XIN CHÀO VÀ CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ ĐẾN VỚI BLOGSPOT.COM CỦA LUU VAN CHUONG

Thứ Tư, 26 tháng 4, 2023

Có hay không chuyện tư thông giữa công chúa Huyền Trân & Trần Khắc Chung?

 Hồ Ðắc Duy

Huyền Trần Công Chúa!

Đó là tên một con đường của Huế ngày xưa nên thơ nằm giữa một ngọn đồi thấp xanh mướt những tàng cây và sông Hương thâm trầm mơ mộng. Con đường cứ thế chạy mãi chạy mãi cuối cùng gặp một bức trường thành bằng đất đó chắn ngang gọi là Thành Lồi, chứng tích một thời vàng son của vương quốc Champa. Người Huế chọn tên công chúa để đặt tên cho con đường vô tình hay hữu ý đã lồng lấy số phận đầy kịch tính của một trang quốc sắc thiên hương lên số phận của con đường chăng?

Còn ở Sài Gòn con đường mang tên Huyền Trân hầu như không có nhà, thật ngắn với những hàng cây cao vút, nằm sau lưng dinh Norodome. Đêm đêm con đường vắng vẻ chính là nơi hò hẹn của những cặp tình nhân nên một thời nó được mệnh danh là con đường của tình yêu và tội lỗi!

Dư luận và một số sử gia lại gán ghép tên nàng vào một uẫn tình không có thật, đúng hơn là một mối ô nhục khi bảo rằng nàng đã tư thông với Trần Khắc Chung!

Tư thông là một từ mô tả việc quan hệ tình dục có sự đồng ý của cả hai phía một cách bất chính.

Bài viết này sẽ nêu ra những luận chứng mang tính khoa học không chỉ để minh oan mà còn đòi hỏi lịch sử phải trả lại sự vẹn toàn phẫm giá và tấm lòng trung trinh, danh dự không những cho công chúa, thượng hoàng Trần Nhân Tông cha của nàng và cả triều đình bấy giờ mà lẻ ra hậu thế phải tri ân thay vì ngộ nhận

Trần Khắc Chung là ai?

Đại Việt Sử Ký Toàn Thư trang 64,113 chép: Trần Khắc Chung tên thật là Đỗ Khắc Chung người ở Giáp Sơn cùng quê với mẹ của vua Trần Hiến Tông và cũng là thầy dạy học của hai vị vua Trần Minh Tông, Hiến Tông.

Năm Ất DẬu, Thiệu BẢo năm thứ bảy (1285). Khắc Chung làm Chi hậu cục thủ có em ruột Đỗ Thiên Hư cũng là một người nổi tiếng đương thời từng được cử làm sứ thần sang Nguyên năm 1288.

Đỗ Khắc Chung lấy Bảo Hoàn. Khoảng đời TRùng Hưng, nguời Nguyên vào cướp, cha mẹ Bảo Hoàn hàng giặc, ruộng đất, tài sản đều bị tịch thu sung công. Đến khi vua lên ngôi, xuống chiếu trả lại.

Mùa hạ tháng 4 năm Kỷ Sửu (1289). Ông là một trong những người có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên năm 1285 được vua ban quốc tính nên đổi là Trần Khắc Chung và được phong chức Đại Hành Khiển (tương đương chức vụ Thủ Tướng Chính Phủ ngày nay), vào năm 1289 là lúc công chúa Huyền Trân vừa chào đời. Người đời đều khen ông là giỏi. Mất năm 1330 cùng với Trần Nhật Duật, được tặng chức thiếu sư, ,một chức đứng hàng thứ hai thời bấy giờ, được đưa về an táng ở Giáp Sơn.

Ông đã giữ nhiều chức vụ khác nhau và quan trọng trong suốt bốn triều đại (Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông, Trần Minh Tông, Trần Hiến Tông), ông đã từng là thuyết khách, tể tướng, thượng thư, ngự sử đại phu, đại an phủ kinh sư, quan nội hầu, sư bảo và là sứ giả cùng với an phủ sứ Đặng Vân chỉ huy chiến dịch cứu thoát công chúa Huyền Trân...

Ông là một người tu theo đạo Phật, môn phái Thiền tông, là người viết lời bạt cho tập "Tuệ Tung thượng sĩ" do nhà sư Pháp Loa biên tập và vua Trần Nhân Tông hiệu đính.

Ông thường được các vua TRần hỏi ý kiến và kính trọng, là cột trụ của nhiều triều đại hiển hách đời Trần, sống cùng thời với vua Trần Nhân Tông, Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão, Mạc Đỉnh Chi...

Đánh giá về Trần Khắc Chung ĐVSKTT trang 52 chép rằng vua (hoàng đế Trần Nhân Tông) mừng nói rằng: "Ngờ đâu trong đám ngựa kéo xe muối lại có ngựa kỳ ngựa ký như thế!" (Ngựa kỳ, ngựa ký là chỉ những loại ngựa quý, ngựa tốt)

Còn Ô Mã Nhi là một tướng của quân Nguyên thì bảo với các tướng dưới quyền rằng: "Người này ở vào lúc bị uy hiếp mà lời lẽ tự nhiên, không hạ chủ nó xuống là Chích, không nịnh ta lên là Nghiêu, mà chỉ nói: "Chó nhà cắn người"; giỏi ứng đối. Có thể nói là không nhục mệnh vua. Nước nó còn có người giỏi, chưa dễ mưu tính được" (ĐVSKTT trang 52)

Lai lịch vua Chiêm Thành Chế Mân

Chế Mân là con trưởng của vua Jaya Indravarman V, là anh cả trong gia đình có 5 con trai (Kinh thế đại điển tự lục - NS, tờ 5a quyển 210)

Trong cuộc kháng chiến của dân tộc Chiêm Thành chống lại quân xâm lược Mông Cổ vào các năm 1282 - 1285 thì tất cả mọi quyền hành và các quyết định quan trọng nhất đều ở trong tay Chế Mân vì vua Chàm đã già rồi. Chế Mân là đại tướng cầm quân Champa đánh nhau với quân Toa Đô ở Vijaya (Qui Nhơn), kinh đô của Champa, một vị anh hùng trẻ tuổi của dân tộc Champa.

Trong tác phẩm Cuộc Kháng Chiến chống xâm lược Nguyên Mông thế kỷ XIII của Hà Văn Tấn - Phạm Thị Tâm, trang 130 dẫn chứng từ Nguyên Sử quyển 12, bản kỷ tờ 3b trang 4a đã viết về Chế Mân như sau: "...16 tháng 7 năm 1282 Hốt Tất Liệt ra lệnh điều động 5 nghìn quân của tỉnh Hoài Triết Phúc Kiến gồm 100 hải thuyền, 250 chiến thuyền giao cho Toa Đô chỉ huy chuẩn bị đánh chiếm Chiêm Thành... Một trong những nguời cương quyết chống lại âm mưu xâm lược của Hốt TẤt Liệt là thái tử Harijit (Chế Mân) con vua Indravarman V... Lúc bấy giờ vua Chiêm đã già. Chế Mân nắm tất cả trọng trách trong nước."

Marco Polo trong "Đến Chiêm Thành năm 1285" có viết: "Vua Jaya Indravarman V chống cự với Toa Đô trong các thị trấn và thành quách vững chắc, ông không sợ gì cả..." Và Marco Polo nhận định về Chế Mân: "...một người thanh niên anh hùng đó đã không chịu lùi bước trước kẻ thù".

Trong Chiêm Thành truyện trang 4a của Nguyên Sử thì đánh giá Chế Mân như sau: "Chế Mân con vua Chiêm chuyên giữ việc nước, cậy hiểm không phục."

Trong Kinh thế đại điển tự lục tờ 570 chép lời Hốt Tất Liệt nhận định về Chế Mân như sau: "...Lão vương (Indravarman V) không có tội gì, kẻ nghịch mệnh là con (Chế Mân) của y, nếu bắt được thì cứ theo như việc cũ của Tào Bân, trăm họ không giết một người."

Trong An Nam truyện của Nguyên Sử, quyển 109 trang 5b chép: "...ngày 16 tháng 4 năm 1284. An phủ sứ Quỳnh Châu là Trần Trọng Đạt nghe Trịnh Thiên Hựu nói rằng Giao Chỉ thông mưu với Chiêm Thành, sai 20000 quân và 500 thuyền ứng viện. Vua Trần Nhân Tông lại gởi thư đến hàng tỉnh, đại lược nói Chiêm Thành nội thuộc tiểu quốc, đại quân đến đánh thật đáng xót thương."

Xem như vậy giữa vua Trần Nhân Tông và Chế Mân đã có một sự gắn bó, liên kết với nhau trong một liên minh chống lại trong mưu đồ đánh chiếm vùng Đông Nam Á của quân Mông Cổ.

Tiểu sử của công chúa Huyền Trân

Công chúa là con gái út của vua Trần Nhân Tông, là em ruột của vua Trần Anh Tông và quốc phục thượng tể Trần Quốc Chẩn, nàng sinh vào khoảng năm Kỷ sưu Trùng Hưng năm thứ 5 (1289), năm mà Trần Hưng Đạo dùng kế để giết Ô Mã Nhi.

Năm 1306 gả công chúa Huyền Trân thì thượng hoàng Nhân Tông (1258 - 1308) khoảng 47 tuổi, vua Anh Tông (1276 - 1320) ở tuổi xấp xỉ 30 và công chúa độ 18, vua Chế Mân vào khoảng 35 đến 40 và Trần Khắc Chung 40-50.

Sở dĩ tính được như vậy vì trong cuộc kháng chiến chống Mông Cổ của Vương quốc Champa vào năm 1283 thì Chế Mân đã là thái tử cầm quân Champa đánh nhau với Toa Đô ở Thành Gỗ gần kinh đô Vijaya của Champa, còn Trần Khắc Chung lúc nhận nhiệm vụ thuyết khách, đi gặp tướng Mông Cổ Ô Mã Nhi vào tháng giêng năm 1285 ít nhất cũng phải trên 20 tuổi. Ở thời điểm gã công chúa Huyền Trân, Trần Khắc Chung khoảng 40 đến 50 tuổi.

Diễn biến của cuộc hôn nhân giữa vua Chàm Chế Mân và công chúa Huyền Trân

Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục trang 556 chép: Tháng ba năm Tân Sửu (1301), thượng hoàng Trần Nhân Tông sang chơi Chiêm T hành. Thựơng hoàng xuất gia ở núi Yên Tử, thường muốn đi chơi xem khắp núi sông nhân du lịch đến một địa phương tiện đường sang chơi Chiêm Thành (có hứa gả Huyền Trân cho Chế Mân).

Sách Biên Niên Lịch Sử Cô Trung Đại Việt Nam chép: "Tháng hai năm Ất Tỵ (1305), sứ bộ Chế Bồ Đà của vua Chiêm Thành đến dâng lễ vật cầu hôn vì thượng hoàng Nhân Tông năm 1301 sang chơi Chiêm Thành đã hứa gả công chúa Huyền Trân cho chúa Chiêm Thành Chế Mân."

Còn ĐVSKTT trang 86 viết: "Năm Ất Tỵ Hưng Long năm thứ 13 (1305), mùa xuân, tháng 2, Chiêm Thành sai Chế Bồ Đà và bộ đảng hơn trăm người dâng hiến vàng bạc, hương quý, vật lạ làm lễ cầu hôn. Các quan trong triều đều cho là không nên, duy có Văn Túc Vương Đạo Tái chủ trương bàn việc đó, Trần Khắc Chung tán thành việc đó mới quyết."

Năm Bính Ngọ Hưng Long năm thứ 14 (1306), mùa hạ, tháng 6, gả công chúa Huyền Trân cho chúa Chiêm Thành Chế Mân.

ĐVSKTT trang 91 viết: "Năm Đinh Mùi Hưng Long năm thứ 15 (1307, mùa hạ, tháng 5, Chế Mân chết.

Mùa thu, tháng 9 thế tử Chiêm Thành Chế Đa Da sai sứ thần Bảo Lộc Kê sang dâng voi trắng.

Mùa đông, tháng 10, sai Nhập nội hành khiển thượng thư tả bộc xạ Trần Khắc Chung, an phủ Đặng Văn sang Chiêm Thành đón công chúa và thái tử Đa Đa về.

Đại Việt Sử Ký Tiền Biên của Ngô Thì Sĩ trang 408 chép Mậu Thân Hưng Long năm thứ 16 (1308), mùa đông tháng 11 ngày mồng một, mặt trời có hai quầng, thượng hoàng băng ở am Ngọa Vân trên núi Yên Tử... Nhân Tông làm thiên tử lại làm thái thượng hoàng đi tu lên núi, ở am rồi mất. Việc trong thiên hạ có gì lớn hơn việc ấy...

Trong ĐVSKTT có đoạn chép như sau: Theo tục lệ Chiêm Thành, chúa chết thì bà hậu của chúa phải vào giàn thiêu để chết theo. Vua biết thế, sợ công chúa bị hại, sai bọn Khắc Chung, mượn cớ là sang viếng tang và nói với người Chiêm: "Nếu công chúa hỏa táng thì việc làm chay không có người chủ trương, chi bằng ra bờ biển chiêu hồn ở ven trời, đón linh hồn cùng về, rồi sẽ vào giàn thiêu". Người Chiêm nghe theo. Khắc Chung dùng thuyền nhẹ cướp lấy công chúa đem về, rồi tư thông với công chúa, đi đường biển loanh quanh chậm chạp lâu ngày mới về tới kinh đô.

CÓ THỂ NÀO TRẦN KHẮC CHUNG DÙNG THUYỀN NHẸ CƯỚP LẤY CÔNG CHÚA ĐEM VỀ, RỒI TƯ THÔNG VỚI CÔNG CHÚA ĐƯỢC HAY KHÔNG?

Đây là một câu hỏi mà người viết muốn nêu ra và xin các vị cùng góp ý

Để làm sáng tỏ nghi vấn này, thiết tưởng vấn đề là nên dựng lại, vẽ lại hiện trường chiến dịch giải cứu công chúa với các câu hỏi được trả lời hợp lý nhất:

1. Khắc Chung có thể dùng thuyền nhẹ cướp lấy công chúa được hay không?

2. Hay chuyện rước công chúa Huyền Trân trở về Đại Việt là kết quả của việc thương lượng giữa sứ giả Trần Khắc Chung với triều đình mới của Champa.

3. Lực lượng hải quân của Champa lúc bấy giờ ở các quân cảng của Champa (Sa huỳnh, Đà Nẵng, Thuận An, Cửa Việt), liệu có ngăn chặn việc giải cứu này nếu có hay không?

4. Phương tiện mà Trần Khắc Chung dùng là thuyền, vậy thuyền được thiết kế và đóng cách đây 700 năm liệu có đủ sức để... đi đường biển loanh quanh chậm chạp lâu ngày mới về tới kinh đô hay không? Thuyền dài và ngang bao nhiêu? Chắc chắn không phải là loại du thuyền hiện đại có gắn động cơ như ngày nay, mà chỉ có thể hình dung như một loại thuyền đánh bắt hải sản không gắn động cơ, có buồm dài khoảng 10 đến 12 mét, ngang khoảng 2m50 đến 3m50, không phải được thiết kế thân to như loại ghe bầu chạy trên sông, phải có mũi cao, đáy nhọn để cỡi lên sóng được.

Những lâu thuyền thời bấy giờ kích thước không lớn lắm, không phải được đóng như loại thuyền của Marco Polo hay loại thuyền cướp biển của Châu Âu, nó chỉ chạy cách bờ vài chục cây số.

5. Hệ thống tiếp tế nước ngọt và lương thực thực phẩm cho chuyến loanh quanh chậm chạp lâu ngày mới về tới kinh đô do ai cung cấp và nếu do các quan lại địa phương thì triều đình có biết không và họ có làm ngơ trước hiện tượng kỳ lạ này không?

6. Hệ thống ánh sáng dùng trên thuyền thời bấy gì là dầu phộng hay dầu dừa, liệu có đủ tiện nghi như là điện ngày nay không?

7. Khoang để cho công chúa ở trên thuyền ước chừng 2m5 x 3m là tối đa, lại có các hầu gái nữa. Thế tử Chế Đa Đa có cùng đi với công chúa hay ở lại Champa, nếu cùng đi thì thế tử ở đâu? Có cùng khoang của công chúa hay không?

8. Trên thuyền của công chúa có bao nhiêu thủy thủ, bao nhiêu tay chèo, bao nhiêu hầu gái thị nữ, đầu bếp... đi theo và liệu một chiếc thuyền nhẹ như thế có thể phục vụ cho một chuyến du dương trên biển loanh quanh chậm chạp lâu ngày mới về tới kinh đô?

9. An phủ sứ Đặng Vân và quần thần đi theo trong chiến dịch giải cứu có luôn luôn theo dõi và bảo vệ bên cạnh công chúa hay không? Họ có can gián hay đồng tình với hành động này của Trần Khắc Chung hay không?

10. Có bao nhiêu thuyền đi theo hộ tống chiến dịch này và họ có phải đi theo chuyến đi đường biển loanh quanh chậm chạp lâu ngày mới về tới kinh đô này hay không?

11. Ai là người chỉ huy cung cấp lương thực thực phẫm cho chuyến du dương trên biển lâu ngày này? Họ là ai?

Trần Khắc Chung với danh dự, địa vị xã hội, với chức vụ thủ tướng, với gia đình nhà cửa, vợ con dòng họ, với lòng tin của thượng hoàng Trần Nhân Tông và vua Anh Tông khi giao phó sự mệnh giải cứu này liệu ông có dám tư thông với công chúa hay không?

Trần Khắc Chung hiểu rõ cơn thịnh nộ khó lường được của nhà vua và triều đình nếu ông tư thông với công chúa. Một người khôn ngoan như ông, một người đã tu theo môn phái Thiền và đứng tuổi như ông chắc khó mà có một hành động nông nỗi, mất đạo lý như thế!

Với tâm lý, phương diện và môi trường như vậy e rằng cho dù Trần Khắc Chung dù có muốn thì cũng khó mà dám tư thông được!

VỀ PHẦN CÔNG CHÚA HUYỀN TRẦN THÌ CÔNG CHÚA CÓ THUẬN LÒNG TƯ THÔNG VỚI TRẦN KHẮC CHUNG HAY KHÔNG?

Sau chiến thắng quân Nguyên, tháng 8 năm Giáp Ngọ (1294), thượng hoàng Nhân Tông cất quân đánh Ai Lao như một lời nhắn nhũ các quốc gia trong vùng, và nếu ông muốn xâm chiếm các nước khác thì không phải là chuyện không làm được. Bấy giờ các quốc gia này mỗi năm đều có triều cống cho Đại Việt. Cho nên việc thượng hoàng Trần Nhân Tông gã công chúa Huyền Trân cho vua Champa ngoài việc thắt chặt bền vững thêm mối dây liên kết, tạo thêm sự hòa hiếu giữa hai nước, chắc chắn thượng hoàng Nhân Tông, một vị anh hùng dân tộc đã từng đánh bại quân xâm lược Mông Cổ hai lần, một nhà ngoại giao khôn khéo, một vị lãnh đạo tài ba và cũng là một vị thiền sư trầm mặc phải có một cái nhìn như thế nào về Chế Mân và hạnh phúc lứa đôi cho người con gái yêu dấu của mình khi ngài quyết định gả công chúa cho vua Champa lúc nàng mới lên 12 tuổi (1301). Sau khi hứa gả thượng hoàng Trần Nhân Tông chắc chắn đã phải sửa soạn cho công chúa một chế độ giáo dục đặc biệt, nhất là về ngôn ngữ, phong tục, văn hóa Champa.

Thượng hoàng chỉ cho phép thực hiện điều đó khi cô con gái cưng của ông đến tuổi trưởng thành, vững vàng trong cuộc sống vợ chồng và có một số vốn kiến thức văn hóa, phong tục, tập quán cũng như ngôn ngữ Champa.

Không biết vua Trần Nhân Tông có nghĩa rằng mình trở thành ông ngoại của vị hoàng đế của Champa trong tương lai hay không? Và ông có nghĩ là công chúa Huyền Trần sẽ thực sự trở thành Đệ nhất phu nhân của vương quốc Champa thay thế cho hoàng hậu vợ vua Chế Mân là công chúa nước Java đã chết trước đó nhiều năm?

Tháng 6 năm 1306 Chế Mân rước nàng về làm vợ, nàng vừa đúng 18 tuổi.

Tháng 5 năm 1307 Chế Mân chết.

Tháng 9 năm 1307 công chúa Huyền Trân sinh thế tử Chế Đa Da tại kinh đô Vijaya.

Mất một tháng cho chuyến hành trình rước dâu đi từ Thăng Long cho đến kinh đô Champa thì sớm nhất vể công chúa có mặt ở Champa và chung sống với Chế Mân cũng vào khoảng cuối tháng 7 hay trung tuần tháng 8 năm 1307.

Nếu tính sát sao như vậy, khi Chế Mân qua đời thì công chúa mang thai được 4 đến 5 tháng.

Theo phong tục vương triều Champa thì lễ trà tỳ cho vua là 7 đến 10 ngày sau khi vua băng hà.

Người ta không hỏa táng đối với phụ nữ đang mang thai, trẻ sơ sinh và những người vị thành niên vì người Bà la môn tin rằng phải chôn để cho những người này về với cát bụi, còn người trưởng thành thì hỏa táng để cho họ trở về với hư không và đó cũng là lý do tại sao công chúa không bị hỏa táng theo Chế Mân.

Tháng 10, an phủ sứ Đặng Vân và Trần Khắc Chung sang đón công chúa Huyền Trân, lúc đó công chúa đang ở trong thời gian hậu sản, công chúa vừa sinh xong tháng trước.

Thử phân tích tâm lý và tình trạng hậu sản của công chúa Huyền Trần lúc bấy giờ ta thấy có vài điểm cần lưu ý:

Chồng vừa mới chết.

Sinh con so, sinh con ở một nơi không có ai thân thuộc như mẹ, dì, chị em... ở một xứ có phong tục tập quán sinh nở khác với Đại Việt, điều này gây nên một tâm lý hoảng sợ lo âu cho sản phục, một ấn tượng sợ hãi có thể kéo dài trong nhiều tháng.

Công chúa đang ở trong thời gian hậu sản, về phương diện y học thì thời gian hậu sản này kéo dài vài tháng đến nửa năm, nếu như cách đây 700 năm với hiểu biết vệ sinh, phòng bệnh và các phương tiện, thuốc men chăm sóc cho một sản phụ sau khi sinh nở thì còn rất lạc hậu, đâu có cắt tầng sinh môn, đâu có trụ sinh, phòng cách ly vô trùng như bây giờ, vả lại đối với công chúa đây là lần sinh đầu tiên trong đời, sinh con so khó khăn gấp nhiều lần sinh con rạ, thời gian để lành vết thương hay rách âm đạo, thời gian để co hồi tử cung, hoặc nhiễm trùng hậu sản và phần phụ có thể kéo dài rất lâu, theo phong tục tập quán của người Việt Nam thời gian "phong long" là 3 tháng 10 ngày, người ta thường thường có thói quen treo trước phòng sản phụ một nắm lá cây xương rồng, đó là một dấu hêệu, nhắc nhở cho người đàn ông bêết chỉ được phép vào phòng vợ và tư thông sau khi cây xương rồng này khô đi!!! Đây chỉ là đầu thế kỷ XX mà thôi thì e rằng ở thế kỷ thứ XIV thời gian ở cử này còn lâu hơn nữa. Điều đó cho thấy về phương diện thuần túy Y Học khó thể có chuyện tư thông được.

Việc đưa Huyền Trân về Đại Việt có được thông báo cho nàng biết và có sự bằng lòng của nàng hay không?

VIỆC ĐƯA HUYỀN TRÂN RA BỜ BIỂN CHIÊU HỒN Ở VEN TRỜI, ĐÓN LINH HỒN CÙNG VE À, RỒI SẼ VÀO GIÀN THIÊU LÀ KẾT QUẢ CỦA VIỆC THƯƠNG LƯỢNG GIỮA SỨ THẦN TRẦN KHẮC CHUNG VỚI TRIỀU ĐÌNH MỚI CỦA CHAMPA HAY LÀ MỘT VỤ ĐÀO THOÁT.

Đại Việt là một quốc gia hùng mạnh và cường thịnh nhất vùng Đông Nam Á. Việc giao hảo Đại Việt Chiêm Thành ở vào một giai đoạn tốt đẹp nhất, hai nước đang cùng chung một chiến tuyến để chống quân xâm lược Mông Cổ. Người Chiêm Thành hiểu rõ hơn ai hết nếu công chúa Huyền Trân lên giàn hỏa thiêu để chết theo Chế Mân sẽ là một tai họa cho họ.

Nhiệm vụ của Trần Khắc Chung và ĐẶng Vân là phải thương thuyết làm sao cho mối bang giao giữa hai nước vẫn tốt đẹp mà phải đem công chúa về nước thật an toàn nhưng không làm thương tổn đến truyền thống đạo lý tôn giáo của Champa.

Giải pháp nào là giải pháp phù hợp nhất ắt có và đủ cho hai điều kêện đó mà không gây tổn thương cho hai nước?

Vậy, đưa công chúa ra bêển cầu hồn cho Chế Mân và làm lễ trà tỳ cho công chúa Huyền Trần là giải pháp tốt đẹp nhất vừa thực hiện đúng theo truyền thống Champa, vừa tiện lợi cho Trần Khắc Chung đưa công chúa về ăằng đường biển.

Giải pháp này cũng sẽ hợp lý nâất để cho thế tử Chế Đa Da ở lại Chiêm quốc vì thế tử là con vua Chế Mân vừa là một hoàng tử của Champa.

Chiêm Thành là một quốc gia có một dãi bờ biển khá dài, thạo về thủy chiến và có một đội chiến thuyền rất hùng hậu, điều đó có thể thấy được khi Chế Bồng Nga tấn công Đại Việt bằng thuyền chiến. Thuyền chiến của họ vào tận Thăng Long. Nếu Trần Khắc Chung dùng thuyền nhẹ để cướp thì liệu có dễ dàng vượt qua được hàng rào hải thuyền của Chiêm Thành không?

Việc đào thoát bằng đường biển liệu có an toàn cho sức khỏe công chúa hay không?

Thuyền của Khắc Chung nếu có thì đang ở trong vịnh Qui Nhơn (còn gọi là Thi bị, Thì Nại, hay Thị Nại) trước mặt kinh đô Vijaga như vậy là Khắc Chung đã vào sâu trong hải phận của Champa ít nhất là 600 cây số lúc đó (1285), biên giới của Chiêm Thành là tại Quảng Bình ngày nay.

Nếu có việc đánh tháo thì chắc chắn là có thể có sự rượt đuổi. Và liệu Khắc Chung có vượt qua một cách an toàn khi đi ngang qua cửa Qui Nhơn và các quân cảng của Chiêm Thành ở vùng Đại Lãnh, Hải VÂn, Cửa vịet hiện nay trước khi về Thăng Long?

Và nếu đi dùng ăằng cả mấy tháng thì có bị săn đuổi hay lấy lương thực thực phẩm ở đâu để tiếp tế?

Di chuyển bằng thuyền, đi trên biển đâu có phải nhẹ nhàng an toàn như trên sông hay trên mặt hồ!

Câu "Khắc Chung dùng thuyền nhẹ cướp lấy công chúa đem về, rồi tư thông với công chúa, đi đường biển loanh quanh chậm chạp lâu ngày mới về tới kinh đô". Câu này có vẻ như là một câu trong tiểu thuêết trữ tình hơn là xảy ra trên thực tế. Nếu đem phân tích trong điều kiện thực tế thì quả là thật gay cấn, riêng một chuyện tiếp tế lương thực, thực phẩm nước uống hay chống chọi lại một vài cơn bão, gió đổi mùa kiểu cấp 4, 5 là đủ xanh mặt rồi.

Thuyền chở công chúa với kỹ thuật đóng tàu thời bấy giờ có thể chịu nỗi để khỏi bị chìm?

Công chúa có bị say sóng không? Công chúa có thể dung dăng dung dẻ và tính chuyện tư thông?

Với một số sự kêện mà chúng tôi đưa ra thì có thể hình dung rằng khó có thể có chuyện tư thông giữa công chúa Huyền Trần và Nhập Nội Hành Khiển Thương Thư Tả Bộc Xạ Trần Khắc Chung được.

Nhưng tại sao ĐVSKTT lại chép chuyện này và sử thần Ngô Sĩ Liên lại lên án Trần Khắc Chung một cách quá nặng nề?

Trong ĐVSKTT trang 92, Ngô Sĩ Liên viết: "Thói gian tà của Trần Khắc Chung thật là quá quắt lắm! Không những hắn giỡ trò chó lợn ở đây mà sau này còn hùa vào với Văn Hiến vu hãm quốc phục thượng tể vào tội phản nghịch, làm chết oan đến hơn trăm người. Thế mà hắn được trọn đời phú quý. Khổng Tử nói: "Kẻ gian tà được sống sót là may mà được thoát tội chăng?"

Song sau khi hắn chết, gia nô của Thiệu Vũ Vương đào xác hắn lên mà vằm nhỏ ra thì lời thánh nhân càng đáng tin"

Hoặc ở trang 114 ông lại lên án một lần nữa: "Còn như Trần Khắc Chung cũng là nhân vật của một thời, vua trao cho hắn chức vị sư bảo, và đem việc nước hỏi hắn, đáng lẽ phải hết lòng trung khuyên can, để cho vua mình trở thành Nghiêu Thuấn mới phải. Thế mà lại hùa vào với kẻ quyền quý làm hại người ngay thẳng, đi theo bọn gian tà, đẩy người lành đến nỗi oan khiên, hãm đức vua việc tội lỗi. Việc ấy mà nhẫn tâm làm được, thì còn việc gì mà không nhẫn tâm làm được nữa. Sau lại xui vua cầu công đi đánh Chiêm Thành, thì cái thói nịnh hót lại hiện ra nữa. cho nên bậc làm vua khi chọn người hiền phải xét kỹ họ, là bở sợ rằng có đứa tiểu nhân như bọn Trần Khắc Chung có thể lọt vào trong đó vậy."

Chúng tôi xin hẹn kỳ sau sẽ tham luận tiếp. Một số câu hỏi chúng tôi muốn các bạn lưu ý là các đoạn viết về sự kiện Huyền Trân ở trong:

1. Bản Đại Việt Sử Ký thời nhà Trần vào khoảng năm 1310 có điều gì khác với Đại Việt Sử Ký Toàn Thư đơợc khắc in năm Chính Hòa thứ 18 không?

2. Bản Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (bản Chính Hòa năm 1697) mà chúng ta đang có, khác điều gì với những lời của sử thần Ngô Sĩ Liên bàn trước đó hơn 200 năm là vào những năm 1479 khi vua Lê Thánh Tông bổ nhiệm ông tu soạn Đại Việt Sử Ký Toàn Thư?

3. Ai là kẻ thù của Trần Khắc Chung?

4. Ai là kẻ thù của triều đại nhà Trần?

5. Các ngự sử trong triều đình Trần Anh Tông, Trần Minh Tông, Trần Hiến Tông liệu không có ai đàn hạch về chuyện tư thông này chăng?

6. Các nhân vật tên tuổi như Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật, Phạm Ngũ Lão, Trương Hán Siêu, Mạc Đỉnh Chi liệu không có ai lên tiếng về vấn đề này hay chăng?

7. Tại sao thượng hoàng Nhân Tông và vua Anh Tông im lặng trước chuyến đi đường biển loanh quanh chậm chạp lâu ngày mới về tới kinh đô? Có lẽ vua đã hiểu nỗi thống khổ, đau đớn, thời gian hậu sản kéo dài của cô con gái bất hạnh mong manh yếu ớt còn quá trẻ của mình?

Nguyễn Trãi - 560 năm sau vụ án Lệ chi viên

Tác giả: Phan Huy Lê

         1. Nguyễn Trãi sinh năm 1380, lớn lên trong 20 năm cuối thế kỷ XIV và dấn thân vào các hoạt động chính trị, văn hoá, xã hội trong gần nửa đầu thế kỷ XV. Ðó là một thời kỳ đầy biến động và thử thách của đất nước. Khởi nghĩa của nông nô, nông dân nghèo bùng nổ, triều Trần suy đồi rồi sụp đổ. Triều Hồ thành lập đang tiến hành một loạt cải cách về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hôị theo hướng tiến bộ nhằm đưa đất nước ra khỏi tình trạng khủng hoảng cuối đời Trần, củng cố chế độ quân chủ tập quyền. Giữa lúc đó, nhà Minh vào lúc cường thịnh dưới triều Minh Thành Tổ (1403-1424), đang ráo riết thực hiện một kế hoạch bành trưởng mở rộng ảnh hưởng xuống vùng Ðông Nam Á và Nam Á. Nhà hàng hải nổi tiếng Trịnh Hoà (1371-1434) được lệnh chuẩn bị một hạm đội mạnh, tổ chức những cuộc vượt biển xuống vùng này nhằm "chiêu dụ" các nước "thần phục" và triều cống "Thiên triều" theo phương thức "tuyên chiếu Thiên tử, ban cấp cho quân trưởng, không phục thì dùng vũ lực uy hiếp" (Minh sử, Q. 304, tờ 3a). Ðó là một phương thức bành trướng mà nhà Trung Quốc học người Pháp nhận xét là "họ không tiến hành những cuộc chinh phục đơn thuần nhằm bóc lột kinh tế mà buộc phải thừa nhận sức mạnh và đặc quyền của đế chế Minh ở Ðông Nam Á và ấn Ðộ Dương" (Jacques Gernet: Le monde chinois, Paris 1972, tr. 347). Hạm đội Trịnh Hoà đã qua các nước vùng Ðông Nam á, sang ấn Ðộ, các nước Rập, xuống tận Somalie ở Ðông Phi. Sau 7 lần vượt biển trong 28 năm (1405-1433), Trịnh Hoà đã chiêu dụ được, theo Minh sử, 30 nước về thần phục triều Minh. Ðiều đáng lưu ý là nước Ðại Việt ở sát Ðại Minh lại không nằm trong phạm vi hoạt động của hạm đội Trịnh Hoà. Do vị trí chiến lược trọng yếu của nước ta đối với khu vực Ðông Nam á, nhà Minh đã trù hoạch một kế hoạch riêng nhằm khuất phục và xâm lược Ðại Việt. Sau nhiều lần phái sứ sang đe doạ dụ dỗ không có hiệu quả, nhà Minh đã sắp đặt một cuộc vũ trang xâm lược đại qui mô. Cuối năm 1406 nhà Minh huy động 80 vạn quân, trong đó có 21 vạn quân chủ lực tinh nhuệ. Sau nửa năm chiến đấu, cuộc kháng chiến chống Minh do triều Hồ lãnh đạo bị thất bại và đất nước bị nhà Minh đô hộ trong 20 năm (1407-1427). Chiến thắng này của nhà Minh đã gây chấn động khắp Ðông Nam á, hỗ trợ nhiều cho kế hoạch của Trịnh Hoà như Minh sử nhận xét: " Lúc bấy giờ Giao Chỉ đã bị phá và bị diệt, chia đất làm quận huyện, các nước bị chấn động nhiều nên đến triều cống ngày càng đông" (Minh sử Q. 304, tờ 3b)

          Nguyễn Trãi đỗ Tiến sĩ trong khoa thi hội đầu tiên của triều Hồ (1400) và hai cha con cùng tham gia chính quyền nhà Hồ. Cha là Nguyễn Phi Khanh giữ chức Hàn lâm viện học sĩ kiêm Tư nghiệp Quốc tử giám, Nguyễn Trãi làm Ngự sử đài chánh chưởng. Tuy là cháu ngoại của một đại quý tộc Trần, nhưng Nguyễn Trãi không giữ thái độ chống đối mà còn hợp tác với chính quyền mới, hẳn ông hi vọng ở triều Hồ có thể mở ra một hướng phát triển mới cho đất nước. Nhưng rồi quân Minh xâm lược, nhà Hồ thất bại, đất nước lâm vào hoạ diệt vong trước nguy cơ đồng hoá mà nhà sử học đương thời là Ngô Sĩ Liên đã nhận xét: "Xét những cuộc loạn trong cõi nước Việt ta, chưa bao giờ tột cùng như lúc này...Hơn 20 năm, thay đổi phong tục nước ta theo tóc dài, răng trắng, biến người nước ta thành người Ngô cả. Than ôi, hoạ loạn tột cùng đến thế ư!" (Ðại Việt sử ký toàn thư, Q.10, tờ 53a). Gia đình Nguyễn Trãi cũng tan nát, cha bị đày sang Trung Quốc, bản thân ông bị giam lỏng trong thành Ðông Quan.

          Tất cả những biến cố đó đã tác động sâu sắc vào nhận thức, tư tưởng của Nguyễn Trãi, thôi thúc ông suy tư ngẫm nghĩ, tìm ra những lý do sâu xa của những sự kiện mang tính nghịch lý của lịch sử và rút ra những bài học bổ ích cho công cuộc cứu nước. Nhà Hồ là một vương triều tiến bộ, Hồ Quý Ly và những người đứng đầu đất nước lúc đó đều là những người yêu nước, có tinh thần dân tộc, trước sau chủ trương kiên quyết đánh giặc và có gần 6 năm để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến. Nhà Hồ lại có quân đội đông, vũ khí tốt và một hệ thống phong tuyến xây dựng công phu. Thế mà chỉ nửa năm, cuộc kháng chiến thất bại đau xót, cơ nghiệp nhà Hồ tan vỡ.

Hoạ phúc hữu môi phi nhất nhật,

Anh hùng di hận kỷ thiên niên.

(Hoạ phúc gây mầm không một chốc,

Anh hùng để hận mấy nghìn năm)

Với một tri thức uyên bác, một phương pháp tư duy sắc sảo, Nguyễn Trãi đã tìm ra câu trả lời

Thung mộc trùng trùng hải lãng tiền,

Trầm gian thiết toả diệc đồ nhiên.

Phúc chu thuỷ tín dân do thuỷ.

(Lớp lớp rào lim ngăn sóng biển,

Khóa sông xích sắt cũng vầy thôi,

Lật thuyền mới rõ dân như nước)

         Và do "trải nhiều biến thì mưu kế sâu, tính việc xa thì thành công lạ" (Phú núi Chí Linh) và "ngẫm nay suy trước xét cùng mọi lẽ hưng vong" (Bình Ngô đại cáo), Nguyễn Trãi đã đúc rút các bài học thành bại của lịch sử, cố tìm ra con đường và phương thức cứu nước cho dân tộc. Sau khi thoát khỏi thành Ðông Quan, ông đã ẩn náu ở Côn Sơn rồi bôn ba qua nhiều nơi của đất nước trong cảnh "thập niên phiêu chuyển thán bồng bình" (mười năm xiêu dạt thân như cánh bèo, cỏ bồng) và theo một số bài thơ còn lưu lại trong ức Trai di tập thì hình như ông sang cả Trung Quốc, từ Quảng Ðông, Quảng Tây, lên Giang Tây, An Huy rồi trở về nước. Ðáng lưu ý là lúc bấy giờ khắp nơi trong nước đang bùng lên nhiều cuộc khởi nghĩa chống Minh, lớn nhất là khởi nghĩa của Giản Ðịnh đế Trần Ngỗi (1407-1409), Trùng Quang đế Trần Quý Khoáng (1409-1413) do những quý tộc Trần lãnh đạo mà thư tịch cổ gọi là nhà Hậu Trần, nhưng Nguyễn Trãi không tham gia.

          Người minh chủ mà Nguyễn Trãi tìm kiếm và gửi gắm niềm tin của mình là Lê Lợi, một hào trưởng đất Lam Sơn, một người yêu nứớc xuất thân thứ dân, không có bằng cấp, quan tước, nhưng có tài cao chí cả và uy tín, ảnh hưởng rộng lớn khắp vùng. Những tài liệu phát hiện càng ngày càng xác nhận Nguyễn Trãi đã có mặt trong Hội thề Lũng Nhai năm 1416 khi Lê Lợi cùng 18 người bạn tâm huyết nhất nguyện sống chết có nhau mưu cầu sự nghiệp cứu nước cứu dân. Sau hội thề, Nguyễn Trãi lại tiếp tục chu du qua nhiều nơi rồi mới trở lại Lam Sơn. Trong lần gặp ở Lỗi Giang, Nguyễn Trãi đã dâng lên Lê Lợi tập Bình Ngô sách vạch ra "ba kế sách dẹp giặc Ngô" (Lê Quý Ðôn: Toàn Việt thi lục, Q.7) mà tư tưởng chủ yếu là "tâm công" có nghĩa là đánh vào lòng người bao hàm cả vận động đòan kết toàn dân đánh giặc và kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh ngoại giao, chính trị, địch vận. Từ đó, Nguyễn Trãi luôn luôn có mặt bên cạnh Bình Ðịnh Vương Lê Lợi từ khi cuộc khởi nghĩa bùng nổ ở Lam Sơn cho đến khi kết thúc thắng lợi bằng Hội thề Ðông Quan. Nguyễn Trãi tìm thấy ở Lê Lợi một vị minh chủ có dủ tài đức đưa sự nghiệp giải phong đất nước đến thắng lợi, và Lê Lợi cũng coi Nguyễn Trãi như một "mưu sĩ" (Quân trung từ mệnh tập), "nói tất nghe mà kế tất theo" (Biểu tạ ơn). Lê Tháng Tông cũng nhìn nhận Nguyễn Trãi là người "giúp việc trù hoạch mưu lược ở nơi màn trướng" (Quỳnh uyển cửu ca).

Trong sự nghiệp bình Ngô, Nguyễn Trãi giữ vai trò quan trọng và có nhiều cống hiến lớn lao trong việc đề ra đường lới cứu nước, khắc phục những sai lầm của triều Hồ và các cuộc khởi nghĩa khác, phò tá Lê Lợi trong trù hoạch mưu lược đưa cuộc khởi nghĩa phát triển thành một cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc mang tính nhân dân sâu rộng trên qui mô cả nước. Nguyễn Trãi còn được Lê Lợi giao cho trọng trách tổ chức và chỉ đạo cuộc đấu tranh địch vận "ngã mưu phạt nhi tâm công, bất chiến tự khuất" (ta đánh bằng mưu nên đánh vào lòng người khiến không đánh mà chúng phải khuất phục). Vào giai đoạn kết thúc chiến tranh, Nguyễn Trãi là người đảm đương cuộc đấu tranh trên mặt trận chính trị, ngoại giao nhằm phát huy những thắng lợi quân sự để sớm chấm dứt chiến tranh "sửa hoà hiếu cho hai nước, tắt muôn đời chiến tranh" và có lúc "miệng hổ lăn minh, quyết nghị hoà để hai nước can qua đều khỏi". Ông là người soạn thảo Văn hội thề Ðông Quan và viết bài Bình Ngô đại cáo, một bản tuyên ngôn độc lập bất hủ, một tổng kết tuyệt vời về cuộc chiến tranh bình Ngô và toàn bộ lịch sử Việt Nam cho đến lúc đó.

Với vai trò và những cống hiến lớn lao trong khởi nghĩa Lam Sơn, Nguyễn Trãi đã trở thành một anh hùng cứư nước. Ông hoàn toàn toại nguyện khi thấy nước Ðại Việt lại hổi sinh trong độc lập và thanh bình với biết bao ước vọng "để mở nền muôn thuở thái bình", " bốn bể phẳng lặng, sạch hết đục nhơ, tuyên bố mệnh duy tân khắp nước" (Bình Ngô đại cáo).

2. Dưới triều Lê mà vị vua khai sáng là anh hùng Lam Sơn Lê Lợi tức Lê Thái Tổ (1428-1433), Nguyễn Trãi lại hăm hở mong đem tài sức ra phò vua, giúp dân, dựng nước. Nhưng từ đây, lý tưởng xây dựng đất nước của ông gặp rất nhiều khó khăn. Triều Lê thành lập sau thắng lợi của một cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, nên buổi đầu trọng võ hơn văn. Nguyễn Trãi được phong tước Quan phục hầu, giữ chức Nhập nội hành khiển, Thượng thư bộ Lại, kiêm coi công việc Viện khu mật, có lúc giữ chức Trung thư, coi việc Môn hạ sảnh và Tam quán. Trong hàng ngũ văn quan, cương vị của ông khá cao, nhưng triều Lê bị các võ quan chi phối và ông không thể thi thố hết tài năng. Giữa các võ quan cũng hình thành các thế lực theo quan hệ địa phương hoặc thân thuộc. Vua Lê Thái Tổ có nhiều cố gắng trong xây dựng triều chính và phục hưng đất nước, nhưng bản thân nhà vua cũng không khống chế được các thế lực võ quan, lại nghi kỵ một số công thần khai quốc có uy tín lớn. Năm 1429 nhà vua ra lệnh bắt Trần Nguyên Hãn khiến ông phải tự sát. Năm 1430 lại giết hại Phạm Văn Xảo. Nguyễn Trãi cũng bị nghi ngờ và bị hạ ngục. Sau đó,ông được tha và trong bài thơ Oan thán, ông đã thổ lộ nỗi u uất của mình:

Hư danh thực hoạ thù kham tiếu,

Chúng báng cô trung tuyệt khả liên.

(Danh hư thực họa nên cười quá,

Bao kẻ dèm pha xót người trung)

Cũng do thái độ nghi kỵ và hành động sát hại công thần của Lê Thái Tổ, một số đại thần cương trực đã từ quan xin về quê ẩn dật trong đó có Nguyễn Tuấn Thiện vốn là người em kết nghĩa của Bình Ðịnh Vương thời khởi nghĩa, đã từng giữ chức Ðô tổng quản, Thái bảo quận công và Bế Khắc Thiệu là người tham gia phái bộ Bình Ðịnh Vương trong Hội thề Ðông Quan cuối năm 1427. Nguyễn Trãi chứng kiến tất cả những bi kịch cung đình đó, nhưng hoàn toàn bất lực và gần như bị vô hiệu hoá.

Khi Lê Thái Tông(1433-1442) lên nối ngôi mới 10 tuổi. Trong cương vị giúp rập nhà vua trẻ tuổi, Nguyễn Trãi tận dụng mọi cơ hội để hướng nhà vua vào mục tiêu xây dựng một đất nước cường thịnh, chăm lo đến cuộc sống của muôn dân.

Nhân bàn về soạn lễ nhạc, Nguyễn Trãi khuyên nhà vua: "Nguyện xin bệ hạ yêu thương và nuôi dưỡng dân chúng để nơi thôn cùng xóm vắng không có tiếng oán hận sầu than" (Ðại Việt sử ký toàn thư, Q. 11, tờ 36a). Năm 1335, ông soạn Dư địa chí để vua xem nhằm nâng cao sự hiểu biết, niềm tự hào và ý thức trách nhiệm của nhà vua đối với non sông đất nước. Vua Lê Thái Tông mới 12 tuổi mà đã phê vào sách: "Than ôi, đức Thánh Tổ ta (Lê Lợi) kinh dinh bốn phương, dấu chân đi khắp thiên hạ, quạt gió uống mưa, nằm tròng gối giáo, thật cũng gian nan thay! Thu góp non sông để giao phó cho ta, thật cũng lớn lao thay! Tiên sinh giúp đức Thần khảo ta thay trời làm việc, sánh được với Thượng đế. Ðến sách này lại muốn bắt chước như đời Ngu, đời hạ. Khuyên chớ bỏ ta, dẫn ta tiến đến như Nghiêu, Thuấn, thật cũng lớn lao kỳ vĩ thay!". Nguyễn Trãi cảm động và phấn khởi tâu: " Nhà vua nói như thế, thật là sự may mắn cho nước nhà vậy." (Dư địa chí trong Nguyễn Trãi toàn tập, Hà Nội 1976, tr. 245). Nhưng lợi dụng nhà vua còn ít tuổi, bọn quyền thần càng lũng đoạn triều chính, bọn quan lại xu nịnh, tham nhũng càng ra sức hoành hành. Nguyễn Trãi đã đấu tranh quyết liệt với bọn chúng, nhưng điều trớ trêu, đau đớn là trong cuộc đấu tranh đó, chân lý thuộc về Nguyễn Trãi nhưng quyền lực lại trong tay bọn quyền thần và ông hoàn toàn bị cô lập. Ðây là những năm tháng đau buồn nhất của Nguyễn Trãi mà nhiều lúc đã bộc lộ trong những câu thơ nôm chua chát:

Ðã biết cửa quyền nhiều hiểm hóc,

Cho hay đường lợi cực quuanh co.

Hay:

Ngoài chưng mọi chốn đều thông hết,

Bui (chỉ) một lòng người cực hiểm thay.

Chán nản đến thất vọng, Nguyễn Trãi đành phải từ quan về sống ẩn dật tại Côn Sơn, giữa núi non hùng vĩ của đất trời với biết bao kỷ niệm của thời thơ ấu khi sống với ông ngoại Trần Nguyên Ðán, nơi náu mình trên đường cứu nước thời Minh thuộc. Nguyễn Trãi cố gắng vui với thơ ca, với non nước, với cuộc sống thanh bạch, an nhàn. Nhưng với một con người nặng lòng yêu nước thương dân tha thiết, nuôi lý tưởng đuổi giặc cứu nước để xây dựng một quốc gia độc lập và giàu mạnh, để thực thi tư tưởng nhân nghĩa đưa lại thanh bình và yên vui cho mọi người, một con người giàu nghị lực và ý chí như Nguyễn Trãi thì ẩn dật đâu phải lẽ sống của ông. Vì vậy khi nhà vua trưởng thành, bắt đầu nắm triều chính, trừng phạt một số quyền thần, năm 1439 mời Nguyễn Trãi trở lại giữ chức vụ trong triều. Tuy đã tuổi 60, ông vẫn hăm hở đem tài sức ra cống hiến cho đất nước với niềm hi vọng: 

Thương thần như ngựa đến tuổi già, còn kham rong ruổi,

Cho thần như qua năm rét, càng dạn tuyết sương.

Quần môn mặc kệ dèm pha,

Thánh ý cư bền tín nhiệm

(Biểu tạ ơn)

Nguyễn Trãi lại đảm nhiệm chức vụ cũ, kiêm thêm chức Hàn lâm viện Thừa chỉ và trông coi việc quân dân hai đạo Ðông, Bắc (cả nước chia làm 5 đạo). Ðó là những chức vụ quan trọng mở ra khả năng cho phép Nguyễn Trãi thực hiện hoài bão dựng nứơc của mình. Nhưng chỉ 3 năm sau, một tai hoạ khủng khiếp xẩy ra dẫn đến cái chết bi thảm của Nguyễn Trãi. Nhân vua Lê Thái Tông sau khi duyệt binh ở Chí Linh, ghé thăm Nguyễn Trãi ở Côn Sơn và trên đường trở về kinh bị từ trần đột ngột ở Lệ Chi Viên, bọn quyền thần dựng lên một vụ án kết tội ông cùng vợ là Nguyễn Thị Lộ đã ám hại nhà vua. Ngày16 tháng 8 năm Nhâm Tuất (19-9-1442), Nguyễn Trãi cùng Nguyễn Thị Lộ và nhiều người thân thuộc bị hành quyết tại pháp trường Thăng Long.

3. 560 năm đã trôi qua kể từ thảm kịch đó. Chính sử triều Lê dĩ nhiên chép theo quan điểm chính thống, kết tội Nguyễn Thị Lộ đã "giết vua" và Nguyễn Trãi phải liên luỵ, kèm theo Lời bàn :"Nữ sắc làm hại người ta quá lắm. Thị Lộ chỉ là một người đàn bà thôi, Thái Tông yêu nó mà thân phải chết, Nguyễn Trãi lấy nó mà cả họ bị diệt, không đề phòng mà được ư?" (Ðại Việt sử ký toàn thư Q. XI, tờ 56a).

Sau đó không bao lâu, vua Lê Nhân Tông (1443-1459) đã khẳng định lại công lao sự nghiệp của Nguyễn Trãi: "Nguyễn Trãi là người trung thành giúp đức Thái Tổ dẹp yên giặc loạn, giúp đức Thái Tông sửa sang thái bình. Văn chương và đức nghiệp của Nguyễn Trãi, các danh tướng của bản triều không ai sánh bằng" (Nguyễn Trãi toàn tập, đd, tr. 246). Nhưng không rõ vì lý do gì, nhà vua vẫn chưa minh oan cho ông.

Phải đến năm 1464, vua Lê Thánh Tông (1460-1497) mới chính thức minh oan cho Nguyễn Trãi, ca ngợi "ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo" (tấm lòng ức Trai sáng như sao Khuê), truy tặng tước Tán Trù bá, ban cho con là Anh Vũ chức huyện quan, năm 1467 ra lệnh sưu tầm di cảo thơ văn Nguyễn Trãi. Chưa rõ vì những uẩn khúc gì mà một vị vua được coi là anh minh và quyết đoán như Lê Thánh Tông đã minh oan cho Nguyễn Trãi, một đại công thần sáng lập vương triều Lê, một người đã cùng với vợ là Nguyễn Thị Lộ ra sức che chở cho mẹ con nhà vua lúc gian nan thủa hàn vi, mà chỉ truy tặng tước bá, thấp hơn tước hầu vốn được Lê Thái Tổ ban phong. Còn nhiều điều bí ẩn bị che đẩy đằng sau vụ án oan khốc và bi thảm này.

Trong mấy thế kỷ qua, nhiều nhà sử học, văn học đã dày công thu thập những tác phẩm còn lại của Nguyễn Trãi và gần đây không ít người đã cố gắng phá vụ án Lệ Chi Viên. Nhiều tình tiết nằm trong những bí ẩn cung đình được phát hiện, nhiều giả thuyết được đưa ra, nhưng cũng chỉ là tình tiết có liên quan, những giả thuyết chắp nối các sự kiện mang tính suy đoán lô gích hay những giả thuyết được chứng minh một phần.

Cho đến nay, sử học còn mang một món nợ đối với lịch sử, đối với Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ là chưa khám phá và đưa ra ánh sáng những con người cùng với những âm mưu và hành động lợi dụng việc từ trần đột ngột của vua Lê Thái Tông ở Lệ Chi Viên để vu oan giá hoạ dựng nên vụ án kết liễu thảm khốc cuộc đời của một anh hùng vĩ đại, một nữ sĩ tài hoa, liên luỵ đến gia đình ba họ. Với tình trạng tư liệu quá ít ỏi lại bị chính sử che đậy một cách có dụng ý, thì quả thật khó hi vọng tìm ra đủ chứng cứ để phá vụ án bí hiểm này. Nhưng lịch sử cũng rất công bằng. Với thời gian và những công trình nghiên cứu của nhiều thế hệ các nhà sử học, nhà văn học, nhà tư tưởng, nhà văn hoá..., lịch sử càng ngày càng làm sáng rõ và nâng cao nhận thức về con người và sự nghiệp của Nguyễn Trãi, về những công lao, cống hiến, những giá trị đích thực của ông trong lịch sử cứu nước và dựng nước, lịch sử văn hoá của dân tộc.

Nguyễn Trãi đã đi vào lịch sử và lòng dân như một anh hùng cứu nước vĩ đại, một danh nhân văn hoá kiệt xuất. Ông là một nhà tư tưởng, một nhà chính trị, một nhà chiến lược quân sự, một nhà ngoại giao, một nhà thơ, nhà văn, nhà sử học, nhà địa lý... , biết bao tài năng đã chung đúc nên người con ưu tú đó của dân tộc. Và ông đã đem tất cả tài năng đó phục vụ công cuộc giải phóng dân tộc, cùng với Lê Lợi lập nên thắng lợi của sự nghiệp bình Ngô. Trong cứu nước cứu dân khỏi hoạ đô hộ và đồng hoá của ngoại bang, ông đã thành công rực rỡ. Trong sự nghiệp xây dựng lại đất nước, ông cũng có nhiều cống hiến to lớn nhưng gặp rất nhiều gian nan, khó khăn, không thể thi thố hết tài năng, thực hiện hoài bão và lý tưởng cao đẹp của mình. Dù cuối cùng cuộc đời kết thúc bằng một bi kịch đau xót, những Nguyễn Trãi đã để lại cho lịch sử và hậu thế một tấm gương sáng về phẩm giá một người trí thức trọn đời vì nước vì dân, đấu tranh không biết mệt mỏi cho độc lập dân tộc và hoà hiếu với lân bang, cho một đất nước giàu mạnh có vua sáng tôi hiền, có cuộc sống ấm no cho mọi người, và một sự nghiệp văn hoá đồ sộ với biết bao trước tác trên nhiều lĩnh vực phản chiếu lẽ sống, nhân cách và tài năng sáng tạo của ông.

Ngày nay, tên tuổi và sự nghiệp của Nguyễn Trãi còn toả sáng ra khỏi biên giới quốc gia, được UNESCO công nhận là một Danh nhân văn hoá thế giới. Nguyễn Trãi là một trong những con người tiêu biểu ở đỉnh cao nhất tâm hồn và trí tuệ của dân tộc, tài năng và phẩm giá của con người Việt Nam được nhân loại trân trọng.

Tạp chí Nhịp Sống 2003



Thứ Hai, 24 tháng 4, 2023

Gặp mặt Họ Lưu Làng Yên Tôn Hạ khu vực phía nam ngay 16.4.2023

Cúng giỗ Tổ tiên tại nhà Tộc trưởng


Học sinh trong họ lên nhận phần thưởng năm học 2022-2023

Ăn uống giao lưu




Chụp hình từng gia đình




































































Liên khúc Họ Lưu Việt Nam, Bài ca Lưu Tộc và Quê Hương Họp Họ Lưu video