XIN CHÀO VÀ CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ ĐẾN VỚI BLOGSPOT.COM CỦA LUU VAN CHUONG

Thứ Bảy, 31 tháng 8, 2024

Bên Tàu các vị hảo hán khi bình Tam Quốc...


Bên Tàu các vị hảo hán khi bình Tam Quốc, có làm một cái bảng xếp hạng các vị mãnh tướng như thế này, các vị xem như thế có hợp lý không. Bảng xếp hạng này được lưu truyền rất phổ biến trong giới phê bình bên đó, và được nhiều người mặc nhiên công nhận là đúng:

- Nhất Lữ Bố, nhị Triệu Vân, tam Điển Vi

- Tứ Quan Vũ , ngũ Mã Siêu, lục Trương Phi

- Hoàng Trung, Hứa Chử, Tôn Sách, Thái Sử Từ, nhị Hạ Hầu (Đôn, Uyên)

- Nhị Trương (Liêu, Cáp), Từ Hoảng, Bàng Đức, Cam Ninh, Chu Thái, Nguỵ Diên

- Trương Tú hòa Nhan Lương, Văn Sú

- Đặng Ngải cùng Khương Duy ngang cơ.

Nguyên văn thế này:

"Nhất Lữ, Nhị Triệu, Tam Điển Vi,

Tứ Quan, Ngũ Mã, Lục Trương Phi,

Hoàng, Hứa, Tôn, Thái, Nhị Hạ Hầu,

Nhị Trương, Từ Bàng, Cam, Chu, Ngụy,

Thương Thần Trương Tú Hòa Văn, Nhan,

Tuy Dũng Vô Nại Mệnh Thái Bi,

Tam Quốc Nhị Thập Tứ Danh Tướng,

Đả Mạt Đặng Ngải, Hòa Khương Duy."

Chủ Nhật, 11 tháng 8, 2024

Nười dân năm eo

 


Nhìn vào bản đồ Việt Nam hình cong chữ S có một nơi eo thắt nhất đó là nơi tôi sinh ra và lớn lên, là mảnh đất đầy bom đạn khói lửa của chiến tranh nên bạn bè vui gọi tôi là “dân Năm Eo vừa  nghèo vừa khó”.

“Khu V dằng dặc khúc ruột miền Trung”, với tôi là cả eo đất trải dài bên bờ biển Đông từ Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định đến Phú Yên, Khánh Hòa... Eo đất đối mặt với biển, với bão giông, gió quật, lưng tựa  vào dãy Trường Sơn cao ngất, lởm chởm những đốt sống giăng mành, sừng sững, uy nghiêm. Eo đất miền Trung góp phần làm nên dáng vóc Việt Nam, cong cong hình dáng mẹ tuổi xế chiều, cong cong chiếc đòn gánh... gánh cả sơn hà, gánh cả hai đầu Bắc - Nam.

Cuộc sống người dân “5 eo” quanh năm đối mặt với bão lũ, thiên tai

Vâng, cái dải đất nhỏ hẹp eo thon thuộc Khu V ấy mà nhiều người vẫn gọi vui là “đất 5 eo” là nơi sinh ra tôi, nơi tôi đầy ắp kỷ niệm. “Eo” có nghĩa là eo thắt về mặt địa lý, nhưng cũng là eo thắt, ngặt nghèo của cuộc sống luôn phải đối mặt với “mùa đông thiếu áo, mùa hè thiếu cơm”. Nơi đó có những  bãi cát mênh mông/ mẹ gánh gồng nặng nhọc/ cha gù lưng lọc cọc đẩy xe thồ/ Mùa nắng ruộng khô, khô cả ao hồ/ Dải đất nghèo con mang theo vào ký ức/ bờ vực nằm kề vách núi cheo leo/ Xóm thôn nghèo người lam lũ xác xơ/ Giấc ngủ trẻ thơ cơn gió Lào đánh thức.

Đường về miền Trung loanh quanh, khúc khuỷu, ai có biểu ai đâu mà sao nặng trĩu ân tình. Dải đất miền Trung hay dải đất quê mình ?! Dải đất miền Trung lũ chồng bão lũ/ Quạt đuổi gió lào canh giấc ngủ con thơ/ Đường về miền Trung như thực như mơ/ Nắng táp bờ vai, bụi cài mi mắt/ Se thắt lòng ai mỗi lần trở lại, thương quá là thương dải đất kiên cường. Ơi miền Trung/ Dải đất kiên gan anh hùng/  Vượt ngàn gian nan nắng mưa bão bùng/ Lòng người kiên trung quyết không đổi dời/ Ơi miền Trung/ Vượt qua bão lũ ra sức dựng xây / Người đi xa, nơi phương ấy có hay/ Dải đất này đang thay đổi ngày đêm.

Trong chiến tranh, quê tôi là một phần của Khu 5 ngày xưa, nơi mà bom đạn Mỹ đổ xuống hàng ngày hàng giờ không sao kể xiết. Chính vì vậy mà dân ta có câu “Nhất Củ Chi nhì Gò Nổi (Quảng Nam) để nói lên tội ác và sự tàn khốc của chiến tranh với giặc Mỹ.

Tôi đã trải qua những năm tháng dãi dầu trên mảnh đất khô cằn khắc nghiệt, không những bởi khí hậu thiên nhiên mà còn gánh thêm bom đạn chiến tranh để lại. Cho dù cuộc sống có những lúc thăng trầm, những mất mát, sự đau thương luôn ám ảnh cả cuộc đời tôi, mà cụ thể là mảnh đạn còn ghim trong đầu chưa lấy ra được, lại thêm những cánh tay bàn chân không có cách nào phục hồi. Tôi cũng còn may mắn hơn những đồng đội, bà con xóm giềng khi họ trở thành nạn nhân của chất độc da cam mà con cháu của họ sinh ra không lành lặn, người thì nhũn não, người thì cong vẹo chân tay hoặc không biết nói. Vì cha mẹ họ đã bị phơi nhiễm thứ chất độc quái ác của giặc Mỹ rải xuống trên mảnh đất 5 eo .

Một thời là những người chiến sĩ cách mạng, chấp nhận hy sinh, bỏ quên thân mình để giành lại từng tấc đất cho quê hương, cho Tổ quốc nhưng bản thân họ và con cháu lại gánh chịu biết bao tai ương vì bệnh tật.

Chính vì thế cần lắm những tấm lòng biết cảm thông và chia sẻ phần nào những mất mát to lớn đó, về cả tinh thần lẫn vật chất để họ có thêm điểm tựa và động lực đi hết cuộc hành trình gian nan do hậu quả chiến tranh còn để lại hôm nay. Có như thế thì chúng ta, những người đã may mắn thừa hưởng những thành quả và những vinh quang của độc lập tự do mới tìm được một góc thanh thản và ấm lòng trong tâm hồn khi nghĩ về những chiến tích xưa kia đã được đổi bằng biết bao máu và nước mắt của những thế hệ đi trước.

 Theo Cựu Chiến Binh

LÊ KHÁNH

Tô Vũ cam chịu chăn dê 19 năm, giữ vững tấm lòng trung trinh

Lịch sử Trung Quốc qua các thời đại đã lưu danh rất nhiều anh hùng kiên cường bất khuất. Trong đó không chỉ là các vị tướng xông pha chiến trường ác liệt, mà còn có các vị sứ giả ‘đầu sóng ngọn gió’ cũng để lại nhiều câu chuyện cảm động.

Ảnh minh họa cho điển cố “Tô Vũ chăn dê”. (Ảnh: Kknews)

Năm Thái Sơ thứ 4 (năm 101 TCN), Ha Lê Hồ Thiền Vu (tức Vua của dân tộc Hung Nô) qua đời, và em trai Thả Đê Hầu của ông đã trở thành Thiền Vu (vua). Để làm hòa với nhà Hán, ông đã phái sứ thần của mình tiễn Lộ Sung Quốc – cựu sứ thần nhà Hán trước kia đã bị giam giữ trở về nước.

Hán Vũ Đế đã quyết định thực hiện chính sách hòa bình và liên minh với Hung Nô. Để đáp lại thiện chí của Thiền Vu, vào tháng 3 năm Thiên Hán thứ nhất (năm 100 TCN), ông đã phái Tô Vũ  là Trung lang tướng, cùng phó tướng Trương Thắng, và tùy viên Thường Huệ thả các sứ giả của Hung Nô bị giam giữ và tiễn họ trở về, mang theo các lễ vật tặng Thiền vu.

Tô Vũ giữ trong tay cờ tiết 5 màu đại biểu cho quyền lực của nhà vua, và dẫn đầu một phái đoàn gồm hơn một trăm người lên đường. Năm ấy Tô Vũ 42 tuổi, ông không nghĩ rằng chuyến đi lần này sẽ là 19 năm.

Tô Vũ và phái đoàn của mình đã hoàn thành nhiệm vụ. Tuy nhiên, vào đêm trước khi trở về, một việc kỳ lạ đã xảy ra với phó tướng Trương Thắng. Trương Thắng cùng một số người Hán mà trước kia đã đầu hàng Hung Nô, đang âm mưu nhân lúc Thả Đê Hầu Thiền Vu ra ngoài đi săn mà sát hại cố vấn của Hung Nô – Vệ Luật, sau đó bắt cóc mẫu thân của Thiền Vu và trốn về nhà Hán. Sự việc bại lộ, Thiền Vu đã rất tức giận và ra lệnh bắt giữ toàn bộ sứ giả nhà Hán. Hung Nô và nhà Hán một lần nữa lại rơi vào tình trạng căng thẳng.

Tô Vũ và những người khác đều bị bắt. Trương Thắng lộ ra bộ mặt thật của mình và đầu hàng Hung Nô. Khi Tô Vũ được đưa đến trước mặt vua Hung Nô để hỏi tội, Thiền Vu nói với Tô Vũ rằng ông có ấn tượng sâu sắc với Tô Vũ, và nếu Tô Vũ chịu đầu hàng, ông sẽ tha thứ cho Tô Vũ.

Tô Vũ đã không chấp nhận thiện ý của Thiền Vu, thay vào đó giải thích với vua Hung Nô rằng, mặc dù bản thân ông không liên quan đến âm mưu bắt cóc, nhưng ông cảm thấy mình phải chịu trách nhiệm về hành vi của phó tướng. Tô Vũ nguyện lấy cái chết để chịu trách nhiệm, nhưng không bao giờ đầu hàng Hung Nô.

Nghe xong những lời này, Thiền Vu lại càng có ấn tượng tốt hơn đối với Tô Vũ, nghĩ rằng Tô Vũ rất dũng cảm, vì vậy ông đã yêu cầu đại thần thân cận Vệ Luật thuyết phục Tô Vũ đầu hàng. Trước tiên, Vệ Luật lấy cái chết để uy hiếp, nhưng Tô Vũ vẫn thờ ơ. Sau đó, Vệ Luật dùng vinh hoa phú quý để dụ dỗ, nhưng đều bị Tô Vũ thẳng thừng từ chối.

Thiền Vu đã dùng cực hình tra tấn Tô Vũ, buộc ông phải đầu hàng, nhưng Tô Vũ không chịu khuất phục; lại nhốt ông trong hầm và không cho ăn. Tô Vũ đói và khát, ông buộc phải ăn băng và tuyết trên mặt đất để sống qua ngày, nhưng vẫn không chịu phản bội nhà Hán.

Thiền Vu thấy rõ ý chí kiên định của Tô Vũ, biết không còn hy vọng gì nữa, liền đày ông đến vùng hoang vu không có người ở Bắc Hải để chăn một đàn dê đực, và nói rằng: “Chừng nào những con dê đực có sữa, sẽ để ngươi được trở về!”

Tô Vũ cầm cờ tiết trong tay rồi đến Bắc Hải, ban ngày thì chăn dê bên bờ biển, ban đêm thì sống một mình trong căn lều hoang vắng lạnh lẽo. Vào mùa đông khắc nghiệt, người Hung Nô cố tình cắt lương thực, Tô Vũ phải bắt chuột hoang và đào rễ cây cỏ để ăn.

Tùy viên đi cùng Tô Vũ là Thường Huệ cũng từ chối đầu hàng, bị Hung Nô giam cầm trong lao ngục, và bị hành hạ bằng lao động nặng nhọc, để làm sao cho ông khuất phục và phản bội nhà Hán. Tuy nhiên, Thường Huệ chưa bao giờ quên rằng mình là sứ giả của nhà Hán, càng khổ thì càng kiên định, và ông đã kiên trì bất khuất trong 19 năm.

Hán Vũ Đế qua đời và Hán Chiêu Đế lên ngôi. Năm Thủy Nguyên thứ 2 (năm 85 TCN), Hồ Diễn Đê là Thiền Vu mới của người Hung Nô, muốn kết thân với nhà Hán. Và Hung Nô đã làm hòa với nhà Hán. Có một lần, sứ giả nhà Hán đến Hung Nô và yêu cầu Thiền Vu thả Tô Vũ, Thiền Vu nói dối rằng Tô Vũ đã chết. Sứ giả nhà Hán không biết sự thật nên cũng không biết phải làm như thế nào.

Lúc này, Thường Huệ, người đã ở cùng với Tô Vũ đi sứ đến Hung Nô, lặng lẽ thông báo cho sứ giả nhà Hán về tình hình của Tô Vũ. Sứ giả nhà Hán không tiện phơi bày những lời dối trá của Thiền Vu, vì vậy, ông quay lại và nói với Thiền Vu rằng, Hán đế đã bắn phải một con chim nhạn trong khi đi săn, trên chân con chim có một phong thư nói rằng, Tô Vũ vẫn đang chăn dê ở Bắc Hải. Thiền Vu kinh ngạc, cho rằng đây là sự giúp đỡ của các vị Thần, và miễn cưỡng đồng ý thả Tô Vũ và những người khác.

Khi biết tin, Tô Vũ vui mừng quá đỗi mà khóc, nước mắt rơi thấm đẫm cả vạt áo. Lý Lăng (một viên tướng đã đầu hàng Hung Nô, trước đây đã từng được Thiền Vu phái đến để khuyên giải Tô Vũ đầu hàng) thiết đãi yến tiệc để tiễn biệt, uống rượu say sưa, Lý Lăng nhảy múa và hát: “Qua vạn dặm sa mạc, vị tướng quân chống lại Hung Nô, trên đường bị hủy diệt bởi gươm dao, mẹ già đã chết, dù muốn báo ân sẽ được bình an quay về chứ?”, hát xong thì huýt sáo rồi che mặt mà đi.

Năm Thủy Nguyên thứ 6 (năm 81 TCN), Tô Vũ và Thường Huệ, không hổ thẹn với sứ mệnh, chờ đợi 19 năm, cuối cùng đã được trở về nhà Hán. Năm đó, đoàn sứ giả gồm hơn 100 người, người thì đã chết, người thì đầu hàng, chỉ còn 9 người cùng ông trở về quê nhà.

Khi Tô Vũ trở về nước, ông đã có mái tóc hoa râm. Nhìn thấy thân hình hốc hác, tiều tụy, râu tóc đã bạc trắng của ông, những sợi lông trên cờ tiết cũng đã rụng, Hoàng đế và bá quan văn võ đều xúc động mà rơi nước mắt.

Kể từ đó, mọi người thường dùng điển cố “Tô Vũ chăn dê” để bày tỏ sự khen ngợi đối với khí tiết cao thượng và kiên định.

Minh Huy (Theo Secretchina)

Thứ Bảy, 10 tháng 8, 2024

TÌM HIỂU ĐẠO PHẬT ĐƠN GIẢN DỄ HIỂU

THAM KHẢO Chat GPT TRẢ LỜI VỀ PHẬT PHÁP
Chớ nghe, tin mấy xàm tăng
Cái gì không rõ, hỏi thằng Chat GPT!…
====
HỎI 1: Trong Đạo Phật: Tứ diệu đế, Bát chánh đạo là gì?
ChatGPT:
Trong Đạo Phật, Tứ Diệu Đế và Bát Chánh Đạo là hai khái niệm cơ bản và quan trọng nhất trong giáo lý của Phật. Chúng là nền tảng của sự hiểu biết về con đường giải thoát và giác ngộ.
Tứ Diệu Đế (Bốn Chân Lý Cao Quý)
Khổ Đế (Dukkha):
Chân lý về sự khổ đau. Cuộc sống này chứa đựng khổ đau và không hoàn hảo. Khổ đau hiện diện ở mọi khía cạnh của cuộc sống, từ sinh, lão, bệnh, tử cho đến những nỗi lo âu, buồn phiền và thất vọng.
Tập Đế (Samudaya):
Chân lý về nguyên nhân của khổ đau. Khổ đau sinh ra từ tham ái, ham muốn và chấp trước. Sự tham lam, hận thù và si mê là gốc rễ của mọi đau khổ.
Diệt Đế (Nirodha):
Chân lý về sự chấm dứt khổ đau. Có thể chấm dứt khổ đau bằng cách dập tắt tham ái và chấp trước. Khi những nguyên nhân của khổ đau được loại bỏ, sự bình an và giác ngộ sẽ hiện hữu.
Đạo Đế (Magga):
Chân lý về con đường diệt khổ. Con đường để chấm dứt khổ đau là Bát Chánh Đạo, một con đường tu tập bao gồm tám yếu tố chính.
Bát Chánh Đạo (Con Đường Tám Nhánh)
Chánh Kiến (Right View):
Hiểu biết đúng đắn về Tứ Diệu Đế và nhận thức được bản chất thật sự của cuộc sống và khổ đau.
Chánh Tư Duy (Right Intention):
Tư duy đúng đắn, không bị lôi kéo bởi tham, sân và si. Hướng đến từ bi, tình thương và buông bỏ.
Chánh Ngữ (Right Speech):
Lời nói đúng đắn, không nói dối, không nói lời gây chia rẽ, không nói lời độc ác và không nói lời thừa thãi.
Chánh Nghiệp (Right Action):
Hành động đúng đắn, không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm.
Chánh Mạng (Right Livelihood):
Nghề nghiệp đúng đắn, kiếm sống bằng những công việc chân chính, không gây hại cho người khác và xã hội.
Chánh Tinh Tấn (Right Effort):
Nỗ lực đúng đắn, kiên trì tu tập, tránh xa những điều xấu ác, nuôi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp.
Chánh Niệm (Right Mindfulness):
Sự tỉnh thức đúng đắn, luôn giữ sự tỉnh táo và chú ý vào hiện tại, nhận biết rõ ràng mọi hành động, cảm xúc và suy nghĩ của mình.
Chánh Định (Right Concentration):
Sự tập trung đúng đắn, đạt được sự định tâm và tập trung cao độ thông qua thiền định, giúp tâm hồn trở nên thanh tịnh và trong sáng.
Tứ Diệu Đế và Bát Chánh Đạo là hai khái niệm liên kết chặt chẽ với nhau, giúp người tu hành hiểu rõ về khổ đau và con đường giải thoát, từ đó đạt được sự bình an và giác ngộ.
HỎI 2: Vô ngã là gì?
ChatGPT:
"Vô ngã" (tiếng Pali: anatta, tiếng Sanskrit: anātman) là một khái niệm quan trọng trong Đạo Phật, diễn tả sự không có cái tôi, cái ngã hay cái bản ngã cố định. Khái niệm này đối lập với ý tưởng về một cái tôi bất biến, vĩnh cửu tồn tại trong mỗi cá nhân. Vô ngã là một trong ba đặc tính của tất cả các hiện tượng (tam pháp ấn), cùng với vô thường (anicca) và khổ (dukkha).
Ý Nghĩa Của Vô Ngã
Không Có Cái Tôi Cố Định:
Đạo Phật cho rằng không có cái tôi hay bản ngã nào tồn tại vĩnh viễn, cố định. Tất cả các yếu tố cấu thành nên con người (thân xác, cảm giác, nhận thức, hành động, ý thức) đều thay đổi và không có yếu tố nào trong đó có thể được gọi là "tôi".
Sự Phụ Thuộc Lẫn Nhau:
Mọi hiện tượng đều tồn tại trong mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau (duyên khởi). Không có một hiện tượng nào tồn tại độc lập, mà tất cả đều xuất hiện và biến mất dựa trên các điều kiện.
Giải Thoát Khỏi Sự Chấp Ngã:
Sự nhận thức vô ngã giúp con người giải thoát khỏi sự chấp trước vào cái tôi, từ đó giảm bớt khổ đau. Chấp ngã là nguyên nhân của nhiều loại khổ đau như tham lam, hận thù, và si mê. Khi nhận ra vô ngã, con người có thể sống thanh tịnh hơn và giải thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử.
Ứng Dụng Thực Tế
Chấp Nhận Sự Thay Đổi:
Hiểu vô ngã giúp ta chấp nhận sự thay đổi của cuộc sống, không cố bám víu vào những điều không thể giữ mãi, từ đó giảm bớt sự khổ đau khi đối diện với mất mát và biến đổi.
Tâm Lý Học Từ Bi:
Vô ngã khuyến khích lòng từ bi và sự thông cảm. Khi nhận ra rằng tất cả chúng sinh đều không có một bản ngã cố định và đều trải qua khổ đau, ta sẽ dễ dàng hơn trong việc phát triển tình thương và lòng từ bi.
Phát Triển Trí Tuệ:
Thực hành nhận thức vô ngã giúp phát triển trí tuệ, vì ta hiểu rõ hơn về bản chất thật sự của cuộc sống và các hiện tượng xung quanh, từ đó có những quyết định đúng đắn và sáng suốt hơn.
Vô ngã là một khái niệm thâm sâu và cần sự thực hành và tư duy liên tục để có thể thấu hiểu và áp dụng vào cuộc sống hàng ngày.
HỎI 3: Giác ngộ là gì? Tu đến khi nào thì gọi là giác ngộ?
ChatGPT:
Giác Ngộ Là Gì?
Giác ngộ (tiếng Pali: Bodhi, tiếng Sanskrit: Bodhi) là trạng thái tỉnh thức hoàn toàn, hiểu biết sâu sắc và toàn diện về bản chất thật sự của sự tồn tại. Đây là mục tiêu cuối cùng của con đường tu tập trong Phật giáo, nơi mà mọi vô minh, tham ái, và khổ đau đều được diệt trừ, và người tu hành đạt đến trạng thái an lạc và giải thoát hoàn toàn khỏi vòng luân hồi sinh tử (Samsara).
Các Khía Cạnh Của Giác Ngộ
Trí Tuệ (Prajna):
Hiểu rõ Tứ Diệu Đế và bản chất thật sự của mọi hiện tượng (vô thường, vô ngã, và khổ).
Tâm Từ Bi (Karuna):
Phát triển lòng từ bi sâu sắc, không chỉ đối với chính mình mà còn đối với tất cả chúng sinh.
Thanh Tịnh Tâm (Samadhi):
Đạt được sự thanh tịnh và tĩnh lặng của tâm thông qua thiền định và các thực hành khác.
Khi Nào Thì Gọi Là Giác Ngộ?
Trong Phật giáo, có nhiều cấp độ giác ngộ, mỗi cấp độ đánh dấu một bước tiến trong quá trình tu tập và hiểu biết.
Sơ Quả Tu Đà Hoàn (Sotapanna):
Đây là cấp độ đầu tiên của giác ngộ, còn gọi là "nhập lưu". Người tu đạt được cấp độ này đã dứt trừ ba kiết sử đầu tiên (tà kiến, nghi, và giới cấm thủ).
Nhị Quả Tư Đà Hàm (Sakadagami):
Đây là cấp độ thứ hai, còn gọi là "nhất lai". Người tu đạt được cấp độ này sẽ giảm bớt tham ái và sân hận, và sẽ chỉ còn tái sinh một lần nữa trong cõi người hoặc cõi trời trước khi đạt được giải thoát hoàn toàn.
Tam Quả A Na Hàm (Anagami):
Đây là cấp độ thứ ba, còn gọi là "bất lai". Người tu đạt được cấp độ này đã dứt trừ hoàn toàn năm kiết sử đầu tiên và không còn tái sinh trong cõi dục giới nữa.
Tứ Quả A La Hán (Arahant):
Đây là cấp độ cao nhất trong quá trình giác ngộ. Người tu đạt được cấp độ này đã dứt trừ hết mười kiết sử, đạt được sự giải thoát hoàn toàn khỏi vòng luân hồi sinh tử.
Con Đường Đến Giác Ngộ
Giới (Sila):
Giữ giới luật, sống đời sống đạo đức và thanh tịnh.
Định (Samadhi):
Thực hành thiền định để đạt được sự tĩnh lặng và định tâm.
Tuệ (Prajna):
Phát triển trí tuệ, hiểu rõ bản chất thật sự của cuộc sống và các hiện tượng.
Quá trình tu tập để đạt giác ngộ không phải là một con đường dễ dàng hay ngắn ngủi. Nó đòi hỏi sự kiên nhẫn, cố gắng, và cam kết lâu dài. Mỗi người tu hành sẽ trải qua các giai đoạn khác nhau, tùy thuộc vào nỗ lực và duyên lành của họ.
HỎI 4: Sư Thích Minh Tuệ đạt được trình độ giác ngộ nào rồi?
ChatGPT:
Thông tin về mức độ giác ngộ của một cá nhân cụ thể, chẳng hạn như Sư Thích Minh Tuệ, thường không được công khai hoặc dễ dàng xác định. Trong Đạo Phật, việc đánh giá mức độ giác ngộ của một người thường là rất cá nhân và không phải lúc nào cũng được chia sẻ rộng rãi. Những ai thực sự đạt được giác ngộ thường rất khiêm tốn và không công khai về trạng thái tu chứng của mình.
========
(Hình mượn trên Google)
29/7/2024
GS. Mạc Văn Trang

Thứ Bảy, 3 tháng 8, 2024

Nguyễn Hoàng (1525-1613) - Bốn trăm năm nhìn lại (1613-2013)

Trần Viết Ngạc


Nghi án Nguyễn Uông và quan hệ Nguyễn Hoàng - Trịnh Kiểm.

Một tư liệu gốc của Nguyễn Hoàng còn lưu giữ toàn vẹn đến hôm nay: Tờ thị của Tổng trấn Thuận Quảng năm 1597

1. Nguyễn Phúc tộc thế phả chép về Nguyễn Hoàng có đoạn:

"Năm Ất Tỵ (1545) đức Triệu Tổ mất, lúc này ngài 21 tuổi, được tập phong tước Hạ Khê Hầu...

Đời Lê Trang Tông, ngài được tấn phong tước Đoan Quận công, khi Trịnh Kiểm chuyên quyền, ám hại Lãng Quận công Nguyễn Uông (anh của ngài), ngài nghe mưu của cậu là Nguyễn Ư Kỷ, cáo bệnh giữ mình. Hiểu ý câu nói của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm "Hoành Sơn nhất dai , vạn đại chung thân" và theo lời khuyên của cậu, ngài nhờ chị Ngọc Bảo xin với Trịnh Kiểm (chồng của bà Ngọc Bảo) cho vào trấn đất Thuận Hóa" (1)

Đại Nam liệt truyện tiền biên, Đại Việt sử ký toàn thư (trong lời chú của dịch giả) và những tác giả viết về chúa Nguyễn, triều Nguyễn đều viết với nội dung tương tự.

Tuy nhiên, Đại Việt sử ký toàn thư (chính văn), Phủ biên tạp lục, Đại Việt thông sử đều không nói đến sự kiện Trịnh Kiểm ám hại Nguyễn Uông và cả câu chuyện Nguyễn Hoàng nhờ chị Ngọc Bảo xin vào trấn Thuận Hóa theo lời khuyên của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Nay ta thử tìm hiểu về sự kiện tạm gọi là nghi án Nguyễn Uông trong mối quan hệ Nguyễn Kim, Nguyễn Uông Nguyễn Hoàng với Trịnh Kiểm.

1. Năm 1533, khi Nguyễn Kim đưa Lê Ninh lên làm vua ở núi rừng Thanh Hoa (Trang Tông) cũng chính là lúc tài năng quân sự Trịnh Kiểm về với Nguyễn Kim và được Nguyễn Kim gã con gái là trưởng nữ Ngọc Bảo.

Năm đó, Nguyễn Kim đã 65 tuổi, Trịnh Kiểm ở vào tuổi lập than(ba mươi), chín chắn, sau một thời gian lang bạt, còn Nguyễn Hoàng mới 8 tuổi, anh là Nguyễn Uông chắc cũng chưa đến hai mươi ! (Trưởng nữ Ngọc Bảo, theo Đại Việt Lê triều đế vương trung hưng thật lục, lúc kết hôn với Trịnh Kiểm còn là con gái trẻ (2)).

Các nguồn tài liệu đều cho biết trước khi Nguyễn Kim mất, Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng chưa tham gia chiến trận cùng cha và anh rể, trong khi Trịnh Kiểm đã tích cực giúp Nguyễn Kim đánh đông dẹp bắc, gầy dựng thế lực Nam Triều ngay từ buổi đầu. Năm 1539, Trịnh Kiểm đã được phong tước Quận công.

Hơn Nguyễn Hoàng những 22 tuổi, là anh rể và đã có sự nghiệp, Trịnh Kiểm và Nguyễn Hoàng chẳng phải là đối tượng tranh giành địa vị và quyền binh của nhau. Có chăng là với Nguyễn Uông, trưởng nam của Nguyễn Kim.

Tuy đã lớn tuổi (77 tuổi) Nguyễn Kim chưa kịp chuẩn bị địa vị thừa kế cho con trưởng thì đã chết đột ngột. Có lẽ Nguyễn Uông không bằng lòng với chức tước tập ấm là Lãng Xuyên hầu cùng với em là Hạ Khê hầu trong lúc Trịnh Kiểm được vua Lê phong làm "Tiết chế các xứ thủy bộ chư linh, tước Lương Quốc công, được quyền nắm giữ việc binh và tổng tài chính trị, trị dân, dạy người, tuyên bố uy đức......" (3).

Đại việt sử ký toàn thư ghi:

"Tháng 5 ngày 20 Ất Tỵ, Nguyễn Kim mất ...... vua Lê phong Trịnh Kiểm làm Đô tướng Tiết chế các dinh thủy bộ kiêm Tổng nội ngoại Bình chương quân quốc trọng sự, Thái sư Lượng Quốc công. Mọi binh quyền ngoài khổn, công việc trong nước, trù tính mưu lược, phong tước bổ quan xa gần đều được tùy mình quyết định rồi sau mới tâu vua." (4)

Toàn thư và Đại Việt thông sử không nói gì về sự kiện tranh chấp quyền hành đưa đến cái chết của Nguyễn Uông.

Nguyễn Phúc tộc thế phả cho là "Trịnh Kiểm tranh đoạt quyền hành " nên ám hại ông" (5) viết như thế chẳng hợp lý chút nào! Uông làm gì có quyền hành để Trịnh Kiểm tranh đoạt. Nguyễn Kim chết, Trịnh Kiểm đương nhiên nắm hết quyền và vua Lê chỉ công nhận thực tế ấy mà thôi.

Nguyễn Uông trên danh nghĩa là kẻ thừa kế lý thuyết vì là trưởng nam của Nguyễn Kim, nhưng Nguyễn Kim đang còn lo đánh Mạc cùng Trịnh Kiểm, chưa chuẩn bị gì cho việc thừa kế (nếu có) của Nguyễn Uông.

Có thể nghĩ rằng Nguyễn Uông không bằng lòng vua Lê vì đã không nghĩ đến công lao tôn lập và gầy dựng Nam triều của cha mình. Nỗi bất mãn của Nguyễn Uông có thể đã được một số tùy tướng của Nguyễn Kim chia sẻ.

Lê Quý Đôn, trong Phủ biên tạp lục, hé lộ một số chi tiết:

"Bọn Lãng quận công ngờ vua có mưu gì, toan làm loạn. Thế tổ [Trịnh Kiểm] bấy giờ làm đại tướng quân Dực quận công rước vua đến bản dinh, xin hết sức giúp đỡ. Lại hiểu dụ bọn Lãng quận công bỏ hết hiềm khích" (6)

Sau sự kiện "toan làm loạn này" Nguyễn Uông còn được phong đến T tướng Quận công. Trong khoảng thời gian 1549 đến 1556, Phủ biên tạp lục chỉ đề cập đến Nguyễn Hoàng nhờ lập quân công mà được thăng Đoan quận công mà không nói gì về Nguyễn Uông. Do đó, ta có thể phỏng đoán Uông chết trong khoảng thời gian từ 1546 đến năm 1549. Uông đã chết như thế nào, vào năm nào? Không có tài liệu nào cho biết.

Có một điều khó hiểu là các tài liệu của nhà Nguyễn dù khẳng định là Uông chết một cách không minh bạch, (do ám hại) và quả quyết là do Trịnh Kiểm nhưng không thể nói rõ Uông đã bị "ám hại" như thế nào, vào năm nào. Tiểu sử của Nguyễn Uông trong Nguyễn Phúc tộc thế phả và trong Đại Nam liệt truyện tiền biên rất sơ sài. Cả hai nguồn tư liệu chính thống đó không cho biết năm sinh, năm mất, thân mẫu, vợ và các con của Nguyễn Uông. Chi có một chi tiết hiếm hoi là Nguyễn Uông có một người con là Nguyễn Uyên đã theo Nguyễn Hoàng và Thuận Hoá năm 1558.

Có một sự kiện nào đó dẫn đến cái chết của Nguyễn Uông mà sử chính thống của nhà Nguyễn không muốn nhắc đến chăng ?

Nguyễn Kim chỉ có ba bà vợ và ba nguời con.

- Bà vợ chính Nguyễn Thị Mai (được phong là Tĩnh Hoàng Hậu) chỉ sinh một người con là Nguyễn Hoàng. Bà Mai có một nguời em gái là Nguyễn Ngọc Dương là vợ của Mạc Cảnh Huống.

- Bà vợ thứ (thứ phu nhân) là Đỗ Thị Tín, sinh ra truởng nữ Nguyễn Thị Ngọc Bảo, vợ của Trịnh Kiểm.

- Bà thứ ba, khuyết danh, sinh ra Nguyễn Uông là con truởng của Nguyễn Kim.

Tại sao sự kiện Nguyễn Uông bị giết quan trọng như thế (đối với họ Nguyễn) lại thiếu minh bạch? Tại sao nhân thân của Nguyễn Uông lại được chính sử nhà Nguyễn ghi nhận một cách sơ sài và thiếu sót như thế? Tất nhiên, sự suy đoán nào cho dù hợp lý thì cũng không thể là sự thực lịch sử! Ta chỉ có ghi nhận một vài điểm:

- Không có tranh chấp giữa Trịnh Kiểm và Nguyễn Hoàng.

- Trịnh Kiểm không tranh đoạt quyền hành với Nguyễn Uông vì quyền hành của Trịnh Kiểm là do Trịnh Kiểm được nắm giữ sau cái chết bất ngờ của Nguyễn Kim. Có chăng là Nguyễn Uông muốn giành quyền với Trịnh Kiểm vì Nguyễn Uông là kẻ thừa kế theo huyết thống mà thôi.

Vì vậy, ta chỉ có thể kết luận là cái chết của Nguyễn Uông và cả nhân thân của Nguyễn Uông là không rõ ràng, thiếu chứng cứ (mà đáng ra phải có) và nên xem sự kiện ấy là một nghi án lịch sử mà thôi.

Nếu Nguyễn Uông không phải do Trịnh Kiểm ra tay án hại thì tại sao Nguyễn Hoàng phải lánh thân vào Thuận Hóa năm 1558?

Câu hỏi này không khó trả lời:

Sau cái chết của Nguyễn Kim, Nguyễn Hoàng lúc đó được 20 tuổi, được tập phong là Hạ Khê hầu và được cầm quân chống Mạc. Lập được chiến công, chỉ ba năm sau, Hoàng được thăng Đoan Quận công (1548). Từ sau khi Nguyễn Uông chết, chúng ta không có chứng cứ gì việc Nguyễn Hoàng ở vào tình thế khó khăn với anh rễ là Trịnh Kiểm. Sự kiện Nguyễn Hoàng cho người hỏi ý kiến Nguyễn Bỉnh Khiêm (nếu có) chỉ có thể xảy ra sau khi Nam triều làm chủ được Thuận Hóa (1554). Ở thời điểm này, sự có mặt của Nguyễn Hoàng ở Thanh Hoa có thể gây ra mối lo cho Trịnh Kiểm. Tại sao?

Vào năm 1554, Trịnh Kiểm đã ngoài 50 tuổi và Nguyễn Hoàng sắp bước vào tuổi mà Trịnh Kiểm theo về với Nguyễn Kim (ba mơi). Trịnh Cối và Trịnh Tùng còn quá nhỏ (Trịnh Tùng sinh năm 1550). Nếu chẳng may Trịnh Kiểm gặp nạn như Nguyễn Kim thì sự nghiệp Nam triều chắc chắn sẽ rơi vào tay Nguyễn Hoàng như trường hợp Trịnh Kiểm thừa hưởng quyền binh của Nguyễn Kim trước đây. Nguyễn Hoàng có mặt ở Nam triều vào giai đoạn này là một mối lo cho Trịnh Kiểm. Nguyễn Ư Kỷ và những người phò tá Nguyễn Kim buổi đầu cũng hiểu như thế. Tranh giành quyền với Trịnh Kiểm là điều không thể, vậy tốt nhất là lánh thân một thời gian để Trịnh Kiểm yên tâm sắp đặt kẻ kế thừa.

Trịnh Kiểm chấp thuận cho Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa như ta đã thấy không phải là với dã tâm như các sử gia nhà Nguyễn suy diễn là đưa em vợ vào chỗ "xa xôi, lam chướng" và mượn tay nhà Mạc để loại trừ một kẻ "đối lập"!

Cũng như sự kiện Nguyễn Uông bị giết, Đại Việt thông sử cũng như Phủ biên tạp lục, Đại Việt sử ký toàn thư không hề có thông tin gì về việc Nguyễn Hoàng "tìm chỗ dung thân", tránh việc Trịnh Kiểm có thể sát hại.

Sự kiện phái Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa theo Đại Việt thông sử là thực hiện một chiến lược của Trịnh Kiểm:

         "Xứ Thuận Hóa là một kho tinh binh trong thiên hạ, buổi đầu quốc triều ta bắt đầu gầy dựng cơ nghiệp cũng đã dùng dân xứ ấy để dẹp yên giặc Ngô. Xứ ấy, địa thế hiểm trở, dân khí cương cường, lại có nhiều nguồn lợi trên rừng dưới biển, là vùng trọng yếu không xứ nào hơn.

Gần đây, quan quân kinh lược hàng mấy chục năm trời mới lấy được. Vậy nên hết sức bảo vệ, để làm một bức bình phong vững chắc.

... Hạ thần xét thấy con trai thứ của Chiêu Huân Tĩnh công là Nguyễn Hoàng, là một người trầm tĩnh, cương nghị, lại có mưu lược, đối với quân sĩ có độ lượng khoan dung, giản dị. Vậy xin bổ ông làm trấn thủ, để trị an nơi biên thùy và chống giặc ở miền Bắc kéo vào; và lại cùng Trấn Quận Công [Bùi Tá Hán] ở xứ Quảng Nam, cùng làm thế cứu viện lẫn nhau. Hết thảy các việc to nhỏ ở địa phương ấy, xin đều để ông tùy nghi định đoạt, lại xin ủy cho ông thu các sắc thuế, nộp về triều đình đúng kỳ hạn, để thêm vào sự chi tiêu trong nước.

Như vậy, thì một vùng Ô Châu, khỏi phải để ý lo tới, hạ thần sẽ khỏi phải phân tâm, mà chỉ dốc hết ý chí về việc đông chinh: bắt đầu kinh lý ở xứ Sơn Nam và xứ Sơn Tây rồi thứ đến khôi phục kinh đô cũ, tiểu trừ thoán nghịch. Nghiệp trung hưng sẽ có thể sớm thành công"

Vua Anh Tông thi hành theo ý kiến này, từ đấy Mạc Phúc Nguyên không dám dòm ngó tới hai xứ Thuận Quảng (7).

Nếu mục đích chỉ đẩy ông em vợ đi vào chỗ hiểm nguy, Trịnh Kiểm không nhọc công trình bày với vua là một kế hoạch toàn diện và lâu dài như thế. Kế hoạch đo trên thực tế cho thấy người kế nhiệm Trịnh Kiểm đã thực hiện thành công.

Nêu những đức tính của Nguyễn Hoàng và cho Nguyễn Hoàng được tùy nghi định đoạt mọi việc lớn nhỏ ở Thuận Hóa, Trịnh Kiểm tỏ ra không phải là một người nhỏ nhen, biết xếp đặt công việc để Nam Triều thêm vững chắc và thực hiện công việc chống Mạc thành công.

Tất nhiên việc Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa làm cho Trịnh Kiểm yên tâm, không phải lo "lịch sử năm 1545 lặp lại". Chuyến đi của Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa không phải là chuyến đi của một người cùng đường tìm chỗ dung thân. Trịnh Kiểm đã cho phép cả một đoàn tháp tùng vị tân trấn thủ:

"Hương khúc huyện Tống Sơn và nghĩa dõng Thanh Hoa..., một số quan quân hai trấn Thanh Hoa và Nghệ An cũng tình nguyện theo vào. Các ông Nguyễn Ư Kỷ,... Mạc Cảnh Huống đều đem con em và gia quyến vào Nam với Đoan Quận công" (8)

Tổng số những người vào Thuận Hóa cùng với Nguyễn Hoàng lên đến cả ngàn người. Đây là lực lượng nòng cốt của Nguyễn Hoàng khi vào đến Ái tử. Chẳng những thế, Tống Phước Trị (Luân Quận Công) đang là trấn thủ Thuận Hóa cùng nhân sự tam ty đều ở lại theo giúp Nguyễn Hoàng.

Việc Nguyễn Hoàng trở ra Tây Đô năm 1569 cùng làm cho ta tin rằng Nguyễn Uông chết không phải là do Trịnh Kiểm trừ khử. Lần này, Nguyễn Hoàng sau khi yết kiến vua Lê ở cung An Trường, đã "đến phủ Thượng tướng lạy mừng, giải bày tình cảm anh em, rất thương yêu quý mến nhau" (9)

Tuy nhiên, lần hội ngộ sau 11 năm anh em xa cách này lại làm cho Trịnh Kiểm lo ngại.

Trịnh Kiểm vào lúc này đã 66 tuổi, trải qua 36 năm xông pha chiến trường trong cuộc xung đột Nam Bắc triều. Trịnh Kiểm biết vận số của mình sắp hết và nếu chẳng may khi buông tay từ bỏ quyền binh mà Nguyễn Hoàng còn hiện diện ở Thanh Hoa thì lịch sử 25 trước sẽ lặp lại: Nguyễn Hoàng sẽ là người thừa kế thực tế và hợp lý. Nguyễn Hoàng 45 tuổi trong khi Trịnh Cối, Trịnh Tùng ở vào trạc tuổi Nguyễn Hoàng lúc Nguyễn Kim mất.

Phải đưa Nguyễn Hoàng mau trở về Thuận Hóa. Muốn vậy, Trịnh Kiểm đã tâu vua Lê cho Nguyễn Hoàng kiêm luôn trấn thủ Quảng Nam (rút Nguyễn Bá Quýnh về trấn thủ Nghệ An) Nguyễn Hoàng được thêm đất lại cởi bỏ được sự kiềm chế ở phía Nam. Vị tổng trấn vui vẻ mà trở về Thuận Quảng và Trịnh Kiểm yên tâm nhắm mắt.

Nguyễn Hoàng ra Thanh Hoa vào tháng 6 năm Kỷ Tỵ (1569), trở về tháng giêng năm Canh Ngọ với chiếc ấn Tổng trấn tướng quân.

Ngày 18 tháng 02 năm Canh Ngọ (1570) Trịnh Kiểm mất.

2. Tờ thị của Tổng Trấn Thuận Quảng năm 1597.

Chính quyết định cho Nguyễn Hoàng kiêm nhiệm chức thấn trủ Quảng Nam của Trịnh Kiểm đã làm cho sự nghiệp của Nguyễn Hoàng thêm rạng rỡ, tạo điều kiện cho Nguyễn Hoàng mở mang thêm vùng biên viễn từ đèo Hải Vân cho đến tận Đèo Cả sau khi đã xây dựng Thuận Hóa thành một vùng đất hứa:

"Cai trị hơn mười năm, chính sự khoan hòa, việc gì cũng thường làm ơn cho dân, dùng phép công bằng, răn giữ bản bộ, cấm đoán kẻ hung dữ. Quân dân hai xứ thân yên tín phục, cảm nhận mến đức, dời đổi phong tục, chợ không hai giá, người không ai trộm cướp, cửa ngoài không phải đóng, thuyền buôn ngoại quốc đền đến mua bán, đổi chác phải giá, quân lệnh nghiêm trang, ai cũng cố gắng, trong cõi đều an cư lạc nghiệp." (10)

Trấn Quảng Nam bấy giờ như tên gọi là vùng đất phía nam sông Thu Bồn trải dài đến tận Đại Lãnh, gồm 3 phủ, 9 huyện.

Phủ Thăng Hoa lãnh ba huyện : Lê Giang, Hà Đông, Hy Giang.

Phủ Tư Nghĩa lãnh ba huyện : Bồng Sơn, Phù Ty, Tuy Viễn.

Huyện Tuy Viễn không phải chỉ là phần lãnh thổ tận cùng phía nam, giới hạn bởi đèo Cù Mông như nhiều nhà nghiên cứu nhận định mà trải dài đến tận đèo Đại Lãnh là phần lãnh thổ mà Lê Thánh Tông trong cuộc nam chinh năm 1471 chiếm được và đặt tên là thừa tuyên Quảng Nam.

"Núi Thạch Bi [núi Đá bia] ở phù Phú Yên là chỗ tiên triều phân định địa giới Chiêm Thành, núi đến rất xa, từ đầu nguồn liên lạc đến bờ biển. Núi này cao hơn các núi khác Thánh Tông đánh được Chiêm Thành [1471], lấy đất đặt xứ Quảng Nam, lập dòng dõi vua Chiêm Thành cũ, phong cho đất tự núi ấy trở về phía tây, tạc đỉnh núi lập bia làm địa giới, xoay lưng về phía bắc, mặt về phía nam..." (11)

Năm 1592, Trịnh Tùng thu phục được Đông Kinh trong tay nhà Mạc. Nguyễn Hoàng lúc bấy giờ đã 68 tuổi vẫn nối chí cha, hết lòng ủng hộ việc khôi phục nhà Lê, đem tướng sĩ, voi ngựa, binh thuyền đến kinh đô mừng vua Lê. Ông này cũng nạp sổ sách binh lương, của cải, vàng bạc, châu báu và kho tàng hai trấn Thuận, Quảng. Vua Lê phủ ủy: "Ông trấn thủ hai xứ, dân nhờ được yên, công ấy lớn lắm", rồi tấn phong làm Trung quân đô đốc phủ đô đốc, chưởng phủ sự, Thái Úy Đoan Quốc công" (12)

Nguyễn Hoàng đã giúp Trịnh Tùng đánh quân Mạc ở Sơn Nam, Hải Dương, miền Bắc thì đánh Thái Nguyên, miền Tây thì đánh Tuyên Quang, hộ giá rước vua đến Nam Quan ở Lạng Sơn đó giảng hòa với quan tam ty nước Đại Minh đều có công. (13)

Trong thời gian bị Trịnh Tùng lưu lại ở Thăng Long không muốn cho về, lúc nào ông cũng nghĩ đến Thuận Quảng nơi ông đã bỏ công sức gầy dựng. Năm 1597, ông sai Lương Văn Chánh trở lại nhiệm sở cũ là huyện Tuy Viễn, thuộc phủ Tư Nghĩa trấn Quảng Nam để đưa lưu dân vào khai thác phần đất huyện Tuy Viễn bên kia đèo Cù Mông.

Tờ thị ấy hiện nay còn được lưu giữ ở Đền thờ Lương Văn Chánh ở Tuy Hòa, Phú Yên.

Nội dung tờ thị như sau:

Phiên âm:

Thị Phù Nghĩa hầu Lương Văn Chánh năng tòng quân nhật cửu hữu công, quyền Tuy Viễn huyện, An Biên trấn, văn:

Liệu suất Bà Thê xã trục hạng nhân số tính khách hộ các thôn phường tòng hành ứng vụ, nhưng suất thủ chiết biệt khách hộ nhân dân tựu Cù Mông, Bà Đài, Bà Diển, Đà Niểu đẳng xứ, thượng chí nguồn đầu, hạ chí hải khẩu, kết lập gia cư địa phận, khai canh hoang điều nhàn thổ để thục nạp thuế như lệ. Nhược chủ sự nhiễu dân, khám đắc xử tội.

Tự thị.

Quang Hưng, nhị thập niên, nhị nguyệt sơ lục nhật

Ấn: TỔNG TRẤN TƯỚNG QUÂN CHI ẤN

Dịch nghĩa:

Dạy Phù Nghĩa hầu Lương Văn Chánh đã giữ việc quân lâu ngày, có công trạng, quyền coi huyện Tuy Viễn, trấn an Biên rằng:

Hãy liệu đem số người trục vào dân của làng Ba Thê và các thôn phường khách hộ tòng hành ứng vụ, rồi lấy riêng số dân khách hộ đưa đến các xứ Cù Mông, Bà Đài, Bà Diển, Bà Niểu, trên từ đầu nguồn dưới tới cửa biển, kết lập địa phận gia cư khai canh ruộng đất bỏ hoang tới khi thành thục, nạp thuế như lệ thường. Nếu lo việc mà nhiễu dân, khám ra sẽ bị xử tội.

Nay dạy (2).

Quang Hưng, năm thứ hai mươi, ngày mồng sáu tháng hai [1597]

Ấn: TỔNG TRẤN TƯỚNG QUÂN CHI ẤN

Hình thức và nội dung tờ thị trên cho chúng ta hiểu thêm nhiều điều.

1. Lương Văn Chánh cùng ra Thăng Long với Nguyễn Hoàng năm 1593, lập nhiều công trạng trong việc đánh Mạc nên đã được phong Phụ Quốc Thượng Tướng quân Tham đốc Thần Vũ tứ vệ, tước Phù Nghĩa hầu (14) Trong tờ thị , Nguyễn Hoàng không dùng chức tước mới của mình và của Lương Văn Chánh. Phải chăng chức tước mới chỉ là chiếc lồng son muốn cầm giữ Nguyễn Hoàng và các bộ tướng nên Nguyễn Hoàng muốn từ khước?

Với chức vụ trước năm 1593, Tổng trấn Thuận Quảng Nguyễn Hoàng đã ra lệnh cho thuộc cấp cũ của mình là Lương Văn Chánh, quyền huyện Tuy Viễn trở lại nhiệm sở cũ để đốc xuất quân vào khai phá ruộng hoang đất nhân ở bên kia đèo Cà Mông đến đèo Đại Lãnh, thiết lập làng mạc.

2. Cũng cần chú ý ấn Tổng Trấn tướng quân được đóng ngay dưới niên hiệu như cách đóng ấn của nhà vua. Nếu cách thức đóng ấn triệu dưới triều Lê cũng tương tự như dưới triều Nguyễn sau này, thì Nguyễn Hoàng đã tự xem mình đứng đầu một cõi như các chúa Nguyễn về sau.(3)

3. Theo lệnh sai phái này Lương Văn Chánh đã trở lại Tuy Viễn vào khoảng mùa xuân năm Quang Hưng thứ 20 (1597). Như vậy việc đưa dân vào khai canh hoang điền nhàn thổ đã bắt đầu vào giữa năm 1597.

4. Tình trạng dân cư trong vùng phía Nam đèo Cù Mông cho đến Thạch Bi Sơn Đại Lãnh như thế nào?

Trước hết lệnh của Nguyễn Hoàng cho Lương Văn Chánh cho thấy vùng đất tỉnh Phú Yên ngày nay, trước năm 1597 là vùng đất của Đại Việt. Chẳng những thế, tình hình rất ổn định. Đại Nam Nhất thống chí cũng cho rằng vùng đất phía Bắc Thạch Bi Sơn đã là lãnh thổ Đại Việt kể từ năm 1471. Tuy nhiên, "...từ Cù Mông về phía Nam còn thuộc về người Man người Lạo"(4). Lương Văn Chánh đưa dân vào canh tác trên phần đất của huyện Tuy Viễn chưa thiết lập làng mạc, dân cư còn thưa thớt nên một số ruộng vườn của người Chăm trước đây còn bỏ hoang. Số ruộng, vườn mà văn bản gọi là hoang điền nhàn thổ chắc chắn không phải là đa phần diện tích của vùng này, được phân bố rải rác khắp nơi từ Cù Mông, Bà Đài, Bà Diển, Đà Niểu ...và từ đầu nguồn xuống đến hải khẩu.

Tờ thị cũng cho thấy số dân huy động vào canh tác không nhiều. Điều đó cho thấy, trước năm 1597, dân cư trên phần đất Tuy Viễn chưa thiết lập làng mạc này cũng khá đông. Họ là người Chăm ở lại và là người Việt di dân vào. Có thể suy đoán là đất rộng người thưa, họ chọn lựa những nơi canh tác thuận lợi về nguồn nước, về giao thông và đất đai tương đối màu mở. Đó là một quá trình quần tụ dân cư, canh tác đất đai, từ cuối thế kỷ 15 đến cuối thế kỷ 16.

Đến những năm cuối thế kỷ 16, tình hình đã chín muồi để di dân tăng thêm nguồn nhân lực canh tác đất đai còn thừa để đi đến việc thiết lập làng mạc. Thời gian di dân, khai thác ruộng đất bỏ hoang chỉ chưa đầy một thế hệ vì đến năm 1611, mười bốn năm sau lệnh cho Lương Văn Chánh, Nguyễn Hoàng đã cho thiết lập phủ Phú Yên với hai huyện Đồng Xuân và Tuy Hòa.

5. Lệnh còn nghiêm cấm"không được nhiễu dân, nếu khám ra sẽ bị xử tội". Người dân mới vào được canh tác trên các hoang điền, nhàn thổ và không được xâm phạm đất đai của những người đang canh tác cũng như không được làm xáo trộn đời sống nhân dân đã định cư trước đdó. Chính sách mở mang kinh tế nông nghiệp trên phần đất mới phải phù hợp với châm ngôn mà Nguyễn Hoàng đã đặt ra để "dung thân muôn đời" là thu phục nhân tâm, chiêu hiền đãi sĩ.

Một công việc quan trọng như thế được giao trách nhiệm cho Phù Nghĩa hầu Lương Văn Chánh trong một tình thế rất đặc biệt: Vị Tổng trấn đang bị Trịnh Tùng giữ lại ở Thăng Long chưa biết được ngày nào "hổ lại về rừng". Năm 1600 là năm mà Trịnh Tùng bắt đầu xưng vương, cha truyền con nối cũng là năm Nguyễn Hoàng bằng mưu lược đã thoát được về Thuận Hóa.

Tờ thị đã cách chúng ta 416 năm, nhưng chiếc ấn "Tổng trấn tướng quân chi ấn" đóng trên tờ thị cách chúng ta đến 443 năm, gần nửa thiên niên kỷ.

Tháng 06 năm 2013

TRẦN VIẾT NGẠC

(1) - Hội đồng trị sự Nguyễn Phú Tộc, Nguyễn Phúc Tộc thế phả do Vĩnh Cao, Vĩnh Dũng, Tôn Thất Hanh, Vĩnh Khánh Tôn Thất Lộc, Vĩnh Quả, Vĩnh Thần biên soạn, Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế 1955, Trang 105.

(2) - Lê Quý Đôn - Đại Việt thông sử, bản dịch Ngô Thế Long, Nhà xuất bản khoa học xã hội, Hà Nội, 1978, trang 281.

(3) - Lê Quý Đôn - Đại Việt thông sử, bản dịch Ngô Thế Long, Nhà xuất bản khoa học xã hội, Hà Nội, 1978, trang 281.

(4) - Đại Việt sử ký toàn thư, bản dịch của Hoàng Văn Lâu, Ngô Thế Long, tập III, Nhà xuất bản XHXH, Hà nội, 1993, trang 124.

(5) - Nguyễn Phúc Lộc thế phả,Stđ, trang 108.

(6) - Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục, Đào Duy Anh hiệu đính, Nhà xuất bản KHXH, Hà nội, 1977, trang 49.

(7) - Đại Việt thông sử, sđd, trang 305 - 306.

(8) - Phan Khoang, Việt sử xứ Đàng Trong, Nhà xuất bản Khai Trí, Sài 1970, trang 135.

(9) - Toàn thư, Sđd, trang 137.

(10) - Phủ biên tạp lục, sđd, trang 50.

(11)  - Phủ biên lạp lục, Sđd, trang 121.

(12) - Việt sử xứ Đàng Trong, Sđd, hàng 149-150.

 

(13) - Phủ biên tạp lục, Sđd, trang 51.

(14) - Sắc phong này còn nguyên vẹn (H.1) hiện lưu giữ tại Đền Thờ Lương Văn Chánh, Tuy Hòa, Phú Yên


1.Ảnh Trịnh Kiểm

2.Ảnh tượng Nguyễn Hoàng

3.Tờ thị của Tổng trấn Nguyễn Hoàng cho Lương vă Chánh năm 1597

4.Sắc phong của vua Lê năm 1596 cho Lương văn Chánh

Nguồn bài đăng