CHUYỆN HUYỀN BÍ KIM CỔ SƯU TẦM-THẦN ĐỘC CƯỚC.
Ông nầy nguyên người làng Toàn Đông, huyện
Bảo An, phủ Từ Sơn, tinh Bắc Ninh. Cha ngài là Nguyên Lê vốn là một pháp
sư lừng danh, không có con trai nói dõi, ông cầu nguyện đức Phật và
nhiều quyền lực tôn giáo khác để can thiệp với Ngọc Hoàng. Vị thần tối
cao liền cho xuống trần một vị thần vào đầu thai trong nhà và làm con
của Nguyên Lê.
Người ta đặt tên Ngài là Nguyên Độc, tới 10
tuổi, cậu bé Độc đã biết thành thạo về nghệ thuật phù phép và có thể
thực hiện được những gì cậu đã vì bốc đồng tình cờ mà làm ra. Một ngày
kia, cậu đánh trống và làm những động tác triệu thỉnh chung chung, khiến
động thấu đến thiên đình và vang động khắp bốn phương nhân gian. Ngọc
Hoàng không chịu nổi những chấn động quái gở như vậy, nên Ngài liền phái
xuống trần một vị “Chu Tử” (mặc quần áo đỏ) thuộc dạng một sĩ quan tùy
viên để đi lấy tin tức về sự náo đồng kia. Viên sĩ quan này, noi theo
các tiếng động, xuống tới nhà của Nguyên Lê và thay vì gặp ở đó như điều
ông dự kiến là một đám đông ồn ào, hỗn độn dữ dội, ông lại chỉ thấy có
một mình cậu bé Nguyên Độc ở đó, cậu lại đang bình thản ngủ vùi. Lợi
dụng dịp may hiếm có, vị thần áo đỏ rút gươm ra, chém một nhát, chặt đôi
thân thể cậu bé, ông mang một phần thân thể về trình Ngọc Hoàng. Sau đó
ông Nguyên Lê vừa trở về nhà, nhìn thấy con bị chém đứt làm hai, vô
cùng hoảng hốt, ông ôm chầm phần còn lại của đứa con mà đi chôn. Sau 100
ngày, ông lao vào đủ các cuộc cúng tế, nguyện cầu và sử dụng phù chú,
ông gặp lại đứa con bị chém của mình. Cậu bé sống lại, lành hẳn các vết
thương và còn khỏe mạnh hơn cả trước kia. Cậu bé tìm cho mình những
kiếm, gươm, cờ và gậy phép và từ đó cậu có được các quyền lực phi
thường. Danh tiếng của cậu liền được truyền rao xa xa, nên từ đó cậu
được tôn vinh là tổ sư vua, là vị tổ bảo hộ cho tất cả các pháp sư.
Việc thờ cúng các vị thần này thật giản đơn
và các nghi thức pháp thuật hiện tôi đang có trong tay không khác mấy,
vào chi tiết, với các lễ lộc phụng cúng dành cho các vị thần này. Người
thấy bùa phải "cầu nguyện cả ngày lẫn đêm và dâng cùng lễ vật vào những
ngày mùng 1 và ngày 15 (ngày rằm) của mỗi tháng”. Muốn cúng bái, mỗi
pháp sư đều có sẵn trong nhà một bàn thờ, thường thường ít trang hoàng
diêm dúa, đặt trong cái am nhỏ, cất riêng biệt. Trên bàn thờ có các hình
vẽ và các tượng bằng giấy ít khi làm bằng gỗ, của Phật, Ngọc Hoàng, Lão
Quân, của Tam Danh và Độc Cước. Các tượng này xếp hàng theo cấp bậc
trên các bệ có độ cao thấp khác nhau, theo thứ tự, như tôi vừa kể. Rồi
tới các linh thần thứ cấp, như các Hộ Pháp, như các vị Thiên Sứ giữ gìn
bảo về pháp luật. Các vị này được giao trọng trách truyền mệnh lệnh của
chư thần. Trước bàn thờ, có các lư hương, các đỉnh trầm hương và tất cả
các phụ tùng thường dùng trong việc thờ cúng. Chính tại đây, ông thầy
bùa mỗi ngày đến cầu nguyện và làm bùa chú. Trên một chiếc bàn thấp hơn,
vào những ngày hiến tế, ông đặt các phẩm vật cúng: cơm, rượu, cau và
trầu, gà, hoa trái, bó vàng giấy và bạc giấy.,v.v… Các ngày cúng diễn ra
vào các ngày đầu tháng (tuần trăng mới =30, mồng một hàng tháng) và
ngày trăng tròn (15 mỗi tháng âm lịch). Đây chính là những ngày nguy
của người Việt xưa và nay vì là ngày hàng tháng bà Nguyệt (trăng) kết
duyên với mặt trời. Ngày mồng một đầu tháng chính là ngày mặt trăng nhú
ra khỏi các tia nắng tàn tạ của mặt trời lặn, và mặt nguyệt mới nhận
được nguyên lý sáng đầu tiên để lớn dần lên tới ngày 15 rồi giảm bớt đi
vào cuối tháng và được sáng trở lại vào tháng kế tiếp. Như vậy, mặt trăng
trở thành biểu tượng của nguyên lý âm và từ đấy, cùng chia sẻ với nữ
giới ảnh hưởng mầu nhiệm của nguyên lý âm, mà người ta gán hẳn cho vầng
nguyệt. Mặt khác, mặt trăng như vậy đương nhiên được mời gọi đóng vai
trò trọng yếu trong pháp thuật mà các lễ tục thường thường được thực
hiện về đêm, vào lúc trăng vừa xuất hiện. Chính vì các lý do này mà
những ngày 1 và 15 trong tháng âm lịch đều đặc biệt được chỉ định để tổ
chức các cuộc cúng kiến dành cho các Thánh tổ của phù chú.
Có 1 thuyết khác về Độc Cước như sau.
Chuyện kể rằng thời xưa có một bọn quỷ mũi đỏ
đến vùng biển Sầm Sơn làm hại dân lành. Có một chú bé mồ côi cha vừa
chui ra khỏi bụng mẹ đã lớn nhanh như thổi và trở thành người khổng lồ.
Chàng khổng lồ đánh thắng bọn quỷ ngoài biển, quỷ tràn vào đất liền cướp
phá, nếu chàng ở trong đất liền thì quỷ lại phá ở ngoài khơi. Chàng
nghĩ cách lấy búa tự xẻ đôi thân mình, một nửa thân và một chân đứng ngự
trên đỉnh Sầm Sơn, một nửa thân và một chân theo bè mảng ra khơi hộ vệ
dân chài. Từ đó, bọn quỷ vào bờ hay ra biển đều thấy chàng khổng lồ,
chúng bỏ đi nơi khác kiếm ăn, không dám bén mảng đến vùng biển này nữa.
Từ đó xuất phát tên gọi thần Độc Cước, nghĩa là ‘Một chân’.
(Theo Thế giới vô hình)
Độc Cước là một vị thần Việt Nam, nơi thờ
chính đặt tại đền Độc Cước ở Sầm Sơn, Thanh Hóa. Theo đạo sắc phong năm
Cảnh Hưng thứ 14 (1783), thì thần Độc Cước tên là Chu Văn Khoan, có tài
đức, giúp các đời vua dẹp yên giặc giã, giữ gìn bờ cõi, thần có hiệu là
Đại pháp sư, có 7 phép màu để trị ma quỷ gian ác… và được vua phong bốn
chữ: Độc Cước sơn triều.
Chuyện kể rằng thời xưa có một bọn quỷ mũi đỏ
đến vùng biển Sầm Sơn làm hại dân lành. Có một chú bé mồ côi cha vừa
chui ra khỏi bụng mẹ đã lớn nhanh như thổi và trở thành người khổng lồ.
Chàng khổng lồ đánh thắng bọn quỷ ngoài biển, quỷ tràn vào đất liền cướp
phá, nếu chàng ở trong đất liền thì quỷ lại phá ở ngoài khơi. Chàng
nghĩ cách lấy búa tự xẻ đôi thân mình, một nửa thân và một chân đứng ngự
trên đỉnh Sầm Sơn, một nửa thân và một chân theo bè mảng ra khơi hộ vệ
dân chài. Từ đó, bọn quỷ vào bờ hay ra biển đều thấy chàng khổng lồ,
chúng bỏ đi nơi khác kiếm ăn, không dám bén mảng đến vùng biển này nữa.
Từ đó xuất phát tên gọi thần Độc Cước, nghĩa là 'Một chân'.
Tưởng nhớ công ơn của Độc Cước, người dân Sầm
Sơn đã lập miếu thờ thần ngay bên tảng đá có vết lõm dấu chân khổng lồ
tương truyền là bàn chân của chàng. Về sau miếu trở thành đền Độc Cước.
THAM KHẢO THÊM.
Nếu các tôn giáo có nhiều hệ phái thì đạo phù thủy ở Việt Nam ta cũng vậy.
Phù thủy ở miền Bắc VN đầu tiên từ Tàu truyền
sang, cho nên chúng ta cũng cần biết qua nguồn gốc phù thủy ở Tàu
trước. Theo lịch sử Trung Quốc thì khi Xuy Vưu chống lại vua Hoàng Đế
thì y đã dùng bùa ngải, thư, chú để đánh quân của Hoàng Đế. Vua Hoàng
Đế lại thua nhiều trận sau nhờ được Bà Cửu Thiên Huyền Nữ dạy cho 8 ngày
về các bùa phép để phá Xuy Vưu.
Huyền Nữ dạy Hoàng Đế từ ngày Nhâm Tý, Qúy
Sửu trừ hai ngày Giáp Dần, Ất Mão thôi rồi lại dạy tiếp từ ngày Bính
Thìn đến hết ngày Tân Dậu tổng cộng là 8 ngày, nhờ thế Hoàng Đế biết chế
kim nam châm "chỉ nam" và bùa phép phản công lại Xuy Vưu khiến cho bộ
lạc này tan rả phải rút lên núi cao mà ở. Sau này họ hóa thành bộ lạc
Mèo "Miêu tộc" và vùng núi họ ở gọi là vùng Miêu cương nơi chứa nhiều bí
hiểm và độc địa. Sau đó Hoàng Đế truyền lại cho Chúc Do Thập Tam
Chưởng mà đại đa số là bùa chú trị bịnh cho binh sĩ thời đó. Như vậy là
ngành Đông Y cũng có một khoa trị bịnh bằng bùa phép như: - Chữa
bịnh Truyền thi lao sái. - Các bịnh mụn nhọt. - Dùng khi châm cứu. Đó
là những cách dùng bùa lẫn với dùng thuốc.Thí dụ: Chữa bịnh Lao
truyền thì dùng bùa dán để vây con trùng lao rồi dùng ngải cứu mà đốt. Muốn làm tan nhọt thì thư phù trên mụn cho tan đi hoặc cho vỡ đi gọi là
đinh giáp thần phù (Loại này biên giả đã thí nghiệm thấy rất linh diệu
và gia phụ đã trị cho cả trăm người bị lên đinh lên bắp chuối và mụn
xoài đều tan hoặc vỡ cả) và loại bùa khi châm cứu là để mở các huyệt
đạo trong người trước khi châm cứu. Phù thì gọi là Thái Ất thần phù và
chú thì gọi là Càn Nguyên thần chú. Đến Khương Tử Nha tức Thái công khi
cầm quân phạt Trụ thì lại đem áp dụng phù chú vào binh pháp trận đồ, vào
các việc bệnh, tử trong quân doanh mà sau này Trương Tử Phòng và Gia
Cát Lượng cũng như Lưu Bá Ôn đều áp dụng theo. Loại phù thuỷ trên được gọi là
chính đạo và thường do các đạo sĩ, những người tu Tiên sử dụng. Đến đời
Tống thì Trương Thiên Sư ở Long Hổ Sơn cho đệ tử truyền bá nhiều thứ phù
phép trong dân gian do đó ngành phù thuỷ lan tràn khắp chốn. Riêng về
ngành phù thủy đã nói ở trên là thuộc về thần đạo và sử dụng đến “Thiên
Tinh" các sao Thiên Thần, Thiên Tướng Thiên Binh như Lục Giáp Thần
Binh....v.v... Còn một ngành phù thủy chuyên môn thờ Qủy, chuyên môn dùng
chúa Qủy để sai khiến ma qủy và trị qủy thì gọi là Độc Cước Môn - Môn phái
thờ Thần Độc Cước. Ngành phù thủy này nửa tà nửa chính, nhưng các giới
đạo sỹ thì gọi thẳng họ là tà đạo. Khi vào nhà một ông phù thuỷ nhìn
lên bàn thấy có thờ một ông tượng chỉ có nửa người đứng với một chân,
một tay, một mắt, một tai, một lỗ mũi - nghĩa là đúng y như là một người
bị chẻ dọc làm hai - thì đó là thần tượng Độc Cước, chúa của Qủy.
Người ta không rõ ông Độc Cước này ra đời từ
bao giờ, chỉ thấy truyền thuyết nói rằng: “Đời Thượng Cổ ở bên Tàu có
một vị nho sinh, một hôm vào trong núi tìm Hoa Lan và thưởng cảnh. Khi
trở về thì gặp một người con gái đang định nhảy xuống vực sâu tự tử.
Chàng nho sinh bèn giữ lại kịp và hỏi lý do thì cô gái cho biết là nàng
bị cha mẹ ép gả cho một tên cường hào giàu có lớn hơn nàng tới 40 tuổi
cho nên nàng phẩn chí muốn chết. Nàng định đến nhà cậu ở nhờ nhưng đi
đến đây hết tiền, nên lên mõm núi này để tự vận. Chàng nho sinh thấy
nàng nói năng mềm mỏng và mặt lại rất đẹp, đời chàng chưa hề gặp. Lúc đó
chàng đến đây du học, tiền bạc có sẵn lại ở có một mình trong một căn
nhà mà chàng thuê người dựng lên ở nơi vắng vẻ nay nếu nàng chịu lấy thì
ta đưa nàng về ở chung để nàng lo việc cơm áo cho ta. Nghĩ thế chàng
liền ướm hỏi cô gáí thì cô gái gật đầu. Chàng nho sinh đưa cô gái về nhà
ở và sai nàng đi chợ mua sắm thức ăn, chàng ở nhà đọc sách. Một năm
sau nàng sinh hạ được con trai đầu lòng rất ngộ nghĩnh. Vợ chồng ăn ở
với nhau rất hạnh phúc cho tới năm đứa trẻ lên 4 tuổi thì một hôm gần
Tết chàng ra thị trấn mua bút giấy bổng gặp vị đạo sỹ, vị đạo sỹ nhìn
chàng rồi hoảng hốt than nhỏ: -Ôi! người sắp chết đến nơi rồi không
biết. Tiếc thay ! Chàng lấy làm lạ, bèn vòng tay làm lể và xin vị đạo
sĩ chỉ dạy cho. Vị đạo sĩ nói, chàng đã lấy phải một con yêu tinh nó đã
thu hút tinh khí của mấy trăm người rồi, nay nó sắp thành một loài qủy
Tiên không ai trừ nổi, vậy chàng phải tránh xa nó không thì chết. Chàng
nho sỹ cả sợ vội van xin vị đạo sĩ hãy cứu chàng và vì đời trừ hại giúp. Vị đạo sĩ nói: - Nó thụ hấp tinh khí của nhiều người rồi nên ta
không đủ sức giết nó. Vậy ta cho ngươi một đạo phù này đem về dán ở cửa
chính còn một đạo thì đeo vào người. Hể khi nào nó đi chợ thì ngươi ở
nhà hãy dán bùa và đeo bùa, rồi ở trong nhà, khi nó về nó sẽ không vào
nhà được, dù cửa mở. Nó sẽ gọi ngươi mở cửa cho nó vào thì ngươi biết nó
yêu tinh đuổi nó đi. Chàng nho sinh nhận hai đạo phù đem về giấu kín
trong quyển sách không cho vợ hay biết. Hôm sau chàng sai vợ đi chợ sắm
tết. Khi người vợ đi khỏi chàng đem hai đạo bùa ra đeo và dán ở cửa.
Đến qúa trưa người vợ về đến sân bỏ thúng xuống và đứng ở sân gọi chồng
mở cửa cho nàng vào. Chàng nho sinh bèn đuổi nàng đi và cho biết nàng là
yêu tinh, người vợ thấy chồng đuổi bèn giơ tay vẫy, thì thằng bé đang
chơi ở một góc nhà, thấy mẹ vẫy bèn chạy ra sân. Chàng nho sinh không
kịp giữ lại; Đứa trẻ ra đến sân thì con yêu cầm hai cổ chân đứa trẻ xé
ngược lên và le lưỡi ra như người ta dùng kiếm mà rọc, đứa bé liền bị xé
như chẻ làm hai. Con yêu vất hai nửa đứa trẻ xuống sân thì một nửa
đứng lên còn một nửa té nằm trên đất. Con yêu gọi lớn : -Người không lấy
ta nữa thì con đó, chia đôi mỗi người một nửa. Rồi nó chạy đi và cái
nửa xác sống nhảy theo sau mà đi vào núi. Cái nửa người đó là Thần Độc
Cước là chúa Qủy". Muốn thờ thần này thời xưa thầy phù thủy cứ ba năm
phải tế sống bằng cách giết người tại bàn thờ để lấy tim và máu tế thần
Độc Cước. Nếu trong năm đó mà không mua được người về thì thầy phù thủy
phải dùng đệ tử hay con cái, gia nhân mà tế thay. Sách đời Đường có ghi
truyền, Thôi Vĩ vốn là con trai nhà thơ Thôi Hướng đời Đường. Thôi Vĩ
qua Giao Châu thăm cha làm Thái Thú, lúc về qua Phiên Ngưng vì giỏi khoa
châm cứu nên được một ông thầy phù thủy ở miền núi gần Dương Thành mời
đến châm cứu chữa giúp bệnh bướu. Thôi Vĩ đến nơi chữa khỏi bệnh cho
thầy phù thuỷ, và được mời ở chơi, thầy phù thủy này vốn cho người nhà
đem cả vạn lạng bạc đi để mua người mà không mua được, nên lão ta quyết
định lừa bắt Thôi Vĩ giết đi để tế thần Độc Cước. May là Thôi Vĩ đẹp
trai, lại giỏi đàn nên đứa con gái thầy phù thủy nó mê và nó ngầm báo
cho Thôi Vĩ trốn đi Ở Việt Nam ở mỗi tỉnh có ít ra 5, 7 ông thầy phù
thuỷ thờ thần Độc Cước. Có thờ thần Độc Cước thì mới dễ thu âm binh,
mới dễ tróc tà nhưng sau này không thiêng nữa vì thần Độc Cước không
được cúng bằng người sống. Ngoài việc thờ thần Độc Cước, nhiều thầy
phù thủy lập điện thờ Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, tục gọi là Đức
Thánh Trần, và thờ các tượng khác, như Phạm Ngũ Lão, Yết Kiêu, Dã Tượng.
Trên bàn thờ Đức Thánh Trần thì dưới gầm bàn phải thờ Ngũ Hổ Tướng, để
sai đi tróc tà. Đạo thờ Đức Thánh Trần gọi là Đạo Nội. Trên toàn quốc
có đến mấy ngàn ông thầy phù thủy thờ Đạo Nội. Họ là đệ tử của Đức
Thánh Trần Hưng Đạo, nên hàng năm họ phải đi lễ ở đền Kiếp Bạc, trên
sông Vạn Kiếp để tạ lễ gọi là "đi trẩy hội cha" (Tháng 8 hội cha, tháng
3 hội mẹ). Đạo Nội Đức Thánh Trần cũng ra tay ấn quyết phù chú khu tà
tróc quỷ bằng bùa phép nhưng đại đa số là để trị: - Những người đàn bà
bị ma làm (quỷ ám). - Những người hữu sinh vô dưỡng - Những tiền oan
nghiệt chướng (tiền phu, tiền thê v.v...). Cứ theo các sách ghi trong
các điện của thầy phù thủy thì vào thời kỳ Đức Trần Hưng Đạo đánh quân
Mông Cổ có tên Tàu lai là Nguyễn Bá Linh đi theo quân Mông Cổ do thám
quân ta và tác oai tác quái khắp các miền từ Bắc Ninh xuống đến Hải
Dương, Kiến An. Nguyễn Bá Linh có phép phù thủy biến hóa được cho nên
bắt được mấy lần nó lại trốn thoát. Các vị đạo sỹ Việt Nam phải luyện
bùa vào chỉ ngũ sắc để khi bắt được thì dùng chỉ mà buộc cổ nó. Sau khi
bắt được thì quân ta đem ra chém nhưng cứ chém đứt đầu rơi xuống, trông
lại nó vẫn còn nguyên đầu. Sách ghi là chém đầu nó mọc đầu kia nên không
làm sao chém được nó . Sự việc tâu lên nhà vua và Hưng Đạo Vương. Đức
Trần Hưng Đạo bèn ra lệnh bôi cứt gà sáp vào gươm mà chém Nguyễn Bá Linh "còn tên nữa là Phạm Nhan" được giải về Chương Dương chém. Khi bị chém
nó kêu lên là nó sẽ là quỷ ở đất nước An Nam và cho nó ăn gì? (có nghĩa
cúng nó bằng gì?), vị quan Giám Hình và đao phủ rủa lại nó là: "cho
mày ăn máu bà đẻ!". Khi xác bị vằm ra ném xuống nước và bụi cây thì: "dài làm rắn, ngắn làm đỉa, lia tia làm muỗi" nghí̃a là hóa thành các
động vật hút máu hại người. Sau khi chết, Phạm Nhan chuyên đi hút máu
và âm nhập các sản phụ. Vì thế mà người ta phải nhờ oai Đức thánh Trần
để trừ khử nó. Do tích đó mà đạo phù thủy Việt Nam g̣ọi là Đạo nội ra
đời. Đạo này dùng kiếm ấn của Đức Thánh Trần làm phù hiệu chuyên trừ
Phạm Nhan và các loại tà ma, cũng có bùa chú đầy đủ. Khi bắt tà ma thì
dùng Ngũ Hổ và các Hổ Tướng của Đức Thánh Trần phụ lên giúp. Các việc
về tiền oan như tiền Thê "giết vợ cả lấy vợ kế và hồn vợ cả hiện về báo
thù bóp chết hết mọi đứa con và làm cho người vợ kế bệnh nặng" quan
trọng lắm mà các vị quan tướng như Yết Kiêu, Phạm Ngũ Lão không xử nổi
thì mới phụ đồng thỉnh Đức Thánh Trần về. Ông Nguyễn Đăng Thục có viết
một cuốn sách khảo cứu về Đạo Nội nay" X.B ở VN hồi Đệ Nhất Cộng Hòa" các
thầy phù thủy ở VN thường dùng vỏ và thân cây núc nác "tức là cây Hoàng
Bá một vị thuốc Bắc, cây gỗ Đào, gỗ Dương Liễu để làm ấn. Các đạo sĩ
dùng phép phù thủy vào các việc hành binh như lập trận đồ, sử dụng Thiên
binh thì thì phải dùng "Cây Gỗ Táo Bị Sét Đánh" gọi là"lôi kinh mộc táo"
hoặc "cây gỗ trầm hương" mà làm ấn thì ấn mới linh. Muốn luyện bùa tàng
hình thì phải thu bùa trên thanh quế để xuất nhập doanh trận của địch.
Vị Tiên Hàn Tương Tử có truyền lại cho phép luyện bùa "Bạch Hạc Tử Chi
Phu" rất linh diệu để tàng hình nhờ Hạc Thần giúp sức "Qúy vị coi lịch
ngày Mồng 1 Tết thường ghi Hạc Thần để luyện bùa". Bùa để trừ tà và nhất
là để trừ Phạm Nhan Nguyễn Bá Linh rất cần có máu người bị chết chém
cho nên thời xưa khi có người bị xử trảm thì các thầy phù thủy kéo đến
pháp trường có cả trăm người để lấy máu kẻ bị chém. Họ phải đút lót lính
canh cho họ ngồi gần chỗ tử tù bị chém để khi vòi máu của tử tù phun ra
thì họ dùng giấy bản mà hứng lấy ngay thấm trên đất mà lấy. Thời xưa
người Việt Nam mê tín nên mỗi khi trong nhà có người bệnh thì đều ngỡ là
bị ma làm quỷ ám.Nhất là khi có người nhà chết thì thường sợ là bị "chết trùng" hay là nhà ở không yên ổn nên con ốm, vợ đau, gà mái gáy gở,
em hóa điên, chị hóa dại thì ngỡ là bị tà ma quấy phá, hay là trong
nhà ngỡ có thạch tinh cốt khí thì phải nhờ đến thầy phù thủy. Thầy phù
thủy chân truyền chính đạo là cứu nhân độ thế thì vẫn có nhưng rất hiếm,
còn đa số đều là mê tín dị đoan tin theo tà thuyết tà đạo để kiếm tiền
trục lợi. Cho nên khắp từ miền Bắc VN vào đến Nghệ Tĩnh không mấy làng
không có thầy phù thủy. Nhưng thầy cao tay chân chính thì cả huyện may
ra mới được một ông. Các ông thầy đó đại đa số tuyệt tự, truyền thuyết
nói là bị ma quỷ nó báo thù vì khu trục nó ra. Đến như ở miền Nam thì
lại thêm một số ông thầy làm Bùa kiêm nuôi Ngải như làm ngải yêu, ngải
cầu tài, ngải hành hạ thân chủ (Như thân chủ không đóng tiền cúng hàng
tháng thì làm họ đau bụng, nhức đầu v.v...).
(Sưu tầm trên Internet)
Bản văn sai luyện thần độc cước
Đệ tử tôi nay nhang phần một truyện .
Thủa ban rồi tu luyện Thần binh .
Chiêm Thiên nhung Quốc có danh .
Kể từ hồng tạo mấy sinh kia là.
Càn Khôn nhị Khí sinh ra .
Không không, sắc sắc hóa ra dị hình .
Có Thiên tinh diệu bằng non nước núi .
Dáng cao cao nghìn trượng cao mây.
Phép anh Linh nào có ai tày.
Động chân nở đất, ra tay động rừng.
Mặt đen tựa lửa hòn than
Răng trắng san sát, môi hồng tựa son.
Nguyên giáng sinh Sơn Tiêu núi ấy.
Có uy hùng ai thấy dám đang.
Hiệu là Lốc Tướng Thần Vương.
Bản thân bối Phúc có danh đại Thần.
Khi cơ hàn tần lao chi khổ.
Đến tuần này biến thảo thành nhân.
Hiện lên Mao khổng hóa thân.
Đằng vân Thế giới xa gần mọi nơi.
Cứu nhân gian lại thôi súc vật.
Đả Tà ma, trảm diệt Tà tinh.
Tả thủ cầm cờ Lôi phơi phới.
Hữu thủ cầm búa sắt hăm hăm.
Lại hay phương tiện cứu dân.
Chữa người tật khổ, bệnh nhân mê đồ.
Phá oan gia, đoạn trừ túc trái.
Giết Tà Thần, đẳng chúng Tà tinh.
Trảm Phạm Nhan, Bá Linh phục Quốc.
Tróc mẹ danh Càn sát bà Vương.
Bao nhiêu Tà quỷ chúng bay.
Thu lại nhập Ngục, đả cho tan tành.
Hỡi Già Lô Lốc Tướng kia ơi.
Chính thang nhất vị anh Linh.
Giờ Thày luyện tập về chưng bản Đàn .
Có uy cường đêm ngày ứng hiện.
Nghe Chú Ấn, Quyết gọi là tốc thôi.
Dù chơi non núi xa xôi thời về.
Chớ hoãn trì ngang đường ngang xá.
Chớ cưỡng Phù, cưỡng Chú làm chi.
Thày nay Ấn, Quyết thì về.
Để Thày sai khiển việc gì cho hay,
Như cờ này hóa ra cờ lệnh .
Chuyển cờ này quân tướng sửa sang.
Uy hùng chính đức nghiêm trang.
Binh quyền kíp phá Quỷ Vương tung hoành.
Khi sai hành bất phân thời khắc.
Chớ lỗi lầm, thét mắng chẳng tha.
Chẳng nên thét mắng đôi lời.
Việc trong cấm giới, việc ngoài cấm ngăn.
Nào khi cứu Thế độ dân .
Dẹp đường mở lối Sư nhân đi về.
Ba hồi Mõ đả thì nghe.
Chơi đâu kíp chóng thì về.
Một là sai khiển việc gì cho hay.
Trước hộ Thày tuế bằng non Nhạc.
Đạo Quân sư chẳng khác Thái sơn.
Tháng ngày bổng lộc thường tuôn.
Đông Tây đem lại Bắc Nam thu về.
Của Thiên Khê bạc tiền vô số.
Lợn cùng gà, vải vóc chứa chan.
Chữ rằng dĩ Đức báo Ân.
Thày toan trợ Tướng, Tướng nay giúp Thày.
Gia trung này đêm ngày tuần thú.
Cắt ba quân canh cổ truyền lao.
Có ai xâm phạm ra vào.
Đả đòn buộc trói, đem giam gia hình .
Trong phép Quan đả là lệnh ước.
Cứ ba hồi mõ đả thì nghe.
Lưng đeo đai bạc hoa cù.
Tay cầm chìa khóa kỳ khu chữa người.
Hoặc ai phải Khí nặng giời.
Đến không cũng khỏi ngồi chơi cũng hèo.
Phép xưa nay vốn vì có khác.
Mõ là sai bắt nhiều điều.
Một đường đường nghiệm trăm chiều chiều hay.
Xưa kia xốc vác Thái sơn.
Nay sao phép đã lên ngàn
Ngao du đón Nguyệt chơi miền Thanh cung.
Nay tôi có việc thì dùng.
Mời ông tốc giáng bản Đàn cho mau.
Là tật tốc giáng.
Nhang hoa thỉnh.
Sắc hỡi hỡi Sơn Tiêu Độc Cước. Hồng tao xưa sinh, vị thân mẫu không không sắc sắc. Nhất nhỡn sơn đầu thủ túc chi dị hình.
Sơn Tiêu Độc Cước A Lộc đại vương, hiệu Chu
Văn Minh thần tướng. Tả tướng độc cước, hữu tướng độc tôn, Độc Cước
thiền sư thế tôn Độc Cước đại tướng. Các đẳng tướng âm binh vạn vạn hằng
hà sa số tật tốc giáng hạ bản đàn, nhang hoa thỉnh.
BÀI THƠ CỦA ĐẶNG HUY TRỨ TẠI ĐỀN ĐỘC CƯỚC THANH HÓA
Yết Độc Cước Tiểu Tiêu Thần Linh Từ.
Hà niên ngọc chỉ đáo Đông minh
Hương hỏa thiên thu hộ bất quynh
Khí hữu tư chung duy chính trực
Tức chung sở lý tức anh linh
Nguy nga cổ miếu sơn đồng trí
Huy hách thần công thạch khả minh
Tọa trấn hải cương xung yếu địa
Kiêm thiên kình ngạc tảo tiềm hình.
Dịch thơ:
Viếng Thăm Đền Thần Độc Cước
Gót ngọc năm nao đến biển Đông
Nghìn năm hương khói cửa toang không*
Trui rèn cương trực nên anh khí
Đặt bước hoang liêu hỏa điện thông
Miếu cổ nguy nga non sách thế
Công ơn hiển hách đá ghi công
Biển bờ xung yếu oai nghiêm trấn
Kình ngạc dông càn lặng đáy sông.
Hoàng Công Khanh dịch.
THAM KHẢO THÊM.
Tam Danh Độc Cước.
Giống như tất cả các hiệp hội ở Việt Nam xưa
(An Nam). Hiệp hội các nhà thầy bùa cũng có những vị thần chủ riêng gọi
là Tổ sư, coi như nhà sáng lập ra nghệ thuật hay khoa học ứng dụng. Thần
chủ Tổ sư của ma thuật là những vị Tam Danh và Độc Cước. Đối với quý vị
này, các ông thầy bùa, thầy pháp đều dành riêng một lối tôn thờ đặc
biệt thường xuyên.
"Muốn tham gia vào nghề phù thủy, đoạn vào
đầu của một bản thảo viết về pháp thuật mà tôi có đã viết: Cần nhất,
trước hết phải sùng bái vị thánh Tam Bành hay Tam Danh, gốc người huyện
Vụ Bản, tỉnh Nam Định, hoặc nói khác đi là Độc Cước, góc người ở phủ Từ
Sơn, tỉnh Bắc Ninh, cả hai đều được thừa nhận như hai vị thánh bảo vệ
cho học thuyết về pháp thuật."
- Sau đây là truyền thuyết lưu hành rộng nhất
liên quan đến vị thần đầu tiên là ông tướng Tam Danh; một người đàn bà
ở làng Bảo Ngũ (Vụ Bản, Nam định) đã một lần sinh ra thay vì đứa con
như người bình thường, lại sinh ra 3 loại bao như hình cái túi, trong
bao thứ nhất có một cái sừng, trong bao thứ hai có một cái đầu (sỏ) và
trong bao thứ ba có một bó sắt. Hai vợ chồng cả sợ đều đem chôn tất cả
các vật dễ sợ này ở đầu làng, nhưng kể từ đó trở đi, các ma quái đủ loại
liền hiện ra mà không ai trừ khử nổi. Vậy mà, vào lúc đó (dưới triều
vua Hồng Đức (Lê Thánh Tôn) triều Lê, cả xứ đâu đâu cũng có giặc cướp
nổi lên, vua Lê liền ban chiếu cho tất cả yêu quái trong xứ Bảo Ngũ là
vua sẽ phong chức Đại Tướng Âm binh cho vị nào có thể dẹp hết các loại
giặc cướp gây rối trong nước. Tuy không bị tấn công lần nào, những bất
ngờ các băng cướp đều bị quét sạch. Như vậy nên vua Lê liền tấn phong
cho ba vị yêu tinh thắng trận có tên là Tam Danh Đại Tướng, tức là vị
tướng lãnh âm binh có 3 tên: SỪNG, SỎ, SẮT. Một ngôi đền được dựng lên
để thờ cúng ba vị này và từ đó các pháp sư triệu thỉnh tam vị coi như là
sự tổ của họ.
Chúng ta nên ghi nhận thêm điều này, tuy
thoáng qua, nhưng rất đáng quan tâm là dù truyền thuyết và huyền thoại
xác định từ nguyên thủy thành ngữ Tam Danh chi định ba nhân cách riêng
biệt, nhưng các tên gọi từ đó về sau không còn được áp dụng, mấy khi mà
chỉ định để nói riêng một vị thần duy nhất. Có lẽ người ta còn muốn ghi
nhớ lại thuở ban sơ cái kỉ niệm về một Bộ Tam Thể Xưa, vì người ta còn
đặt ra ba tên một lượt, rất phân biệt là:
*BÀNH KIỀU
*BÀNH CHẤT
*BÀNH CỨ
-Tục nói thành ngôn ngữ bình dân là SỪNG, SỎ, SẮT
TÌM HIỂU VỀ THẦN TAM DANH VÀ ĐỘC CƯỚC.
Tuy vậy, trong phần lớn các lời thỉnh triệu,
người ta vẫn gọi cả ba bằng một tên Tam Danh và coi như chỉ có một vị
thần mà thôi. Tại đây có một thí dụ lạ lùng về ma thuật là các chữ tên.
Giống như việc đặt tên cho một hiện tượng, là đủ cho nó có một hiện hữu
tại thân, còn đặt tên cho 3 vật khác nhau bằng một tên riêng thí dụ gom
cả ba vật về làm một, thực ra tên ấy vẫn là ba. Hiện tượng này trong tâm
lý học tôn giáo là tự nó cụ thể hoá bằng cảnh nào đó, trong cách người
ta biểu hiện thần Tam Danh.Người ta làm ra một bức tượng nhỏ, chỉ có một
thân thể mà lại có 3 đầu, người ta thường gặp các tượng này trên các
bàn thờ riêng biệt của các vị pháp sư. Ta có thể đặt câu hỏi nguồn gốc
của truyền thuyết mà tôi vừa kể do đâu mà có, đây là kết quả các cuộc
tìm tòi tra cứu của tôi. Tôi không dám cho đây là điều khẳng định đúng:
từ Tam Bành, trong tiếng Hán Việt có nghĩa là : các bản năng xấu. Theo
triết lý đạo giáo, tất cả nhân sinh đều chứa trong người ba loại linh
hồn là Tam Bành, nó không ngừng xui khiến con người cứ làm điều xấu xa
tàn ác trong mục đích duy nhất là sau đó nó kết tội con người ở tận
thiên đình, dưới điện Ngọc Hoàng, về các tội lỗi mà con người mắc phải.
Có thể là học thuyết đạo giáo của người Trung Hoa, khi mang nhập vào
Việt Nam đã bị biến thể giống như các học thuyết của Phật giáo và chính
Tam Bành đã biến thành bộ Tam Thế hiện nay. Điều này càng dễ hiểu cũng
như các tên đặt của người Việt Nam cho ba dạng linh hồn :SỪNG, SỎ, SẮT,
có lẽ giống như tố cáo sự giống nhau về tinh thần, đạo đức, với Tam Bành
của người Trung Hoa. Sừng là sừng, còn Sỏ là đầu, những cả hai có một ý
nghĩa kép, tạo thành một thành ngữ kép: Sừng Sỏ có nghĩa là: cứng đầu,
ương ngạnh, giỏi chịu đựng.
Mặt khác sát (trong truyền thuyết, người ta
kể tên sắt thay vì sát theo ý niệm của Đạo Lão. Nhưng không có gì chứng
mình rõ ràng là sự cái biển này chị xảy ra và được chấp nhận về như cầu
của vấn để tìm cho ra một nguyên nhân chính đáng để thay đổi. Và vì thế
người ta đã tạo ra một từ có vẽ gần giống với truyền thuyết, theo đó các
bao được sinh ra có chứa mỗi bao một vật) có nghĩa là giết, là cho chết
bằng gươm, đao, bằng sắt (giết là điều xấu xa không tốt). Như vậy, ta
thấy cả ba đều gần gũi nhau qua định nghĩa chung của từ Bành :bản năng
xấu.Điều này cho chúng ta có quyền giả định từ Tam Bành hay Tam Danh của
người Việt xưa (An Nam) chẳng gì khác hơn là khái niệm nguyên thủy của
Đạo giáo Trung Quốc đã bị biến cải một cách sâu đậm.
Vị chủ sư thứ hai của pháp thuật, theo bản
thảo tìm được của tôi là thần Độc Cước (một chân). Ông nầy nguyên người
làng Toàn Đông, huyện Bảo An, phủ Từ Sơn, tinh Bắc Ninh. Cha ngài là
Nguyên Lê vốn là một pháp sư lừng danh, không có còn trai nói dõi, ông
cầu nguyện đức Phật và nhiều quyền lực tôn giáo khác để can thiệp với
Ngọc Hoàng. Vị thần tối cao liền cho xuống trần một vị thần vào đầu thai
trong nhà và làm con của Nguyên Lê.
Người ta đặt tên Ngài là Nguyên Độc, tới 10
tuổi, cậu bé Độc đã biết thành thạo về nghệ thuật phù phép và có thể
thực hiện được những gì cậu đã vì bốc đồng tình cờ mà làm ra. Một ngày
kia, cậu đánh trống và làm những động tác triệu thỉnh chung chung, khiến
động thấu đến thiên đình và vang động khắp bốn phương nhân gian.Ngọc
Hoàng không chịu nổi những chấn động quái gở như vậy, nên Ngài liền phái
xuống trần một vị "Chu Tử" (mặc quần áo đỏ) thuộc dạng một sĩ quan tùy
viên để đi lấy tin tức về sự náo động kia. Viên sĩ quan này, noi theo
các tiếng động, xuống tới nhà của Nguyên Lê và thay vì gặp ở đó như điều
ông dự kiến là một đám đông ồn ào, hỗn độn dữ dội, ông lại chỉ thấy có
một mình cậu bé Nguyên Độc ở đó, cậu lại đang bình thản ngủ vùi. Lợi
dụng dịp may hiếm có, vị thần áo đỏ rút gươm ra, chém một nhát, chặt đôi
thân thể cậu bé, ông mang một phần thân thể về trình Ngọc Hoàng. Sau đó
ông Nguyên Lê vừa trở về nhà, nhìn thấy con bị chém đứt làm hai, vô
cùng hoảng hốt, ông ôm chầm phần còn lại của đứa con mà đi chôn. Sau 100
ngày, ông lao vào đủ các cuộc cúng tế, nguyện cầu và sử dụng phù chú,
ông gặp lại đứa con bị chém của mình.Cậu bé sống lại, lành hẳn các vết
thương và còn khỏe mạnh hơn cả trước kia. Cậu bé tìm cho mình những
kiếm, gươm, cờ và gậy phép và từ đó cậu có được các quyền lực phi
thường. Danh tiếng của cậu liền được truyền rao xa xa, nên từ đó cậu
được tôn vinh là tổ sư vua la vị tổ bảo hộ cho tất cả các pháp sư.
Việc thờ cúng các vị thần này thật giản đơn
và các nghi thức pháp thuật hiện tôi đang có trong tay không khác mấy,
vào chi tiết, với các lễ lộc phụng cúng dành cho các vị thần này. Người
thấy bùa phải "cầu nguyện cả ngày lẫn đêm và dâng cùng lễ vật vào những
ngày mùng 1 và ngày 15 (ngày rằm) của mỗi tháng". Muốn cúng bái, mỗi
pháp sư đều có sẵn trong nhà một bàn thờ, thường thường ít trang hoàng
diêm dúa, đặt trong cái am nhỏ, cất riêng biệt. Trên bàn thờ có các hình
vẽ và các tượng bằng giấy ít khi làm bằng gỗ, của Phật, Ngọc Hoàng, Lão
Quân, của Tam Danh và Độc Cước. Các tượng này xếp hàng theo cấp bậc
trên các bệ có độ cao thấp khác nhau, theo thứ tự, như tôi vừa kể. Rồi
tới các linh thần thứ cấp, như các Hộ Pháp, như các vị Thiên Sứ giữ gìn
bảo về pháp luật. Các vị này được giao trọng trách truyền mệnh lệnh của
chư thần. Trước bàn thờ, có các lư hương, các đỉnh trầm hương và tất cả
các phụ tùng thường dùng trong việc thờ cúng. Chính tại đây, ông thầy
bùa mỗi ngày đến cầu nguyện và làm bùa chú. Trên một chiếc bàn thấp hơn,
vào những ngày hiến tế, ông đặt các phẩm vật cúng: cơm, rượu, cau và
trầu, gà, hoa trái, bó vàng giấy và bạc giấy,..v.v... Các ngày cúng diễn
ra vào các ngày đầu tháng (tuần trăng mới =30, mồng một hàng tháng) và
ngày trăng tròn (15 mỗi tháng âm lịch). Đây chính là những ngày nguy
của người Việt xưa và nay vì là ngày hàng tháng bà Nguyệt (trăng) kết
duyên với mặt trời. Ngày mồng một đầu tháng chính là ngày mặt trăng nhú
ra khỏi các tia nắng tàn tạ của mặt trời lặn, và mặt nguyệt mới nhận
được nguyên lý sáng đầu tiên để lớn dần lên tới ngày 15 rồi giảm bớt đi
vào cuối tháng và được sáng trở lại vào tháng kế tiếp. Như vậy, mặt trăng
trở thành biểu tượng của nguyên lý âm và từ đấy, cùng chia sẻ với nữ
giới ảnh hưởng mầu nhiệm của nguyên lý âm, mà người ta gán hẳn cho vầng
nguyệt. Mặt khác, mặt trăng như vậy đương nhiên được mời gọi đóng vai
trò trọng yếu trong pháp thuật mà các lễ tục thường thường được thực
hiện về đêm, vào lúc trăng vừa xuất hiện. Chính vì các lý do này mà
những ngày 1 và 15 trong tháng âm lịch đều đặc biệt được chỉ định để tổ
chức các cuộc cúng kiến dành cho các Thánh tổ của phù chú.
TÌM HIỂU VỀ CÁC VỊ THỦY TỔ CỦA BÙA CHÚ.
Một vị thần rất được trọng vọng trong ngành
pháp thuật Việt Nam là thần Huyền Đàn (1). Huyền Đàn chính là một tướng
lãnh có nguồn gốc từ Trung Hoa. Người Việt vẫn thích cầu Ngài như một
người đồng hương của họ. Họ cho Huyền Đàn sinh ra ở Bắc Việt dưới triều
vua Đinh Tiên Hoàng, triều đại nhà Đinh (968 sau TC). Thần có tất cả
những bí mặt của thiên nhiên có huyền năng thắng thiên và độn thổ, cởi
trên lưng hắc hổ. Thần có một thanh gươm thần, một sợi dây mầu nhiệm và
một cây đũa bói toán nên tất cả mọi sự đối với Ngài việc gì cũng làm
được. Với tư cách là một tướng lãnh chỉ huy, Ngài tham gia vào nhiều
cuộc chiến và luôn luôn chiến thắng (2). Sau khi Ngài chết, Ngọc Hoàng
Thượng Đế đặt dưới quyền Ngài tất cả 12 vị tướng lĩnh của thiên đỉnh.
Các pháp sư sử dụng nhiều nhất vị thần nầy.
Huyền Đàn không phải là nhân vật lịch sử độc
nhất đã được tôn vinh thành một đấng thần linh trong nền phù chú Việt.
Còn có một vị khác được nhiều người biết hơn là: Lão Tử hay Lão Quân,
như tiếng Việt gọi Ngài. Ở đây, việc thờ cúng dành cho các đại linh hồn
của những đại nhân vật lại được biến đổi khá sâu sắc nên dễ khiến ta
hiểu lầm.Tín ngưỡng dân gian đã có sẵn truyền thuyết rất nổi danh trong
lịch sử, tạo cho mỗi vị thần thánh một thứ nửa thần thánh, nửa phàm nhân
có được những quyền lực siêu nhiên.
Lão Quân theo tầng lớp bình dân người Việt,
sinh ra đã có tóc bạc, có ba lỗ tai dài, mỗi lỗ có ba ống dẫn thanh, có
đôi mắt và miệng vuông, mũi tạc bằng hai chiếc xương, râu dài, trán
rộng và răng thưa. Mẹ Ngài mang thai 81 năm và sinh Ngài ra ở nách. Lão
Quân hiện nay là một trong ba vị thủ lĩnh của học thuyết qua đó có pháp
sư thường vẫn cầu nguyện. Sau đây là một trong những lời cầu nguyện
người ta dâng lên Lão Quân khi khai lễ: "Sự ra đời của Ngài thật mầu
nhiệm, nên người ta tôn vinh Ngài là Thánh. Ngài bước vào đời bằng nách
trái của mẹ Ngài, dưới một cội đào đang được trổ hoa trong vườn. Chính
vì vậy, người ta đã đặt cho Ngài tên là Huyền Lý, nhưng tên thật của
Ngài là Thái Bạch và bí danh của Ngài là Lão Đam, Ngài đội một chiếc mũ
có bao phủ trăm đóa hoa vàng y, và Ngài có khả năng nguyền rủa bọn tà
ma. Ngài có thể tặng cho bọn hữu tử 100 thứ bệnh dữ dội và Ngài biết
nghệ thuật tạo ra Tam Độn Phản Ác (3). Tín đồ của Ngài cầu khẩn xin Ngài
giáng trần để chứng kiến cuộc cúng tế này". Có thể có kẻ cho rằng thật
bất ngờ việc thờ cúng dành cho một đại triết nhân đời thường với Khổng
Phu Tử lại thoái hóa trở thành một hệ thống thực hành bùa chú như Đạo
Lão hiện nay, đã biết rõ nguyên lý lớn của ma thuật chúng ta sẽ hiểu dễ
dàng hơn sự cải biến này
Học thuyết của Lão Tử, gọi là đạo, từ đó phát
sinh Đạo Lão, có nét đặc trưng là do học thuyết đó thừa nhận sự tồn tại
của một nguyên lý đầu tiên tức là đạo. Từ đạo toát ra tất cả mọi sự
hiện hữu trong thiên nhiên.Đạo được nhà hiền triết bên Trung Hoa định
nghĩa: Là nguyên lý cao cả của cuộc sinh tồn, là sinh lực và là lúc
sáng tạo, là nguyên lý chung của vũ trụ. Không có vật gì mà đạo không
thấm nhuần, đạo là nguyên nhân của sự hiện hữu, là nguyên lý làm phát
sinh mọi sinh linh. Đạo là cái mà cả trời và đất đều rút ra được tinh
chất của chính mình. Đạo là lực bất phân chia, toàn năng, toàn thiện, có
trước cả trời lẫn đất, vô dạng, vô danh, vô thân, thực hiện đơn độc,
bất biến, chu tuần khắp nơi vĩnh cửu (4). trong sách đạo đức kinh ta còn
đọc được :
" Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhi sinh tam,
và tam sinh ra vạn vật " một nhà bình luận người Trung Hoa giải thích:
"cái một tiên thiên chia ra thành 2 nguyên lý: dương (đực) và âm
(cái), rồi cả 2 nguyên lý kết hợp lại từ đó có thái hòa trong vũ trụ''.
Như vậy, vũ trụ luận của Đạo Lão gần gũi liên
hệ tới phần vũ trụ luận mà người Việt thường hay gọi là cái Tinh. Như
vậy, Đạo gần gũi với cái Tinh và ta có thể tự hỏi phải chăng ở đây đã có
sẵn và cùng một thứ khái niệm được trình bày diễn tả thành hai ngôn từ
khác nhau? Dù sao, cách định nghĩa của hai phia cũng trùng hợp với nhau
một cách lạ thường và chúng ta có thể tự giải thích cho riêng mình Đạo
chính là Tinh và hai cái đã có thể trùng hợp với nhau bằng một nguyên lý
lớn về ma thuật và học thuyết triết học lấy đó làm đối tượng đã trở
thành một thứ kinh thánh cho các nhà phù thủy Trung Hoa và người Việt
Nam.
Dù sao cũng không thể bảo rằng việc thờ phụng
Lão Tử là hoàn toàn thuộc về ma thuật. Thật vậy, việc thờ phụng này
đụng chạm tới việc tôn thờ các linh thần, đã bị biến cải bằng cách nào
đó. Như tôi đã nói ở trên kia, tất cả tính cách mềm dẻo và vô cơ của ma
thuật có khuynh hướng tích tụ lại, cố định lại, và tự tổ chức lại để
tiến tới thành những hệ thống tôn giao đích thực.
*(1) Huyền = đen, sâu. Đàn = mô đất cao, nơi
cúng kiến, tế lễ. Sách BÙA CHÚ ĐẠI TOÀN viết về Huyền Đàn như được giao
cho trách nhiệm điều khiển một hội đồng tư vấn ở Thiên Cung, hội đồng
này nhóm họp ở một nơi gọi là Huyền Đàn = mô đất cao màu đen.
*(2) Cần chú ý rằng trong thời gian khá lâu,
người Việt đã coi nghệ thuật quân sự như một thứ nghệ thuật chủ yếu có
tính ma thuật. Các tướng lĩnh trước khi ra trận, không chỉ cúng bái tế
lễ để tạo lợi thế cho mình về phần vận mệnh của binh khí, mà còn lao vào
chống giặc bằng những cách thư phù nhằm mục đích tiêu diệt địch hay
loại địch ra khỏi vòng chiến đấu, ngay trước khi lâm chiến. Người ta vẫn
còn tìm thấy trong tay các vị thầy pháp những tác phẩm về phù chú quân
sự, trong đó có các biện pháp để chiến thắng đều được nghiên cứu. Ta sẽ
gặp trong đó những lệnh hành quân được định danh là trận Bạch Hổ, trận
Phi Xà, v.v...Chính tôi đã từng chứng kiến một trong những kỳ công được
thực hành dựa theo truyền thống quân sự này vào lễ hội tại làng Phù Đổng
(thuộc tỉnh Bắc Ninh).
* (3) Tam Độn : Ba phép độn, còn gọi là:
phép độn, xem độn, đánh độn, cách bói độn, thực hiện bằng cách bấm đếm
các đốt ngón tay. Phản ác, ma thuật qua đó các pháp sư đốt nhà, hay trộm
lấy vật gì họ thích, bằng cách sai khiến con bù nhìn gọi là con môi.
* (4) Đạo đức kinh -trương XXV. Bản dịch của
L.de Rosny. Dịch giả coi Đạo định nghĩa như vậy chính là trời (Đạo giáo
trang 95). Tuy vậy ở trang 97, ông thừa nhận ý tưởng Thượng Đế này
được phát triển dưới dạng" Thần nhân đồng nhất thể" (Anthropmorphisme) để loại trừ tất cả ý kiến.
CÁC NGHI THỨC PHÙ CHÚ.
Từ toàn bộ các khái niệm và nghi thức về phù
chú mà ít nhiều chúng ta đã biết, có nhiều điều bó buộc rõ rệt và nhiều
phương cách hành xử cần tôn trọng thật chặt chẽ. dù người ta muốn phòng
vệ chống lại những ảnh hưởng xấu hay người ta tìm cách chế ngự để phục
vụ cho mình, hoặc biến các ảnh hưởng khác thuận lợi vì lợi ích của
mình.Nhiều nghi thức đã thành những quy pháp hành xử, có thể xếp thành
hai loại.
1. Các lễ nghi cấm chị hay cầu đảo phép thuật thụ động
2. Các lễ nghi chủ động hay tế nhân độ thế, tức là các lễ nghi trừ yếm
Cả hai loại nghi thức này, dẫu có khác nhau,
đều có tính chung. Dù là nghi thức nào cũng đều có tôn chỉ nhầm vào nội
dung phù phép. Ở đấy, quy tắc tổng hòa chung là TINH vẫn đang hoạt động
và tùy theo trường hợp sẽ diễn ra cách hành lễ thế nào để tiếp cận hãy
để cách ly cái TINH ấy. Hơn nữa, tất cả mọi nghi thức không hề có ngoại
lệ đều được chế ngự hay lãnh đạo bởi một ý tưởng chuyên biệt thần bí nên
cần ý thức về một thế giới đặc biệt siêu hình rất nguy hiểm khi tiếp
xúc với thế giới ấy. Và chính vì tính cách đặc biệt này, các nghi thức
cầu đảo hay trừ yếm đều liên kết chặt chẽ với nhau. Không chỉ có nghi
thức nọ mà không có nghi thức kia. Và không bao giờ hai nghi thức ấy
tách rời nhau. Chúng gắn bó với nhau như bóng với hình. Các sự kiêng cữ
và cấm kỵ có tính nghi thức như: nhịn đói, trong sạch về thể xác,
v.v...chỉ có thể được kết hợp với các nghi thức chủ động, tức là nghi
thức trừ yếm để tế nhân độ thế muốn cho hiệu năng đạt càng cao, người
hành lễ phải tự chủ động khép mình vào các điều cấm kỵ càng nhiều. Đây
chỉ là biện pháp chuẩn bị giúp cho vị pháp sự tiếp xúc với thế giới
huyền linh mà khỏi sợ nguy hiểm. Nếu không cần tiếp xúc với thế giới này
và đi vào thế giới siêu linh thì các biện pháp cữ kiêng không còn ích
lợi gì nữa.
Dù vậy, ta cũng cần thấy rõ sự phân biệt hai
thứ nghi thức khác nhau giữa pháp thuật tích cực (chủ động) và pháp
thuật tiêu cực (thụ động) thực ra không phù hợp với thực tế các sự
việc. Tôi chỉ bàn tới các vấn đề này là để cho phần trình bày sau đây
thêm sáng sủa và dễ dàng hơn thôi.
Trong cùng mục đích muốn, chúng ta trước hết
bày một số phụ tùng của vị pháp sư (thầy): dụng cụ, thuốc, bùa, v.v...
và nên nghiên cứu thêm một số nghi thức sơ đẳng: vật cầm tay, bộ gõ
được sử dụng thường nhất, coi như là những vật phụ tùng bổ sung cho các
nghi lễ phức tạp.
(I). Hành trang của vị pháp sư không phức tạp lắm, gồm có:
1/ Những lá cờ ngũ sắc: gọi là cờ ngũ hành
dùng để xua đuổi tà ma khi cần làm phép cho một người bị quỷ ám hoặc khi
cần sử dụng một tay đồng cốt.
2/ Những cây kiếm gỗ cùng roi, gậy, roi mây, đủ cỡ dùng để đánh hoặc trục xuất những con tà.
3/ Một số loại các vật gây âm thanh: mỏ gỗ, thanh la, não bạc bằng kim loại, có mục đích làm cho các con tà sợ phải dang ra.
Bộ đồ tế nhuyễn này như ta thấy, toàn có
tính cách phòng vệ, người ta còn giả định nhiều phương tiện hành động
khác trong số đó có các lá bùa ếm chiếm vị trí quan trọng nhất.
Những loại bùa, phần lớn bằng giấy, có nhiều màu khác nhau :
-Trắng
- Đỏ
- Vàng
Tùy theo trường hợp sử dụng. Trên các tờ giấy
này, người phù thủy vẽ lên những chữ đặc biệt, chữ Hán, thường được
biến dạng và cách điệu, tùy theo các quy ước riêng, hoặc là hình mặt
người, đầu, mình thú dưới dạng hoàn toàn tượng trưng, chỉ gợi lại những
hình ảnh hay những đường nét tiêu biểu thật xa xôi hay chỉ na ná với sự
thật mà họ muốn diễn tả. Những sự biến dạng cố ý này chẳng có mục đích
nào khác hơn là đáp ứng được yêu cầu và tính chất thiết yếu của bùa chú,
nói lên được nét riêng tư của trường phái và tôn chỉ pháp thuật, nên
lúc nào cũng có vẽ bí ẩn, huyền hoặc mà ý nghĩa đích thực của nó đã
thoát khỏi sự tầm thường và thông tục.
Muốn làm bùa, phải có những quy cách chính
xác, cần được tôn trọng kỹ lưỡng để không làm mất tính linh nghiệm của
bùa. Trước hết có những quy cách để định hướng lá bùa. Khi vẽ bùa cần
nên đứng xoay mặt về hướng tây vào tháng 1, tháng 5 và tháng 9, xoay mặt
về hướng nam vào những tháng 2, 6, 10, xoay về hướng đông các tháng 3,
7, 11. Và xoay về hướng bắc các tháng 4, 8, 12.
Cần xem kỹ mối tương quan giữa các mùa tiết,
các tháng với bảng phân loại ngũ hành mà người Việt Nam ta đã rất quen
thuộc và biết rõ tác dụng của từng phương hướng vào các giai đoạn, thời
tiết trong năm. Do đó ta có các hướng giờ thuận hay không thuận và anh
hưởng của các phương hướng tác động lên sự cát hung, tương đương với các
mùa, các giai đoạn thời gian, v.v...Vị pháp sư khi về bùa, nên định ra
được hướng nào có gió thuận và đưa tới điều cát tường, gọi là hương sinh
khí (luồng gió mang sự sống) để xoay về hướng đó. Đương nhiên, như
các nguyên tắc đã nêu, sự định hướng này cần thay đổi theo từng lúc
trong năm và theo vị trí mình đang đứng.
Như trên, tôi đã nhắc đến cái Tinh. Vậy cái Tinh là gì ta thử tìm hiểu:
Nếu, tới đây, chúng ta thấy cái Tinh tác động
lên sự vật hay lên các sinh vật như một thứ dòng chảy vô ngã, thì ta
cũng không nên quên rằng Tinh cũng có những dạng nhân linh đối với các
bản thể anh linh (những người khuất mày, khuất mặt = linh hồn). Trong
những điều kiện mới này, các hành động của Tinh không còn giống như
trước nữa.
Trong quan niệm đầu tiên, Tinh là thành tố có
nhiều đặc tính và đức tính của cả vật thể lẫn sinh thể. Tinh hành động
theo những quy luật nhất định. Những ai biết sử dụng sức mạnh mù quáng
này đều có thể điều tiết các lực ấy vào luồng, điều khiển chúng về hướng
này hay hướng khác, khiến chúng sinh sản ra lực theo ý riêng của mình
và có hiệu quả lợi hay hại tuỳ ý.
Với các linh hồn, Tinh không còn dễ vận dụng
như vậy nữa. Các bản thể nhân sinh đã giải phóng cho Tinh đều có nghị
lực riêng. Nghị lực này có thể đối chọi với nghị lực của con người.
Từ đó cho các thầy phù thuỷ có nhiều quy pháp
điều hành; và điều kiện đầu tiên để khám phá ra các quy pháp đó và áp
dụng vào theo đúng chủ đích là phải biết dùng các linh hồn đó thế nào,
bản chất của hồn, hồn tụ ở đâu, thường thường hồn xuất hiện ra sao?
BẢN CHẤT CỦA HỒN ? Chúng ta đã biết bản chất
này qua định nghĩa bởi vì chúng ta biết rằng Hồn là một phần của Linh
Hồn tổng thể: tức Thần hay Quỷ, là những bản thế tế vi, ở mức độ vật
thể có chừng mực, đa số vô hình, nhưng chúng lại biểu hiện sự hiện hữu
của chúng qua các hành vi. Ta nên thêm vào. Vì dưới dạng sinh linh hữu
ngã, chúng vẫn có một ý chí, thường thường là ham hố và đua đòi, nhu
cầu, dục tính, giống như con người. Họ cũng có tâm lý mà chúng ta cần
nghiên cứu ngang tầm như -nếu ta có thể gọi - "tâm lý của linh hồn."
Một đoạn trong Trung Dung của Khổng Tử cho
chúng ta cách mô tả rất chính xác về ý tưởng mà người Hoa cũng như người
Việt gán cho linh hồn nói chung: Khổng Tử nói: Mọi năng lực tinh vi
của Trời Đất đều lớn lao và sâu kín. Người ta tìm cách nhận thức các lực
ấy, nhưng không ai nhìn thấy chúng đâu. Người ta tìm cách lắng nghe
nhưng vẫn không ai nghe thấy chúng. Được coi như bản thể của sự vật,
chúng không bao giờ tách rời khỏi sự vật ...Đây chính là một Đại Dương
mênh mông đầy sự thông minh tinh tế, chúng ở khắp nơi, bên trên chúng
ta, bên tả, bên hữu chúng ta, và bao vây chúng ta khắp nơi.
KINH THI viết:
"Linh hồn đến hay đi đều không xác định.Dù
quá tinh tế và vô hình, linh hồn vẫn biểu hiện dưới dạng nhân thân của
bản thể, bản thể của hồn là bản thể hiện thực, thật, hồn không thể biểu
hiện dưới dạng nào khác được."
Chúng ta thấy lại ở đây cái Tinh Khí mà chúng
ta đã lấy làm nguồn gốc của khái niệm về linh hồn. Cái bản thể này nếu
không có nó sẽ không có gì biểu hiện ra sự hiện hữu của nó. Đó là cái
dòng chảy gắn bó với mọi vật thể mà sự có mặt và hành động của nó đều
phải khái quát. giống như dòng chảy linh hồn đều không thể sờ mó được mà
chỉ gần như phi vật thể. Vì vậy ý kiến ta có về nó thật hết sức mơ hồ.
Ông Cadiere viết: "Đó là những âm vang của
tiếng nói con người trong đêm tối, trên bờ cát, những hình dạng ly kỳ
hiện ra trong cảnh nửa sáng nửa tối; đó là tiếng sóng vỗ rì rào trên
lớp sỏi; là bóng cây cổ thụ bên đường; là tiếng rì rào của gió trong
cành cây." Như chúng ta đã thấy trước đây, những Ma Trơi là các ánh lửa
bay chập chờn; Ma Xó xuất hiện như các bóng tối lướt qua; Ma Mọi gây
tiếng động giống như cơn gió lốc, nhiều ma khác để lại sau nó những đám
mây bụi mịt mù. Chúng ta luôn luôn thấy xuất hiện cái ý tưởng về khí,
hơi, gió có sức gây nhiều hiệu quả. Một ý tưởng thống quát toàn sự vật,
trong đó Tinh Khí được định hình.
Giống như Tinh Khí các hồn ma dù có thuộc
tính loãng cũng đều có tính cách vật thể có mức độ. (tức thuộc về vật
chất phần nào). Người ta có thể nắm bắt chúng như nắm bắt các vật thể
cứng.
Chúng ta đã từng thấy muốn chận bắt những con Ma Đậu, người ta chặn một tấm lưới quanh chiếc nôi của đứa bé ốm.
NGHI THỨC BÙA CHÚ.
Ở miền nam người ta cắm vào mồ một con ma ác
của một người xa là bằng một cây đinh hay một thanh sắt cắm lên mộ ở vị
trí đầu nằm của người chết. Khi một bệnh nhân bị ma am, vị pháp sư đưa
cho anh ta một hình nhân tiêu biểu cho con quỷ nhập thân, để bắt quỷ
phải chịu khuất phục và bị nhốt dưới một cái chén úp. Dưới buổi chiều,
khi trời gần tối, gia đình người bệnh phải đem chiếc hình nhơn ra và bỏ
vào cối giả 100 chày. Trong một số trường hợp bị ma ám, chẳng hạn, nếu
cả hai vợ chồng đều bị hiếm muộn, không sinh con được do nhiều hồn ma
nhập vào, thì vị pháp sư yêu cầu một số vị thần nào đó chặn lưới khắp
nơi để chận bắt và khai trừ các tên ôn hoàng. Khi có kẻ nào chết vì Hung
Thần, thì nên theo cách sau đây, giải thoát cho thi hài khỏi bị ma quậy
phá ; người ta làm một lá bùa bằng giấy, trên đó có viết tên vị hung
thần và người ta đặt bên trong tờ giấy xếp 100 cây kim dành để giữ lấy
hồn ma. Hơn nữa, người pháp sư còn đọc câu thiệu sau đây: "Cầu Đại
Soái thiên Quân bắt giữ Thần Đại Tướng Địa Phủ trói chúng lại và các
Đương Niên đóng gông chúng."Nếu các loài ma, ở mức độ nào đó có bản chật
vật thể, điều này do các con ma thường hiện ra một cách hiện thực;
chúng sẽ biểu hiện khác đi vì ý niệm về hồn chỉ được xem xét theo một
quan điểm đặc biệt, nên sự lý giải chính là nguyên nhân nhân cách hoá
các hiện tượng; vì bất cứ hiện tượng nào cũng tác động lên giác quan
chúng ta. Một người sinh trưởng trong Thung Lũng Nguồn Sơn kể lại với
thầy tôi rằng : "Một lần tôi nhìn thấy con Ma Xó. Tôi đi dài theo con
đường cái quan vào lúc trời chạng vạng. Thình lình tôi nghe phía sau
lưng tôi giống như có một bầy heo con chạy ào ào vào hàng rào. Tôi tìm
xem việc gì đã xảy ra .... Thình lình tôi thấy ở ngay giữa đường một
đống đen khổng lồ to gần bằng chiếc xe cần xé này... rồi tôi nghe như
một tiếng gầm gừ lớn. Rồi như tiếng ken két của những thân tre nghiến
vào nhau..."Các con ma cũng có thể bắt láy bạn, vật bạn xuống đất, đỡ
bạn lên, và chống cự lại bạn v.v...
Những con ma như vậy gần giống như những
người sống. Sau này ta sẽ gặp. Nó không thể khác hơn. Trong khi người ta
đã ban bố một nhân cách cá nhân khá rõ nét cho một bản thể anh linh ta
cũng nên trình bày nó bàng cách nào và ở quan điểm này trí tưởng tượng
của con người thật ngắn ngủi, nó không thể vượt qua được cái vòng lẩn
quẩn của thế giới tri giác; và đương nhiên nó phải chịu số phận làm
người hay làm thú...ít nhiều kỳ quặc, nhưng luôn luôn không nhiều thì
ít, nó vẫn hiện thực vì vậy ta phải hình dung được các linh hồn.
Giống như mọi sự vật ( không nên quên rằng
đối với người Việt nói riêng và Phương Động nói chung, tất cả mọi sự vật
đều có sự sống). Chia làm hai giới: Dương và Âm. Đại khí của vũ trụ
tác thành hai nguyên lý đối lập, nguyên lý Dương và nguyên lý Âm.
Quỷ Thần cũng vậy, Quỷ hay Thần đều tuỳ thuộc
vào sự biểu hiện của nguyên lý Âm hay Dương. Thần thuộc Dương con Quỷ
thuộc Âm. Như vậy ta thấy cách phân chia này cũng rất logic: linh hồn
của mỗi phạm trù đều tuỳ thuộc vào hai giới tính âm dương cả. Những thứ
con tinh hay yêu tinh đều thuộc âm, chúng hiện ra trong giấc mơ dưới
dạng phụ nữ. Có khi rất xấu xí, có khi rất đẹp. Một loại hồn ma khác
cũng thuộc âm được gọi là Chư Vị, họ là các tiên nữ sống trong rừng, lùm
bụi, cây cối, núi non. Còn có thêm 12 Bà Mụ bảo trợ các trẻ sơ sinh ;
những cô công chúa của Tam Thế Giới (Tam Thế là: thượng, trung, hạ
...)
Giống người sống, các hồn ma cũng có những
nhu cầu như con người. Họ cũng ăn, mặc và cần nhà cửa, có nô tì v.v...
Người ta dâng cúng cho họ những lễ vật gồm có cơm, gà, vịt, thịt nướng,
trái cây, trầu, cau, rượu. Người ta chưng hoa và đốt hương, cúng vàng,
bạc, kể cả các tiền đồng hiện đại....bằng giấy thường. Trong sách nghi
thức thờ Tam Phủ có diễn tả như sau :
" Gia đình một cô gái bị bệnh có mời ba Phù
Thủy tới. Bà này báo trước là có mời thêm một số chư thần văn võ về dự.
Bà yêu cầu các đại lý trần thế của bà phải lưu ý. Các vị đại biểu này
trình bày rõ họ đã được giao nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe người trong gia
đình. Kẻ nào không cúng kiến đầy đủ lễ vật, thì không được các ngài phù
hộ. Do đó họ yêu cầu Bà Thủy gieo cho họ quyền sửa trị tất cả những kẻ
nào chưa tôn kính bà thật lòng. Họ phải cúng bái chư thần, và Chư Vị sẽ ở
lại trong đền đài của họ để cho mọi người sống được bình an. "Những linh hồn không có chung sở thích và các
sách lễ nghi lại có nhiều chỉ dẫn tỉ mỉ như: Hồn nào thích cá chép,
hồn nào thích lươn, hồn thì ưa thịt chó, mà chó thì phải có màu nào, màu
nào cần cho vị nào. Hồn Trùng Tang ăn thịt gà, Hồn Thiên Cẩu ăn thịt
sống, vì chó thích thịt sống; Thần Cấp Ước Ương Sát thích nhất là cái
đầu heo v.v... Phẩm vật cúng cho Hưng Đạo hay các vị dưới quyền của ngài
phải không cúng thịt. Các Chư Vị đòi người ta đem vào đền quần áo, nón,
giầy, bằng giấy v.v... bởi vì các bà, bà nào cũng thích chưng diện (Chư Vị = phái nữ).
Và các hồn ma cũng mặc quần áo. Vào ngày đầu
năm người ta thay đổi y trang trong tủ quần áo của chư thần. Đối với các
Thần Táo, người ta cúng mão. Đối với các Đương Niên (lính) phải cúng
cả một lô đủ loại quần áo có bán ở chợ, '' bộ mũ'' gồm có một cái mũ,
một áo dài và một quần dài. Chư Vị vốn khó tính, muốn các vị hài lòng,
người ta dâng các cô những hộp nữ trang, đồ trang điểm, quạt và gương
tay v.v... Khi muốn trình bày vị nào, phải luôn luôn cho thần mặc phẩm
phục đội mũ bình thiên tay cầm hốt ngà. Và có lúc thần chỉ có tấm bài vị
thì bài vị phải được phủ chiếc áo dài hay tấm lụa màu, bên trên đội
chiếc mũ trang trí lộng lẫy bằng vàng hay bạc. Để về trời các linh hồn
đều có xe hay vật cởi. Một số, như các thần bếp, dùng cá chép hay cua.
Nhiều thần khác dùng ngựa voi, ở nhiều đền miếu người ta gặp các tượng
thú bằng đá hay bằng gỗ sơn. Thủy thần có vật cởi là rắn 3 đầu goi la
con Lốt. Trước nhiều bài vị của thần làng xã còn thờ một chiếc tam bản
sơn đỏ, có đầu rồng thép vàng gọi là ''Thuyền Rồng'' dùng để chở ''Ông
Thần'' lên thiên giới. Đôi khi còn thấy những chiếc cáng, hay kiệu. Các
ngai thờ đặt trên những chiếc xe tay v.v... đó là để cho các hồn thiêng
sử dụng khi di chuyển.
Người thầy bùa chuyên nghiệp biết sử dụng mọi
chung loại linh hồn của người chết, các linh hồn lang thang, đầu ghềnh
cuối bãi để yểm trợ ông trong các cuộc trấn yếm, phù phép.Sau đây là
điều ghi chép trong cẩm nang pháp thuật BÙA CHÚ ĐẠI TOÀN: "Việc chiêu
tập vong hồn chỉ có thể thực hiện trong các điều kiện phiếm định. Vào
một ngày tháng tốt nào đó, người ta phải tổ chức một cuộc lễ chuẩn bị
bằng cách cầu khẩn và dâng hiến lễ vật. Rồi vị pháp sư đi ra một nơi
vắng vẽ, thường thường là nơi các nghĩa địa, liên tiếp trong 100 đêm
liền, vào giữa đêm hoặc 2, 3 giờ khuya, lúc mọi vật đều im ắng, thanh
tịnh, côn trùng và chim chóc đều im hơi lặng tiếng, khi gà chưa gáy, chó
hết sủa.Vị pháp sư liền thấy xuất hiện những con đom đóm, đó là những
vong hồn phiêu bạc sắp trở thành âm binh của ông. Ông đặt tên riêng cho
từng âm binh à ban bố chức tước cho chúng, rồi ông bắt chúng biểu diễn
quyền lực riêng của từng đứa, chẳng hạn như chúng phải làm đau hay chửa
lành bệnh cho người nào đó. Khi hết 100 ngày chiêu binh, nếu các cuộc
cúng bái đều hoàn thành mỹ mãn, pháp sư triệu tập các âm binh lại ở một
ngôi đền hay miễu, mà ông đã dọn lên, dành cho công cuộc làm phép của
ông. Nhiều lễ vật bày ra trên bàn thờ, và ông thầy bùa gọi từng vong hồn
lại, mỗi vong ông đã đặt cho một tên riêng, ông mới chỉ định cho từng
tên mỗi nhiệm vụ và công tác mà chúng phải thi hành. Có một số âm binh
được dùng riêng trong công tác phục vụ ngôi đền nên ở lại ngôi đền
thường xuyên. Kể từ đấy, tất cả các linh hồn đều đáp ứng lại lời kêu gọi
của Thầy pháp và thực hiện công việc do ông chỉ định.
Các vong hồn khác đều là ma. Từ này có ý
nghĩa cụ thể là : xác chết (cadavre), nhưng từ này đã biến nghĩa và trở
thành: kẻ trở về, hồn ma, sau đó lại có nghĩa : hồn gieo họa (esprit
malfaisaut), quỷ (demon). Tôi sẽ minh họa thêm các ý nghĩa này bằng cách
ghi vào đây một trích đoạn trong một bài nghiên cứu đặc sắc của hòa
thượng THÍCH VIÊN MINH (ông ở Thung Lũng Nguồn Sơn, tỉnh Quảng Bình,
Miền Trung):
"Có rất nhiều loại ma, nhưng tất cả đều có
điểm chung này là chúng đều gây điều xấu cho con người, hoặc tối thiểu
chung tìm cách làm cho người ta sợ.
-Ma Trơi, còn gọi là ma lem, là các đốm lửa lập lòe sáng và bay vất vưởng trong màn đêm, trên những cánh đồng ngập nước.
-Ma Le là những con ma lè lưỡi: người ta kể
chuyện có một người hiện ra và đến gợi chuyện với bạn, rồi cùng đi cùng
đường với bạn. Đến lúc nào đó, anh ta hỏi xin bạn một miếng trầu cau,
bạn sẵn lòng trao cho anh ta miếng trầu. Nhưng, thay vì nhận trầu, hắn
lại lè lưỡi ra, lưỡi cứ dài ra dài ra mãi tới đất, để liếm lấy miếng
trầu.
-Ma Loạn: là đám ma đông người chạy dài theo
các con đường làng thành bầy trong lúc có dịch tễ trong làng, người ta
không nhìn thấy chúng, nhưng ban đêm người ta nghe thấy chúng lao xao:
vào nhà nó đi, hoặc vào nhà nào khác? (chúng kêu nói với nhau và sáng
hôm sau người ta phát hiện trong mỗi nhà chúng vào, đều có người mắc
bệnh.)
-Ma Cụt Trốc- túc ma cụt đầu- ma không có đầu
là hồn ma của những phạm nhân bị xử trảm. Người ta không thể nhìn thấy
họ, nhưng người ta biết khi có họ đi qua, nếu ma này đi ngang qua cách
đồng lúa, các giẻ lúa liền khô héo ngay, nếu họ đi ngang qua nơi phơi
lúa, tất cả hạt lúa đều khô cả. Đôi khi các ma để lại phía sau chúng
những cơn gió lốc xoáy tròn đầy bụi cát.
-Ma Rà: ở dưới lòng sông, dưới nước hoặc đáy
ao, đầm, đôi khi có đứa chăn trâu tới chơi bên rìa các hố sâu mà người
ta gặp ở giữa đồng lúa, nó trượt chân té xuống hố và bị chết đuối. Đó
là ma rà đã bắt nó đi.
-Một khách lữ hành qua sông bằng đò, trên
đường đi ông ta lở làm rơi túi xách, ông ta cúi xuống nhặt lên, nhưng
mất đà, ông ta té tòm xuống nước. Cô gái chèo đò đang đứng chèo ở phía
sau, không kịp giữ thuyền lại nên ông khách đó bị chết đuối. Người ta
bảo; đó cũng là ma ra bắt. (1)
- Ma Xó ở trên mặt đất, nhưng trong các hốc
tối tăm và khuất vắng. Bóng tối xuống là ma xó hiện ra, nhiều lúc chúng
hiện trên các cồn đảo giữa các sông lớn. Ban đêm người ta nhìn thấy
chúng đi qua đi lại, một đứa, hai đứa, rồi ba đứa,...chúng đi theo nhau,
không nói với nhau lời nào. Người ta lại gần nếu, có ai can đảm dám lại
gần, rồi không nhìn thấy gì cả. Hoặc một ông câu chèo ngang qua, đi câu
cua bạn đêm hoặc bỏ lưới, sẽ nghe ở xa xa như có tiếng người nói chuyện
xì xào, nhưng không ai nghe được chúng nói gì với nhau. Người ta càng
tới gần, tiếng nói càng lùi ra xa. Cuối cùng tiếng nói im hẳn trong cảnh
thanh vắng tĩnh mịch của đêm khuya và trong tiếng sóng vỗ rì rào. Đó
chính là ma xó nhát họ."
Ở Miền Bắc, ma xó (xó là góc, hốc) đáp ứng
nhiều với truyền thuyết và tên gọi của nó. Những con quỷ nấp trong bóng
tối, các góc, các xó nhà. Tín ngưỡng này rất phổ biến trong dân gian.
Người ta không bao giờ nên để chổi quét nhà trong các xó tối vì ma xó sẽ
nhập vào chổi và nhập vào thân thể của người dùng chổi. Người Việt cho
rằng ma xó ở đồng bằng Miền Bắc thường ở trên miền thượng du. Đó là
những con ma con gái mà thi hài của họ đã bị chôn trong một góc nhà. Khi
các kẻ trộm lẻn vào nhà, họ thường nghe một tiếng nói đếm các đồ vật mà
họ ăn cắp được: cũng là tiếng ma xó.
Người Việt Nam sẵn sàng cho rằng người Hoa sử
dụng ma xó để giữ gìn các kho của cải của họ: rằng, khi họ giàu có,
người Hoa thường lên đường về Tàu, nên họ trao việc giữ gìn của cải chôn
giấu của họ trong một nơi chỉ có họ biết mà thôi, cho một hồn ma gọi
là ''thần giữ cửa'' (2)
- Ma xó thường là các linh hồn cô gái còn
trinh, được mua và đào tạo đặc biệt cho mục đích giữ của. Đầu tiên người
ta cho họ ngậm ''nhân sâm'' rồi bịt miệng lại bằng một chất keo đặc
biệt. Người ta liền dẫn cô gái đến nơi giấu của, người ta dặn dò cô
không nên để cho ai động tới các của quý, mà cô từ nay có bổn phận giữ
gìn. Người ta chôn cô vào hố hoặc đường hầm cho tới khi cô chết, linh
hồn cô gái làm nhiệm vụ canh giữ như lời người ta căn dặn.
(1) Ở Hà Nội, ở đáy Hồ Nhỏ (Hồ Trúc Bạch) ở
ngay trung tâm thành phố, theo truyền thuyết cũng có ma rà được người
ta quen gọi là Con Nam. Đây chính là linh hồn của người chết đuối, đang
tìm người thay thế để y có thể nhập vào thi thể của một người đàn ông
hay một con thú. Người ta kể chuyện có một bà kia, xuống bên bờ nước,
liền bị một vật nửa người, nửa thú từ dưới nước ngoi lên lôi bà ta xuống
nước. Bà ta kêu cứu và bà may mắn được kéo kịp lên bờ bởi nhiều người
nghe tiếng la chạy lại cứu.
(2) Trước khi người Pháp tới Đông Dương,
dường như có lệnh cấm những người Hoa nhập cư vào Việt Nam, không cho
mang bất cứ tài sản nào họ làm ra được trong xứ trở về Tàu. Như vậy, tức
là họ bị cấm trở về xứ sở của họ và để của cải của họ ở lại Bắc kỳ, nên
họ thực hiện bằng cách chôn giấu của cải ở các nơ chỉ có họ biết mà
thôi. Vì vậy, ở trong huyện Hải An (gần Hải Phòng) trong làng Trung
Hành có một kho vàng thật lớn, bỏ lại do một người Tàu chết ở Tàu và dân
chúng trong vùng biết được kho vàng ấy, bị dò tìm khắp nơi trong nhiều
năm dài. Có thể lúc bấy giờ, dưới quyền thống trị của người Việt, các
người Hoa đã dùng tới biện pháp dùng ma xó để giữ gìn các kho tàng của
họ. Ta nên coi đây là biện pháp bị lên án mà hiện nay một số vùng sâu
của Trung Quốc còn lưu hành.
NGHI THỨC BÙA CHÚ.
Trong số các ma, cần kể thêm "con ma đậu".
Đây là những linh hồn của các người bị chết vì bệnh đậu mùa.Chính ma đậu
trở về nhập vào thân xác ai , liền gieo bệnh đậu mùa cho người đó. Để
phòng chống bệnh đầu mùa cho trẻ em, người ta chăn một tấm lưới chung
quanh giường ngủ của đứa trẻ.
Ngoài những con ma, chúng ta còn gặp nhiều
hồn ma khác, hay là quỷ, được tuyển chọn trong số các hồn người chết. Đó
là những ''con tinh'' hay ''yêu tinh'', và ''ngạ quỷ'' v.v...Yêu
tinh là quỷ cái, hồn ma của phụ nữ đã chết, nhập vào thân cây, nên gọi
là mộc tinh. Người địa phương không đốn các cây cổ thụ là để cho con
tinh có chỗ ở. Chính do sự tin tưởng này nên người ta phải, vào lúc tẩn
liệm một xác chết vào hòm, người ta phải cúng kiến bằng những nghi lễ
xua đuổi ta mà, nhằm mục đích trục những con yêu tinh còn ẩn mình trong
gỗ của cổ quan tài.
Cũng có thể cùng trên bình diện này mà các âm
binh, các con ma v.v... của các ác hồn đều gọi chung là hung thần, các
hung thần không có nguyên xứ rõ ràng và do đó cũng khác với các âm bỉnh
hay ma, vì các con ma này được đặc biệt tuyển mộ trong số các linh hồn
người chết. Nên hung thần cũng không được giao cho trọng trách gì cố
định. Sau đây là cách phân biệt của tôn giáo)
- Thần Kế Tích Kim Cương ; có thói quen thích làm điều ô uế.
- Mật Tích Kim Cương: có thói quen gây ra điều bí mật tàn ác
- Tam Chủ Giải Phả: làm sụp đỗ các gia đình
- Hô thực, Hô Sát; luôn đòi ăn và chỉ có ăn, vẫn giết người
- Vong Vị, Hung Ương: gây ra nhiều điều ác độc hơn cả quỷ
- Cô Lư Khô Kháo: Muốn cho nhà lá đã nghèo càng trống trải cạn kiệt hơn nữa v.v...
Quyền hạn của các vị hung thần này không định
rõ ràng cho từng vị, nên họ thường giẫm chân lên nhau, cá tính của từng
vị tuy vậy được ghi nhận rất rõ như các loại ma và âm binh v.v... Tất
cả bản thể tinh thần mới này vì vậy đều có một tên gọi riêng. Họ cũng có
một lý lịch riêng mà tôi thật sự không dám nêu ra.
Trong các bản liệt kê tôi có : một bản xuất phát từ xứ Thanh, bản khác từ đất Ngô, bán thứ ba ở xứ Yên. (2)
Bản lý lịch ghi cả sở thích của từng vị hung thần, ta cần biết để dâng đồ hiến cúng cho đúng:
- Thần nào thích cá chép
- Thần nào thích chó phèn hay con lươn
- Thần nào thích chó mực, cá chép hay gà mái vàng v.v...
Còn có một số hồn khác, vẫn đi thanh đoàn
đông đảo mà cá tính còn ít được triển khai, đó là các hồn gieo tai họa,
dịch hạch, dịch ôn nên gọi là "quân ôn".
"Ôn" tiếng Việt có nghĩa là một thứ bệnh,
mà được diễn tả như tiêu biểu cho các loại vong hồn uổng tử, chỉ cần gọi
chúng là quân ''ôn'', ''dịch'' để gọi chung về cá tính của bọn chúng.
Sau đây là theo thuyết của người Việt Nam hình dung ra ''quân ôn''.
''Dưới triều vua cuối cùng nhà Trần (1416)
có một người nho sĩ An Nam tên gọi là Di Thanh, vào thời kỳ này bọn
"quân ôn" của nhà vua làm quá nhiều điều càn dở, theo thói quen của họ,
họ thường tụ tập trong các quán rượu, làm đủ các trò dâm ô và làm cho
nhiều người gặp họ đều bị bệnh. Di Thanh không sợ bọn quỷ dữ nầy nên
xông xáo đi tìm chúng. Bọn này vừa sợ vừa phục con người can đảm liền
đầu hàng ông ta. Di Thanh chia chúng ra thành trung đoàn và tiểu đoàn và
bắt chúng tuân phục theo một kỷ luật khắc khe. Sau khi ông ta chết, ông
ta được phong là lãnh tụ của bọn ''quân ôn'' và bọn ''quân ôn'' từ
đó theo sự chỉ huy của ông ta, đi tàn hại mọi người.
Như chúng ta đã chỉ định ở trên, không nên
hiểu từ ''quân ôn'' là chủ đề diễn tả bệnh dịch hạch và dịch tả, mặc dù
từ nguyên mang ý nghĩa rõ rằng như vậy, nhưng thành ngữ ''quân ôn'' hiện
được dùng để chỉ chung một số các loại bệnh, mà đây là các vị thần mang
tai họa giết hại con người bằng các dịch bệnh, bằng chiến tranh và đói
kém.v.v...
Vậy hiện ta đang đứng trước một ý tưởng tổng
quát còn mơ hồ hơn những gì vừa nói qua ở trên và tuy vậy ta sẽ thấy ý
nghĩa của nó được xác định rõ dần ra. Bởi vì trong thế giới có một vị
trí tinh thần danh cho các khái niệm về nhân cách khác hẳn. Vậy muốn
diễn tả cho ro nghĩa, chỉ cần ta có một khả năng khái quát hoá thật hoàn
bị và tập hợp tất cả những tố chất chung của một tầng lớp tinh thần vào
một con người và chỉ một con người mà thôi, người ấy sẽ tiêu biểu cho
tất cả.
Người Việt Nam bằng nhiều phương cách khác
nhau đã đạt tới trình độ khái quát hóa này. Nhưng mặc dù có nhiều phương
thức khác nhau, cách khai triển tâm hồn luôn luôn vẫn chỉ có một. Bao
giờ bản thể tâm linh vươn lên tới trình độ cao hơn những kẻ khác thì
được gọi là thủ lãnh và được đồng hoá với một loại tướng lãnh chỉ huy
một đội binh. Ngày xưa, ông ta chính là vua, hoặc hơn thế nữa, ông ta
còn được coi như Cha như Mẹ của các linh hồn thấp kém.v.v...
Với bon ''quân ôn'' chúng ta nắm bắt ngay
phương thức tốt nhất, qua đó tư tưởng tôn giáo vươn lên từ từ tới quan
niệm về những bản thể trừu tượng thực sự mang nhân tính. Thật vậy, ta cứ
xem bọn ''quân ôn'' cũng có một thủ lĩnh. Đó là ''chúa ôn'', chúa các
thứ dịch tể. Những binh sĩ đều phải tuân theo lệnh của chủ tướng, vậy
đây không phải là cách tốt nhất để hình dung đoạn chuyển tiếp từ số
lượng sang đơn vị đó sao? tức từ tập thể sang cá thể?
Cũng cùng một phương thức như vậy, ta thấy
hình thành cái gọi là ''ma vua'', tức là vua của các loại ma: Hàn Tín
thủ lĩnh của các ác hồn, tức là bọn ma, thì số lượng các vị thần mang
tước hiệu ma vương và đại tướng, thì cũng nhiều vô số kể.
Mặc khác, chúng ta thấy trong việc thờ cúng
tam thế, đã thể hiện cả một giai hệ vô cùng phức tạp; các ông hoàng và
các bà chúa của nhiều tầng lớp khác nhau, vua nhỏ, vua to, vua cả, ngọc
hoàng thượng đế v.v....
(1) bản liệt kê này được ghi trong một bản
thảo thần chú có mục đích triệu tập các vị hung thần có khả năng gây khó
khăn cho các linh hồn người mới chết.
Trong năm, có nhiều ngày xấu, mỗi ngày thuộc
vào một vùng quản trị của một vị hung thần. Nếu người nào chết đúng vào
ngày xấu đó, linh hồn ông chắc chắn bị vi hung thần ngự trị trong ngày
ấy quấy nhiễu.
(2) Các xứ ghi ở đây đều là đất bên Tàu. Các
hung thần cũng từ Trung Quốc đưa sang. Thủ lĩnh của họ là Hàn Tín, một
tướng lĩnh nỗi danh đời Hán. (Trung Quốc)
Trong ngôn ngữ Việt Nam có một thành ngữ Hán
Việt là Khí Huyết. Thành ngữ này cho thấy trong đó ý về Huyết = máu lại
gần gũi với ý về Khí = hơi sống. Nhưng ta có thể chấp nhận máu loãng còn
được coi như một động cơ vận tải nguyên lý sống.
Dù có như vậy máu vẫn được xem như một nguyên
lý sống hoặc động cơ vận tải cho nguyên lý này vẫn đóng góp có hiệu quả
vào ảnh hưởng của tất cả những gì liên quan tới ý niệm về sự sống. Dòng
chảy này có một sức mạnh vô cùng huyền bí, và sung sức nữa. Máu là món
ăn thích khẩu trong các bữa tiệc tôn giáo. Để tăng cường sinh lực cho
các trẻ em có thể chất kém, người ta nhuộm quần áo của chúng, bằng máu
chó. Dẫu sao ảnh hưởng của máu vẫn thường không tốt, như nhiều tục lệ đã
nêu bằng chứng. Mọi vật có vấy máu đều trở thành Tinh. Đôi lúc trong
một gia đình bất hạnh bệnh tật cứ tới tấp xảy tới gây khốn đốn cho người
trong gia đình. Có lẽ ở nơi nào đó trong nhà có chôn một tảng đá
''Tinh'' (Thạch Tinh). Nó đã đóng vai trò như một thứ ''ma ếm'' vì nó
đã bị vấy máu người. Phải tìm cho ra viên đá đó. Chỉ có các vị pháp sư
mới có khả năng tìm được nó, rồi ông mang nó ra ném xuống sông. Những
điều bất hạnh và bệnh tật không còn giáng xuống cho gia đình này nữa.
Một người đàn bà có kinh kỳ là một ổ tập
trung mọi sự ô uế, nên cần tránh tiếp xúc. Vào thời gian có kinh, mọi sự
giao tiếp giới tính đều ngăn cấm đối với người đàn bà ấy. Ngoài ra bà
ta còn là đối tượng của mọi sự cấm kỵ khác khiến bà ta phải giữ gìn hoặc
người khác phải giữ gìn đối với bà ta. Bà ta không được rờ tới những
món ăn ngâm muối, dưa cải muối, cà muối, thịt muối, cá muối, v.v... vì
sợ các món ấy bị hỏng. Thế mà bà ta lại được phép rờ cá món mức. (1)
Người phụ nữ không được phép bước vào những
nơi linh thiêng ; bà không nên tham dự các lễ nghi cúng kiến về tôn
giáo. Quần áo bà mặc trong thời kinh kỳ chỉ được giặt giũ do chính tay
bà giặt vào buổi sáng khi mặt trời mọc và không bao giờ giặt vào ban
đêm. (2)
Việc thai sản, ở cữ, nằm chỗ, luôn luôn kèm
theo những kỳ làm ''băng'', ra máu, vì lẽ đó, bị coi là nguyên nhân gây
xuất huyết nên gần như luôn luôn nguy hiểm. Chính vì vậy ở Miền Nam ,
khi tới kỳ sinh nở người đàn bà phải rút vào một nhà riêng, dưới giường
luôn luôn có một bếp lửa cháy liên tục (3). Bà mẹ ở một nhà riêng cách
ly trong suốt 30 ngày, sau đó người ta bỏ hay đốt tất cả đồ đạc đã sử
dụng.
Sinh xong, người ta đặt trước nhà một cành
cây đã đốn, bây giờ chỉ còn là một khúc than củi đã đốt đỏ ở một đầu.
Làm như vậy để gọi là cắm khem, tức là làm dấu hiệu ngăn cấm. Trước đây
đã từng có người nước ngoài nghiên cứu về văn hoá Việt Nam đã viết về
việc này bảo rằng "làm như vậy là nhầm ngăn cấm không cho những người
vốn đã từng sinh đẻ khó, không cho họ vào nhà, hoặc những người hiếm
muộn không con, hoặc những người sinh sản bị làm băng, ra máu
nhiều...tức là ngăn cấm những phụ nữ đã có trong mình điều xui rủi, bất
hạnh ''. Từ đấy, theo chúng ta, quả là một việc làm có ý nghĩa tuy không
đầy đủ. Cần thấy thêm trong tục lệ này một lời thông báo gởi ra cho kẻ
nào từ ngoài tới phải tránh bước vào nhà, có nguy hiểm vì có đàn bà sinh
nở. Những gì xảy ra sau này, sẽ xác nhận thêm lời giải trên đây.
Như vậy ở Miền Bắc (khi xưa) những phụ nữ xa
lạ với gia đình tránh tới thăm viếng những người mới nằm chỗ, vì người
ta tin rằng thường thường người đẻ sẽ truyền lây bệnh cho những người
ngoài gia đình nếu bệnh nhân rờ rẫm tay chân hoặc trao cho ai vật gì.
Tất cả thành viên trong gia đình và bạn bè ở
trong nhà vào lúc sinh nở đều giả định như đã mắc một cơn bệnh lây nhiễm
mà người ta quen gọi là ''Cung Long''. Những người vì thiếu thận trọng
đã bước vào nhà người ấy có thể mang bệnh đến cho đứa trẻ sơ sinh. Không
kẻ nào được quyền xem thường việc này và phải luôn tẩy rửa mình thật
sạch sẽ.Và bước vào nhà, luôn được thông báo trước về việc ở cữ của
người đàn bà, nếu không vướng phải bệnh tật, thì bị tán gia bại sản.
Như vậy người ta có thể khẳng định việc thai
sản là đáng sợ trong môi trường hợp. Không chỉ do hành vi sinh nở làm
phát sinh việc đó mà còn do mọi việc có liên quan tới việc sinh nở.
Cuống rún và nhau đều có mang nhiều tính chất đặc biệt mà người ta đã
kinh nghiệm thấy. Cuống rún phải được giữ suốt cả năm; khi khô, người
ta dùng nó để trị đau bụng cho chính đứa trẻ ấy. Muốn trị đau bụng người
ta đốt miếng cuống rún thành than rồi hòa vào nước cho đứa trẻ uống.
Nhau nổi tiếng có nhiều năng lực trị bệnh
hoặc có ảnh hưởng xấu khiến người ta giữ nó thật kỹ lưỡng hoặc tiêu huỷ
di, tùy trường hợp.
Nói chung ở Việt Nam, người ta chôn nhau hoặc
trước cửa nhà, hoặc ở nơi hẻo lánh người ta thỉnh thoảng có thể tới
thăm để xem tình trạng của đất. Nếu đất chai cứng lại, đứa trẻ dễ bị nấc
cục và nó sẽ bị ói mửa nếu đất trở nên tươi xốp hơn. Ngày xưa, cái
nhau được giữ kỹ với vôi và 100 cây kim trong một nồi đất được treo ở
một nơi phơi ra ánh nắng; làm vậy là có mục đích bảo về cuộc sống cho
đứa bé nếu người mẹ sinh con lần nào cũng sớm bỏ con .Khi đứa bé được 10
tuổi, người ta mang chiếc nồi đất ném xuống giữa dòng. Đôi khi muốn
nuôi được đứa bé, người mẹ phải ăn một miếng nhau của bà.
Người đàn bà sống trong máu me và cũng sinh
nở trong máu me, nếu không may bị mất mạng, tất yếu phải chịu số phận
khổ đau. Bà sẽ thoát sinh vào kiếp khác và chuyển luôn số phận đặc biệt
của mình cho người khác. Như vậy người đó đa truyền đạt tính cách tương
tợ của máu me. Từ đó nhiều dân tộc suy nghĩ về đàn bà: đàn bà vốn là
bản thể của ô uế.
Nếu ta ra khỏi nhà đi công việc gì đó gặp
phải người đà bà và đặc biệt là người phụ nữ mang bầu, thì phải trở về
nhà ngay. Việc gì cần giao dịch sẽ không khí nào thành tựu. Các cô gái
khi đến tuổi dậy thì ; không nên rờ tới hoa trái của vài giống cây; hoa
sẽ tàn và trái sẽ rụng....
(1) Để giải thích cho việc này, chúng ta thấy
vật ngâm muối nằm trong cùng một trật tự với nữ giới (Âm) tức là sự lây
lan cứ tiến hành theo một tuyến dễ bị hỏng nhất, nên tác động dễ dàng
lên giới âm của phụ nữ, lên các vật ngâm muối, do tính nhạy cảm của giới
nữ và âm giới ; Cũng vì lý do như vậy, người phụ nữ có kinh có thể rờ
tới các lọ mức, là vật ướp đường ngọt. Vị ngọt lại nằm trong trật tự
khác hẳn, thuộc dương, cho nên cơ may cho chuyện lây nhiễm khó xảy ra,
mức không bị hỏng.
(2) Đêm thuộc âm, quần áo giặt ban đêm do đó
không đủ khả năng xua đuổi các luồng âm khí huyền bí trong quần áo (nước cũng thuộc về âm). Ngược lại, mùa xuân, mặt trời mọc ...đều thuộc
dương và dương sẽ thắng âm; quần áo dơ bẩn do máu kinh kỳ, phơi ra ánh
nắng sẽ được hoàn toàn tinh khiết.
(3) Nhằm mục đích khử uế. Ở Bắc kỳ cũng có tục lệ như vậy. Có đôi khi khử uế bằng lửa
Chính vì sự nổi danh ô uế đó, nên phụ nữ luôn
luôn sống riêng biệt.Trong nhà, họ có căn buồng dành riêng cho họ và họ
không bao giờ ngồi ăn chung mâm với đàn ông. Cũng vì lý do đó, họ luôn
luôn đứng riêng ra trong các lễ nghi tôn giáo. Họ chỉ dự vào các lễ tộc
trong gia đình nhưng không bao giờ được phép làm chủ lễ.
Tính cách ô uế của phụ nữ mở rộng luôn tới
lĩnh vực giao hợp sinh lý. Thường người ta thường cho rằng, việc giao
hợp vốn làm toát ra một hơi hướng, mà kết quả xấu vẫn tác động lên một
số bệnh lý. Khi đứa bé bị đau mắt hay đau trái, cha mẹ đứa bé phải kiêng
cữ ngủ chung : Nếu họ không kiêng cữ điều cấm kỵ này bệnh đứa bé sẽ
nặng hơn. Hơn nữa phòng ngủ người bệnh phải cẩn thận đóng kín cửa để
không cho người lạ bước vào. Kẻ vào phòng có thể mang vào cái gọi là
"hơi trai gái". Đứa trẻ nếu bị bệnh đậu mùa, sẽ bất tỉnh, rồi có thể cụt
tay hay què chân; một chiếc xương tay hay chân của nó sẽ vở ra. nếu nó
bị đau mắt thì mắt sẽ nổ. Đứa bé hoàn toàn mất thị giác.
Hành động giao hợp chính là sự ô uế nên nó
càng ô uế hơn vào lúc nào đó và như vậy đó là hành vi cấm kỵ. Chúng ta
đã nói rằng sự cấm kỵ đã trở thành quy luật trong thời gian kinh kỳ của
người phụ nữ. Nó cũng trở thành điều cấm kỵ vào ngày mồng một và ngày
mười lăm hay các ngày 29, 30 mỗi tháng. Đây chính là những ngày của đợt
hành kinh mới và là các ngày trăng tròn hay không trăng. Có lẽ đây là
thời kỳ trao đổi giả định của các ảnh hưởng nguyệt kỳ, lên kinh kỳ phụ
nữ. Cần nên chú ý điều này là mặt trăng được coi như đang vào quy kỳ tác
hợp với mặt trời, chồng của mặt trăng; do đó các ngày gọi là" sóc,
vọng hay là hối " (1) có thể được gọi là "ngày giao phối", ngày thai
nghén và ngày sinh nở. Và như vậy đó là những ngày ô uế. Sự giao nhiễm
mầu nhiệm có thể thiết lập rất đa dạng giữa mặt trăng và người phụ nữ,
vì phụ nữ và trăng đều thuộc âm phái nên người đàn ông tham dự vào cuộc
giao hợp coi chừng cũng lây nhiễm sự ô uế.
Chúng ta vừa thấy do sự liên kết tuần tự, các
hiệu quả của Tinh có thể chuyển tiếp bằng máu. Hành động này dù sao đi
nữa cũng có thể linh cảm được từ xa. Sự ô uế của máu có thể lan tỏa ra,
chẳng hạn như cho loài thú vật ăn thịt sống. Do chính phẩm cách ăn thịt
sống của thú nên rất có thể con chó cũng bị coi là ô uế ! Người ta cấm
ăn thịt chó (2) nhất là khi người ta tham dự vào một lễ nghi tôn giáo.
Nghề giết thịt chó thường thường được bài xích. Rất có thể sự bài xích
này có nguồn gốc từ tín ngưỡng Phật giáo, theo đó, những cuộc đầu thai
làm thú đã đa phần bị giáng cho những kẻ giết chó, tuy vậy vẫn cho phép
suy nghĩ rằng tình trạng giết thịt chó cũng có thể được coi như ô uế vì
người làm thịt chó vốn thường xuyên tiếp xúc với máu chó.
Không chỉ có những gì tiếp xúc với máu mới có
đủ đức tính của máu, mà những gì giống máu. Chỉ vài mức độ cũng vậy.
Sự sống được đồng hóa với khí, hơi thở; tất cả những cái có liên quan
tới hiện tượng sinh lý này đều mang tiếng có chung tính chất huyền bí
như gió và mùi chẳng hạn.
(1) Đây là tên gọi những ngày ở thượng tuần trăng (đầu tháng), trung tuần trăng (giữa tháng) và hạ tuần trăng (cuối tháng).
(2) Sự cấm kỵ này còn lâu mới được mọi người
tôn trọng; trong nhiều khu chợ, chúng ta vẫn gặp các người bán thịt
chó; thịt này được người Việt chuộng ăn, có lẽ vì sự cấm kỵ ở trên. Thịt
chó là loại thịt dễ khiến người ta háu ăn. Do đó kẻ háu ăn thịt chó
biểu thị một nhân cách đê tiện, hèn hạ.
Có một lời nguyền như sau:
"Khói bay lên không gian và trở thành không
khí trong lành: không khí trong lành bay lên nữa, trở thành ete; ete
chỉ là một phi vật thể thanh thoát và mạnh. Đây chính là Phật tính, là
tính linh của Đức Phật. Đây là Đạo Đức cao cả, là Ánh Sáng rạng ngời.
Ánh Sáng rạng ngời là nguồn gốc của tất cả tinh lực tiềm tàng của tất cả
dõng lực đích thực".
Còn mùi (1) được coi như các cơn phát tỏa,
bốc lên từ sinh vật hay sự vật. Vả lại nó được chỉ định bằng từ hơi, mà ý
nghĩa chính vẫn là "hơi thở". Vậy, sự tương cận của hai từ đã tạo nên
sự khác biệt về ý niệm. Người Việt đã chấp nhận coi tất cả các khí hơi
như ; hơi thở, hơi tỏa, phát hơi,...đều có năng lực như nhau.
Mùi, hay "hơi hướng'' phát ra từ xác chết trở
thành mùi đáng sợ, không phải vì các mùi ấy đặc biệt khó ngửi mà vì các
mùi ấy phát ra từ một sức mạnh huyền bí do tính chất tan loãng mầu
nhiệm của nó (2). Khi một thi hài không được chôn cất, người ta phải cử
hành một số lễ nghi để ngăn ngừa sự phát tiết mùi máu hôi thối có thể
rất nguy hại. Vị pháp sư trước hết vẽ bằng khói nhang trên một bình chứa
rượu có tẩm mùi hương và đọc câu chú sau đây: "Lệnh cho Đại Thánh
Thiên Cương (3) phải ngăn cấm các mùi xú uế sinh ra." Sau đó pháp sư
phun rượu lên mặt người chết. Người ta cũng đạt được kết quả như vậy
bằng nhiều cách khác nhau : Hoặc làm một lá bùa đốt ngay, trên lá bùa có
ghi công thức hay lời nguyền trên đây. Hoặc người ta quạt lên xác chết
bằng một cây quạt giấy trên đó cũng có ghi công thức giống trên mà vẽ
bằng một cây nhang cháy đỏ v.v...Người ta còn có thể đặt lên bụng người
chết một miếng lưỡi cày hay một miếng sắt bất kỳ, vừa bắt quyết (4):
TÝ, SỬU, NGỌ, MÃO, DẦN, và đọc câu thần chú sau đây: " Tất cả các mùi
xú uế ở trong xác chết không được toát ra ngoài. Thần Thiên Cương hãy
mang đi tất cả mùi hôi thối."
Trên giường xác chết nằm, người ta đốt một
cây thuốc nam thơm để xua đuổi muỗi mòng, ruồi nhặng. Quan sát thật kỹ
cách bày biện này và tôn trọng triệt để các lời hướng dẫn của các pháp
sư, họ bảo, người ta có thể giữ gìn xác chết suốt bốn năm ngày không hôi
kể cả các ngày viêm nhiệt.
Nhiều biện pháp phòng ngừa giống như vậy được
dùng để chống lại hơi hôi miệng gây ra do các món đã ăn. Tôi ghi lại
đây bản ghi trong một tập cẩm nang thư của thầy pháp có tên BÙA CHÚ ĐẠI
TOÀN: "Khi các vị pháp sư ăn xong (các món ăn không tinh khiết) ngay
tức khắc pháp sư phải đọc câu thần chú sau đây: "Trung và Hạ, tất cả
đều phải quang minh và tinh khiết. Ta đang đứng giữa thiên và địa cũng
như tất cả muon thú và thảo mộc. Tất cả những vật ta ăn không thể làm
trở ngại chư thần linh. Ta khẩn cầu chư Thần tích cực "La Ly Đức Xá Hạ".
Tất cả mùi hôi thối nói chung như vậy đều có
sẵn một huyền năng lớn hay nhỏ, thiện hay ác tùy theo mùi ấy thơm hay
xú. Chính vì vậy nên củ hành và tỏi đều bị coi là xú (hôi hám). Nó bị
cấm ăn trước buổi lễ. Luật nhà phù thủy đều có ghi các điều quy định gắt
gao:
"Các chức sắc nhà Pháp (phù thủy) phải giữ
gìn tránh uống rượu, không ăn hành tỏi. ......." (tiết 139 - sắc lệnh
1- Về các lễ hiến tế) - Trong sách còn ghi rằng: Kẻ không ăn hành và
tỏi đều được coi như giống các vị thần và họ được ban khen.
Các mùi dễ chịu ngược lại, có một ảnh hưởng
cứu rỗi. Nhang mà người ta đốt trên bàn thờ không có mục đích duy nhất
là làm sảng khoái các đấng thiêng liêng, mà nhiệm vụ của nhang còn giúp
xua đuổi các tà ma. Ngày đầu năm, tục lệ buộc phải chưng hoa và xông
hương nhà với hoa thuỷ tiên, là loại hoa có củ, hương thơm nhẹ, nhập từ
Trung Quốc và bán rất mắc. Người ta đặt vài củ thủy tiên trước bài vị Tổ
Tiên. Nếu hoa nở buổi sáng ngày mồng một đó là dấu hiệu hạnh phúc suốt
năm trong nhà.
Vào năm mới, người ta treo lên mái nhà một
gói lá ngải hương có tính cách xua đuổi tà ma. Các loại cỏ thơm có vai
trò lớn lao trong lĩnh vực bùa phép. Người ta thường dùng các hương thảo
để làm phép.Người Việt mình còn thừa nhận một cách tổng quát rằng các
mùi quá nặng và xú uế tàn phá các làng hơi hoặc làm tỏa hơi độc hại thâm
nhập vào có thể, (5,6)
(1) Cần chú ý rằng các tiếng ''khói'', ''hơi'' và ''mùi'' đều chung tộc ngữ ở cả 2 lĩnh vực âm ngữ học và ngữ
nghĩa học. Chữ khói phân tích thành 2 thành tố: hỏa và hồn ? (quỷ). Còn
chữ hơi, hơi thở có thể xác định với linh hồn các sinh vật hay sự vật:
hơi người, hơi xác chết, hơi đất v.v...
(2) Ở đây chúng ta da đụng chạm tới ảnh hưởng huyền vi của tử thần. Ta sẽ nói tới việc này sau.
(3) Thiên Cương Đại Thánh (Thiên = trời; Cương = xác chết chưa có dấu hiệu phân huỷ; Đại = lớn; Thánh = ông Thánh
(4) Quyết là dấu hiệu làm bằng ngón tay do các pháp sư dùng ếm tà ma, hay còn gọi là bắt Ấn
(5) Ở Trung Quốc vào tháng 5, người ta có tục
mang trên ngực một túi vải nhỏ đựng các hương thơm để xua đuổi các ảnh
hưởng xấu. Một tục lệ gần giống như vậy cũng có ở Bắc Kỳ ; vào mùa hè
người ta cho trẻ con đeo một túi nhỏ cùng với vài lá bùa : quả bầu, quả
lựu bàng bạc, con heo nhỏ bằng cây v.v...
(6) Bài đọc thêm -
Ông Hà Hùng Tiến -
Nguyên Trưởng ban Văn hoá, Viện Văn hoá, Bộ VHTT:
Mường là dân tộc giỏi nhất về bùa chú.
Người Việt Mường rất giỏi làm bùa chú. Từ
thời mới bước chân vào nghề khảo cổ tôi được cử công tác ở khu vực có
nhiều người Mường sinh sống, tôi có may mắn được một người Mường dạy cho
bùa chú. Người thày dạy có nói một câu mà tôi còn nhớ mãi. Đó là, chỉ
được dùng bùa chú làm điều thiện, không làm điều ác. Nếu làm điều ác thì
giỏi lắm chỉ làm được cho hai trường hợp sau đó thì bản thân sẽ chết.
Suốt những năm 1968 - 1969 tôi đã thâm nhập
rất sâu vào đời sống của bà con 8 xã Mường như Tân Lạc, Nhân Nghĩa, Quý
Hoà, Thành Đạo và học được rất nhiều bùa. Người Mường có nhiều bùa như
bùa yêu, bùa chài ếm, bùa chữa bệnh... Bên cạnh đó người Thái, Chàm, Tây
Nguyên, Bana, Êđê cũng có rất nhiều cách yểm bùa. Đặc biệt người Êđê có
rất nhiều bùa thuốc. Các loại bùa phần lớn được làm từ lá cây tự nhiên
như đinh hương, hương nhu, quế chi, các loại vỏ cây trên rừng cũng chỉ
ngũ sắc, sau đó dùng những lời chú để chú vào đó. Bùa cũng có thể làm
bằng giấy dán lên tường, thường là bùa phép phật để linh hồn quấy phá
trông vào thấy sợ.
THAM KHẢO THÊM (Tài liệu của Huyền Trí).
Thỉnh Độc cước giáng Phù.
"Úm sơn tiêu sơn tiêu, Độc cước đáo đàn hồi, tùy phù tùy chú , hỏa tốc động thôi, cấp cấp như luật lệnh.
Úm tiêu sơn Độc cước tật tốc giáng (Bắt quyết tại cung Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tị, Ngọ).
Cẩn thỉnh Đông phương thanh Đế, Độc cước
Tiên ông, thần thông lục trí, lai tòng Ngô độ Thần phù (Bắt quyết tại
các cung Mão, Ngọ, Dậu, Tý).
Nam phương xích Đế, Độc cước Tiên ông, thần thông lục trí, lai tòng Ngô độ Thần phù (Bắt quyết tại các cung Mão, Ngọ, Dậu, Tý).
Bắc phương hắc Đế, thần thông lục trí, lai tòng Ngô độ Thần phù (Bắt quyết tại các cung Mão, Ngọ, Dậu, Tý).
Tây phương bạch Đế, thần thông lục trí, lai tòng Ngô độ Thần phù (Bắt quyết tại các cung Mão, Ngọ, Dậu, Tý).
Trung ương hoàng Đế, thần thông lục trí, lai tòng Ngô độ Thần phù (Bắt quyết tại các cung Mão, Ngọ, Dậu, Tý).
dienbat giới thiệu .