Hồ Ayun Hạ
Quyết
định số: 1165UB ngày 21/12/1993 của Uỷ ban Nhân dân tỉnh Gia Lai “Về
việc bổ sung nhiệm vụ Công ty quản lí, khai thác công trình thuỷ lợi Gia
Lai”.
ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH GIA LAI
- Căn cứ Điều 47 Luật tổ chức Hội đồng Nhân dân và Uỷ ban Nhân dân;
- Căn cứ Quyết định số 315/TC ngày 11/12/1986 của Hội đồng Bộ trưỏng
(nay là Chính phủ) phê duyệt luận chứng kinh tế kĩ thuật công trình
AYunhạ tỉnh Gia Lai;
- Căn cứ Quyết định số 57/QĐ-UB ngày 22/12/1992 Của Uỷ ban Nhân dân
tỉnh Gia Lai về việc thành lập Doanh nghiệp Nhà nước; Công văn số
1627/TCCB-LĐ ngày 13/09/1993 của Bộ Thuỷ lợi về việc thành lập bộ máy
quản lí, khai thác công trình AYunhạ;
Theo đề nghị của Sở Thuỷ lợi (tại tờ trình số 486/TT-TC ngày
08/12/1993) và đề nghị của Ban Tổ chức chính quyền tỉnh,
QUYẾT ĐỊNH
Điều 1:
Công ty quản lí, khai thác công trình thuỷ lợi Gia Lai tiếp tục thực
hiện nhiệm vụ quy định tại Quyết định số 57/QĐ-UB ngày 22/12/1992 Uỷ ban
Nhân dân tỉnh Gia Lai và được bổ sung nhiệm vụ quản lí khai thác công
trình AYunhạ như sau:
- Theo dõi, tiếp nhận bàn giao hồ sơ: Thiết kế kĩ thuật, thiết kế thi
công, bản vẽ hoàn công, theo tiêu chuẩn 5640-91.
Nhận bàn giao từng phần, từng hạng mục hoàn thành theo đúng quy định để đưa vào khai thác phục vụ tưới.
- Tổ chức, quản lí nước, điều hoà phân phối nước theo yêu cầu dùng nước
và từng bước kí kết hợp đồng dùng nước, thu thủy lợi phí theo chế độ,
chính sách của Nhà nước hiện hành, nhằm tạo nguồn thu trang trải cho
công tác quản lí, khai thác từng bước, giảm dần kinh phí cấp.
- Lập đề án quản lí, khai thác công trình AYunhạ cùng các thủ tục cần
thiết để trình Uỷ ban Nhân dân tỉnh Gia Lai, Bộ Thủy lợi xét duyệt, làm
căn cứ triển khai nhằm đảm bảo quản lí khai thác tốt công trình hoàn
thành.
- Trong giai đoạn đầu (1994-1996) đơn vị lập kế hoạch chi phí quản lí,
sửa chữa hoàn chỉnh theo hàng năm, trình Bộ Thủy lợi duyệt cấp kinh phí,
báo cáo Uỷ ban Nhân dân tỉnh Gia Lai.
Tổ chức, sắp xếp bộ máy hợp lí để từng bước quản lí, khai thác công trình có hiệu quả.
Điều 2:
Các ông Chánh Văn phòng HĐND và UBND tỉnh, Trưởng Ban tổ chức chính
quyền, Giám đốc Sở Thuỷ lợi, Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch tỉnh, Giám đốc Sở
Tài chính vật giá, Thủ trưởng các ngành, các cấp liên quan và Giám đốc
Công ty quản lí- khai thác công trình thuỷ lợi Gia Lai chịu trách nhiệm
thi hành Quyết định này./.
TM/ ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH
KT/CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH
Nguyễn Vĩ Hà
Công trình hồ chứa thuỷ lợi Ayun Hạ ngoài
việc cấp nước phục vụ sản xuất nông nghiệp cho nhân dân trên địa bàn ba
huyện Phú Thiện, Ayunpa và Ia pa xấp xỉ 13.500ha lúa nước 2 vụ, công
trình còn Cấp nước phát điện cho nhà máy thuỷ điện Ayun Hạ công suất
3.000 kw/h đạt sản lượng 21 triệu kw/năm, tương ứng doanh thu cho ngành
điện: 14 tỷ đồng/năm, mang lại doanh thu tiền nước cho công ty hàng năm
trên 1,6 tỷ đồng. Cấp nước phát điện cho nhà máy thuỷ điện Kênh Bắc Ayun
Hạ, công suất 900kw/h đạt sản lượng 5 triệu kw/năm, tương ứng doanh thu
cho ngành điện 3,5 tỷ đồng/năm và doanh thu tiền nước cho công ty 300
triệu đồng/năm; Cấp nước công nghiệp mía đường: Trên 400.000 m3/năm, thuỷ lợi phí thu được: 388 triệu đồng/năm. Cấp nước thô sinh hoạt cho nhà máy nước Ayun Pa: 680.000 m3/năm, thuỷ lợi phí thu được 612 triệu đồng/năm. Cấp nước tưới cho vườn ươm cao su của công ty Hoàng Anh Gia Lai 54.000 m3/năm,
thuỷ lợi phí thu được gần 50 triệu đồng/năm. Thành lập xí nghiệp thuỷ
sản và tự tổ chức nuôi trồng thuỷ sản trên diện tích 3.700 ha mặt nước,
sản lượng thu được trên 250 tấn cá/năm chưa kể trên 1.500 ao cá lớn nhỏ
(khoảng 121,27ha) của nhân dân 3 huyện dùng nước Ayun hạ. Trong công tác
bảo vệ an toàn hồ đập Công ty đã liên kết với các đơn vị tham gia khai
thác tổng hợp công trình (Như nhà máy thuỷ điện Ayun Hạ, Lâm trường Chư
Sê, lâm trường Ayun Pa, Kiểm lâm, và chính quyền địa phương 6 xã ven hồ)
bảo vệ an toàn tuyệt đối lòng hồ và vùng bán ngập ven hồ, tiết kiệm chi
phí bảo vệ hồ chứa trên 400 triệu đồng mỗi năm. Về với miền quê Ayun Pa
hay thung lũng Ayun Hạ hôm nay du khách được thưởng thức không chỉ có
hương vị ngọt lành của những cánh đồng lúa trũi bông, không chỉ có những
nếp nhà sàn lúp súp chen nhau dưới lúa, hồ chứa Ayun Hạ giờ đây còn là
điểm du lịch đầy lý thú, thực sự thu hút du khách không chỉ bởi vẻ đẹp
của thiên nhiên mà còn bởi truyền thuyết huyền thoại về vùng đất Ayun Pa
cổ xưa... nơi có những dũng sỹ Jơ Rai tuốt gươm thần chiến đấu với các
loài ác thú, nơi quê hương của 16 đời Vua lửa và sự tích gươm thần và
cũng là nơi của những dòng Soan, điệu nhạc uyển chuyển gợi mời trong
thanh âm của tiếng còng, tiếng chiêng bên ché rượu cần sóng sánh men
say. Những năm gần đây công ty TNHH MTV khai thác công trình thuỷ lợi
Gia Lai đã đầu tư xây dựng một số hạng mục công trình đưa vào khai thác
sử dụng phục vụ nhu cầu tham quan và dừng chân của khách du lịch trong
và ngoài tỉnh. Với những dịch vụ của công ty du khách sẽ được đi du
thuyền tham quan dã ngoại thắng cảnh lòng hồ và tham gia dịch vụ kéo dù
rớt nước bằng tàu cao tốc. Doanh thu dịch vụ du lịch do công ty tổ chức
ước tính đạt khoảng trên dưới 300 triệu đồng/năm, mỗi năm có tới trên 30
ngàn lượt khách trong và ngoài nước ra vào khu đầu mối công trình tham
quan các hạng mục và cảnh quan thiên nhiên, nhân tạo trong hồ và ven hồ,
hàng ngàn lượt khách đi du thuyền thăm quan thắng cảnh lòng hồ và
thưởng thức sinh thái rừng tự nhiên quanh hồ. Hiện nay công ty đang cùng
với Sở Văn hoá-Thể thao và Du lịch, công ty Dịch vụ Văn hoá du lịch Gia
Lai và các doanh nghiệp Du lịch của thành phố Hồ Chí Minh khảo sát, lập
dự án đầu tư xây dựng hồ Ayunhạ thành điểm du lịch sinh thái, vui chơi,
giải trí với giá trị đầu tư trên 100 tỷ đồng (Gồm 6km đường giao thông
từ quốc lộ 25 gần chân đèo Chư sê băng rừng, núi đi thẳng vào lòng hồ,
01 làng du lịch gồm nhà nghỉ, trò chơi, nhà hàng, khách sạn qui hoạch
khoảng 10 ha ven mép nước, 30 ha rừng tự nhiên có cải tạo lại phục vụ du
khách đi voi thưởng thức thắng cảnh, non nước Tây nguyên, 01 bến cảng
lớn phục vụ du thuyền, nhà hàng nổi di động. Trên mặt nước 3.700ha tổ
chức các trò chơi cảm giác mạnh như du thuyền, đua thuyền, lướt ván, câu
cá chạy.....Trong tương lai không xa Ayunhạ sẽ trở thành điểm du lịch
nổi tiếng trong tuor du lịch Hồ Chí Minh - Tây nguyên - Huế - Hà nội -
Hồ chí Minh.
Mái thượng lưu đập Ayunhạ nhìn từ Cổng vào
Mặt hồ 3.700ha
Thượng lưu đập nhìn từ nhà tháp tràn xả lũ ra phía cổng đập
Mái hạ lưu đập Ayunhạ
Tràn xả lũ Hồ Ayun Hạ
Nhà tháp tràn xả lũ
Đường đi từ đập xuống du thuyền
Nhà máy thuỷ điện sau cống lấy nước (Hạ lưu đập)
Đăng trượt bắt cá sau tràn xả lũ của XN NTTS Miền Trung (có lần xả bắt được 35 tấn cá/ngày)
TOÀN CẢNH TRÀN XẢ LŨ HỒ AYUN HẠ
1/Sơ lược về lịch sử công trình
Công trình hồ chứa thuỷ lợi Ayun Hạ bắt đầu thi công từ năm 1986 kết
hợp với khai hoang xây dựng đồng ruộng, chính thức khởi công xây dựng
năm 1990, chặn dòng sông Ayun năm 1994, từ tháng 12/1993 UBND Tỉnh Gia
lai giao công trình cho công ty thuỷ nông Gia Lai (Nay là công ty Khai
thác công trình thuỷ lợi Gia Lai) quản lý (theo quyết định số 1165/QĐ-UB
ngày 21/12/1993 của UBND tỉnh Gia lai)
2/ Mô tả một số thông số kỹ thuật và đặc điểm của công trình:
Hồ chứa thuỷ lợi Ayunhạ (xã Ayunhạ, huyện Phú Thiện)
là công trình cấp 3 (nhóm A), được khởi công xây dựng từ năm 1990, chặn
dòng (sông Ayun) năm 1994, có dung tích hữu ích 253 triệu m3 nước, dung tích ứng với mực nước gia cường 401,7 triệu m3, diện tích lưu vực 1.670 km2,
diện tích mặt hồ (mực nước dâng bình thường) :3.700 ha, Diện tích ứng
với mực nước gia cường 3.983ha, diện tích ứng với mực nước chết 1.080 ha
(ngập vĩnh viễn), vùng ngập dài ngày 2.620 ha, ngập tạm thời 1.880ha,
bán ngập 370 ha, vành đai vùng ngập lụt dài khoảng 21 km, Đập đất dài 366 m, cao 36m, đỉnh đập rộng 6m, cao trình đỉnh đập 211, cao trình khu tưới bình quân 160, cống lấy nước (3mx3,5m) bê tông cốt thép dài 113m, cao trình đáy cống 195, lưu lượng nước qua cống bình quân 23,4m3/s, năng lực tưới theo thiết kế 13.500ha, cống thuỷ điện Q= 23,4 m3/s, công suất nhà máy 2.700kwh, Tràn xả lũ 3 cửa cung BxH = 6m x 5m, QMax= 1.267 m3/s, cao trình ngưỡng tràn 199, cột nước cao 9,92m.
Hệ thống kênh: Kênh chính dài 14,458km, năng lực tải nước 23,4m3/s , kênh chính Nam dài 18,565km, năng lực tải nước14,8m3/s, kênh chính Bắc dài 14,8 km, năng lực tải nước 8,8m3/s,
trên 80,7 km kênh cấp 1, 150km kênh cấp 2, hàng trăm km kênh cấp dưới
và hàng ngàn công trình trên kênh trải dài và tưới phủ khắp địa bàn ba
huyện, thị (Phú Thiện, Ia Pa & thị xã Ayun Pa).
Vị trí công trình: Nằm trong toạ độ 12o56'59'' - 12o57'60'' vĩ độ Bắc, 107o27'20''- 107o28'00''
kinh độ Đông, lòng hồ và đầu mối công trình thuộc địa giới hành chính 6
xã thuộc 3 huyện Chư Sê, Phú Thiện và Đắc đoa đồng thời là nơi tiếp
giáp giữa hai vùng khí hậu Đông Trường Sơn và Tây Trường Sơn. Lòng hồ
Ayunhạ chịu ảnh hưởng trực tiếp của khí hậu Đông Trường sơn và bán Tây
Trường sơn.
3/ Nhiệm vụ của công trình:
Cấp nước tưới phục vụ sản xuất nông nghiệp cho nhân dân trong khu tưới
của công trình thuộc địa bàn huyện Ayun Pa (cũ) từ sau ngày chặn dòng
năm 1994, năm 1996 UBND tỉnh giao mặt nước hồ cho Trạm nghiên cứu thực
nghiệm và dịch vụ nuôi trồng thuỷ sản Sở Nông nghiệp và PTNT Gia lai
quản lý, ký hợp đồng cho xí nghiệp nuôi trồng thuỷ sản Miền Trung thuê
mặt nước hồ nuôi trồng thuỷ sản với giá 50.000.000đ /năm. Từ năm 2001
Công ty Khai thác công trình thuỷ lợi Gia Lai tổ chức khai thác đa mục
tiêu tiềm năng sẵn có từ công trình đem lại hiệu quả kinh tế cao (Du
lịch, thuỷ điện, thuỷ sản, cấp nuớc Công, Nông nghiệp, sinh hoạt,...)
4/ Một số hạn chế:
+Do
Luận chứng kinh tế kỹ thuật xây dụng công trình không thiết kế hệ thống
tiêu riêng mà thiết kế tiêu theo kiểu tự tiêu tràn từ ruộng này qua
ruộng khác và đổ ra sông Ayun nên việc tiêu nước mặt của cả hệ thống
công trình vẫn còn nhiều hạn chế.
+Một
số diện tích tưới tự chảy nằm trong khu tưới ghi trong luận chứng kinh
tế kỹ thuật xây dựng công trình, qua nhiều năm Chính quyền địa phương
chuyển sang xây dựng cơ sở hạ tầng làm giảm diện tích tưới.
5/ Hiệu quả của công trình.
Chỉ sau hơn 15 năm quản lý khai thác, công trình thủy lợi Ayun Hạ đã
mang lại hiệu quả kinh tế-xã hội rõ rệt cho đồng bào các dân tộc và cư
dân kinh tế mới thuộc 2 huyện Phú Thiện, Ia Pa và thị xã Ayunpa nói
riêng và của tỉnh Gia Lai nói chung: Công trình đã vận hành ổn định và
nâng cao đời sống kinh tế, đời sống văn hóa, tinh thần cho cư dân, tạo
thành một vùng nông thôn trù phú, giàu đẹp và đã trở thành vựa lúa lớn
nhất Tây Nguyên.
6. Hiệu quả cụ thể tính đến năm 2009
Hồ chứa Ayun Hạ ngoài việc cấp nước phục vụ sản xuất nông nghiệp cho nhân dân trên địa bàn ba huyện, thị (Phú thiện, Ia pa, và thị xã Ayun Pa) xấp xỉ 13.500ha lúa nước 2 vụ, công trình còn Cấp nước phát điện
công suất 3.000 kw/h đạt sản lượng 21 triệu kw/năm, tương ứng doanh thu
cho ngành điện:12 tỷ đồng/năm mang lại doanh thu tiền nước cho công ty
hàng năm 1.044 triệu đồng. Cấp nước công nghiệp mía đường: Trên 400.000 m3/năm, Thuỷ lợi phí thu được: 225 triệu đồng/năm. Cấp nước nuôi trồng thuỷ sản
trên diện tích 3.700 ha mặt nước, sản lượng đạt trên 250 tấn cá/năm
chưa kể 1 trại cá giống của xí nghiệp nuôi trồng thuỷ sản Miền Trung nằm
ở thượng lưu hồ (30ha), 1 trại cá giống của công ty (4,6ha), 3 trại cá
giống tư nhân và trên 1.500 ao cá của nhân dân trong khu tưới của công
trình, bảo vệ an toàn tuyệt đối lòng hồ và vùng bán ngập ven hồ, tiền
nước thu được từ hợp đồng cho thuê hồ 73 triệu đồng/năm ngoài ra còn tiết kiệm chi phí bảo vệ hồ chứa trên 400 triệu đồng mỗi năm. Cấp nước sinh hoạt cho Nhà máy nước thị xã Ayunpa:10 triệu đồng/tháng mang lại doanh thu tiền nước cho công ty 100 triệu đồng/năm. Liên kết khai thác trục vớt các cây gỗ chết trong lòng hồ Ayunhạ: sản lượng theo hợp đồng liên kết đã ký 300m3/năm đem lại doanh thu 10% giá trị hợp đồng cho công ty. Dịch vụ du thuyền trên hồ (đưa
khách tham quan dã ngoại thắng cảnh lòng hồ bằng tàu du lịch, dạo chơi
dưới nước bằng đạp thiên nga và tổ chức kéo dù rớt nước bằng thuyền cao
tốc): Doanh thu ước tính đạt hàng trăm triệu đồng/năm, mỗi năm có tới 30
ngàn lượt khách trong và ngoài nước ra vào khu đầu mối công trình tham
quan các hạng mục và cảnh quan thiên nhiên, nhân tạo trong hồ và ven hồ,
hàng ngàn lượt khách đi du thuyền thăm quan thắng cảnh lòng hồ và
thưởng thức sinh thái rừng tự nhiên quanh hồ. Khai thác du lịch sinh thái:
Hiện nay công ty đang cùng với Sở Thương Mại và Du lịch, công ty Dịch
vụ du lịch Gia lai và các doanh nghiệp Du lịch của thành phố Hồ Chí Minh
khảo sát, lập dự án đầu tư xây dựng hồ Ayunhạ thành điểm du lịch sinh
thái, vui chơi, giải trí với giá trị đầu tư trên 60 tỷ đồng (Gồm 6km
đường giao thông từ quốc lộ 25 gần chân đèo Chư sê băng rừng, núi đi
thẳng vào lòng hồ, 01 làng du lịch gồm nhà nghỉ, trò chơi, nhà hàng,
khách sạn qui hoạch khoảng 10 ha ven mép nước, 30 ha rừng tự nhiên có
cải tạo lại phục vụ du khách đi voi thưởng thức thắng cảnh, non nước Tây
nguyên, 01 bến cảng lớn phục vụ du thuyền, nhà hàng nổi di động. Trên
mặt nước 3.700ha tổ chức các trò chơi cảm giác mạnh như du thuyền, đua
thuyền, lướt ván, câu cá chạy.....Trong tương lai không xa Ayunhạ sẽ trở
thành điểm du lịch nổi tiếng trong tuor du lịch Hồ Chí Minh - Tây
nguyên - Huế - Hà nội - Hồ chí Minh. Khai thác thuỷ năng Kênh chính Ayunhạ:
Cuối năm 2009 và năm 2010 công ty Khai thác công trình thuỷ lợi Gia lai
(đơn vị quản lý hồ) sẽ tổ chức thi công nhà máy thuỷ điện Kênh Bắc
Ayunhạ (dùng nước từ hồ Ayunhạ) với tổng công suất lắp máy 900kwh, doanh
thu tiền điện ước đạt 4 tỷ đồng/năm, doanh thu thuỷ tiền nước xấp xỉ
400 triệu đồng/năm. Tóm lại trong các năm đơn vị quản lý hồ thực
hiện giải pháp “Tổ chức khai thác các tiềm năng đa mục tiêu từ hồ chứa
thuỷ lợi Ayun Hạ đạt hiệu quả kinh tế cao” tiền nước, tiền chi phí
bảo vệ tiết kiệm được và doanh thu kinh doanh dịch vụ công ty tự tổ
chức ở công trình Ayun Hạ bình quân mỗi năm thu được trên 1 tỷ đồng đủ
trang trải cho hoạt động cho xí nghiệp Đầu Mối- Kênh chính, đảm bảo kinh
phí tu sửa, bảo vệ công trình đầu mối và lòng hồ không cần dùng đến
cũng như trông chờ vào nguồn thuỷ lợi phí của công ty thu từ các Trạm
QLKT hệ thống hoặc từ nguồn ngân sách Nhà nước..
Rừng khọp và vỉa đá granits ven mép nước trên đường đi du thuyền vào lòng hồ
Rừng phía bên trái
Dãy núi phía bên trái lòng hồ
Nhà Tháp tràn xả lũ nhìn từ phía lòng hồ về Đập đất
Trại cá của Xí nghiệp Nuôi trồng thuỷ sản Miền Trung trong lòng hồ (Phía trái lòng hồ)
Tàu thuyền đánh bắt thuỷ sản của Xí nghiệp NTTS MT
Cảng cá Thượng lưu đập
MỘT SỐ HÌNH ẢNH CHỤP NGHỆ THUẬT VỀ HỒ AYUNHẠ
Tràn xả lũ 3 cửa cung và nhà tháp tràn nhìn từ phía lòng hồ
Mái thượng lưu đập Ayun Hạ nhìn từ phía cổng đập |
Xí nghiệp NTTS Miền Trung Thu hoạch cá trong hồ |
Kênh chính Ayunhạ
Văn phòng xí nghiệp Khai thác Đầu mối-Kênh chính thuỷ lợi Ayunhạ
Nhân viên văn phòng xí nghiệp Khai thác Đầu mối-Kênh chính thuỷ lợi Ayunhạ
Cổng vào công trình Ayunhạ (Cổng bán vé du lịch)
Cổng vào công trình Từ QL 25 (QL25 rẽ vào 1km)
Bia đá ghi công các đơn vị thi công công trình Ayunhạ
Bia tưởng niệm các lao động đã ngã xuống vì công trình thuỷ lợi Ayunhạ
|
Đền tưởng niệm những người đã ngã xuống vì công trình Ayunhạ (Xây trên núi cao-Phía cổng vào bờ đập)
Văn phòng Công ty Khai thác công trình thuỷ lợi Gia Lai (Chủ Hồ Ayunhạ)
ĐÁNH GIÁ NGUỒN NƯỚC, CHẤT LƯỢNG NƯỚC VÀ CÁC YẾU TỐ MÔI TRƯỜNG HỒ AYUNHẠ
1. Nguồn nước cung cấp chủ yếu cho hồ là nước mưa từ lưu vực đưa tới và nước sông Ayun. Sông Ayun có lưu lượng bình quân năm 56,3m3/s
vào mùa kiệt, lượng nước mùa lũ chiếm tới 57,8% lượng nước cả năm,
tháng có lượng dòng chảy lớn nhất là tháng 10, với lưu lượng lên tới
188m3/s. Đối với vùng hồ Ayun Hạ modul dòng chảy chỉ có 10l/s/km2
2. Các yếu tố môi trường (thủy lý và thủy hóa)-Nguồn: Sở Khoa học và công nghệ Gia lai
*Nhiệt độ:
Nhiệt độ môi trường đã ảnh hưởng đến sự phân bố và các quá trình sinh
học xảy ra trong cơ thể sinh vật. Nhiệt độ của hồ Ayun Hạ thay đổi theo
mùa. Mùa khô dao động từ 27,500C-28,650C, mùa mưa dao động từ 25,100C-26,950C.
*pH nước:
Độ pH dao động từ 6,85-7,70. Sự thay đổi độ pH cũng thể hiện tính chất
mùa vụ và địa điểm lấy mẫu. Mùa khô pH cao hơn mùa mưa, mùa khô độ pH
dao động từ: 7,00-7,70; mùa mưa dao động: 6,85-7,50. Vùng thượng lưu pH
cao hơn vùng trung và hạ lưu nhưng nhìn chung sự chênh lệch không lớn.
*Hàm lượng Oxy hòa tan:
Hàm lượng oxy dao động từ 7,98-8,59mg/l và mang tính chất mùa vụ, mùa
khô lớn hơn mùa mưa. Mùa khô dao động: 6,28-8,59 mg/l và mùa mưa dao
động: 4,98-6,40mg/l. Hàm lượng oxy hoà tan có sự phân tầng, cao nhất
tầng mặt: 5,27-8,59mg/l kế đến tầng giữa: 5,72-8,15mg/l và thấp nhất là
tầng đáy: 4,98 - 7,02mg/l. Hàm lượng O2 hòa tan cũng có sự khác nhau giữa các lưu vực nước, cao nhất là trung lưu: 5,95 - 8,59mg/l, thấp nhất là hạ lưu.
*Hàm lượng CO2 hòa tan: Hàm lượng CO2 trong hồ thay đổi phụ thuộc vào cường độ hô hấp của thủy sinh vật và sự phân hủy các chất hữu cơ. Hàm lượng CO2 có sự thay đổi theo vị trí và mùa vụ. Mùa khô dao động: 10,70-14,50mg/l. Vùng trung lưu có hàm lượng CO2 cao nhất, kế đến là hạ lưu và thấp nhất là thượng lưu. Sự chênh lệch làm lượng CO2 giữa các tầng trong mùa không lớn lắm.
*Độ oxy hóa:
Hàm lượng COD là thông số đánh giá mức độ ô nhiễm nguồn nước từ nguồn
hữu cơ, COD càng lớn thì mức độ ô nhiễm hữu cơ càng cao. COD biến động
từ 0,30-2,80mg/l, thấp hơn nhiều so với TCVN–5942 (1995). Cao nhất là
vùng trung lưu và hạ lưu của hồ, trong mùa mưa COD chỉ đạt 2,80mg/l. Như
vậy nước hồ chưa bị ô nhiễm chất hữu cơ. Hàm lượng BOD thể hiện chất
hữu cơ bị phân huỷ sinh học, các chất hữu cơ có thể bị oxy hóa nhờ vai
trò của vi sinh vật. Hàm lượng BOD trong hồ thay đổi theo mùa vụ và vị
trí lấy mẫu. Mùa mưa dao động: 2,04-3,12mgO2/l, mùa khô dao động: 1,00-1,91mgO2/l; vùng trung lưu hàm lượng BOD cao nhất: 1,72-3,12mgO2/l; hạ lưu: 1,24-2,74mgO2/l và thấp nhất là thượng lưu: 1,00-2,73mgO2/l.
*Hàm lượng các muối dinh dưỡng: Chỉ tiêu NH4+, NO3-, P2O5 của hồ nằm trong mức từ trung bình đến phú dưỡng, rất thích hợp cho sự phát triển nuôi trồng thuỷ sản. NH4+ dao động từ 0,03-0,11mg/l tùy theo mùa và tùy theo lưu vực nước. Theo tiêu chuẩn nước thủy sản của FAO yêu cầu nồng độ NH4+
nhỏ hơn 0,2 mg/l đối với các loại cá Salmonid và nhỏ hơn 0,8mg/l đối
với các loại cá Cyprinid. Qua kết quả phân tích, chỉ tiêu NH4+ của hồ thích hợp cho nhiều loại cá. NO3-
là sản phẩm cuối cùng của sự phân hủy xác thực vật, động vật và chất
thải của chúng, phân bón hữu cơ... Ở vùng bị ô nhiễm do chất thải, phân
bón hữu cơ, nồng độ NO3- cao trên 10mg/l gây ảnh hưởng xấu đến chất lượng nước sinh hoạt và thủy sản. NO3- trong nước hồ dao động từ 0,20-0,60mg/l, thấp hơn nhiều so với quy định. Hàm lượng P2O5 dao động trong khoảng 0,015-0,04mg/l.
Tóm lại, các
chỉ tiêu hóa lý của nước hồ Ayun Hạ rất thích hợp cho mục đích cung cấp
nước sinh hoạt, tưới tiêu và phát triển nuôi trồng thủy sản.
-Thành phần thủy sinh vật hồ Ayunhạ
+Sinh vật phù du
*Thực vật phù du:
Kết quả điều tra nguồn lợi sinh vật đã ghi nhận được 68 loài thực vật
phù du thuộc 5 ngành tảo: Euglenophyta, Cyano-Bacteriophyta, Pyrrophyta,
Bacillariophyta, Chlorophyta. Trong đó, ngành Chlorophyta chiếm ưu thế
tới 50% tổng số loài bắt gặp, tiếp đến là Euglenophyta chiếm 17,65%,
Bacillariophyta chiếm 16,18%, Cyano-Bacteriophyta chiếm 13,23%, và thấp
nhất là Pyrophyta chỉ chiếm 2,94%. Đặc biệt trong 5 ngành tảo này, có
các ngành Chlorophyta, Bacillariophyta, Euglenophyta có nhiều thành phần
giống loài là thức ăn rất tốt cho cá. Thành phần giống loài của thực
vật phù du giữa hai mùa không có sự khác biệt lớn.
*Động vật phù du:
Thành phần động vật nổi trong hồ gồm 31 loài thuộc 3 bộ: Monogononta,
Cladocera và Copepoda. Trong đó bộ Monogononta chiếm ưu thế 77,42% gồm
24 loài, bộ Copepoda chiếm 16,13% gồm 5 loài và ít nhất là bộ Cladocera
chiếm 6,45% gồm 2 loài. Thành phần giống loài của động vật phù du giữa
hai mùa mưa và khô không có sự biến động lớn.
*Động vật đáy:
Thành phần loài của động vật đáy ở hồ Ayun Hạ gồm 20 loài thuộc 2
ngành: Arthropoda và Mollusca. Trong đó, Arthropoda chiếm 70% gồm 14
loài và Mollusca chiếm 30% gồm 6 loài. Thành phần giống loài động vật
đáy ít có sự thay đổi theo mùa.
Tóm lại,
thành phần thủy sinh vật ở hồ chứa nước Ayun Hạ rất phong phú và đa
dạng, là tiềm năng cho phát triển thủy sản nói chung và nghề cá nói
riêng.
TÍN NGƯỠNG "VUA NƯỚC-VUA LỬA Ở GIA LAI"
Về quê Vua lửa Tây Nguyên (Thuộc khu tưới của công trình thuỷ lợi Ayunhạ) | |||||
Từ
trung tâm thành phố Pleiku, đi xuôi về hướng đông nam, vượt qua đèo Chư
Sê, ta sẽ đến một vùng đất cực đẹp, một đồng bằng giữa cao nguyên hùng
vĩ. Sau khi công trình thủy lợi Ayun Hạ hoàn thành, nơi đây đã trở thành
một đồng bằng thứ thiệt với 13.500 ha ruộng lúa nước. Lọt thỏm giữa
mênh mông ruộng nước và lúa ấy là ngọn núi Chư Tao Yang, không cao lắm
(209,5m) nhưng nó chứa trong lòng một huyền thoại, một sự kiện văn hóa
tín ngưỡng: Cây gươm thần của Pơtao Puih (Vua lửa).
Chúng ta đều biết, thực ra xã hội Tây Nguyên chưa có nhà nước. Một số nhà nghiên cứu cho rằng, đến giữa thế kỷ XX thì Tây Nguyên vẫn còn đang ở giai đoạn mạt kỳ mẫu hệ. Cái gọi là chính quyền mới chỉ xuất hiện vai trò của già làng, một vài nơi có tù trưởng như ông Chut Cheo Reo, người lãnh đạo nhân dân Jơ Rai Ayun Pa chống Pháp... Cho nên từ “Pơtao” như lâu nay ta hay dịch là “vua” thực ra là không chính xác. Ở đây, Pơtao để chỉ mối liên hệ giữa người Jơ Rai với các sức mạnh vô hình với họ như thần linh hoặc vũ trụ. Các Pơtao cũng đồng thời giữ mối liên hệ giữa huyền thoại và lịch sử. Thế tức là Pơtao là những người không thực quyền, họ chỉ có vai trò là cầu nối giữa cộng đồng với các đấng siêu nhiên, cụ thể ở đây là với việc cầu mưa. Trong hệ thống các vua mang yếu tố thần quyền ở Tây Nguyên gồm Vua lửa, Vua nước, Vua gió... thì Vua lửa là người có vai trò lớn trong đời sống tinh thần các tộc người Tây Nguyên, đặc biệt là người Jơ Rai. Ông vua này đã từng nhận sắc phong của triều Nguyễn trong những nỗ lực cố gắng của các vua Nguyễn muốn thâu tóm vùng đất cao nguyên rộng lớn này. Siu Luynh là đời Pơtao thứ 14 trong hệ thống các Pơtao đã tồn tại ở Tây Nguyên. Gọi là vua nhưng thực chất Siu Luynh không khác gì người bình thường, cũng đi làm rẫy kiếm ăn, lấy vợ sinh con, và ngài cũng biết... đòi tiền khi nhà báo đề nghị chụp ảnh. Ông chỉ thực sự có quyền khi mà hạn hán thì ông cúng cho... mưa; và mưa nhiều quá thì ông lại cúng cho... hết mưa để khỏi úng (!) Cái thanh gươm của vua nghe đồn là gươm thần được tôi bằng máu người mới nguội. Đây là một thanh gươm có thật nhưng chưa ai được thấy bao giờ. Tôi sống ở Gia Lai đã hai sáu, hai bảy năm, nhiều lần ngồi... uống rượu với “vua”, nhiều lần lờn vờn quanh cái hang ấy, nhưng chưa bao giờ dám hó hé chuyện gươm với vua. Theo suy đoán của người viết thì nó chỉ có ý nghĩa tượng trưng cho thần quyền, còn thì ít nhất nó cũng đã gỉ sét hết, và nó cũng tương tự như các thanh gươm hoặc các loại binh khí được tôn làm vật thiêng treo trên các nóc nhà rông (các vật thiêng trên nóc nhà rông ngoài binh khí, nhiều khi chỉ là hòn đá suối hoặc xương thú...).
Như thế, Pơtao Puih là người luôn phải gắn chặt với gươm thần. Nếu không có gươm thì... không có vua. Nhưng điều lý thú rằng, người Jơ Rai, người Ba na, người Lào, người Mơ Nông... đều có chung truyền thuyết về thanh gươm này. Ấy là chi tiết khi thanh gươm cứ đỏ mãi không chịu nguội, sau khi đã ăn máu người (có truyền thuyết kể ăn máu nô lệ, có truyền thuyết cho rằng máu của chính một người giúp việc tên là Pang) nó vừa nguội thì anh em T’dia, T’ diêng vứt xuống sông. Hay tin, người Chàm, người Lào, người Khơ Me. .. đều lặn tìm thanh gươm. Một dân chài người Kinh lặn được thanh gươm. Từ dưới nước ông nhô người và giơ thanh gươm lên thì người Jơ Rai giật được lưỡi gươm, người Lào giật được chuôi gươm, còn người Kinh giữ vỏ gươm. Nhà văn Nguyên Ngọc đã khai thác truyền thuyết này thành chi tiết khá đắt nói về tình đoàn kết Kinh Thượng trong tiểu thuyết “Đất nước đứng lên”. Tiến sĩ Nguyễn Thị Kim Vân đang công tác ở Sở Văn hóa Thông tin Gia Lai cho rằng: Yếu tố bản địa của “thanh gươm thần” được nhiều tộc người khác nhau công nhận. Bóc đi các yếu tố thần thoại, đối chiếu với các tài liệu và suy luận khoa học, có thể thấy khi việc trồng lúa trở thành phương thức canh tác chính nuôi sống con người trên cao nguyên, nó đòi hỏi kèm theo những yếu tố khí hậu thời tiết nhất định. Nhưng khí hậu Tây Nguyên bấy giờ với 6 tháng nắng liên tục rất khốc liệt và cũng đầy bất thường. Trong đó, nguy cơ thường trực nhất là hạn hán (Các truyện cổ, truyền thuyết, trường ca... của người Tây Nguyên đều nhắc đến hạn hán như một nguyên nhân gây ra bi kịch và là dịp để các dũng sĩ ra tay nghĩa hiệp cứu dân làng, cứu người yêu, mà truyền thuyết nàng Ly (Thác Ia Ly) là một ví dụ). Trong hoàn cảnh ấy, ước muốn lớn nhất của người Jơ Rai là có thể cầu xin, “hô phong hoán vũ”, bắt thiên nhiên phục vụ con người. Ngay ở làng của vua Lửa, làng Ơi, bây giờ là giữa cánh đồng Ayun hạ mênh mông nước, có một hòn đá sừng sững. Truyền thuyết kể rằng đấy chính là chàng trai người Jơ Rai đi tìm nước cứu dân làng. Khi chỉ còn cách nước mấy chục mét nữa thì chàng chết khát và đứng luôn ở đấy từ bấy đến giờ. Dưới góc độ lịch sử thì trong nửa đầu của thiên niên kỷ thứ II sau công nguyên, những tộc người ở Tây Nguyên là nạn nhân của những cuộc xung đột triền miên giữa Lâm Ấp và Phù Nam, tiếp theo là Chiêm Thành và Chân Lạp nên họ phải lùi sâu vào những vùng núi cao, hẻo lánh, cách biệt với thế giới bên ngoài. Và vì thế mà họ biết đến nghề rèn khá muộn màng. Và khi những công cụ rèn đầu tiên xuất hiện với tất cả những tính năng ưu việt của nó so với trình độ săn bắt hái lượm và phát đốt chọc trỉa lúc bấy giờ, nó được gán cho yếu tố thần linh (Người Tây Nguyên theo tín ngưỡng nguyên thủy “vạn vật hữu linh” nên việc này cũng là điều dễ hiểu). Và khi gươm đã được “phong thần” thì việc tìm một người để giữ gươm như giữ vật linh là đương nhiên. Pơtao Puih có thể đã xuất hiện trong hoàn cảnh như thế...
Theo quy định truyền mồm thì con của Siu Luynh không được “nối ngôi” vì người này sẽ mang họ mẹ. Vậy chỉ có em ruột hoặc một người nào đó mang họ Siu mới được quyền này (một thứ quyền chẳng có... quyền gì). Theo chỗ tôi được biết thì có một vị phó vương là em Siu Luynh, người thường xuyên phụ giúp Siu Luynh khi hành lễ cúng Yàng khả năng sẽ được dân làng suy tôn, tuy thế, đã mấy năm rồi, ngôi vị Pơtao Puih vẫn để trống. Và như thế, những vấn đề thực hư về Vua lửa, về thanh gươm thần vẫn còn rất mơ hồ, vẫn còn bí ẩn như sương như khói. Và chính điều này nó khiến cho vùng đất này trở nên hấp dẫn...
thứ thiệt ở Tây Nguyên Ở Tây Nguyên người ta hay nói đến vua Lửa (Pơ tao Puih) mà ít người biết ngoài vua Lửa còn có vua Nước. Chính sử triều Nguyễn Đại Nam liệt truyện đã có một chương chép về vua Nước dưới cái tên “Thuỷ Xá”. Ở làng Plei Tao, vua Nước vẫn còn trong ký ức với một vị “vua” thứ thiệt cuối cùng Từ trung tâm thị trấn Chư Sê (Gia Lai) theo quốc lộ 19 về hướng tây – nam khoảng 20km là đến Plei Tao. “Plei Tao” tiếng Jrai có nghĩa là “Làng Vua”. Đây là nơi ở duy nhất của các vị vua Nước từ xưa đến nay… |
Trong ký ức “làng vua”
“Vua
nước” – tiếng Jrai là “ Pơtao Ia ”. “Pơ tao” có nghĩa là “đứng đầu”;
“Ia” là nước. “Vua” ở đây chỉ là cách gọi của người Kinh, hoàn toàn
không giống khái niệm vua của chế độ phong kiến. Đồng bào Tây Nguyên
quan niệm hai yếu tố quan trọng nhất của sự sống con người là nước và
lửa nên mỗi thứ phải có người đứng đầu để duy trì. Trách nhiệm của “vua”
là trời hạn thì cúng cầu mưa; mưa lâu quá thì cúng cho tạnh. Ngoài ra
nếu làng nào có dịch bệnh thì cúng cho khỏi. Không dính dáng gì đến việc
cai trị có tính chất hành chính nhưng do sống trong môi trường thiên
nhiên khắc nghiệt, trình độ nhận thức về tự nhiên lạc hậu nên người Tây
Nguyên rất coi trọng yếu tố tâm linh. Chính vì vậy nên vua Nước được
đồng bào tôn sùng với một quan niệm thần bí không khác mấy một vị vua ở
thế gian…
Theo
các tài liệu thì hiện tượng vua Nước đã có cách đây trên 550 năm với
bảy đời truyền nối xác định được tên. Đời vua Nước cuối cùng là Rơ Chăm
Chuych – chúng tôi sẽ nói ở phần sau.
Các
vua Nước kế vị không theo chế độ cha truyền con nối. Người nào trong họ
cũng có thể làm “vua” miễn là thuộc dòng họ Rơ Chăm. Nếu là họ Kpă hoặc
Siu thì chỉ được làm “phụ” – tức là thay “vua” đảm nhận các công việc
ngoại giao, cúng lễ… Người làm “vua” phải được cả dòng họ và cộng đồng
thừa nhận với những tiêu chuẩn rất nghiêm nhặt: không bao giờ được uống
rượu say, không ăn uống tạp; không được làm điều ác, không trai gái bậy
bạ… Nói tóm lại là người đó phải có một nhân cách đạo đức hơn hẳn mọi
người…
Là
“vua” nhưng suốt đời hoàn toàn không được hưởng chút quyền lợi gì của
cộng đồng, trái lại phải tuân theo những quy ước rất hà khắc. Nhà “vua”
phải nằm riêng ở một góc làng, cũng chỉ là nhà tranh nhưng phải dựng
đúng con số năm hoặc bảy gian. “Vua” phải ở riêng một gian, ăn uống
riêng, đồ dùng riêng. “Vua” cũng phải đi làm rẫy để kiếm sống như người
thường nhưng phải là một khu vực riêng; giọt nước tắm cũng riêng… Trừ
những lúc đi làm rẫy, “vua” chỉ ra ngoài lúc làng nào có dịch bệnh phải
cúng. Mỗi chuyến “xuất cung”, “vua” thường cuỡi voi và đem tất cả người
phụ việc cùng với đồ dùng riêng theo.
Như
trên đã nói thì suốt cuộc đời làm “vua”, nhà vua chỉ giữ vai trò của
một thầy cúng không hơn không kém. Nhưng sở dĩ “vua” có quyền năng trên
tất cả là nhờ được sử dụng quyền trượng của thanh kiếm. Thanh kiếm của
“vua” là một thanh kiếm rất đỗi kỳ bí… Người già truyền lại rằng nguyên
lúc mới khai thiên lập địa mặt đất còn nhiều thú dữ và ma quỷ. Loài
người lúc ấy còn yếu ớt nên không thể chống nổi. Yàng thấy vậy bèn ban
cho thanh kiếm thần. Với thanh kiếm mầu nhiệm, con người đã trừ được ma
quỷ, gọi được mưa xuống cho mình. Sau này trở nên đông đúc rồi, họ phải
chia tay nhau đến mọi nơi sinh sống. Thanh kiếm thần cũng được chia ra,
lưỡi do người Jrai giữ còn vỏ thì giao cho người Kinh, hẹn rằng có giặc
thì phải gộp lại để cùng đánh chúng. Câu chuyện đượm màu truyền thuyết
có lẽ mới xuất hiện sau này để nói lên ý chí đoàn kết dân tộc, còn nguồn
gốc thực của thanh kiếm thì hãy còn là một điều bí mật chưa ai được
tường. Người ta quan niệm nếu không có lý do gì mà lấy kiếm ra thì mưa
sẽ ngập lụt cả thế gian. Bởi vậy thanh kiếm bí hiểm đó hiện chỉ một
người biết nơi cất giấu – đó là Rơ Chăm Chuych đời vua Nước sau cùng.
Nguyên ngày xưa thanh kiếm thiêng vẫn bọc kín để trong phòng “vua’’
nhưng nay vì Chuych không chịu làm “vua” nữa nên phải để xa làng, nếu
không dịch bệnh, tai hoạ sẽ xảy ra…
“Vua’’ không muốn làm vua!
Chúng
tôi tìm đến làng Thơ Ga để tìm vị “vua” nghe có vẻ kỳ dị này… “Vua”
đang ngồi thái thuốc trước hiên nhà bằng một cây rựa dài, mình khoác hờ
chiếc áo màu gạch non nhăn nhúm; điếu thuốc sâu kèn ngậm lút miệng phả
khói khét lẹt. Một nụ cười ngỡ ngàng mở ra thay lời chào… Những người
hàng xóm tròn mắt ngạc nhiên khi nghe chúng tôi gọi ông là “vua”. Ở làng
Thơ Ga này chẳng mấy ai biết vua Nước là gì nên với Rơ Chăm Chuych,
người ta chỉ biết ông ở Plei Tao, bắt vợ ở làng này, tính hơi “hâm” một
chút – thế thôi…
Rơ
Chăm Chuych năm nay 57 tuổi. Ông là người được nhắm ngôi vị vua Nước
lúc còn rất trẻ nhưng chưa kịp làm lễ thì bị điên. Một thời gian sau
thấy đỡ, ông đi lính công binh cho chế độ cũ. “Thằng Chuych đi lính,
rượu chè trai gái bậy bạ rồi sẽ hỏng mất con người vua”. Già làng nói
vậy và dẫn dân làng lên đòi Chuych về. Người ta làm lễ “lên ngôi” rồi
bắt vợ cho Chuych. Trong hơn 20 mùa rẫy, vợ đẻ được 11 đứa con nhưng chỉ
nuôi được 5… Thấy làm “vua” chẳng được gì mà chỉ cúng lễ tốn kém, vợ
gây gổ với Chuych luôn. Khổ trong đầu nhiều quá, Chuych hay lén đi uống
rượu nhà mả, ăn cả con chuột, con ếch; nhìn cả người chết nên bị điên
trở lại. Vợ đã khổ vì con đông nay lại phải gánh thêm “vua điên” nên bỏ
luôn. Dân làng thấy vậy cho là Yàng không muốn Chuych làm “vua” nên xui
ra thế, và từ đó họ không còn coi Chuych là “vua” nữa… Ba năm sống lang
thang một mình, bỗng nhiên bệnh Chuych lại đỡ. Nhờ người mai mối, Chuych
làm quen rồi bắt Siu Ar Lol ở làng Thơ Ga. Trước khi bắt lại Chuych, Ar
Lol đã có hai đời chồng. Chồng đầu bỏ, được ba đứa con; chồng thứ hai
bị điên chết, bỏ lại hai con. Chuych về ở cũng như góp gạo vào một nồi
cho vui vậy thôi…
“Không
phải Yàng không cho làm “vua” nên xui Chuych làm những việc cấm, chính
vì không thích làm “vua” nên Chuych cố làm ra như vậy. Làm “vua” khổ
quá, làm con người thường sướng hơn. Không phải riêng Chuych đâu, mọi
người đều nghĩ thế cả. Cúng làm sao tới trời được, đó là vì ngày xưa ông
bà mình nghĩ thế thôi”. Rơ Chăm Chuych cười thoải mái.
Quả
là một “ông vua bất trị” thật, nhưng ngẫm điều ông nói cũng không phải
không có lý: vua Nước thực ra chỉ là một hiện tượng tín ngưỡng của một
thời…
bài và ảnh Ngọc Tấn
Đầu xuân về thăm "làng vua" ở Gia Lai.
Trong căn nhà sàn của Già làng Rơ mah Ên, lũ con cháu trong làng tụ tập
về đây liên hoan. Lửa củi cháy bập bùng, những nam nữ thanh niên quây
quần bên ghè rượu cần rồi gõ chiêng nhảy múa... Chúng tôi thực hiện
chuyến du xuân đầu tiên về thăm một làng quê độc nhất vô nhị này ở Gia
Lai... và lần đầu tiên được nghe câu chuyện về làng Plei Ơi "làng vua"
(thuộc xã Ia Ke, huyện Phú Thiện)...
"Làng vua" - Chiếc nôi của nền văn hóa cộng đồng
......Vào
một ngày xuân đã lâu lắm rồi, theo bao con trăng lẩn trốn, bao lần mặt
trời mọc rồi lặn... Bỗng một hôm nắng đẹp, đánh thức những nhánh lan
rừng chớm nở thơm ngát. Ở dưới chân núi Ba Hòn, người dân xung quanh
nhìn thấy mọc lên 5 nóc nhà: Một là nhà "vua Lửa", hai là nhà phụ tá vua
và nhà của họ hàng nhà "vua ("vua Lửa" có tên thật là Pơ Tao Pui Sui
Lăk, người Jơ Rai.
Vào đầu năm Minh Mạng thứ 10 (1824) "vua Lửa" còn được triều đình nhà
Nguyễn ban cho tên là Ma Lâm). Không biết họ đến từ đâu. Chỉ biết rằng
khi dừng chân ở đây, thấy thổ nhưỡng, địa hình trù phú rất thích hợp cho
việc trồng cây lương thực nuôi sống con người, thế là chẳng ai bảo ai,
họ tự dựng nhà và chung sức làm ăn sinh sống.
Gọi là "vua" nhưng cuộc sống của "vua" cũng như bao bà con sống quanh
vùng, cũng "phát, đốt, chọc, tỉa", sống du canh, du cư, chỉ có vai trò
của "vua" là quan trọng nhất, giống như già làng ở các địa phương Tây
Nguyên bây giờ.
Khi
"vua" đến vùng đất này, dân làng làm ăn khá giả và trở nên trù phú,
người dân quanh vùng gặp chuyện khó khăn do mất mùa đói kém hoặc bất
đồng trong cuộc sống gia đình, làng bản đều đến đây nhờ “vua” cho tá túc
và dần dần họ cùng nhau lập thành làng. Rồi cái tên Plei Ơi xuất hiện
từ đó. "Plei" tiếng Kinh có nghĩa là làng, còn "Ơi" là vua (làng vua).
Tiếng lành đồn xa, đồng bào Jrai - Ba Nar ở Krông Pa, Phú Yên, Kon Tum,
Đắk Lắk... mỗi khi gặp chuyện không may thì cả làng kéo nhau đến tận
Plei Ơi nhờ "vua" cúng Yang để cho cuộc sống gặp chuyện tốt lành. Cũng
từ đây, phong trào văn hóa cộng đồng xuất hiện và phát triển, nhà nào ăn
nên làm ra cũng đều tích góp mua sắm thật nhiều chiêng ghè, có những bộ
chiêng trước đây có nhà phải đổi đến vài chục con trâu, bò, thậm chí cả
5-7 con voi.
Hiện nay, trong làng còn có gia đình "vua Lửa", gia đình Rơ Mah Ên, Kso
Hvim... mỗi gia đình có tới ba bộ chiêng quý: Chiêng để đánh ngoài cộng
đồng, chiêng đánh trong gia đình, chiêng đánh trong mùa lễ hội...
Đến nay, Plei Ơi là làng duy nhất ở Tây Nguyên còn nhiều chiêng, ghè
cổ. Vì chính giá trị văn hóa tinh thần sâu sắc như thế, nên đã có một
làng Plei Ơi mang bao điều bí ẩn từ thuở lập làng và cho tới tận bây giờ
vẻ nguyên sơ của làng chưa bị pha trộn văn hóa “hiện đại”. Chính điều
đó đã có một Plei Ơi mang đậm giá trị văn hóa truyền thống và là khu di
tích Plei Ơi bây giờ. Nhưng cuộc sống "du canh, du cư của người dân Plei
Ơi ngày càng khó khăn, do rừng núi hoang tàn, đất đai bạc màu, dân cư
đông đúc, Nhà nước đã tính đến việc dời dân, xây dựng cuộc sống mới.
Làng Plei Ơi - Ngôi nhà đại đoàn kết
.......Plei
Ơi là làng tập hợp nhiều cộng đồng dân tộc sinh sống, hiện có 97 hộ,
574 khẩu, 65% người Jrai, còn lại là người Thái, Ba Nar, Xê Đăng và
Kinh. Bước ra từ rừng núi hoang vu, nên ngày đầu đời sống nhân dân còn
có nhiều khó khăn, vất vả. Nhưng được sự quan tâm chỉ đạo và của cấp ủy,
chính quyền địa phương..., Plei Ơi hôm nay khác trước nhiều lắm mà
trước hết là nhận thức về xã hội, làm ăn kinh tế... Bởi vậy, khi nghe
vận động, dân làng đã đồng loạt nhất trí rời làng ra gần đường lập
nghiệp, để thuận lợi cho việc sản xuất, giao lưu hàng hóa...
Không giấu được niềm vui, Sui Ghem, trưởng thôn nói như khoe với chúng
tôi: "Mình đã làm nhiều, nói nhiều để dân Plei Ơi hiểu rằng ở đời này
chỉ có Bác Hồ, chỉ có Đảng lãnh đạo thì dân mình mới luôn có nồi cơm
đầy, hạt thóc, hạt ngô đầy nương, con cái được đi học, được làm cán bộ
của Đảng, có điện sinh hoạt, mọi vật dụng trong gia đình như tivi, xe
máy... ngày càng có nhiều, điều mà trước đây cha ông ta bao đời làm cũng
chưa có được (hiện nay trong làng 97% số hộ đã có tivi, hơn 90% có xe
máy, 35% có xe công nông, máy xay xát lúa, ngô...).
Nhưng
cái đầu dân làng còn ít chữ vì thế một số bị kẻ xấu lợi dụng lôi kéo
làm những điều sai trái. Biết được, cái bụng mình buồn lắm, cùng với già
làng Ên và một số cán bộ thôn, cứ đi hết nhà này, qua nhà khác nói vào
cái tai cho nó hiểu. Do đó, hơn 2 năm nay ở làng Plei Ơi không một ai bị
kẻ xấu kích động, lôi kéo làm điều sai nữa. Giờ đây, họ đã hướng về
Đảng, về Bác như cây rừng trên núi Ba Hòn hướng về mặt trời vậy...
Nếu trước đây cuộc sống của bà con cứ “chặt, đốt, chọc, tỉa”, rừng rú
ngày càng bị tàn phá, đất đai không còn màu mỡ nên người dân vẫn cứ
nghèo khổ. Nay, nhờ vào thủy lợi Ayun Hạ, chỗ nào cũng trồng được cây
lúa nước hai vụ, cùng những cây trồng cho năng suất cao.
Còn
về chăn nuôi cũng đã thay đổi các giống “địa phương” không năng suất
bằng giống lai hiệu quả... Đặc biệt là làng còn thành lập hợp tác xã
nông nghiệp Thanh Sơn để vừa là cầu nối giúp bà con áp dụng những tiến
bộ kỹ thuật vào trong quá trình sản xuất, trồng trọt, vừa tiêu thụ sản
phẩm khi bà con làm ra...".
Bên
cạnh sự thay đổi về kinh tế, đời sống văn hóa, tinh thần của bà con
đồng bào các dân tộc ở đây cũng thay đổi rất nhiều. Chuyện học hành của
con cháu đã được cả làng quan tâm. 100% trẻ em được đi học, có nhiều em
đã học hết cấp 2, cấp 3. Năm 2000, Plei Ơi đã được công nhận là làng
Thanh niên theo tiêu chí mới, làng văn hóa cộng đồng.
Nằm
gần khu du lịch A Yun Hạ, với khu di tích Plei Ơi và núi Ba Hòn, hồ
thủy lợi A Yun Hạ sẽ tạo nên một điểm du lịch sinh thái mang nhiều dấu
ấn về vẻ đẹp kỳ thú và đậm đà bản sắc cội nguồn văn hóa truyền thống,
địa phương...
Tây
Nguyên vào xuân, khắp các bản làng mừng vui trong những ngày hội lịch
sử của dân tộc, Plei Ơi cũng đang hòa vào những niềm vui lớn đó, đặc
biệt là sự đổi thay nhiều mặt của một làng quê giàu truyền thống văn
hóa, cộng đồng
Lê Quang Hồi-Theo cand.com
Những bài viết khác xung quang chủ đề Vua Nước, Vua Lửa, Vua gió,...
Ở Tây nguyên thực ra có đến 3 ông vua không ngai là vua gió, vua nước
và vua lửa. Ông vua gió và vua nước nghe đồn là ở huyện Chư Sê, Gia Lai
nhưng đã chết từ đời nảo đời nào, chỉ nghe nói chứ chả gặp bao giờ. Còn
Hoả xá chính là Vua lửa Siu Luynh đời thứ 14 vừa băng hà tại quê nhà,
làng Ơi, xã Chư A Thai, huyện A Yun Pa, tỉnh Gia Lai cách đây 6 năm. Tức
là trước ông Siu Luynh này đã có 13 đời Hoả xá (Vua lửa) cùng trong
dòng họ Siu, và cũng chỉ ở Chư A Thai, A Yun pa.
Trong “Phủ biên tạp lục”, Lê Quý Đôn ghi: “Nước ấy có chừng hơn 50
thôn, trong nước có núi Bà Nam rất cao lớn, là trấn sơn một phương, Thuỷ
Vương ở phía Đông núi, Hoả Vương ở phía Tây núi, đều có địa phận riêng,
gác cây làm nhà, bộ thuộc đều vài trăm người, cày bằng dao, trồng bằng
lửa, tháng giêng reo, tháng năm lúa chín, không gặt mà chỉ tuốt, không
biết ngày tháng. Vua cưỡi voi, đi theo độ hơn mười người. Đến một thôn
Man nào đánh ba hồi chiêng, người trong thôn đều ra, làm nhà tranh cho
vua ở”... Còn trong “Đại nam liệt truyện” sơ tập 931 thì viết: “Nước
Thuỷ xá và nước Hoả xá, hai nước này ở trên đất Nam Bàn, có độ hơn 50
thôn. Cứ 5 năm một lần, chúa Nguyễn sai người đến nước ấy, mang cho các
đồ vật như áo gấm, mũ, nồi đồng, chảo sắt và bát đĩa, các thứ đồ gốm...
Hai nước nhận được các thứ cho ấy, tức khắc sắm sửa các thứ sản vật địa
phương như kỳ nam, sáp ong, nhung hươu, mật gấu, voi đực... để dâng hiến
lại”... Sách này chép tiếp: “Hai nước tuy nay có vua mà không có binh
lính và thành quách; cày lấy mà ăn, dệt lấy mà mặc... chỉ nên ra là nhờ
dựa vào thần quyền mà dân chúng suy tôn. Mán dân thờ phụng như thần
thiêng vậy. Còn như cái quyền sinh sát, việc tranh đấu đều do sách
trưởng (có thể là tù trưởng hoặc tương đương thế- TG) nắm cả, vua thực
không dự đến”.
Ở Tây nguyên thực ra có đến 3 ông vua không ngai là vua gió, vua nước
và vua lửa. Ông vua gió và vua nước nghe đồn là ở huyện Chư Sê, Gia Lai
nhưng đã chết từ đời nảo đời nào, chỉ nghe nói chứ chả gặp bao giờ. Còn
Hoả xá chính là Vua lửa Siu Luynh đời thứ 14 vừa băng hà tại quê nhà,
làng Ơi, xã Chư A Thai, huyện A Yun Pa, tỉnh Gia Lai cách đây 6 năm. Tức
là trước ông Siu Luynh này đã có 13 đời Hoả xá (Vua lửa) cùng trong
dòng họ Siu, và cũng chỉ ở Chư A Thai, A Yun pa.
Chúng
ta đều biết, thực ra xã hội Tây Nguyên chưa có nhà nước. Một số nhà
nghiên cứu cho rằng, đến giữa thế kỷ XX thì Tây nguyên vẫn còn đang ở
giai đoạn mạt kỳ mẫu hệ. Cái gọi là chính quyền mới chỉ xuất hiện vai
trò của già làng, một vài nơi có tù trưởng như ông Chut Cheo Reo, người
lãnh đạo nhân dân Jơrai Ayun Pa chống pháp... Cho nên từ “Pơtao” như lâu
nay ta hay dịch là “vua” thực ra là không chính xác. Ở đây, pơtao để
chỉ mối liên hệ giữa người Jơ Rai với các sức mạnh vô hình với họ như
thần linh hoặc vũ trụ. Các Pơtao cũng đồng thời giữ mối liên hệ giữa
huyền thoại và lịch sử. Thế tức là Pơtao là những người không thực
quyền, họ chỉ có vai trò là cầu nối giữa cộng đồng với các đấng siêu
nhiên, cụ thể ở đây là với việc cầu mưa. Ở đây, ta cũng cứ gọi là “vua’
theo truyền thống cho nó... oách và quen miệng.Trong
hệ thống các vua mang yếu tố thần quyền ở Tây nguyên gồm vua lửa, vua
nước, vua gió... thì vua lửa là người có vai trò lớn trong đời sống tinh
thần các tộc người tây nguyên, đặc biệt là người Gia Rai. Ông vua này
đã từng nhận sắc phong của triều Nguyễn trong những nỗ lực cố gắng của
các vua Nguyễn muốn thâu tóm vùng đất cao nguyên rộng lớn này. Siu Luynh
là đời Pơtao thứ 14 trong hệ thống các Pơtao đã tồn tại ở Tây nguyên.
Gọi là vua nhưng thực chất Siu Luynh không khác gì người bình thường,
cũng đi làm rẫy kiếm ăn, lấy vợ sinh con, và ngài cũng biết... đòi tiền
khi nhà báo đề nghị chụp ảnh. Ông chỉ thực sự có quyền khi mà hạn hán
thì ông cúng cho... mưa? và mưa nhiều quá thì ông lại cúng cho... hết
mưa để khỏi úng? Vua có một thanh gươm nghe đồn là gươm thần được tôi
bằng máu người mới nguội, hiện được cất rất kỹ tại một hang đá ngay bên
cạnh làng Ơi, giữa cánh đồng Ayun hạ bây giờ. Đây là một thanh gươm có
thật nhưng chưa ai được thấy bao giờ. Tôi sống ở Gia Lai đã hai bốn năm,
nhiều lần ngồi... uống rượu với “vua”, nhiều lần lờn vờn quanh cái hang
ấy, nhưng chưa bao giờ dám hó hé chuyện gươm với vua. Theo suy đoán của
người viết thì nó chỉ có ý nghĩa tượng trưng cho thần quyền còn thì ít
nhất nó cũng đã gỉ sét hết, và nó cũng tương tự như các thanh gươm hoặc
các loại binh khí được tôn làm vật thiêng treo trên các nóc nhà rông
(các vật thiêng trên nóc nhà rông ngoài binh khí, nhiều khi chỉ là hòn
đá suối hoặc xương thú...). Nguồn gốc thanh gươm của Pơtao Puih theo
truyền thuyết như sau: nó do anh em T'dia và T'diêng rèn từ một hòn đá ở
núi Hàm Rồng (là một miệng núi lửa khổng lồ cách trung tâm TP Pleiku về
phía nam khoảng chục cây số), nhưng khi rèn xong, thanh gươm cứ đỏ rực,
không chịu nguội, nhúng vào ghè ghè cạn, nhúng xuống suối suối khô,
nhúng xuống sông sông hết nước... cuối cùng người ta phải nhúng bằng máu
các nô lệ? và ai sở hữu thanh gươm này, người đó sẽ nói chuyện được với
thần linh? Từ năm 1904, một viên sĩ quan Pháp (có tài liệu nói là cố
đạo, là nhà khoa học) tên là Odend’hal cùng 4 tuỳ tùng chỉ vì lý do cứ
đòi xem gươm cho bằng được, đã bị dân làng giết chết. Sau đó tỉnh Gia
Lai đã có một kế hoạch xem gươm do hai ông người Gia Rai đương chức thời
ấy là ông Ksor Krơn nguyên bí thư tỉnh uỷ và ông Nay Quách nguyên phó
giám đốc sở Văn Hoá thông tin chủ trì. Kế hoạch là phải làm một lễ rất
lớn, có giết trâu cúng... rồi sau đấy mới được xem, được quay phim chụp
ảnh... trong thời gian rất ngắn. Nhưng sau đấy hình như vì lý do kinh
phí và cả một vài ý kiến rằng làm như thế là mê tín, là... công nhận
vua... nên cuối cùng chưa ai thấy gươm cả. Tôi đã khá nhiều lần được
tiếp xúc với... vua và thấy đấy là một người đàn ông Gia Rai hiền lành,
có vợ con đàng hoàng, cũng lam lũ lắm, đến nhà ban ngày bao giờ cũng
phải nhờ người lên rẫy, cách nhà hàng 5, 7 cây số tìm, vì ông suốt ngày
làm việc trên ấy, duy chỉ một việc ranh mãnh là... làm kinh tế từ...
danh hiệu vua khi ai muốn chụp ảnh ông đều phải... cho tiền.
Như thế, Pơ tao Puih là người luôn phải gắn chặt với gươm thần. Nếu
không có gươm thì... không có vua. Nhưng điều lý thú rằng, người Jrai,
người Bơnah, người Lào, người Mơ Nông... đều có chung truyền thuyết về
thanh gươm này. Ấy là khi thanh gươm cứ đỏ mãi không chịu nguội, sau khi
đã ăn máu người (có truyền thuyết kể ăn máu nô lệ, có truyền thuyết cho
rằng máu của chính một người giúp việc tên là Pang) nó vừa nguội thì
anh em TDia, TDiêng vứt xuống sông. Hay tin, người Chàm, người Lào,
người Khơ Me... đều lặn tìm thanh gươm. Một dân chài người Kinh lặn được
thanh gươm. Từ dưới nước ông nhô người và giơ thanh gươm lên thì người
Jrai giật được lưỡi gươm, người Lào giật được chuôi gươm, còn người Kinh
giữ vỏ gươm. Nhà văn Nguyên Ngọc đã khai thác truyền thuyết này thành
chi tiết khá đắt nói về tình đoàn kết Kinh Thượng trong tiểu thuyết “Đất
nước đứng lên”. Tiến sĩ Nguyễn Thị Kim Vân đang công tác ở sở Văn hoá
Thông tin Gia Lai cho rằng: Yếu tố bản địa của “thanh gươm thần” được
nhiều tộc người khác nhau công nhận. Bóc đi các yếu tố thần thoại, đối
chiếu với các tài liệu và suy luận khoa học, có thể thấy khi việc trồng
lúa trở thành phương thức canh tác chính nuôi sống con người trên cao
nguyên, nó đòi hỏi kèm theo những yếu tố khí hậu thời tiết nhất định.
Nhưng khí hậu Tây Nguyên bấy giờ với 6 tháng nắng liên tục rất khốc liệt
và cũng đầy bất thường. Trong đó, nguy cơ thường trực nhất là hạn hán
(Các truyện cổ, truyền thuyết, trường ca... của người Tây Nguyên đều
nhắc đến hạn hán như một nguyên nhân gây ra bi kịch và là dịp để các
dũng sĩ ra tay nghĩa hiệp cứu dân làng, cứu người yêu, mà truyền thuyết
nàng Ly (Thác Ia Ly) là một ví dụ). Trong hoàn cảnh ấy, ước muốn lớn
nhất của người Jrai là có thể cầu xin, “hô phong hoán vũ”, bắt thiên
nhiên phục vụ con người. Ngay ở làng của vua Lửa, làng Ơi, bây giờ là
giữa cánh đồng Ayun hạ mênh mông nước, có một hòn đá sừng sững. Truyền
thuyết kể rằng đấy chính là chàng trai người Jrai đi tìm nước cứu dân
làng. Khi chỉ còn cách nước mấy chục mét nữa thì chàng chết khát và đứng
luôn ở đấy từ bấy đến giờ. Dưới góc độ lịch sử thì trong nửa đầu của
thiên niên kỷ thứ II sau công nguyên, những tộc người ở Tây Nguyên là
nạn nhân của những cuộc xung đột triền miên giữa Lâm Ấp và Phù Nam, tiếp
theo là Chiêm Thành và Chân Lạp nên họ phải lùi sâu vào những vùng núi
cao, hẻo lánh, cách biệt với thế giới bên ngoài. Và vì thế mà họ biết
đến nghề rèn khá muộn màng. Và khi những công cụ rèn đầu tiên xuất hiện
với tất cả những tính năng ưu việt của nó so với trình độ săn bắt hái
lượm và phát đốt chọc tỉa lúc bấy giờ, nó được gán cho yếu tố thần linh
(Người Tây Nguyên theo tín ngưỡng nguyên thuỷ “vạn vật hữu linh” nên
việc này cũng là điều dễ hiểu). Và khi gươm đã được “phong thần” thì
việc tìm một người để giữ gươm như giữ vật linh là đương nhiên. Pơtao
Puih có thể đã xuất hiện trong hoàn cảnh như thế.
Như đã nói, đến nay đã có 14 đời Pơtao Puih. Nếu tính trung bình sáu
chục năm một đời thì Pơtao Puih cũng mới xuất hiện trên dưới bảy tám
trăm năm. Thứ tự tên các Pơtao Puih như sau; 1/ Ksor Chlỡi. Ông này là
người đầu tiên được giao nhiệm vụ giữ gươm nhưng ông cương quyết từ chối
vì Pơtao phải thực hiện một chế độ kiêng khem rất nghiêm ngặt (không
được ăn thịt bò, ếch nhái, lòng của những động vật nuôi trong nhà...).
Vì từ chối mà ông đã bị cộng đồng giết rất dã man, chặt 2 chân, 2 tay
rồi chặt đầu. 2/ Rơ Chăm Trũl. 3/ Rơ Chăm ANur. Đây là người đầu tiên
thực hiện các nghi lễ cúng thần gươm và có bài cúng cầu mưa hẳn hoi. 4/
Siu Bôm. Khi Anur chết, ông không trao việc giữ gìn thanh gươm cho dòng
họ Rơ Chăm nữa mà trao cho con trai mình, một thanh niên thông minh và
tài giỏi. Vì là con của Anur nên anh này mang họ mẹ. Từ đây vĩnh viễn
thanh gươm do dòng họ Siu nắm giữ. 5/ Siu Djua. 6/ Siu Nhong. Đây là
người đặt nền móng cho sự manh nha hình thành vùng lãnh thổ của Pơtao
Puih. Đầu tiên ông này cũng từ chối không nhận nhiệm vụ giữ gươm vì nhà
nghèo không ăn kiêng được. Dân làng thuyết phục ông 7 ngày 7 đêm, hứa sẽ
cấp thức ăn cho ông ăn kiêng. Dân làng nói “ Nhong ơi, nếu ông không
chịu giữ thanh gươm, chắc là cả vùng mình đây sẽ chết hết thôi. Bây giờ
trời đang nắng, nếu ông gõ vào nước mà có mưa, dân làng không đau ốm thì
ông là người có thần, có tài, chúng tôi sẽ cùng góp rượu, góp trâu để
cúng và cử ông làm Pơtao”. Nhong đã đánh 7 lần vào nước, và 7 ngày sau
thì mây mưa ào ào kéo đến như thác. Và ông chính thức phải nhận là Pơtao
Puih. 7/ Siu Blông. 8/ Siu Blet. Đây là Pơtao có công rất lớn trong
việc thiết lập quan hệ với người Việt. Hàng năm ông đều cử người mang
quà đi tiến cống vua nước Việt và nhận quà của vua Kinh. Sử cũ có nhắc
đến việc này. 9/ Siu Ji. 10/ Siu Y. Đây là Pơtao đã rời làng về địa điểm
Plei Ơi ngày nay. Đây là thời kỳ trong xã hội Jrai xuất hiện nô lệ,
thường là những người bị tội và không có tiền nộp phạt cho làng và bị
những người giàu “mua” về, lấy tiền đó trả cho làng. 11/ Siu Ăt. Đây là
vị thủ lĩnh Jrai chống pháp. Và người Pháp đầu tiên bị người Jrai giết
Odend’hal chính là ở thời kỳ này. 12/ Siu Tũ. Ông này cũng quyết liệt
chống Pháp và bị Pháp bắt giam ở Kon Tum. Ông mất năm 1947. 13/ Siu
Nhót. Ông được cả người Pháp rồi người Mỹ sau này tìm cách thu phục. Năm
1973 ông bị ốm liệt cả tứ chi, nhưng đến 1986 ông mới mất. Mộ của ông
vẫn còn ở Plei Ơi. Và người thứ 14 là Siu Luynh kế vị từ 1986. Thực ra
ông này chưa được làm lễ nhận gươm và đã mất năm 1999. Ở đây có một điều
lưu ý là vì người giữ gươm, tức được làm Pơtao Puih chỉ là người mang
họ Siu nên con của các Pơtao không bao giờ được... nối ngôi, bởi người
Jrai theo chế độ mẫu hệ, mang họ mẹ, mà theo nguyên tắc, vợ của Pơtao
phải là người mang họ Rơmah. Quy định cụ thể về người nối ngôi như sau:
Nếu một người mẹ họ Siu có con làm Pơtao, thì ở thế hệ tiếp theo, người
kế vị sẽ là con trai của những người chị hoặc em gái của Pơtao cũ. Và cứ
thế, bảo đảm người nối ngôi luôn mang dòng họ Siu. Nếu người nối ngôi
khi lên nhận chức Pơtao Puih mà đã có vợ không phải họ Rơmah thì ông ta
phải... bỏ bà vợ này và các phụ tế, gọi là kơeng, sẽ chọn cho ông một...
hoàng hậu họ Rơmah.
Theo chúng tôi, vua lửa Pơtao Puih là một nhu cầu tâm linh thiết yếu
của người tây nguyên nói riêng, loài người nói chung, bởi ai cũng biết
lửa quan trọng đối với đời sống con người như thế nào? Prômêtê chẳng đã
từng được ca ngợi là "kẻ đầu tiên tuẫn tiết trên tấm lịch triết học" đó
sao? Và vai trò chính của Pơtao là cầu mưa, cũng là một thứ thiết yếu
với loài người. Các đời Pơtao trước có thể vai trò và thế lực của các
ông lớn hơn, còn đến Siu Luynh, thực chất ông chỉ còn cái tiếng, vì sống
giữa rốn của công trình thuỷ lợi Ayun hạ mênh mông 13.500 ha, chả ai
cần phải đợi mưa nữa cả, nước mênh mông như giữa đồng bằng lúa nước.
Nhưng dẫu sao thì ông cũng đã là một nhân vật được chú ý. Mặt trận tổ
quốc Việt Nam tỉnh Gia Lai hồi đó đã tổ chức cho ông tham gia đoàn già
làng trưởng bản ra thăm Hà Nội, viếng lăng bác Hồ, khi về ông say sưa
hào hứng kể chuyện cả tháng trời cho dân làng nghe mà vẫn "chưa hết cái
Hà Nội", chưa hết “con đường ra Hà Nội”. Làng vua lửa ở là Plei Ơi (Plei
= làng) đã được bộ Văn hoá Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn
hoá cấp quốc gia từ cách đây hơn mười năm (1993). Khi ông mất, cả Plei
và các vùng phụ cận đều đi đưa. Nghi lễ đám ma của ông cũng khác người
thường một chút: Không đặt thi hài trên sàn nhà mà đặt dưới đất theo
hướng đông tây, xác được quàn trong một cây gỗ to khoét rỗng và 2 ngày
mới đi chôn. Nhà mồ hiện đại lợp ngói và trang trí rất đẹp nhưng không
có tượng mồ như phong tục của người Tây Nguyên, vì tuy ông chết nhưng
hồn ông vẫn còn ở với dân làng giúp những người kế vị tốt hơn?
Theo quy định như đã dẫn thì con của Siu Luynh không được "nối ngôi".
Vậy chỉ có em ruột hoặc một người nào đó mang họ Siu mới được quyền này
(một thứ quyền chẳng có... quyền gì). Theo chỗ tôi được biết thì có một
vị phó vương là em Siu Luynh, người thường xuyên phụ giúp Siu Luynh khi
hành lễ cúng Yàng khả năng sẽ được dân làng suy tôn, tuy thế, đã mấy năm
rồi, ngôi vị Pơtao Puih vẫn để trống. Sở Văn hoá Thông Tin Gia Lai,
bằng nỗ lực và nhiệt tình của mình, đã vừa in và phát hành một tập sách
về Vua Lửa Pơtao Puih dày gần 400 trang với nhiều thông tin rất thú vị
về một hiện tượng thần quyền, vua không ngai, một hiện tượng văn hoá tín
ngưỡng... của người Jơrai nói riêng và Tây nguyên nói chung...
KHAI THÁC TỔNG HỢP NGUỒN LỢI TỪ HỒ AYUNHẠ