Vào
triều đại nhà Đường của Trung Hoa, nước Việt vẫn đang nằm trong thời kỳ Bắc
thuộc, nhưng không phải vì thế mà chúng ta thiếu đi nhân tài. Trong lịch sử có
ghi chép về câu chuyện hai anh em họ Khương ở xứ An Nam sang tận kinh đô nhà
Đường khảo thí cùng các anh tài của Trung Quốc thời bấy giờ. Cả hai đều đỗ tiến
sĩ, trong đó có một người đỗ đầu trên bảng vàng, rồi làm quan cho nhà Đường tới
chức tể tướng.
Theo gia
phả của chi tộc họ Khương ở Yên Định, Thanh Hóa, thì dòng họ Khương nổi lên từ
thời của Khương Thần Dực. Bấy giờ, ông được bổ nhiệm làm Thứ Sử vùng đất Ái
Châu (tức Thanh Hóa ngày nay). Con của Khương Thần Dực là Khương Văn Đĩnh làm
quan đến huyện thừa tiến sĩ. Ông sinh được hai người con trai là Khương Công
Phụ và Khương Công Phục, cả hai anh em đều rất kháu khỉnh.
Vùng đất
Yên Định, nơi Khương Công Phụ được sinh ra. (Ảnh qua Thanhhoa.gov.vn)
Tài không đợi tuổi
Hai anh
em Công Phụ và Công Phục từ nhỏ đã thể hiện thiên tư tuyệt vời, nên ông Khương
Văn Đĩnh rất vui mừng tìm thầy giỏi dạy học cho hai con. Trong hai anh em thì
người anh Khương Công Phụ có sức học khiến thầy phải kinh ngạc, chẳng mấy chốc
đã thông tỏ Tứ thư Ngũ kinh; ý nghĩa thâm sâu trong Kinh Thư, Kinh Lễ cũng được
cậu diễn giải thông suốt. Tiếng tăm về sức học của Công Phụ khiến người dân
quanh vùng đều biết, thậm chí các quan nhà Đường ở quận Cửu Chân đều nể phục
cậu bé.
Sau khi
học thành tài, hai anh em Công Phụ và Công Phục tham gia kỳ thi quận. Năm ấy
chỉ có 8 sĩ tử đứng đầu An Nam (tên gọi dành cho nước Việt dưới thời nhà Đường)
mới được sang Trường An – kinh đô của nhà Đường để thi tiếp.
Trường
An. (Ảnh qua Pinterest.com)
Qua các
kỳ thi khảo hạch, bất kể là câu hỏi thuộc chủ đề nào, anh em Công Phụ và Công
Phục đều làm bài trôi chảy, lời văn mạch lạc khúc chiết, diễn giải thâm sâu,
khiến chốn quan trường tại An Nam vô cùng kinh ngạc. Kết quả Khương Phụ đứng
đầu trong 8 sĩ tử và cùng em mình được chọn đến dự thi khoa thi tiến sĩ ở
Trường An vào năm 758.
Chinh phục Trường An
Trường
An – kinh đô nhà Đường – là một trong những nơi văn minh bậc nhất thế giới ở
thời điểm đó. Giữa phố phường tấp nập ngựa xe, các sĩ tử Trung Hoa mang dáng vẻ
cao ngạo khi tiếp xúc với những sĩ tử từ phương xa tới. Thông thường các giám
khảo cũng có xu hướng đánh giá các sĩ tử phương Bắc cao hơn.
Trường
An phồn hoa. (Ảnh minh họa qua chinatraveldepot.com)
Thế
nhưng trong khoa thi năm 758, Khương Công Phụ với tài năng thông tuệ của minh
đã vượt qua các kỳ thi sát hạch khó khăn nhất. Trí tuệ của Công Phụ đã chinh
phục ngay cả những giám khảo khó tính nhất, khiến tất cả đều kinh ngạc.
Bài thi
“Đối trực ngôn cực gián” của Công Phụ xuất sắc đến nỗi tất cả các giám khảo đều
phải thừa nhận và khâm phục thí sinh xứ An Nam. Kết quả, hai anh em Công Phụ,
Công Phục cùng đậu tiến sĩ, đặc biệt Khương Công Phụ đã vượt lên hàng ngàn sĩ
tử, đứng đầu bảng vàng, đoạt lấy khôi nguyên tiến sĩ cả nước Đại Đường.
Tể tướng Trung Hoa
Ngay sau
kỳ thi, Khương Công Phụ được hoàng đế Đường Túc Tông (756 – 762) phong quan
chức “hiệu thư lang”; còn người em là Khương Công Phục làm “lang trung bộ Lễ”
rồi “bắc bộ thị lang”.
Với phẩm
cách hơn người, Công Phụ đã có nhiều chính sách và công lao lớn, khiến Hoàng đế
tin tưởng phong chức làm “tả thập di”, chuyên việc giám sát công việc các quan
trong triều.
Tể tướng
Khương Công Phụ. (Ảnh qua baike.com)
Mỗi khi
yết triều, Khương Công Phụ đối đáp trôi chảy mạch lạc, ứng xử thông minh, diễn
giải mọi việc thâm sâu, khiến các quan trong triều đều khâm phục. Vì thế ông
được mời vào viện Hàn lâm làm “hàn lâm học sĩ” kiêm chức “kinh triệu hộ tào
tham quân”.
Năm 783,
nhà Đường có biến, quân Kinh Nguyên tấn công thành Trường An khiến Đường Đức
Tông phải rời khỏi kinh thành, sau lại có thêm Chu Thử làm phản tự xưng đế.
Khương
Công Phụ năm ấy đã 50 tuổi, theo Hoàng đế nhiều lần can gián, lập công lớn. Đức
Tông khi nhìn lại sự việc thấy các lời can gián và tiên đoán của Khương Công
Phụ đều chính xác cả, cảm thấy nuối tiếc vì bản thân mình nhiều lần không nghe
lời Công Phụ. Từ đó, Hoàng đế tin tưởng phong cho Công Phụ làm “gián nghị đại
phu”, “đồng trung thư môn hạ bình chương sự”, chính là hàm tể tướng.
Khương
Công Phụ nhiều lần can gián hoàng đế. (Ảnh minh họa qua Knews.cc)
Về công
lao can gián Hoàng đế trong cuộc phiến loạn này, Đại Việt sử ký toàn thư có ghi
chép như sau:
…(Khương
Công Phụ) từng xin giết Chu Thử, vua Đường không nghe. Không bao lâu Kinh sư có
loạn, vua Đường từ cửa Thượng Uyển đi ra, Công Phụ giữ ngựa lại can rằng: “Chu
Thử từng làm tướng ở đất Kinh đất Nguyên, được lòng quân lính, vì Chu Thao làm
phản nên bị vua cất mất binh quyền, ngày thường vẫn uất ức, xin cho bắt đem đi
theo, chớ để cho bọn hung ác đón được”. Vua Đường đương lúc vội vàng không kịp
nghe, trên đường đi lại muốn dừng lại ở Phượng Tường để nương nhờ Trương Dật.
Công Phụ can rằng: “Dật tuy là bề tôi đáng tin cậy, nhưng là quan văn, quân đột
kỵ ở Ngư Dương do ông ta quản lĩnh đều là bộ khúc của Chu Thử. Nếu Thử thẳng
đến Kinh Nguyên làm loạn, thì ở nơi ấy không phải kế vạn toàn”. Vua Đường bèn
đi sang Phụng Thiên. Có người báo tin Thử làm phản, xin vua Đường phòng bị. Vua
Đường nghe lời Lư Kỷ xuống chiếu cho quân các đạo đóng cách xa thành một xá,
muốn đợi Thử đến đón. Công Phụ nói: “Bậc vương giả không nghiêm việc vũ bị thì
lấy gì để oai linh được trọng. Nay cấm binh đã ít người mà quân lính người ngựa
đều ở bên ngoài, thần lấy làm nguy cho bệ hạ lắm”. Vua Đường khen là phải, cho
gọi hết vào trong thành. Quân của Thử quả nhiên kéo đến, đúng như lời của Công
Phụ. Vua Đường bèn thăng cho Phụ làm gián nghị đại phu, đồng trung thư môn hạ
bình chương sự….
Một
người con của xứ An Nam lại làm tể tướng đứng đầu cả một triều đình phương Bắc,
chỉ dưới Hoàng đế – đây quả là sự kiện có một không hai trong lịch sử. Người
Việt có thể tự hào khi có một vị hậu duệ nhà Trần trở thành Hoàng đế Trung Hoa,
và cũng có thể tự hào về một hiền nhân làm quan tể tướng đầu triều thời nhà Đường.
(Xem bài: Hậu duệ nhà Trần của Đại Việt trở thành Hoàng đế Trung Hoa?)
Trực ngôn can gián
Năm 784,
công chúa Đường An chẳng may chết yểu. Quá thương con, Hoàng đế ra lệnh xuất
tiền công khố để xây tháp vô cùng nguy nga lộng lẫy. Thế nhưng tể tướng Khương
Công Phụ lại thẳng thắn can ngăn.
Đang lúc
thương tiếc con, lại nghe phải lời trái tai của Công Phụ, Hoàng đế đã tức giận
giáng chức ông xuống làm “tả thứ tử” (chức quan dưới quyền thái tử, công việc
là coi giữ sổ sách cho thái tử trong cung) nhưng vì mẹ mất nên ông được giải
chức về chịu tang.
Sách “An
Nam chí lược” có ghi chép chuyện can gián của Khương Công Phụ như sau:
Công Phụ
can rằng: “Sơn Nam
không phải là nơi ở lâu dài, vả lại nên tiết kiệm để giúp vào khoản cần cấp của
việc quân”. Vua bảo Lục Chí rằng: “Công Phụ muốn chỉ trích lỗi lầm của Trẫm để
cầu danh mà thôi”. Lục Chí tâu rằng: “Công Phụ làm quan gián nghị, giữ chức tể
tướng, bày điều phải, sửa điều trái, chính là bổn phận. Đặt gia phụ thần ở tả
hữu để sớm tối nghe lời can ngăn. Thấy cơ nguy thì giúp đỡ ngay, ấy việc của
Phụ Thần là như thế”. Vua nói: “ Không phải”. Vua bèn đổi Công Phụ làm thái tử
tả thứ tử.
Năm Quý
Dậu (793), Khương Công Phụ bị sai đi biệt giá ở Tuyền Châu (tỉnh Phúc Kiến).
Ông sống ở đây 14 năm, tự làm nhà dưới chân núi Cửu Nhật Sơn (thuộc huyện Nam
Yên), kết bạn với một vị quan ở ẩn khác là Tần Hệ. Hai người có cảnh ngộ giống
nhau, ngày ngày đi dạo chơi ngắm cảnh sông núi, ngâm thơ, xướng hoạ.
Năm 805,
vua Đường Thuận Tông lên ngôi, bãi bỏ các chính sách hủ bại thời Đường Đức
Tông, phế truất tham quan, hạn chế quyền lực hoạn quan.
Vua
Đường Thuận Tông trọng dụng nhân tài, vì thế mà Khương Công Phụ lại được vời ra
làm quan. Thế nhưng do tuổi cao nên chưa kịp nhận chức thì ông đã mất năm 805,
thọ 73 tuổi. Vì xa vợ con, xa gia đình nên Công Phụ đã được người bạn thân là
Tần Hệ chôn cất ở núi Cửu Nhật Sơn.
Tưởng nhớ
Khi
Khương Công Phụ ở Tuyền Châu, người dân địa phương đã tự nguyện xây 2 ngôi đình
ở bên ngoài về phía Đông của châu thành để kỷ niệm nơi ông cùng quan thứ sử
Tuyền Châu từng đến dạo chơi. Về sau người dân còn xây một ngôi đền thờ Khương
Công Phụ và Tần Hệ tại sườn phía Tây núi Cửu Nhật Sơn, và đặt tên một chóp núi
cao là “Khương tướng phong” để kỷ niệm nơi Công Phụ đến ở ẩn. Bên chóp núi
“Khương tướng phong” có “Khương tướng mộ” (hiện nay mộ phần vẫn còn, còn cả bia
ghi lại kỳ tích của Khương Công Phụ bằng chữ Hán).
Tấm bia
kỷ niệm về Khương Công Phụ. (Ảnh qua Website gia tộc họ Khương)
Ngày nay
ở Thanh Hóa dòng họ Khương có lập đền thờ Khương Công Phụ tại vị trí ngay trên
nền nhà cũ của ông ở làng Tường Vân, xã Định Thành, huyện Yên Định, tỉnh Thanh
Hóa. Vào ngày 10/3 hàng năm, lễ giỗ Khương Công Phụ được tổ chức ở xã Định
Thành với sự tham gia của đông đủ con cháu họ Khương, người dân trong làng,
cùng người dân ở nhiều nơi khác. Tại đây, lớp lớp con cháu lại được nghe kể về
kỳ tích của ông.
Sắc
phong tại đền thờ Khương Công Phụ. (Ảnh qua viensuhoc.vass.gov.vn)
Đền thờ
của Khương Công Phụ còn lưu lại câu đối của đốc học Lê Văn Thạc:
Phong vũ
dĩ tồi công chúa tháp
Hải vân
trường chiếu trạng nguyên từ.
Dịch là:
Gió mưa
đã nát tháp công chúa
Mây biển
soi mãi đền trạng nguyên
Trần
Hưng
KHƯƠNG CÔNG PHỤ VÀ NHỮNG DẤU TÍCH CÒN LẠI VỚI
THỜI GIAN
Phạm
Tuấn
Phòng
Sưu Tầm – Viện Nghiên cứu Hán Nôm
Hiện nay
nghiên cứu dịch thuật và giới thiệu về tác phẩm của Khương Công Phụ có công
trình Sưu tầm và khảo luận tác phẩm Chữ Hán của người Việt Nam trước thế kỉ X
của Giáo sư Trần Nghĩa. Trong đó, Giáo sư đã biên dịch các bài văn của Khương
Công Phụ hiện còn dựa vào tư liệu từ Toàn Đường văn - biên soạn đầu thế kỉ XIX thời Thanh (Trung
Quốc). Đây chính là công trình đáng nói nhất trong những nghiên cứu về con
người và sự nghiệp của người Việt làm quan Tể tướng Đường triều.
Chúng
tôi trong quá trình biên dịch Khương công phụ sự trạng khảo do Nhữ Đạm Trai
tiên sinh soạn năm Nhâm Thìn niên hiệu Minh Mệnh (1832) gặp nhiều tư liệu về
thời đại nhà Đường gắn liền với Khương Công Phụ mà không có trong các tài liệu
của người Việt nên đã phải tìm bổ sung từ sử sách Trung Quốc, may mắn cũng
chính vì thế, điều kiện tiếp xúc với tư liệu mới về vị Tể tướng Đường triều
người Việt cũng được rộng mở hơn. Đây chính là nhân duyên để chúng tôi tổng hợp
các tư liệu về Khương Công Phụ và viết bài viết này.
Do tính
chất con người và thời đại của Khương Công Phụ và tài liệu lịch sử, nên chúng
tôi từng bước biện luận về ông, trên khía cạnh từng bước phân tích lịch sử con
người.
Các tài liệu Lịch sử
Các tài
liệu nghiên cứu về lịch sử nước ta đến nay về trước thế kỉ thứ X quả là rất ít
để nghiên cứu lịch sử Việt Nam
nói riêng và các tác gia nhân vật người Việt nói chung, Khương Công Phụ cũng là
một trường hợp như thế. Chúng tôi tiến hành lật lại các tư liệu thời Đường về
sau của Trung Quốc đến tài liệu của người Việt để từng bước nghiên cứu lịch sử
về con người và thời đại của vị Trạng nguyên Tiến sĩ đầu tiên của nước ta. Tài
liệu quan trọng mà chúng tôi tin cậy là Cựu Đường thư[1], Tân Đường thư[2],
Tống thư, An Nam chí lược[3], Đại Việt sử kí toàn thư[4], Toàn đường văn[5],
Khương Công Phụ sự trạng khảo[6], các tài liệu bia chí, câu đối hoành phi…
trong thư tịch Trung Quốc và Việt Nam ghi chép về ông, nhằm làm rõ con người và
những đóng góp của Khương Công Phụ với Lịch sử cũng như lịch sử đã công nhận
ông qua thư tịch các thời. Tư liệu của người Việt, An Nam chí lược có thể là
tài liệu cổ nhất, gần nhất với Khương Công Phụ thì phần văn bản gần như chép
nguyên lại của Tân Đường thư. Các tài liệu khác của người Việt khác biên soạn
sau này chỉ có Khương Công Phụ sự trạng khảo của Nhữ Bá Sĩ là văn bản công phu
và đầy đủ. Thậm chí có thể nói, Khương Công Phụ sự trạng khảo là văn bản khảo
sát đầy đủ nhất về Khương Công Phụ từ trước đến nay, từ Trung Hoa tới Việt Nam,
bởi lẽ trong lần sang sứ Trung Quốc, Nhữ Bá Sĩ đã tổng hợp các nguồn tài liệu
chính sử để dựng lại hình tượng nhân vật Khương Công Phụ. Ngoài ra, chúng tôi
tham khảo hệ thống bia chí ở đền Khương Công Phụ tại Trung Quốc cũng như ở Việt
Nam, hệ thống sắc phong cho Khương Công Phụ qua các thời kì, câu đối hoành phi
ở đề thờ Khương Công từ ở xã Định Thành huyện Yên Định tỉnh Thanh Hoá để làm rõ
hơn hình tượng con người ông.
Quê quán:
Các tài
liệu chính sử của Trung Quốc trong giai đoạn Đường triều như Cựu Đường thư, Tân
Đường thư… đều không ghi rõ ông sinh năm nào. Các tài liệu lịch sử về sau phần
nhiều dựa vào Cựu Đường thư, Tân Đường thư nên càng không có nhận định gì mới
mẻ hơn, trong đó, các tài liệu của người Việt biên soạn cũng như thế. Cựu Đường
thư là bộ sách gần với Khương Công Phụ, trong phần biên soạn về ông ở Liệt
truyện 88 quyển 42 đã viết: “姜公辅,不知何许人Khương công phụ, bất tri hà hứa nhân – Khương công phụ,
không rõ người ở đâu”. Tuy nhiên, đến Tân Đường thư đã biên soạn về phần Khương
Công Phụ ở Liệt truyện 77 quyển 152 cho biết: “姜公辅爱州日南人Khương công Phụ, Ái Châu Nhật Nam nhân – Khương Công Phụ
người Ái Châu Nhật Nam. Trong Văn Hiến thông khảo, khi ghi chép về Việt Nam cũng ghi về
Khương Công Phụ như sau: “爱州唐姜公辅实生之Ái Châu, Đường,
Khương công Phụ thực sinh chi – Ái Châu thực chất là nơi sinh ra Khương Công
Phụ thời Đường”. Như vậy, các tài liệu đáng tin cậy nhất và gần với thời đại
Khương Công Phụ đều khẳng định ông quê Ái Châu (nay là huyện Yên Định tỉnh
Thanh Hoá) và không ghi chép năm sinh năm mất của ông.
Tuy
nhiên, gần đây, trong các công trình nghiên cứu dựa trên các tài liệu gia
phả[7], tài liệu lịch sử.… đã cho thêm giả định Khương Công Phụ quê ở Khâm
Châu[8], sau khi không được Đức Tông trọng dụng cùng với bị sàm tấu bởi triều
đình, con cháu ông đã sợ bị hại mà chạy vào Ái Châu – Thanh Hóa. Điều này cũng
có vẻ hợp lý cũng như họ Khương phát triển ở Trung Quốc cũng rất nhiều không
chỉ ở đất Ái Châu.
Thuyết
cho rằng ông là người Ái Châu, là con một vị quan nhỏ, được học hành đầy đủ từ
nhỏ, ông đã ngao du nhiều nơi đất kinh kì, rồi qua Trung Quốc thi cử. Việc này
được nhiều tài liệu ghi chép lại như An Nam chí lược cho rằng ông là con của
Khương Đỉnh và cháu của Khương Thần Dực. Trong Khương Công Phụ sự trạng khảo
(1832) cho biết: Tiên tổ họ Khương, từ đất Thiên Thủy – Lũng Tây, theo chuyển
đến Nam Hải - Quảng Châu. Đến Khương Thần Dực mới chuyển đến ở đất Ái Châu làm
chức Khâm Châu Tham quân. Sau nhiều lần chuyển làm Thư châu thứ sử, sinh con là
Đỉnh. Đỉnh ấm phong mà được chức huyện lệnh (huyện này không rõ), sinh ra Công
Phụ. Gia phả họ Khương (1899) phát hiện ở Thạch Thất (Hà Tây) cho biết Khương
Đỉnh (còn gọi Khương Công Đỉnh) làm quan Huyện thừa Tiến sĩ thời nhà Đường ở
đất Việt, cho nên con được đi thi. Giai đoạn thời Đường, mỗi năm đất An Nam
được chọn 8 người sang thi Tiến sĩ. Có thể Khương Công Phụ là 1 trong 8 người
được chọn như thế. Điều này cũng hợp lý theo chính sử, bởi thời Đường hàng năm
vẫn có lệnh người ở An nam thi cử và làm quan. Khương Công Phụ cũng như Công
Phục đã thi đỗ và làm quan trong trường hợp đó.
Con người:
Khương
Công Phụ không rõ năm sinh chỉ biết năm mất của ông là năm 805 thời Đức Tông.
Ông tên tự là Đức Văn. Tuổi trẻ thi đỗ Tiến sĩ cập đệ, rồi được bổ chức Hiệu
Thư lang, sau vì bài văn sách hơn người mà được thăng thi Chế khoa và đỗ cao,
thăng Tả Thập di Hàn lâm học sĩ. Trong Tân Đường thư, Âu Dương Tu nói về ông là
người “有高材每进见敷奏详亮德宗器之có tài cao, mỗi
lần tiến tấu rất rõ ràng, Đức Tông rất xem trọng”.
Tháng 10
năm Kiến Trung thứ 4 (783) ông can gián vua trong việc binh loạn Trường An mà
được thăng chức谏议大夫同中书门下平章事Gián nghị Đại
phu Đồng trung thư môn hạ Bình Chương sự tức là tương đương chức 宰相Tể tướng. Việc này trong chính sử Cựu Đường thư, Tân Đường
thư… mà sau này Khương Công Phụ sự trạng khảo của Nhữ Bá Sĩ cho biết: “Ngày
Đinh Tị tháng Đinh năm Quý Hợi năm Kiến trung thứ 4 (783) thăng cho Công Phụ
làm Gián 谏议大夫同中书门下平章事Nghị đại phu, Đồng
trung Thư môn hạ, Bình chương sự, ban cho quần áo thêu cá vàng”. Chức này trong
các sách Tư trị thông giám, Uyên Giám loại hàm, Đường Hội yếu… đều ghi chép ông
vào hàng Tể tướng thời Đường.
Năm 784,
khi binh loạn còn chưa dứt, thấy vua làm lễ hậu táng xây tháp cho công chúa
Đường An, Khương Công Phụ đã viết văn can gián xây tháp mà nên chú trọng nuôi
quân hưng thịnh để nước được yên. Vua Đức Tông không bằng lòng đã giáng chức
ông xuống là Tả thứ tử, nhận việc trông dạy học cho Thái tử. Năm Trinh Nguyên
thứ 8 - 792, ông lại bị biếm chức xuống là 泉州别驾Tuyền Châu biệt giá[9]. Đến khi Thuận Tông lên ngôi, mới cho
ông làm 吉州刺史Cát Châu Thứ sử thì ông mất khi
chưa kịp nhậm chức. Thời Hiến tông truy tặng ông chức 礼部尚书Lễ Bộ thượng thư.
Sự
nghiệp làm quan của Khương Công Phụ đến năm 792 thời Đường đã chấm dứt. Sau hơn
30 năm làm quan cho triều Đường và mở sang trang mới trong cuộc đời của ông,
cuộc đời ở ẩn của Khương Công Phụ.
Ở ẩn:
Khi biết
không được trọng dgụng trong triều, Khương Công Phụ đã viết tấu xin Đức Tông
cho làm Đạo Sĩ. Quả nhiên, sau khi bị biếm về Tuyền Châu, ông đã thoả mong ước
ở ẩn của đời. Về Tuyền Châu, Khương Công Phụ đã được quan lại địa phương rất
trọng quý. Thứ sử Tuyền Châu lúc bấy giờ là席相Tịch Tướng rất quý mến Công Phụ, thường mời qua lại chiêu
khách.
Thịnh
trị thời Đương gắn với nhiều nhà thơ nổi ttiếng, trong đó Tần Hệ[10] không phải
là ngoại lệ. Xuất thân làm quan lại, trải qua thời Trung Đường thịnh trị, Tần
Hệ chuyển về Tuyền Châu, nương vào núi ở ẩn 20 năm bởi loạn An Lộc Sơn. Sau năm
780, ông chuyển về phía Tây núi Cửu Nhật[11] 九日山ở Nam An ở ẩn. Ông sáng tác thơ văn, trong Toàn Đường thi
còn một quyển thơ của ông. Sống khảng khái, Tần Hệ là mẫu nhà thơ đóng cửa gỗ,
không cài then cầm kì thi tửu, vui thú điền viên. Bấy giờ, Công Phụ về Tuyền
Châu, nghe nói Tần Hệ nên ngưỡng vọng mới đến bái phỏng. Hai người một kẻ mộ
đạo thanh tuyền, người kia lòng trung
ngưỡng kính, mới kết giao bằng hữu cùng đàm đạo bầu rượu túi thơ.
Từ đó,
Công Phụ mới dựng nhà trúc ở phía Đông núi Cửu nhật, cùng đối ngọn với Tần Hệ,
hai người hai ngọn núi. Ngọn núi phía Đông hình như con Kì lân nên gọi là麒麟山Kì Lân sơn, sau vì Khương Công Phụ ở nên gọi là姜相峰Khương tướng phong[12]. Khương Công Phụ cùng người bạn tiêu
dao cảnh vắng am tranh được 13 năm thì mất vào năm 805 niên hiệu Vĩnh Trinh
thời Đường Thuận Tông. Sau khi ông mất, do gia quyến ở xa nên Tần Hệ đã mai
táng ông ở phía đông núi Cửu Nhật. Mộ Khương Công Phụ được tu sửa các thời và
bảo tồn. Trên mộ có bia khắc chữ Khải bên mặt âm như sau: 唐·相國忠肅姜公封塋Đường Tướng
quốc Trung túc Khương công phong oánh”. Tại mộ Công Phụ, sau này thời Minh, 傅凯Truyền Khải viết 重修姜相墓碑记Trùng tu Khương tướng mộ bi kí ca ngợi rằng:
公盖以之古今,孰不仰姜相之高峰!满山红叶,孤坟朦朦,不有我侯,孰起其崇 – Công cái dĩ chi cổ kim, thục bất ngưỡng Khương tướng chi
cao phong, mãn sơn hồng diệp, cô phần mông mông, bất hữu ngã hầu, thục khởi kì
sùng – Ông công bao trùm xưa nay, há không ngưỡng vọng núi cao Khương tướng,
đầy núi lá hồng, mộ phần riêng cô độc mông lung, chẳng phải đợi ta, há ai dấy
lên việc tôn sùng”. Về sau, Tần Hệ cũng mất ở đây. Các thời quan lại ở Tuyền
Châu nhiều lần tu sửa mộ chí cũng như xây dựng đền thờ những người ở đây. Ban
đầu xây Nhị hiền từ để thờ Khương Công Phụ và Tần Hệ, về sau xây Tam Hiền từ để
thờ thêm Hàn Ốc. Lại ở Đông Hồ – Tuyền Châu, xây dựng Nhị công đình để tưởng
niệm Công Phụ và Tần Hệ.
Thơ văn
Khương
Công Phụ để lại một bài phú Bạch vân chiếu xuân hải phú và bài văn Đối trực
ngôn cực gián cách đều được lưu lại trong Toàn Đường văn quyển 446 và đã có bản
dịch trong công trình Sưu tầm và khảo luận tác phẩm Chữ Hán của người Việt Nam
trước thế kỉ X của Gs. Trần Nghĩa. Ngoài ra, các tài liệu liên quan đến Khương
Công Phụ còn có các bài văn can gián và tấu biểu của Lục Chí[13] cũng như các
văn chương thời Đường mà hiện nay chúng ta chưa biên dịch. Trong bài viết này,
chúng tôi đề cập một số thơ văn có quan hệ với Khương Công Phụ trong giai đoạn
ông đã về ở ẩn tại Cửu Nhật sơn về sau.
Nhiều
nhà thơ của Trung Quốc về Cửu Nhật sơn đã để lại thơ văn ca ngợi Khương Công
Phụ, cũng như Tần Hệ. Trong đó đáng kể như Tuyền Châu Thái thú Vương Thập
Bằng[14], Tuyền Châu Thái thú Chân Đức Tú[15] thời Tống, Hoàng Cơ, Truyền
Khải[16] thời Minh ở Nam An….
王十朋Vương
Thập Bằng, làm quan 泉州太守Thái Thú Tuyền Châu
thời Tống, ông để lại nhiều bài thơ ca ngợi Khương Công Phụ, trong đó như bài
Khương Tướng Phong姜相峰:
相国忠如宋广平
危言流落晋江城
天资自直无心卖
何处青山亦得名
Phiên âm:
Tướng
quốc trung như Tống Quảng Bình
Nguy
ngôn lưu lạc Tấn giang thành.
Thiên tư
tự trực vô tâm mãi.
Hà xứ
thanh sơn diệc đắc danh.
Dịch nghĩa:
Lòng
trung của Tướng quốc như Quảng Bình thời Tống,
Lời nói
ngay thẳng nên lưu lạc đến thành Tấn Giang.
Thiên tư
ngay thẳng không phải lòng bán mua được,
Nơi nào
núi xanh chẳng vang danh.
泉州太守Thái thú Tuyền Châu là 真德秀Chân
Đức Tú cũng có bài tế văn ở mộ phần Khương Công Phụ. Bài tế như sau:
疑疑姜公
巉巉东峰
峰以公名
千古并崇
Phiên âm:
Nghi
nghi Khương công
Sàm Sàm
đông phong
Phong dĩ
công danh
Thiên cổ
tịnh sùng
Dịch nghĩa:
Ngời
ngợi Khương công
Nguy nga
núi phía đông
Núi lấy
tên người làm tên
Nghìn
năm vẫn tôn sùng
Thơ văn
các thời ca ngợi cũng như đồng cảm với Khương Công Phụ và cảnh núi non Cửu Nhật
sơn. Ca ngợi sự trung thành vủa vị Tể tướng Đường triều cũng thể hiện trong thơ
văn các văn nhân sĩ phu như: 孤忠曾记犯龙鳞Cô Trung tằng kí phạm long lần – Lòng trung cô đơn từng ghi
vào lòng vua chúa (long lân) như thơ Vương Thập Bằng đã viết. Còn nhiều thơ văn
ca ngợi Khương Công Phụ của danh nhân các thời, còn lưu lại trong các bộ sử
sách, thơ văn các thời của Trung quốc
cũng như Việt Nam .
Ở Việt
Nam, theo Khương Công Phụ sự trạng khảo cho biết tại Thanh Hoá có 2 đền thờ
Khương Công Phụ ở huyện Hoằng Hoá và huyện Yên Định. Ngày nay còn đền thờ tại
xã Định Thành huyện Yên Định với nhiều tài liệu hán Nôm còn đến ngày nay. Trong
đó đáng chú ý là văn bia Cung tiến bi kí và Khương Tiên sinh từ bi vào năm Tự
Đức thứ 13 (1860) ghi chép lại việc
trùng tu đền thờ. Ngoài ra, còn hệ thống sắc phong, trong đó đáng kể là sắc
thời Tự Đức thứ 3 (1850) ban cho thờ Khương Công Phụ là Tinh trung hiển tiết
Gia danh Phương Trục Quang ý Trung đẳng thần. Đến nay, đền thờ nhiều lần trùng
tu, sửa chữa để làm nơi thờ tự cho vị Tể tướng người Việt thời Đường.
Kết luận:
Khương
Công Phụ với hơn 30 năm làm quan triều Đường, sau khi bị biếm đi Tuyền Châu ông
lại ở ẩn 13 năm nữa mới mất. Cuộc đời Khương Công Phụ nếm đủ thăng trầm quan vị
cho đến tiêu dao với đạo bát ngát mây với nước như bài văn Bạch vân chiếu xuân
hải phú của ông. Công danh muôn thưở, tiếng thơm trung nghĩa mãi lưu để vang
vọng một vị danh nhân, huân thần, một vị thần linh người Việt.
Thời vũ
viện – đầu năm 2010.
Tài liệu tham khảo:
姜公輔事狀考Khương Công Phụ sự trạng khảo. Nhữ Bá Sĩ, quê Cát Xuyên,
Hoằng Hoá, Thanh Hoá, 1 bản viết tay, Ký hiệu: A.2912: 24 trang, Niên đại: 1832
(Minh Mệnh).
旧唐书Cựu
Đường thư, là bộ sử sớm nhất về thời Đường. Sách biên soạn thời Ngũ Đại Hậu
Tấn, ban đầu tên là Đường thư, về sau nhân việc nhóm tác giả Âu Dương tu thời
Tống biên soạn Tân Đường thư新唐书mà
sách đổi tên thành Cựu Đường thư. Cựu Đường thư gồm 200 quyển, bao quát Bản kỉ
20 quyển, Chí 30 quyển, liệt truyện 150 quyển. Sách gồm tập thể tác giả biên
tập các thời, đến khoảng năm 945 thì hoàn thiện, đến nay mang tên người biên soạn
cuối cùng là Lưu Tuần.
Đường
Hội Yếu, Bắc Tống Vương Phổ 王溥(922~982) soạn, 100 quyển, ghi
chép về lịch sử, điển chương chế độ thời Đường.
[1]新唐书Tân Đường thư, 欧阳修Âu
Dương Tu thời Tống soạn. 上海古籍出出版社、上海书店,1986。
An Nam chí lược.
Tác giả: Lê Tắc. Nhà xuất bản: Nxb Lao Động và TT VHNN Đông Tây. Ngày xuất bản:
Qúy I-2009
Đại Việt
sử ký toàn thư, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993
Toàn
Đường văn, thời Thanh Trung Quốc soạn.
Trần
Nghĩa – Sưu tầm và khảo luận tác phẩm Chữ Hán của người Việt Nam trước thế
kỉ X, nxb Thế giới, Hà Nội – 2000.
Tư liệu
Hán Nôm bao gồm câu đối, hoành phi, sắc phong, văn bia… tại Đền thờ Khương Công
Phụ xã Định Thành huyện Yên Định tỉnh Thanh Hoá.
[1]旧唐书Cựu Đường thư, là bộ sử thời Đường. Sách biên soạn thời Ngũ
Đại Hậu Tấn, ban đầu tên là Đường thư, về sau nhân việc nhóm tác giả Âu Dương
tu thời Tống biên soạn Tân Đường thư新唐书mà
sách đổi tên thành Cựu Đường thư. Cựu Đường thư gồm 200 quyển, bao quát Bản kỉ
20 quyển, Chí 30 quyển, liệt truyện 150 quyển. Sách gồm tập thể tác giả biên
tập các thời, đến khoảng năm 945 thì hoàn thiện, đến nay mang tên người biên
soạn cuối cùng là Lưu Tuần.
[2]新唐书Tân Đường thư, 欧阳修Âu
Dương Tu thời Tống soạn. 上海古籍出出版社、上海书店,1986。
[3] An Nam
chí lược. Tác giả: Lê Tắc. Nhà xuất bản: Nxb Lao Động và TT VHNN Đông Tây. Ngày
xuất bản: Qúy I-2009
[4] Đại
Việt sử ký toàn thư, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993
[5] Toàn
Đường văn, thời Thanh Trung Quốc soạn.
[6]姜公輔事狀考Khương Công Phụ sự trạng khảo. Nhữ Bá Sĩ, quê Cát Xuyên,
Hoằng Hoá, Thanh Hoá, 1 bản viết tay, Ký hiệu: A.2912: 24 trang, Niên đại: 1832
(Minh Mệnh).
[7]. Về
cuốn gia phả dòng họ Khương Công Phụ, Nguyễn Thị Măng, Viện Nghiên cứu Hán Nôm
trong Thông báo Hán Nôm 2001, bài viết cho biết Khương Công Phụ sinh năm 793.
[8] Khâm
Châu, nay thuộc Quảng Tây – Trung Quốc.
[9]
Tuyền Châu, là một thành phố nhỏ của tỉnh Phúc Kiến. Tại Tuyền Châu có các địa
danh như Nam
An, Bồ Điền, Tiên Du. Khương Công Phụ ở Tuyền Châu là ở Nam An.
[10] Tần
Hệ (724 -808) người Cối Kê, nhà thơ thời Đường. Ông còn lại một tập trong Toàn
Đường thi.
[11] Cửu
nhật sơn, núi ở phía tây Nam
An, thuộc Tuyền Châu – tỉnh Phúc Kiến – Trung Quốc.
[12]
Thời Bắc Tống năm Khánh Lịch thứ 4 (1041), Tô Thân người Đồng An ở Tuyền Châu
đến đề khắc chữ “Khương tướng phong” ở núi này.
[13] Lục
Chí (754 – 805) tiến sĩ năm 773, làm quan thời Đường Đức Tông, năm 792 thay
Khương Công Phụ làm Tể tướng, 794 bị biếm chức làm trung Châu biệt giá rồi mất.
Ông còn tập Lục Tuyên công Hàn uyển tập, gồm 24 quyển. Xem phân văn chương của
Lục Chí trong Toàn Đường văn quyển 470, phần văn Lục Chí, như Hưng Nguyên luận
giải Khương công phụ trạng, hựu đáp luận Khương Công Phụ trạng….
[14]
Vương Thập Bằng (1112 -1171) tự là Quy Lân, hiệu Mai Khê, là chính trị gia thời
Nam Tống, là nhà thơ, là một danh thần nổi danh một thời, ônglàm quan thời Tống
Huy tông,
[15]
Chân Đức Tú (1178 – 1235) làm quan thái thú sau Vương sĩ Bằng, ông là một triết
gia thời Tống, là đệ tử hàng thứ của Chu Hi. Ông đỗ tiến sĩ năm 1199, sau làm
quan và chết già.
[16]
Truyền Khải tên tự là Kính Trai, Người Nam An – Tuyền Châu, đỗ Tiến sĩ năm
Thành Hoà 1478 nhà Minh, làm quan đến Hộ
bộ Lang trung, có văn tập để lại.