Thứ Sáu, 29 tháng 3, 2019
KỶ TỬ - VỊ THUỐC QUÝ
Thứ Tư, 27 tháng 3, 2019
HAI CHỊ EM.
Là của nhà thơ Vương Trọng, một trong số không nhiều những nhà thơ trẻ thời chống Mỹ, nổi tiếng. Anh có biệt danh "người làm thơ bằng tư duy toán học", đầy sự tinh tế và chuẩn xác. Bài này viết về một sự kiện trong thời bình với cuộc sống đầy khó khăn, nhiều thử thách còn khó hơn thời chiến. Nghe nói, có giai đoạn, nhiều phòng xử án về hôn nhân, người ta dán lên tường bài thơ để mọi người đọc ....
HAI CHỊ EM.
- Nín đi em, Bố Mẹ bận ra toà!
Chị lên bảy dỗ em trai ba tuổi
Thằng bé khóc bụng chưa quen chịu đói
Hai bàn tay xé áo chị đòi cơm.
Bố mẹ đi từ sáng, khác mọi hôm
Không nấu nướng và không hề trò chuyện
Hai bóng nhỏ hai đầu ngõ hẻm
Cùng một đường sao chẳng thể chờ nhau?
Biết lấy gì dỗ cho em nín đâu
Ngoài hai tiếng ra toà vừa nghe nói
Chắc nó nghĩ như ra đồng, ra bãi
Sớm muộn chi rồi bố mẹ cũng về.
Mẹ bế em âu yếm, vuốt ve
Bố xách nước khi mẹ vừa nhóm bếp
Nó sung sướng vào ra tíu tít
Rồi quây quần, nồi cơm mở vung ra!
Nó biết đâu bố mẹ nó ra toà
Đối mặt nhau, đối mặt cùng pháp lý
Chẳng phải chỗ năm xưa đi đăng ký
Chẳng phải lời dịu ngọt tháng ngày xa.
Nó biết đâu Bố Mẹ nó ra toà
Là cầm cưa xẻ ngang tình đoàn tụ
Đứa còn Mẹ thì thôi, không còn Bố
Hai chị em rồi sẽ mất nhau…
- Nín đi em! Em khản giọng khóc gào
Chị mếu máo, đầm đìa nước mắt
Những bố mẹ bên bờ chia cắt
Phút giây thôi, hãy nghe tiếng con mình!
1985
Thứ Ba, 26 tháng 3, 2019
Bức Đại tự dòng Họ Hà Trọng, làng Còng Tĩnh Gia Thanh Hóa
克昌厥後 Khắc xương quyết hậu
Chủ Nhật, 17 tháng 3, 2019
Chợ sách Sài Gòn trước và sau năm 1975
Đường Đặng Thị Nhu
Tính cách người các tỉnh tại Trung Quốc
BBT.
Cộng tác viên gửi bài này do nhà nghiên cứu Dương Danh Dy sưu tầm và trích giới
thiệu từ tư liệu Trung Quốc. Chúng tôi
ghi chú thêm các địa danh và xin chuyển đến bạn đọc
1. Người Hà
Tỉnh Hà
Có thể
là do đất hẹp người đông (sắp đạt 100 triệu dân), nên cạnh tranh dữ dội, rất
nhiều người dường như xảo quyệt là thiên tính. Độ tín nhiệm của các công ty Hà
Nam rất xấu, hễ lừa được là lừa, hễ hãm hại được là hãm hại, buôn bán làm ăn
với họ là rất mạo hiểm. Trịnh Châu, Tân Hương, An Dương tập trung rất nhiều
công ty lừa gạt, dùng các phương thức như uỷ thác gia công, liên minh, để lừa
gạt, chính quyền địa phương về căn bản không quản lý. Người Hà
Thực ra
người Hà
Người Hà
Nói
chung tiếng xấu với người Hà
2. Người Hồ Bắc
Là láng
giềng của tỉnh Hà Nam, trình độ xảo quyệt không thua người Hà Nam, hàng giả tại
một đường phố tại Hồ Bắc đã từng nổi tiếng tại Trung Quốc. Tuy vậy thanh danh
người Hồ Bắc không xấu như vậy, đây được coi là tỉnh có nhiều hồ nước, nước
nhiều tự nhiên tính tình linh hoạt, và có nhiều mỹ nữ. Người Hồ Bắc rất thông
minh, số người đạt kết quả cao trong các kỳ thi vào đại học rất cao. Người Hồ
Bắc học giỏi, trường trung học phổ thông Hoàng Cương nổi tiếng cả nước, thậm
chí nhiều trường học trọng điểm của Bắc Kinh, Thượng Hải cũng không bằng Thiên Môn nổi tiếng là quê hương của Hoa Kiều
trong nội địa. Hồ Bắc có những nơi rất giàu, có thể so sánh với vùng ven biển.
tuy vậy ở mấy nơi tiếp giáp với Đại Biệt Sơn tỉnh An Huy, Hà
Huyện
Hồng An của Hồ Bắc đựợc gọi là “huyện của các vị tướng”(có tới 223 vị tướng) đó
là vì thời thế tạo anh hùng, những năm tháng đó nơi nào càng nghèo, tinh thần
tham gia cách mạng càng cao.
Người Hồ
Bắc hướng nội, biết giấu mình chờ thời, nhưng dũng khí (trong khi tìm hiểu đối
tượng) không bằng người Hồ
Hồ Bắc
cũng là tỉnh có nhiều nông dân vào thành phố làm thuê.
3.
Người Hồ
Người Hồ
Người Hồ
Nam thông minh, dũng cảm, mạnh mẽ quả quyết, dám đảm nhiệm việc lớn coi thiên
hạ hưng vong là trách nhiệm của mình, “nước Trung Hoa chỉ diệt vong khi người
Hồ Nam chết hết” người Hồ Nam tập trung được mỹ đức ưu tú của dân tộc Trung
Hoa. Học tập, đi lính đánh nhau, lao động đều tốt. Thế nhưng gần đây phong khí
xã hội đã có xu thế giảm sút. Trường Sa là thành phố tiêu dùng điển hình, các
nhà tắm đầy thành phố (đều kèm theo gái)
nhung giá rất đắt, dân địa phương không có tiền vào tắm và thường do người
Quảng Đông tới làm mưa làm gió.
Song
Phong là”quê hương làm các loại giấy chứng nhận giả” của Trung Quốc. Huyện Sâm
Châu toàn là tham quan. Người Hồ
Hồ Nam
có nhiều gái đẹp, đảm đang thông tuệ, làm việc tháo vát, nhưng làm vợ thì không
đáng tin lắm, đã có câu nói”Tương nữ đa tình”( gái Hồ Nam đa tình) số người làm việc trong ngành dịch vụ bằng
vai phải lứa với các chị em Tứ Xuyên, Đông Bắc. Ở đây có câu “chỉ cười nghèo
chứ không cười xướng ca”. Là tỉnh lớn xuất khẩu “ các vợ hai”.
4. Người Quảng Đông
Người Quảng Đông là nhóm người phức tạp nhất
Trung Quốc, thân thể nói chung nhỏ, lùn, trán rô, mắt nhỏ mà sâu, mũi hơi rộng,
môi dày. Có 3 ngôn ngữ chính: tiếng phổ thông, tiếng Triều Châu, tiếng Khách
Gia. Trong lịch sử Quảng Đông là một vùng pha tạp của Bách Việt, vùng ven biển
còn có người Đông Nam Á đến ở, gọi là người Quảng Phủ, gồm cả người Hồng Công,
Ma Cao; người vùng Triều, Sán cũng có ngôn ngữ và phong tục độc đáo. Hai loại
người này thuộc người ở đất Quảng Đông. Xem xét từ mặt sinh vật thấy nguồn gốc
dân tộc không giống người phương bắc.
Sau “ngũ Hồ loạn Hoa” người Hán vùng
trung nguyên (chủ yếu là ở Hà Nam) di cư một lượng lớn về phía nam, tập trung
sinh sống tại vùng Mai Châu, Hà Nguyên, và một phần vùng Kiết Dương, Sán Vỹ,
nói tiếng Khách Gia. Bộ phận người Hán này phải được coi là người Hán “thuần
chủng” về huyết thống nhất (người phương bắc luôn luôn ở vào vị thế dân tộc hoà
nhập). có khoảng hơn 10 triệu người. Tôn Trung Sơn, Lý Gia Thành cũng đều là
người Khách Gia. Quảng Đông là tỉnh có người Hoa ra nước ngoài sớm nhất để kiếm
sống, có hơn 20 triệu Hoa Kiều, người Triều Sán và Ôn Châu nổi tiếng ở nước
ngoài vì kinh doanh, buôn bán.
Do người
Quảng Đông bị ma quỉ hoá tuyên truyền nên tại Mỹ và
-Lạnh nhạt, bài ngoại, tự đại. Quảng
Châu là thế giới phồn hoa, là thành phố lãnh đạm nhất thế giới, nếu như chỉ hỏi
đường với một người Quảng Đông mà lại nói tiếng tỉnh ngoài thì rất ít khi được
trả lời. Láng giềng với nhau mà cũng cửa đóng then cài, chẳng ai để ý tới ai,
thêm một việc chẳng bằng bớt đi một việc. Ở Quảng Châu muốn tìm một người sẵn
sàng làm việc nghĩa còn khó hơn lên trời. Người Quảng Đông bài ngoại từ lâu, đã từng gọi những người ngoài Quảng
Đông là “thằng vơ vét” gọi phụ nữ là “em
gái xứ bắc”, gọi người phương tây là “quỉ”.. thậm chí ngay người Triều Sán ngay
trong tỉnh cũng bị gọi là “thằng lạnh nhạt”. Nhiều người Quảng đông tri thức
địa lý nghèo nàn, thường tự cho mình là trung tâm, ngoài Quảng Đông ra đều là
phương bắc cả.
-Người Quảng Đông không có văn hoá. Có
văn hoá trà, văn hoá rượu, văn hoá ăn thịt rắn, văn hoá uống canh, nhưng không
tiếp nhận quốc tuý, chỉ sung bái văn hoá Hồng Công, Đài Loan. Người Quảng Đông
về cơ bản không xem TV trung ương, giữa kinh tế và văn hoá không bao giờ có sự
cùng tiến, hầu như là sa mạc văn hoá. 500 doanh nghiệp lớn nhất nước, 500 doanh
nghiệp lớn nhất thế giới chẳng có mấy đơn vị chịu đặt tổng bộ tại Quảng Đông
-Người Quảng Đông không có tố chất.
Mặc dù chưa ăn xong là họ đã sách túi chạy đi, rất vụ thực. Chẳng mềm tay trước
mọi thứ của người khác. Tiêu thụ đũa ăn, hộp cơm dùng một lần nhất toàn quốc.
Bất kể là nam hay nữ, ban ngày đều mặc quần áo ngủ đi dạo phố, vào siêu thị như
chỗ không người.
-Người Quảng Đông không quan tâm việc
lớn quốc gia, không quan tâm tới sự phát triển của thế giới. Vinh nhục của đất
nước chẳng hề bận lòng chỉ theo lối sống nhỏ bé của mình, chỉ quan tâm tới giá
nhà ở và cổ phiếu của mình.
-Nghiện đánh bạc thành tính, nổi tiếng
thế giới. Loại sổ xố nào cũng chơi, hễ phát hành là bán hết.
-Người Quảng Đông rất mê tín, thích
đi lễ tại đền chùa, mỗi năm mấy lần. Bàn thờ trong nhà ngày lễ ngày tết không
bao giờ để tắt khói hương. Bản số ô tô, số nhà, số điện thoại, ngày kết hôn,
ngày mở cửa hàng đều chọn số 6 và số 8. Còn đến mức mổ bụng mẹ để sinh con đứng
ngày đã chọn. Ngày quốc sỉ 19/8 hàng năm (ngày Nhật xâm lược 3 tỉnh đông bắc)
lại là ngày lành tháng tốt của ngườì Quảng Đông. (vì đối với họ số 9 và số 8
đều là số đẹp) Có người xây mộ cha ông còn hào hoa hơn nhà ở của mình (không
hoàn toàn là vì hiếu kính)
-Đàn ông Quảng Đông rất vô sỉ, đàn bà
thì chẳng ra làm sao. Đi trên phố thi thoảng gặp mỹ nữ thì đều là người Tứ
Xuyên, Hồ
-Ngườì Quảng Đông cái gì cũng dám ăn.
Rắn, chuột, chó, mèo, ấu trùng, xuyên sơn giáp… cho đến cả thai nhi cũng như
tất cả các loại động vật dã sinh được bảo hộ đều ăn tuốt. Năm 1949 giải phóng
quân Trung Quốc đánh xuống miền nam, tham dự chiến dịch Lưỡng Quảng đều là
người Đông Bắc khi nghe kể về những thói ăn kỳ lại ở đây, có nhiều binh lính đã
không muốn ra trận nữa.
-Người Quảng Đông rất kiêu ngạo trong
buôn bán. Làm ăn, qua lại với người Quảng Đông sẽ thấy họ, một là tinh nhưng
không tín, hai là ngạo mạn.Thường nhìn người khác bằng con mắt: người có ta
cũng có, người không có ta có, muốn là làm không muốn là bỏ đi. Nhưng khi cần
anh thì lại giả tạo đến mức chịu không nổi.
-Sách giả, thuốc lá giả, đĩa giả,
tiền giả.. .do người Quảng Đông chế tạo lan tràn khắp nước. Cho thêm nước vào
bình gaz, cho thêm thuốc nhuộm mầu độc hại vào thực phẩm, biến cồn công nghiệp
thành rượu nổi tiếng, lại còn thuốc giả, máy móc nhái thương hiệu nước ngoài.
Quảng Châu, Đông Quán, Thâm Quyến là những thành phố không có cảm giác an toàn
nhất, Thành phố Đông Quán vừa bẩn vừa loạn, cũng có sông đào nhưng mùi thối
thấu trời. Đáng sợ nhất là ban ngày mà trộm cướp vần hoành hành. Quảng Đông là
tỉnh lớn nhất về “vợ hai”, tại Thâm Quyến, Đông Quán có rất nhiều “thôn vợ hai”
rất tráng lệ
5. Người Quảng Tây
Ở Quảng
Tây chủ yếu có hai loại tiếng địa phương là tiếng Quế, Liễu (tiếng Quế Lâm và
Liễu Châu rất gần tiếng Hồ
Ô tô
công cộng, thậm chí cả xe ngựa ở Nam Ninh cũng rất lùn nhỏ. Đường phố Nam Ninh
nhỏ hẹp, siêu thị thô sơ (siêu thị lớn là từ ngoại tỉnh đến), xe máy đứng đầu
cả nước, chỗ nào cũng thấy cửa hàng bán cây thuốc Người Nam Ninh ăn không khỏe
và rát tiết kiệm
Quan
chức hủ bại, bất học vô thuật (bỏ tiền mua quan). Kinh tế tuy lạc hậu, nhưng
quan niệm về tình rất cởi mở, đã có câu “đại học Quảng Tây không còn gái
trinh”. Có 1000 NDT (khoảng 3 triệu VNĐ) là có thể bao được nữ sinh viên Học
viện Nghệ thuật Quảng Tây. Quảng Tây có rất nhiều nơi du ngoạn đẹp, nhưng không
biết kinh doanh. Ngành nhà đất, may mặc bị người Ôn Châu(tỉnh Phúc Kiến) nắm
hết. Lưỡng Quảng (Quảng Đông, Quảng Tây) mặc dù cùng nguồn cội, nhưng lại “tính
tương cận, tập tương viễn”. Tính cách chung
của cả hai tỉnh này là cái gì cũng dám ăn.
Đàn ông
Quảng Tây tiểu khí, tự tư, nhát gan, nhưng một khi đến Quảng Đông thì đã có
biến đổi lớn về tính cách. “Đảng ô tô” chủ yếu là người Quảng Tây. Người nông
thôn Quảng Tây tương đối thiện lương (kể cả người Choang ở vùng xa xôi hẻo lánh
mà về cơ bản đã bị tộc Hán đồng hoá) thành thực, trung hậu, không có tính công
kích, chỉ cần người ta thương hại là được. Nghiện đánh bạc, chơi các loại sổ xố
khiến nhiều người tan cửa nát nhà, rất nhiều người chưa từng ngồi xe lửa.
6. Người Hải
Là nơi
tổ tiên người Lê dời đến sớm nhất, là một quận thời Tây Hán, đến Ngũ đại là nơi
di dân trung nguyên đến nhiều nhất, trong đó thời Tống, Minh Thanh qui mô di
dân lớn nhất mà chủ yếu là từ Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây. Tỉnh Hải Nam là
tỉnh thành lập sau cùng của Trung Quốc, trước đó là vùng xa và lạc hậu của tỉnh
Quảng Đông, tiếng nói chủ yếu là tiếng phổ thông Quảng Đông mang đặc sắc Hải
Nam
Dân Hải
Người
Hải
Hải
7. Người Hồng Công
Người
Hồng Công sớm nhất là di dân Quảng Đông, bị nước Anh thống trị lâu dải.Trên
người Hồng Công có cả đặc trưng tính cách phương đông và phương tây, hàm súc
của phương đông, thẳng thắn của phương tây, nhiệt tình của phương đông, lãnh
đạm của phương tây, tình cảm của phương đông, khách quan của phương tây. Trừ
một số cá biệt ra đa số người Hồng Công không tự đánh giá thấp nguồn gốc, dòng
máu của mình và không tự phủ định. Cái phủ định là đại lục “không dân chủ”, “hủ
bại” tâm trạng phổ biến là “yêu nước, yêu Hồng Công, nhưng chưa chắc đã yêu
đảng”
Từ năm
1997 đến nay, tính đồng thuận của người Hồng Công với tổ quốc đã không còn vấn
đề gì, thậm chí những phần tử yêu nước ở đây,
còn kích tiến hơn cả đại lục( việc bảo vệ đảo Điếu Ngư-Senkaku là một ví
dụ, phi công vũ trụ Dương Lợi Vỹ được hoan nghênh nhiệt liệt ở Hồng Công) khiến
đại lục toát mồ hôi. Hồng Công đất hẹp người đông do đó cạnh tranh rất ác liệt,
tạo nên tính cách sáng suốt, dám làm, kiên nhẫn, thực tế, khẩn trương, tất bật.
Người Hồng Công mặc dù đã gần bị tây hoá nhưng bất kể là trong việc cầu mong
bình an, sự nghiệp thành đạt, chuyện hôn nhân, bệnh tật… đều đến chùa đền khấn
vái cầu xin, có phần thành kính hơn người nội địa. Người Hồng Công cũng như
người Đài Loan phần lớn bao “vợ hai” tại đại lục, ngay phu vận tải cũng bao “em
gái Tứ Xuyên” tại Thâm Quyến
8. Người Macao
Bị Bồ
Đào Nha thống trị hơn 400 năm nhưng quan niệm văn hoá truyền thống vẫn không
thay đổi, Ma Cao và Hồng Công chỉ cách nhau một cửa sông Châu Giang, nhưng Hồng
Công thì chen chúc náo nhiệt khiến lòng người chẳng mấy khi yên,còn Ma Cao tuy
chen chúc mà không náo nhiệt, căng thẳng mà vẫn yên tĩnh khiến người ta thoải
mái thư nhàn, chỗ nào cũng thấy tình người ấm áp rất ít khi nghe thấy tiếng
tranh cãi, càng chẳng thấy những hành động thô bạo. Có thể là nơi này đất hẹp
người ít, người đi đường gặp nhau đều có cảm giác như là đã biết nhau rồi. Đàn
ông Ma Cao “nhỏ người nhưng bụng dạ rộng lớn” ngụ ý tuy không cao lớn như đàn
ông Đông Bắc nhưng rất độ lượng, không tính việc nhỏ, tinh thẩn trách nhiệm
cao; phụ nữ Ma Cao hết lòng với việc nhà, hiến dâng vô tư cuộc sống của mình
cho cha mẹ, chồng, con. Kinh tế Ma Cao đơn nhất, ngoài đánh bạc và du lịch ra
chẳng có vị trí gì trên quốc tế. Việc Ma Cao về với tổ quốc có ý nghĩa tượng
trưng chủ quyến lớn hơn ý nghĩa kinh tế. Do không giầu có như Hông Công nên rất
nhiều người Ma Cao thích đến mua sắm tại Chu Hải(Quảng Đông)
9. Người Bắc Kinh
Là vùng
thấy nhiều biết rộng, vừa tiêm nhiễm văn hoá vua quan vừa chịu tàn dư của phong
tục con em nhà Mãn, vô cùng lười biếng, rất nhiều người thà ở nhà hưởng bảo
hiểm thấp chứ không chịu đi làm, khá nhiều người dựa vào tiền bồi thường nhà
cửa cổ xưa do cha ông để lại khi phải di chuyển hoặc giá nhà đất gia tăng để
sinh sống; có người là quan thưởng dựa vào chính sách mà sống cuộc sống nhàn
rỗi, người béo rất nhiều. Những tiếng tục của Bắc Kinh về cơ bản đều là của
người tỉnh ngoại. Trong các thế hệ sau của Bắc Kinh con nhà giầu sang rất
nhiều, chỉ chú ý hưởng thụ.
Phụ nữ
rất cởi mở và rất có cá tính. Người Bắc Kinh muốn học đại học là học được, ngay
cả với những trường nổi tiếng như Thanh Hoa, Bắc Đại, sau khi tốt nghiệp nói
chung được các cơ quan nhà nước và doanh nghiệp ưu tiên tuyển dụng. Chỗ nào ở
Bắc kinh cũng có quan, ngay ông lão đạp xe ba gác cũng ra vẻ ta đây vì nhà nào
chả có dây mơ rễ má với mấy vị quan. Chính vì thế mới có câu nói ở trên “không
đến Bắc Kinh không biết mình chỉ là quan nhỏ”
Hộ khẩu
ở Bắc Kinh quí báu lắm, người Bắc Kinh cũng bài ngoại, nói chung cảm thấy mình
là “người của trung ương”(rất nhiều người ngoại tỉnh ở Bắc Kinh sau khi trở
thành người Bắc Kinh thì thế hệ sau của họ cũng bài ngoại). Cảnh sát nói chung
đặc biệt “chiếu cố” mấy người ngoại tỉnh. Tuy vậy tính bao dung rất khá(tất
nhiên không thể so sánh với Thâm Quyến)
Mở công
ty nên hết sức tránh nhận người Bắc Kinh. Người Bắc Kinh cái gì cũng minh bạch,
nhưng chỉ biết nói mà không thể làm, nghiệp vụ còn giỏi hơn ông chủ (người Bắc
Kinh thích hợp làm nhân viên tài vụ , nhân phẩm đáng tin, lại trốn không nổi).
Ngưòi Bắc Kinh mồm lưỡi dẻo quẹo.
Tuy vậy
nhìn chung người Bắc Kinh rất lương thiện, có chí khí lớn, có sự đồng cảm, coi
trọng nghĩa khí, thích chuyện không đâu, nhất là những việc lớn quốc gia, thích
tán chính trị(không ít tin vỉa hè từ đó), được coi là người có tố chất cao tại
Trung Quốc, Người phát tài ở Bắc Kinh chủ yếu là người ngoại tỉnh, làm quan ở
Bắc Kinh cũng chủ yếu là di dân tỉnh ngoài. Người Bắc Kinh lưòi biếng khó thành
việc lớn.
Cùng với
việc chính sách được nới rộng, chế độ hộ khẩu ngày càng bớt chặt chẽ, người
tình tính ngoài đến Bắc kinh cướp cơm ăn tạo nên cảnh người Bắc Kinh thất nghiệp
càng đông, cảm giác mất mát rất lớn. Văn hoá Bắc kinh là sự hoà nhập của nhiều
loại, văn hoá thể chế quan phương, văn hoá của phần tử trí thức và văn hoá dân
gian đều ở trạng thái cộng sinh, văn hoá hiện đại chung sống hoà bình với văn
hoá truyền thống, cái nào cũng có phong cách riêng, cũng có nét tự hào riêng.
10. Người Thiên Tân
Thật khó
tưởng tượng nổi, ở ngay cạnh Bắc Kinh mà tiếng nói lại vô cùng độc đáo (nghe
nói bị ảnh hưởng của quân đội Hoài của Lý Hồng Chương), thu nhập về tiền lương
không hơn những người tương đương nhưng
nằm trong diện rời khỏi công tác, cắt giảm biên chế ở Thẩm Dương. Đó là một
thành phố trực thuộc trung ương dễ bị người ta quên.
Tính
cách đàn ông Thiên Tân sảng khoái nhưng có suy nghĩ yên tâm với hiện tại không
tiến thủ. Là người nghĩa khí, làm việc quả đoán, rất dễ kết bạn, tính cách phụ
nữ đã nam tính hoá, làm vợ không bằng làm bạn, chứi người không tiếc lời, không
hiền lành chút nào!
Người
Thiên Tân bản tính khôi hài.
Thực ra
Thiên Tân không phát triển lắm, Bắc Kinh đã hút cạn các vùng xung quanh, Bắc
Kinh không hề bị cắt điện, nếu có cắt thì cắt Thiên Tân, Hà Bắc.. Người Thiên
Tân xưa nay không phục người Bắc Kinh, bóng đá mà gặp nhau là tử chiến! Kiến
trúc ở Thiên Tân còn đậm màu sắc văn hoá truyền thống, nghệ nhân dân gian
nhiều. Thiên Tân không thích hợp với định cư, dù cát bụi không bằng Bắc Kinh
11. Người Hà Bắc
Từ xưa
Yên Triệu đã nhiều tráng sĩ khảng khái bi tráng. Người Hà Bắc trung hậu vụ
thực, cam chịu làm chiếc lá xanh để làm đẹp Bắc Kinh. Vì Bắc Kinh mà chịu cắt
điện, chịu ô nhiễm, chịu gió cát. Nội thành phồn hoa không kém ai, nhưng cứ ra
khỏi thành phố là thấy những ngôi nhà nông thôn Hà Bắc nghèo nàn. Người Hà Bắc
quen nhìn mắt người Bắc Kinh để làm theo, nhưng học nói tiếng Bắc Kinh thế nào
cũng chẳng giống.
Thượng
Hải lôi kéo vùng đồng bằng sông Trường Giang phát triển, nhưng Bắc Kinh lại hút
hết màu mỡ bình nguyên Hoa Bắc! Hà Bắc là vườn rau lớn của Bắc Kinh. Nhiều
người Hà Bắc làm gác cổng nhà, bầy của hàng bán rau tại Bắc Kinh, thường bị
những người quản lý thành thị ở đó khinh thường( một nông dân Hà Bắc do phẫn nộ
mà giết một nhân viên quản lý thành phố Bắc Kinh, toà án sợ mâu thuẫn xã hội
gay gắt thêm nên chỉ dám xử tử hình hoãn thi hành)Tiếng nói các vùng tại Hà Bắc
khác nhau rất lớn. Tiếng Ký Châu Hà Bắc còn khó nghe hiểu hơn tiếng Quảng Đông,
còn tiếng Đường Sơn, tiếng Trương Bắc đều có đặc sắc riêng, tiếng Tần Hoàng
đảo, Thừa Đức… lại gần với tiếng vùng Đông bắc.
Phụ nữ
Hà Bắc thật thà chất phác lương thiện, làm vợ rát thích hợp. Rất nhiều nông dân
tỉnh ngoài vào Bắc Kinh làm thuê khâm mộ người Hà Bắc: vì lộ phí về nhà vợ chỉ
tốn 30 NDT (khoảng chưa tới 1 triệu VNĐ)
12 . Người Sơn Tây
Nền tảng
văn hoá sâu đầy, nhưng cặn bã chiếm đa số. “Mặt vuông, đường nét rõ ràng, mũi
ngắn mà to” là hình tượng điển hình của người Sơn Tây. Người Sơn Tây thực thà,
yên phận, trung thành đáng tin, thích đi bộ tới nơi làm việc. Nhưng đầu óc chưa
đủ linh hoạt, đần độn cố chấp, cẩn thận nhưng sợ việc, không có phong cách kinh
doanh. Nơi này người đông đất hẹp, đất đai cằn cỗi, công nghiệp lạc hậu, quan
niệm lạc hậu, may mà có nhiều mỏ than. Mặc dù Sơn Tây nghèo nhưng người giầu
không ít, phần lớn là đổi lấy từ xương trắng của công nhân các hầm mỏ trong
tỉnh.
Đã từng
có nhóm giầu có đến Bắc Kinh, tập thể vơ vét nhà đất, dù ăn vận đúng mốt vẫn
không giấu nổi dáng vẻ xấu của bọn mới phất, bị người Bắc Kinh cười nhạo. Lâm
Phần được gọi là thành phố than, năm nay được xếp vào loại thành phố bẩn nhất
thế giới. Trong không khí ở Thái Nguyên, Đại đồng có nhiều hạt sạn than. Khó
tìm được một nơi non xanh nước biếc tại Sơn Tây.
Những kẻ
làm quan ở Sơn Tây vô cùng ngu muội, thích ra vẻ ta đây, lên thêm một chức là
đã có người chết, chính quyền mà như nha môn. Đàn ông tuy đáng tin nhưng bủn
xỉn. Người Sơn Tây nổi tiếng vì hà tiện. Người Sơn Tây dù ăn vận “nhà quan” vẫn
không hợp thời, ăn uống giản dị, và ăn gì cũng phái có dấm, Phụ nữ mặc dù coi
trọng đạo lý nhưng khi làm vợ cũng có chút sĩ diện Thương nhân Sơn Tây đi khắp
thiên hạ, nhưng vẫn “lá rụng về cội”, thường đặt tổng bộ của mình tại mấy nơi
nho nhỏ thuộc tỉnh quê hương cho nên không phát triển được.
13. Người Nội Mông Cổ
Ở đây
chủ yếu nói về phần phía tây Nội Mông, vì người dân từ Xích Phong trở về đông
nói tiếng Đông Bắc. Mặc dù là khu tự trị nhưng hiện nay người Hán chiếm đa số.
Thể hình người Mông Cổ thô khoẻ, mặt rộng tai lớn, con mắt như có thần, trán
nhô, tóc quăn, tiếng nói kêu vang, cánh tay dài hơn người, trông uy vũ nhưng là
cái dũng của kẻ thất phu. Có tấm lòng thiện lương, đôn hậu với người, tính cách
sảng khoái, dám yêu dám ghét, ít có đường ngang ngõ tắt, uống rượu khoẻ, rất
nhiều người đã Hán hoá. Người Hán ở phần tây Mông cổ rất giống người Tây Bắc dù
đựoc gọi là Hoa Bắc, tiếng nói có màu sắc Tây Bắc, thật thà, an phận thủ cựu,
không làm quan và buôn bán được. Bao Đầu, Hô Hoà Hạo(thành phố gang thép lớn
của Trung Quốc và thủ phủ của Nội Mông) chủ yếu là người di dân tới, không có
nền tảng văn hoá gì,
14 . Người Đông Bắc (gồm 3 tỉnh Hắc Long
Giang, Liêu Ninh, Cát Lâm và phần phía đông khu tự trị Nội Mông Cổ)
Sở dĩ
gộp lại để nói vì ngôn ngữ, phong tục các vùng này rất giống nhau. Thời cổ đại
Đông Bắc là vùng đất hoang dại, người Hán ngày nay ở đó chủ yếu là thế hệ sau
của những người di dân nghèo khổ Sơn Đông, Hà Bắc, cũng từng là thiên đường của
những tội phạm bị lưu đầy, những kẻ sát nhân vượt ngục trốn tội từ trung nguyên
tới, chỉ trong nửa thế kỷ mà đã chịu sự thống trị của Thanh, Nga, Nhật, quân
phiệt, Trung Hoa Dân Quốc, CHND Trung Hoa, ở trong tình trạng vô pháp vô thiên
lâu dài, Cộng thêm sự hoà nhập Mãn, Mông, Triều, khí hậu rét mướt, đất đai rộng
lớn đã hình thành nên nền văn hoá Đông Bắc độc đáo, là vùng có sự khác biệt gen
lớn nhất (di truyền học cho rằng khác biệt gien càng lớn nhân chủng càng ưu tú)
Chiến
dịch Bình,Tân và Liêu, Thẩm chủ yếu là nhờ người Đông Bắc đánh, sau chiến dịch
vượt sông, dã chiến quân số 4 do Lâm Bưu lãnh đạo đã đánh một mạch đến đảo Hải
Nam, người Đông Bắc có tâm trạng lập công, lập nghiệp, nổi tiếng rất mạnh. Đông
Bắc đã từng là vùng công nghiệp phát triển nhất Trung Quốc, được gọi là “con
trai cả cửa nước Cộng Hoà”. Cho đến bây giờ vẫn là vùng có trình độ giáo dục
cao nhất và giao thông phát triển nhất Trung Quốc. Hiện nay Đông Bắc là nơi có
nhiều cán bộ công nhân viên phải rời bỏ công việc nhiều nhất, thương nhân phần
lớn là buôn bán nhỏ, không có lý tưởng cũng như gánh nặng cao xa, có thể nói là
“to gan khi đánh trận, bé gan khi kinh doanh”.
Mấy năm
gần đây đã xuất hiện một loạt nhân tài, số người giầu nổi tiếng không ít, và có
nhiều người làm quan trong chính quyền . Người Đông Bắc là người có ưu khuyết
điểm về tính cách rõ ràng nhất trong các người Trung Quốc(nam, nữ khác nhau biệt
không lớn), nội tâm cương nghị, bề ngoài mạnh mẽ, tính cách hào sảng, to gan,
trọng nghĩa khí coi thường luật pháp, dễ kết bạn, thường nói : “đừng nói đến
tiền, nói đến tiền là tình cảm xa rời mất”
Rất dũng
cảm, đấu tranh mạnh (kẻ trộm cắp Tân Cương tinh ác nổi tiếng cả nước nhưng
không dám tới Đông Bắc làm ăn). Người Đông Bắc thấy việc nghĩa là làm thích
những việc không đâu. Phần đông người Đông Bắc rất lương thiện, có lúc nhiệt
tình đến mức người ta khó tiếp nhận. Có một số rất ít lòng dạ hẹp hòi, thích
làm phỉ, xảo quyệt hung ác nên chú ý phòng ngừa.
Người
Đông Bắ không cao to như một số miêu tả. Người Đông Bắc thích đánh nhau mà
không tính hậu quả, khi đánh nhau người Đông Bắc thường tìm vũ khí nơi gầm
nhất, chuyên đánh vào chỗ nguy hiểm(không ai muốn đánh nhau với người Đông Bắc)
dễ bị lợi dụng làm kẻ giết người đánh thuê. Nhiều hộp đêm thích thuê người Đông
Bắc làm bảo vệ. Tội phạm bạo lực ở Bắc Kinh chủ yếu là do người Đông Bắc làm,
thu lộ phí đen trên mấy con đường ở Bắc Kinh về cơ bản đều là người Đông Bắc,
tổ chức xã hội đen trên thị trường bán buôn tại Bắc Kinh đều do người Đông Bắc
làm chủ
Xã hội
đen tại Quảng Châu, Thâm Quyến, Hải Nam phần đông là người Đông Bắc, gần đây
tại hầu hết các thành phố lớn và vừa trong nước đều có nhóm tội phạm Đông Bắc
xuất hiện(và cả tại Đông Âu, Nga, Bắc Mỹ, Nhật)
địa phương có tửu lượng lớn nhất Trung Quốc, tỷ lệ phụ nữ hút thuốc lá
uống rượu cao nhất,
Có nhiều
mỹ nữ, thân cao, chân dài, nhưng da không mịn lắm, tính cách quá bộc trực, thậm
chí ngay trên xe công cộng cũng ăn to nói lớn.Gốc nền văn hoá quá mờ nhạt,
thích trang điểm nhưng lại không biết trang điểm, Thế nhưng con gái Đông Bắc
lại ngu dại đến đáng yêu, thích ai dù chết cũng không rời, hận ai có thể giết
người không run tay, muốn lấy con gái Đông Bắc phải có sự chuẩn bị về tư tưởng.
Tuy vậy có số ít gái Đông Bắc không thua kém “em gái Xuyên”, “em gái Tương”
trong nghề
Người
Đông Bắc tương đối thông minh nhưng chịu khổ kém nên số nông dân vào thành phố
làm thuê rất ít, và cũng ít người chuyên tâm làm kỹ thuật, tuy vậy có khả năng
mở quán ăn, công ty.
Mấy năm
gần đây, người Đông Bắc di dân tới Bắc Mỹ, Đông Âu tăng vọt, có một số người đã
lập nên sự nghiệp, nhưng cũng có một số người bôi đen Trung Quốc. Tỷ lệ người
Đông Bắc phạm tyội tại Bắc Kinh, khẳng định cao hơn người Hà
So sánh
thêm, thấy người Liêu Ninh tròn trịa, kinh tế cũng phát triển nhất. Cơ sở thể
dục thể thao như điền kinh, các loại bóng lớn là tỉnh tốt nhất trong các tỉnh.
Người Hắc Long Giang tương đối thô lỗ, giỏi hạ thủ Bắc Đại hoang mà (xã hội đen
bức xạ cả nước) . Người Cát Lâm tương đối quê có chú dụt dè “trước có sói, sau
có hổ”sói là Liêu Ninh, hổ là Hắc Long Giang Điều kỳ lạ là tiếng Cáp Nhĩ Tân là
tiếng vùng Đông Bắc gần gũi nhất với tiếng Bắc Kinh. Tiếng nói Đại Liên càng
giống tiếng vùng Giao Đông. Người Đại Liên có cảm giác ưu việt, nhưng tương đối
hư vinh, cho là Đông Bắc chỉ có Đại Liên là được, các thành phố khác đều chẳng
ra sao.
Đàn ông
Đông Bắc nói năng ngọt ngào, giỏi nịnh phụ nữ, nhưng đa số có khuynh hướng coi
đàn ông là nhất, có ngưòi đánh vợ.
15. Người Sơn Đông
Quê
hương Khổng Mạnh, tỉnh của lễ nghiã, từ xưa Sơn Đông đã có nhiều tướng, nhiều
kẻ sĩ trung nghĩa.Có thể là do quá thẳng thắn nên ít có nhà âm mưu và hoàng đế.
Hình tượng của người Sơn Đông nói chung khá tốt, đàn ông có tinh thần trách
nhiệm cao, trung hậu, bộc trực, nặng tình người, trọng hiếu thuận, bên ngoài
thô lỗ, bên trong tốt đẹp, được văn hoá nhà Nho tôi rèn, đặc biệt coi trọng
quan hệ giao tiếp và tôn trọng đẳng cấp.
Quan
niệm gia đình mạnh, rát thích hợp làm bố chồng; phụ nữ hiền hậu lo việc nhà,
nhưng ngang ngược, chân tương đối to, tiếng nói rất khó nghe. Ý thức quê cha
đất tổ của người Sơn Đông rất nặng lòng tự hào rất mạnh. Người Sơn Đông nấu
rượu giỏi nhưng phần lớn là rượu kém chất lượng. Người Sơn Đông thích ăn hành
tỏi, nên phần lớn đều hôi mồm, nhưng ít người mắc bệnh ung thư, nói chung.ăn ít
rau, cứ có hành tỏi là được.
Người
Sơn Đông thích ăn màn thầu(bánh bột mì hấp không nhân) thân người cao lớn.
Tiếng Sơn Đông nghe có vẻ thân thiết. Vùng ven biển rất giàu, nhất là vùng
Thanh Đảo, Yên Đài, nghe nói kinh tế Sơn Đông sẽ nhanh chóng vượt Quảng Đông để
trở thành nhất nước.
Quan
niệm của người Giao Đông tương đối mạnh, nhiều người Thanh Đảo cho rằng làm
người Sơn Đông có chút thiệt. Đội bóng đá Thanh Đảo thi đấu quyết tử với đội
bóng của tỉnh. Phụ nữ Thanh Đảo rất thời thượng, mỹ nữ không ít, Một vài nơi
trong tỉnh còn nghèo.
16. Người Giang Tô
Miền nam
Giang Tô và miền bắc Giang Tô hoàn toàn không giống nhau. Miền nam mưa thuận
gió hoà là nơi có nhiều tài tử giai nhân, trong lịch sử số người đỗ tiến sĩ đều
nhiều hơn bất kỳ tỉnh nào, các đại gia nghệ thuật, đại gia văn học, bậc thầy
khoa học đời nào cũng nhiều. Người nam Giang Tô nhã nhặn, có nhiều môn đệ thư
hương, nhà ở đẹp, món ăn ngon, con gái cũng đa tài đa nghệ, dịu hiền mê người
(làm vợ rất tốt nhưng hay tiếng to tiếng nhỏ) . Nơi này mưa phùn nhiều, gió
lành thổi khắp, ngay nam giới cũng có tướng phụ nữ, da mịn, nói năng nhẹ nhàng,
hành động từ tốn, giỏi tính toán, nhưng tinh ranh quá. Người ở đây rất thông
minh khí chất thư sinh rất nồng, số người ra ngoài học tập đứng đầu cả nước.
Người
nam Giang Tô rất tôn trọng pháp luật, trị an ở Nam Kinh, Tô Châu cũng đứng hàng
đầu, kẻ gian trong khoa học phần lớn là người An Huy và bắc Giang Tô. Đàn ông
Giang Tô nhu nhược dễ bị bắt nạt. Năm 1937, người Nhật một lúc sát hại hơn 30
vạn người mà nhiều người chạy không kịp. Năm 1644 quân Thanh vây thành Dương
Châu, Giang Âm, một lính Mãn Thanh có thể giải 60 người ra pháp trường mà không
phải trói, rồi lần lượt chém từng người, mà không ai dám chạy
Từ Châu
là trung tâm của vùng bắc Giang Tô, người ở đây cao lớn.
Trước
đây động một chút là khởi nghĩa, sau này lại nhiều ăn mày(trong lịch sử bắc
Giang Tô, bắc An Huy nổi tiếng vì có nhiều ăn mày) Có tiền cũng đi ăn xin.
Tiếng Từ Châu giống mà lại không giống tiếng Sơn Đông, tiếng Hà
17. Người Thượng Hải
Thượng
Hải là thành phố phát triển nhất của Trung Quốc, tính bao dung kém, thịnh hành
tiếng địa phương, người ngoại tỉnh khó hoà nhập. May mà không phải là thủ đô,
nếu không ngay người Bắc Kinh cũng không coi ra gì, với người Thượng Hải người
ngoại tỉnh nhất loạt đều là “dân nhà quê”. Thế nhưng Thượng Hải mới có hơn một
trăm năm lịch sử, có tới 1/3 dân Thượng Hải là di dân Ninh Ba. Phụ nữ Thượng
Hải cử chỉ dễ nhìn, ăn nói hoà nhã rất có phong cách nữ giới. Nhưng con gái
Thượng Hải không thích hợp với ngưòi ngoại tỉnh, phần lớn, chỉ thích lấy chồng
Nhật, chồng Hàn quốc, trong đó lấy chồng Nhật là lý tưởng của không ít cô.. Đàn
ông Thượng Hải tiểu khí, tự tư, tính toán chi li, thường cãi vã hồi lâu trên
đường phố, nhát gan, sợ vợ, thậm chí giặt cả đồ lót cho vợ, thường bị gọi là
“thằng nhỏ”
Thực ra
nếu nhìn từ góc độ khác sẽ thấy nam giới Thượng Hải rất tôn trọng nữ giới, chăm
sóc vợ chu đáo. Trong tư giao người Thượng Hải tương đối có lỹ trí, có thể là
bạn tri âm về tinh thần. Cho nên có không ít nhà ngân hàng, thương nhân và học
giả người thi nhân, nhưng khó có nhà thơ, võ tướng và hiệp khách. Thương nhân
Thượng Hải đều là người tinh thông nghề nghiệp, vừa thông thạo hàng hoá vừa
giỏi lý. Người Thượng Hải kiếm tiền không giỏi, nhưng có tư cách, sinh hoạt
nghiêm túc, biết giữ chữ tín, tông trọng luật pháp. Chất lượng sản phẩm Thượng
hải đứng đầu cả nước. Người Thượng Hải không tranh giành với người, thích hợp
với việc kết bạn nhưng trước tiên phải làm cho họ nể mình.
18. Người An Huy
Từ xưa
An Huy đã là nơi cùng khổ, ở giữa sông Trường giang và sông Hoài, thiên tai
không dứt, mỗi lần chiến tranh, loạn lạc
đều không tránh An Huy. Người An Huy linh hoạt mềm dẻo không bằng người phương
nam. cương nghị dũng mãnh không bằng người phương bắc, là tính cách quá độ của
người phương bắc và người phương nam. Đàn ông An Huy chất phác ít nói, giỏi và
nhanh nhạy trong suy nghĩ, chịu khổ được, kỹ thuật khá. Con gái An Huy mông
lung, da trắng toát. Huyên Vô Vi nổi tiếng là tỉnh có nhiều bảo mẫu trong cả
nước. Người An Huy giữ được nhiều mỹ đức truyền thống của dân tộc Trung Quốc.
An Huy là tỉnh lớn có nhiều nông dân vầo thành phố làm thuê(sau tết nguyên đán
có từng đoàn chuyên xa chở nông dân vào thành phố làm thuê quay lại Thượng Hải)
dân An Huy trên công trường khá nhiều. Tuy vậy thương nhân huyện Vi xưng hùng
thế giới 300 năm. An Huy có ảnh hưởng rất sâu xa tới chính trị và văn hoá cận
đại Trung Quốc
Kinh tế
An Huy hiện nay không nổi bật, thậm chí GDP không bằng một thành phố Tô Châu,
Vô Tích, Thường Châu. Kêu gọi đầu tư khó, doanh nghiệp vừa mở cửa đã bị các
loại phí làm sụp đổ, không làm anh chết cũng khiến anh phải bỏ chạy. Luôn mồm
nói học Chiết Giang, học Sơn Đông nhưng chỉ học trên miệng, càng học khoảng
cách càng lớn. Phụng Dương là huyện thực hiện khoán đến hộ sớm nhất nước nhưng
nay vẫn nghèo.
An Huy
là tỉnh địa linh nhân kiệt, nhân tài ưu tú rất nhiều, mỗi năm chạy ra tỉnh ngoài không ít. Thượng Hải là
nơi người An Huy muốn tới nhất, nhưng về có bản người Thượng Hải lại coi người
An Huy không ra gì. Nam Kinh là thành phố gương mẫu cả nước về trị an, tội phạm
chủ yếu ở đó là người An Huy. Gạo nhiễm độc, thuốc giả đã huỷ hoại danh tiếng
An Huy. Hợp Phì, và Trịnh Châu tập trung nhiều công ty lừa gạt. Nam An Huy
phong cảnh rất đẹp là nơi du lịch phát triển.
19. Người Chiết Giang
Từ xưa
là vùng đất hoang dại. Từ sau đời Đông Tấn khi mở mang Giang nam mới được lhai
thác. Thời Nam Tống trở thành vùng giàu nhất Trung Quốc. Chiết Giang nhiều sông
nhiều núi, tiếng địa phương phức tạp như Phúc Kiến, tiếng Hàng Châu,tiếng Thiệu
Hưng, tiếng Ninh Ba, tiếng Đài Châu, tiếng Ô Châu chẳng ai nghe hiểu ai. Chiết
Giang là tỉnh văn hoá lớn của Trung Quốc, có nhiều nhân tài”Giang nam nhiều
sông nhiều núi nhiều tài tử”, nhưng hiện nay về giáo dục, khoa học, y tế, thể
dục thể thao đều kém Giang Tô nhiều.
Trong
lịch sử Chiết Giang đã từng có nhiều đại thương nhân giàu có nhất thiên hạ, tài
phiệt Chiết Giang là cơ sở của chính quyền Tưởng Giới Thạch. Thương nhân An Huy
là nhóm người biết kiếm tiền nhất nước. Đầu óc người Chiết Giang linh hoạt,
giỏi suy tính, biết cách thay đổi., đoàn kết, thực tiễn. Phụ nữ dịu dàng như
nước, chịu được khổ, buôn bán không thua nam giới . Giầy da và quần áo của người Ôn Châu bán
khắp thế giới. Người Chiết Giang đặt chan hàu như trên mọi ngành nghệ của Trung
Quốc như nhà đất, điện, khai thác mỏ, xây dựng, internet, kỹ thuật cao v.v…
Trước đây Chiết Giang là tỉnh xuất khẩu lao động lớn nhưng hiện nay ít thấy
nông dân Chiết Giang vào thành phố làm thuê vì họ đã hoàn thành tích luỹ tư bản
nguyên thuỷ. Người Chiết Giang lấy bốn biển làm nhà, như kiến chạy khắp thiên
hạ, hầu như xó xỉnh nào cũng có người Chiết Giang. Thương nhân Chiết Giang mà
Ôn Châu là đại biểu được gọi là “người Do Thái Trung Quốc”
Năng lực
sinh tồn của người Chiết Giang khiến người phương tây khiếp sợ. Trong đầu óc
người Chiết Giang, buôn bán không có vùng miền, thị trường không có giới hạn.
Chỉ cần kiếm được tiền thì dù là khuy áo, bật lửa, kính bút, giầy dép họ đều
làm tất. Có tới 5 triệu người Chiết Giang thành đạt ở ngoài. Người Chiết Giang
kinh doanh nhà đất khắp nước, khai thác than ở Sơn Tây, bán quần áo, giầy dép ở
châu Âu, thậm chí mở siêu thị ở châu Phi.
Nhưng
cũng có nhiều thương nhân người Chiết Giang làm hàng giả bán hàng giả, buôn lậu
. Giầy da, thắt lưng, quần áo Ôn Châu đã từng là đại danh từ cho sự giả mạo xấu
xa, ảnh hường nghiêm trọng tới danh tiếng hàng hoá Trung Quốc. Gần đây Mỹ tẩy
chay hàng hoá Trung Quốc, Tây Ban nha đốt giầy Trung Quốc về cơ bản đều có liên
quan tới người Chiết Giang, các cơ sở sắc tình ở Ô Châu nổi tiếng xấu cả nước.
Chiết Giang cũng phân hoá hai cực, miền tây và một số nơi trong tỉnh còn nghèo.
20. Người Giang Tây
Trong
ngòi bút của Vương Bột (nhà thơ Đường nổi tiếng), đây là “quê hương của cá và
gạo”. Các danh nhân văn hoá các đời nối nhau xuất hiện, Đào Uyên Minh, Vương An
Thạch, Âu Dương Tu, Văn Thiên Tường, Thang Hiển Tổ…Lý học Trình Chu, tâm vương
Lục vương , Phật học Thiền tôn, Đạo học Lão Trang đều bắt nguồn ở Giang Tây,
hoặc hình thành tại Giang Tây. Có thể nói Giang Tây chiếm một nửa văn hoá
truyền thống ưu tú của Trung Quốc.
Phần lớn người Giang Tây là người Khách Gia,
cũng phần lớn là những dòng họ ở Trung nguyên phương bắc thời Tấn, Đường di dân
đến, là những người thừa kế văn hoá chính thống, được tôi rèn lâu dài tư tưởng
trung thành của nhà Nho và quan niệm vô vi của Đạo giáo, nên bằng lòng với hiện
trạng, trung dung bảo thủ, trung thành, giữ chữ tín, ý thức mạo hiểm không sâu,
quan niệm gia tộc rất mạnh, có tới 8994 nhà thờ họ tại Giang Tây, nhiều nhất nước,
do vậy tiếp nhận tư duy mới, sự vật mới rất khó. Giang Tây thuộc vùng “đầu Ngô
đuôi Sở” cộng thêm là thành phố trong nội địa, nên người Giang Tây có ý thức
kinh tế tiểu nông như đóng của, bảo thủ, tự mãn tự rúc ở trình độ nhất định.
Những tổ tiên của người Giang Tây phần lớn là chaỵ trốn chiến tranh mà đến nên
tâm thái mong muốn hoà bình, an cư lạc nghiệp ảnh hưởng đến hậu duệ. Ngưòi
Giang Tây thật thà, hàm súc, không khoe khoang và cũng không giỏi thể hiện.
Người
Giang Tây khá giống câu nói “người sợ nổi tiếng, lợn sợ béo” đạo xử thế này có
cái hay là quan hệ giao tiếp tương đối hài hoà. Nhưng quan niệm này đồng thời
cũng có khuyết điểm là không để cho người ta biết mình. Người Giang Tây nổi
tiếng vì phong cách thận trọng. Con gái Giang Tây tuy không nổi tiếng phong
tình như gái Hồ
Mặc dù
là thủ phủ của tỉnh nhưng Nam Xương là thành phố loại vừa miền trung của Trung
Quốc, thành phố tương đối loạn, đầy rác rưởi, chỗ nào cũng thấy người vi phạm
kỷ luật trật tự, động một tí là cãi nhau. Cảnh Đức vốn được gọi là thủ đô sành
sứ nay đã thành hư danh, hàng giả rất thịnh hành. Giang Tây là tỉnh nghèo nhất
vùng Hoa Đông, số huyện nghèo đứng đầu cả nước, tại đây khó tìm ra một vùng
giầu có.
21. Người Phúc Kiến
Phúc
Kiến là tỉnh non xanh nước biếc nhưng giao thông rất kém, không đủ đất canh
tác, chỉ giỏi buôn bán và lừa gạt. Nhiều Hoa Kiều và kiều bào ở Đài Loan. Bắc
Mỹ, bắc Âu đều có người Phúc Kiến, ngoại tệ từ nước ngoài chảy về không dứt,
các thôn đều có ngân hàng. Người Phúc
Kiến đặc biệt giỏi buôn bán, chăm chỉ chịu được khổ, thích mạo hiểm năng lực
thích ứng mạnh, thích thú giang hồ đó đây, không có học cũng làm ăn buôn bán
(người đi học ở Phúc Kiến rất ít). Người Phúc Kiến không dễ tin người.
Quần áo, giầy mũ Tuyền Châu, Tân Giang, Thạch
Sư nổi tiếng thiên hạ, người huyện Sa mở quán ăn nhỏ khắp nước. Người Phu Điền
ngoài việc bán quần áo còn có phương thuốc gia truyền chữa bệnh liên quan đến
tính biệt, có tới80% hiệu thuốc chữa các bệnh thuộc loại đó có ông chủ là người
vùng này. Là tỉnh có nhiều tiếng địa phương như tiếng Phúc Châu, tiếng Ninh
Đức, tiếng Tuyền Châu, tiếng Long Nhâm.. chẳng ai nghe hiểu ai. Nghe nói có nơi
người bên này núi nghe không hiểu người bên kia núi nói, không khuếch đại chút
nào.. Dùng gái để lừa tiền tại Phúc Châu một dạo nổi tiếng.
22. Người Đài Loan
Người
Đài Loan hiện nay chủ yếu là do người dân đã ở đó từ trước, di dân nam Phúc
Kiến thời kỳ đầu và di dân đại lục khi Quốc Dân đảng chạy ra đó tổ thành. Đài
Loan là văn hoá đảo nhỏ là một nên văn hoá á Trung Quốc phụ thuộc Trung Quốc.
Người Nhật thống trị Đài Loan 50 năm, người Đài Loan bị coi là công dân hạng
hai, quan văn làm không đến trưởng khoa (khoa một đơn vị hành chính dưói cấp
phòng) quan võ không đến cấp tá. Nghe nói người Đài Loan hiện nay ít có cảm
giác đồng thuận với người Trung Quốc đại lục phần lớn chỉ cho mình là người Đài
Loan, đồng thời đã bị tây hoá nặng nề
Thế
nhưng người Đài Loan đến đại lục kinh doanh không thích bàn chuyện chính trị.
Người Đài Loan vô cùng mê tín, rát thích bao “nàng hai”. Tuy vậy họ sống có quy
củ, có thứ tự trên dưới già trẻ, trọng nam khinh nữ.
Người
Đài Loan trên đảo có cảm giác quần thể rất mạnh, nhưng các phe phái đấu tranh
rất dữ. tuy vậy tính cách nhu nhược. Mafia Đài Loan thích dùng vũ khí tất nhiên
là vũ sĩ đao. Tuy vậy mafia không được coi là chính đạo ở đây.
23 . Người Tứ Xuyên
Tứ Xuyên
có thể coi là tỉnh lớn văn hoá trong lịch sử, mỗi đời đều có nhiều nhân tài.
Nổi tiếng có nhà thơ Lý Bạch đời Đường (cũng có thuyết nói là người Cam
Túc) có “ba Tô” đời Tống (chỉ 3 cha con
nhà văn Tô Tuần), các nhà văn hiện đại Ba Kim, Quách Mạt Nhược, các chính khách
tướng lĩnh như Chu Đức, Lưu Bá Thừa, Trần Nghị, Đặng Tiểu Bình v.v.. đều là
người Tứ Xuyên. Đất Ba Thục thời xưa được gọi là “thiên phủ chi quốc”(kho của
nhà trời), sản vật dồi dào, Lưu Bang, Lưu Bị đều lấy đó làm căn cứ địa, dân
số khá đông. Nhưng bị trói buộc, hạn chế
bởi văn hoá bồn địa(vùng trũng), bản tính bảo thủ, khép kín. Người Tứ Xuyên
hiếu chiến, hay chửi bậy, họng to nói lớn. Đàn ông Tứ Xuyên phần lớn béo lùn,
mặt to, mũi nghiêng, mắt to, thông minh lanh lợi. Thích uống rượu, kỹ thuật nấu
rượu nhất Trung Quốc, có nhiều loại rượu ngon.
Người Tứ
Xuyên giỏi ăn uống chơi bời, thích đánh bạc. Thích ăn cay, lẩu cay nổi tiếng cả
nước. Thành Đô là một thành phố nhàn tản, nhiều người chơi chim cảnh, hoặc đi
dạo phố. Nhiều thành phố thị trấn ở Tứ Xuyên thiếu sức sống. Năng lực phụ nữ Tứ
Xuyên rất mạnh, nhiều đàn ông phải dựa vào vợ nuôi sống. Mỹ nữ Tứ Xuyên rất
nhiều, là tỉnh lớn nhiều mỹ nữ nhất Trung Quốc. Số lượng làm “vợ hai” đông nhất
nước, số phụ nữ phong trần cũng đông nhất nước. Tứ Xuyên là tỉnh có nhiều nông
dân vầo thành phố làm thuê, họ tới hầu hết các thành phố lớn trong nước, nhất
là vùng đồng bằng sông Châu Giang.
24. Người Trùng Khánh
Thời xưa
Tứ Xuyên thuộc đất của người Thục, Trùng Khánh thuộc đất của người Ba, người Ba
và người Thục coi nhau là tử thù(hiện nay hai đội bóng hai nơi này gặp nhau là
tử chiến) Nhưng Ba Thục đã trải qua mấy lần chiến tranh loạn lạc, thời Minh,
Thanh khi quân đội vào Xuyên đã gây ra nhiều cuộc thảm sát, người Thổ Giả dường
như bị giết gần hết (đến đầu đời Thanh chỉ còn 90 vạn người) Vì vậy dân Tứ
Xuyên ngày nay là sự hoà nhập của di dân Hồ, Quảng, Vân Nam. Trùng Khánh là
thành phố trên núi, còn bề bộn lắm.
Số người
Trùng Khánh nghiện hút tương đối nhiều, thịnh hành đánh bạc, người mở quán trà
đông, uống trà nhiều có khả năng để đánh bạc, chủ quán trà phần lớn là mafia.
Mùa hè chỗ nào cũng thấy người đầu trọc chân đất đi du ngoạn hoặc vây quanh nồi
lẩu sặc mùi ớt ăn uống. Đàn ông Trùng
Khánh hiếu sắc. Trùng Khánh ban đêm được
coi là Hồng Công nhỏ, trăm hồng ngàn tía vô cùng phồn hoa. Mấy huyện của Trùng
Khánh dù kinh tế chưa ra làm sao nhưng ngành dịch vụ rất sôi nổi. Người Trùng
Khánh không giống người Hồ Bắc làm xong rồi mới chơi mà lại chơi rồi mới làm.
Phụ nữ
Trùng Khánh cũng giống như phụ nữ Tứ Xuyên có thói quen chơi mạt chược. Họ
không ưa đàn ông bản địa mà thích rời xa quê hương đi làm thuê. Trùng Khánh có
trên 32 triệu dân, nhưng số người có trình độ từ trung cấp chuyên nghiệp trở
lên chỉ có hơn 1 triệu, vào khoảng 3%. Người Tứ Xuyên đều cho rằng Trùng Khánh
chỉ là một bộ phận của Tứ Xuyên, nhưng người Trùng Khánh sau khi được tách ra
thành thành phố trực thuộc trung ương đã trở mặt không cho là như vậy. Tuy
nhiên về nguồn gốc lịch sử hai nơi không có khác biệt lớn.
25. Người Quý Châu
Quý Châu
là tỉnh dễ bị lãng quên nhất, nghe nói khi thành lập tỉnh còn tranh cãi không
thôi. Quý Chây là tỉnh duy nhất tại Trung Quốc không có đồng bằng, vào Quý Châu
như vào một đất nước toàn núi đồi, hầu như không thấy một mảnh đất bằng phẳng
nào lớn một chút.
Dân vùng
núi có cuộc sống tương đối nghèo nàn. Thành phố thủ phủ Quý Dương có hơn 1
triệu dân, gần đây được Cục Khí tượng quốc gia cho là “thủ đô nghỉ mát của
Trung Quốc” khiến người Quý Dương rất tự hào đắc ý. Tuân Nghĩa là nơi Hồng quân
đi qua trên đường trường chinh, với cuộc họp mang tính lịch sử mà nổi tiếng.
Trong 3
tỉnh Vân Nam, Quý Châu, Tứ Xuyên tập quán ăn uống và ngôn ngữ của Quý Châu gần
với Tứ Xuyên hơn. Quý Châu có thể coi như tỉnh của dân di cư, ngoài một số dan
tộc thiểu số như Mèo, Bố Y… ra, người Hán đến đó đều qua mấy lần di dân lớn. Do
mấy nguyên nhân như là miền núi xa xôi, giao thông không tiện, phát triển chậm,
văn hoá lạc hậu.. Quý Châu ít có nhân tài. Người Qúy Châu tại các tỉnh trong
nội địa, khoả mạnh hay làm, nhưng tinh thần chịu khổ không bằng người Tứ Xuyên.
Gàn đây số nông dân vào thành phố làm thuê tăng nhiều, phần lớn tới đồng bằng
sông Chau Giang, số thiếu nữ lâm vào cảnh phong trần không ít.
26. Người Vân
Trong 3
tỉnh vùng Tây
Vân
Kinh tế
Vân
Vân
27. Người Tây Tạng
Có nguồn
gốc là hậu duệ của Thổ Phiên thời xa xưa, và pha tạp với huyết thống thổ dân
Tây bắc. Vương triều Thổ phiên Tùng Tán Can Bố thịnh trị một thời. Sau khi Hốt
Tất Liệt chinh tây mới bị đưa hẳn vào bản đồ Trung Quốc. Người Tây Tạng mang khí
hậu cao nguyên, tia tử ngoại ở đây chiếu khá mạnh, sắc mặt người đen, da có màu
giống da người Ấn Độ, tuy vậy không đen đều. Đàn ông người Tạng tóc quăn. Phụ
nữ Tây Tạng không đẹp. Người Tây Tạng coi trọng thờ cúng, chân thật mà khoan
dung. Tây Tạng là nước Phật, ở đây không có đạo nào khác.
Nói
chung người Tây Tạng ít nói chuyện vệ sinh( nghe nói rất nhiều người chỉ tắm
rửa khi mới chào đời và sau khi chết). Họ hiếu khách, thường mời uống trà sữa,
rượu hoa quả. Vùng núi phía nam là “Giang Nam của Tây Tạng” có khí hậu á nhiệt
đới, sản vật dồi dào, là nơi bắt nguồn của văn minh Tây Tạng nhưng phần lớn bị
Ấn Độ chiếm đóng (120.000km2, lớn hơn tỉnh Chiết Giang) là một bang của Ấn Độ.
Ceylan vốn là thuộc quốc của Tây Tạng, “Tạng độc”(tổ chức người Tạng đòi độc
lập) tại hải ngoại được Ấn Độ, Âu Mỹ ủng hộ. Người Tây Tạng có quầy hàng nhỏ
tại nhiều nơi trong nước, bán một số đồ trang sức đặc sắc Tây Tạng, so với
người Duy Ngô Nhĩ (Urge) thì tương đối ôn hoà, ít có tội phạm bạo lực. Người
Hán ở Tây Tạng chưa hình thành văn hoá địa vực, chủ yếu là người Tứ Xuyên,
Trùng Khánh v.v. đến Tây Tạng buôn bán và làm nhân viên. Diện Tích Tây Tạng
rộng lớn, dân số ít, khí hậu khắc nghiệt, ngưòi Hán chủ yếu tập trung tại các
thành phố, phần đông người Tạng đã qua cuộc sống du mục.
28. Người Thiểm Tây
Thiểm
Tây là nơi phát nguyên nên văn minh truyền thống Trung Quốc, ở đây có thể tìm
thấy dấu vết ban đầu của Hoàng Đế(ông tổ nhân văn ban đầu” của Hoa Hạ. Các
triều đại Tây Chu, Tần, Tây Hán, Tuỳ, Đường đều đóng đô ở đây, nghe nói có rất
nhiều thôn trang cứ đào đất lên là thấy văn vật. Có rất nhiều danh nhân trong
lịch sử, Bạch Cư Dị, Tư Mã Thiên, Lỹ Tự Thành… đều là người Thiểm Tây. Cơ thể
người Thiểm Tây phát triển đều, rất khỏe, quân Tần xưa được mệnh danh là “đội
quân hổ báo”, khiến quân chư hầu nghe thấy gió là bỏ chạy
Người
mặt vuông dài rất phổ biến, chất phác thật thà nhưng lại sảng khoái hào phóng.
Nhưng họ khá bảo thủ, bằng lòng với hiện trạng, thích hò hát nhưng không giỏi
kiếm tiền do vậy về tổng thể, Thiểm Tây vẫn là tỉnh nghèo.
Người
Thiểm Tây không những thích hát dân ca mà chửi người không thua người Đông Bắc.
Người Thiểm Tây ăn uống giản dị, thích ăn thịt thái to, uống rượu bằng bát. Đàn
ông Thiểm Tây quyến luyến gia đình, ít người ham gái, càng không có “vợ hai”.
Con Gái Thiểm bắc dịu dàng nhưng nội tâm cương nghị.
Thiểm
Tây có nhiều món ăn bình dân nổi tiếng, nhưng phần lớn là món ăn của dân tộc
Hồ. Tây An l;à cố đô lớn nhất của Trung Quốc, đại học Tay An là đại học nổi
tiếng của vùng tây. Người Tây An tương đối xảo quyệt bị coi là xấu nhất trong
vùng Tây Bắc. Vùng Thiểm bác tuy nghèo nhưng dân gian hiền hậu do đó đảng cộng
sản Trung Quốc mới đứng được ở đó lâu dài; phong tục, ngữ ngôn Thiểm bắc gần
gũi với Tứ Xuyên, Hồ Bắc.
29 . Người Ninh Hạ
Ninh Hạ
là nơi tập trung người Hồi đông nhất Trung Quốc, dân Hồi chiếm 1/3 dân số trong
tỉnh. Dân Hồi đến từ Trung Á tạp cư với dân bản địa . Theo đạo islam, thức ăn
đơn giản, thích ăn thịt bò, cừu, kiêng thịt lợn, thích đội mũ trắng không vành.
Diện tích Ninh Hạ nhỏ, có 6 triệu dân, người mang họ Mã đông nhất, thổ phỉ “Mã
gia quân” nổi tiếng ở Tây bắc. Người Hán ở Ninh Hạ rất ít là thổ phiên, phần
lớn đến từ Sơn Tây, thời Minh di dân đến khai hoang có tới hàng chục vạn người
. Phần lớn Ninh Hạ là sa mạc.
Rất
nhiều người Ninh Hạ nhìn bên ngoài thấy huênh cá nhưng thực ra trong lòng nhân
hậu, đối xử với người chân thành. Kinh tế Ninh Hạ tương đối lạc hậu, không có
nơi nào giầu có, rất ít có danh nhân, giống với các tỉnh tây bắc khác tính cách
người nơi đay bộc trực, bảo thủ kém thông minh. Không có mỹ nữ. Ngân Xuyên là
thủ phủ tỉnh nhưng qui mô chỉ bằng thành phố loại vừa vùng duyên hải.
30. Người Cam Túc
TỪ xưa
Cam Túc đã là vùng biên tái, đất đai chủ yếu là hoàng thổ vấ mạc. Rất nhiều địa
phương “xuân phong bất độ Ngọc Môn Quan”(gió xuân không tới Ngọc môn quan) hoặc
“Tây xuất Dương quan vô cố nhân”(ra khỏi tây Dương quan là không có bạn) có thể
nói là vô cùng thê lương. Tài nguyên văn hoá rất phong phú nhất là văn hoá Đôn
Hoàng, thứ nữa là con đường tơ lụa. Danh nhân Cam Túc trong lịch sử có Phi
tướng quân Lý Quảng, Đường Cao Tôn Lỹ Zuyên, “thi tiên” Lý Bạch nghe nói quê ở
Lũng Tây. Các nơi ở Cam Túc đều nghèo.Ở một góc
Cũng có
thể do là nơi phân tranh trong lịch sử, nên nơi này bị nhiều vết thương từ bên
ngoài và đã ảnh hưởng nhiều tới tính cách người Cam Túc rất lớn, như quá bảo
thủ, ít sáng tạo, chậm tiếp thu cái mới. Thành phố Lan Châu bốn mặt là núi, ô
nhiễm nặng nề nhưng con gái ăn nói rất cởi mở. Ninh Hội là huyện nghèo cấp quốc
gia, hiện nay ngay nước uống cũng còn là vấn đề nhưng là nơi năm đó Hồng quân
hội sư trên đường trường chinh, tuy vậy dân rất hiếu học. Nghe nói chỉ riêng
vùng thung lũng Silicon Bắc Kinh đã có tới hơn 1000 nhân tài cao cấp người Ninh
Hội. Có thể vì là vùng sa mạc nên người Cam Túc phần đông mặt đỏ, thân người
khoẻ mạnh,ít ốm vặt.
31. Người Thanh Hải
Câu nói
“Ông mày đứng đái ở đầu Tam Giang thì có tới hai phần ba người Trung Quốc uống
được” là để hình dung người Thanh Hải. Thanh Hải là nguồn nước lớn nhất Trung
Quốc. Thanh Hải rộng tới 720.000 km2 nhưng chỉ có 5 triệu dân, nếu chỉ xét
riêng về dân số sợ không tính nổi là một tỉnh. Dân cư chủ yếu là người Hán,
người Tạng(trong lịch sử phần lớn thuộc vùng Tạng, hiện nay người Hán đã chiếm
ưu thế tuyệt đối) Do dân số ít lại là vùng tụ cư của nhiều dân tộc cho nên
không hình thành văn hoá địa vực độc đáo. Trên cao nguyên tia tử ngoại chiếu
mạnh nên người sống ở đó có nước da đen nâu, tính cách sảng khoái, chất phác,
lương thiện, trung hậu, chưa bị ngoại giới làm ô nhiễm. Do ở sâu trong nội địa,
nên học phong kém, khép kín, ít va đập, phát triển chậm, không có ngành sản
xuất then chốt, chủ yếu là dựa vào xuất nguyên liệu, ít dân buôn, yên tâm với
hiện trạng, hầu như chưa có danh nhân. Người Thanh Hải có tửu lượng có thể nói
là đứng đầu cả nước. Nghe nói tại vùng dân tộc ít người rất dễ mua được súng.
Thủ phủ Tây Ninh chỉ là một thành phố loại vừa, một số thành phố khác thực ra
chỉ là thị trấn nhỏ.
32. Người Tân Cương
Diện
tích rộng lớn, tài nguyên phong phú, là tỉnh giầu nhất vùng Tây Bắc. Huyết
thống và thành phần dân tộc khá phức tạp, nguồn gốc sớm nhất là Hung Nô rồi đến
Đột Quyết rồi lại hỗn tạp với Mông Cổ, Tac ta để hình thành dân tộc Duy Ngô Nhĩ
và các dân tộc ít người khác. Tộc Duy Ngô Nhĩ thuộc hệ ngữ ngôn Đột Quyết, có
nguồn gốc giống với dân tộc Thổ Nhĩ Kỳ ,
thực ra khá gần gũi với người da trắng. Phần lớn dân tộc thiểu số tụ cư tại
miền nam, và phần đông theo đạo islam. Dân tộc thiểu số giỏi ca múa, mỗi khi
vào dịp lễ hội islam già trẻ gái trai đều cuồng hoan hết sức. Người Duy Ngô Nhĩ
hào sảng, nhiệt tình, hiếu khách, một khi đã kết bạn là mang hết rượu ngon thức
nhắm tốt ra thết khách, khiến khách có cảm giác lầ khách nhưng như về nhà mình.
Tuy vậy kiêng cấm nhiều, người ngoài tới nếu không am hiểu rất dễ bị trở mặt.
Nữ giới cấm mặc quần áo hở hang, cấm đánh dắm (dù là kêu hay xịt). Không được
ăn thịt lợn, lừa, chó.
Đàn ông
Duy Ngô nhĩ nói chung đẹp trai, thân người cao lớn, mặt có góc cạnh, lộ rõ khí
chất đàn ông. Phụ nữ có rất nhiều người đẹp mang đặc sắc Trung Á. Người Duy Ngô
Nhĩ rất ít khi kết hôn với người Hán, tại vùng xa phía nam thế lực “Đông
Đột”(một tổ chức chống đối) khá mạnh có mặt tại Đức, Mỹ, Australia, THổ Nhi Kỳ
v.v. Những người Duy Ngô Nhĩ giầu có thưởng kinh doanh cửa hàng ăn của dân tộc
tại các thành phố lớn trong nội địa.
Do nghèo
khổ nên kẻ trộm người Duy Ngô nhĩ có mặt tại hầu hết các thành phố lớn trong
nước, vì sự đoàn kết dân tộc chính quyền địa phương không dám nghiêm trị, khiến
có kẻ không sợ dám công khai trấn lột,
tộc người Đông Hương, Duy Ngô Nhĩ có nhiều người buôn bán ma tuý, gần
đây còn tham gia các trò lừa gạt, bán hàng giả. Người Hán ở Tân Cương có lịch
sử ngắn ngủi về cơ bàn là người trong các binh đoàn xây dựng tại đây sau khi
phục viên đã ở lại và một số thanh niên lên núi xuống làng thời cách mạng văn
hoá, và một số nông dân nghèo người Hà Nam, Hồ Bắc.. đến mưu sinh, nên chưa
hình thành văn hoá địa vực rõ rệt, họ tập trung tại một số vùng như
Tính
cách người các dân tộc Tân Cương bộc trực, nhiệt tình, hiếu khách.