XIN CHÀO VÀ CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ ĐẾN VỚI BLOGSPOT.COM CỦA LUU VAN CHUONG

Thứ Bảy, 14 tháng 12, 2024

VỀ MIỀN BÁO BỒNG “ĐỊA LINH NHÂN KIỆT”

 

         Báo Bồng là vùng đất cổ, bởi Báo Bồng nằm giữa khu vực sinh sống của con người thuộc văn hóa Đa Bút (làng Đa Bút), di chỉ Rú Hến (làng Kênh Thủy), di chỉ Cồn Cổ Ngựa thuộc xã Hà Lĩnh, huyện Hà Trung.

       Xưa kia, khi các chân sào chống thuyền trên dòng sông Mã, vượt qua ngã Ba Bông(1), trai đò cất tiếng hò: Thuyền đà vượt ngã Ba Bông/ Đến đây là đất Báo Bồng em ơi. Trai đò báo cho khách trong thuyền biết thuyền đã đến miền Báo Bồng.

       Đất Báo Bồng ngày xưa chỉ có hai làng là Biện Thượng và Biện Hạ. Ngày nay đất Báo Bồng gồm các làng Bồng Thượng (xã Vĩnh Hùng), làng Bồng Trung, Bồng Hạ, Bồng Thôn, làng Mai và làng Vực (xã Minh Tân) thuộc huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Đường đến miền Báo Bồng hôm nay rất thuận tiện bằng cả đường sông và đường bộ. Nếu đi từ thành phố Thanh Hóa, ngược quốc lộ 45 đến thị trấn Quán Lào 26 cây số, rẽ phải 7 cây số, qua cầu Yên Hoành gặp đất Báo Bồng. Hoặc từ quốc lộ 1A (ở khu vực Đò Lèn) ngược quốc lộ 217 (Đò Lèn - Na Mèo) khoảng mươi lăm cây số là đến Báo Bồng. Miền Báo Bồng cách Thành nhà Hồ 14 cây số.

       Làng Bồng Thượng và làng Bồng Trung trước kia là một đơn vị hành chính có tên là sách Biện Đà rồi hương Biện Thượng, xã Biện Thượng, rồi làng Biện Thượng. Vào năm 1510, dưới triều Hồng Thuận thứ 2, đời vua Lê Tương Dực, dân cư ở phía Đông làng Biện Thượng đủ thành lập một làng riêng. Các cụ trong làng xin được thành lập làng lấy tên là Đông Biện - làng nằm ở phía đông làng Biện Thượng. Cuối thế kỷ XIX vì kiêng chữ Biện húy của vua Đồng Khánh và chúa nào đó nên làng Biện Thượng đổi thành là Bồng Thượng, làng Đông Biện đổi là Bồng Trung, làng Biện Hạ đổi là Bồng Hạ.

       Làng Biện Thượng còn có tên gọi làng Báo. Hiện chưa tìm thấy sách vở ghi về đơn vị hành chính làng Báo, mà chỉ được lưu truyền, để làng Báo vẫn còn mãi với cư dân làng Bồng Thượng, với người dân trong vùng. Những tên núi, tên sông, chùa chiền vẫn được gọi theo tên làng Báo, đó là núi Hùng Lĩnh gọi là núi Báo, rồi bến Đò Báo, chùa Báo, Phủ Báo.

       Đặc biệt, tên làng Báo đã đi vào thành ngữ, thi ca lưu truyền trong Nhân dân. Nói về cảnh đẹp, cảnh nhộn nhịp của Báo Bồng ca dao có câu:

Nhác trông phong cảnh vui thay

Báo Bồng có phải chốn này hay không

       Xưa kia, điều kiện sản xuất nông nghiệp ở làng Báo vô cùng khó khăn, vất vả. Rồi khu vực Bồng Báo ba bề đều núi cao bao bọc, do đó thời tiết ở đây cũng khác thường được phản ánh qua tục ngữ, thành ngữ:

- Ăn cơm làng Báo tháo xương hông

- Mưa từ trong Nghệ mưa ra

- Mưa khắp thiên hạ mưa qua Báo Bồng

       Nói về Báo Bồng quê hương Chúa Trịnh và đất Báo Bồng lắm người học hành đỗ đạt cao và làm quan.

- Ngựa xe về Bồng Báo

- Bồng Báo là đất quý hương

Ai về Bồng Báo kéo dây cương ngựa thờ.

       Trong truyện thơ Quan Âm Thị Kính, trong đó có câu “Ngựa bất kham thôi phó về Bồng Báo”. Câu thơ nói đến đất Bồng Báo giỏi dạy người xấu thành người tốt.

        Làng Bồng Thượng, Bồng Trung, Bồng Hạ, trước làng có dòng sông Mã chảy qua, sau làng có dãy núi Mông Cù có đỉnh cao 374m. Phía đông có dãy núi Biện Lĩnh (gọi theo làng là núi Bền), phía Tây có dãy núi Hùng Lĩnh (gọi theo làng là núi Báo). Sách Đại Nam nhất thống chí triều Nguyễn viết: “Mạch núi từ phía đông núi Hùng Lĩnh, theo ven sông Mã bỏ xuống, nổi vọt lên 29 ngọn, đứng xa mà trông hiện ra nhiều hình tàn lộng, như lâu đài, như cờ quạt, như voi, ngựa, như gấm hoa, như bình phong, khi râm, khi nắng, buổi sáng, buổi chiều khí sắc luôn thay đổi”. Nhà sử họ Phan Huy Chú viết về tỉnh Thanh Hóa “vẻ non sông tốt tươi chung đúc nên sinh ra nhiều bậc vương tướng, khí tinh hoa tụ họp lại nảy sinh ra nhiều bậc vương tướng, khí tinh hoa tụ họp lại nảy ra nhiều văn nho.... Bởi vì đất thiêng thì người giỏi nên nảy ra những bậc phi thường, vương khí chung đúc nên xứng đáng đứng đầu cả nước”. Đất Báo Bồng là một miền đất thiêng.

       Theo cuốn “Gia phả dòng họ Trịnh Kỷ và Trịnh Tư phụ tập” biên soạn vào đời Gia Long thứ 2 (1803), được Nghiêm Thành Sâm và Nguyễn Hữu Sáng - người xã Quảng Giao, huyện Quảng Xương phụ sao, hiện lưu giữ tại Thư viện tỉnh Thanh Hóa, nhà Hán học Bùi Xuân Vỹ dịch, nội dung cuốn gia phả có đoạn: “Tổ bốn đời của ông Trịnh Kiểm là ông Trịnh Liễu vốn người làng Sáo Sơn (nay là Sóc Sơn). Ông Trịnh Liễu lúc bé cha mất sớm, nhà nghèo nhưng vẫn ham học.

       Lớn lên ông lấy cày cấy, chăn nuôi làm nghề sinh sống. Tính tình nhân hậu lại hay thương người. Ông Trịnh Liễu được một thầy địa lý ở xứ Chỏng nún (núi Nang Lợn) có một ngôi đất quý để mộ ở đấy bốn đời sau có thể làm nên vương nghiệp. Thầy địa lý còn hướng dẫn ông Liễu đi về phía đông núi Hùng Lĩnh, đến Ngõ Thẳng làng Biện Thượng, thầy địa lý nói: “chỗ này có thể lập được một dương cơ tốt”. Ông Liễu y theo thầy địa lý đã đi lấy hài cốt của bố mẹ đem chôn cất ở nơi được chỉ dẫn. Sau đó, ông Liễu lấy con gái ông Tú họ Hoàng làng Biện Thượng, rồi dời nhà về Ngõ thẳng ở. Ông Trịnh Liễu đã sinh ra ông Trịnh Lan. Ông Trịnh Lan sinh ra ông Trịnh Lâu. Ông Trịnh Lâu lấy con gái người họ Hoàng ở thôn Hổ, làng Vệ Quốc, huyện Yên Định sinh ra Trịnh Kiểm.

       Trịnh Kiểm lớn lên là người rất thông minh, can đảm và mưu lược hơn người. Bấy giờ, nhà Mạc cướp ngôi nhà Hậu Lê, Nguyễn Kim là người quê ở Gia Miêu (nay thuộc xã Hà Long, huyện Hà Trung) là An thành hầu dưới triều Lê Sơ dựng cờ khởi nghĩa tái lập nhà Lê. Trịnh Kiểm đầu quân làm gia tướng theo Nguyễn Kim. Nguyễn Kim mến tài đem con gái Ngọc Bảo gả cho Trịnh Kiểm.

       Năm 1533, Nguyễn Kim sai Trịnh Kiểm đem quân sang Ai Lao đón Lê Duy Ninh về lập làm vua (tức vua Lê Trang Tông). Vua thấy Trịnh Kiểm tướng mạo khác thường, bèn phong cho làm Đại tướng quân, lúc đó Trịnh Kiểm mới 37 tuổi.

       Năm 1545, Nguyễn Kim bị hàng tướng nhà Mạc đánh thuốc độc chết, binh quyền về tay Trịnh Kiểm và Trịnh Kiểm được vua Lê gia phong làm Thái sư Lượng Quốc Công, đứng đầu trăm quan cùng lo việc nước.

       Năm Bính Ngọ (1546), Trịnh Kiểm rút quân về Thanh Hóa, lập hành điện ở sách Vạn Lại (nay thuộc xã Xuân Châu, huyện Thọ Xuân) để cho vua ở và dựng hành dinh ở Ngõ Thẳng làng Biện Thượng (nay thuộc xã Vĩnh Hùng, huyện Vĩnh Lộc), tức phủ Trịnh.

       Từ khi lên nắm quyền bính, Trịnh Kiểm ra sức củng cố lực lượng, thu hút nhiều nhân tài, nên Nam triều ngày càng mạnh lên, họ Trịnh cai quản vùng phía nam của Đại Việt (trên danh nghĩa vẫn là dưới quyền vua Lê) và chiến đấu với nhà Mạc ở phía bắc (Bắc Triều). Bấy giờ, nhà Lê chiếm được Thanh Hóa và Nghệ An. Nhờ có khẩu hiệu “Phù Lê - Diệt Mạc”, thanh thế họ Trịnh ngày một lớn.

       Năm 1556, vua Lê Trang Tông mất sớm, không có con nối dõi, Trịnh Kiểm bèn đi tìm được người trong tôn thất nhà Lê là Lê Duy Bang lập làm vua, tức là Lê Anh Tông. Từ đó, họ Trịnh vốn đời cầm quyền nhưng danh nghĩa vẫn tôn phò làm bề tôi cho nhà Lê, hai họ sống chung trong cơ chế “lưỡng đầu” suốt trên 240 năm, đất nước không có ngoại bang xâm lược.

       Ngay trong khói lửa chiến tranh, Trịnh Kiểm vẫn chăm lo tới công việc triều chính. Ông đã cho đo đạc ruộng đất, lập chế độ thuế khóa, chú ý tới phát triển nông nghiệp. Trên lĩnh vực giáo dục khoa bảng, Trịnh Kiểm đã mở khoa thi Sĩ vọng, mở các kỳ thi Hương… để chọn lựa hiền tài cho đất nước. Ông còn chú trọng mở rộng bang giao với Ai Lao để giữ yên mặt phía tây. Với những cống hiến của Trịnh Kiểm cho Vương triều Lê và trong công cuộc xây dựng đất nước, vua Lê Anh Tông đã gia phong cho ông chức Thượng tướng Thái Quốc công và tôn là Thượng Phụ.

       Trịnh Kiểm mất ngày 18/02 Âm lịch năm Canh Ngọ (1570) được truy tôn là Minh Khang Thái Vương. 25 năm giữ binh quyền, đức Minh Khang Thái Vương Trịnh Kiểm có công lao rất lớn, là rường cột tạo dựng triều Lê Trung Hưng và là người mở đầu sự nghiệp nắm quyền của các Chúa Trịnh, đó là: Trịnh Tùng (1570 - 1623), Trịnh Tráng (1623 - 1657), Trịnh Tạc (1657 - 1682), Trịnh Căn (1682 - 1709), Trịnh Cương (1709 - 1729), Trịnh Giang (1729 - 1740), Trịnh Doanh (1740 - 1767), Trịnh Sâm (1767 - 1782), Trịnh Cán (1782), Trịnh Khải (1782 - 1786), Trịnh Bồng (1786 - 1787).

       Như phần trên đã nói, vào năm 1546, Trịnh Kiểm rút quân về Thanh Hóa và lập hành điện ở Vạn Lại để vua Lê ở; đồng thời lập hành dinh ở Biện Thượng, gọi là phủ Liêu. Phủ Liêu là cả một hệ thống cung điện, đền đài khá hoàn chỉnh làm nơi thờ tự tiên tổ, nơi ăn ở và làm việc của nhà Trịnh trong công cuộc “Phù Lê diệt Mạc”.

       Tháng Chạp năm 1592, nhà Mạc cơ bản bị diệt, cuộc nội chiến Nam - Bắc triều chấm dứt. Tháng 4 năm 1593, chúa Trịnh Tùng rước vua Lê từ Thanh Hóa ra Thăng Long ngự ở chính điện. Năm 1599, chúa Trịnh Tùng lập ra phủ Chúa ở Thăng Long làm nơi ở và làm việc của chúa Trịnh. Lúc bấy giờ ở Biện Thượng và Thăng Long vẫn có sự giao lưu thường xuyên. Không một đời chúa nào mà không có một lần về bái yết tôn lăng hoặc lưu lại Biện Thượng trong khi đi tuần trong kinh lý trấn Thanh Hoa. Không một quan đại thần nào mà không có một lần về chiêm ngưỡng quê hương đất tổ nhà Trịnh. Chính những sự đi lại tấp nập mà người xưa có câu “Ngựa xe về Bồng Báo”.

       Trải qua các cuộc binh đao và thời gian mưa nắng, phủ nhà Trịnh ở Biện Thượng chỉ còn lại một ngôi nhà cổ 7 gian, xây gạch vồ, lợp ngói mũi, làm toàn bằng gỗ lim, cột to. Năm 1995, ngôi nhà Phủ Trịnh được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng Di tích lịch sử cấp quốc gia. Năm 2015, Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa đã phê duyệt dự án đầu tư xây dựng công trình bảo tồn, tu bổ, tôn tạo khu Phủ Trịnh nhằm mục đích phát huy giá trị di tích, góp phần tôn vinh công lao to lớn của các chúa Trịnh trong sự nghiệp trung hưng nhà Lê. Từ đó công việc xây dựng, tu bổ, tôn tạo khu di tích Phủ Trịnh đã và đang được tiến hành.

       Năm 2019, Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa có quyết định phê duyệt quy hoạch chi tiết xây dựng khu di tích Phủ Trịnh, xã Vĩnh Hùng, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa với mục tiêu xây dựng khu di tích Phủ Trịnh thành điểm đến của du lịch Thanh Hóa nói riêng, Việt Nam nói chung, góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế địa phương. Quyết định nêu rõ tính chất, chức năng khu di tích lịch sử quốc gia Phủ Trịnh gắn liền với điểm tham quan, du lịch quan trọng của tỉnh Thanh Hóa.

       Quy mô quy hoạch khu di tích Phủ Trịnh có tổng diện tích là 16,36ha. Trong đó khu vực di tích bao gồm: Khu phủ từ gồm các hạng mục: Nhà tiền điện, nhà Hậu điện, cổng, nhà tả mạc, sân, vườn, cảnh quan… Khu trưng bày, Vườn Thượng Uyển gồm có 11 gian: Lầu ngắm cảnh, khu trưng bày thú trên đá, hồ nước, các loại cây hoa, cây cảnh. Khu lễ hội có các hạng mục: Nhà bia, cổng Nam, cổng tây, lầu ngâm thơ trên hồ nước, sân vườn, cảnh quan… Khu cảnh quan phía ngoài đê có khu cây xanh, có bến thuyền sông Mã và đường giao thông để khách đi bằng đường thủy về thăm Phủ Trịnh.

       Về thăm khu di tích Phủ Trịnh, du khách đến thăm một số di tích lịch sử liên quan đến nhà Trịnh đã được xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia, đó là: Nghè vẹt, Nhà thờ họ Hoàng Đình (làng Bồng Thượng), mộ tổ 5 đời của Thái vương Trịnh Kiểm, lăng mộ Thành tổ Triết vương Trịnh Tùng (làng Sóc Sơn)…

       Nghè Vẹt là một công trình kiến trúc quy mô rất lớn, gồm có: Nhà tiền đường 11 gian, trung đường 11 gian và hậu cung. Nhà làm toàn bằng gỗ lim, cột to, mái lợp ngói mũi. Dãy cột cái phía sau nhà tiền đường, mỗi cây cột bài trí một chim Vẹt gỗ và một tượng phỗng gỗ (quan hầu) tất cả đều chầu vào gian giữa. Ở hai cột quân phía sau nhà tiền đường có đặt đôi Ngựa hồng cũng chầu vào gian giữa. (Đầu năm 70 của thế kỷ XX, địa phương hạ giải 8 gian cả dãy nhà trung đường, hiện còn 3 gian). Nghè Vẹt đã được trùng tu tôn tạo khang trang.

       Nghè Vẹt là nơi thờ Thành hoàng làng Biện Thượng. Thần họ Trịnh tên húy là Gia, người đất Thiên Vực, lộ Vĩnh Ninh (nay là Thọ Vực, huyện Vĩnh Lộc). Vào niên hiệu Hàm Thông, đời vua Đường Ý Tông (Trung Quốc), vua sai Cao Biền đem quân đánh giặc, Trịnh Gia theo giúp được làm quản gia và trở nên giàu có. Ông rất thương người nghèo đói, thường đem của chu cấp cho Nhân dân trong cả huyện. Sau bị người ở xã Vĩnh Thành (nay thuộc thị trấn Vĩnh Lộc) hiềm thù giết chết rồi bỏ xác xuống sông. Cao Biền bèn làm lễ chôn cất. Từ đó về sau, dân ở ven sông Vĩnh Ninh (Vĩnh Lộc) và một số nơi khác lập đền thờ. Trên đất Thanh Hóa có 72 nơi thờ Trịnh Gia, riêng huyện Vĩnh Lộc có 28 nơi thờ. Kỵ thần vào ngày 14/11 âm lịch.

       Nhà thờ họ Hoàng Đình là nơi thờ Thái tử Vinh Quốc công Hoàng Đình Ái - danh tướng thời Lê Trung Hưng. Hoàng Đình Ái sinh năm 1527, quê ở Biện Thượng. Từ nhỏ Hoàng Đình Ái đã theo nghiệp võ, lớn lên ông đầu quân giúp nhà Lê Trung Hưng, làm quan trải 4 triều: Trung Tông (1549-1556), Anh Tông (1557-1573), Thế Tông (1573-1600), Kính Tông (1600-1619), “một đời công thần ở ngôi vị tướng văn, tướng võ, công danh bao trùm thiên hạ, sự nghiệp rải khắp biên thùy”. Ông mất năm 1608, hưởng thọ 81 tuổi, triều đình truy tặng Bình Chương sự, Nhã Đô Mậu nghĩa công, ban tên thụy là Hậu Đức. Vua sai Đông các đại học sĩ Ngô Chí Hòa soạn văn bia để ghi công. Lời minh trong văn bia ghi: “Non sông nước Nam/ Giữa tin Nhật nguyệt/ Tướng công chung nghĩa/ Đứng giữa đất Việt/ Thư khoán nhà Hán/ Cờ quạt nhà Chu/ Hoàn nghiệp tướng công/ Rạng danh muôn thuở/ Hòe quế đầy sân/ Lan chi đầy thềm/ Con cháu tướng công/ Trăm đời hiển đạt”.

       Từ Bồng Thượng khách du lịch lên làng Sóc Sơn (cùng xã Vĩnh Hùng) thăm viếng mộ tổ 5 đời Thái sư Trịnh Kiểm là Tuy nhân vương Trịnh Kỷ, cùng phu nhân họ Lê, húy là An Nhân. Khu mộ nằm ở nanh lợn thuộc khu vực Chổng Nun. Truyền lại đây là nơi đất quý được thầy địa lý mách bảo, Trịnh Liễu đưa hài cốt bố mẹ chôn cất tại đây, về sau đến đời Trịnh Kiểm đã làm nên vương nghiệp.

       Ở làng Sóc Sơn còn có khu lăng mộ chúa Trịnh Tùng, con thứ của Trịnh Kiểm, nằm trên khu đất cao bên cạnh hón thác (suối), quanh năm có nước chảy ra sông Mã. Trịnh Tùng có 53 năm nắm giữ binh quyền và phục triều 4 triều vua Lê: Anh Tông, Thế Tông, Kính Tông, Thần Tông, đất nước hai mặt Nam - Bắc đều yên ổn. Trịnh Tùng mất năm 1623, hưởng thọ 74 tuổi. Triều đình nhà Lê tôn phong Miếu hiệu là Thành tổ Triết Vương. Khu lăng mộ Trịnh Tùng được tu bổ, tôn tạo từ năm 2012 trên diện tích 11.000m2. Công trình gồm: Lăng mộ, nhà bia, cổng tứ trụ, hậu chẩm, tượng chầu, sân, hồ bán nguyệt, cây xanh…

       Đất Báo Bồng còn là đất học hành, khoa bảng và tinh thần yêu nước, ý chí chống xâm lược. Trong thời kỳ phong kiến, nơi đây có nhiều người đỗ đạt cao, đứng đầu là Trịnh Tuệ, người làng Biện Thượng có Trịnh Khắc Tuy đỗ Tiến sĩ năm 1685, Trịnh Kiên đỗ Tiến sĩ năm 1448… Ở làng Đông Biện có Đỗ Thiện Chính đỗ Hoàng giáp năm 1659, Tống Duy Tân đỗ Tiến sĩ năm 1875, Đỗ Thiện Kế đỗ Phó bảng năm 1875. Dưới triều Nguyễn, làng Đông Biện có 27 người đỗ Cử nhân và có người đỗ Tú tài (cả huyện Vĩnh Lộc dưới triều Nguyễn có 42 người đỗ Cử nhân). Người đương thời ca ngợi, “Nghệ Đông Thành, Thanh Đông Biện”, nói về đất Đông Thành thuộc huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An và đất Đông Biện tỉnh Thanh Hóa có nhiều người học hành, đỗ đạt cao.

       Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, nước Việt Nam ra đời, người Bồng Báo vẫn phát huy truyền thống đất học, trẻ em lớn lên đều đi học, nhiều người có trình độ đại học. Đến nay có 25 người có học vị Tiến sĩ, trong đó làng Bồng Trung có 15 Tiến sĩ. Năm 2018, em Hoàng Minh Trung - làng Bồng Trung đạt Huy chương Vàng môn Sinh học tại kỳ thi Olympic Sinh học quốc tế. Năm 2019, em lại tiếp tục đạt Huy chương Bạc với môn học này.

       Về tinh thần yêu nước chống xâm lược, trong phong trào chống Pháp cuối thế kỷ XIX, làng Đông Biện có Lê Văn Điếm - một dũng tướng không sợ hy sinh, quyết chiến đấu với giặc đến hơi thở cuối cùng và Tiến sĩ Tống Duy Tân là lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Hùng Lĩnh chống thực dân Pháp (1886 - 1892).

       Lê Văn Điếm sinh năm 1850, là người có sức khỏe khác thường, lớn lên ông đi lính và được tuyển vào trường võ bị trong quân đội nhà Nguyễn. Sau thời gian học tập, ông tỏ ra là một võ sinh xuất sắc được tuyển đi thi võ. Kết quả ông đã đậu Phó bảng võ (kém Tiến sĩ một bậc). Sau khi trúng tuyển, ông được phục vụ dưới quyền của ông Ích Khiêm - vị quan lớn của triều Nguyễn. Ông được giữ chức Đề đốc hộ thành Nam Định (chỉ huy quân đội trong một tỉnh). Năm 1883, quân Pháp mở rộng xâm lược Bắc Kỳ lần thứ 2. Sau khi đánh chiếm thành Hà Nội, chúng kéo quân đánh chiếm thành Nam Định. Về tương quan lực lượng, quân Pháp mạnh hơn ta rất nhiều. Về phía ta, quân số đã ít, vũ khí lại thô sơ. Trước tình hình đó, Tổng đốc tỉnh Nam Định Vũ Trọng Bình rất hoảng hốt phải bỏ chạy, Án sát Hồ Bá Ơn bị thương. Quân Pháp tấn công mạnh, nhưng Đô đốc Lê Văn Điểm vẫn kiên cường đốc quân chống trả quyết liệt. Quân địch càng tăng cường hỏa lực. Cuộc chiến đấu diễn ra rất ác liệt. Lê Văn Điếm và binh sĩ vẫn kiên cường chống trả đến phút chót. Cuối cùng, ông bị đạn bắn thủng ruột rồi hi sinh vào ngày 27 tháng 3 năm 1883 (19 tháng 2 năm Quý Mùi).

       Sau khi Lê Văn Điếm qua đời, Nhân dân rất lấy làm thương tiếc, triều đình nhà Nguyễn đã truy phong tước cho ông và bố mẹ ông.

       Khu lăng mộ Đề đốc Lê Văn Điếm nằm cạnh quốc lộ 217, thuộc địa phận làng Bồng Trung (xã Minh Tân). Lăng mộ được tôn tạo năm 2010 bằng vật liệu đá xanh, kiến trúc theo kiểu lăng mộ của các Quận công trước đây. Tổng diện tích lăng mộ là 300m2, riêng phần khuôn viên lăng mộ là 150m2. Khu lăng mộ có giá trị về lịch sử, về nghệ thuật điêu khắc và mỹ thuật đương đại được thể hiện ở các mảng đề tài trang trí khá phong phú như: Chạm hình chim phượng, hoa lá cách điệu, hoa văn sóng nước, tùng, trúc, cúc, mai…

       Tống Duy Tân sinh năm 1838, ông thi đỗ Cử nhân năm 1870, đến năm 1875 ông đỗ Tiến sĩ, được bổ làm Tri phủ Vĩnh Tường (Vĩnh Phúc). Về sau, ông được thăng lên chức Thừa biện Bộ Hình. Ông là một vị quan nghiêm minh xét xử công bằng, được Nhân dân trong vùng mến phục.

       Do không đồng tình thái độ của triều đình nhà Nguyễn với thực dân Pháp, Tống Duy Tân cáo quan về quê dạy học, mượn cớ về để tang mẹ mới tạ thế. Tại quê nhà, ông vừa dạy học, vừa bí mật chuẩn bị lực lượng chống thực dân Pháp. Khi Tôn Thất Thuyết còn làm Tổng đốc Thanh Hóa, nể lời mời, Tống Duy Tân nhận chức Đốc học Thanh Hóa, sau làm Thượng Biện tỉnh vụ, rồi làm Chánh sứ Sơn phòng.

       Năm 1885, hưởng ứng chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi, Tống Duy Tân đã kịp thời vận động Nhân dân xây dựng lực lượng, “sức đi các phủ, huyện lấy hương binh ra đầu quân” làm cuộc khởi nghĩa chống Pháp mang tên Hùng Lĩnh (Hùng Lĩnh là một ngọn núi ở làng Bồng Thượng, dân làng gọi là núi Báo). Tại quê nhà được Nhân dân đồng tình ủng hộ, trong đó có một số người ở quê tham gia trong bộ chỉ huy cuộc khởi nghĩa như Nguyễn Sự Chí (làng Bồng Trung), Lê Văn Dơi (làng Bồng Thượng), Trịnh Văn Khôi (làng Bản Thủy - quê vợ Tống Duy Tân). Nghĩa quân dựa vào dãy núi Mông Cù, làng Đa Bút làm chiến khu. Sau này, Tống Duy Tân đã tổ chức xây dựng căn cứ Bồng Trung - Đa Bút để đánh trả các cuộc tấn công của quân Pháp. Cứ điểm Bồng Trung - Đa Bút trở thành một trong những trung tâm của phong trào khởi nghĩa của Nhân dân Thanh Hóa. Thực dân Pháp đã tức tốc mang quân tới đánh phá hòng tiêu diệt nghĩa quân.

       Trong hai trận đánh liên tiếp, ngày 8 tháng 11 và ngày 22 tháng 12 năm 1885, khi quân Pháp từ tỉnh lỵ Thanh Hóa đi bằng xuồng máy ngược dòng sông Mã lên đánh phá chiến khu đã bị nghĩa quân tiêu diệt nhiều tên bị thương. Đến đầu năm 1886 nghĩa quân Hùng Lĩnh trên bước đường trưởng thành đã phối hợp chiến đấu với nhiều đội nghĩa quân khác trong tỉnh. Nhưng từ sau khi cứ điểm Ba Đình bị triệt hạ (01 - 1887), phong trào đấu tranh của Nhân dân Thanh Hóa đứng trước những khó khăn lớn. Sau những cuộc đàn áp đẫm máu của địch, lực lượng nghĩa quân bị suy giảm, một số lãnh tụ hi sinh trong chiến đấu hay bị sa vào tay giặc. Trong tình thế đó, Tống Duy Tân không thể duy trì toán quân nhỏ của mình để đương đầu với địch, mà phải tìm mọi cách tăng cường lực lượng, chắp nối với các phong trào ở hai miền Trung, Bắc. Nhằm mục đích ấy, nghĩa quân Hùng Lĩnh tạm phân tán, còn Tống Duy Tân tìm đường ra Bắc vận động văn thân và Nhân dân ủng hộ phong trào đấu tranh của Thanh Hóa.

       Bước vào các năm (1889 - 1890), nghĩa quân Hùng Lĩnh được phục hồi và phát triển. Dưới sự chỉ huy của Tống Duy Tân và Cao Bá Điển, nghĩa quân Hùng Lĩnh đã lập được nhiều chiến công trong các trận đánh ở Vân Đồn, núi Mưng (Nông Cống), Yên Lãng (Thọ Xuân)… Nhưng suốt trong hai năm 1891 - 1892, nghĩa quân Hùng Lĩnh phải chiến đấu lưu động trên một địa bàn rộng lớn từ các huyện miền xuôi lên các huyện miền núi Thanh Hóa, trong tình thế bị địch bao vây o ép ráo riết, lực lượng chiến đấu bị giảm sút, vũ khí và binh lương ngày càng hao hụt. Tống Duy Tân và Cao Bá Điển bàn với các tướng lĩnh tạm thời phân tán về các địa phương, vũ khí, binh lương phần lớn chuyển giao cho Cầm Bá Thước, Tống Duy Tân dẫn một toán quân nhỏ về ẩn ở hang Dong thuộc huyện Bá Thước, sau đó lại tìm cách gây dựng lại phong trào. Nhưng Pháp đã đem quân vây bắt được Tống Duy Tân và kết án tử hình ông vào ngày 5 tháng 10 năm 1892 tại Thanh Hóa. Tấm lòng yêu nước cao cả và cái chết vẻ vang vì nước, vì Nhân dân của Tống Duy Tân sống mãi với quê hương đất nước. Năm 1920, Nguyễn Ái Quốc - tức Chủ tịch Hồ Chí Minh, khi đang hoạt động ở nước Pháp đánh giá: “Tống Duy Tân là một nhà đại trí thức, đấu tranh dũng cảm chống bọn xâm lược Pháp” và Người khẳng định: “Tôi tôn kính tất cả những Tống Duy Tân… cái chết của họ làm cho Tổ quốc họ sống lại, lòng can đảm của họ bất diệt”.

       Lăng mộ Tống Duy Tân hiện đang nằm trong khuôn viên trường học mang tên ông, đó là Trường THPT Tống Duy Tân ở làng Bồng Trung.

       Truyền thống yêu nước của Nhân dân Bồng Báo được phát huy “Trong 30 năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ (1945 - 1975), Nhân dân cả 3 xã miền Bồng Báo đều có thành tích xuất sắc về đóng góp sức người, sức của cho các cuộc kháng chiến của Nhân dân ta giành thắng lợi. Đặc biệt, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, xã Vĩnh Ninh và xã Vĩnh Tân đều được tặng thưởng Huân chương kháng chiến về thành tích tòng quân chi viện; xã Vĩnh Hùng được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Nhì về thành tích tòng quân chi viện cho tiền tuyến.

       Ở các xã miền Bồng Báo còn nhiều di tích lịch sử được xếp hạng, được gìn giữ và phát huy giá trị, là điểm đến thăm quan của khách du lịch, đó là khu tượng đá Đa Bút, chùa Đa Bút, chùa Bền, nghè Cung, đình Bồng Trung, đình Bồng Hạ, đình Bồng Thôn, đình làng Vực, chùa và Phủ Báo và từ đường (nhà thờ) các dòng họ như: họ Trịnh Tất Đạt, họ Đỗ, họ Mai, họ Nguyễn Ngõ Phủ, họ Nguyễn Bá Thân (xã Minh Tân), họ Lê Văn Ngõ Thẳng, họ Lê Đình, họ Hoàng Đình Phùng (xã Vĩnh Hùng).

       Ngoài ra, ở phụ cận miền Báo Bồng có những di tích lịch sử, danh thắng đã được xếp hạng cấp quốc gia, là những điểm du lịch hấp dẫn, như: Bia ký và đền thờ Trịnh Khả (làng Giang Đông, xã Vĩnh Hòa), chùa Hoa Long, đền thờ Thượng tướng quân Trần Khát Chân (xã Vĩnh Thịnh), danh thắng Kim Sơn và chùa Linh Ứng (xã Vĩnh An).

       Các làng xã ở Báo Bồng từ xưa có nhiều phong tục, tập quán và các lễ hội được cả làng tham gia đó là: lễ Thượng Nguyên (rằm tháng Giêng), lễ Kỳ Phúc (lễ cầu phúc), ngày kỵ thần (thành hoàng làng). Ở làng Bồng Thượng có lệ rước bóng ở Phủ Báo (rước kiệu mẫu Liễu Hạnh vãn cảnh ngày Xuân) vào ngày 28 tháng 2 âm lịch, thu hút đông đảo Nhân dân trong vùng tham gia: Câu ca về lễ rước bóng còn truyền mãi đến nay: “Lệ làng 28 tháng 2/ Lệ làng rước bóng gái trai phải lòng/ Mưa xuân cho cỏ rậm đồng/ Cho trai với gái phải lòng thương nhau”. Hiện nay miền Báo Bồng có thêm lễ hội Phủ Trịnh và giỗ Đức Minh Khang Thái vương Trịnh Kiểm vào ngày 18 tháng 2 âm lịch tại làng Bồng Thượng. Đây là lễ hội cấp tỉnh nên đông đảo khách thập phương và con cháu dòng họ Trịnh cả nước về tham dự.

       Về sản vật ở miền Bồng Báo có rất nhiều. Theo sách “Thanh Hóa tỉnh, Vĩnh Lộc huyện chí” của cử nhân Lưu Công Đạo người Châu Hoan (Nghệ An) biên soạn năm Bính Tý, đời vua Gia Long thứ 15 (1816) khi ông giữ chức Huyện Doãn (Tri huyện) huyện Vĩnh Lộc cho biết: Ở Biện Thượng (vùng Bồng Báo) có nhiều sản vật quý như long cốt, nhân sâm, con trai, con ốc, khoai lang Đa Bút… Nhân sâm tức loài sâm củ hao hao hình người, là sản vật quý hiếm, mọc ở núi Hùng Lĩnh, dân làng gọi là núi Báo, do đó nhân sâm ở đây gọi tắt là sâm Báo. Lưu Công Đạo đã viết về nhân sâm như sau: “Nhân sâm là sản vật hiếm ở các núi Biện Thượng, Hùng Lĩnh, tục gọi là Báo sâm, mùi vị ngọt, hơi chua, tính hơi hàn. Tẩm nước gừng đen đồ với gạo nếp, xắt thành từng miếng nhỏ, thời tiết càng nóng uống càng tốt, sách bản thảo chép rằng: Nước Nam có nhiều sâm, chỉ có sâm ở đất Biện công hiệu hơn hẳn các nơi khác. Dùng nhân sâm có nhiều hiệu nghiệm kỳ lạ”(2).. Ngày 09 tháng 12 năm 2019, rượu sâm Báo xã Vĩnh Hùng, huyện Vĩnh Lộc đã được Hội đồng thẩm định tỉnh Thanh Hóa xếp hạng là sản phẩm OCOP cấp tỉnh năm 2019./.

Tác giả: Lê Khắc Tuế

Chi hội Khoa học lịch sử Tây Đô

SƯ MINH TUỆ - BỘ HÀNH VỀ MIỀN ĐẤT PHẬT!

 

PHẦN I. TRÊN ĐẤT NƯỚC AI-LAO

(13.12.2024)

I/ BUỔI SÁNG ĐẦU TIÊN TRÊN ĐẤT AI-LAO

Ông Đoàn Văn Báu: Chiếc xe phía trước là của chị làm ngành Hải Quan tại nước Lào. Chị ấy cũng rất là tế nhị.

Khi chị biết các sư nghỉ ở đây, chị đã chạy quá ra một cây số, chờ các thầy đến, để cúng dường nước uống.

Ngày hôm qua, khi chị nghe nói, thầy chỉ ăn một bữa một ngày, và đang ngồi ngoài rừng, chị ấy đã chạy ra ngoài, lúc đang làm việc, mà ôm mặt, khóc nức nở.

Chúng ta hãy xem người dân đầu tiên của nước sở tại, đảnh lễ sư. Chị ấy lúc này đã bỏ giày ra, đi chân đất và quỳ bên đường. Chị giữ khoảng cách và đảnh lễ rất đẹp.

Tôi đã thấy chị xúc động và rơi nước mắt.

Chị chờ đây lâu chưa chị?

Phật Tử Ai-Lao: Cũng một tí thôi. Ở đây là nước với hạt điều, xin em hãy cầm giúp. Đi trên đường, khi nào cảm thấy… (nghẹn ngào).

Ông Đoàn Văn Báu: Vâng, vâng, em cảm ơn chị.

Phật Tử Ai-Lao: Được gặp, chị mừng lắm.

Ông Đoàn Văn Báu: Người Việt gọi là có duyên.

Phật Tử Ai-Lao: Chị thấy là chị có duyên, chị có phước. Vì chị… (khóc). Chị thấy ông ở trên mạng… (khóc). Cái clip, có người đánh ông đó… (khóc). Chị viết trên trang của chị: Ông là con của ông Phật ở trên trời đó… (khóc).

Thật, nếu mà không phải con của Phật, thì người ta sẽ phản ứng lại… (khóc). Nhưng mà ông thì đã không như thế… (khóc).

II/ CẢM NGHĨ

1. PHẬT TỬ BUỔI SÁNG ĐẦU TIÊN TRÊN NƯỚC AI-LAO

Tôi xem video này từ sáng đến giờ, không biết đã bao lần. Bao lần xem là đủ bao lần tôi xúc động vì hình ảnh của chị Phật Tử nước bạn. Chị thiệt là dễ thương, vừa đẹp người lại đẹp nết.

Tôi không hồ đồ, vội vã, khi ca ngợi chị như thế đâu. Mà chính một loạt các hành vi, thái độ của chị, dù chỉ diễn ra vỏn vẹn trong hai phút, cũng đã quá đủ cho tôi có ấn tượng ban đầu như vậy về chị.

Giá mà tôi có thể được ôm chị, và nói, cảm ơn chị nhiều lắm, ngưỡng mộ chị nhiều lắm, chị thiệt là đáng yêu làm sao. Người đẹp như chị, thiệt hiếm có trên đời.

2. PHÁP DANH CỦA SƯ MINH TUỆ

Nhớ gì, tôi sẽ nhắc đó cùng các bạn. Tôi đã bỏ hàng mấy trăm giờ ra xem tất cả các video về sư, và tôi xin khẳng định, sư đã lặp đi lặp lại không biết bao lần: Minh Tuệ, là Pháp danh, là tự sư lấy tên đó cho mình, và không có họ Thích phía đầu.

Chỉ đơn giản là Minh Tuệ.

Sư cũng nói thêm, sư chưa là thầy của ai cả. Sư chỉ là người xuất gia, bộ hành, khất thực, tu tập theo mười ba hạnh Đầu Đà.

3. Y PHẤN TẢO CỦA SƯ MINH TUỆ

Sư cũng đính chính rất nhiều lần, áo nhiều mảnh mà sư mặc (chớ không phải áo bảy màu, như cá bảy màu, hay như cầu vồng bảy màu), có đủ màu, tùy vào việc nhặt được vải gì trên đường, miễn dày, miễn không hoa hòe, là sư cắt ra miếng vuông vức, giặt sạch và sẽ may, trong những lúc ngồi nghỉ bên đường. Thêm vào đó, việc mặc như vậy, là để không liên lụy đến hình ảnh của chùa chiền, của Giáo Hội, cả Nam Tông và Bắc Tông.

4. NỒI CƠM ĐIỆN CỦA SƯ MINH TUỆ

Nồi Cơm Điện, cũng chỉ là việc rất tình cờ, được sư dùng thay cho bình bát. Với sư, bình bát đẹp quá, không hợp với hạnh tu của sư, lại không bền, phải thay hoài, mà sư thì không có tiền mua, nên sư đã xin cái lõi nồi cơm điện của người ta, ngay từ hôm đầu tiên, sư quyết chí lên đường, tu theo hạnh: ba y, một bát.

5. ĐÔI CHÂN TRẦN CỦA SƯ MINH TUỆ

Trong một buổi phỏng vấn của nhiều năm về trước, khi người phỏng vấn xin được xem hai bàn chân của sư, và họ đã thảng thốt kêu lên, khi nhìn thấy đôi bàn chân sư, phần lồi ra, cháy nám, như có một lớp hắc ín quét lên - đau không sư ơi, thì sư đã cười thật tươi mà rằng, dạ đau chớ, chảy máu, mưng mủ, nhiễm trùng, đủ hết, những năm đầu, nhưng con cố gắng chịu đựng, vì con đi suốt đời, dép không bền đâu, vài tháng là đứt, chẳng lẽ thay hoài, chỉ da thịt con là bền thôi, không phải lo âu đến tiền mua dép.

6. ẤN ĐỘ ĐƯỢC MỆNH DANH LÀ VÙNG ĐẤT PHẬT

Còn nhiều điều về sư nữa, nếu các bạn thắc mắc, chịu khó coi lại các bài chuyển thoại của tôi về sư Minh Tuệ. Tất cả là sự thực, hình ảnh còn đó, lời sư còn đó, xin đừng vô tình hoặc cố ý, hiểu lầm, hiểu sai, làm tổn thương thêm sư, tổn thương cả những người kính trọng, thương yêu sư - một người con Phật, quá hiền lành, không dám giẫm đạp từ con sâu, cái kiến bên đường, không dám làm phiền đến một ai, trong suốt tám năm qua, từ khi trở thành tu sĩ.

Chuyện cuối, tôi muốn chia sẻ ngày hôm nay, có một vài ý kiến, cho rằng: Đất nào là đất Phật? Có đất nào không có Phật đâu? Tu ở đâu mà chẳng được? Sao phải ra xứ người?

Hành trình của sư, sẽ đi qua các nước: Ai Lao, Thái Lan, Miến Điện, và cuối cùng là Ấn Độ.

Miền Đất Phật, là tên gọi bao lâu nay, người ta dùng cho Ấn Độ, vì Đức Phật là hoàng tử của xứ Ấn Độ mấy ngàn năm trước. Người ta cũng gọi Tây Tạng, hay Nepal, hay Miến Điện là vùng đất Phật nữa, vì Phật Giáo vốn là tôn giáo chánh ở các xứ sở này. Thậm chí Cam Bốt, thậm chí Thái Lan, người ta cũng tự hào, nước của người ta là vùng đất Phật luôn.

Vậy thì thay vì viết, Sư Minh Tuệ - Bộ Hành Đến Ấn Độ, được đổi thành, Sư Minh Tuệ - Bộ Hành Về Miền Đất Phật, cũng có sai gì về chánh tả, hay ngữ pháp, hay nội dung của câu đâu.

Xin được tán thán sư Minh Tuệ, tán thán hạnh nguyện của ngài, kính chúc ngài được trọn vẹn thành tựu trên con đường tu tập.

Cảm ơn và mến chúc các bạn đọc an lạc.

Sài Gòn 13.12.2024

Phạm Hiền Mây

Nguồn:

Văn bản trò chuyện, trao đổi trên, được chuyển thoại từ video: Chị làm Hải Quan Lào Đảnh Lễ Sư Minh Tuệ Khi Sư Đi Qua. Phát hành ngày 13.12.2024, trên kênh YouTube Phật Bên Ta.

Thứ Tư, 4 tháng 12, 2024

Thực phẩm, thực vật thần dược của người Việt


Ôi Thần Dược, Mi Hại Ta...

Nhìn chung thì hầu như mọi thứ thực phẩm quanh ta đều được email và webpage người Việt ca tụng là “thần dược’’ trị ung thư và bá bịnh.

Thử điểm mặt qua những thứ món thuốc mà người Việt chúng ta tự bày cho nhau (cũng đôi khi  bắt chước người Mỹ hoặc người Tàu mà bày thuốc cho nhau):

Nhìn chung thì hầu như mọi thứ thực phẩm quanh ta đều được email và webpage người Việt ca tụng là “thần dược’’ trị ung thư và bá bịnh.

1. Nhiều người vang bóng một thời, người bày ra món này đã hốt nhiều chục triệu bạc xong lặn mất. Kế đó là nước măng cụt, bây giờ còn chút tiếng vang. Kế nữa là Canh Dưỡng Sinh, được phe ta uống như điên trong thời gian chừng sáu tháng rồi tịt ngòi.

Tiếp theo thì ngàn hoa đua nở: Hết  dưa chuột, rồi thì lá đu đủ, rồi tới mãng cầu. Đầu tiên là mãng cầu Mễ (bán nhiều tại Mỹ) sau chê phải là mãng cầu Xiêm loại trồng ở Việt Nam.

2. Hai thứ sau này đang phất cờ tiến mạnh vào niềm tin của bà con ta. Chắc chừng năm sau sập tiệm, tuy nhiên mấy vị nhanh tay chế viên mãng cầu, nước mãng cầu cũng kiếm được mươi triệu đô rồi.

Sau đó là dầu dừa được ca ngợi (do công ty Tây Mỹ bày bán, kiểu bán mỡ rắn thời nẩm), có một vị suýt chết vì dầu dừa hai năm trước, vị này ở Hố Nai chạy xuống Bến Tre mua dầu dừa ép lạnh về uống hai ba tháng đi hết nổi. May mà đọc thấy email  lúc đó về dầu dừa mới tỉnh ra mà ngưng uống,  nhưng tức quá gởi email la làng cho hả giận.

3. Hiện giờ thì trái Sung, cây Bồ Công Anh, trước đó thì Kim Thất Tai (sao hiện giờ ít nghe ai nhắc nói tới, chắc nó âm thầm dẹp tiệm rồi). Hiện giờ cũng còn đang hoành hành sức khỏe bà con ta là Cây Lượt Vàng, trước đây là cây Cần Tây, nay thì Cây Cần Tây cũng lặn mất rồi. Vài năm trước thì là Trà Xanh là thần dược, Trà mọi loại là tiên dược, những vị uống trà ngừa và trị bịnh hiện nằm nhà thương hay ra vào nhà thương (tôi nói ẩu) cũng bộn nên hết hơi sức để vuốt đuôi ca ngợi theo gian thương Trung Cộng. Nay thì được biết người ta hơi né trà rồi, lý do là thuốc trừ sâu (và đủ thứ hương thơm hóa chất vô danh) ướp vào trong đó, kể cả trà ướp xác chết cũng được bán ta cho bà con ghiền thưởng thức (chuyện này nói thật, có thật, không nói ẩu đâu, có “chạy Nhật Trình’’ mà).

4. Sau khi chê Trà thì bà con ta sang ca ngợi Cà-phê. Hình như trong tâm trí một số phe ta phải có cái gì đó để ca ngợi mới sống được chăng ? Hiện trứng gà được một vị tung lên tới mây xanh (kết quả là thống kê vừa công bố những vị nam giới ăn 7 trứng gà hay hơn mỗi tuần thì mau chết hơn những vị không ăn).

5. Còn gì nữa, cà chua, sả, xoài, trái chuối chín rục đều “trị được ung thư’’ (chắc mấy tiệm bán chuối chế ra chuyện để tiêu thụ chuối chín thâm đen cho khỏi bỏ thùng rác ?). Trước đó một chút và ngay hiện giờ chanh được ca tụng là giết tế bào ung thư 10.000 lần mạnh hơn “chimo”. Trước nước chanh trị ung thư thì có Giấm Táo và mật ong. Hiện giờ thì mật ong và Bột Quế, mới đây thì phong trào củ cải trắng chanh và nghệ.

Nói chung thì: Bất cứ rau trái nào trước mặt các bạn đều cũng đều được người Việt ca tụng là thần dược trị ung thư hay trị được những thứ bịnh mà Tây Y còn đang vật lộn!

6. Quên nữa còn gạo đen (dân Gò Công gọi: “gạo nhum”) cũng trị ung thư và nhiều bịnh ngặt, trước đó gạo lức được tâng lên làm thần dược, nay thì gạo lức rang pha nước uống là “thần’’ dược. Gạo lức được dân BBC gọi là gạo nâu đó nghe bà con. Nói thêm theo thống kê hiện giờ thì gạo lức chứa nhiều kim loại nặng có hại hơn là gạo giả trắng. Hai món sống dai là củ tỏi và gạo lức, không biết có bao nhiều người theo và bao nhiêu người khỏi bịnh. hiện giờ củ tỏi hầu hết 75% là do Trung Cộng trồng.

7. Gạo lức bị Mỹ điểm mặt năm trước, năm nay tỏi Trung Cộng cũng bị Mỹ điểm mặt.

Các bạn đọc chán chưa, còn nữa mấy mươi năm nay người ta ca ngợi Đậu Hũ đậu nành trị ung thư, thế mà mấy mươi năm nay cũng chưa thấy ai nhờ nó mà sống thêm. Quên nữa Cây Sả hiện được bà con ta nói trị ung thư mạnh hơn 10.000 lần “chimo’’ (con số nghe quen quen). Các bạn còn nhớ lá đu đủ một thời là khắc tinh bịnh ung thư, sau đó thấy không hiệu nghiệm bèn bày ra Lá Đu Đủ Đực mới hiệu nghiệm. Nhiều người cũng tốn tiền mua lá đu đủ khô hay viên về uống. Còn hết ? Thưa còn thí dụ: “Măng tây ai mà ngờ’’ (tôi thêm: Ai mà ngờ vô dụng). Mới vài tuần nay thì khoai môn Trung Cộng được ba con ta ca ngợi ăn nó không bị ung thư nữa. Nên lưu ý, cái gì mà Trung Cộng sản xuất cũng đều mang mầm bịnh, bà con biết rồi mà.

Còn hết ? Thưa còn dài dài, hiện đang bày nhau: Xay cam, bôm, cà chua, cabbage, cà rốt, Lô Hội và bỏ thêm 1 muỗng Mật Ong...hằm bà lằn, uống hàng ngày để ngừa ung thư. Thôi nghe, kể hoài còn hoài.

8. Thưa quý bạn, những thứ được kể bên trên là tôi chợt nhớ ra, chắc mới liệt kê được chừng phân nửa mà thôi. Hôm nào tôi ghi lại coi tất cả mọi thứ thực phẩm chúng ta ăn coi có món nào KHÔNG phải là thần dược hay không.

***

Một bằng hữu góp ý (nhiều năm trước):

Một đoạn phản hồi cho “những bài thuốc’’ (trích trong bài viết “Bà Nội Tướng Của Tôi’’)

“...Chẳng hạn như tôi nói với nàng là có người mách cho một bài thuốc rất đơn giản, chỉ cần gạo đem rang rồi nấu nước uống hằng ngày như uống trà thì có công hiệu rất tốt cho cơ thể như ngủ ngon, giảm huyết áp, giảm mỡ v.v...thì nàng hỏi lại tôi bộ miracle hả ? Gạo rang hay không rang cũng là gạo, tại sao nấu  cơm ăn hằng ngày thì chỉ chữa bệnh đói còn đem đi rang, cho qua lửa luyện tội lại trở thành “dược phẩm’’ là sao, vô lý quá vậy. Ấy vậy mà tôi cũng đòi nàng phải rang gạo nấu nước “thánh’’ cho tôi hết một thời gian hai ba tháng. Nàng bực mình lắm, tuy chìu ý tôi nhưng trong lòng không phục cho là what a silly vớ vẩn!

9. Có một thời gian, người ta đua nhau đi kiếm mua rau má đỏ con mắt, nói là rau này chữa được bệnh thấp khớp làm tôi cũng ráng đi tìm cho được (vì là mùa Đông nên khó kiếm chớ mùa Hè thì loại rau này mọc đầy dãy trong vườn nhổ không kịp) thì nàng bảo rau cỏ nào mà không có dược tính. Theo nàng biết thì rau má có tác dụng giải nhiệt, khi nào nóng trong người  uống vô sẽ hạ hỏa nhưng nếu lạm dụng nó thì sẽ sinh hàn. Mà thấp khớp thì kỵ hàn. Uống riết chắc đi không nổi phải bò luôn.

Rồi còn nhiều phương thuốc khác nữa như Lô hội, trái Nhào, đậu nành, canh dưỡng sinh gì đó lung tung, thứ nào cũng chữa bá bệnh như là thần dược.

Tôi thì thứ nào cũng muốn thử coi có hiệu nghiệm không chớ nàng thì nhứt định giữ vững lập trường không là không. Nàng nói thời buổi y học tân tiến này, có biết bao là thuốc hay thầy giỏi, bệnh gì thuốc đó, chữa còn không được, ở đó mà nghe người ta bày.

Muốn bào chế một viên thuốc, người ta phải nghiên cứu dung hòa bao nhiêu chất trong đó chớ đâu phải đơn giản một thứ một mà được. Phàm cái gì cũng vậy, phải có chừng mức, cứ một thứ mà tống vào cho cố xác thì có hại chớ sao. Có thể nó  chữa được bệnh này nhưng lại phản ứng sinh bệnh khác, hễ có hợp thì  có khắc, có lành tính thì cũng có ác tính. Vì vậy trung dung là thượng sách hơn cả, rủi ai phát giác ra là có hại thế nào đó thì mình cũng không đến đỗi nào, còn trở tay kịp.

Cụ thể như một lọai cải có tên là Phi Long (English spinach) mà tất cả các giống dân Âu, Á, Trung Đông gì cũng rất ưa chuộng (nhất là Lebanese, mua một lần cả trolley) vì nó có rất nhiều chất sắt làm tăng cường sinh lực đến đổi có một phim  cartoon muốn khuyến khích trẻ con ăn vegies đã bịa ra chuyện một nhân vật tên Popye.

10. Anh Popye này nhờ ăn thật nhiều spinach nên mới có đủ sức mạnh để đấu lại  mấy thằng baddies. Đó là nói về mặt lợi ích của lọai cải này, nhưng đồng thời nó cũng có tác hại gây bệnh gout (thống phong) nếu ăn nhiều (không biết nhiều là bao nhiêu) vì nó cũng chứa hàm lượng uric acid rất cao.

Như vậy thì tốt nhất là đừng nghe ai cả mà hãy nghe chính mình. Mỗi  tuần  nấu canh hoặc xào ăn hai ba lần là đủ liều rồi, cứ coi đó là thức ăn thôi, còn muốn làm thuốc thì để cho pharmacist họ làm, đâu có tới phiên mình.

Cũng như rượu, mỗi ngày một ly nhỏ cho máu lưu thông điều hòa thì có ích cho tim mạch nhưng nếu cứ uống cạn ly đầy, rót đầy ly cạn thì sơ gan đứng tim luôn là cái chắc.’’

11. Từ khi vào nghề Y đến nay đã hơn 30 năm, hễ cứ đến ngày này là nhận nhau những lời chúc tụng. Tôi không biết là mình có nên chúc tụng đồng nghiệp và nhận lời chúc tụng của người khác không, khi mà, ngành Y bây giờ không làm tròn trách nhiệm với người bệnh. 

Thôi thì cũng vài dòng cảm ơn những gì các bạn đã chúc nhau, và xin đưa ra những nguyên tắc chung để bà con cẩn thận với sức khỏe của chính mình.

Nguyến tắc thứ nhất:

Đừng tin những gì quảng cáo trên báo đài, truyền thông, và thế giới mạng về thuốc. Vì không độc thì không gọi là thuốc, người ta chỉ uống thuốc để tự tử, chứ không ai uống nước để tự tử bao giờ. Chính vì thế, mà ở các quốc gia tiên tiến, cấm quảng cáo thuốc trên phương tiện truyền thông dân dụng, chỉ được quảng cáo thuốc ở tạp chí và hội thảo chuyên ngành Y.

Nguyên tắc thứ hai:

Khi đi khám bệnh bất kỳ ở đâu, người bệnh cần có 1 câu hỏi phải hỏi: “Bệnh của tôi do nguyên nhân gì ?” Vì chỉ có thầy thuốc giỏi mới điều trị nguyên nhân bệnh, còn lại những thầy thuốc kém hiểu biết chỉ biết điều trị hậu quả - hay còn gọi là chữa triệu chứng - của bệnh.

Nguyên tắc thứ ba:

Đừng bao giờ tin những gì mình tìm kiếm trên mạng internet rồi tự suy diễn, tự làm bác sĩ cho mình và gia đình mình. Vì như thế chỉ làm hại chính mình và gia đình mình. Hãy cứ nghĩ, nếu bản thân bạn đủ khả năng được các trường Y nhận vào học thì các bạn đã trở thành bác sĩ, chưa kể các bác sĩ đã được đào tạo chính quy một thời gian dài về bộ máy tinh vi nhất của quả đất - con người - bình thường và bất thường từ tế bào đến bao nhiêu rối loạn khác về cả thể chất lẫn tinh thần, nhưng chưa chắc họ đã giỏi, thì các bạn chỉ vài cú enter với google, không có kiến thức căn bản về y khoa, thì các bạn như người điếc không sợ súng và tự hại mình thôi.

Nguyên tác thứ tư:

Đừng bao giờ tin những quảng cáo về các loại thức ăn, thức uống bổ, giúp chữa bệnh này hay bệnh khác. Ví dụ, sữa chống loãng xương, thực phẩm chứ năng, thức uống collagen, v.v...chỉ là những trò kinh doanh kiểu đa cấp để kiếm lãi. Loãng xương là một trong những tiến trình của một quá trình lão hóa của bất kỳ động vật nào được diễn ra ở mức độ phân tử sinh học, tiến trình này cho tới nay, y học vẫn còn mò mẫm và bất lực.

Nguyên tác thứ năm: Ăn uống và làm việc là thuốc. Ăn uống và làm việc đúng thì không hoặc ít bệnh tật. Ăn uống và làm việc sai là tự đưa mình vào nơi khổ đau của bệnh tật, vì sức khỏe qúy hơn vàng.

Chúc Cộng Đồng sức khỏe và hạnh phúc.

Sưu Tầm từ internet

Nguồn: BÀI ĐĂNG