Mấy nay
"Thầy" Thích Chân Quang nói kháy Thầy Pháp Hòa là rằng bậy, khi Thầy
Pháp Hòa nói: “Đạo Phật không phải là một Tôn Giáo, mà là một Triết Lý sống
thật. Bởi Đạo Phật không có Đấng quyền năng tạo dựng muôn loài như Đạo Công
Giáo nên việc lạy lục, cúng vái để xin được cái này cái kia là sai Pháp, mà
cũng chẳng được ích gì bởi Đức Phật không có quyền năng của một đấng thưởng
thiện, phạt ác".
Bài
thuyết Pháp của Thầy Hoà khiến không những mình "Thầy" Chân Quang
nóng mặt, mà mình tin cả 100, nghìn thầy cũng như đa số Phật tử Việt Nam nóng
mặt. Vì xưa nay theo Phật Giáo Tàu nên đa phần sư sãi, thầy chùa cho đến phật
tử luôn nghĩ rằng Đức Phật là người ban phước lành mà không dễ chấp nhận Đạo Phật
chân chính là một triết lý Sống Thật.
Đức Phật
(phiên âm từ Bubta có nghĩa là Người Đã Giác Ngộ ) tức là Đức Tất Đạt Đa cũng
như cả tỷ, triệu người tu trước đây đều đã Giác Ngộ, người thì có Thầy chỉ cho
cách Giác Ngộ. Người thì tự tu và Giác Ngộ.
Đức Tất
Đạt Đa khác các vị Đã Giác Ngộ trước là Ngài đã Hoằng Pháp ( tức đi giảng dạy
các Tỳ Khoe cách đi đến Giác Ngộ mà thôi, còn đại đa các vị tu hành trước thầy
Tất Đạt Đa sau khi đã Giác Ngộ chưa một ai Hoằng Pháp. Ngày nay các Khầy chùa
Lữa ở Đông Lào dù chưa Giác Ngộ, vẫn Hoằng Pháp onl hằng ngày).
Sau đây
là bài chia sẽ tất tần tật về cái chính của Đạo Phật. Kính mong đón nhận trong
niềm hoan hỉ, tránh cãi nhau đúng sai.
NHỮNG HIỂU LẦM VỀ ĐẠO PHẬT.
Đạo Phật
ngày càng suy đồi, tha hóa, “mạt pháp”, nguyên nhân thì nhiều, nhưng đôi khi vì
trong giới tu sĩ và cư sĩ không trang bị đủ kiến thức của giáo pháp như thực -
tức là giáo pháp cội rễ - mà chỉ chạy theo cành, nhánh, ngọn lắm hoa và nhiều
trái. Từ đấy, khó phân biệt đâu là đạo Phật chơn chánh, đâu là đạo Phật đã bị
biến chất, chạy theo thị hiếu dung thường của thế gian. Đôi nơi đạo Phật còn bị
trộn lẫn với tín ngưỡng duy linh và cả tín ngưỡng nhân gian nữa... Nhiều lắm,
không kể xiết đâu.
Với cái
nhìn “chủ quan” của một tu sĩ Thēravāda, tôi xin mạo muội liệt kê ra đây những
hiểu lầm tai hại và rất phổ biến của Phật giáo trong và ngoài nước để chư vị
thức giả cùng thấy rõ như thực:
1- Tôn giáo:
Đạo Phật
có những sinh hoạt về tôn giáo nhưng đạo Phật không phải là tôn giáo vì đạo
Phật không có một vị thượng đế tối cao hoá sinh muôn loài và có quyền ban
thưởng, phạt ác...
2- Tín ngưỡng:
Đạo Phật
có những sinh hoạt tín ngưỡng nhưng đạo Phật không phải là tín ngưỡng để mọi
người đến van vái, cầu xin những ước mơ dung tục của đời thường.
3- Triết học:
Đạo Phật
có một hệ thống tư tưởng được rút ra từ Kinh, Luật và Abhidhamma, được gọi là
“như thực, như thị thuyết” chứ không phải là một bộ môn triết học “chia” rồi
“chẻ”, “phán” rồi “đoán” như của Tây phương.
4- Triết luận:
Đạo Phật
có tuệ giác để thấy rõ Cái Thực chứ không sử dụng lý trí phân tích, lý luận.
Còn triết, còn luận là vì chưa thấy rõ Cái Thực. Đạo Phật là đạo như chơn, như
thực. Kinh giáo của đức Phật luôn đi từ cái thực cụ thể để hướng dẫn mọi người
tu tập, nó không có triết, có luận đâu. Ngay “thiền” mà còn “luận” (thiền luận)
là đã đánh mất thiền rồi.
5- Từ thiện xã hội:
Đạo Phật
có những sinh hoạt từ thiện xã hội nhưng không coi từ thiện xã hội là tất cả,
để hy sinh cuộc đời đầu tròn, áo vuông một cách uổng phí. Đạo Phật còn có những
sinh hoạt cao cả hơn: Đó là giáo dục, văn hoá, nghệ thuật, tu tập thiền định và
thiền tuệ nữa. Từ thiện xã hội thì ai cũng làm được, thậm chí người ta còn làm
tốt hơn cả Phật giáo, ví dụ như Bill Gates. Còn giáo dục, văn hoá, nghệ thuật
của đạo Phật là nền tảng Mỹ Học viết hoa (nội hàm các giá trị nhân văn, nhân
bản) mà không một tôn giáo, một chủ nghĩa, một học thuyết nào trên thế gian có
thể so sánh được. Và đây mới là sự phụng hiến cao đẹp của đạo Phật cho thế
gian. Còn nữa, nếu không có tu tập thiền định và thiền tuệ thì mọi hình thái
sinh hoạt của đạo Phật, xem ra không phải là của đạo Phật đâu!
6- Cực lạc, cực hạnh phúc:
Đạo Phật
có nói đến hỷ, lạc trong các tầng thiền; có nói đến hạnh phúc siêu thế khi ly
thoát tham sân, khổ lạc (dukkha), phiền não của thế gian - chứ không có một nơi
chốn cực lạc, cực hạnh phúc được phóng đại như thế.
7) 8 vạn 4 ngàn pháp môn:
Đạo Phật
có nói đến 8 vạn 4 ngàn pháp uẩn (dhammakhandha) chứ không nói đến 8 van 4 ngàn
pháp môn (dhammadvāra). Uẩn (khandha) ngoài nghĩa che lấp, che mờ và nghĩa
chồng lên, chồng chất, còn có nghĩa là nhóm, liên kết, tập hợp ví như Giới uẩn
(nhóm giới), Định uẩn (nhóm định), Tuệ uẩn (nhóm tuệ). Do từ uẩn (khandha) lại
dịch lệch ra môn - cửa (dvāra), pháp môn nên ai cũng tưởng là có 8 vạn 4 ngàn
pháp môn, tu theo pháp môn nào cũng được! Ai là người có thể đếm đủ 8 vạn, 4
ngàn cửa pháp này? Còn nữa, xin lưu ý, 8 vạn 4 ngàn chỉ là con số tượng trưng,
có nghĩa là nhiều lắm, đếm không kể xiết theo truyền thống tôn giáo và tín
ngưỡng Ấn Độ cổ thời. Ví dụ 84 ngàn lỗ chân lông, 84 ngàn vi trùng trong một
bát nước, 84 ngàn phiền não, 84 ngàn cách tu..
8- Xin xăm, bói quẻ, cầu sao, giải hạn, xem
ngày giờ tốt xấu:
Những
hình thức này không phải của đạo Phật. Trong kinh tụng Pāḷi có đoạn:
“Sunakkhataṃ sumaṅgalaṃ supabhātaṃ suhuṭṭhitaṃ, sukhno ca suyiṭṭaṃ
brahmacārisu. Padakkhinaṃ kāyakammaṃ vācākammaṃ padakkhinaṃ padakkhinaṃ
manokammaṃ paṇidhī te padakkhinā...” Có nghĩa là: Giờ nào (chúng ta) thực hành
thân, khẩu, ý trong sạch; giờ đó được gọi là vận mệnh tốt, là giờ tốt, là khắc
tốt, là canh tốt... Ngày đó gọi là có nghiệp thân phát đạt, nghiệp khẩu phát
đạt, nghiệp ý phát đạt. Và nguyện vọng theo đó được gọi là nguyện vọng phát
đạt. Người tạo nghiệp thân, nghiệp khẩu, nghiệp ý phát đạt như thế rồi sẽ được
những lợi ích phát đạt (chữ phát đạt có thể có thêm nghĩa nhiêu ích).
9- Định mệnh:
Đạo Phật
có nói đến nghiệp, đến nhân quả nghiệp báo chứ không hề nói đến định mệnh. Theo
đó, gây nhân xấu ác thì gặt quả đau khổ, gây nhân lành tốt thì gặt quả an vui -
chứ không phải “cái tơ cái tóc cũng do trời định” như định mệnh thuyết của
Khổng Nho hoặc định mệnh 4 giai cấp của Bà-la-môn giáo.
10- Siêu độ, siêu thoát:
Không có
bài kinh nào, không có uy lực của bất kỳ ông sư, ông thầy nào có thể tụng kinh
siêu độ, siêu thoát cho hương linh, vong linh, chân linh cả. Thời Phật tại thế,
nếu có đến nơi người mất, chư tăng chỉ đọc những bài kệ vô thường, khổ và vô
ngã để thức tỉnh người sống; và hiện nay các nước Phật giáo Thēravāda còn duy
trì. Có thể có hai trường hợp:
- Nếu
vừa chết lâm sàng thì thần thức người chết vẫn còn. Vậy có thể đọc kinh, mở
băng kinh, chuông mõ, hương trầm... để “thần thức người chết” hướng về điều
lành... để thần thức tự tạo “cận tử nghiệp” tốt cho mình.
- Nếu
thần thức đã lìa khỏi thân rồi – thì họ đã tái sanh vào cõi khác rồi, ngay tức
khắc. Khi ấy thì gia đình làm phước để chư tăng tụng kinh hồi hướng phước ấy
cho người đã mất.
Cả hai
trường hợp trên đều không hề mang ý nghĩa siêu độ, siêu thoát mà chỉ có ý nghĩa
gia hộ, gia niệm, gia lực mà thôi. Tu dựa vào tha lực cũng tương tự như vậy,
nhưng cuối cùng cũng phải tự lực: “Tự mình thắp đuốc mà đi, tự mình là hòn đảo
của chính mình”. Chư thiên chỉ có khả năng hoan hỷ phước và báo truyền thông
tin ấy cho người quá vãng mà thôi. Họ không có uy lực ban phước lành cho ai cả.
11- Huyền bí, bí mật:
Giáo
pháp của đức Phật không có cái gì được gọi là huyền bí, bí mật cả. Đức Phật
luôn tuyên bố là “Như Lai thuyết pháp với bàn tay mở ra”; có nghĩa là ngài
không có pháp nào bí mật để giấu kín cả!
12- Tâm linh:
Ngày
nay, người ta tràn lan lễ hội, tràn lan mọi loại điện thờ với những hình thức
mê tín, dị đoan, sa đoạ văn hoá... mà ở đâu cũng rêu rao các giá trị tâm linh.
Đạo Phật không hề có các kiểu tâm linh như vậy. Thuật ngữ tâm linh này được du
nhập từ Trung Quốc. Và rất tiếc, tôi không hề tìm ra nguồn Phật học Pāli hay
Sanskrit có từ nào tương thích với chữ “linh” này cả!
13- Niết-bàn:
Nhiều
người tưởng lầm Niết-bàn là ở một cõi nào đó, một nơi chốn nào đó; thậm chí là
ở một thế giới ở ngoài thế gian này. Người nào tìm kiếm Niết-bàn kiểu ấy, thuật
ngữ thiền tông có cụm từ “lông rùa, sừng thỏ” như ngài Huệ Năng đã nói rõ:
“Phật pháp tại thế gian. Bất ly thế gian giác. Ly thế mịch bồ-đề. Cáp như tầm
thố giác”. Thố giác là sừng thỏ. Và giác ngộ cũng vậy, chính ở trong khổ đau,
phiền não mới giác ngộ bài học được.
14- Bỏ khổ, tìm lạc:
Tu Phật
không phải là bỏ khổ, tìm lạc. Xin lưu ý cho: Khổ và Lạc chính là căn bản của
phiền não!
15- Tu để được cái gì?
Có nhiều
người nghĩ rằng, tu là để được cái gì đó. Xin thưa, được cái gì là sở đắc. Ai
sở đắc? Chính là bản ngã sở đắc. Đạo Phật là vô ngã. Hãy xin đọc lại Bát-nhã
tâm kinh.
16- Tu là sửa mình:
Nếu tu
là sửa thì mình đã từ “cái ta này” biến thành “cái ta khác”. Nếu tu là không
sửa thì cứ để nguyên trạng tham, sân, si như vậy hay sao? Xin thưa, sửa hay
không sửa đều trật. Đạo Phật quan trọng ở Cái Thấy! Có Cái Thấy mới nói đến
giác ngộ và giải thoát. Không có Cái Thấy này thì tu kiểu gì cũng chệch hướng
hoặc rơi vào phước báu nhân thiên.
17- Vía:
Đạo Phật
không có vía nào cả. Vía, hồn, phách là quan niệm của nhân gian. Ví dụ, ba hồn
bảy vía. Ví dụ, nam thất, nữ cửu – nam bảy vía, nữ chín vía. Nếu là nam thất,
nữ cửu thì nó trùng với nam 7 khiếu, nữ 9 khiếu. Vía là phần hồn. Không có cái
hồn, cái linh hồn tự tồn tại nếu không có chỗ nương gá. Vía không độc lập được.
Như danh - phần tâm, sắc - phần thân – luôn nương tựa vào nhau. Chỉ có năng lực
thiền định mới tạm thời tách lìa danh ra khỏi sắc, như Cõi trời Vô tưởng của tứ
thiền. Tuy nhiên, cõi trời Vô tưởng hữu tình này không phải là không có danh
tâm mà chúng ở dạng tiềm miên. Còn các Cõi trời Vô sắc thì sắc không phải là
không có, chúng cũng ở dạng tiềm miên. Thật đáng phàn nàn, Phật và Bồ-tát đều
có “vía” cả! Và cũng thật là “đau khổ” khi trong lễ an vị Phật, người ta còn hô
“Thần nhập tượng” nữa chứ!
18- Bồ-tát:
Bồ-tát
là âm của chữ Bodhisatta: Chúng sanh có trí tuệ. Vậy, chúng ta tạm thời bỏ quên
“khái niệm Bồ-tát” quen thuộc trong kinh điển mà trở về với nghĩa gốc là “chúng
sanh có trí tuệ”. Và như vậy, sẽ có hạng chúng sanh có trí tuệ với nguyện lực
Thanh Văn; chúng sanh có trí tuệ với nguyện lực Độc Giác; chúng sanh có trí tuệ
với nguyện lực Chánh Đẳng Giác. Ngoài 3 loại chúng sanh có trí tuệ trên – không
có loại chúng sanh có trí tuệ nào khác.
19- Phật:
Phật là
âm của chữ Buddha, nghĩa là người Giác ngộ. Vậy chúng ta nên tạm thời bỏ quên
“khái niệm Phật” từ lâu đã mọc rễ trong tâm thức mà trở về nghĩa gốc là bậc
Giác ngộ. Vậy, có người Giác ngộ do nghe pháp từ bậc Chánh Đẳng Giác, được gọi
là Thanh Văn Giác. Có người Giác ngộ do tự mình tu tập vào thời không có đức
Chánh Đẳng Giác, được gọi là Độc Giác. Có vị Giác ngộ do trọn vẹn 30 ba-la-mật,
trọn vẹn minh và hạnh nên gọi là Chánh Đẳng Giác. Không có vị Giác ngộ (Phật)
nào ngoài 3 loại Giác ngộ trên.
20- Thể nhập:
Tu là
không thể nhập vào cái gì cả. Thể nhập là bỏ cái ngã này để nhập vào cái ngã
khác. Cái ngã khác ấy có thể là dòng sông, có thể là ngọn núi, có thể là một
cội cây, có thể là một thần linh, thượng đế. Cái cụm từ “thể nhập pháp giới”
rất dễ bị hiểu lầm. Khi đi, chánh niệm, tỉnh giác trọn vẹn với cái đi; khi nói,
chánh niệm, tỉnh giác trọn vẹn với cái nói; khi ăn, chánh niệm, tỉnh giác trọn
vẹn với cái ăn – thì đấy mới đúng nghĩa “thể nhập pháp giới”, ngay giây khắc
ấy, mọi tham, sân, phiền não không có chỗ để phan duyên, sanh khởi.
• Hòa thượng Giới Đức
Ngọa Tùng Am, Huế.
————
* Lời pháp của Đức Dalai Lama: Phật giáo không chấp nhận một lý thuyết về Thượng đế, hay
một đấng sáng tạo. Theo Phật giáo, hành động của chính mình suy cho cùng là
người tạo tác (nghiệp của mình). Một số người nói rằng, từ một góc độ nhất
định, Phật giáo không phải là một tôn giáo mà là một khoa học về tâm thức.
Nguồn Bài đăng từ facebook Nguyễn Tiến Dũng