cho Võ Hậu một phong thư
nhắc nhở bà những vụ bắt bớ, giam cầm trái phép. Ông chỉ giữ một chức
nhỏ trong Nội các, chuyên lo công việc thư viện và các văn kiện trong
triều.
Bức thư của ông cho thấy thực trạng xã hội lúc bấy giờ.
"Từ
ngày Kỉnh Nghiệp dấy loạn, triều đình luôn luôn cố gắng truy lùng các
dấu hiệu phản loạn. Lệnh bà đã phải áp dụng biện pháp thanh trừng bằng
cách khủng bố và tra tấn. Một sự nghi kỵ nhỏ cũng dẫn đến vô số người bị
bắt. Nhiều kẻ bất tài đã lợi dụng thời cơ buộc tội người khác để được
vinh thân, phì da. Hạ thần dám chắc rằng đây không phải là chủ yếu của
lệnh bà.
Thần
trộm nghĩ người dân lành bao giờ cũng chỉ muốn sống bình dị an vui.
Điều mà hạ thần thắc mắc là tại sao lệnh bà không để cho dư âm cuộc dấy
loạn đi vào lãng quên, mà chủ trương gây khủng hoảng làm mất lòng dân.
Thần
đã chứng kiến hàng trăm hàng ngàn vụ xét xử mà chẳng có ai được coi là
vô tội. Lệnh bà đã vô tình khuyến khích bọn pháp quan tham lam lập bè,
kết đảng hại người vô tội với những mục đích riêng tư. Chúng thường dựa
vào các chứng cớ mong manh để ghép người khác vào những tội tày trời như
phản nghịch hay chống lại triều đình. Một người bị bắt lôi kéo hàng
trăm người vào tù. Ngoài đường phố thường xảy ra việc các nho sĩ bị bắt
và giải đi. Càng ngày số người bị tử hình càng nhiều. Dân chúng thường
bàn tán với nhau hễ một người được lệnh bà ưa thì hàng trăm người bị
giết. Lòng dân đang hoang mang không biết họ sẽ về đâu?"
Bức thư của ông chẳng có kết quả gì và Võ Hậu cũng không trách phạt ông.
Thực
ra lý thuyết họ Trần lấy cơ sở triết học xã hội Đông Phương làm nền
tảng. Cái gì bóp chặt thì cái đó sẽ bung ra mạnh hơn. Còn quan niệm của
Võ Hậu thì lại khác, bà nghĩ rằng một sức ép thích nghi sẽ bóp chết tất
cả sức phản ứng, làm cho sức phản ứng tiêu diệt hoàn toàn.
Trần
Tử Ngang tiếp tục tranh đấu cho đến tháng ba và tháng mười năm 689 thì
ông viết tiếp hai bức thư cho Võ Hậu nữa, nhấn mạnh thêm về quan niệm
của ông.
Tuy
không thành công, nhưng việc làm của ông cũng đáng ca ngợi vì ông là
người đầu tiên dám tranh đấu cho nhân vị con người. Ông đã tỏ được dũng
khí của một thi sĩ chân chính, không bị lôi cuốn vào đám văn nô như bọn
Diêu Thiệu Chi, Tống Chí Tôn chuyên bợ lệnh bà, mua văn bán chữ để cầu
vinh, không khác gì bọn mãi dâm, mượn xác thịt để nuôi miệng..
Ngoài dân chúng thì vậy, còn trong cung cũng xảy ra chuyện buồn cười không ít.
LỜI BÀN
Trong
hiện tượng thiên nhiên, cái gì bị gò ép thì bên trong có sức kháng cự
bung ra. Càng bị ép mạnh, sức bung ra càng mạnh thêm. Đó gọi là lực đối
kháng.
Nhưng
cũng có những hiện tượng sức mạnh tiêu diệt sức đề kháng, nhưng sức đề
kháng không phải bị tiêu diệt mà nó biến thành một hiện tượng khác để
cân đối một hiện tượng cực đoan. Đó là qui luật vũ trụ.
Nhưng
nếu nói về ý thức chính trị thì các nhà học giả cũng thừa nhận rằng:
Hai vật cứng va vào nhau thì không thể tồn tại vì vậy họ chủ trương lấy
mềm chế ngự cứng rắn. Họ bảo: Nhu thắng cương, nhược thắng cường. Kẻ có
trí thì tính nết và hành động mềm như nước, nhưng không vì thế mà yếu
đuối.
Nước
bản chất là mềm, chiều chuộng tất cả mọi hoàn cảnh, nhưng sức mạnh
không thể lường được. Một trận lụt có thể trôi nhà mất cửa, một con sóng
to có thể làm đắm thuyền. Thế thì sức mạnh không chỉ có ở hiện tượng
cứng rắn, mà những hiện tượng mềm mại lại có lúc làm cho chất rắn phải
bị tiêu diệt.
Chủ
trương của Võ Hậu dùng biện pháp cứng để hủy diệt sức mạnh của đối
phương thì đó là biện pháp gây nhiều đau khổ trong trạng thái hung tàn
cho xã hội.
Hành động mê hoặc của giáo sư Hoài Nghĩa
Để mê hoặc dân chúng, đối phó với sức phản kháng của quan chức, sư Hoài Nghĩa cũng có những âm mưu rất kinh ngạc.
Với
bộ áo sư trưởng bằng lụa đỏ chói, gã có vẻ tự hào là đã đạt được một
trình độ tu luyện sáng suốt tột đỉnh trên thế giới. Gã đã được phong
tước Công và các đại thần còn phải ngồi dưới gã rất xa. Gã được cấp ngân
phiếu trắng, muốn tiêu bao nhiêu cứ việc điền vào rồi đi lãnh.
Vào
những ngày lễ lớn, như ngày hội rước đèn rằm tháng giêng gã thường chở
hàng chục xe đầy tiền ra Hoàng cung và phát chẩn. Ngoài những công việc
làm đó, gã rất thích biểu diễn trò Phật ở dưới đất chui lên. Trò này rất
ngoạn mục. Gã cho đào một cái hầm lớn, sâu hai chục thước trong điện
Thiên Đường. Trong hầm gã đặt những tượng Phật ăn mặc rất đẹp, xung
quanh có hàng chục cây nến. Khi gã ra hiệu, bọn thuộc hạ phía dưới hầm
đẩy những tượng Phật từ từ nhô lên khỏi mặt đất. Các người đứng xem đều
kinh ngạc khen ngợi là phép thần.
Tánh
Võ Hậu rất mê các lâu đài cung điện, mọi thứ đều lạ mắt khác thường,
kiến trúc nguy nga và kỳ bí. Còn Hoài Nghĩa xuất thân từ đám giang hồ
mãi võ, nên trong ý thức lúc nào cũng tìn những gì kỳ bí để phô trương.
Do đó, gã đã xây cất hai tòa diện mới là Minh Đường sau đổi tên là Đền
thờ Muôn vật và được Võ Hậu dùng làm nơi tiếp các quan vào chầu.
Còn một tòa nữa đặt tên là Thiên Đường, chỗ linh thiêng mà Hoài Nghĩa cho là nơi tiếp nhận Phật lệnh.
Mọi
hoạt động đều mang tính chất tôn giáo. Kinh đô được đổi tên là Thành
đô. Một công trình vĩ đại để mọi người tin tưởng rằng Võ Hậu chính là
hiện thân của một vị Phật.
Tốn
phí xây cất Minh Đường và Thiên Đường không thể kể xiết. Hàng mấy chục
ngàn nhân công được đặt dưới quyền vị Sư trưởng. Những cây gỗ khổng lồ
được chuyển từ núi về, mỗi cây hàng ngàn người khiêng một cách chậm
chạp.
Tòa
Minh Đường rộng và cao gồm ba tầng, mỗi tầng sơn một màu tượng trưng
cho tứ đại của vũ trụ: đất, nước, không khí và lửa. Tầng giữa có mười
hai cạnh tượng trưng cho mười hai tháng và mười hai cung của hoàng đạo.
Tầng trên cùng có hai mươi bốn cạnh tượng trưng cho hai mươi bốn chùm
sao trên trời. Trên đỉnh có hình chim phượng hoàng sáng chói.
Tòa
Thiên đường được xây trên một khu đất cao, bao quanh một tượng đất
khổng lồ bằng thạch cao. Kể cả bệ, pho tượng cao gần một trăm thước.
Mười ngươi có thể đứng trên ngón tay út của tượng Phật.
Võ
Hậu thích cái gì cũng phải to lớn và huy hoàng. Khi tiếp cận với đền
đài này, Võ Hậu cảm thấy mình trở nên một Phật giáo đồ. Nhà sư hay thì
đạo Phật cũng hay. Bà ngự tại Thiên Đường và Phật cũng ngự tại Thiên
Đường. Nhà sư là mối liên lạc giữa hai bên. Sư sắp xếp này tượng trưng
cho sự phiêu lưu tinh thần và những giai thoại pha trộn giữa thiêng
liêng và phàm tục, xác thịt và tôn giáo. Võ Hậu nắm quyền tối thượng và
hưởng mọi hạnh phúc dưới trần gian. Bà muốn mang Thiên Đường xuống hạ
giới và đặt vào trong cung.
Nhà
sư Hoài Nghĩa và Võ Hậu gặp nhau chung một điểm là đều thích những cái
phi thường. Gã sai người vẽ chân dung một ông Phật trên vải, bức hình
cao sáu bảy chục thước, môi của Phật to bằng chiếc thuyền.
Mực để vẽ hình là máu bò, nhưng gã nói máu đó lấy ở đầu gối của gã.
Võ
Hậu và nhà sư, người yêu của bà, đều quan niệm rằng dân chúng rất nhẹ
dạ, hay tin nhảm, nên tha hồ tưởng tượng ra những chuyện ly kỳ.
Say
mê với những giấc mộng huy hoàng tưởng chừng sắp bay bổng lên không
trung, Võ Hậu còn muốn tiến xa hơn nữa. Theo lời khuyên của sư Hoài
Nghĩa và Thừa Tự, bà quyết định xưng làm Thánh Mẫu Thánh Hoàng cho có vẻ
hợp với khung cảnh hiện tại. Danh hiệu đó hàm ý vừa là vua vừa là bậc
cao cả trong tôn giáo.
Năm
638, đã đến lúc một cuộc cách mạng chín muồi, Võ Hậu cảm thấy phải đem
tài thao lược ra để đối phó. Bà bắt đầu quan niệm một chiến thuật mới về
chính trị, chủ trương lấy mềm đối chọi với cứng, lấy sự hòa diện làm
phương châm để trấn an phẫn nộ trong lòng dân, bà đã lần lượt đưa các
vương tước nhà Đường trở về triều phục chức. Nhưng đây lại là một thế cờ
đưa các cựu thần vào bẫy.
Võ
Hậu đang nắm trong tay một ưu thế rất thuận lợi. Hệ thống mật thám của
bà rất hoàn bị. Các pháp đình đều đầy nhóc bộ hạ bà. Từ quan đến dân đều
run sợ trước những cảnh khủng bố chết chóc và bắt bớ tập thể.
Không
có vấn đề hợp pháp hay bất hợp pháp, bà nghiễm nhiên thay mặt nhà Đường
nắm quyền cai trị với tư cách một Thái Hậu. Tất cả các cuộc nổi dậy
chống lại bà đều bị coi là chống lại Hoàng Đế nhà Đường, mặc dù Hoàng Đế
đang bị nhốt tại nội cung.
Bà
đã tập trung quyền hành trong tay những người cháu họ Võ của bà, đồng
thời tước đoạt hết binh quyền của Đường vương. Sau cuộc dấy động của
Kỉnh Nghiệp, bà đã giết quan Trung Thư Xá Nhân họ Bạch cùng một số lão
tướng và thách thức triều thần nổi loạn, giờ đây bà thách thức luôn cả
Đường vương.
Võ
Hậu cố ngụy biện cho mọi người thấy ý nghĩa chính trị của các thời đại
đều mang tính chất tôn giáo. Bà muốn thời đại của bà được gọi là nhà
Chu, vì trước kia các Hoàng tử nhà Chu đều lâm trào tại điện Minh Đường.
Các huyền thoại và giả thuyết được đặt ra càng ngày càng nhiều để báo trước sự ra đời của một triều đại mới.
Người
ta minh định rằng họ Võ là dòng dõi các vua nhà Chu, trong khi các học
giả uyên bác nhất cũng chẳng tìm thấy liên hệ nào giữa Võ Tắc Thiên và
các vị vua này, kể cả vị vua đầu tiên của nhà Chu là Võ Đế. Nhưng Võ Hậu
không cần biết điều đó. Sau khi đã lật đổ nhà Đường vào năm 690, bà cho
dời bài vị của Võ Đế vào trong tôn miếu và gọi ông là tổ bốn mươi đời
của nhà họ Võ.
Võ Hậu rất dốt về lịch sử, nhưng lại rất mạnh dạn bịa ra những chuyện không có để tin là sự thật.
Thường
thường muốn lập một triều đại mới, người ta hay dựa vào thiên mệnh và
có điềm báo trước để tin tưởng, Võ Hậu muốn cho mọi người sẽ thấy điềm
báo trước đó.
Vào
tháng bảy năm 687 có một người nhà quê kể lại rằng con gà mái của nhà
anh ta bỗng biến thành con gà trống, tháng giêng và tháng muời cũng xảy
ra những việc tương tự. Võ Hậu cho người truyền rao đó là điềm trời báo
trước. Người ta bảo âm dương đã đảo lộn. Võ Hậu tuy rất hài lòng, song
còn muốn cho dân chúng thấy những điềm lạ ly kỳ hơn.
Song
song với việc biên soạn bộ Đại vân kinh của sư Hoài Nghĩa, tháng tư năm
638, Võ Thừa Tự lại tạo ra một điềm lạ. Ông ta dùng một phiến đá cổ đẽo
thành một tấm bia lớn có khắc tám chữ:
Thánh Mẫu xuống trần
Trường thịnh nghiệp Đế.
Sau
đó, ông ta cho ngưới ném xuống sông Lạc. Một gã nhà quê tình cờ trông
thấy tấm bia lớn bèn vào triều tâu với Võ Hậu hay. Võ Hậu làm bộ ngạc
nhiên, phong cho gã làm Khâm sai đại thần và cho đổi quốc hiệu là Trường
Thịnh.
Tháng
năm và tháng sáu năm đó, Võ Hậu tổ chức những buổi lễ Tiên địa tại khu
ngoại thành phía Nam để tạ ơn trời đất. Bà đổi tên sông Lạc là sông
Trường Thịnh, gọi tấm bia đá kia là Suối Thánh Linh. Dân chài lưới không
được đánh cá khu vực này. Ngoài ra bà còn ân xá cho tội nhân để ăn mừng
điềm lành trời đất ban phước.
Tất
cả những hành động đó, người ta bảo Võ Hậu là một nạn nhân khờ khạo của
trò bịp bợp do bà gây ra. Tuy nhiên, bà không cho là khờ khạo, vì bà
thấy dân chúng tin tưởng những chuyện huyền hoặc, những phép màu và
những chuyện kỳ lạ.
Người ta bắt đầu thổi phồng những chuyện thần thoại có liên quan đến Võ Hậu với mục đích tuyên truyền chính trị.
Triều đình lại dự tính tổ chức một buổi lễ để Võ Hậu ra tận suối Thánh Linh vớt bia và nhận sự ủy thác của Thượng Đế.
Đó
là một đại lễ nên tất cả các vương tước trong Hoàng tộc cùng các quan
văn võ và các vị phu nhân đều phải tập trung tại Kinh đô mười ngày trước
khi hành lễ.
Mọi người đều thấy rõ sắp có một biến cố chính trị qua lời tuyên bố: “Một triều đại mới ra đời”.
Dân
chúng lén lút bàn tán với nhau rằng cuộc cách mạng đã bắt đầu ló dạng
và việc triệu tập các vương tước về kinh đó chỉ là một cái bẫy. Hoàng Đế
và các thân vương nhà Đường sẽ bị tóm trọn khi có mặt tại Lạc Dương.
Những
mật thư được trao đổi tới tấp giữa các vương tước xa gần và khắp bạn bè
của họ ở Kinh đô. Lời bàn tán của dân có thực chính xác hay không? Họ
nên hay không nên về kinh? Chính các vương tước ở tại Kinh đô cũng phân
vân, họ thấy các triệu chứng bất thường nhưng không biết đích xác chuyện
gì sắp xảy ra.
Khoảng
thời gian này, một số vương tước lão thành, em của Thái Tôn còn sống,
đáng kể nhất là Hàn Vương Gia, Lỗ Vương Quế và Hạ Vương Duy, ngoài ra
còn có các em của Cao Tôn là Vệ Vương, Việt Vương, cả hai vị vương này
đều đã gần sáu mươi tuổi, nổi tiếng là các văn sĩ lỗi lạc. Sau cái chết
của họ Bạch, tất cả các vương tước vừa kể đều bị đoạt hết quyền hành và
bị tản mát mỗi người một tỉnh.
Thực
ra, Võ Hậu và bọn cháu của bà cố ý tung ra tin này là dồn họ tới chỗ
liều lĩnh, cũng như người ta cố ý cho tù nhân bỏ chạy rối bắn chết. Dĩ
nhiên các vương tước phải tự vệ. Họ không muốn chui đầu vào rọ để bị
giết, hoặc bị bọn đầu trâu mặt ngựa khảo đả nhục nhã.
Hàn
Vương Gia viết thơ khuyến cáo các vương tước khác như sau “Hiển nhiên
Võ Hậu đang trù tính tàn sát các vương tước nhà Đường. Nếu không hành
động ngay, toàn thể họ Lý chúng ta sẽ bị tiêu diệt”.
Con của Hàn Vương Gia cũng viết thơ bằng một ẩn ngữ cho anh họ là Lanh Nha Vương, nói:
“Bà vợ của tôi đang đau nặng, cần phải chữa ngay. Đợi đế mùa đông e quá trễ”.
Vì
các vương tước ở cách xa nhau, phần lớn ở Hà bắc, Hà Nam và Sơn Đông,
nên việc liên lạc rất khó khăn nhất là bị mật thám theo dõi. Nhưng thời
gian không cho phép họ chần chừ nữa. Họ phải quyết định ngay.
Võ
Hậu đã thành công trong việc dồn các vương tước vào chân tường. Bà hy
vọng họ sẽ hấp tấp hành động và bà chờ đợi với con dao thủ sẵn trong tay
áo, bà sẽ bảo vệ nhà Đường, dù phải giết hết các vương tước của triều
đình ấy. Ngược lại nếu họ không hành động bà sẽ cho người xúi giục họ
rồi quăng một mẻ lưới sẽ bắt hết. Bà đã mất công lập ra hệ thống mật
thám thì phải sử dụng đến nó để khỏi vô ích.
Tháng
bảy năm 638, con Việt Vương Trịnh là Lang Nha Vương dấy binh chống lại
Võ Hậu. Ông còn ngụy tạo ra mộ bức thư của Thái Tử Triết, người đã bị Võ
Hậu truất ngôi vua và giáng xuống làm Lư Lăng Vương, từ Phong Châu gởi
về yêu cầu các vương tước đem về kinh đô, riêng ông sẽ động binh tại Sơn
Đông.
Cuộc
khởi nghĩa của các vương quốc nhà Đường hoàn toàn thiếu chuẩn bị, lại
không cai có căn bản quân sự, nên chỉ bảy ngày sau bị tan rã, vì phải
chống với lực lượng quân triều đình quá mạnh, Việt Vương Trịnh vì thất
trận phải tự sát.
Như
vậy, các Đường vương phải chui đầu vào bẫy của Võ Hậu, vì đã công khai
chống đối bà. Giờ đây bà chỉ việc cho tên trùm mật thám họ Châu biến
những vương quốc còn lại thành đồng lõa của bọn phiến loạn nữa là xong.
Việc
này chẳng có gì khó khăn, vì bà đã may mắn bắt được những lá thư của
Việt Vương viết cho một số vương tước khác. Chỉ cần vài người bị bắt, họ
Châu sẽ có cách làm cho tất cả các Đường vương và họ hàng thân quyến
đều bị liên lụy.
Cuộc thanh trừng bắt đầu. Võ Hậu lấy cuộc phiến loạn làm cái cớ để tiêu diệt nhà Đường.
Với
trọn quyền hành động, họ Châu cố làm vừa lòng Võ Hậu. Cứ mỗi người bị
bắt thì lại khai thêm hàng trăm người khác, nên hắn tha hồ bắt bớ, chém
giết làm cho quần chúng kiếp vía.
Bây
giờ không còn thời kỳ ám sát nhau một cách lén lút nữa, rồi tìm kế bưng
bít như trước đây. Cuộc thanh trừng này công khai kéo dài từ năm 633
đến năm 690.
Số người liên lụy càng ngày càng nhiều, cho đến khi tất cả các vương quốc quan trọng và hầu hết tôn thất nhà Đường bị tiêu diệt.
Chiếc
mặt nạ của Võ Hậu đã rơi, vì lúc còn làm Tài Nhân bà đã có một lần bà
đã có một lần nói với vua Thái Tôn rằng bà có thể khuất phục được con
ngựa bất kham nhất chỉ với một cây roi, một cái búa và một con dao. Giờ
đây bà thực hiện lời nói đó. Nhưng thay vì dùng dao đâm vào cổ ngựa, bà
đã dùng dao đâm vào giữa trái tim của con cháu Thái Tôn.
Thật
khó mà tưởng tượng được tình trạng lúc đó. Chính những người được chứng
kiến cũng không tin ở mắt mình. Điều mà các vương tước và đại thần thi
nhau rơi, các nho sĩ chân tay mang đầy xiềng xích, bị lùa đi ngoài
đường, các vị Quốc công bị nhốt trong tù và gia quyến các vương tước bị
đày vào vùng đất hoang để sống cảnh tha phương cầu thực, cũng đủ lượng
định được âm mưu độc hại đến mức nào.
Võ Hậu đã loại được nhân vật đầu não của nhà Đường nên việc thiết lập một triều đại mới chỉ còn chuyện sớm chiều.
LỜI BÀN
Võ
Hậu và nhà sư Hoài Nghĩa do sự say mê tình dục và ngẫu nhiên gặp nhau.
Mỗi người có một khả năng riêng. Võ Hậu thì tàn ác, lấy ưu thế là sức
mạnh làm nền tảng tiêu diệt đối phương, còn sư Hoài Nghĩa thì dùng mê
tín để chinh phục kẻ khác. Tuy hai khả năng không giống nhau, nhưng kết
hợp lại rất lợi hại.
Đấu
tranh chính trị phải vận dụng về trí tuệ, nhưng nếu trí tuệ đối phương
không kém hơn mình thì rất khó chiến thắng, vì vậy Võ Hậu phải vận dụng
phương pháp mê tín để làm cho trí óc đối phương bị ngu muội đi, mà mê
tín là mối nguy hiểm đối với nhân gian, vì dân gian ít người chịu suy
luận, cứ nghe đâu tin đó, nhất là những việc không thể giải thích bằng
sự hiểu biết của họ được.
Ấy
vậy, trong đường lối đấu tranh chính trị của Võ Hậu cố ý dùng mê tín mị
dân, làm cho dân thiếu sáng suốt để cân nhắc lẽ phải trong cuộc sống.
Những trận bão về chính trị
Buổi
lễ tiếp đón thánh linh bị trì hoãn vì cuộc khởi loạn của các vương
tước, nhưng sau đó khi dẹp loạn xong, Võ Hậu lại ra lệnh cho hoàn mỹ
hơn. Đây là một trong những dịp vui nhất của triều đại. Bà trịnh trọng
xuất hiện trong bộ lễ phục lộng lẫy với chiếc vương niệm cực kỳ rực rỡ.
Sau
buổi lễ tại suối Thánh linh, tấm bia đá được đặt lên kiệu đem về để
trong điện Minh Đường. Đến ngày tết nguyên đán, Võ Hậu đăng điện để các
triều thần đến chúc mừng.
Bà
ngồi trên chiếc ngai, trông bà hoàn toàn tươi tắn và tráng kiện. Bà có
dáng điệu tự mãn của con mãng xà vừa nuốt xong một chú thỏ và đang cuốn
mình ngủ ngon.
Đặc
biệt năm nay ngôi điện được trang hoàng rực rỡ, chỗ nào cũng thấy ánh
vàng sáng chói. Nhà sư Hoài Nghĩa đã chi phí không biết bao nhiêu tiền
bạc trong việc trang trí nay. Với tư cách hộ pháp thiền sư, gã hiện diện
trong buổi lễ với chiếc áo tăng màu đỏ, lấp lánh đồ trang sức. Đán cũng
có mặt trong buổi lễ vì chàng phải dâng hương sau khi Võ Hậu làm lễ.
Lúc
bà đang lim dim hai mắt thì bỗng thì bỗng đôi mắt bà mở to và sáng rực
lên khi các đại thần tiến vào quỳ chúc mừng và tung hô triều đại mới của
Thánh Mẫu.
Trong
suốt mấy tháng cuối năm 689 và bắt đầu năm 690 việc giết chóc vẫn xảy
ra triền miên mặc dù các vương tước nhà Đường còn lại chẳng bao nhiêu.
Hai
tháng trước khi nhà Chu chính thức ra đời, cảnh giết chóc hàng ngày trở
nên man rợ. Thượng Đế đã sai Thánh Mẫu xuống trần để giết hại sinh
linh. Chính vì vậy trời là chỗ nương tựa cuối cùng của sinh linh mà giờ
đây dân chúng cũng hoàn toàn mất tin tưởng.
Tôn
thất nhà Đường chỉ còn lại Lý Đán và Lý Triết hiện đang bị giam lỏng.
Cuộc tàn sát chấm dứt vào năm 691, nhưng đến năm 693 lại xảy ra vụ ghê
tởm khác. Vương Quốc Quân, một thuộc hạ của hung thần họ Lai được gởi ra
Cam Túc để điều tra vì có dư luận rằng đám vợ góa, con côi của các vị
vương tước đang than phiền về tình cảnh bơ vơ của họ.
Khi
đến nơi, gã gọi tất cả những người này vào và ra lệnh cho họ tự treo cổ
chết. Bọn đàn bà trẻ con la ó phản đối hành động bất nhân ấy thì gã lại
cho người dẫn tất cả ra bờ sông rồi tàn sát và vứt thây xuống sông. Sau
đó, gã về triều và thản nhiên báo lại rằng gã đã may mắn phát hiện kịp
thời số người phản loạn nên đã giết hết. Lập tức gã được phong làm Đại
phu.
Thấy
họ Vương hành động tàn ác mà được trọng thưởng, các tên khác cũng tranh
nhau xin đi các nơi để điều tra những vụ tương tự. Thế là những bọn
tham quan được phái đi khắp nơi từ Tứ Xuyên, Quý Châu, Quảng Tây, Vân
Nam… để dò xét những gia đình bất hạnh đang sống trong cảnh tha phương
cầu thực. Những tên tham quan này thi nhau giết hàng ngàn người để lập
công, không cần biết họ có tội hay không.
Giữa
lúc đang xảy ra chém giết cực kỳ man rợ trong dân chúng thì Võ Hậu hạ
một sắc chỉ cấm dân chúng mổ lợn và giết súc vật vì bà đã trở nên một
tín đồ Phật giáo, không bao giờ thích sát sinh…
Khoảng
thời gian từ tháng giêng đến tháng tám năm 690 là thời kỳ góp gió để
sửa soạn một trận bão chính trị, giúp Võ Hậu phá hẳn nhà Đường. Bộ mặt
đạo đức giả trung thành với sự nghiệp nhà chồng của bà không cần thiết
nữa, bà ra mặt muốn chấm dứt chế độ cũ bằng giấy tờ. Võ Hậu, Thừa Tự,
Công chúa Thái Bình và sư Hoài Nghĩa ngày ngày họp mặt xúm nhau điều
nghiên kế hoạch tỉ mỉ để thực hiện kế hoạch ấy.
Cuộc
cách mạng lật đổ nhà Đường dự liệu vào tháng chín. Ngày đó, một phái
đoàn do Phó Hữu Nhị, người Tràng An cầm đầu, đại diện cho chín trăm
thường dân đến cổng Hoàng cung xin vào ra mắt Võ Hậu.
Họ
dâng lên một lá thư bày tỏ nguyện vọng dân chúng, xin phế bỏ triều đại
cũ để nhà Chu sớm ra đời và xin đặc ân cho Thái tử Đán được đổi thành họ
Võ.
Võ
Hậu vui vẻ vỗ về đoàn người này. Bà thực sự cảm động tuy bà đã biết vì
đâu họ hành động như vậy. Bà phong cho người cầm đầu là Phó Hữu Nhị làm
Cấp Sự Trung, một quan chức lớn trong số thuộc hạ.
Vài
ngày sau, lại có một đoàn người đông gấp bội phần, gồm các sư sãi
thương gia, quan lại, vương công và tù trưởng dưới sự hướng dẫn của Thừa
Tự, đã kéo nhau vây quanh Hoàng cung yêu cầu lập triều đại mới. Một số
người cử vào ra mắt Võ Hậu và họ đã dâng lên một bảng thỉnh nguyện có
sáu chục ngàn người ký tên. Chắc hẳn đã có bàn tay sắp đặt của Thừa Tự.
Bà tràn niềm vui. Thêm vào đó, Thái Tử Đán cũng viết thơ thỉnh cầu xin
được cải làm họ Võ.
Trước lòng nhiệt tình của mọi người, bà hứa sẽ xét lại, xem có phải toàn dân thực sự muốn vậy hay không.
Người
ta kể rằng vào ngày mồng năm tháng chín năm đó có một đàn chim sẻ hàng
trăm con, đua nhau hót trên mái Hoàng cung mà mọi người cho rằng Thượng
Đế sai chúng tới.
Những
một chuyện lạ hơn nữa là sự xuất hiện của một con chim Phượng hoàng đã
bay vào khu vực Ngự uyển phía Tây Hoàng cung, rồi bay về phía Tây Nam.
Vài người đã trông thấy, rồi hàng trăm người trông thấy chỉ có những kẻ
ngu muội mới không trông thấy mà thôi.
Tình
hình như vậy, Võ Hậu tuyên bố không thể làm trái lòng dân và nghịch ý
trời, nên vào ngày mồng bảy tháng chín, năm 690 bà ra lệnh bằng chiếu
chỉ bỏ nhà Đường, lập một triều đại mới gọi là nhà Chu, niên hiệu Thiên
Mệnh.
Võ
Hậu xuất hiện tại Bảo Tháp, ngoài cổng chính hoàng cung và cho đọc
chiếu chỉ. Sau đó ra lệnh đại xá tù nhân, nhưng hung thần họ Lai đã ra
lệnh giết hết những tù phạm quan trọng trước khi đại xá.
Ngày
mười hai, Võ Hậu tự xưng là Hoành Đế Hiển Thánh. Tham vọng của bà đã
được thực hiện. Giờ đây bà là một Nữ Hoàng Đế chứ không phải là Hoàng
hậu nữa. Cũng ngày hôm đó, Thái tử Lý Đán được đặc cách đổi tên thành Võ
Đán.
Ngày
mười ba tháng chín, tên các vương tước nhà Đường bị xóa tên trong sổ
quý tộc và thay vào đó bằng tên của các vương tước mới như Thừa Tự, Tam
Tư và mười hai người khác, cháu của Võ Hậu. Các cháu gái của bà cũng
được phong làm công chúa. Trong lúc đó thì các Thái miếu họ Võ được
khánh thành tại Lạc Dương. Các bài vị được mang từ Tràng An đến đặt vào
nơi đó. Tổ tiên năm đời của Võ Hậu được truy tặng tước Vương và được thờ
phụng theo đúng nghi lễ. Còn Thái miếu của họ Lý thì bị giáng xuống
thành Đạo Đức Miếu. Thái miếu nhà Đường gồm bảy ngôi đền, bốn ngôi bị
đóng cửa, chỉ có ba ngôi thuộc ba đời sau tiếp tục dâng hương vào bốn
mùa.
Giấc
mộng của Võ Hậu thành sự thật và niềm vui của bà giờ đây tươi đẹp hơn
bao giờ hết, nhưng có một người lâu nay vẫn yên lặng ngồi xem diễn biến
của tấn tuồng. Người đó sau này trở thành một vĩ nhân, tên tuổi được
lồng vào những giai thoại thần kỳ và đáng kể hơn hết là ông đã qua mắt
được Võ Hậu để khôi phục lại nhà Đường. Ông giữ chức Phó Thượng Thư Bộ
Hộ. Tên ông là Địch Nhân Kiệt.
LỜI BÀN
Trong một quốc gia, thời bình và thời loạn là hai trạng thái khác biệt nhau rất rõ và cuộc sống xã hội cũng vì đó mà thay đổi.
Kẻ
anh hùng hào kiệt thì hy sinh thân mình để bảo vệ cho dân tộc, cho
giống nòi, còn kẻ tiểu nhân thì lợi dụng thời cơ để hưởng thụ.
Võ
Hậu một con người lòng đầy tham vọng hưởng thụ, chiêu nạp một số thuộc
hạ tàn ác, bất nhân thì tránh sao xã hội không đi đến mất nhân tính.
Những
kẻ mất nhân tính làm nhiều điều tàn nhẫn, nhưng ngoài miệng lúc nào
cũng thốt ra những lời đạo đức giả tạo, để che đậy những hành động tàn
nhẫn của mình.
Xem
như thế thì đạo nghĩa làm người là yếu tố quý báu, không ai chối cãi,
đến như những kẻ vô lương cũng muốn được thờ phụng nó. Nhưng khổ thay,
con người lại có tham vọng hưởng thụ cá nhân, tạo ra những âm mưu và
hành động trái với đạo nghĩa làm người, thật là một điều ngang trái
trong lẽ sống.
Lời nói và việc làm không đi đôi nhau chỉ vì lòng tham vọng và lương tâm con người không đồng nhất.
Đừøng đặt tham vọng của cá nhân lên trên sự đau khổ thiên hạ. Đó là mục tiêu của sự tu thân.
Những hiện tượng ác lai ác báo
Hình
như có một định luật bất di bất dịch trong sinh hoạt loài người là
những sự hỗn độn phải trở lại trật tự, những việc khác thường phải trở
lại bình thường, cũng như biển cả phải trở lại êm đềm sau cơn bão tố. Sự
quân bình của muôn vật phải được duy trỉ trong quy luật thiên nhiên.
Có
một quy luật huyền bí làm luân chuyển bánh xe số mạng, để rồi những kẻ
làm ác phải gặp ác và bánh xe công lý cuối cùng phải chiến thắng.
Lão
Tử đã nói: Không có trận bão nào kéo dài mãi. Bệnh dịch không thể giết
hết nhân loại. Giàu quá sẽ trở thành khánh tận. Độc tài quá sẽ tự tiêu
diệt.
Đây
không phải là triết lý suông, mà là giải thích những sự kiện vay trả
sau này, khi các hung thần lần lượt đền tội bởi các thủ đoạn của chúng
gây nên.
Mặc
dù đầy mưu thần chước quỷ Thừa Tự và họ Lai luôn luôn bị những đòn cay
đắng của các ông Địch Nhân Kiệt, Ngụy Viễn Chung và Hứa Ngọc Cung giáng
tới. Ba người này dần dần làm chủ tình thế được các đại thần nhất trí
tin tưởng.
Một
vị Phó Đô Ngự Sử thà chết chứ không chịu tuân lệnh Võ Hậu rời Kinh Đô.
Một pháp quan khác thà mất chức chớ không chịu nghe lời Võ Hậu tuyển đàn
ông vào làm cung phi. Đó là nguyên nhân thúc đẩy quần thần đoàn kết lại
để khôi phục lại cơ nghiệp nhà Đường.
Quyền
hành đẻ ra tật xấu, Võ Hậu không thoát khỏi tật xấu này. Khi được uy
quyền, Võ Hậu bắt đầu đắm mình trong thú vui xác thịt đến độ bà giữ anh
em họ Trương trong khuê phòng để ngày đêm ân ái. Một lần nữa chúng ta
thấy dù là người cương quyết siêu phàm, cũng phải chạy theo tiếng gọi
của xác thịt.
Lẽ
tự nhiên khi đã đạt được tham vọng, Võ Hậu phải dừng lại để hưởng thụ
và bọn tham quan bắt đầu ganh ghét triệt hạ lẫn nhau. Có điều đáng chú ý
là lúc tuổi già, cái tuổi mà tham vọng đã vơi đi, Võ Hậu có vài cảm
nghĩ hồi tâm. Bà ngưng tàn nhẫn và triệu hồi các hiền thần mà trước đây
vì tình thế bà buộc lòng phải bãi chức họ và đày đi nơi xa. Những hành
vi này tuy có vẻ hối cải nhưng không thể xóa đi những vết tích mà bà đã
gây ra trước kia.
Hầu
hết các chính trị gia nửa mùa đã giúp Võ Hậu lên ngôi đều chết hết, chỉ
trừ những người cháu của bà, chẳng hạn như Hạ Phó, người đã dẫn phái
đoàn dân chúng tới Hoàng cung yêu cầu thay đổi triều đại, đã bị giết vì
tham nhũng, đúng một năm sau khi Võ Hậu lên ngôi.
Hung
thần họ Sở bị ghép vào tội cưỡng đoạt tài sản, bị đem ra xét xử. Gã
từng bắt người ta phải cung khai. Khi gã chối tội quan tòa nói:
- Đúng lắm, ngươi sẽ nếm mùi đai sắt do chính ngươi sáng chế ra.
Họ Sở lạnh mình nghĩ đến chiếc đai sắt siết vào sọ gã làm chi xương sọ nứt ra, nên lập tức nhận tội và ít lâu thì chết trong tù.
Họ
Châu thì qua cái chết thật buồn cười. Câu chuyện này được dân chúng
truyền miệng trong các cuộc vui… Họ Lai rất ganh ghét họ Châu vừa được
phong làm Phó Thừa Tướng, Lai cho người bỏ thư vu cáo Châu. Sau đó Lai
vào gặp riêng Võ Hậu và được lệnh thanh toán Châu.
Lai mời châu đến nhà ăn tiệc. Trong lúc Lai ăn uống Lai bỗng hỏi:
- Tôi đang gặp một vụ rất khó, làm cách nào tội nhân cũng không khai. Gã cứng đầu không biết phải làm sao?
Châu trả lời ngay:
-
Ngài hãy bỏ tội nhân vào chiếc chum đất rồi đốt lửa xung quanh. Tôi cam
đoan với ngài là trước khi tội nhân bị quay chín sẽ năn nỉ ngài không
giấu một lời.
Mắt Lai sáng lên:
- Ý kiến của ngài hay tuyệt! Tội nhân đang có ở đây. Chúng ta thử xem sao?
Một chiếc chum được mang ra và lửa được đốt lên. Lai hỏi:
- Như vậy đã nóng chưa?
Châu vẫn vô tình đáp:
- Nóng lắm rồi đó. Cho đem tội nhân bỏ vào đi.
Vẻ mặt Lai bỗng biến đổi. Gã rút trong tay áo một chiếu chỉ của Võ Hội và đọc cho Châu nghe. Sau đó gã kết luận:
- Bây giờ mời bạn hãy bước vào chum.
Châu
tái mặt, bủn rủn chân tay, vội quì xuống vập đầu xin tha. Bản thú tội
của gã được dâng lên Võ Hậu. Nhưng nghĩ đến công trạng của gã, Võ Hậu
không nỡ giết, chỉ đày gã ra phương Nam. Trên đường đi đày, gã bị giết
vì tay một người có thân quyến trước đây bị gã giết.
Sau
cái chết của họ Châu, bọn mù chữ được ra làm quan lúc bấy giờ kể như đã
bị tiêu diệt, chỉ còn mình họ Lai, dưới sự che chở của Thừa Tự nên gã
trở thành một hung thần số một.
Tuy Võ Hậu đã đạt được mục đích không cần đến gã nữa, nhưng Thừa Tự vẫn phải trông cậy vào sự giúp đỡ của gã.
Võ
Thừa Tự là cháu lớn nhất của Võ Hậu. Hắn thường tin tưởng rằng khi Võ
Hậu lên ngôi hắn sẽ là người kế nhiệm. Nhưng thực tế Đán vẫn là Thái tử.
Hắn quyết định phải hành động tích cực hơn nữa. Với sự tiếp tay của họ
Lai, hắn đã loại trừ được nhiều đại thần không ưu hắn. Giờ đây đối thủ
lợi hại nhất của hắn là Địch Nhân Kiệt. Định ý của họ Lai là phải diệt
ông này.
Số
phận nhà Đường chấm dứt hay được khôi phục là tùy thuộc vào những tay
như Địch Nhân Kiệt. Chính họ Địch cũng biết như vậy nên hành động rất
thận trọng. Ông biết lúc nào nên nói và lúc nào nên yên lặng. Trong thời
kỳ khủng bố, ông rất phẫn nộ nhưng ông không nói gì. Ông có thừa can
đảm để bênh vực những người vô tội, chống lại bọn hung thần, nhưng ông
không muốn bị thất cơ và thừa những thời cơ thuận tiện mới có kế hoạch
chu đáo.
Theo
nhận xét của Địch Nhân Kiệt muốn đánh đổ triều đại mới khôi phục Nhà
Đường cần phải có một nhóm người tài ba, can đảm giữ vững chức vụ chiến
lược then chốt. Thêm vào đó phải tạo một bầu không khí chính trị mới để
nâng cao tinh thần bá quan văn võ.
Rốt cuộc, Võ Hậu đã gặp đối thủ lợi hại nhất trong đời bà.
Nhân
Kiệt không hoạt động lẻ loi, bên cạnh ông còn có Trương Giản và các bạn
thân khác. Lúc Cao Tôn mới chết, Triết và Đán bị cầm tù, Giản Chi làm
Tiết Độ Sứ tại Kinh Châu bên dòng Dương Tử, ông cùng một người bạn là
Dương Viễn Yến bơi thuyền ra giữa sông để luận bàn thế sự. Hai người đều
tức giận trước hành vi của Võ Hậu. Thế rồi dưới ánh trăng mờ, hai người
đã thề nguyền nếu có dịp sẽ đánh đuổi kẻ soán nghịch và lấy lại ngai
vàng cho con cháu Thái Tôn. Trong suốt thời kỳ khủng bố họ phải nhắm mắt
nuốt hờn, nhưng thâm tâm họ vẫn luôn luôn hướng về lời thề bên sông.
Nhân
Kiệt đã sáu mươi tuổi, trước kia dưới thời Cao Tôn ông đã từng làm pháp
quan trong đại lý viện, ông nổi tiếng là một vị quan có tài xử án,
thường ăn mặc giả thường dân đi tra xét các vụ án. Người ta kể rằng ông
được giao trọng trách xử lại mười bảy ngàn vụ án bí mật nhất, không ai
khám phá ra, kết quả ông đã cứu được nhiều người vô tội.
Nhân
Kiệt không thích những trò mê tín dị đoan. Có lần đi thanh tra tại Bộ
Công, ông đã cho đóng cửa một ngàn bảy trăm đền thờ tại các tỉnh vì các
đền thờ này thiên về tà thuật và các hoạt động vô luân.
Tháng
giêng năm 692, Nhân Kiệt bị bắt cùng với bốn năm Đại thần khác về tội
sách động nổi loạn. Người ra lệnh bắt ông là Thừa Tự.
Là
một tay lão luyện trong nghề, Nhân Kiệt quyết dùng trí để chống lại thủ
đoạn của họ Lai. Khi bị đem ra tra hỏi, ông nhận tội ngay. Ông là người
hiểu Luật hơn ai hết, nên biết nhận tội ngay thì không những tránh được
tra tấn mà còn làm cho tội chết của ông không bị nhơ nhuốc về sau.
Ông nói với họ Lai:
-
Tôi nhận tội. Nhà Đại Chu đã nhận được sự phó thác của trời và triều
đại mới đã bắt đầu. Là một thần tử trung thành với Nhà Đường, tôi vui
lòng chịu chết.
Họ
Lai rất hài lòng. Mấy người cùng bị bắt với ông đều nói theo ông như
vậy, chỉ trừ Ngụy Viễn Chung. Tất cả được đem trở lại trại giam.
Kết
quả, Nhân Kiệt có thời gian và óc sáng suốt để hành động. Ông viết một
lá thư cho con trai ông bảo phải trình vụ này lên Võ Hậu và yêu cầu Võ
Hậu cho ông được gặp mặt. Sau đó, ông đem giấu bức thư trong túi áo
bông, gởi về cho đứa con trai.
Khi nhận được lá thư, đứa con trai ông lập tức mang vào triều dâng lên Võ Hậu.
Rất
may cho Nhân Kiệt, lúc đó trong cung có một cậu bé con trai của Phó
Thượng Thư họ La, ông này bị giết trước đó ba tháng. Khi cha chết cậu bị
bắt làm nô lệ. Nhờ sự lanh lẹ, cậu được đem vào giúp việc trong cung.
Võ Hậu thấy cậu bé mặt mũi sáng sủa bèn gọi lại hỏi thăm hoàn cảnh. Cậu
bé kể hết đầu đuôi câu chuyện cho bà nghe và xin khiếu nại.
Võ Hậu nói:
- Hài nhi còn muốn khiếu nại gì nữa. Cha của hài nhi đã được đem ra xét xử, vì có tội nên cha người phải chết.
Cậu bé hỏi:
-
Muôn tâu lệnh bà: Không phải như vậy. Mọi người đều sợ họ Lai tra tấn.
Bất cứ ai rơi vào tay ông ta cũng phải nhắm mắt nhận tội. Cha của hài
nhi vô tội.
Võ Hậu hỏi:
- Thật vậy sao?
Cậu bé nói:
-
Tâu lệnh bà, nếu không tin lệnh bà thử chọn một người trong cung một
người trung thành nhất đem trao cho họ Lai, để ông ta ghép vào tội phản
nghịch. Hài nhi chắc chắn họ Lai sẽ có cách làm cho người ấy có tội.
Võ
Hậu suy nghĩ rất nhiều về lợi nói của cậu bé. Giữa lúc đó con trai của
Địch Nhân Kiệt lại vào dâng thư cho cha. Đối với họ Địch, Võ Hậu rất
kính nể.
Bà sai người gọi họ Lai vào cung để hỏi:
- Khanh đang làm gì vậy? Ta nghe nói khanh hành hạ tù nhân dữ lắm phải không? Địch Nhân Kiệt hiện giờ ra sao?
Họ Lai đáp:
- Tâu lệnh bà, họ đã tự ý thú tội và được đối xử tử tế tại nhà giam.
Võ Hậu hỏi:
- Tất cả đều tự thú rồi sao?
Họ Lai đáp:
- Tâu lệnh bà, tất cả đều tự thú, chỉ trừ Ngụy Viễn Chương.
Võ Hậu hỏi:
- Họ là những người công thần. Khanh hãy điều tra lại và xử họ một cách công bằng.
Việc
này làm cho Võ Hậu nghi nghờ họ Lai. Bà cho gọi tất cả các phạm nhân
vào triều kiến theo lời yêu cầu của Nhân Kiệt. Khi vào đến nơi họ đều
quỳ xuống kêu oan.
Võ Hậu nói:
- Nếu oan sao các khanh lại nhận tội?
Nhân Kiệt trả lời:
- Tâu lệnh bà, nếu không nhận tội chắc chúng tôi đã bị tra khảo cho đến chết, đâu còn ngày hôm nay vào ra mắt lệnh bà.
Đáng
lẽ nội vụ đến đây chấm dứt, nhưng Thừa Tự quả quyết bọn Nhân Kiệt đang
mưu phản, hơn nữa họ là những người nguy hiểm, dù họ vô tội cũng nên bãi
chức.
Võ Hậu nói:
- Đâu có chứng cớ gì để buộc tội họ.
Thừa Tự vẫn một mực nài nỉ. Võ Hậu bực mình nói:
- Nói vậy đủ rồi! Lời ta đã nói ra là không sửa đổi.
Bọn
Nhân Kiệt bị đuổi đi làm quan ở các tỉnh khác. Tuy không đồng ý với Võ
Hậu, Thừa Tự cũng hài lòng với kết quả này. Họ Lai cũng không đến nổi bị
mất chức, nhờ sự che chở của Thừa Tự.
Việc
thoát chết của Nhân Kiệt không những may mắn cho chính ông mà còn đánh
dấu giai đoạn cáo chung của sự bắt bớ, chém giết các đại thần nữa. Vào
tháng sáu năm đó, một số trung thần như Nghiêm Sơn Tự, Chu Thanh Sắc, Tu
Tiễn và Châu Cửa gởi thư về triều xin vãn hồi thủ tục tố tụng, kiểm
điểm hành vi các pháp quan và cách chức những kẻ có thành tích bất hảo,
hạn chế tội tử hình như trong bộ Luật dưới thời Vua Thái Tôn. Những biện
pháp này nhằm thiết lập một chánh thể nhân đạo hơn để lấy lòng dân.
Nhân
vật kiêu hùng thứ hai sau Nhân Kiệt là Ngụy Viễn Chung. Ông chính là
người đứng đầu nhất, hăng hái trung thực và được lòng tất cả mọi người.
Ông đã bốn lần suýt chết hoặc bị đi đầy, nhưng lần nào ông cũng tránh
khỏi.
Người
ta kể lại rằng trong những lần bị tai nạn vì tánh cứng rắn của ông,
đáng tức cười là một tên mù chữ họ Hầu đem ra xử. Hầu là tên bán bánh
bao, được Võ Hậu cho làm Pháp quan.
Khi
ông bị đem ra xét xử tự nhiên ông bật cười vì tình trạng khôi hài lúc
đó. Một tên mù chữ lại xét xử, hành hạ một đại học gia. Thấy ông há
miệng, họ Hầu tưởng ông thú tội, nên hỏi:
- Người muốn khai?
Viễn Chung hớm hỉnh trả lời:
- Ta có cảm tưởng như được một con lừa kéo đi chơi.
Họ Hầu gầm lên vị tức giận. Gã văng tục đủ thứ, Viễn Chung vẫn thản nhiên nói:
- Ngôn ngữ của bạn nghe có vẻ nhà quê.
Họ Hầu hỏi:
- Ngươi nói sao?
Viễn Chung nói:
-
Ta nói rằng giọng bạn nghe nhà quê quá. Hơn nữa, bạn lại dùng những chữ
thiếu văn vẻ. Đó là vì bạn không đọc sách. Bạn đang làm quan lớn, cần
phải dùng ngôn ngữ cao quí thì mọi người mới kính nể. Bạn muốn học
không? Ta sẽ giúp bạn thành công trong ít ngày. Chắc bạn không biết rằng
được nói chuyện với Ngụy Viễn Chung là một điều rất may mắn.
Tên
mù chữ rất cảm kích. Như các người nhà quê khác, xưa nay gã rất kính
trọng các nhà trí thức và gã biết người trước mặt gã là một học giả lão
thành.
Sau
một phúc suy nghĩ, gã mở trói cho Viễn Chung và mời ông ngồi. Viễn
Chung bắt đầu sửa giọng nói cho gã, ít lâu sau, ông được tha.
LỜI BÀN
Trong
cuộc sống, mọi việc đều tác động lẫn nhau. Sau một thời gian chạy theo
tham vọng hưởng thụ, Võ Hậu đã dùng quyền uy tác động vào nền tảng xã
hội về mặt chính trị, gây nhiều biến động đủ mọi mặt. Rồi chính những
biến động đó lại tác động ngược chiều, làm cho tâm trạng của Võ Hậu tự
nhiên biến đổi theo. Đó cũng là qui luật tự nhiên trong lương tâm và lẽ
sống. Bởi vậy, trong lẽ sống có người tự học hành, nghiên cứu để trao
dồi bản thân, tìm đến đạo nghĩa làm người, còn có kẻ phải đợi tác động
của cuộc sống trong xã hội mới chỉnh đốn được lương tâm, hòa hợp với
cuộc sống để cải tiến con người.
Học
trong sách vở và học ngoài đời, cả hai lĩnh vực đều đem lại lợi ích cho
mình. Chỉ cần con người có nhận thức được điều hay, lẽ phải hay không
mà thôi.
Sức phản ứng của hậu quả áp bức
Với
sự tiếp tay của họ Lai, Thừa Tự đã mang Địch Nhân Kiệt ra xử tội với
mục đích tiêu diệt hết những kẻ chống đối hắn, nhưng Nhân Kiệt đã phá vỡ
âm mưu đó và làm lộ âm mưu tàn ác của họ Lai dù vậy chúng cũng không
sờn lòng.
Thừa
Tự cảm thấy mình bị bỏ rơi. Võ Hậu, dì của gã, đang là vị Hoàng Đế, còn
gã là người đã giúp đỡ Võ Hậu không phải ít. Triều đại này là của họ Võ
tại sao gã không được là người thừa kế?
Thực
ra Võ Hậu rất ưu đãi những người cháu của bà. Tất cả đều được giao
những nhiệm vụ quan trọng tại Kinh đô và một số có chân trong hội đồng
tối cao. Quyền thế của họ nhiều khi vượt quá chức vụ của họ nắm giữ.
Có
điều trong vài năm vừa qua Võ Hậu lơ là trong việc chọn người kế vị,
khiến cho một số người như đang ngồi trên đống lửa, không biết số phận
của họ sẽ đi về đâu. Thừa Tự đã dùng đủ trăm mưu ngàn kế để được bà
chọn. Nhưng biết mình không xứng đáng nên gã đã âm mưu giết những kẻ đã
không cùng một tâm ý với gã, vì họ có thể xúi giục Võ Hậu lập người
khác.
Cho
đến lúc này Thái tử Đán vẫn là cái gai nhọn mà Thừa Tự muốn nhổ đi. Gã
kéo gã hung thần họ Lai về cộng tác với gã vì họ Lai cũng là một kẻ tham
vọng, muốn cho Thừa Tự lên ngôi báu để có chỗ nương tựa về sau.
Theo dự tính của Thừa Tự và họ Lai thì chúng sẽ làm giảm uy tín của Thái tử Đán trước rồi sẽ mưu hại sau.
Năm
693, chúng xử tử hai vị quan nhỏ vì hai người này vào gặp riêng Thái tử
Đán tại hậu cung. Chúng kết tội là hai người ấy âm mưu với Thái tử Đán
cướp lại ngôi vua. Thừa Tự cố làm to chuyện này cốt để hạ uy tín Thái tử
Đán.
Ít
lâu sau Thừa Tự lại xúi Tâm Nhi là tỳ nữ thân tín của Võ Hậu, nói xấu
Đỗ Phi và Lưu Phi là vợ của Thái tử Đán. Tâm Nhi nói với Võ Hậu là nó
nghe hai nàng này than phiền và cầu trời cho Võ Hậu chết sớm.
Ngày
hôm sau, Võ Hậu bảo hai nàng cùng bà đi du ngoạn. Đến chiều chỉ có mình
Võ Hậu trở về. Chắc hẳn hai nàng này đang dạo chơi nơi chín suối.
Tối
hôm đó, Thái tử Đán được mời đến dùng cơm với Võ Hậu. Trong khi ăn, Võ
Hậu luôn để mắt dò xét chàng, có lẽ bà chờ đợi sự phản ứng của Thái tử
Đán sẽ chống đối bà như Thái tử Hoằng trước kia. Nhưng trái lại, Thái tử
Đán tỏ ra rất ngoan ngoãn, chàng cắm cúi ăn không nói gì. Mọi việc như
êm ả không có chuyện gì xảy ra. Hai nàng cung phi bị mất tích thế mà
không ai nói đến, cũng không truy cứu hoặc tổ chức đám tang. Một trong
hai người này là Đỗ Phi chính là thân mẫu của vua Minh Hoàng sau này.
Lúc đó Minh Hoàng lên ngôi mới chín tuổi, muốn chôn cất mẹ theo nghi lễ
cùng với thi hài của Đán, nhưng ông không biết xác bà lưu lạc nơi đâu,
đành phải chôn bộ quần áo thay cho thi thể.
Giờ
đây, Thừa Tự và họ Lai ra mặt tấn công Thái tử Đán. Chúng lén vào hậu
cung bắt hết thị nữ và hoạn quan, những người hầu của Thái tử Đán, rồi
mang họ tới một cung điện cách chỗ ở của Võ Hậu chưa đầy một trăm trước
và bắt đầu tra tấn. Chúng bắt họ phải khai những mưu toan cướp ngôi của
Thái tử Đán.
Sau
những màn tra khảo và đổ dấm vào mũi, các thị nữ và hoạn quan đều mất
vía, sẵn sàng nghe theo mọi sắp đặt của họ Lai. Duy có một người đàn ông
tên là An Tàng Kim bị bắt chung với đám hoạn quan, bất thình lình la
lớn:
- Các ngươi không được làm như vậy. Các ngươi vu khống! Thái tử vô tội.
Sao đó, ông giật lấy một con dao tự mổ bụng rồi phanh ruột ra trông rất ghê rợn. Đây là cách tự sát để phản đối.
Thừa Tự tái mặt. Chuyện này xảy ra ngoài dự kiến của gã.
Cuộc
tra tấn nửa chừng thì các thị nữ la hoảng bỏ chạy vào hậu cung. Võ Hậu
hay được việc này lập tức đến tại hiện trường xem xét. Bà không ngờ cháu
bà dám lộng hành như vậy, dám làm náo loạn hoàng cung. Bà buông lời
trách mắng Thừa Tự thậm tệ và quay sang hỏi bọn tì nữ đầu đuôi sự việc.
Vào lúc đó quan Thái y chạy tới, thấy thây họ An chưa đến nỗi nguy hiểm, nên băng bó lại và cứu sống.
Việc xảy ra làm Võ Hậu rất kích động. Bà đến thăm họ An mấy lần và ra lệnh cho Thái y chăm sóc họ An rất tử tế.
Võ
Hậu suy nghĩ rất nhiều về trường hợp họ An. Lần đầu tiên trong đời bà
cảm thấy hối hận. Suối mấy ngày bà không nói với Thừa Tự một tiếng. Bà
trút hết tội lỗi lên đầu họ Lai.
Lần
này họ Lai bị giáng chức và đổi đi xa. Bà chán ghét Thừa Tự, nhưng vẫn
chưa có tín hiệu gì chứng tỏ tình mẫu tử của bà đối với Triết, người con
thứ ba đã bị truất ngôi vua, giáng xuống làm Lư Lăng Vương và đổi đi
Phong Châu. Tuy nhiên tận đáy lòng bà còn phảng phất một điểm sáng của
thiên lương, chỉ chờ có người khơi dậy sẽ bùng cháy mãnh liệt.
Họ
Lai mất chức Phó Đô Ngự Sử, còn Thừa Tự mất tín nhiệm đối với Võ Hậu,
nhưng nhà sư Hoài Nghĩa thì vẫn hỗn xược và gây xáo trộn trong cung ngày
càng nhiều. Gã không còn trẻ như trước, nhưng vẫn không trầm tĩnh chút
nào, luôn luôn ám ảnh những ý tưởng điên cuồng, sở dĩ Võ Hậu ưa chuộng
và hùa theo gã chỉ vì “đồng bệnh tương lân”. Trong suối thời gian qua
hai người cùng mơ mộng hão huyền, mọi việc đều vui vẻ, tốt đẹp. Bộ mặt
thiên thần của Võ Hậu là nhờ công của gã.
Lúc
đó sư Hoài Nghĩa, Thừa Tự và công chúa Thái Bình tìm cách biến các câu
chuyện hoang đường về Võ Hậu, bịa ra những từ ngữ thật kêu, có liên quan
đến Phật để mê hoặc dân chúng. Nhưng rồi đến một ngày kia, sư Hoài
Nghĩa chán Võ Hậu vì tuổi già đến nơi, da thịt đã nhăn nheo, chiếc bụng
phệ của bà không còn hấp dẫn nữa, Hoài Nghĩa đã trở nên giàu có và quyền
thế. Gã ở miết tại đền Bạch Mã để hưởng các của lạ. Nhiều lần Võ Hậu
cho mời gã đến nhưng gã viện cớ từ chối. Rõ ràng gã đã đưa Võ Hậu vào
tròng đến nỗi gã muốn làm gì bà cũng không dám nói. Thái độ của gã trở
nên úp mở. Hình như gã đang mưu đồ một việc ghê gớm. Gã chiêu nạp hàng
mấy trăm tên giang hồ mãi võ, cho cạo đầu ở tu tại đền Bạch Mã.
Sư
Hoài Nghĩa trở nên tự cao, tự đại, coi Võ Hậu là đồ bỏ. Tuy vậy Võ Hậu
vẫn phải làm ngơ vì gã là người duy nhất mà bà rất sợ trên thế gian này.
Để trả đũa, bà kiếm người yêu mới, một vị Thái y họ Trần. Hoài Nghĩa
nổi khùng khi nghe tin này và gã càng trở nên hỗn xược hơn nữa. Gã miễn
cưỡng tới lui với Võ Hậu vì bà đã mất hết vẻ quyến rũ. Gã biết rõ bà hơn
ai hết. Gã còn biết lợi dụng nhược điểm của Võ Hậu là bà muốn gã kín
miệng, Võ Hậu phải để cho gã tự do hành động.
Quá
thất vọng trước một con người như vậy, Võ Hậu muốn tìm cách đẩy gã ra
để hủy diệt, nhưng không có cách nào, nên một lần Võ Hậu đã phong sư
Hoài Nghĩa làm Nguyên soái cầm quân đi đánh giặc Thổ, nhưng đoàn quân
xâm lược này lại rút về, làm cho uy danh của sư Hoài Nghĩa tăng thêm.
Nhân
dịp này, sư Hoài Nghĩa tổ chức một lễ lớn để ăn mừng chiến thắng. Gã hy
vọng sẽ được Võ Hậu trọng thưởng bằng cách cho thăng cấp, hoặc tuyên
dương công trạng. Nhưng Võ Hậu chỉ chúc mừng lấy lệ.
Dù
vậy, Hoài Nghĩa vẫn tiến hành buổi lễ. Bức chân dung Phật cao gần một
trăm thước được chưng phía ngoài Hoàng cung rồi tới ngày rằm, một cuộc
rước đèn vĩ đại được tổ chức rền rang, dân chúng khắp Kinh đô tấp nập đi
xem. Khu công viên trước Hoàng cung chật ních. Hoài Nghĩa tin tưởng Võ
Hậu sẽ xuất hiện như bà từng xuất hiện trong các năm trước. Gã sửa soạn
một chương trình dành riêng cho bà sẽ ra mắt quần chúng với tư cách một
vị Phật. Gã bảo mọi người hãy chờ đợi vì sự xuất hiện của Võ Hậu sẽ làm
cho gã được đẹp mặt vì Võ Hậu đối với gã vẫn còn trọng vọng.
Nhưng gã chờ đợi mãi vẫn không thấy Võ Hậu tới nên gã nghĩ rằng chắc bà còn bận bịu với người yêu mới. Gã gầm lên vì tức giận.
Đêm
hôm đó, trong lúc điên cuồng, sư Hoài Nghĩa đã nổi lửa đốt điện Thiên
Đường. Bức tượng Phật khổng lồ bằng thạch cao bên trong nhồi vỏ cây gai
cũng bốc cháy như một cây đuốc vĩ đại. Lửa bốc lên ngất trời.
Khói
và tàn lửa bay tứ tung. Nhờ thuận gió, lửa từ tòa Thiên Đường cháy sang
tòa Minh Đường và cả hai ngôi điện hùng vĩ thi nhau đắm mình trong biển
lửa. Từ đằng xa những người đi xem hội có dịp chứng kiến một cảnh tượng
huy hoàng. Một cột lửa cao hàng mấy trăm thước đỏ rực một góc trời.
Khi
bình minh ló dạng, các cây cột khổng lồ còn âm ỉ cháy, thỉnh thoảng có
tiếng lách tách nổ vang lên. Hình chim phượng nạm vàng trên nóc Minh
Đường đã bị lửa nung cháy, trông méo mó rất tức cười.
Sư
Hoài Nghĩa đã gây ra đám hỏa hoạn này để cho Võ Hậu một bài học về cái
tội dám lơ là với gã. Nhưng liệu Võ Hậu có dám trừng trị gã hay không?
Gã biết bà không dám.
Thật
vậy, Võ Hậu chỉ xấu hổ và buồn bực. Bà biết ai đã gây ra vụ này và lý
do đưa đến hành động điên rồ đó, nhưng bà lại giải thích với mọi người
rằng một vài người thợ đã vô ý gây hỏa hoạn và bà ra lệnh xây lại tòa
Minh Đường dưới quyền điều khiển của sư Hoài Nghĩa.
Tuy
bất mãn. Bà không dám đụng đến nhà sư, vì bà biết gã dám đem chuyện xấu
xa của bà rêu rao cho mọi người biết. Võ Hậu tự trách mình nhẹ dạ để
đến nỗi mắc vào tay một tên lưu manh, đàng điếm và thô bỉ. Bà biết không
thể đem Hoài Nghĩa ra xét xử, vì chắc chắn sẽ có nhiều chuyện lem nhem
đổ bể, dân chúng biết được, họ sẽ bàn tán khắp nước. Bà sẽ làm trò cười
cho thiên hạ như từng xảy ra khi Hà Tường Hiển bỏ chạy trên đường tới
pháp trường. So với nhà sư Hoài Nghĩa thì gã còn biết nhiều gấp bội. Một
khi gã đem ra kể lại, lập tức bà biến thành một nữ hoàng dâm đãng nhất
lịch sử. Vậy cách hay nhất của bà là giết gã.
Tuy
Võ Hậu làm ngơ, mặc dù Chân Cửu đã viết thư cho bà truy tố Hoài Nghĩa
về tội kết đảng hàng ngàn giang hồ mãi võ để mưu đồ bất chính, nhưng Võ
Hậu có vẻ lưỡng lự.
Công
chúa Thái Bình biết mọi chuyện và đi tìm Võ Hậu để bàn luận. Nàng cũng
có ý tưởng giống như mẹ nàng. Hoài Nghĩa sẽ làm lộ chuyện ra ngoài. Nàng
cũng có một thời kỳ điên đảo mê ly vì gã và nàng không muốn gã đem bùn
trét vào mặt nàng. Nàng nói với Võ Hậu:
- Sao mẹ lại để tên đầu trọc làm loạn như vậy? Mẹ nên thường xuyên trông chừng nó và bắt nó phải kín miệng.
Võ Hậu cười gượng:
- Không đơn giản như con tưởng đâu. Mẹ biết làm gì bây giờ?
Mặt công chúa bỗng cau lại:
- Được rồi! Mẹ để nó cho con. Con sẽ lo việc này. Nó đã muốn như vậy thì phải làm như vậy…
Võ Hậu hiểu ý con và dặn:
- Được lắm, nhưng phải cẩn mật.
Công
chúa Thái Bình gởi giấy mời sư Hoài Nghĩa, bảo gã vào gặp Võ Hậu để bàn
về việc sửa lại tòa Minh Đường. Sau đó, nàng bố trí hơn mười tên thị nữ
khỏe mạnh, trang bị gậy gộc và dây thừng để chờ Hoài Nghĩa đến. Mặt
khác, nàng nhờ Ngọc Ninh là cháu của Võ Hậu, bí mật bố trí một toán thị
vệ để tiếp ứng, phòng khi có trắc trở.
Đến
giờ hẹn, nàng ra đứng trước điện Chiêu Dương để đón. Hoài Nghĩa rất do
dự khi nhận được thư của công chúa, nhất là sau việc gã nổi điên đốt hai
tòa cung điện. Nhưng cuối cùng gã quyết định vào cung, vì gã tin rằng
Võ Hậu không dám chống đối gã.
Hoài
Nghĩa thận trọng cưỡi ngựa vào cung bằng cổng phía Bắc mang theo một số
quân hầu, vừa đi vừa trông chừng xung quanh để đề phòng bất trắc.
Qua
khỏi cổng, tới một khu vườn rộng, gã cho ngựa đi vòng qua một vũng ao
nhỏ và tiến vào nội cung, qua các tòa nhà thông với nhau bằng những hành
lang dày đặc. Gã đưa mắt dò xét thấy không có gì khác lạ, chỉ có mấy
con tì nữ đứng gác như mọi khi.
Công
chúa Thái Bình đang đứng dưới mái điện Chiêu Dương, mỉm cười đón gã. Gã
buộc ngựa dưới một tàn cây rồi ung dung theo công chúa bước vào.
Tức
thì một đám thị nữ tứ phía trong xông ra tung dây trói gã lại. Gã bị
quấn mấy chục vòng bằng dây thừng lớn hết phương cựa quậy. Bọn thị nữ
dùng gậy và cán chổi đập vào chiếc đầu trọc lóc của gã đến chết mới
thôi. Sau đó, xác gã được đem về hỏa táng tại đền Bạch Mã.
Tính mạng nhà sư Hoài Nghĩa được giải quyết rất êm ả và khéo léo. Võ Hậu không ngớt khen ngợi bản lĩnh của công chúa Thái Bình.
Sư
Hoài Nghĩa chết thì cuộc phiêu lưu của Võ Hậu vào thế giới Phật giáo
cũng chấm dứt. Từ ngày bà ghét sư Hoài Nghĩa bà cảm thấy Phật cũng không
có gì hấp dẫn. Giờ đây bà nhận ra Nho giáo hay hơn, bởi vì người yêu
mới của bà là đệ tử của Nho giáo.
LỜI BÀN
Cái gì có mở đầu thì cũng có cái chấm dứt.
Nếu
mở đầu là do một nguyên nhân gây nên, thì sự chấm dứt lại do kết quả
của thời gian hình thành và chất chứa những gì đã nảy sanh do cái đã
sanh ra gây nên.
Võ
Hậu đã dùng một cuộc tình ái chinh phục quân vương để chiếm đoạt uy
quyền, tác yêu tác quái để hưởng thụ, làm điêu đứng giang sơn sự nghiệp
của nhà Đường, thì việc chấm dứt là hậu quả của bà đã gây nên tác động
vào để hình thành một sự kiện khác mở đầu cho một giai đoạn kế tiếp.
Nhân
quả nối tiếp nhau để hình thành và hủy diệt. Đó là quan niệm của Phật
giáo. Nếu lúc này Võ Hậu chê Phật giáo không có gì hay thì đó chỉ là
tham vọng của bà không được toại nguyện vì luật nhân quả đó mà thôi.
Những kẻ tham vọng chỉ thấy được mục đích tham vọng của mình, làm sao thấy được lẽ cao siêu trong lãnh vực triết học.
Những bước giác ngộ của con đường tội lỗi
Một
vở bi hài kịch vừa hạ màn, đánh dấu một giai đoạn xấu xa tội lỗi trong
cuộc đời riêng tư của Võ Hậu. Nhưng để bù lại, chính sách cai trị các bà
mỗi ngày một trở nên nhân đạo hơn. Bè lũ hung bạo, tham lam, dốt nát đã
bị tan rã trong chế độ khủng bố không còn nữa. Tên ác ôn duy nhất còn
lại là họ Lai nay cũng đổi đi xa. Sau vụ vu khống của Thái tử Đán, Võ
Hậu rất chán ghét hắn. Đối với bà, bộ mặt của Thừa Tự chỉ còn là tấm
tranh hí họa, tượng trưng cho sự ngốc nghếch, dốt nát. Hắn đã làm cho bà
vỡ mộng, chẳng còn hy vọng gì ở một triều đại huy hoàng của nhà họ Võ.
Bà bắt đầu chú ý đến một người khác là Võ Tam Tư.
Năm
696, Võ Hậu đã bảy mươi mốt tuổi, cái tuổi biết nhìn vào dĩ vãng để
phân định cuộc đời, không còn những phút bốc đồng như trẻ con nữa. Bà đã
ổn định thể xác lẫn tinh thần. Bà cho triệu hồi những hiền thần mà bà
vẫn ngấm ngầm khen phục như: Địch Nhân Kiệt, Ngụy Viễn Chung, Hứa Ngọc
Cung…
Trước
kia bà để hết tâm trí lo củng cố địa vị, thực hiện tham vọng riêng tư,
giờ đây bà quyết định tổ chức lại triều đình. Việc triều chính bà đã
trải qua nhiều rồi, bà không muốn bận tâm thêm nữa. Bà sẽ giao việc cai
trị cho các hiền thần giàu khả năng và kinh nghiệm. Như vậy còn gì tốt
hơn.
Địch Nhân Kiệt được phong làm Đô Ngự Sử, ông lựa một số người lỗi lạc nhất để cộng tác với ông.
Hứa Ngọc Cung được chọn làm Phó Đô Ngự Sử. Ông là một vị pháp quan cương trực.
Riêng
Ngụy Viễn Chung là nhân vật kiêu hùng cũng trở về giữ chúc Thị Trung.
Nhìn thấy ông người ta liên tưởng đến một cây cổ thụ sống sót sau một
trận bão.
Khi ông vào chầu, Võ Hậu hỏi:
- Sao khanh gặp hết rắc rối này đến rắc rối như vậy?
Viễn Chung hóm hỉnh trả lời:
- Thần là một con nai tơ, họ Lai và họ Châu lại thích món nai hầm, thần biết làm sao bây giờ?
Với
những khuôn mặt như Nhân Kiệt, Viễn Chung, triều đình đã bước qua giai
đoạn tối tăm nhất. Võ Hậu quả có cặp mắt tinh đời khi chọn những người
này, để Nhân Kiệt làm trụ cột triều đình là điều hợp lý, nhưng bà quên
mất một chuyện là Nhân Kiệt thường nói với họ Lai: Là thần tử trung
thành của nhà Đường tôi vui lòng chịu chết.
Cờ
đã đến tay Nhân Kiệt, ông có toàn quyền hành động. Thêm vào đó Võ Hậu
rất tin cậy ông. Với tài hùng biện và giọng nói dễ nghe ông đưa ra ý
kiến gì và tiến cử người nào Võ Hậu đều nghe theo, khoảng hai ba chục
triều thần là người của ông, kể cả Tống Cảnh và Diêu Sùng, hai vị quan
tuổi trẻ tài cao. Ngự Sử Đài do ông cầm đầu không còn sợ Thừa Tự lợi
dụng làm công cụ để qua mặt luật pháp như trước kia nữa.
Sau
một thơì gian bị đổi đi xa, họ Lai vận động và được trở về Kinh Đô,
nhưng chỉ giữ một quan chức nhỏ tại đây. Gã và Thừa Tự không còn gắn bó
như trước. Gã lại đang kiếm cách ám hại Thừa Tự, với hy vọng phục hồi
quyền lợi cũ, nhưng không may cho gã, câu chuyện dính líu đến cả Công
chúa Thái Bình.
Vì
bất đắc chí, gã trở nên nông nổi, thiếu thận trọng. Hồi đó Công chúa
Thái Bình và Thừa Tự làm vài chuyện lem nhem, khiến thiên hạ đàm tiếu.
Chẳng hạn Thừa Tự cướp vợ của người khác, đến nỗi người vợ phải tự tử và
người chồng làm thơ khóc vợ. Bài thơ này truyền từ miệng người này đến
miệng người khác, cả nước đều biết. Họ Lai hùa theo dân chúng nói xấu
Thừa Tự và Công chúa Thái Bình và đây là lỗi lầm lớn trong đời gã.
Thừa
Tự là kẻ hữu dũng vô mưu, nhưng Công chúa Thái Bình không phải là người
dễ chọc. Công chúa lập tức sắp đặt để họ Lai một lúc phạm mấy tội nặng:
cưỡng đoạt, hối lộ, bất công, cướp vợ người…
Khi
họ Lai bị bắt, toàn thể dân chúng Lạc Dương vui mừng hớn hở. Mọi người
đều muốn uống máu, nhai xương gã cho hả dạ. Gã đã giết không biết bao
nhiêu người và phá vỡ vô số gia đình vô tội. Hứa Ngọc Cung và các pháp
quan khác buộc tội gã dễ dàng. Bản án của gã được gởi lên Võ Hậu để bà
phê chuẩn, nhưng đã mấy ngày bà vẫn chưa đả động tới. Toàn thể dân chúng
kinh đô đều nôn nóng chờ đợi quyết chờ đợi quyết định của bà. Lúc đó
một tên hầu cận của Võ Hậu cũng nóng ruột chờ đợi, vì trước đây gã cũng
bị họ Lai hại suýt chết, nên gã căm hận họ Lai từ lâu.
Một hôm, gã đánh xe cho Võ Hậu dạo chơi, gã lựa lời nhắc khéo:
- Sao Bệ hạ chưa phê bản án của họ Lai? Dân chúng đang nóng lòng chờ đợi.
Võ Hậu nói:
- Gã có công lớn với triều đình. Ta còn đang xét lại.
Tên đánh xe nói:
-
Nhưng tội của gã chất cao như núi, các oan hồn đang lởn vởn khắp nơi.
Tất cả triều thần cũng đang mong đợi sự chấp thuận của bệ hạ.
Câu nói này làm cho Võ Hậu tỉnh ngộ. Bà phê duyệt ngay sau đó. Thế là họ Lai bị bịt miệng và đem ra pháp trường.
Từ
sáng sớm một biển người đã túc trực quanh pháp trường để chờ đợi giờ
hành quyết họ Lai, tên ác ôn chuyên hành hình người khác.
Khi
đầu họ Lai rơi xuống, trong đám đông bỗng rú lên một tiếng đầy căm hờn.
Họ thét lên như những người điên, vì vui sướng từ đây họ được ăn ngon
ngủ yên không còn nơm nớp lo sợ nữa.
Tên
hung thần cuối cùng đã ra đi. Họ xông vào pháp trường cướp thi thể họ
Lai, cấu xé, chà đạp nát vụn cho đến khi chỉ còn một đống xương thịt
nhầy nhụa. Có người còn móc mắt, hay nhặt một khúc xương của họ Lai ném
xuống sình một cách hả hê.
Đến
bây giờ Võ Hậu mới hiểu rõ thế nào là lòng căm phẫn của dân chúng. Để
vỗ về họ, Võ Hậu xuống chiếu tru di cả gia quyến họ Lai.
Sau
cái chết của tên hung thần, bầu không khí trong dân trở nên êm ả khác
thường. Võ Hậu rất ngạc nhiên, vì không thấy ai thi nhau báo cáo về các
cuộc phản loạn nữa. Thừa Tự cũng hết lộng hành và mọi người đều cảm thấy
dễ thở.
Trong
thời kỳ khủng bố, quần thần lúc nào cũng nơm nớp lo sợ. Mỗi buổi sáng
khi vào triều, họ thường dặn dò vợ con: Không biết trong triều xảy ra
việc gì và chiều nay ta có về được không?
Dù
là quan to, họ có thể bị bắt bất cứ lúc nào vềø tội phản nghịch và một
khi bị bắt, chắc chắn họ sẽ ra đi không bao giờ trở lại.
Thừa
Tự lúc này hết nơi bám víu. Bước đầu của Nhân Kiệt là giải quyết việc
chọn người kế vị sẽ khỏi tranh giành ám hại lẫn nhau: Thừa Tự chẳng hy
vọng gì tranh ngôi Thái tử vì bao nhiêu công trình xếp đặt của hắn trong
một phút đã trôi theo dòng nước vì một sự bất cẩn, tự cao tự đại. Họ An
đã mổ bụng làm lộ âm mưu vu khống cho Thái tử Đán. Hơn nữa, Nhân Kiệt ý
đang vận động cho Thái tử Triết và Đán lần lượt nối ngôi Võ Hậu. Việc
này tuy khó, nhưng Nhân Kiệt không phải không làm được.
Trong
khi đó, Võ Hậu vẫn nhận ra tình thế không ổn. Làm thế nào một người đàn
bà có thể lập ra một triều đại mà không cần đến con trai là người kế
nghiệp? Vấn đề thật nan giải. Con bà họ Lý, còn cháu bà họ Võ. Không lẽ
bà truyền ngôi cho cháu mà không truyền ngôi cho con. Tuy bà có gán họ
Võ cho Đán, nhưng đó chỉ là giả tạo. Dù sao chàng vẫn thuộc dòng họ Lý
và là người của nhà Đường.
Võ
Hậu suy nghĩ rất nhiều. Bà có hơn mười người cháu. Bà muốn truyền ngôi
lại cho Thừa Tự hoặc Tam Tư, nhưng cứ mỗi lần bà trông thấy mặt chúng,
trái tim bà như chìm hẳn xuống. Điệu bộ của chúng vừa có vẻ bợ đỡ, vừa
có vẻ hóm hỉnh, khúm núm với người trên, hống hách với kẻ dưới. Càng
kiểu cách bao nhiêu chúng lại làm cho bà chán ghét khinh bỉ bấy nhiêu.
Trong
đám cháu của Võ Hậu chỉ có Tam Tư là hơn cả. Bà muốn lập làm Thái tử và
hỏi ý kiến quần thần. Nhân Kiệt cực lực phản đối. Ông đánh đòn tâm lý:
-
Bệ hạ nên chọn một trong các Hoàng tử làm người kế nghiệp. Như vậy sau
này bài vị của bệ hạ mới được đặt trong nhà Thái miếu và thờ phụng đúng
lễ nghi đời này qua đời khác. Hoàng đế xưa nay chỉ thờ cha mẹ chớ chưa
có vị Hoàng đế nào thờ dì tại nhà Thái miếu. Ngoài ra xin Bệ hạ hãy xét
lại xem con thân hơn hay cháu thân hơn? Dù con có ngỗ nghịch, nhưng chưa
chắc cháu đã nhớ ơn dì mãi mãi.
Cũng
như trăm ngàn người đàn bà khác, Võ Hậu cũng sợ khi chết đi rơi vào
cảnh mồ hoang, mả lạnh, quanh năm không ai hương khói, thờ phụng. Bà rất
sợ phải làm hồn ma đói khát. Bà rất khâm phục ý kiến xác đáng của Nhân
Kiệt, nhưng bà vẫn luỡng lự nói:
- Đây là việc riêng trong gia đình. Ta sẽ quyết định.
Nhân Kiệt tỏ ý thêm:
-
Xin Bệ hạ đừng quên tất cả thiên hạ đều thuộc về bệ hạ. Vậy đâu còn
chuyện riêng hay chuyện chung nữa. Vấn đề chọn người kế vị ảnh hưởng đến
hoàng tộc cũng như trăm họ trong nuớc, nó liên quan đến sự an nguy của
xã tắc và phải được giải quyết một cách minh bạch. Hoàng tử Triết và Đán
chính do Bệ hạ sinh ra, dĩ nhiên Bệ hạ nên chọn làm người kế nghiệp.
Đã
từ lâu, Võ Hậu lưỡng lự trong vấn đề này, giờ đây bà bắt đầu cảm thấy
lời nói của Nhân Kiệt có lý. Bà phải chọn hoặc làm mẹ, hoặc làm dì của
vị vua tương lai. Đàng nào an toàn hơn? Rồi một ngày kia bà hỏi Nhân
Kiệt:
- Giữa Triết và Đán nên chọn ai?
Vẫn một lối lập luận vững chắc, rõ ràng, Nhân Kiệt đáp:
- Dĩ nhiên nên chọn Triết vì Triết là anh.
Hoàng
tử Triết hiện đang là Lư Lăng Vương, đã xa Võ Hậu mười bốn năm liền.
Nhờ lời đề nghị của Nhân Kiệt, Triết và vợ được triệu hồi về Kinh đô,
nhưng việc này được giữ bí mật. Mọi người chỉ biết mang máng rằng Triết
bị bệnh và phải về Kinh đô để chữa. Riêng Triết là một con chim đã bị
tên, thấy cây cung là sợ. Chàng tuân lệnh trong sự sợ hãi và lo âu.
Chàng không hiểu lần này về Kinh đô số phận chàng sẽ ra sao?
Một
lần nữa Nhân Kiệt vào cung để nhắc nhở Võ Hậu nên có ý định dứt khoát.
Ông hồ nghi không hiểu tại sao Võ Hậu phải giữ bí mật khi triệu hồi
Triết về làm Thái tử. Bà còn ẩn ý gì chăng.
Nhân
Kiệt lại dùng đến tài hùng biện để thuyết phục Võ Hậu. Ông khéo léo
khơi động tình mẫu tử đang tiềm tàng trong lòng bà. Cuối cùng bà nghe
theo lời ông và gọi Triết đến.
Triết bước ra từ sau một tấm màn. Bà thân mật nói Nhân Kiệt:
- Ta trả Thái tử cho khanh đó.
Nhân Kiệt và Triết đều quỳ xuống tạ ơn. Nhân Kiệt không quên chúc mừng bà đã có quyết định sáng suốt. Ông nói:
- Chuyện này không nên giữ bí mật.
Võ Hậu hỏi:
- Khanh có ý kiến gì hay?
Nhân Kiệt nói:
-
Theo ý kiến thần thì Bệ hạ nên cho dân chúng chứng kiến cuộc trở về của
Thái tử. Bệ hạ nên tổ chức một cuộc tiếp đón long trọng để ngôi thái tử
được công khai thừa nhận.
Võ Hậu nhất nhất nghe theo sự sắp xếp của Nhân Kiệt. Cuộc tổ chức tiếp đón Thái tử vào tháng ba năm 693.
Quá
thất vọng vì giấc mộng làm vua, Thừa Tự sinh bệnh và chết vào tháng
mười một năm đó. Riêng Đán rất vui mừng thấy ý thức tỉnh ngộ của Võ Hậu.
Bấy
giờ Địch Nhân Kiệt đã già, cuộc đời ông là một chuỗi ngày hy sinh cho
xã tắc. Võ Hậu rất kính nể ông và coi ông như người trong Hoàng tộc.
Trong tất cả các buổi họp mặt, ông đều được đặc biệt tôn kính. Võ Hậu
không gọi ông bằng tên hay bằng chúc vụ mà gọi ông là Quốc lão để tỏ rõ
địa vị cao quý của ông.
Tuy
Triết đã được chọn làm người kế vị. Nhân Kiệt thấy rõ sẽ còn xung đột
giữa họ Lý và họ Võ, vì quyền hành vẫn do họ Võ nắm giữ. Ông tự hỏi cuộc
xung đột sẽ kết thúc ra sao? Nhưng có một điều ông chắc chắn là phải
cần đến những người tích cực hoạt động và can đảm mới có thể giải quyết
được vấn đề. Võ Hậu triệt để nghe lời tiến cử của ông nên xung quanh có
một đám người dám nói dám làm, sẵn sàng đoàn kết để đương đầu với mọi
biến cố.
Còn ai kinh nghiệm và can đảm bằng Ngụy Viễn Chung? Còn ai hăng say với nhiệm vụ bằng Diêu Sùng và Tống Cảnh?
Nhưng
điều khiến cho Nhân Kiệt bận tâm hơn cả là làm thế nào để lật đổ nhà
Chu. Ông cần phải có những người tâm phúc. Người đầu tiên ông nghĩ tới
là Trương Giản Chi, một bạn thân từ hồi còn nhỏ. Hiện thời Giản Chi đang
giữ một chúc quan nhỏ. Nhân Kiệt biết rõ Giản Chi là người trầm lặng,
nhưng tài ba xuất chúng. Hai người cùng có một ý định khôi phục nhà
Đường.
Một ngày kia, Võ Hậu bảo Nhân Kiệt tìm một người có khả năng để giữ một nhiệm vụ quan trọng. Nhân Kiệt hỏi:
- Tâu Bệ hạ, người đó phải như thế nào?
Võ Hậu nói:
- Người ấy phải có tài hơn người khác, nghĩa là phải biết nghĩ và hành động trước mọi người khác.
Nhân Kiệt hỏi:
- Tâu Bệ hạ, nhiệm vụ của người đó là gì?
Võ Hậu nói:
- Phải là văn võ kiêm toàn, vừa có thể điều khiển việc triều chánh vừa có thể làm Nguyên soái nơi trận mạc.
Nhân Kiệt nói:
- Vậy thì không ai bằng Giản Chi.
Không
hiểu Võ Hậu nghĩ sao, liền hạ lệnh phong cho Giản Chi giữ chức Trưởng
quan tại Kinh Đô. Tuy chức vụ này quan trọng nhưng chưa được như lời. Có
lẽ Võ Hậu muốn thử tài Giản Chi trước đã.
Một ngày khác, Võ Hậu lại bảo Nhân Kiệt tìm người tài giỏi để trọng dụng. Nhân Kiệt nói:
- Hạ thần đã tiến cử Giản Chi rồi mà?
Võ Hậu nói:
- Trẫm đã sử dụng rồi.
Nhân Kiệt nói:
- Không phải như vậy. Hạ thần tiến cử người làm Thừa Tướng chứ không phải làm một chức quan nhỏ.
Võ Hậu liền phong Giản Chi là Phó Thượng Thư bộ Hình. Thế là Giản Chi trở nên một nhân vật quan trọng.
Nhân
Kiệt cảm thấy mình đã già, không còn sống được bao lâu ông sẽ ra đi
trong sung sướng vì cuộc cờ chính trị ông đã đi những nước khá cao và
đang thắng thế, phần còn lại ông phó mặc cho định mệnh, mà định mệnh lại
đang nằm trong tay của những người được ông tiến cử.
Năm
700, sau khi tâm sự với Giản Chi, Địch Nhân Kiệt nhắm mắt từ trần. Lúc
đó ông bảy mươi mốt tuổi. Bộ óc lớn nhất của thời đại không còn nữa.
Trước
khi Địch Nhân Kiệt chết, Võ Hậu bắt đầu dan díu với hai anh em họ
Trương, mới ngoài hai mươi tuổi. Dưới mắt Nhân Kiệt chúng chỉ là nàng
hầu của Võ Hậu, không đáng kể.
Hơn
nữa, đó là chuyện tình ái của Võ Hậu, ông chẳng cần bận tâm. Đối với
ông, chúng có ích hơn là có hại. Ông có thể lợi dụng chúng để xúi giục
Võ Hậu làm theo ý ông.
Ngụy
Viễn Chung có lần vào can gián Võ Hậu không nên mê đắm anh em họ Trương
và để chúng trong khuê phòng, vì đây là một hành động tội lỗi có thể
đưa nhà Chu đến chỗ diệt vong.
Nhưng
Nhân Kiệt không quá bận lòng việc này như vậy. Theo ông nghĩ sự đam mê
của Võ Hậu đã giúp ông khôi phục nhà Đường dễ dàng hơn.
Võ
Hậu cảm thấy chưa thỏa mãn với quan Thái y họ Trần. Bà còn phải có hai,
ba, bốn hoặc nhiều hơn nữa những người yêu. Các Hoàng Đế có nhiều cung
nữ, bà phải cũng có nhiều cung nam. Vả lại bà đã già, bảy mươi ba tuổi,
cần phải có những lúc giải trí. Xưa nay các vị vua già vẫn còn thích gái
tơ, dù chẳng làm gì được, vậy tại sao bà không được quyền giữ các trai
tơ trong khuê phòng?
Anh
em họ Trương rất trẻ, trắng trẻo và đẹp trai. Người anh tên Trương Diệc
Phi và người em tên Trương Xương Tôn. Mọi người thường gọi chung là Ngũ
Lang, Lục Lang và chúng là con thứ năm và thứ sáu trong gia đình họ
Trương. Hai anh em thường đánh phấn, thoa son, đầu tóc láng mượt và ngậm
bạc hà cho thơm miệng. Hai anh em luôn túc trực trong cung mặc dù đã
được Võ Hậu cấp cho dinh thự, đất đai riêng và vô số kẻ hầu người hạ.
Chuyện
tình của Võ Hậu rất đặc biệt, nhưng chưa ngộ nghĩnh bằng máu ghen của
bà, một bà già ngoài bảy mươi tuổi ghen với cô gái trẻ vì tranh nhau một
chàng trai.
Uyển
Nhi là cháu nội Thương Quan Nghị, trước kia Thương Quan Nghị đã cùng
vua Cao Tôn mưu truất ngôi Võ Hậu nhưng không thành và bị bà giết, cả
gia đình bị bắt làm nô lệ. Uyển Nhi may mắn được vào giúp việc trong
cung, nhờ văn hay chữ tốt, được Võ Hậu cho giữ việc soạn thảo các chiếu
chỉ. Vì có sắc đẹp, nàng được Xương Tôn để ý trong các buổi tiệc tùng
hoặc các cuộc vui giải trí. Nhân lúc Xương Tôn quá đắm say tỏ cử chỉ
suồng sã với nàng, khiến Võ Hậu bắt gặp. Bà rít lên:
- Quân này to gan thật.
Vừa
nói bà vừa rút một lưỡi dao bằng vàng đâm vào mặt Uyển Nhi. Nàng vội
thụt lùi để tránh nhưng vẫn bị mũi dao sượt vào trán. Cũng may Xương Tôn
kịp thời quỳ xuống gánh tội cho nàng nên Võ Hậu mới nguôi giận.
Do
đó, Uyển Nhi căm thù bà. Đến đời vua Trung Tôn (Triết) nàng trở thành
một nữ ma đầu, thường cùng Vi Hậu (vợ Triết) tư thông với Võ Tam Tư và
gây rất nhiều sóng gió trong triều đình.
Nhiều
người tự hỏi anh em họ Trương giữ chức vụ gì trong cung mà có quyền ở
mãi trong nội cung như vậy? Thắc mắc này làm cho Võ Hậu lo lắng. Bà cần
phải tránh tai tiếng và hợp thức hóa việc lưu trú anh em họ Trương trong
cung, nên đặt cơ quan mới gọi là: Viện chim hạc và cho Diệc Chi làm
Viện Trưởng. Sở dĩ bà đặt ra viện này là vì chim hạc tượng trưng cho đạo
giáo (do Lão Tử sáng lập) các bậc thiên thần thường cưỡi loại chim này.
Theo Võ Hậu, Viện chim hạc có nhiệm vụ nghiên cứu tinh thần, soạn thảo
một tuyển tập về Tam Đạo trong đó có ghi chép những lời nói của Khổng
Tử, Lão Tử và Phật Thích Ca, cùng những tư tưởng các bậc thánh nhân
khác.
Thật
ra Viện Chim Hạc gồm một bọn người làm ít chơi nhiều, tuy cũng có một
vài học giả hùa theo a dua, bợ đỡ Võ Hậu, hoặc tụ tập nhau để rượu chè,
cờ bạc… Người ta có cảm giác là Võ Hậu đã tổ chức một động tiên nho nhỏ
cho bọn thuộc hạ vui chơi và người ta nhớ đến cảnh trác táng của Hoàng
Đế nhà Tùy, đến nỗi mất ngôi vì mê gái.
Có
vài kẻ còn bịa ra rằng Xương Tôn là hiện thân của một đệ tử của Lão Tử.
Gã thường mặc áo lông chim, miệng thổi sáo và cưỡi trên lưng một con
hạc gỗ trong vườn thượng uyển, để biến giấc mộng thần tiên của Võ Hậu
thành sự thực.
Rốt cuộc, Viện Chim Hạc trở thành nơi quy tụ các gã đẹp trai, trung tâm đồng tình luyến ái nổi tiếng thời bấy giờ.
Một
gã trẻ tuổi tên Vi Hữu Tường huyênh hoang tuyên bố rằng gã có đủ điều
kiện để gia nhập vào Viện Chim Hạc vì hạ bộ của gã rất đẹp.
Khi
lời phạm thượng ấy tới tai Chu Thanh Sắc, một vị quan thâm nho, nổi
giận lập tức viết một bức thư gởi cho Võ Hậu. Bức thư nói:
“Thần
nghĩ rằng anh em họ Trương đã quá đủ cho Bệ hạ, đâu cần tìm đâu ai
khác. Triều đình đã mang tai tiếng quá nhiều. Vừa rồi thần lại nghe Vi
Hữu Tường yêu cầu được vào phục thị trong cung vì gã có khả năng bẩn
chẩu và xung quanh gã còn nhiều kẻ khác…
Sau khi xem thư, Võ Hậu gọi Chu nói:
- Cám ơn khanh đã nhắc nhở. Trẫm thực tình không biết.
Nhưng họa giả có khí phách của bậc nho sĩ đều lắc đầu trước cảnh phong hóa suy đồi này.
Sau
bức thư của ho Chu, Võ Hậu khám phá ra Viện Chim Hạc của bà nổi tiếng
đến mức độ kinh khủng, nên bà vội đổi tên là phủ Nội Thị để khỏi bị chú
ý. Có người tính ra rằng ngoài những lúc chè chén say sưa, Võ Hậu dành
thì giờ để sống trên giường.
Thiên
hạ đàm tiếu mỗi lúc một nhiều. Hai người con lớn của Triết cũng dại dột
nói ra nói vào, không may đến tai Võ Hậu nên bà nổi giận đánh hai người
cháu ruột đến chết.
Tuổi già vẫn không làm thay đổi tánh chút nào.
LỜI BÀN
Khi lòng tham vọng con người không còn mãnh liệt nữa thì mọi ý nghĩ và hành động cũng thay đổi theo.
Võ
Hậu trước đây dùng uy quyền chiếm đoạt quyền lợi hưởng thụ nhưng khi đã
đạt được một múc độ nào đó bỗng nhiên cảm thấy có nhiều tội lỗi do tham
vọng mù quáng mà sinh ra. Do đó Võ Hậu có vẻ hối cải ở cuối đời mình.
Đó là Võ Hậu đã học được những bài họa của lẽ sống.
Trường học trong cõi sống có hai nơi. Một là học trong sách vở, kinh nghiệm của người xưa để lại. Hai là học ở trường đời.
Kẻ
học nơi sách vở thì chưa làm đã thấy, kẻ học ở trường đời thì phải hành
động thì mới thấy. Vì vậy mà kẻ học được nhưng bài học ở trường đời
thường phải trả một giá rất đắt, có khi bằng một cuộc đời, hay một sinh
mạng.
Ngày tàn ngôi báu
Hành
động quá khích của Võ Hậu không bịt miệng được thiên hạ, nó còn làm cho
họ đàm tiếu thêm. Nhưng càng đàm tiếu Võ Hậu càng trụy lạc.
Các
triều thần hợp nhau để phản đối việc anh em họ Trương vì bọn bà con của
chúng càng ngày càng kiêu ngạo và làm loạn kinh đô. Bọn này ỷ thế anh
em họ Trương để tác yêu tác quái, không kể gì đến luật pháp. Nếu anh em
họ Trương chỉ ở trong khuê phòng vui thú với Võ Hậu thì các quan có thể
nhắm mắt làm ngơ, nhưng chúng và mấy đứa anh em khác cứ đòi xin vào
triều chính. Các đại thần tự cho đây là một điều sỉ nhục, không thể bỏ
qua.
Riêng
Ngụy Văn Chung không bao giờ tha thứ cho những hành động vô kỷ luật. Có
lần ông sai lính đánh bọn thuộc hạ của Xương Tôn một cách công khai, vì
bọn này làm náo loạn thành phố. Ngoài ra, Viễn Chung còn viết thư cho
Võ Hậu nói:
-
Thần rất thấy làm xấu hổ đã không làm tròn bổn phận và để cho những kẻ
vô lại có dịp qua mặt bệ hạ, không kể đến trật tự và kỷ cương.
Rồi
cuộc xung đột bắt đầu, Viễn Chung quyết dùng mọi quyền hạn để quét
triều đình, trừ khử mấy gã trai tơ. Ông không thuộc về nhóm người ngấm
ngầm hoạt động của Giản Chi, mà khi ông bắt đầu hành động thì Xương Tôn
tấn công ông trước. Gã ton hót với Võ Hậu rằng Viễn Chung nói một câu có
ý chê Võ Hậu già. Quần thần nên hợp nhau lại để phò Thái tử Triết. Gã
đã một đòn rất lợi hại vì đây là điều tối kỵ của Võ Hậu. Trả ngôi cho
Triết ư? Không đời nào, trừ khi bà chết.
Trong
triều chia ra làm hai phe rõ rệt. Một bên là anh em họ Trương và một
bên là một số đại thần. Triết và Đán cũng có mặt. Viễn Chung sẽ phải ra
trước hội nghị để trả lời về câu nói phạm thượng của ông.
Thấy
tình thế gây go, Xương Tôn vội chạy đi tìm một vị quan tên là Duy và
xúi ông này vào chầu vu khống cho Viễn Chung để nói câu phạm thượng
trên.
Hồi
đó Duy chỉ là một vị quan ngũ phẩm. Xương Tôn hứa sẽ tâu với Võ Hậu
thăng chức cho ông thật mau. Duy là người rất khôn ngoan, dường như ông
đã nhận lời Xương Tôn.
Sáng hôm sau, trong khi chờ giờ vào chầu, quan Phó Đô Ngự Sự Tống Cảnh nói với Duy:
-
Tôi rất lấy làm buồn nếu ngài toa rập với kẻ tiểu nhân để vu oan Thị
Trung (Ngụy Viễn Chung). Việc gì phải sợ mấy gã con gái đó? Chúng ta
phải vì quyền lợi chung mà tranh đấu. Công Luận sẽ ủng hộ ngài và chúng
tôi cũng sẽ hết sức bênh vực ngài. Nếu vì chống lại bọn vô lại mà ngài
bị bãi chức, hoặc bị đổi đi xa thì đó chính là một vinh dự lớn lao.
Trong số những người hiện diện, ngoài Tổng Cảnh còn có Lưu Trí Cơ, một sử gia danh tiếng.
Lưu Trí Cơ nói với Duy:
- Ngài phải chọn cái chết vinh quang và cái sống nhục nhã.
Các người khác cũng xúm lại khuyên Duy hãy can đảm chống lại Xương Tôn và Duy có vẻ xiêu lòng.
Một lát sau, Viễn Chung tới, mặt ông hầm hầm, vừa trông thấy Duy, ông lớn tiếng:
- Đồ con bò! Người dám hại Ngụy Viễn Chung ư?
Giọng ông đượm vẻ khôi hài làm cho Duy đỏ mặt:
- Sao ngài lại nặng lời như vậy? Ngài hãy tin nơi tôi.
Vừa
lúc đó chuông chầu reo. Mọi người ngưng nói chuyện, sắp hàng để vào
chầu và một cuộc đấu khẩu rất hào hứng diễn ra giữa một tên học hành dở
dang và một học giả uyên bác.
Mở
đầu cuộc hội nghị, Võ Hậu hỏi Duy đã nghe viễn Chung nói những gì.
Trong khi Duy đang suy nghĩ để lựa lời, Xương Tôn dùng cùi chỏ thúc vào
và nhắc:
- Nói đi đừng sợ .
Duy gật đầu và chậm rải nói:
-
Tâu Bệ hạ! Trước mặt Bệ hạ mà Xương Tôn ngang nhiên bắt thần phải nói
theo gã, vậy thì Bệ hạ thử tưởng tượng gã sẽ làm gì nếu vắng mặt Bệ hạ.
Giờ đây trước mặt Bệ hạ và các vị đại thần, thần xin xác nhận rằng thần
không hề nghe quan Thị Trung kêu gọi bá quan giúp Thái tử chống lại Bệ
hạ. Xương Tôn đã buộc thần làm chứng gian, nhưng rất tiếc thần phải nói
thật sự.
Sau một phút sửng sờ, Xương Tôn la lên, quên cả sự có mặt của Võ Hậu:
- Cả Viễn Chung và Trương Duy đều là bọn phản loạn.
Võ Hậu lên tiếng ngăn cản:
- Khanh không nên buộc tội họ một cách hồ đồ như vậy. Cần phải có chứng cớ.
Xương Tôn nói:
- Thần có chứng cớ.
Võ Hậu hỏi:
- Chứng cớ đâu?
Xương Tôn nói:
- Có lần thần nghe thấy Duy khuyến khích Viễn Chung nên cố gắng để trở thành Chu Công.
Các
đại thần đều thở phào nhẹ nhõm, có người phải nhịn cười Chu Công chính
là bậc thánh hiền, một nhân vật lý tưởng mà Khổng Tử đã thấy trong giấc
mơ. Xương Tôn muốn nói với Viễn Chung rắp tâm muốn trở thành một nhân
vật tuyệt đỉnh như Chu Công. Thực ra trong lịch sử chưa có bậc trung
thần nào cỡ Chu Công. Khi đem so sánh người nào với Chu Công là tâng bốc
người đó một cách quá lố.
Nghe Xương Tôn vu khống, Trương Duy vội cười nói:
-
Tâu Bệ hạ! Đáng lẽ Xương Tôn nên học thuộc những bài sử ký vỡ lòng của
gã. Quả thật khi quan Thi Trung được triệu hồi về Kinh, hạ thần có đến
chúc mừng ông và tỏ ý hy vọng ông sẽ trở nên một đại thần như Chu Công.
Còn ai xứng đáng hơn Chu Công để mọi người noi theo?
Quần
thần đều phá lên cười. Thẹn quá hóa giận, Xương Tôn chạy lại thì thầm
mấy câu với Võ Hậu. Không hiểu nghĩ sao, Võ Hậu quay qua quát Duy:
- Đồ phản phúc!
Rồi bà ra lệnh đem Duy và Viễn Chung ra ngoài, không cho giải thích gì thêm.
Ngày
hôm sau, Trương Duy được đem ra hỏi lại, nhưng ông vẫn một mực bảo thủ ý
kiến cũ. Võ Hậu quyết định lập một phiên Tòa gồm các vương tước và đại
thần thuộc Chính sự Đường để xử vụ này. Nghi Tăng, cháu Võ Hậu cũng có
mặt trong phiên Toà.
Mọi người bàn tán xôn xao về vụ Viễn Chung ra Tòa. Các đại thần đều họp nhau để ủng hộ Viễn Chung.
Trong
đời Viễn Chung hầu như không lúc nào ông rời khỏi cái đích để mọi người
tấn công, và cũng là thần tượng để mọi người chiêm ngưỡng. Khi Võ Hậu
triệu ông về kinh đô mọi người đều khen bà biết dùng người. Giờ nay thấy
Viễn Chung lâm nạn, các quan tới tấp viết tờ xin tội cho ông. Họ cam
đảm đứng ra lấy tính mạng để bảo đảm cho sự trung thành của Viễn Chung.
Tuy nhiên, một lời thì thầm bên gối bao giờ cũng có sức mạnh gấp trăm lời biện hộ hùng hồn trước Tòa.
Võ
Hậu luôn luôn quí mến Viễn Chung, nhưng bà không thể để người yêu mất
mặt. Có tội hay không Viễn Chung cũng dời kinh đô một lần nữa.
Trước khi ra đi, Viễn Chung vào từ giã Võ Hậu, và nói một câu rất cảm động:
-
Tâu Lệnh bà! Kẻ hạ thần đã già, chẳng còn sống bao lâu nữa. Lần này ra
đi không biết còn có dịp nào gặp mặt Bệ hạ. Sau này sẽ có lần Bệ hạ sẽ
nhớ lời hạ thần nói là đúng.
- Khanh muốn nói lời gì?
Viễn Chung nói:
- Hai gã đẹp trai kia sẽ hủy hại cơ nghiệp của Bệ hạ.
Viễn Chung cúi đầu nói lời từ biệt rồi rời khỏi cung.
Võ Hậu nhìn theo thở dài:
- Ta lại mất một bậc hiền thần.
Viễn
Chung ra đi nhưng chuyện đến đây chưa phải là hết. Ông đã mất chức đại
thần chỉ vì một tên vô lại. Vậy mà Xương Tôn vẫn chưa hài lòng.
Theo
thông lệ, một người bạn đi xa thì họ họp nhau để đưa tiễn. Viễn Chung
và tám người bạn họp nhau tại ngoài thành Lạc Dương để chè chén một bữa
say sưa, Xương Tôn vịn vào chuyện này để ám hại ông. Gã giả tạo một bức
thư ký tên là Tài Minh và gởi cho Võ Hậu tố cáo Viễn Chung họp mặt với
bạn bè ngoài vùng ngoại ô để mưu phản.
Tám
người bạn của Viễn Chung đều là quan nhỏ, nên Võ Hậu chỉ ra lệnh cho
một pháp quan tên là Hoài Tô xét xử. Xương Tôn kêu người mang giấy đến
bảo Hoài Tô:
- Đây là một vụ đơn giản, hãy lấy cung rồi báo cáo gấp.
Nhưng
Hoài Tô không nghĩ như vậy, theo ông vụ này có thể đem đến cái chết cho
Viễn Chung, người mà ông ngưỡng mộ từ lâu. Ông do dự mãi và cho người
điều tra thật kỹ.
Mấy hôm sau lại có giấy của Võ Hậu gởi tới báo:
- Các sự kiện đã rõ ràng sao không kết án ngay đi? Ta không thể chờ đợi được nữa.
Bắt
buộc Hoài Tô phải vào gặp thẳng Võ Hậu. Ông không sao tìm ra tên Tài
Minh, người đã viết thư tố cáo Viễn Chung, cả địa chỉ và nghề nghiệp của
hắn cũng không biết nốt.
Võ Hậu nói với ông:
- Chẳng lẽ ta biết gã Tài Minh ở đâu để chỉ cho khanh? Khanh cứ xử đi, có thư tố cáo là đủ rồi.
Hoài Tô nói:
- Tâu Bệ hạ! Thần lấy làm tiếc là không thể quyết định dứt khoát nếu không được nói chuyện với người đã viết thư tố cáo.
Võ Hậu nói:
- Lời lẽ trong thơ không đủ rõ ràng hay sao? Cần gì phải nói chuyện với người viết thơ?
Hoài Tô nói:
-
Tâu Bệ hạ! Thần nghĩ rằng lá thư chưa phải là nhân chứng. Không có ai
tên Tài Minh viết lá thư đó. Thần không thể xử một việc không có nguyên
cáo, mà người chứng cũng không.
Võ Hậu nói:
- Khanh nói vậy là để bọn phản nghịch được tự do?
Hoài Tô nói:
-
Thần đâu dám vậy, nhưng Ngụy Viễn Chung là Thị Trung, do Bệ hạ chỉ
định. Các bạn của ông làm tiệc tiễn ông đi xa là một việc rất thường
tình. Thần tin rằng không đời nào Ngụy Viễn Chung tạo phản. Bệ hạ có
thừa uy quyền để ra lệnh giết ông, nhưng Bệ hạ muốn thần đem ra xét xử
thì thần buộc lòng phải chiếu theo pháp luật.
Võ Hậu nói:
- Khanh muốn nói luật pháp sẽ giúp chúng bình yên vô sự?
Hoài Tô nói:
- Thần là người ngu xuẩn, nhưng thần vẫn thấy những người đó vô tội.
Mọi
chuyện đã rõ ràng đến độ Võ Hậu không thể ngang nhiên trừng phạt Hoài
Tô. Bà buộc lòng phải gác bỏ vụ án sang một bên và tìm cách an ủi Xương
Tôn.
LỜI BÀN
Ái tình là một liều thuốc mê, làm cho con người mất hết nhân cách, nếu không biết giữ gìn giữ phẩm chất của mình.
Xưa
nay, ái tình đã làm cho con người vì nó mà thân bại danh liệt trong
nhiều lãnh vực. Nhưng nếu ở vào hoàn cảnh một người dân thường thì mối
nguy hại không đáng kể, còn khi nó ở vào một kẻ có quyền uy thì tai hại
không lường được.
Võ
Hậu là một vị vua, cai trị thiên hạ, lại vướng vào cạm bẫy của tình
yêu, đem uy quyền của mình phục vụ cho cá nhân, không kể đến tánh mạng
trung thần và sự suy vong của xã tắc thì thật là một hành động rất bỉ
ổi.
Vì tình yêu mà quên cả bổn phận làm người thì đó là kẻ si tình, đánh mất lý trí.
Trong
cuộc sống nhiều người đã lợi dụng sức mạnh của tình yêu để điều khiển
kẻ khác. Đó là những hạng người mê muội nên bị lầm lạc rất đáng thương.
Nhà Đường phục hưng
Chuyện
Võ Hậu và người yêu toa rập buộc tội Viễn Chung một cách độc đoán làm
cho triều thần bất bình và ngớ ngẩn. Các quan lớn nhỏ bỗng dưng đoàn kết
nhau hơn. Tình cảm quần chúng trải qua một cơn giao động và ý tưởng nổi
loạn bắt đầu nhen nhúm trong lòng họ khác hẳn tình trạng cam chịu dưới
bàn tay của bọn hung thần thuở trước.
Tên
tuổi của hai anh em họ Trương bắt đầu bị bôi lọ trên các bờ tường,
ngoài đường phố Lạc Dương, hoặc xuất hiện trong những bài ca, bài vè với
giọng điệu mỉa mai, nhạo báng. Những lúc trà dư tửu hậu, mọi người đem
chuyện vừa tục tiểu vừa hấp dẫn giữa Võ Hậu và nhà sư cách đây ít lâu.
Chính Võ Hậu cũng cảm thấy ngột ngạt. Theo bà nghĩ nguyên nhân này xảy
ra là do các pháp quan không chịu làm việc.
Sau
khi Viễn Chung đi xa, tên thuộc hạ là anh ruột của Xương Tôn, như thoát
khỏi đại họa. Gã tha hồ tung hoành và chẳng bao lâu trở nên giàu có và
còn đáng ghét hơn nữa. Gã xây một tòa lâu đài vĩ đại, hiện rõ ra một tên
trọc phú. Một người vô danh nào đó thấy ngứa mắt, đêm đêm dùng phấn
viết lên cửa nhà trọc phú họ trương câu: “Giàu được bao lâu mà ham”.
Mỗi
buổi sáng, gã trọc phú đều phải sai người lau sạch hàng chữ. Tình trạng
này kéo dài, đến một hôm gã chịu hết nổi cũng dùng phấn viết lên cánh
cửa để trả lời: “Sướng một ngày là hơn thiên hạ rồi”.
Lúc
này người ta không phân biệt giữa việc tiêu diệt anh em họ Trương và
việc nổi dậy bắt Võ Hậu phải thoái vị. Hai việc có cùng một chính nghĩa.
Khoảng
mười lăm người do Giản Chi cầm đầu đang bí mật hoạch định chương trình
hành động. Ngoài Giản Chi còn có những nhân vật đầu não khác, cũng do
Địch Nhân Kiệt tiến cử trước kia cũng cương quyết tham gia. Họ rất hăng
say chống lại anh em họ Trương. Đây là lúc thuận tiện để mọi người họp
nhau làm một cuộc cách mạng.
Mấy
năm trước Giản Chi và một người bạn thân là Dương Viễn Yến đã đi trên
thuyền cùng nhau thề nguyền sẽ khôi phục nhà Đường. Khi Giản Chi được
Nhân Kiệt tiến cử, ông lập tức đưa Viễn Yến vào cung để chỉ huy một toán
thị vệ.
Từ
ngày Ngụy Viễn Chung bị đổi đi xa, Võ Hậu đau ốm liên miên. Trong mấy
tháng liền bà không bước chân ra khỏi phòng. Xương Tôn và Diệc Chi lo
tái người, không biết số phận của chúng sẽ ra sao nếu thần hộ mạng của
chúng về chầu trời. Võ Hậu đã bảy mươi tám tuổi, dù thuốc men qúi hóa
đâu cũng không thể làm cho bà chậm bước thời gian.
Anh em họ Trương thấy tình thế nguy cập, vội kết bè kết đảng để củng cố địa vị phòng khi bất trắc.
Ngoài
đường phố người ta bắt đầu thấy những dòng chữ của những người vô danh
rêu rao rằng anh em họ Trương đang âm mưu chiếm đoạt ngai vàng.
Tháng
bảy năm 703, các triều thần tìm ra cớ để buộc tội Xương Tôn. Gã cướp
đất của một nông dân. Giản Chi khuyên bảo họ làm to chuyện để uy tín anh
em họ Trương và gây căm phẫn trong quần chúng. Hơn nữa việc này sẽ làm
cho Võ Hậu bối rối thêm và có lợi cho kế hoạch của ông.
Giản
Chi không để lỡ một cơ hội nào. Ông không cần thiết có kết tội được
Xương Tôn hay không, hay gã lại qua mặt luật pháp nhưng chắc chắn công
luận sẽ phê phán và Võ Hậu sẽ không tránh khỏi tai tiếng.
Theo
án lệ, một vị quan cướp đất của dân phải bị phạt và mất chức. Các pháp
quan đều đề nghị tước bỏ hết phẩm trật và chức vụ của Xương Tôn. Võ Hậu
linh cảm thấy sự biến chuyển của bầu không khí chính trị, các người yêu
của bà không được lòng những người xung quanh, nhưng quần chúng dám tấn
công Xương Tôn tức là họ dám thách thức cả chính bà.
Khi các quan họp để luận tội Xương Tôn, Võ Hậu nói:
-
Trẫm biết các khanh không ưa Xương Tôn, nhưng việc cướp đất là thuộc hạ
của gã làm, các khanh nên nghĩ tới công lao của gã đối với trẫm mà châm
chước.
Tống Cảnh nói:
- Tâu Bệ hạ! Xương Tôn có công gì?
Võ
Hậu quay sang hỏi mấy tên hầu cận. Tên này chuyên môn theo đuôi Xương
Tôn, và được mệnh danh là chồn hai chân vì gã rất ranh mãnh.
Võ Hậu hỏi:
- Theo khanh Xương Tôn có công gì?
Tên hầu cận nói:
- Tâu Bệ hạ, Xương Tôn có công tìm ra những vị thuốc hiếm có nhất để cho Bệ hạ trường sanh bất lão.
Theo giọng điệu bợ đỡ của gã, Võ Hậu sống lâu là một điều quan trọng lắm, nhưng các quan chỉ cười thầm.
Võ Hậu thản nhiên nói:
- Nếu vậy Xương Tôn được phép giữ nguyên chức tước.
Các quan hết ý kiến.
Tháng
mười hai năm đó, Xương Tôn lại bị truy tố, lần này nặng hơn. Gã dám đi
hỏi thầy bói xem gã có thể hy vọng được làm vua hay không. Lão thầy bói
gieo quẻ xong cho biết khí dương rất thịnh, chắc phen này Xương Tôn lên
ngôi. Người còn khuyên Xương Tôn về lập đền thờ tại Định Châu để cầu
phúc.
Lão
thầy bói bị bắt để thẩm vấn, lão thú nhận có đón quẻ cho Xương Tôn. Nội
vụ được trình lên Võ Hậu. Trong khi đó Xương Tôn cũng tức tốc viết thư
kể rõ đầu đuôi việc xem bói của gã để chứng tỏ gã không có ẩn ý gì. Mặt
khác gã bố trí để Võ Hậu chỉ định hai pháp quan đồng đảng của gã xét xử
nội vụ.
Sau
khi điều tra, hai tên pháp quan xác nhận Xương Tôn quả có tội, nhưng vì
gã đã thẳng thắn trình bày với Võ Hậu và không có ẩn ý gì nên đề nghị
tha bỗng.
Tống
Cảnh cực lực phản đối việc này. Theo ông, rõ ràng Xương Tôn có ý phản
nghịch và ông đã viết thư cho Võ Hậu giải thích tội trạng của gã. Nếu gã
không có gian ý tại sao gã đến khi gã thầy bói bị bắt mới trình bày câu
chuyện cho Võ Hậu biết? Ông đề nghị bắt Xương Tôn đem ra Tòa xử công
khai.
Vì
muốn che chở người yêu, Võ Hậu ém nhẹm lá thơ của Tống Cảnh, không nhắc
nhở gì tới. Nhưng Tống Cảnh chưa chịu thôi, ông viết một lá thư khác,
trong đó ông nói rõ dư luận sẽ xôn xao nếu nội vụ không được đưa ra ánh
sáng.
Võ
Hậu vẫn tìm kế hoãn binh, vì không nỡ vứt người yêu cho chó gặm. Chúng
rất thèm thịt Xương Tôn. Tống Cảnh là một tên cứng đầu không kém Ngụy
Viễn Chung. Bà biết không đời nào Tống Cảnh bỏ qua vụ này chỉ trừ khi
ông không có mặt tại kinh đô. Bà bèn cử ông đi Dương Châu để điều tra vụ
án, nhưng ông từ chối, viện cớ là ông có quá nhiều việc phải giải quyết
tại kinh đô.
Vụ
án của Xương Tôn vẫn còn là một thùng thuốc súng nổ chậm. Võ Hậu không
chịu giải giao Xương Tôn cho các quan, gã vẫn nhởn nhơ bên cạnh bà. Các
đại thần quyết định tập trung lực lượng để tấn công.
Võ Hậu biết được bèn đòi Tống Cảnh đến thuyết phục. Bà nói:
- Khanh không thể châm trước cho gã chút nào sao?
Tống Cảnh nói:
-
Tâu Bệ hạ, thần biết thần đã lớn mật dám trái ý Bệ hạ, nhưng công việc
là công việc, thần phải thi hành nhiệm vụ. Nếu Bệ hạ có nổi giận mà giết
thần thì thần cũng đành chịu.
Võ
Hậu rất phân vân. Bà không thể bóp méo luật pháp một cách trắng trợn
được. Cách duy nhất để cứu Xương Tôn là lập mưu giải thoát như đã cứu
Hoài Nghĩa lúc trước.
Xương
Tôn bị giải ra Ngự Sử Đài. Tống Cảnh mừng rỡ tưởng Võ Hậu đã nhường
bước. Ông lập tức tiếp hành cuộc thẩm vấn, nhưng khẩu cung chưa lấy xong
thì có quan Khâm sai tới đòi Xương Tôn phải về trình diện với Võ Hậu
gấp. Thế là Xương Tôn điềm nhiên về cung.
Tống Cảnh hậm hực nhìn theo Xương Tôn tiếc rẻ:
- Ta ngu quá! Tại sao không đập tên vô lại chết ngay từ lúc đầu? Nó đi mất rồi biết làm sao bây giờ?
Một
lần nữa Võ Hậu ra mặt công lý. Xương Tôn thoát khỏi bàn tay của luật
pháp nhờ sự sắp đặt trơ trẽn của bà lão đa tình. Kẻ tử tội vẫn nhởn nhơ,
đùa giỡn với luật pháp.
Quần
thần hết kiên nhẫn nổi, nhất định anh em họ Trương phải trả một giá rất
đắt, dùng pháp luật không xong thì dùng thủ đoạn. Giản Chi sẽ ra mặt
hành động.
LỜI BÀN
Pháp
luật trong một nước đặt ra là để bảo vệ sự công bằng cho toàn dân, nếu
kẻ cai trị mà không tuân thủ luật pháp thì xã hội sẽ rối loạn, mất trật
tự.
Nhưng
phần nhiều trong cuộc sống con người kẻ có quyền thường hay lợi dụng
quyền uy của mình để trách né pháp luật, thành ra pháp luật chỉ dùng để
trừng trị những kẻ có thế mà thôi.
Pháp luật đã không được kẻ cai trị tôn trọng thì xã hội bất minh, mà xã hội bất minh thì đi đến rối loạn.
Võ Hậu chỉ vì người yêu mà xóa bỏ pháp luật, làm cho dân tình căm phẫn thì làm sao không gánh lấy hậu quả được.
Không bình đẳng trước pháp luật thì không thể tồn tại.
Những ngày cuối cuộc đời tình ái
Võ
Hậu đau bệnh triền miên suốt tháng chạp năm 704 ngay trong lúc vụ án họ
Trương đang tiếp diễn. Những ngày năm cùng tháng tận, trước khi bước
qua tuổi tám mươi tình trạng bà trở nên bi đát. Trừ anh em họ Trương túc
trực bên giường không ai được phép vào gặp bà kể cả con ruột và các đại
thần.
Giản
Chi quyết định hành động. Tiêu diệt anh em họ Trương là chính nghĩa của
ông và là mục đích chung của mọi người. Ông đã đưa người bạn của ông là
Dương Viễn Yến từ địa vị một đội trưởng lên làm tướng quân chỉ huy một
số cận vệ đông đảo trong Hoàng cung.
Cuộc
đảo chính dự định vào ngày hai mươi tháng giêng năm 709 tức là một
tháng sau khi Võ Hậu trắng trợn gạt bỏ luật pháp để cứu Xương Tôn. Mọi
chi tiết được sắp đặt rất cẩn thận. Nam quân và Bắc quân sẽ đồng thời
nổi dậy khắp kinh đô, trong khi các toán Thị vệ chia nhau triệt hạ những
vây cánh của Xương Tôn tại kinh đô, và một toán bao vây Hoàng cung để
buộc Võ Hậu phải thoái vị.
Sáng
ngày hai mươi hai, cấm vệ tập trung tại Bắc Môn Hoàng cung dưới sự điều
khiển của Giản Chi và các thủ lãnh khác có tên trong danh sách đã chọn
sẵn. Đặc biệt có sự hiện diện của một người con rể của Thái Tử Triết.
Ôn
Kỳ Tâm và người con rể của Triết tiến vào cung để gặp mặt Triết, sự có
mặt Triết rất cần trong cuộc đảo chánh này, vì họ lấy danh nghĩa của
Triết để nổi dậy, họ sẽ dành lại ngôi báu của nhà Đường trao lại cho
Triết kế vị. Điều đáng nói là Triết không hề hay biết gì dự tính này.
Thấy
bọn Ôn Kỳ tâm vào tìm, Triết rất ngạc nhiên và khi biết rõ ý định của
họ, Triết vừa luống cuống vừa sợ sệt, không dám quyết định.
Kỳ Tâm nóng nảy nói:
-
Hôm nay là ngày lịch sử. Điện hạ phải biết tùy cơ ứng biến. Đã đến lúc
khôi phục nhà Đường, dựng lại cơ nghiệp Thái Tôn. Tất cả chúng tôi đã
sẵn sàng hy sinh tính mạng cho đại nghĩa chỉ cần chờ Điện hạ ban mệnh
lệnh.
Triết vẫn do dự:
- Ta biết anh em họ Trương quả đáng tội, nhưng mẫu thân ta đang bệnh... vả lại việc này bất ngờ quá ta chưa biết tính sao.
Kỳ Tâm nói:
-
Nếu vậy chỉ cần Điện hạ ra ngoài kia và nói cho quần thần biết Điện hạ
không cần tới họ. Việc không thành chúng tôi và gia quyến đành chịu
chết.
Thực
ra ý kiến của Triết không thành vấn đề. Nếu ông từ chối, họ sẵn sàng
dùng áp lực bắt ông phải lên ngôi. Con rể của Triết thấy tình thế như
vậy, vội giục:
-
Nhạc phụ nên quyết định dứt khoác, không thể chần chờ được nữa. Quân
cấm vệ đang đợi tại Bắc Môn. Chuyện đã lỡ, nhạc phục muốn rút lui cũng
không tránh khỏi tội.
Hai
người đỡ Triết lên ngựa. Ông cử động như cái máy, vẻ sợ sệt lộ ra ngoài
mặt. Ông không hiểu con đường trước mặt sẽ dẫn ông đến đâu, lên ngai
vàng hay xuống địa ngục.
Khu
tư dinh của Triết ăn thông ra Bắc Môn bằng một khu vườn, Giản Chi trông
thấy Triết trong lòng thở phào nhẹ nhõm. Lập tức đoàn người chia ra các
ngã để tiến vào Hoàng cung như kế hoạch đã trù liệu trước.
Riêng
Kỳ Tâm dẫn một toán cận vệ tiến thẳng vào tư dinh Võ Hậu. Nghe động,
Xương Tôn và Diệp Chi chạy ra. Quân cận vệ đang tràn vào làm cho Xương
Tôn và Diệp Chi không còn kịp trốn tránh. Các cận vệ nhào tới và trong
nháy mắt hai chiếc đầu lâu điểm phấn thoa son lăn lóc dưới đất. Kỳ Tâm,
Giản Chi và một số đại thần vội tiến về phía long sàng, nơi Võ Hậu đang
nằm.
Nghe ồn ào, Võ Hậu nói vọng ra:
- Cái gì ồn ào vậy?
Giản Chi cung kính bước đến trả lời:
- Tâu Bệ hạ, bọn hạ thần đến xin tội vì đã giết anh họ Trương mà không báo trước.
Võ Hậu đưa mắt nhìn mọi người, rồi nhìn Thái tử Triết nói:
- Hoàng nhi còn đứng đây là gì? Chúng đã bị giết chắc ngươi hài lòng lắm phải không?
Kỳ Tâm bước tới đỡ lời:
-
Tâu Bệ hạ, Thái tử sẽ không rời nơi đây nữa. Tiên đế đã ủy thác Thái tử
cho Lệnh bà để làm người nối nghiệp. Nay xin Lệnh bà trả lại ngôi cho
Thái tử. Lệnh bà hãy vì tình mẫu tử mà chấp thuận.
Võ Hậu đã nghe rõ nhưng vẫn bình tĩnh như không có gì xảy ra. Bà đưa mắt về phía quần thần nói:
- Lâu nay ta đối với các ngươi đầy ơn huệ, nay các ngươi nỡ hành động như vậy sao?
Các quan nói:
- Bọn hạ thần chúng tôi rất đội ơn Lệnh bà, nhưng công việc chúng tôi làm cũng chỉ vì xã tắc.
Chưa
đầy nửa giờ sau, cuộc biến động chấm dứt, các quan đem theo thủ cấp của
anh em họ Trương rời khỏi Hoàng cung, chỉ để lại Lý Cẩn trông chừng Võ
Hậu. Lúc đó các bè đảng của Xương Tôn cũng đã bị bắt hết. Các anh em họ
hàng của Xương Tôn và Diệp Chi cũng bị đem ra pháp trường hành quyết
trước sự chứng kiến của một rừng người.
Ngày
hôm sau, hai mươi ba tháng giêng, Thái tử Triết tạm thời lên làm nhiếp
chánh. Ngày hai mươi bốn Võ Hậu chính thức thoái vị. Hoàng tử Đán được
phong là Quốc Công, và tất cả con cháu nhà Đường được phục lại phẩm tước
như cũ. Những người bị hung thần đày đi xa trước khi cũng được phép trở
về quê quán, trừ những người có liên quan đến bọn hung thần.
Ngày
hai mươi sáu, Võ Hậu được đưa đi an trí tại khu vực phía Tây kinh đô.
Để tỏ lòng cung kính đối với bà, cứ mười ngày Triết lại đích thân báo
cáo công việc triều chính.
Dù
sao Võ Hậu cũng cảm thấy mình là một tội phạm bị giam lỏng. Lần đầu
tiên trong đời Võ Hậu cảm thấy mình bất lực, một kẻ chiến bại. Lòng tự
ái của bà bị tổn thương trầm trọng. Bà sống cô độc. Người yêu của bà đã
chết. Triết thường xuyên báo cáo những cải cách mới khiến bà choáng váng
cả mặt mày chẳng khác một vị đại tướng nghe tin thất trận.
Ngày
mồng một tháng hai, nhà Đường được chính thức thiết lập. Quốc kỳ, quốc
hiệu và tên các cơ quan chính phủ được lấy lại như dưới thời Cao Tôn.
Thành Đô cũng được đổi là Đông Đô – Lạc Dương.
Tháng
mười một năm đó, Võ Hậu đành buông tay chịu thua tử thần. Trước khi
chết bà rất quan tâm đến việc thờ phụng linh hồn bà sau này. Bà di ngôn
lại rằng bà rất hài lòng được cúng tế như một Hoàng hậu chớ không phải
Hoàng Đế. Bà muốn trở lại làm vợ hiền của ông chồng đáng yêu Cao Tôn.
Phút
lâm chung của Võ Hậu được sửa soạn kỹ càng. Triết, con trai bà đã được
làm Hoàng Đế, chắc chắn bà sẽ có đủ bốn mùa hương khói, thờ phụng cho
trọn tình mẫu tử. Bà cảm thấy lời khuyên của Nhân Kiệt trước đây là
đúng. Bà cần phải dọn đường trước để bước đi của bà sang thế giới bên
kia được thanh thản.
HẾT