XIN CHÀO VÀ CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ ĐẾN VỚI BLOGSPOT.COM CỦA LUU VAN CHUONG

Thứ Sáu, 26 tháng 9, 2025

NHỚ ! MỘT NGƯỜI ĐI



TIỄN ANH NGƯỜI CÓ DUYÊN KHÔNG PHẬN

Trăng vỡ nửa đêm hồn chẳng ngủ,
Ảnh xưa thấp thoáng bóng tình xưa.
Người đã khuất rồi, lòng vẫn nhớ,
Ngồi canh tiếng gió lệ hắt mưa.
Một thuở hẹn thề ai chở nặng,
Giờ đây lạnh lẽo khói nhang tàn.
Hồn anh có hiểu lòng em khổ,
Thức trắng canh dài đếm bóng trăng.
Nửa kiếp tình xưa còn in dấu,
Một đời duyên muộn hóa sầu thương.
Người yêu cũ ấy trong tim chồng,
Em lặng nghe lòng vỡ đoạn trường.
Sầu hắt tháng ngày không ngủ nổi,
Đêm dài quạnh quẽ bóng đèn mờ.
Thương anh, thương cả người anh nhớ,
Nén lệ dâng trời, gởi gió đưa.

PLEIKU MÙA MƯA

 

Mưa đến Pleiku – hồn phố núi,
Giọt rơi thấm đẫm cả tâm hồn.
Sau bao nắng hạn khô sông suối,
Lại thấy hồi sinh rực núi non.
Lá ngọc lau phai làn bụi phủ,
Cành xanh rũ sạch lớp tro mòn.
Người thương mưa đến như duyên ngọc,
Giữ mãi trong tim mảnh đất son.
Mưa tới ào ào như vỡ lũ,
Xối tràn phố núi tiếng reo ca.
Đỏ bầm bazan rơi dội xuống,
Sạch trong cây cỏ sáng chan hòa.
Vạn loài mừng đón cơn mưa rửa,
Muôn ngả vui chung khúc hát sa.
Cành lá xanh non bừng sức sống,
Đất trời tỉnh giấc tự bao la.
Không ập dữ dằn như bão giông,
Mưa phùn lất phất nhẹ như sương.
Tóc vương hạt ngọc, người chưa ướt,
Áo điểm làn mây, đất ngập hương.
Ẩm thấp quanh năm thành nỗi nhớ,
Se se khí núi ngấm vào xương.
Dịu dàng như khúc tình ca nhỏ,
Nhẹ bước mưa rơi giữa phố đường.
Thời học trò xưa mưa kéo tới,
Sách cầm che vội bước chân qua.
Bạn bè giẫm nước cười vang ngõ,
Tuổi nhỏ tung mưa chạy khắp nhà.
Đất thấm mầm xanh cho vụ mới,
Nương tràn hạt lúa đón mùa ra.
Dế lửa, dế than theo lũ trẻ,
Hè về kỷ niệm cứ chan hòa.
Đêm mưa rả rích ru người ngủ,
Giọt gõ hiên nhà tiếng thảnh thơi.
Cuộn chăn ấm áp nghe mưa đổ,
Thả mộng yên bình giữa gió trời.
Sớm dậy mây tan, trời sáng rỡ,
Non tươi đất sạch đón ban mai.
Hồn ai gửi gắm trong mưa vắng,
Thấy cả xuân ngời ở nắng phai.
Mưa có niềm vui và phiền muộn,
Nhưng là quy luật của muôn đời.
Nắng qua, mưa đến thay phiên chuyển,
Bão dứt, cầu vồng lại sáng trời.
Người nhớ cơn mưa trong ký ức,
Lòng thương tháng hạ chẳng hề vơi.
Pleiku mưa xuống thành ca khúc,
Chảy mãi trong tim tiếng gọi người.

Thứ Hai, 22 tháng 9, 2025

TRIỆU SƠN HUYỆN CHÍ

Tam Quan Đền Nưa

Hoa giáp trên vùng đất cổ
I. Khái quát
Triệu Sơn là huyện bán sơn địa của tỉnh Thanh Hóa, thành lập ngày 25/2/1965 theo Quyết định số 177-CP của Chính phủ, gồm 33 xã ghép từ đất Thọ Xuân và Nông Cống. Sau nhiều lần điều chỉnh, đến năm 2024 huyện còn 32 xã, thị trấn. Năm 2025, huyện giải thể, đúng 60 năm – một hoa giáp.
II. Hình thành và tên gọi
Đất Triệu Sơn vốn thuộc hai huyện cổ: Lôi Dương và Nông Cống thời Nguyễn. Năm 1965, nhập lại thành huyện Triệu Sơn gồm 7 tổng, 139 xã, thôn, trang, sở.
Tên gọi Triệu Sơn nghĩa là “núi Bà Triệu” – gắn với căn cứ khởi nghĩa Ngàn Nưa, biểu tượng truyền thống đấu tranh anh hùng.
III. Địa thế – núi sông
Triệu Sơn ở vùng bán sơn địa, cửa ngõ nối đồng bằng với miền núi.
• Tây giáp Như Xuân, Như Thanh.
• Đông giáp Đông Sơn, Nông Cống.
• Bắc giáp Thọ Xuân.
Núi non:
• Ngàn Nưa (Na Sơn) cao 538m, dãy dài 20km, huyệt đạo linh thiêng, gắn Am Tiên và khởi nghĩa Bà Triệu.
• Cửu Noãn Sơn (Hợp Thắng), 9 ngọn đồi đất đỏ, tương truyền ông Nưa gánh đất.
• Núi Vàng, núi Trặc (Đồng Lợi – Đồng Thắng), căn cứ chống Minh của Nguyễn Chích.
Sông ngòi:
• Sông Nhơm (Lãng Giang) dài 66,9 km, đoạn qua Triệu Sơn 31,6 km.
• Sông Hoàng (Hoàng Giang) dài 81 km, trong đó 40 km thuộc huyện.
IV. Lịch sử – di tích
• Văn hóa Đông Sơn: phát hiện chuôi kiếm hình phụ nữ (bảo vật quốc gia) ở núi Nưa, trống đồng Thiết Cương.
• Khởi nghĩa Chu Đạt (156), Bà Triệu (248) vang dội.
• Thời Ngô – Đinh – Tiền Lê: vùng Cửu Noãn Sơn là căn cứ Ngô Xương Xí, sau quy phục Đinh Bộ Lĩnh.
• Triều Lê sơ: nhiều nhân vật kiệt xuất từ Triệu Sơn theo Lê Lợi khởi nghĩa Lam Sơn.
Di tích – thắng cảnh:
• Am Tiên – Ngàn Nưa: huyệt đạo trời đất, nơi Bà Triệu dựng cờ.
• Đền thờ Lê Thì Hiến, Lê Thì Hải (Phú Hào).
• Văn bia cổ: Lê Lệnh công bi kí, Vạn thế phụng sự bi ký…
Đến 2010, có 231 di tích, trong đó 4 di tích quốc gia, 12 cấp tỉnh.
V. Văn hóa dân gian
Đất Triệu Sơn là nơi cư trú lâu đời của Kinh – Mường – Thái, nhiều truyền thuyết lưu truyền: ông Nưa, ông Vồm, Am Tiên, bà chúa Bìm. Văn chương dân gian phong phú, câu ca tục ngữ phản ánh tính cách kiên cường, hóm hỉnh của cư dân.
VI. Tài nguyên – sản vật
1. Đất đai
Địa hình bán sơn địa: vùng đồng bằng thuận lợi cho lúa nước, vùng gò đồi thích hợp trồng cây công nghiệp ngắn ngày (mía, lạc, đậu), cây ăn quả (cam, bưởi, nhãn, vải).
2. Rừng núi – khoáng sản
• Rừng Nưa, rừng Cửu Noãn có gỗ lim, sến, táu, cùng nhiều dược liệu.
• Núi đá vôi giàu đá trắng, đá xây dựng.
• Đất đỏ Cửu Noãn thích hợp trồng mía, sắn.
3. Nông sản – làng nghề
• Lúa gạo, ngô, khoai, sắn là sản phẩm chủ lực.
• Làng nghề rượu làng Cổ Định nổi tiếng.
• Một số nơi làm gạch ngói, đúc đồng, dệt vải thủ công.
4. Chăn nuôi
Người dân nuôi trâu bò, lợn, gà vịt. Vùng sông Hoàng, sông Nhơm có nghề chài lưới, nuôi cá nước ngọt.
VII. Danh nhân
• Họ Doãn (Phượng Trì, Văn Trinh): Doãn Tử Tư, Doãn Anh Khải, Doãn Bằng Hài… giỏi ngoại giao. Doãn Nổ theo Lê Lợi, phong Trụ quốc Thượng tướng quân, được ban quốc tính Lê Nổ.
• Họ Lê Thì (Phú Hào): nhiều đời làm Thái tể, Thái phó, Quận công, có văn bia lớn.
• Họ Lê Trạc (Phú Thịnh): ba đời đỗ đại khoa, nhiều vị giữ chức Thượng thư.
• Lê Bật Tứ (Cổ Định): công thần triều Lê, được lập đền thờ, dựng bia.
VIII. Nhận định
Triệu Sơn tuy chỉ tồn tại 60 năm trên bản đồ hành chính, nhưng là một địa danh cổ – mới đặc biệt. Cổ ở nền văn hóa Đông Sơn, ở núi Ngàn Nưa – Am Tiên – huyệt đạo đất trời, ở truyền thống khoa bảng. Mới ở chặng đường hành chính non trẻ (1965–2025) đúng một hoa giáp.
Đây là vùng đất linh địa của xứ Thanh, nơi “núi Bà Triệu soi bóng Lam Kinh”, để lại dấu ấn lịch sử, văn hóa và con người bền bỉ, kiên cường.

THANH HÓA – ĐẤT NGUỒN THIÊNG

Ai hỏi tôi đang nghĩ gì hôm nay,
Tôi nhớ đất Thanh – miền quê gió dậy.
Nơi sông Mã cuộn trào bão tố,
Nơi Lam Kinh rực lửa anh hùng.
Từ Bà Triệu oai phong áo giáp hồng,
Cưỡi voi trắng tung hoành muôn trận gió.
Đến Lê Đại Hành dẹp tan quân Tống,
Mở trời Nam, giữ vững cõi biên cương.
Có Ngô Quyền, có Dương Diên Nghệ,
Dòng máu hồng sông Bạch Đằng cuộn sóng.
Có Lê Lợi khởi binh Lam Sơn,
Mười năm trời rửa sạch nỗi nhục nô.
Nguyễn Hoàng gieo hạt giống cơ đồ,
Từ đất Thanh đi mở phương Nam trời rộng.
Lê Thánh Tông trị bình, sáng nước,
Nguyễn Trãi oan hồn, lịch sử ghi tên.
Thanh Hóa ơi – đất dày văn hiến,
Đông Sơn đồng trống gọi ngàn năm.
Mai An Tiêm gieo dưa xanh giữa đảo,
Trạng Quỳnh cười vỡ cả đình trung.
Sông Chu, sông Yên, sông Hoạt, sông Lèn,
Đã chảy mãi những hồn quê bất tận.
Núi Nưa linh thiêng vọng lời thề,
Hàm Rồng soi bóng cầu trường chinh.
Bốn lần đứng chắn chân giặc Bắc,
Bao thế kỷ giữ non sông nguyên vẹn.
Đất “ngựa lồng, trâu húc” thiêng liêng,
Hồn sông núi hóa người Thanh kiêu hãnh.
Dẫu hôm nay còn bao điều khắc khoải,
Có vết đau, có nỗi buồn đọng lại.
Nhưng trong huyết quản cháu con,
Vẫn rực cháy tinh thần Lam Sơn thuở trước.
Thanh Hóa – đất cội nguồn dựng nước,
Đất hiển linh giữ lửa cho mai sau.
Còn Thanh Hóa – còn hồn sông núi,
Tổ quốc này vững bước chẳng nghiêng nao.

TRƯỜNG CA THANH HÓA

(Phong cách địa chí thi ca)
I. ĐẤT NGUỒN LINH THIÊNG
Thanh Hóa – miền đất cội nguồn,
Trống đồng Đông Sơn dội vang ngàn dặm.
Sông Mã đỏ ngầu cuốn trôi máu giặc,
Núi Nưa ngút ngàn vọng tiếng thề xưa.
Đất “Ngựa lồng, Trâu húc” bao la,
Địa linh khí tụ nên muôn anh kiệt.
Mỗi thửa ruộng, mỗi bờ tre, bãi cát,
Đều in dấu bàn chân của tổ tiên.
II. HUYỀN THOẠI BÀ TRIỆU
Có người con gái áo vàng tung vó,
Triệu Thị Trinh dựng cờ núi Nưa.
“Muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ,
Chẳng chịu cúi đầu làm tì thiếp cho ai!”
Tiếng thét vang rừng núi,
Hào khí vọng ngàn năm.
III. NGÔ QUYỀN – DƯƠNG DIÊN NGHỆ
Thanh Hóa sinh ra Dương Diên Nghệ,
Một tướng tài chống giặc giữ non sông.
Có ông mới có Ngô Quyền con rể,
Trận Bạch Đằng lẫy lừng phá tan xiềng Hán đô hộ.
IV. LÊ ĐẠI HÀNH – LÊ HOÀN
Từ châu Ái, Lê Hoàn dấy nghĩa,
Đại Hành hoàng đế dựng triều Lê.
Đánh Tống, bình Chiêm, mở bờ cõi,
Tiếng quân reo át cả sóng Lam Giang.
V. LÊ LỢI – LAM SƠN KHỞI NGHĨA
Núi rừng Lam Sơn dậy sóng,
Mười năm trời máu thắm rừng xanh.
Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa,
Nguyễn Trãi đề hịch truyền dân.
Gươm thần Thuận Thiên sáng ngời,
Đất nước sạch bóng quân Minh.
Từ Thanh Hóa – non sông độc lập,
Tên Đại Việt vươn khắp địa cầu.
VI. NGUYỄN HOÀNG – MỞ CÕI PHƯƠNG NAM
Một bên sông Trâu, một bên sông Ngựa,
Nguyễn Hoàng mang chí lớn vào Thuận Hóa.
Từ đất Thanh, hạt giống cơ đồ gieo xuống,
Mở trời Nam đến tận Cà Mau.
VII. VĂN HÓA – VĂN HIẾN
Thanh Hóa – đất văn hiến muôn đời,
Đông Sơn đồng trống sáng rực thời nguyên thủy.
Mai An Tiêm trồng dưa giữa đảo,
Hạt giống cần lao hóa trái ngọt đời sau.
Trạng Quỳnh cười sấm châm đời,
Dân gian đọng mãi hồn quê đất Việt.
VIII. DANH NHÂN – TƯ TƯỞNG
Từ Lê Văn Hưu viết sử mở đầu,
Đào Duy Từ dựng cơ nghiệp Nguyễn.
Lê Thánh Tông hiền minh, vang bóng,
Lưỡng đầu chế Trịnh ghi dấu sử xanh.
Bao bậc chí nhân, trí tuệ đất Thanh,
Bồi đắp thành non sông muôn thuở.
IX. THIÊN NHIÊN – ĐỊA LINH
Núi Hàm Rồng soi bóng cầu sông Mã,
Sông Yên, sông Chu, sông Lèn, sông Hoạt.
Biển Sầm Sơn sóng vỗ ngàn năm,
Rừng Bến En thẳm sâu huyền thoại.
Mỗi ngọn núi, mỗi dòng sông,
Đều ẩn chứa hồn thiêng xứ sở.
X. THANH HÓA HÔM NAY
Hôm nay, Thanh Hóa còn nhiều trăn trở,
Những nỗi đau từ “đại phẫu” chưa lành.
Có nỗi buồn, có vết thương, có giông tố,
Nhưng trong mạch máu dân Thanh,
Tinh thần Lam Sơn vẫn cháy bùng.
Thanh Hóa – đất nghĩa tình bền chặt,
Đất cội nguồn giữ lửa cho mai sau.
Còn Thanh Hóa – còn hồn sông núi,
Tổ quốc này vững bước chẳng nghiêng nao.

THANH HÓA – BẢN TRƯỜNG CA SONG HÀNH

I. ĐẤT NGUỒN LINH THIÊNG
Thơ:
Thanh Hóa – miền đất tổ tiên,
Đông Sơn trống giục vang miền sông Mã.
Núi Nưa mây phủ, lời thề ngàn thu,
Đất “ngựa lồng, trâu húc” linh thiêng.
Chú giải:
Thanh Hóa là vùng đất cổ, nơi phát hiện nền văn hóa Đông Sơn nổi tiếng, khởi nguyên cho văn minh Việt cổ. Sông Mã và núi Nưa được coi là hai biểu tượng linh thiêng, ghi dấu bao chiến công và truyền thuyết. Từ lâu, Thanh Hóa được gọi là “đất ngựa lồng, trâu húc” – hàm ý địa thế hiểm trở, giàu sinh khí anh hùng.
II. BÀ TRIỆU – HUYỀN THOẠI
Thơ:
Áo giáp vàng, vó voi tung trời,
Triệu Trinh nương thét vang muôn thuở.
“Không làm tì thiếp cho ai,
Thề cùng sóng dữ, gió to diệt thù.”
Chú giải:
Năm 248, Triệu Thị Trinh (Bà Triệu) khởi nghĩa chống quân Ngô ở núi Nưa. Lời thề bất hủ của bà đã trở thành biểu tượng tinh thần độc lập. Dù thất bại, nhưng khí phách Bà Triệu vẫn sáng ngời trong lịch sử, được dân tôn thờ như “Nhụy Kiều tướng quân”.
III. DƯƠNG DIÊN NGHỆ – NGÔ QUYỀN
Thơ:
Tướng Dương Diên Nghệ gốc đất Thanh,
Nêu gương lớn chống quân đô hộ.
Ngô Quyền – con rể vươn danh,
Bạch Đằng sóng cuộn tan tành ách nô.
Chú giải:
Dương Diên Nghệ, người Ái Châu (Thanh Hóa), từng dẹp giặc Nam Hán, trao quyền cho Ngô Quyền. Chính Ngô Quyền, con rể ông, đã làm nên chiến thắng Bạch Đằng năm 938, mở đầu kỷ nguyên độc lập lâu dài cho dân tộc.
IV. LÊ HOÀN – TRIỀU TIỀN LÊ
Thơ:
Ái Châu đất dựng ngai vàng,
Lê Hoàn phá Tống, mở mang cơ nghiệp.
Tiền Lê giữ vững giang san,
Đế hiệu Đại Hành truyền vang sử Việt.
Chú giải:
Năm 980, Lê Hoàn (người Thanh Hóa) lên ngôi, sáng lập triều Tiền Lê. Ông đánh tan quân Tống xâm lược và bình định Chiêm Thành, đưa Đại Cồ Việt vào thời kỳ ổn định. Đây là triều đại mở đầu cho vai trò “đất Thanh dựng nghiệp lớn”.
V. LÊ LỢI – KHỞI NGHĨA LAM SƠN
Thơ:
Lam Sơn nổi lửa thù,
Mười năm kháng Minh, núi rừng đỏ máu.
Thuận Thiên gươm sáng trời thu,
Nguyễn Trãi đề hịch, sử xanh ngàn đời.
Chú giải:
Năm 1418, Lê Lợi phất cờ khởi nghĩa Lam Sơn. Cuộc kháng chiến kéo dài mười năm, kết thúc bằng chiến thắng năm 1427. Nguyễn Trãi, người cùng Lê Lợi, đã để lại “Bình Ngô đại cáo” – bản tuyên ngôn độc lập lừng danh.
VI. NGUYỄN HOÀNG – MỞ CÕI
Thơ:
Sông Trâu – sông Ngựa đưa chân,
Nguyễn Hoàng từ đất Thanh xuôi Nam trời rộng.
Thuận Hóa dựng nghiệp nghìn năm,
Mở cõi Việt tới tận cùng phương biển.
Chú giải:
Nguyễn Hoàng, người Thanh Hóa, vào trấn thủ Thuận Hóa thế kỷ XVI. Từ đây, con cháu ông mở rộng bờ cõi dọc dải đất miền Trung, tiến về Nam Bộ, đến tận mũi Cà Mau. Sự kiện này khẳng định vai trò Thanh Hóa trong công cuộc mở đất.
VII. VĂN HÓA – DANH NHÂN
Thơ:
Dưa ngọt An Tiêm xanh đời,
Trạng Quỳnh cười sấm vang lời dân dã.
Lê Văn Hưu viết sử mở trời,
Đào Duy Từ dựng cơ đồ Nguyễn chúa.
Chú giải:
Thanh Hóa sản sinh nhiều huyền thoại văn hóa: Mai An Tiêm – biểu tượng cần cù; Trạng Quỳnh – biểu tượng trí tuệ dân gian; Lê Văn Hưu – sử thần đầu tiên của Đại Việt; Đào Duy Từ – mưu sĩ thiên tài giúp chúa Nguyễn. Đây là minh chứng đất Thanh không chỉ có anh hùng võ công mà còn giàu trí tuệ, văn hiến.
VIII. NON NƯỚC – ĐỊA LINH
Thơ:
Sông Mã đỏ ngầu máu giặc,
Hàm Rồng soi bóng chiến công.
Biển Sầm Sơn, Bến En thăm thẳm,
Suối Cá thần huyền bí muôn đời.
Chú giải:
Thiên nhiên Thanh Hóa hùng vĩ và giàu huyền thoại. Cầu Hàm Rồng là chứng tích lịch sử trong kháng chiến chống Mỹ. Biển Sầm Sơn nổi tiếng du lịch, rừng Bến En là “Hạ Long trên cạn”, suối cá thần Cẩm Lương kỳ bí. Cảnh quan nơi đây không chỉ đẹp mà còn gắn bó với hồn đất, hồn người.
IX. THANH HÓA HÔM NAY
Thơ:
Đất xưa bốn bận dựng triều,
Hôm nay còn đó bao điều đổi mới.
Dẫu qua đau đớn, phong ba,
Tinh thần Lam Sơn vẫn ngời trong máu Việt.
Chú giải:
Hiện tại, Thanh Hóa đang phát triển mạnh về kinh tế – xã hội, song cũng trải qua nhiều biến động. Tuy vậy, truyền thống kiên cường, tinh thần Lam Sơn bất khuất, văn hóa Đông Sơn rực rỡ, mãi là điểm tựa tinh thần để người Thanh bước vào tương lai.

ĐÀO TẠO NGƯỜI THẦY

Thầy cần học cách dung hòa chướng,
Khéo nói, khôn truyền, hiểu pháp minh.
Ứng xử mềm trong muôn mối rối,
Vừa an thân, lại vững tâm tình.
Khen – thưởng, phạt – răn đều rõ rệt,
Công minh soi sáng nẻo đường ngay.
Dạy trò tự biết điều sai trái,
Phục hồi nhân tính, học làm người.
Giáo dục vốn đâu là chép chữ,
Mà gieo mầm sống, dựng nhân tâm.
Người học trung tâm, thầy điểm tựa,
Triết lý khai nguồn, đạo nghĩa thâm.
Đông phương đạo học hòa Âu Mỹ,
Quản trị, tài năng, vẫn thấm tình.
Kỷ cương vững chãi, nhân văn giữ,
Sáng tạo, lễ nghi – nẻo học hành.
Thầy trò chung lối, cùng nhân ái,
Trách nhiệm vun tròn, mối nghĩa sâu.
Không gian tôn trọng chan hòa mãi,
Ngọn lửa giáo tâm tỏa sáng lâu.

Viết nhân ngày họp lớp Toán Kinh Tế 17 - Khoa Toán Kinh Tế - Trường Đại học kinh tế kế hoạch (1975 - 2025) kỷ niệm 50 năm ngày tựu trường 15/9/2025.

KHÔNG KỲ VỌNG

Chớ mong ai sẽ dìu ta bước,
Cha mẹ, vợ chồng, cũng hữu duyên.
Kỳ vọng càng cao, sầu lặng ngực,
Không mong thì chẳng có ưu phiền.
Mạnh mẽ chính mình là then chốt,
Sức thân vững chãi, bệnh không gần.
Nghèo khó chẳng do đầu óc kém,
Mà vì cảnh ngộ chửa song hành.
Người thất bại thường quên gieo trồng,
Chẳng lo dài hạn, rối tâm hồn.
Bi quan, dễ bị lừa và lợi,
Tự khóa đời trong những lối mòn.
Giữ tâm vững lặng như làn nước,
Chẳng để gian tà quấy sóng lòng.
Người mạnh bình yên khi bão tố,
Kẻ hèn dễ giận, tự long đong.
Tài nguyên thiên hạ đều công cụ,
Dẫu chẳng mang tên vẫn của mình.
Hãy biết vận cho đời hữu ích,
Mở đường chí lớn, sáng tâm linh.
Chuyện chẳng can liên, đừng tranh cãi,
Lý lẽ phàm trần có ích chi.
Ai cũng chỉ lo phần lợi cả,
Khôn ngoan im lặng giữ tâm kỳ.
Ngoài mặt bình an, trong còn nặng,
Lòng sâu gió thổi vẫn mênh mang.
Đời như sóng vỗ, người như lá,
Tĩnh tại mới là sức vững vàng.

Viết nhân ngày họp lớp Toán Kinh Tế 17 - Khoa Toán Kinh Tế - Trường Đại học kinh tế kế hoạch (1975 2025) kỷ niệm 50 năm ngày tựu trường 14/9/2025.

Chủ Nhật, 21 tháng 9, 2025

LANG CHÁNH HUYỆN CHÍ


1. Phân giới
Huyện Lang Chánh, phía tây tỉnh Thanh Hóa. Đông giáp Ngọc Lặc, tây giáp Ai Lao (Sầm Tớ, Lào), nam giáp Thường Xuân, bắc giáp Cẩm Thủy. Huyện lỵ đặt tại thị trấn Lang Chánh. Đường thủy có sông Âm chảy dọc, đường bộ có quốc lộ 15A xuyên qua.
2. Sơn xuyên
• Núi: Pù Rinh (tức Chí Linh, còn gọi Linh Sơn, Bù Rinh), cao nhất huyện, xưa là căn cứ Lam Sơn. Ngoài ra còn núi Biều Doanh, núi Tén Tằn, dãy Pù Huống.
• Sông: Âm (còn gọi Nậm Pít, sông Um), chảy từ Lào vào, hợp lưu với sông Chu; sông Cảy, sông Sạo, nhiều phụ lưu nhỏ.
• Thác: Ma Hao (Trí Nang), cao hơn trăm trượng, cảnh trí hùng vĩ.
3. Thổ sản
• Lâm sản: rừng nhiều gỗ quý (lim, lát, sến, táu), song mây, tre luồng. Luồng Lang Chánh nổi tiếng cả nước, từng gọi “vua luồng”.
• Quế: trồng nhiều ở Biều Doanh, thơm cay, từng cống nạp triều đình.
• Thổ sản khác: măng, nứa, mật ong rừng, thảo dược (sa nhân, hà thủ ô).
• Khoáng sản: có mỏ đá vôi, quặng sắt, đồng, vàng sa khoáng nhỏ.
• Nông nghiệp: lúa nước dọc sông Âm, lúa nương trên sườn núi; ngô, sắn, khoai; chăn nuôi trâu bò, lợn gà.
4. Phong tục
Dân cư chủ yếu Thái, Mường, Kinh. Nhà sàn phổ biến. Người Thái có lễ hội Chá Mùn, Chá Một, tục uống rượu cần, khặp đối đáp. Người Mường có Pồn Pôông, điệu Xường. Cưới xin theo tục gà trầu, tang ma giữ quan tài trong nhà nhiều ngày. Tục ngữ rằng:
“Luồng châu Lang đổi vàng đổi bạc.”
5. Học hành
Xưa thuộc châu thổ Lang Chính, thổ tù cai quản, chưa có Nho học phát triển. Đời sau, khi nhập vào huyện Thọ Xuân rồi phục lập, có mở trường lớp, nay đã có đủ phổ thông.
6. Nhân vật
• Lê Lai (xã Kiên Thọ xưa, nay thuộc vùng giáp Lang Chánh – Thọ Xuân), liều mình cứu chúa tại núi Chí Linh, danh tướng Lam Sơn.
• Nguyễn Mộng Tuân, Lý Tử Tấn: từng đề vịnh núi Chí Linh.
• Các thổ tù họ Lê đời đời cai quản châu Lang Chính, nhiều người theo Lê Lợi khởi nghĩa.
• Gần đây có các nhà hoạt động cách mạng địa phương tham gia kháng chiến chống Pháp, Mỹ (cần kể rõ tên cụ thể theo tài liệu huyện).
7. Thắng tích
• Núi Chí Linh (Pù Rinh): căn cứ Lam Sơn, di tích quốc gia đặc biệt.
• Thác Ma Hao (Trí Nang): danh thắng nổi tiếng.
• Đền Lê Lợi tại Trí Nang, nhân dân hương khói.
• Chùa Mèo (Quang Hiến): có chuông đồng niên hiệu Vĩnh Thịnh 1718.
8. Phẩm vật
• Luồng Lang Chánh dùng làm vật liệu xây dựng, tiểu thủ công, hàng xuất khẩu.
• Quế thơm Biều Doanh, hương vị đậm, nổi tiếng từ xưa.
• Rượu cần, cơm lam, cá nướng lá bưởi, nặm pịa là đặc sản ẩm thực.
9. Kết
Lang Chánh là miền sơn cước hiểm yếu, giàu tài nguyên rừng núi, nổi tiếng luồng và quế, phong tục đậm đà Thái – Mường. Trong lịch sử, núi Chí Linh gắn với nghiệp lớn Lam Sơn, Lê Lai cứu chúa để lại thiên thu sử sách. Nay vẫn là đất biên viễn quan trọng, giữ vị trí đặc biệt ở miền thượng du xứ Thanh.