HOÀNG TUẤN PHỔ
Đền thờ Dương đình Nghệ ở làng Dương Xá - Ảnh: ST
Dương Xá
là tên chữ, chữ “Dương” chuyển từ tên nôm cổ: Ràng hay Dàng, tùy theo cách phát
âm rung lưỡi (R) hoặc cong lưỡi (D). Từ miền ngược đổ xuôi, sông Mã gặp sông
Lương tại nơi thuộc giang phận làng Dàng thành tên ngã ba Dàng. Từ ngã ba Dàng
trở xuống đáng lẽ vẫn là sông Lường tức sông Lương thì người ta gọi nhầm sông
Mã, lâu ngày hóa quen, cũng như sông Sũ (tên nôm sông Lương) biến ra sông Chu.
Một bài thơ khuyết danh nôm cổ tả phong cảnh xứ Dàng:
Núi Hoa
Phong gió trong như quạt,
Nước
sông Lường bóng ngoạt như gương.
Đất dinh
cơ trông thể như dường,
Khí
thiêng đông đúc trời Dương dịu dàng.
Theo cách nhìn phong thủy học, Dương Xá là đất
dinh cơ họ Dương lấy núi Ngũ Hoa đằng đông làm trấn sơn, sông Lường như cánh
tay ngai ôm bọc phía sau, các núi Bàn A, Bằng Trình làm hộ sơn. Vây quanh Dương
Xá, chầu vào Dương Xá nhiều núi non kỳ lạ mang tên những con vật thiêng: núi
Voi, núi Ngựa, núi Rùa, núi Mèo,… Đây là chốn “địa linh” tạo hóa dành riêng cho
người hào kiệt và hào kiệt tất nhận ra nơi anh hùng dụng võ: Dương Đình Nghệ,
Dương Thị Như Ngọc, Dương Tam Kha, Ngô Quyền… với hàng ngàn tráng sĩ xuất thân
từ lò võ đất Dàng.
Trung
Quốc cai trị nước ta suốt từ Tần, Hán đến Ngụy, Tề, Chu. Nhà Tùy dấy nghiệp năm
581, mới được 20 năm đã bắt đầu suy yếu. Lý Uyên nổi quân đánh phá khắp nơi.
Quân Lương Túc tiến sang Giao Châu, đánh vào tận Cửu Chân. Thứ sử Lê Ngọc bỏ
quận trị Tư Phố trống trải, lui vào phía trong là Đồng Pho xây thành đắp lũy
tính kế lâu dài, giao vùng đất phía bắc cho con trai cả Ích Từ công bảo vệ.
Tương truyền tổ tiên họ Dương vì có công tham gia dẹp giặc Lương Tiêu được ban
phong từ núi Kim Ngưu đến núi Hoàng Ngưu, có quyền khai phá đất đai, mở mang
trại ấp, phò tá Ích Từ công, Trung Quốc công. Khoảng năm 621, Tham Xung tá
quốc, con trai út Lê Ngọc, bị tử trận ở Đường Nang, Nường Ba nữ tướng Dương
Doanh công nữ, từ mặt trận Hoan Châu về cứu em không kịp, nhảy xuống sông tự
tận. Họ Lê mất, vùng đất họ Dương được ban phong chỉ còn trên danh nghĩa. Đất
nước quê hương lại sống trong lầm than đen tối dưới ách đô hộ nhà Đường. Họ
Dương vẫn đứng đầu hương ấp Dương Xá, được quyền khai khẩn đất hoang, để chính
quyền đô hộ thu khoản thuế tăng thêm và nặng hơn.
Thời Mạt
Đường, quan lại cai trị Giao Châu nhiều kẻ ăn chơi xa xỉ, bóc lột tham tàn,
trộm cướp nổi lên như ong. Hương ấp Dương Xá ở gần sông lớn thành nơi đầu sóng
ngọn gió, thường xuyên bị giặc cướp đông hàng trăm người, ban đêm giong thuyền
buồm tới cướp của giết người. Phủ đô hộ Giao Châu bất lực trước tình hình ấy,
đành cho các hương ấp được tổ chức hương binh để tự bảo vệ lấy hương ấp mình.
Họ Dương truyền đến Dương Đình Nghệ là trang hào kiệt từ lâu vẫn ngầm nuôi chí
lớn đánh đuổi quan lại phương Bắc, gặp cơ hội lập đội hương binh, chiêu mộ trai
tráng khắp nơi, được hàng nghìn người khỏe mạnh, mở lò võ Dương Xá đêm đêm
luyện tập võ nghệ, nấp dưới danh nghĩa con nuôi để che mắt bọn quan lại cai
trị.
Những
năm cuối thế kỷ IX, họ Khúc ở Hồng Châu (nay thuộc Hải Dương) nổi lên, thế lực
rất mạnh. Nhân lúc An Nam Tiết độ sứ Chu Toàn Dục ốm chết, nhà Đường chưa kịp
cử người sang thay, hào trưởng Khúc Thừa Dụ đem quân chiếm lấy thành Đại La, tự
xưng Tiết độ sứ và xin nhận mệnh lệnh với nhà Đường. Vua Đường đang lo đối phó
với nhà Nam Hán, buộc phải công nhận và ban chức tước cho Khúc Thừa Dụ. Mới
được một năm (906 – 907) Khúc Thừa Dụ mất, trao binh quyền cho con là Khúc Hạo.
Khúc Hạo biết tiếng Dương Đình Nghệ mời ra làm tướng, giao cho cai quản miền
Hoan - Ái. Từ một nghìn “con nuôi”, Dương Đình Nghệ nhanh chóng phát triển lên
đến ba nghìn người. Ban ngày họ vẫn cày cuốc làm đồng áng như dân thường, đêm
về mới luyện tập võ nghệ. Chính quyền họ Khúc đổi hương làm giáp, trên giáp là
cấp huyện, hương ấp Dương Xá thành giáp Dương Xá. Giáp Dương Xá lúc này đã mở
rộng địa giới khá rộng, tương đương một huyện.
Khi
Dương Đình Nghệ ra làm tướng cho Khúc Hạo thì Lê Lương, người sau này làm giáp
trưởng giáp Bối Lý, còn nhỏ. Nhưng Lê Lương thuộc dòng dõi Lê Ngọc được nhân
dân rất mến mộ. Từ hàng trăm năm trước họ đã lập đền thờ Lê Ngọc, Ích Thừa
công, Trung Quốc công ở các làng: Đồng Pho, Thạch Khê, Y Xá… Đến lúc Dương Đình
Nghệ bị Kiều Công Tiễn đầu độc, anh em, con cháu nhà họ Dương chia rẽ bè phái,
thế lực trở nên yếu kém tạo đà cho Lê Lương nổi lên gây dựng lại cơ nghiệp tổ
tiên, hễ nơi nào có đền thờ Lê Ngọc, Ích Thừa, Trung Quốc, đều là đất đai họ
Lê. Giáp Dương Xá trước bao trùm cả huyện Đông Cương (thời Trần đổi Đông Sơn),
nay chia đôi: phía nam là giáp Bối Lý, phía bắc là giáp Dương Xá. Rồi trong lúc
họ Dương cùng họ Ngô (con cháu Ngô Quyền) lao vào cuộc chiến “tranh bá đồ
vương”, họ Lê ở Bối Lý ra sức phát triển kinh tế, chẳng mấy chốc trở nên giàu
có nhất Ái Châu.
Thời Lý
– Trần, những giáp lớn như Dương Xá, Bối Lý (huyện Đông Sơn), Yên Duyên, Ngọc
Sơn (Quảng Xương) đều gọi là hương. Thời Hậu Lê, bỏ hương chia xã. Đến thời
Nguyễn, dấu tích đất Dương Xá của Dương Đình Nghệ còn thấy ở nhiều xã phía bắc
huyện Đông Sơn, kéo sang một số nơi thuộc huyện Thiệu Hóa, huyện Triệu Sơn…
Hiện nay, làng Dàng – Dương Xá thuộc xã Thiệu Dương, vẫn còn bảo lưu nhiều di
tích trên mảnh đất cụ khởi tổ nhà họ Dương đến đây bổ nhát cuốc khai phá đầu
tiên trên khúc đuôi con rồng núi Đông Sơn 99 khúc.
Thực ra,
trước họ Dương, đất Long Vĩ - Đuôi Rồng đã rực rỡ thời kỳ đồng thau của nền văn
minh Đông Sơn được cả thế giới ngưỡng mộ.
Dương Xá
- Thiệu Dương nằm ở trung tâm khu vực lịch sử rộng lớn, cũng là một vùng
nước non kỳ thú. Bấy giờ là thế toàn tân
(một vạn năm trở lại đây) của Kỷ đệ tứ. Địa mạo nhiều lồi lõm tạo ra sự phong
phú cho cảnh vật. Trong vùng đất không rộng, bên cạnh sông ngòi, có đồng cỏ, hồ
đầm, đồng lầy, bái cao, đồi gò, núi non…điều kiện tự nhiên thuận lợi để muôn
loài vạn vật sinh tụ và phát triển. Thiên nhiên tươi đẹp giàu có hấp dẫn con
người tối cổ thời kỳ tiền Hùng Vương và thời đại Hùng Vương đến quần cư trên
miền đất sông Lương, bấy giờ chưa nối dòng sông Mã. Họ ở trong những hang động
núi Tún, núi Voi,…dựng lều trại trên những núi Rùa, núi Đông Lĩnh, gò Chân
Tiên,…xuống sông, suối, ao, đầm bắt cá, lên rừng hái rau quả, đào củ, ra bái
săn bẫy hươu nai, lợn lòi, cày, cáo… Phong phú đáng kể là những cánh đồng sâu
trũng: ngoài ốc, cua, tôm, cá…còn lúa hoang, lúa rài, nơi mở hội của các loài
chim nước, nhỏ từ le le, cốc, cò,… lớn như: diệc xám, ngỗng trời, dang dang…
Đó là
nguồn thức ăn quý báu, dồi dào vô tận đối với người Dương Xá - Thiệu Dương,
Chân Tiên - Đông Khối thời đại Hùng Vương dựng nước vĩ đại. Đó cũng là nguồn
sống tạo hóa dành riêng cho lớp “người vượn” thời kỳ trước Hùng Vương mà địa
chỉ núi Đọ muôn thuở còn vang danh.
Từ làng
Dương Xá đi ra, trên cánh đồng kề bên đường, năm 1960, cán bộ khảo cổ phát hiện
một di chỉ có tầng văn hóa vừa rộng, vừa sâu, bề mặt khoảng 50.000m2. Trong
phạm vi di tích đã khai quật 10.800m2 nổi bật lên 38 bộ xương người còn khá tốt
so với những bộ xương tìm thấy ở những di chỉ khác. Những bộ xương người đó
được chôn kèm theo nhiều di vật loại hình phong phú: vũ khí bằng đồng, gương
đồng, ấm đồng, tiền đồng, kiếm sắt, đồ đá mài, hoa tai, vòng đeo tay, chuỗi
hạt, đồ gốm,.v.v… Đặc biệt, có một chiếc đũa bằng đồng, một hiện vật độc đáo,
chưa từng phát hiện thấy ở bất cứ di chỉ khảo cổ nào trên miền Bắc nước ta.(2)
Ba mươi
tám bộ xương người là tập hợp cá thể quan trọng và đủ lớn để nhà chuyên môn
dựng lại ngôi làng Dương Xá cuối thời đại Hùng Vương, một xã hội Hùng Vương thu
nhỏ. Dương Xá thời ấy thuộc xã hội đã bắt đầu phân chia giai cấp: đại để có hai
tầng lớp chính: tầng lớp trên là quý tộc tướng lĩnh, tầng lớp dưới là nhân dân
lao động. Những bộ xương kèm đồ tùy táng quý giá bên mình, cho biết họ lúc sống
là những quý tộc tướng lĩnh, đàn ông cổ tay, cổ chân đeo vòng đồng, tiếng kêu
leng reng theo nhịp bước. Tay phải họ cầm cây dáo đồng sắc nhọn, vai trái đeo
cây cung với những mũi tên đồng cánh én, lưng dắt rìu đồng hoặc lưỡi dao găm
đồng. Họ dáng đầy oai vệ với cái đầu bờm xờm tóc râu, cất lên kiêu hãnh… Đàn bà
trang điểm công phu, chải tóc, đeo vòng tai, chuỗi hạt, tóc búi lên đỉnh đầu
lấy khăn bao lại, áo, yếm, váy đủ bộ, thêm chiếc khăn dài lượt thượt… Họ ngắm
nghía khuôn mặt quý phái của mình trong chiếc gương đồng lớn đánh bóng sáng
loáng, ăn trầu, nói chuyện phiếm cho hết thời gian…
Những bộ
xương chôn dưới lớp đất sâu hơn có thể là dân lao động cùng với nô lệ chôn
theo. Vật tùy táng bên cạnh họ là con dao, cái búa, lưỡi liềm, lưỡi cày, là những
dụng cụ lao động và những đồ gốm dùng để đựng, và đun nấu. Trong một hố đất sâu
70cm, nhà khảo cổ tìm được một xương đầu trâu cùng dấu vết tro than, di cốt của
trâu nhà. Đó là bằng chứng chăn nuôi gia súc của người.
Dương Xá hai ngàn năm trước (hoặc
hơn); họ đã chăn nuôi được đại gia súc (trâu, bò) tất yếu tiểu gia súc phổ biến
và có phần phát triển. Người ta có thể ngờ cái xương đầu trâu ấy là di cốt con
trâu hiến tế. Nhưng còn lưỡi cày đồng? Để làm gì nếu không phải để cày trâu?
Chắc chắn người Dương Xá bấy giờ không còn là mới học làm ruộng mà đã biết nghề
nông. Việc này hết sức quan trọng.
.......
Năm 937,
Dương Đình Nghệ bị ám sát bởi tên cận thần Kiều Công Tiễn phản bội. Tương
truyền lúc Dương Tiết độ sứ qua đời, một ngôi sao trên trời sa xuống Kẻ Dàng,
đến nay còn lại một cái hồ, dân làng gọi là hồ Sao Xỉa tức hồ Sao Sa. Có câu
thơ ca ngợi:
Non Đoài trông thể mày nga,
Nguyệt
Hồ phương Mão ngoại sao sa tục truyền.
Non Đoài
là dãy núi trùng điệp đằng tây, từ ngàn Nưa kéo đến. Phía đông Dương Xá là cụm
núi Ngũ Hoa:
Núi Hoa
Phong gió trong như quạt,
Nước
sông Lường bóng ngoạt như gương.
Đất dinh
cơ trông thể như dường,
Khí
thiêng đông đúc trời Dương dịu dàng.
Ngũ Hoa
hay Hoa phong gọi đầy đủ là Ngũ Hoa phong, một khóm núi từ năm cái vây cuối
lưng con rồng dựng lên thành năm bông hoa đón gió. Mỗi bông hoa lại có dáng một
nàng tiên đang đứng múa.
Từ “gió
trong” nghe hơi lạ mà hay. Ta thường chỉ nghe nói “gió mát”, nhưng ở vùng đồi
quang núi trọc, các thứ gió: gió lốc, gió xoáy, gió cuốn, gió lộng, gió thốc,
gió quẩn, gió nồm, gió phơn, gió đông,…thường làm tung cát bụi, làm vẩn đục bầu
không khí trong lành. Cho nên, phải là “gió trong”, mà bên trong “gió trong”,
đã bao hàm gió mát, thứ gió mát trong suốt như lọc, không chút bụi bặm. Do sự
cấu tạo, sắp đặt của năm ngọn núi theo cách đặc biệt, mọi thứ gió đi qua Ngũ
Hoa phong đều được lọc hết bụi bặm trở thành “gió trong” thổi mát “như quạt”.
Từ “gió trong” cùng với “bóng ngoạt như gương” cũng là hai hình ảnh đẹp: “thanh
phong”, “minh nguyệt” thường đi đôi với nhau để tả cảnh trăng trong gió mát.
Thực ra,
mấy câu thơ trên hàm ý địa lý phong thủy của Dương Xá, người xưa xem Ngũ Hoa
phong như là “trấn sơn”, khác nào bức “bình phong” thiên tạo, vừa đón mọi thứ
gió từ phương xa thổi tới vừa làm bình ổn gió để dương cơ họ Dương bốn mùa
trong lành mát mẻ.
Núi Con
Mèo cũng là một “trấn sơn” bảo vệ Dương Xá:
VỊNH
THANH HÓA MIÊU TỬ SƠN
(Chữ
Hán)
Hổ cứ
giang biên tráng địa duy,
Kiền
thai khôn dựng kỷ đa thì?
Lăng tằng thạch cốt lăng sương dội,
Ẩn ước
đài mao liễm lộ phì.
Phong
động nộ hào kình án thiếp,
Nguyệt
minh cố ảnh điểu kinh phi.
Võng
Xuyên nhược hữu truyền thần thủ,
Miêu
nhập đan thanh diệc nhất kỳ.
CAO BÁ
QUÁT
(1808 –
1854)
Dịch
thơ:
VỊNH NÚI
CON MÈO Ở THANH HÓA
Bài I
Ngồi
chặn bên sông dáng hổ già,
Trời
thai đất nghén tự bao giờ.
Gồ ghề
cốt đá làn sương dội,
Ấp ảnh
lông rêu hạt móc sa.
Tiếng
gió như gào kình sợ khiếp,
Sáng
trăng rõ bóng chim bay xa.
Võng
Xuyên ví có tay tài vẽ,
Vẽ bức
tranh này chẳng lạ a?
HOÀNG
TẠO dịch
(Thơ chữ
Hán Cao Bá Quát
NXB Văn
học – 1976)
Bài II
Như hùm
chồm chỗm trấn bên sông,
Đất nở
trời sinh khéo lạ lùng!
Cốt đá
phơi sương to lớn xác,
Lông rêu
thấm móc mượt mà lông.
Gầm gừ
mượn gió, kình nem nép,
Mờ tỏ
nhờ trăng, cú hãi hùng.
Truyền
thần thợ giỏi nhờ ai đó,
Vẽ bức
tranh này, thú vị không?
(HOÀNG
TUẤN PHỔ dịch)
Giữ vị
trí “hộ sơn” cho Dương Xá là núi Tiên–Sơn. Núi này tên chính là Hộ Sơn, Tĩnh
Vương Trịnh Sâm lên chơi thấy phong cảnh đẹp mới đổi tên Tiên Sơn. Vương Duy
Trinh trong sách Thanh Hóa kỷ thắng vẫn gọi là
Hộ Sơn và chép rằng: “Núi ấy hình thế Bàn A Sơn, mạch tới địa diện xã
Dương Xá thì đột khởi”. Như vậy, về sơn long, địa mạch của Dương Xá còn quan hệ tới cả Bàn A – Bằng Trình.
Phía
trước Dương Xá, một trái núi giống hình con voi phủ phục làm “tiền án” cho đất
“dinh cơ”. Núi tên chữ “Tượng Sơn”, tên nôm “Núi Voi”. Theo các nhà nghiên cứu
lịch sử, đây là nơi chế tạo dụng cụ sản xuất bằng đá thuộc thời kỳ ĐỒ ĐÁ MỚI
cách đây hàng vạn năm trước. Nó góp phần chứng minh cư dân Lạc Việt ở Dương Xá
đã trải qua quá trình phát triển liên tục từ thời đại đồ đá sang đồ đồng, trên
lưu vực sông Chu – sông Mã.(4)
Xa xa
phía sau Dương Xá là núi Trịnh làm “hậu chẩm” người xưa đặt tên núi Kim Ngưu,
tượng hình “tê ngưu vọng nguyệt”: tê giác ngắm trăng(5). Tại đây phát lộ một di
chỉ mũi tên đồng dày đặc khiến người ta nghĩ đến nhiều khả năng có thể là một
công xưởng sản xuất, hay một kho tàng lưu trữ, nó cũng giống như một bãi chiến
trường trong cuộc chiến tranh Hùng – Thục hoặc trận đánh quyết tử với quân Mã
Viện thời Hai Bà Trưng.
(còn
nữa)
HTP
(trích từ "Những làng cổ tiêu biểu xứ Thanh"-Hoàng Tuấn Phổ-NXB Dân
trí-2000)
Chú
thích:
- (1)
Đặng Phong: Kinh tế thời Nguyên thủy ở Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học xã hội.
- (2)
(3) (4)Tài liệu khảo cổ của Vụ Bảo tồn – Bảo tàng.
- (5) Tê ngưu: Con tê giác. Loại thú ở rừng giống trâu, sừng mọc trên mũi. Nhưng có khi người ta cũng dùng chữ tê ngưu nghĩa là con trâu để phân biệt với hoàng ngưu là con bò. Hoặc chữ tê ngưu còn được hiểu là trâu rừng.