ĐỀ.
Bàn về thơ, nhà phê bình văn
học Nga Bêlinxki đã viết:
“Thơ trước hết là cuộc đời,
sau đó mới là nghệ thuật”
Anh (chị ) hãy bình luận ý
kiến trên.
Bài làm
Những vần thơ Anđécxen,
những vần thơ ngân vang từ thung lũng Ôđenzơ, nơi có những hẻm núi sương giăng
mờ ảo và những vòm hoa thạch thảo tim tím nên thơ đã gieo vào tâm hồn nhà văn
Pauxtôpxki niềm xúc cảm mãnh liệt: “Anđécxen đã lượm lặt hạt thơ trên luống đất
của người dân cày, ấp ủ chúng nơi trái tim ông rồi gieo vào những túp lều, từ
đó lớn lên và nảy nở những bó hoa thơ tuyệt đẹp, chúng an ủi trái tim những
người cùng khổ”. Thơ ca, hai chữ kì diệu mà muôn đời vẫn chưa tìm ra một định
nghĩa trọn vẹn, hoàn chỉnh. Thơ là gì ? Thơ bắt nguồn từ đâu ? Thơ có mãnh lực
gì khiến cung đàn cảm xúc của triệu triệu con người trên trái đất này không
ngừng lay động, thổ thức, xuyến xao ? Phải chăng “thơ” ở đây như trong lời bình
của nhà văn học Nga V.Bêlinxki vào thế kỉ mười chín”:
“Thơ trước hết là
cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật”
Từ thủa thơ ca xuất hiện
mang đến hơi thở ấm áp cho hành tinh xanh xanh những đại dương và điệp trùng
những cánh rừng tươi thắm của chúng ta, có thể nói chưa bao giờ tổng kết được
những định nghĩa về thơ. Có người cho thơ là “lơ tơ mơ”, “thơ là sự tuôn trào
bột phát những tình cảm mãnh liệt”, thậm chí “thơ là một cái gì mà người ta
không định nghĩa được”. Phải chăng vì thế mà thơ thuộc về cõi huyền nhiệm, mông
lung, xa vời vợi? Không, theo quan niệm của Bêlinxki, thơ là một khái niệm hết
sức gần gũi: “Thơ trước hết là cuộc đời”. Trong câu nói của Bêlinxki, chữ “cuộc
đời” như một vì sao được chiếc đòn bẫy “trước hết” bật vào từ thơ, làm sáng lên
một ánh sáng lung linh, rạng rỡ. Thơ ca bắt nguồn từ cuộc sống.
Cuộc sống bao giừ cũng là
nguồn cảm hứng mênh mông bất tận của những tâm hồn nghệ sĩ. Thơ ca cũng như văn chương và các
loại hình nghệ thuật khác, nếu không bám rễ vào cuộc đời, nếu không hút nguồn
nhựa sống dạt dào ngầm chảy trong lòng cuộc sống thì nó sẽ mãi mãi là một cây
non èo uộc, không mang trên mình những cành cây săn chắc, những phiến lá xanh
tươi phơi phới dưới ánh nắng mặt trời. Là nhà thơ, ngòi bút của anh phải chấm
vào nghiên mực cuộc đời thì thơ anh mới tươi màu neo chặt trong bến tâm hồn
người thưởng thức. anh sĩ Lê Quí Đôn từng nói: “Trong bụng không có ba vạn quyển
sách, trong mắt không có cảnh núi non kì lạ của thiên hạ thì không thể làm thơ
được”. Có thể nói cuộc đời là mạch sữa ngọt ngào tuôn chảy không ngừng từ thế
hệ này sang thế hệ khác để nuôi dưỡng thi ca. đến với Chế Lan Viên, một “triết
gia thi sĩ”, ta không quên giây phút con người ấy rơi vào hố sâu tuyệt vọng của
sự chán chường:
“Hãy cho
tôi một tinh cầu giá lạnh
Một vì
sao trơ trọi giữa trời xa
Để nơi ấy
tháng ngày tôi lẩn tránh
Những ưu
phiền, đau khổ với buồn lo”
Thế mà cuộc sống mới chan
hoà hơi thở nồng ấm của cách mạng đã làm tan mọi băng giá trong trái tim thi
sĩ. Người sà vào lòng nhân dân, sung sướng đón nhận nguồn cảm hứng thi ca từ
cuộc đời:
“Con gặp
lại nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón
giêng hai chim én gặp mùa
Như đứa
trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi
ngừng bỗng gặp cánh tay đưa”
(Tiếng
hát con tàu).
Cuộc sống mên mông và kì
diệu làm sao ! Cuộc sống là nơi cung cấp chất liệu cho thơ. Thơ ca bắt nguồn từ
cuộc sống, cho nên thơ bao giờ cũng chứa đựng bóng hình cuộc sống, bóng hình
con người. Thơ ca là nơi con người gửi gắm tâm tình, ước mơ, khát vọng, những
băn khoăn, rạo rực, ưu tư. Thơ ca không thể tách rời cuộc đời. Cuộc đời ban
truyền nguồn nhựa sống mãnh liệt cho thơ và thơ nở hoa làm đẹp cuộc đời, cống
hiến cho con người những phút giây tuyệt vời lắng đọng nhiều nỗi suy tư. đến
với thơ, người đọc trước hết sẽ bắt gặp tâm tư, nỗi lòng của người cầm bút, sau
đó sẽ gặp chính tâm tư của mình bởi thơ là “tiếng nói đồng ý, đồng tình, đồng
chí”. Cùng với văn chương, thơ ca trở nên những nhịp cầu vô hình dẫn dắt những
tâm hồn đến với tâm hồn., những trái tim đến với trái tim để con người cùng sẻ
niềm vui, nỗi buồn, ước mơ, hi vọng.
Cuộc đời vốn bao la, vô tận
kia như một bức tranh với ba chiều không
gian trải dài đến vô cùng. Nhà thơ cũng như những con ong cần mẫn bay lượn
trong khu vườn cuộc đời ấy:
“Nhà thơ như con
ong biến trăm hoa thành một mật
Một mật ngọt thành,
đời vạn chuyến ong bay
(Chế
Lan Viên)
Thơ ca “là cuộc đời”, nhưng
thơ ca không phải là những trang giấy in nguyên vẹn bóng hình của cuộc đời rộng
lớn. Người nghệ sĩ phải tìm đến cuộc đời để hút lấy chất mật tinh tuý nhất,
ngọt ngào nhất để tạo nên những vần thơ thật sự có giá trị. Nhà thơ phải biết
chắt lọc chất liệu mà cuộc đời cung cấp, từ đó mới tạo nên những vần thơ hay,
làm rung động lòng người đọc. Thi ca gắn liền với cảm xúc. Nhà thơ không thể
hiện cuộc đời qua những tình huống, qua những sự kiện như các nhà văn. Nhà thơ
giãi bày bằng cảm xúc, bằng ngôn ngữ thi ca, bằng cả “khoảng trắng giữa các
ngôn từ”. Thơ ca có giá trị không tách rời sự thoát li, tách rời khỏi cuộc
sống, cũng như sự photocopi cuộc sống một cách cứng nhắc, khuôn mẫu. Đọc thơ mà
chẳng tìm thấy nỗi lòng nhà thơ, đấy chẳng phải là thơ ca đích thực ! Nếu không
có một thiên tài như Nguyễn Du uyên bác, ta không thể có “Truyện Kiều”. Nhưng
nếu không có những lầm than cơ cực, đắng cay, tủi nhục cùng với những ước mơ
cháy bỏng của nhân dân trong xã hội phong kiến, trong buổi suy vong đầy ngột
ngạt, ta cũng không thể có những trang Kiều thấm đượm dòng lệ đầy chất nhân bản
sâu xa.
Nếu không có một vùng quê
Kinh Bắc êm ả, bình dị với những con người chăm chỉ, hiền hoà, mãi mãi ta không
thể nào có được nỗi nhớ rạo rực thiết tha của thi sĩ Hoàng Cầm trong bài “Bên
kia sông Đuống:
“Em ơi
buồn làm chi
Anh đưa
em về bên kia sông Đuống
Ngày xưa
cát trắng phẳng lì
…Xanh
xanh bãi mía bờ dâu
Ngô khoai
biêng biếc
Đứng bên
này sông sao nuối tiếc
Sao xót
xa nhưn rụng bàn tay”
Thơ bao giờ cũng in đậm chữ
“đời” trước hết. Cuộc đời không chỉ ban cho nhà thơ nguồn cảm hứng mà cuộc đời
còn là nơi khai thác “chất quặng” nguồn từ để tạo nên thơ:
“Vạt áo của nhà thơ
không bọc hết bạc vàng mà cuộc đời rơi vãi
Hãy nhặt lấy chữ
của đời mà góp nên trang”
(Chế
Lan Viên)
Thơ ca là hoa thơm của cuộc
đời. Nếu chỉ được kiến tạo từ trí tưởng tượng và “cái tôi” nhỏ bé của người
nghệ sĩ, thơ ca chỉ là những bông hoa làm bằng “vỏ bào”(Pauxtôpxki). Nhà thơ
phải nhặt những hạt “bụi quí” trong cuộc đời mênh mông vô tận để làm nên những
“bông hồng vàng” quí giá, đem lại niềm vui và cái đẹp cho tâm hồn người đọc
thơ, hiểu thơ và yêu thơ, theo cách diễn đạt của Pauxtôpxki.
Trở lại câu nói của nhà phê
bình Bêlinxki, ta thấy đó không phải là cái nhìn phiến diện. “Thơ trước hết là
cuộc đời” nhưng cuộc đời chưa phải là tất cả. Bêlinxki rời phím nhấn “cuộc đời”
ấn tay vào phím cạnh bên “nghệ thuật”. Như vậy, Bêlinxki đã không phủ nhận vai
trò quan trọng của yếu tố làm nên thi ca này. Thiếu nghệ thuật, thơ chỉ còn là
hòn ngọc thô không mài không giũa, không thể khơi dậy trong trái tim con người
những rung động sâu xa. Thơ có thể ví như cánh diều, cuộc đời tạo cho cánh diều
là hình hài sắc vóc còn nghệ thuật là làn gió nâng cánh diều bay bổng trên bầu
trời cao rộng, nâng cảm xúc đến mức thăng hoa. Ta yêu “Truyện Kiều” đâu chỉ vì
“đoạn trường tân thanh” xé ruột cất lên từ quãng đời mười lăm năm lưu lạc truân
chuyên của cánh hoa Thuý Kiều tài sắc. Người Việt Nam yêu “Truyện Kiều” vì
những “ngôn ngữ gấm hoa” giàu sức biểu cảm, vì âm hưởng ca dao dịu dàng, man
mác trong lục bát thân thương:
Long lanh
đáy nước in trời
Thành xây khói biếc
non phơi bóng vàng
Cảnh mùa thu long lanh, mĩ
lệ đọng đầy chất thơ ấy có lẽ còn sống mãi trong lòng người dân đất Việt đến
nhiều thế kỉ mai sau.
Thơ cất lên từ biển cuộc đời
và bay cao từ nguồn gió nghệ thuật. Nghệ thuật làm cho thơ trở nên đẹp đẽ, gieo
vào lòng người đọc những cảm xúc thẩm mĩ tuyệt vời. Một nhà thơ tài năng phải
là một người thợ lặn lành nghề lặn sâu vào đại dương cuộc sống, không phải để
nhặt nhạnh mảnh san hô tầm thường mà để tìm những viên ngọc trai lấp lánh,
những “khối tình con” kết từ máu huyết của loài trai nhẫn nại, cần cù (một ý
của Nguyễn Tuân trong tác phẩm “Người lái đò sông Đà”). Nhà thơ chỉ cần rung
động trước lớp sóng của cuộc đời thôi ư ? Chưa đủ, như thế anh chỉ có cái tâm
mà chưa có cái tài để xứng đáng mang danh hiệu “thi sĩ”.
Để viết nên những vần thơ có
sức lay động thực sự, có khả năng vượt qua mọi định luật băng hoại của thời
gian không thừa nhận cái chết (Satưkhốp Sêđrin), nhà thơ phải vừa có tài năng
và tâm huyết, vừa đắm mình vào cuộc đời, vừa không ngừng tìm tòi khám phá,
“khơi những nguồn chưa ai khơi”. Một nhà thơ nước ngoài đã từng thấm thía giá
trị cao quí của lao động thi ca:
“Phí tổn
ngàn cân quặng chữ
Để thu về
một chữ mà thôi
Những chữ
ấy làm cho rung động
Triệu
trái tim trong hàng triệu năm dài”
Nhà thơ phải “trả giá cắt
cổ” cho ngôn ngữ thơ ca nếu muốn những vần thơ ấy trở nên bất tử. Lao động nghệ
thuật là hình thức lao động của trí óc và trái tim. Phải có những rung động
mãnh liệt trước cuộc đời và những khám phá, sáng tạo độc đáo ta mới có thơ ca
chân chính.
Viết về mùa thu, thi sĩ từ
cổ chí kim đã dùng bao hình ảnh tuyệt đẹp, từ “Ngô đồng nhất diệp lạc” đến “cúc
vàng lưng giậu”, từ “non phơi bóng vàng đến” “trăng sáng như gương”… Thế mà cậu
bé Trần Đăng Khoa lại cảm nhận mùa thu theo một cách riêng qua hình ảnh hoa cau
giản dị:
“Nửa đêm
nghe ếch học bài
Lưa thưa vài hạt mưa ngoài hàng cây
Nghe trời
trở gió heo may
Sáng ra vại nước rụng đầy hoa cau”
(Hoa
cau)
Những cánh hoa cau trắng
muốt mỏng manh rụng đầy vại nước làng quê phải chăng là “hoa cau cuộc đời” hoá
thành “hoa cau nghệ thuật” trong thế giới thơ phong phú đầy tưởng tượng bay
bổng của nhà thơ tí hon dễ yêu, dễ mến ? Hoa cau thoang thoảng thơm mãi con
đường thi ca trải rộng, quấn quýt êm đềm trong trái tim những người yêu thơ…
“Thơ trước hết là cuộc đời,
sau đó mới là nghệ thuật”. Ý kiến của Bêlinxki
thật xúc động và đầy giá trị ! đến với thơ nghĩa là ta đến với cuộc đời
qua lăng kính nghệ thuật của nhà thơ. Thơ ca khơi dậy trong lòng ta lớp lớp
những đợt sóng cuộn trào và muôn vàn cung bậc tình cảm: yêu thương, căm giận
xót xa, nghẹn ngào, xao xuyến, bâng khuâng,… bởi thơ là đời, thơ là hoa nảy nở
từ mảnh đất cuộc đời dào dạt nhựa sống. Thơ không phải là thứ tôn giáo cao siêu
huyền bí, cũng không phải là những ghi chép tủn mủn, vặt vãnh vô giá trị về
cuộc đời, về con người quanh ta. Thí sĩ không thể làm nên thơ nếu cửa lòng đóng
khép, nếu không “mở hồn ra đón lấy tất cả những vang động của đời” (Nam Cao).
Cuộc sống cuộn xoay không một giây dừng lại, thơ ca cũng không ngừng nảy nở
sinh sôi, cống hiến cho đời những đoá hoa đẹp nhất.
Thi sĩ ơi, anh hãy sáng tác
bằng cả nhiệt huyết và tình yêu cháy bỏng của trái tim mình.
Cuộc sống
đánh vào thơ trăm ngàn lớp sóng
Chớ ngồi
trong phòng ăn bọt bể anh ơi !
(Chế
Lan Viên)
Bắt nguồn từ cuộc sống, qua
lăng kính cảm nhận của thi nhân, thơ ca lại trở về với đời, tạo dòng chảy trong
trái tim người thưởng thức. Thư ca mang đến cho con người những gì ? Thơ ca
phải chăng chỉ để giết thời gian hoặc làm cho người ta bị mê hoặc? Thơ ca chân
chính không phải là một loại hình nghệ thuật mang tính chất giải trí đơn thuần.
Song hành cùng người bạn cốt văn chương, thơ ca mở ra những ngả đường hướng
triệu triệu con người tới cõi chân- thiện – mĩ. Thơ ca đích thực phải là thơ ca
khơi dậy những rung động sâu sắc trong tâm hồn con người, làm phong phú thế
giới cảm xúc của con người, khiến con người vươn tới ước mơ sống tốt hơn, đẹp
hơn. Nhà thơ Thanh Hải đến phút cuối đời trên giường bệnh vẫn khát khao cống
hiến cho đời những giọt xuân trong trẻo:
Ta
làm con chim hót
Ta
làm một cành hoa
Ta
nhập vào hoà ca
Một
nốt trầm xao xuyến.
(Mùa
xuân nho nhỏ)
Làm sao lòng ta không rạo
rực trước sức sống mãnh liệt, dạt dào của một nhà thơ yêu đời, yêu người tha
thiết đến nhường ấy! Nhà thơ đã vượt qua chính mình để làm một nốt trầm lặng lẽ. Mình có ích giữa muôn vàn âm thanh sôi động
của cuộc đời muôn màu, muôn vẻ này chưa ?
Thơ ca khơi dậy trong con
người những cảm xúc thẩm mĩ tuyệt đẹp, “thanh lọc” tâm hồn con người, chắp cánh
cho con người bay tới những ước mơ, khát vọng. Trên cõi hành trình dài đằng
đẵng đầy chông gai của đời người, có những lúc dừng chân ngơi nghỉ , ta không
thể không nghĩ về cuộc đời, về những điều tốt đẹp. Bao giờ ta còn đồng cảm với
tấm lòng thi nhân, khi ấy thơ ca vẫn còn tồn tại sức sống bất diệt, vĩnh cửu.
Anđecxen không chỉ là bậc
thần tiên tạo nên những trang cổ tích làm say mê biết bao thế hệ con người mà
còn là nhà thơ chân chính mà “thơ của ông làm no nê trái tim người dân chẳng
khác gì triệu triệu những hạt bụi nước li ti làm bão hoà không khí trên đất đai
Đan Mạch. Người nói vì thế mà không ở đâu có cầu vồng rộng lớn và rạo rực như ở
nơi này” (Pauxtôpxki).
Thơ ca thật kì diệu và đáng
quí! Đã là thi sĩ, một khi cầm bút, anh không được phép phân biệt giữa mình và
người, mà phải “viết hết mình cho người” (Tố Hữu). Có như thế thơ ca của anh
mới sống mãi mãi với cõi đời này.
Thơ là cuộc đời cho nên thơ
không chỉ khơi dậy những cảm xúc êm đềm, dịu dàng, êm ái; không chỉ làm lòng ta
quặn đau trước những nỗi “đoạn trường”. Thơ ca đồng thời phải mang chức năng
“thức tỉnh lương tri đang ngủ” (Eptusencô), phải khiến con người biết căm giận
và biết ước mơ. Có những lúc thơ ca biến thành vũ khí độc đáo giúp con người
đấu tranh với cái ác để bảo vệ chính nghĩa và cái đẹp của cuộc đời. đấy là giây
phút Hồ Chí Minh gửi gắm niềm tin mãnh liệt vào những vần thơ mà xích xiềng
không khoá nổi:
Ví đâu có
cảnh đông tàn
Thì đâu
có cảnh huy hoàng ngày xuân
Nghĩ mình
trong bước gian truân
Tai ươn
rèn luyện tinh thần thêm hăng.
Ngược dòng thời gian, ta còn
thấy đó là giây phút Lí Thường Kiệt cất tiếng sang sảng đọc tuyên ngôn Nam quốc sơn hà khẳng định chủ quyền độc
lập của non sông. Giá trị của thơ ca mới cao cả đến nhường nào!
Trở về với hiện tại thơ ca
hôm nay, ta bắt gặp những dáng hình thi sĩ trên những ngả đường thơ trải rộng,
đang từng bước khám phá, tìm tòi và sáng tạo, đem lại nguồn mới cho thi ca. Phải
chăng họ đang đặt chân lên hành trình đến với “Mảnh đất nở hoa dâng tặng người
muốn hái” ?
Thi sĩ ơi, dù phải theo ngả
nào, có lẽ anh cũng nên tâm niệm: “Thơ trước hết là cuộc đời, sau đó mới là
nghệ thuật”.
Ý kiến về thơ của nhà phê
bình văn học Nga V.Biêlinxki quả thật đáng để chúng ta suy nghĩ và nghiền ngẫm.
Thơ đâu phải là quả bóng bay xa vời vợi nằm ngoài tầm bắt. Thơ ca luôn nồng
nàn, ấm áp hơi thở cuộc đời và mang dấu ấn sáng tạo nghệ thuật của người cầm
bút. Thơ là dòng sông soi bóng cuộc đời, len vào tâm hồn con người những mạch
nguồn cảm xúc dạt dào chảy mãi không thôi. Nhà thơ phải “yêu cuộc đời” và trân
trọng “nghệ thuật” mới vun đắp những vần
thơ nở ra cánh hoa thơm ngát tô điểm cho cuộc đời và con người.
Ngày xưa, tôi yêu văn thơ
Anđecxen bởi nơi ấy bao giờ cũng rung rinh đoá hồng bạch toả hương ngào ngạt
bên những nàng công chúa xinh tươi. Nay tôi lại càng say mê những dòng văn đầy
nhân ái kia bởi tôi còn cảm nhận được hương vị của cuộc đời, “chất người” ủ kín
bên trong.
Đinh
Thị Mĩ Huỳnh
Trường
THPT chuyên Lê Hồng Phong – TP Hồ Chí Minh
Bài đạt giải nhất
Đề bài:
Nhà
văn Nga Lêônit Lêônôp có viết: "Mỗi tác phẩm là một phát minh về hình thức
và một khám phá về nội dung".
Anh,
chị hãy bình luận ý kiến trên.
(Đề thi học sinh giỏi quốc gia năm 1998, bảng A)
Bài Làm (1)
"Ai bảo dính vào duyên bút mực
Suốt đời mang lấy số long đong."
Nguyễn
Bính đã từng than thở như thế. Bao con người cũng phải gánh chị nỗi đau vì sự
bạc bẽo của văn chương. Tai sao như vậy? Phải chăng nghệ thuật đòi hỏi rất cao
ở người nghệ sĩ, đúng như Lêônit Lêônôp đã yeu cầu: "Mỗi tác phẩm là một
phát minh về hình thức và một khám phá về nội dung".
Cũng như ý
kiến của Xuân Diệu, NGuyễn Tuân, Măcxin Gorki..., nhà văn Nga Lêônit Lêônôp
muốn khẳng định các nghệ sĩ phải trau dồi cá tính sáng tạo của mình. Mỗi tác
phẩm phải kà một sự hiện diện của nhà văn đối với cuộc đời. Do vậy cái mới, cái
độc đáo trong phong cách của người sáng tác phải thể hiện ơ sự tìm tòi cái mới
về nghệ thuật cũng như nội dung. Nghệ thuật là hình ảnh chủ quan của thế giới
khách quan. Hiện thực cuộc sống là kho đề tài vô tận để người nghệ sĩ khám phá,
phát hiện, nhưng đối với mỗi cây bút, nó lại được chiếu rọi dưới một ánh sáng
riêng. Nghệ sĩ là người biết khai thác những ấn tượng riêng chủ quan của mình
và biết làm cho ấn tượng ấy có được hình thức riêng biệt, độc đáo. Đúng như
vậy, sự lặp lại tẻ nhạt là cái chết của nghệ thuật.
Cuộc sống
bày ra trước măt biết bao cảnh ngộ, số phận. Người nghệ sĩ hơn những người bình
thường ở chỗ biết tìm ra những hiện tượng đặc sắc có thể nói lên rõ rệt bản
chất của hiện thực. Độc giả tìm đến với tác phẩm trước hết là để bồi đắp tâm
hồn, làm phong phú hơn vốn tri thức. Vì lẽ đó, người sáng tac phải đem đên cho
họ một cái nhìn mới, mang đậm dấu ấn chủ quan.
Cuộc sống
là phong phú vô tận, nhưng sự hiểu biêt và hứng thú của nhà văn thì có hạn. Do
đó ngoài việc tìm đến những mảnh đât mới của hiện thực để gieo mần tư tưởng,
người nghệ sĩ phải biết phát huy vố ấn tượng riêng của mình để tìm ra những gì
mới mẻ trong những đề tài quen thuộc. Có như vậy, nhà văn mới tránh khỏi sự lặp
lại vô nghĩa những điều mà người khác đã nói. Nói cách khác, mỗi nghệ sĩ phải
tìm ra cho mình một con đường riêng để đến với cuộc sống và trái tim bạn đọc.
LepTônxtôi đã từng nói với những người viết văn trẻ, đại ý: Nào, các anh có đem
đến cho chúng tôi một cái gì mới khác với những người đến trước anh không? Bàn
về thơ Nguyễn Tuân cũng khẳng định: "Thơ là đã mởi ra được một cái gì đó
mà trước câu thơ đó, trước nhà thơ đó, vẫn như là bị đóng kín".
Mỗi tác
phẩm là một thông điệp thẩm mỹ mà người nghệ sĩ gửi đến bạn đọc. Do đó trước
hết mỗi tác phẩm là một "khám phá về nội dung". Muốn vậy, nhà văn
không chỉ là "người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho",
mà phải biết "đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng
tạo những gì chưa ai có" (Nam Cao). Nhà văn phải biết nhì sâu vào cuộc
sống, hiểu về tâm hồn của con người để khám phá ra những vấn đề mới, cất tiếng
nói riêng của mình với cuộc đời. Trong nghệ thuật, nội dung và nghệ thuật gắn
bó chặt chẽ, mật thiết với nhau. Nội dung là nội dung của hình thức, hình thức
là hình thức của nội dung. Một nội dung mới sẽ tìm cho mình một hình thức mới.
Sự thay đổi về hình thức biểu hiện cũng có thể kéo theo sự thay đổi về nội dung.
Có khi nhà văn đề cập đến những vấn đề của muôn đời nhưng lại nói với giọng
điệu riêng, âm sức riêng của tâm hồn mình; do vậy tác phẩm vẫn đem đến cho
người đọc cái mới đáng quý.
Cái độc
đáo sáng tạo về nội dung và hình thức của tác phẩm tạo nên phong cách riêng của
người nghệ sĩ không phải là chuyện cách nói mà chủ yếu là vấn đề cách nhìn, một
cách nhìn nếu không do nghệ sĩ đem lại thì không bao giờ có được. Cái mới không
chỉ đơn thuần thuộc về nội dung hay nghệ thuật một cách cực đoan, có nghĩa là
không chỉ đơn thuần tìm ra cái mới trong hình thức mà trước hết phải xuất phát
từ các mới của nội dung. Khi cả tác phẩm toát lên cốt cách riêng, phong vận
riêng mới lạ thì nó sẽ tác động mạnh mẽ vào người tiếp nhận. Người nghệ sĩ đi
sâu vào cái chủ quan, cái cá nhân của mình, mặt khác vẫn phải gắn bó với cuộc
sống để không đẩy sự mới lạ lên thành cá nhân chủ nghĩa.
Mỗi thời
đại, mỗi tác giả góp vào dòng chẳy văn học một cách cảm nhận mới, một niềm trăn
trở khác nhau và một cách nói mới. Điếu này sẽ tạo ra tính liên tục, phát triển
sự phong phú của nền văn học. Mỗi gia đoạn văn học, mỗi nghệ sĩ có một bản sắc
riêng, một diện mạo riêng. Chính những phát minh về hình thức đã góp phần làm
cho văn học nhân loại vận động từ kiểu sáng tác này đến kiểu sáng tác khác.
Trong văn
mạch dân tộc, nhìn trên diện rộng cũng có thể thấy mỗi thời đại để lại một khí
chất, mang một cảm hứng chủ đạo khác nhau. Văn học Lí, Trần, Lê lấy cảm hứng
chủ đạo là lòng yêu nước, tự hào dân tộc. Sang giai đoạn cuối thế kỷ XVIII đầu
thế kỷ XIX, các nhà nghệ sĩ lại bị ám ảnh hơn cả bởi vấn đề số phận con người.
Họ không đi vào ngợi ca cảnh thài bình thịnh trị như văn học thời Lê mà xoáy
sâu vào bi kịch của những thân phận con người. Mỗi tác phẩm lớn của thời kỳ này
là một tiếng yêu thương mỗi cá nhân. Sang giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX, cảm hứng nổi lên trong văn học chân chính lại là tình yêu mãnh liệt, khát
vọng độc lập dân tộc. Vào những năm đầu của thế kỷ XX, các thi sĩ phong trào
thơ mới nói lên khát vọng cởi trói cho cái "tôi" cá nhân của mình...
Mỗi thờ đại có một nét riêng và cải riêng ấy dội vào tác phẩm với những âm
hưởng khác nhau. Thú vị thật, độc đáo nhất với người đọc lá sự lắng nghe những
giọng điệu riêng của mỗi tâm hồn nghệ sĩ. Lĩnh vực thử thách lớn nhất đối với
tài năng người cầm bút là trong một đề tài quen thuộc, anh có thể nói lên được
điều gì mơi lạ hay không. Bản sắc riêng, khí chất riêng của mỗi tâm hồn làm cho
mỗi tác phẩm có một diện mạo riêng.
Cũng viết
về kỹ nữ, nhưng Bạch Cư Dị, Nguyễn Du, Xuân Diệu, Tố Hữu, mỗi người có một cách
nhìn riêng, một cách nói riêng. Bằng khúc "Tì Bà Hàng", thi sĩ họ
Bạch cất lên tiếng nói xót thương đầy cảm thông cho người phụ nữ tài sắc và
cũng thể hiện nối đau trong chính số phận long đong, lận đận của mình. Tiếng
hát của người kỹ nữ cất lên giữa đêm trăng cô vắng làm thức dậy bao nỗi niềm
của chàng Tư mã áo xanh. Nỗi xót thương ấy, nỗi đau khổ ấy vẫn gặp trong văn
học cổ điển. Thấm thía mà nhẹ nhàng, nỗi sầu muốn lan ra cùng cảnh vật:
"Bến Tầm Dương đêm khuya đưa khách
Quạnh hơi thu, lau lách đìu hiu"
Không hiểu
sao hai chữ "canh khuya" với mỗi tâm hồn Việt Nam lại có sức gợi đến
thế? Không chỉ gợi cái khuya của thời gian mà còn chứa sẵn trong đó cảm giác
bất trắc, muôn màng, e sợ. Nỗi buồn lan ra theo những dải tơ trời , khiến không
gian như lặng ngắt để lắng vào cõi tâm tư, thấm vào lòng người và tràn ra thành
dòng lệ. Nỗi đau ở đây là sự cộng hưởng của hai nguồn yêu thương: thương người
và thương thân, tạo mối tình tri âm và tri kỷ, nói đúng hơn là tạo nên sự xót
thương, đồng cảm giữa những nạn nhân đau khổ cùng một lứa bên trời lận đận.
Mang tấm lòng đầy yêu thương đến với cái đẹp. Nguyễn Du lại nhìn thấy trong
thân phận bất hạnh của người ca nữ nơi đấu Long Thành cả lẽ hưng phế của thời
cuộc bể dâu, của một đời người đã trải qua bao cơn sóng gió, bao phen giang sơn
thay chủ đổi ngôi. Cảm quan dâu bể thấm sâu trong từng câu chữ, tạo thành nỗi
thương người, thương đời da diết của nhà thơ.
Tất cả
những cảm thương, đau đớn ấy thể hiện những nét tâm tình của con người trung
đại, yêu thương mà bất lực, bất lực nhưng vẫn lặng lẽ nếm chịu nỗi đau. Sang
đến thơ mới, cái "tôi" cá nhân thức dậy với sự tự ý thức về bản ngã
rất mãnh liệt. Ở một hồn thơ cuồng nhiệt như Xuân Diệu, hình ảnh người kỹ nữ
không đau xót một cách ngậm ngủi nàng như run lên vì đau khổ và giá lạnh.
"Em sợ lắm. Giá băng tràn mọi nẻo
Trời đầy trăng lạnh lẽo buốt xương da"
Nàng như
một linh hồn cô đơn bị vây phủ bởi bốn bề lạnh lẽo. Cái lạnh xuyên thấu vào tâm
can. Trăng không "trong vắt" một cách tĩnh lặng, xa xôi mà từ cái sáng
của vầng trăng còn toả ra hơi lạnh và sự cô đơn.
Nếu như
Bạch Cư Dị, Nguyễn Du, Xuân Diệu yêu thương mà vẫn bất lực, vẫn chỉ biết đau
đời cất lên tiếng kêu tuyệt vọng với con tạo hay đánh ghen với khách má hồng,
thì Tố Hữu lại đem đến cho chúng ta một niềm lạc quan, tin tưởng . Từ trong
hiện tại còn bao nhục nhã, xót xa, thi sĩ đã hướng tới ngày mai, một ngày mai
tươi sáng. Nhà thơ khẳng định cuộc đời đau khổ của người kĩ nữ kia sẽ đổi thay:
"Ngày
mai bao lớp đời dơ
Sẽ
tan như đám mây mờ hôm nay"
Như vậy,
cùng viết về người kĩ nữ, các nhà nghệ sĩ đã gặp nhau ở sự đồng cảm, xót
thương. Nhưng mỗi tác phẩm lại có một linh hồn riêng, tạo nên sức sống riêng.
Nếu Bạch Cư Dị, Nguyễn Du viết bằng thể thơ Đường luật thì Xuân Diệu lại sử
dụng thể thơ tự do, thoát khỏi sự gò bó về niêm luật.
Thiên
nhiên cũng là một đề tài muôn thuở của văn chương nhưng không bao giờ cũ bởi
mỗi thời đại, mỗi nghệ sĩ lại nhìn thiên nhiên ấy với một cảm quan riêng. Trong
thơ cổ, thiên nhiên mang kích thước vũ trụ và thường được miêu tả như là bức
tranh tĩnh lặng. Cảnh vật thiên nhiên được khắc hoạ bằng đoi nét chấm phá cốt
ghi lấy cái linh hồn của tạo vật. Cũng là gió ấy, trời nước ấy nhưng thiên
nhiên hiện lên trong mỗi tác phẩm một khác. Ta hãy cùng thưởng thức thiên nhiên
trong thơ Nguyễn Trãi:
"Nước biếc, non xanh thuyền gối bãi
Đêm thanh, nguyệt bạc khách lên lầu."
Cảnh vật
hiện lên như bức tranh sơn thuỷ hữu tình. Màu xanh của nước hoà cùng màu xanh
của non tạo nên một vẻ đẹp thanh nhã. Con "thuyền gối bãi" thật nhàn
nhã, lặng lẽ. Cảnh tĩnh như không có chút xao động nào. Cả một bầu không khí
thanh sạch, thơ mộng được mở ra. Nói là cảnh đêm mà sao ta vẫn thấy lung linh
ánh sáng. Bến nước hay là bến thơ? Dường như không có chút bụi trần nào làm vẩn
đục khung cảnh ấy. Hình ảnh con người - chủ thể trữ tình không đối diện với
người đọc bằng một cái tôi cá thể một là nói về ai đó, có thể là một khách văn
chương. Tư thế con người là đang vận động, đi lên cao, nhưng sao vẫn tĩnh lặng
như không. Thi nhân thả hồn mình vào thiên nhiên, đắm say thiên nhiên, nhưng
vẫn lặng lẽ, vẫn ung dung như đứng ngoài dòng chảy của thời gian. Ức Trai giao
hòa với cảnh vật nhưng không hề làm cho nó động lên mà tất cả nhưng ngưng đọng
lại.
Đến thời
Nguyễn Khuyến, thiên nhiên vẫn mang nét đơn sơ, tĩnh lặng ấy:
"Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao
Câu trúc lơ phơ gió hắt hiu."
Từ xanh
gắt không chỉ gợi độ xanh mà còn gợi chiều cao, chiều sâu thăm thẳm. Không gian
thanh sạch như được đẩy ra tới vô cùng. Cảnh có chuyển động nhưng thật khé
khàng. Cái lơ phơ vừa gợi sự thưa thớt của lá trúc trên cầu trúc vừa gợi sự lay
động nhẹ nhàng. Dường như cái lơ phơ ấy chỉ để nhận ra làn gió hắt hui.
Cũng là
mùa thu ấy, làn gió ấy khi vào thơ Xuân Diệu chúng trở lên khác hẳn:
"Những luồng run rẩy rung ring lá
... Đã nghe rét mướt luồn trong gió"
Làn gió
của Xuân Diệu không hắt hui thổi mà run rẩy vì thu đến. Rét mướt như một sinh
thể ẩn trong gió. Cũng là cảnh cây cối, nhưng trong cảm quan của Xuân Diệu, lá
cây cũng run lên vì lạnh.
Từ vầng
trăng trong thơ Nguyễn Khuyến đến vầng trăng trong thơ Xuân Diệu cũng khắc biệt
biết bao. Với Nguyễn Khuyến, vầng trăng hiều hoà như người bạn muôn đời của thi
nhân:
"Nước biết trông như tầng khói phủ
Song thưa để mặc bóng trăng vào"
Vầng trăng
cứ thế giãi lên thềm, cứ lọt qua song cửa, nơi giao lưu của tinh thần. Trăng
với người đồng cảm, đồng điệu, nhưng tình cảm ấy cũng có cái gì đó lẵng lẽ.
Vầng trăng vẫn còn mang vẻ tự nhiên của tạo vật không lời.
Đến Xuân
Diệu, trăng như có linh hồn, có tâm tư, trăng cũng thấm thía nỗi cô đơn: Thỉnh
thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ. Có thể nói, lòng yêu thiên nhiên của Xuân Diệu
mang cái đắm say của một hồn thơ khao khát sống, khao khát yêu đương mãnh liệt.
Đọc "Vội vàng" ta cũng thấy đây là "một phát minh về hình thức
và một khám phá về nội dung". Không hiểu sao đến với bài thơ này nói
riêng, thơ Xuân Diệu nói chung tôi cứ nghĩ đến tiếng hát của chàng Danjyar
trong truyện Giamilya của Aimatôp. Chàng trai ấy đã cất tiếng hát từ tình yêu
mê đắm của mình không chỉ mê đắm một con người cụ thể mà là tình yêu đối với cuộc
sống, cả đất trời này. Thực sự "Xuân Diệu là một nhà thơ mới nhất trong
các nhà thơ mới" (Hoài Thanh). Khi ông nói đến thiên nhiên cũng là nói đến
niềm say đắm cuộc sống. Trái tim bồi hồi, rạo rực, băn khoăn ấy đã tự tìm cho
mình bộ "y phục tối tân", trút cái "áo cổ điển" gò bó tìm
đến thể thơ tự do với những câu dài ngắt khác nhau. Thơ Xuân Diệu bài nào cũng
có sự hăm hở, say đắm. Thi sĩ cuống quýt, hối hả để tận hưởng vẻ đẹp của thiên
nhiên, chứ không chỉ lặng lẽ ngắm nhìn như các nhà thơ cổ.
Mỗi nghệ sĩ
khi đi sâu vào cuộc sống, đều nỗ lực tìm ra một cách khám phá mới lạ. Cũng viết
về nông dân, Nam Cao khác Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, ... Chính những khám
phá mới ấy đã tạo nên sự phong phú, đa dạng của nền văn học. Để tạo ra cái mới,
người nghệ sĩ cần có tài năng, có năng khiếu bẩm sinh để phát huy cái riêng của
mình. Cũng để tạo ra sự mới lạ, nhà văn không thể xem sáng tác như một thứ nghề
chơi mà cần có sự khổ luyện, có sự đào sâu tìm tòi.
Một nhà
văn nước ngoài có nói đại ý: Trong văn chương có những niềm hạnh phúc trong nỗi
đau tột cùng mà chỉ người nghệ sĩ mới hiểu được. Sáng tạo ra cái mới chính là
kết quả của sự công phu và tài năng, nó tạo sức mạnh cho người nghệ sĩ chiến
thắng quy luật băng hoại của thời gian.
Lê Thị Hồng Hạnh
Trường THPT chuyên Hùng Vương - Phú
Thọ
Bài đạt giải Nhất
Bài văn đạt giải nhất kỳ thi học sinh giỏi quốc gia năm 1999, bảng A
Đề bài:
"Giá trị của một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giái trị tư tưởng của nó. Nhưng là tư tưởng đã được rung lên ở các cung bậc của tình cảm, chứ không phải tư tưởng nằm thẳng đơ trên trang giấy. Có thể nói, tình cảm của người viết là khâu đầu tiên và là khâu sau cùng trong quá trình xây dựng một tác phẩm nghệ thuật". (Theo Nguyễn Khải, Các nhà văn nói về văn, tập 1, NXB Tác phẩm mới, 1985, trang 61)
Anh, chị hiểu như thế nào về ý kiến nêu trên? Hãy liên hệ với sáng tác của Xuân Diệu
hoặc Tố Hữu để làm sáng tỏ vấn đề.
(Đề thi học sinh giỏi quốc gia năm 1999, bảng A)
Bài Làm
Điều gì tạo nên giá trị của một tác phẩm nghệ thuật? Tư tưởng của nhà văn hay tình cảm nghệ sĩ? Câu hỏi đó đã làm hết thảy mọi người, không chỉ có chúng ta mà còn cả giới nghệ sĩ. Đã có nhiều cách bàn bạc và lý giải xung quanh vấn đề này. Ý kiến của nhà văn Nguyễn Khải dưới đây, theo tôi cũng là một ý kiến đánh giá đầy đủ, chính xác và đánh ghi nhận: "Giá trị của một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giái trị tư tưởng của nó. Nhưng là tư tưởng đã được rung lên ở các cung bậc của tình cảm, chứ không phải tư tưởng nằm thẳng đơ trên trang giấy. Có thể nói, tình cảm của người viết là khâu đầu tiên và là khâu sau cùng trong quá trình xây dựng một tác phẩm nghệ thuật".
Là một nhà văn đã lăn lộn nhiều với nghề viết, đã từng nếm trải và chịu đựng những quy luật nghiệt ngã của văn chương, hơn ai hết Nguyễn Khải ý thức sâu sắc những yêu cầu khắt khe của nghệ thuật. Ông hiểu giá trị của một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó. Nhà văn phải là người có tư tưởng. Nhưng bằng những sự trải nghiệm của một đời cầm bút, ông cũng thấm thiết nghệ thuật không phải chỉ là tư tưởng đơn thuần mà phải là tư tưởng được rung lên ở các cung bậc của tình cảm, nghĩa là tư tưởng ấy phải được thấm đẫm trong tình cảm của người viết, tư tưởng ấy phải được chuyển tải bằng tình cảm, cảm xúc của người nghệ sĩ. Nói cách khác, ý kiến của Nguyễn Khải đã khẳng định mỗi quan hệ gắn bó, không thể tách rời giữa tư tưởng và tình cảm của nhà văn.
"Giá trị của một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó". Câu nói hiển nhiên như một chân lý không thể phủ nhận. Một tác phẩm nghệ thuật có giá trị, trước hết phải đề xuất được một tư tưởng mới mẻ. Một nhà văn có tầm cỡ hay không, tôi nghĩ yêu cầu đầu tiên là nhà văn ấy phải là một nhà tư tưởng. Nghĩa là ông ta phải có phát hiện riêng của mình về chân lý đời sống, có những triết lý riêng của mình về nhân sinh. Bởi xét đến cùng, thiên chức cao cả của văn chương nghệ thuật là phản ánh con người và hướng tới phục vụ đời sống con người. Văn học là một hình thái ý thức tinh thần; bởi thế, nhà văn khi viết tác phẩm không thể không bộ lộ tư tưởng của riêng mình, chủ kiến của riêng mình trước những vấn đề của cuộc sống. Làm sao văn học có thể thực hiện được sứ mệnh thiêng liêng của mình là bồi đắp, làm giàu đời sống tinh thần của con người, nếu như người viết không gửi được vào tác phẩm của mình tư tưởng nào đó về cuộc sống?
Mặt khác, bản chất của lao động nghệ thuật là sáng tạo. Nghề văn phải là nghề sáng tạo. Mà tôi cho rắng sáng tạo khó khăn nhất, nhưng cũng vinh quang nhất của người nghệ sĩ, là khám phá, phát minh ra một hệ thống tư tưởng của riêng mình. Văn học đâu chấp nhận những sản phẩm nghệ thuật chung chung, quen nhàm, viết ra dưới ánh sáng của một khuôn mẫu tư tưởng nào đó. Nếu thế thì văn chương sẽ tẻ nhạt biết bao! Không, "Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biêt tìm tòi, biết khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những gì chưa ai có" (Nam Cao). Một khi anh đề xuất được những tư tưởng mang tính khám phá về đời sống, tư tưởng ấy sẽ quyết định đến sự sáng tạo hình thức của tác phẩm. Chưa nói rằng, ở những nhà văn lớn, tư tưởng là yếu tố cốt lõi hình thành nên phong cách nghệ thuật, gương mặt riêng, dấu ấn riêng của nhà văn trong đời sống văn học vốn mênh mông phức tạp, vàng thau lẫn lộn này. Có thể khẳng định rằng, tư tưởng ấy là tố chất của một nhà nghệ sĩ lớn.
Tuy nhiên, theo Nguyễn Khải, tư tưởng của nhà văn không phải là tư tưởng "nằm thẳng đơ trên trang giấy", mà là tư tưởng đã được rung lên ở các cung bậc của tình cảm"
Vấn đề đặt ra là tai sao tư tưởng lại phải chuyển tải bằng tình của người viết và tình của nhà văn sao lại là khâu đầu tiên và là khâu sau cùng trong quá trình xây dựng một tác phẩm nghệ thuật"?
Có lẽ, xin được bắt đầu từ quy luật lớn của văn học nói riêng, nghệ thuật nói chung. C.Mac có lần nhấn mạnh: Nói quy luật của văn học là quy luật của cái đẹp. Người khác thì cụ thể hơn, khẳng định quy luật của cái đẹp là quy luật của tình cảm. Vậy tình cảm chứ không phải bất kỳ yếu tố gì khác mới là ngọn nguồn sâu xa của cái đẹp. Mỗi tác phẩm nghệ thuật đính thực phải hướng con người tới cái đẹp bằng tình cảm của nhà văn. Tác phẩm của anh phải lên tiếng, sự thăng hoa cảm xúc của chính anh. Không phải ngẫu nhiên mà khi bàn về thơ, nhiều nhà văn, nhiều học giả đều khẳng đinh vai trò của tình cảm đố với thơ. Ngô Thì Nhậm thì kêu gọi các thi nhân:" Hãy xúc động hồn thơ cho hồn bút có thần", còn Muytxê cũng nhắn nhủ các nhà thơ: "Hãy đập vào tim anh, Thiên tài là ở đó" Tư tưởng của một nhà văn dù dầu có giá trị đến đâu, độc đáo mới mẻ đến nhường nào thì nó cũng chỉ là một xác buớm ép khô trên trang giấy, nếu không được tình cảm của họ thổi hồn đánh thức dậy. Nếu anh chỉ có tư tưởng không thôi, thì không thể làm một tác phẩm có giá trị nghệ thuật đính thực. Tư tưởng của anh phải được rung lên ở các cung bậc của tình cảm. Cảm xúc trơ lì, mòn sáo, tình cảm thoáng qua, hời hợt, rút cuộc những tư tưởng ấy dù hay đến mấy cũng chỉ "nằm thẳng đơ", vô hồn, vô cảm trên trang giấy mà thôi. Những sáng tạo nghệ thuật chân chính tuyệt nhiên không phải là sự minh hoạ giản đơn cho tư tưởng này hay tư tưởng khác, cho dù đó là tư tưởng rất hay (Ý của Khrapchencô). Tư tưởng của nhà văn không khô khan, cứng nhắc, tư tưởng của nhà văn là tư tưởng nghệ thuật, là tình cảm, là "nhiệt hứng", là "say mê", là tất cả nhiệt tình kết tinh lại (Biêlixky)
Có thể nói tình cảm của người viết chính là khâu đầu tiên của quá trình xây dựng tác phẩm nghệ thuật. Điều này có căn nguyên sâu xa từ đặc trưng của văn học. Văn học là tiếng nói tâm hồn, tình cảm của cá nhân người nghệ sĩ trước cuộc đời. Làm sao nhà văn có thể viết lên tác phẩm - sản phẩm của thế giới tinh thần của mình nếu như tâm hồn trơ như đá trước cuộc đời? Nhà văn chỉ có thể sáng tạo nên tác phẩm khi cảm thấy bức xúc trước cuộc sống con người, cảm thấy tiếng nói thôi thúc mãnh liệt con tim. Nhiều nghệ sĩ đã gọi đó là giây phút "bùng nổ cảm hứng" hay "cú hích của sáng tạo" là vì vậy. Không phải vô cớ mà Lê Quý Đôn cho rằng: "Thơ khởi phát từ trong lòng ta". Tố Hữu cũng tâm sự về quá trình thai nghén, sáng tạo thơ của mình. Mỗi khi trong lòng có gì băn khoăn, không viết ra không chịu nổi, ông lại làm thơ. Còn Nêkraxôp thì tâm tình với bạn văn rằng, tất cả nhứng gì khiến cho ông đau khổ, rạo rực, say mê, ông đều gửi vào thơ. Tôi chợt hiểu vì sao trong thư gửi một nhà thơ trẻ, để trả lời cho câu hỏi có nên làm thơ hay không, Renkle đã có một lời khuyên chân tình rằng, anh hãy đối diên với lòng mình vào đêm khuya thang vắng, để tự trả lới câu hỏi: Ta có thể không viết được không? Nếu không viết liệu ta có chết không? Chỉ khi nào trả lời được câ hỏi ấy, anh hãy viết. Điều đó nói lên rằng, tình cảm mãnh liệt - ấy chính là tố chất đặc thù của người nghệ sĩ, là khâu đầu tiên của quá trình sáng tạo nghệ thuật.
Không chỉ có vậy, tình cảm còn là khâu sau cùng trong quá trình xây dựng tác phẩm của nhà văn. Người đọc đến với tác phẩm trước hết đâu phải bằng con đường lí trí. Họ đến với tác phẩm bằng chiếc cầu nối từ trái tim đến với trái tim. Những tư tưởng tâm đắc nhất, tha thiết nhất nhà văn gửi gắm trong tác phẩm sẽ thâm nhập vào tâm hồn bạn đọc trong hình hài của cảm xúc. Mỗi khi đọc môt bài văn, bài thơ, lí trí của ta chưa kịp hiểu câu chữ, hình ảnh,... thì tình cảm đã xâm chiếm hồn ta tự khi nào, lòng ta chợt rung lên theo những rung cảm của tâm hồn của người nghệ sĩ, cũng chợt thấy yêu ghét theo những yêu ghét của người viết. Phải chăng,bởi thế, Bạch Cư Dị đã khẳng định: "Cảm động lòng người không gì bằng trước hết bằng tình cảm" và tình cảm là gốc của văn chương. Một tác phẩm có hay không xét cho cùng là do tình cảm của người viết có chân thực hay không, có khả năng đánh động tới tình cảm người đọc hay không. Tư tưởng nghệ thuật đâu phải một hình thái chết, nó là những phát hiện , những triết lý riêng của nhà văn, một thứ triết lý nhân sinh đầy tình cảm, cảm xúc, thấm đẫm bầu tâm huyết của người nghệ sĩ.
Soi vào thực tế văn học, tôi chợt hiểu vì sao có những nhà văn suốt cả cuộc đời không tạo nên một tác phẩm có giá trị đích thực để rốt cuộc phải ngậm đắng, nuốt cay than thở cho sự bạc bẽo của nghề văn. Và vì sao lại có những nghệ sĩ lớn như Xuân Diệu sống mãi với thời gian.
Dù dòng thời gian vẫn miệt mài chảy trôi, bao đời người dâu bể, bao thế kỷ thăng trầm, âm thầm cái công việc của nó là phủi bụi, xoá bỏ tất cả thì những gì là thơ, là văn, là nghệ thuật sẽ còn sống mãi trong đó có những vần thơ của Xuân Diệu.
Xuân Diệu là một nhà thơ lớn. Và điều tạo lên tầm vóc của nhà thơ lớn ấy là bởi đâu, nếu không phải bởi tư tưởng của thi sĩ? Tôi không bao gì tin rằng một nhà văn có thể làm lên tên tuổi. Không, một nhà văn lớn, có những phát hiện riêng của mình về cuộc sống. Xuân Diêu đã đi đúng con đường mà những người nghệ sĩ lớn thường đi bởi ông đã đề xuất với cuộc đời này một tư tưởng, một quan niệm của riêng ông. Néu có thể tóm gọn toàn bộ tư tưởng ấy thì ta có thể đặt cho nó một cái tên là "niềm khát khao giao cảm với đời" Tư tưởng ấy đã góp phần làm cho sự nghiệp thơ văn Xuân Diệu trụ vững với thời gian. Giữa bao nhà thơ khác đang chán chường tuyệt vọng, trốn chạy vào quá khứ vàng son hay ẩn lánh trên một vì tinh tú đơn côi, thì chàng thi sĩ ấy người có đôi mắt biếc luôn mở to nhìn cuộc đời với xiết bao say mê, quyến luyến, lại khát khao được hoá thân thành cây "xanh mãi mãi ở vườn trần, chân hoá rễ để hút mùa dưới đất", được mãi mãi ôm cõi đời này trong vòng tay say say đắm. Đôi mắt "xanh non", đôi mắt "biết rờn" đã phát hiện ra cả một thiên đường nơi mặt đất này, nơi mà thi sĩ khác như Thế Lữ, Chế Lan Viên,... dường như có lúc chỉ muốn lẩn tránh thật xa. Sáng tác thơ, Xuân Diệu chỉ muốn thả những mảnh hồn sôi nổi, tinh tế của mình tới mọi tâm hồn bạn bè, ở một phương trời, của hôm nay và vĩnh viễn mai sau với một tấm lòng "khát khao giao cảm với đời". Tư tưởng nhân văn độc đáo, khoẻ khoắn ấy chẳng phải là cải gốc sáng của chùm cầu vồng nghệ thuật lung linh những vần thơ Xuân Diệu, chẳng phải là cái ánh sáng của những viên ngọc trai tròn trặn đấy sao? Lòng "khát khao giao cảm với đời" đã giúp Xuân Diệu viết lên những vần thơ tình yêu đính thực, với trần thế rất đỗi cao đẹp để Xuân Diệu lưu lại dấu ấn với thời gian như một "ông hoàng của thơ tình" - danh hiệu mà biết bao người ao ước.
Nhưng Xuân Diệu có thể nào đứng trong lòng ta với những vần thơ ấy, nếu tư tưởng của ông là một hình thái chết, "nằm thẳng đơ trên trang giấy?" Không, tư tưởng ấy còn lại mãi với cõi đời này bởi nó đã được "rung lên ở những cung bậc của tình cảm" , là thứ ngọc kết tinh từ toàn bộ con người và tâm hồn, thế giới tình cảm của thi sĩ Xuân Diệu. Ngay tên gọi của tư tưởng nghệ thuật ấy đã hàm chứa biết bao tình cảm. Nó bẳt nguồn từ nhịp rung mãnh liệt của con tim Xuân Diệu - trái tim muốn đậpmãi với cõi đời, cõi người này. Đó là khát khao cháy bỏng, là say đắm khôn cùng hay là toàn bộ con người tinh thần của nghệ sĩ? Chỉ biết rằng, mỗi vần thơ Xuân Diệu như được chắt ra từ lòng yêu đời, yêu cuộc sống nồng nhiệt.
Tư tưởng nhân văn độc đáo ấy nào phải do Xuân Diệu phát minh ra, rồi dùng tài năng của mình, phủ đắp xương thịt lên hồn cốt ấy. Không, ngọn nguồn sâu xa của tư tưởng cao đẹp ấy chính là tình cảm, nỗi sợ cô đơn. Nỗi sợ hãi đã ám ảnh, đã bám riết tâm hồn cậu bé Xuân Diệu - con người từ thuở nhỏ đã phải sống trong sự ghẻ lạnh của gia đình. Tâm hồn non thơ thiếu văng tâm hồn của mẹ, bởi thế luôn khát khao đồng cảm, khát khao được mọi người tri âm. Xuân Diệu tìm đến thơ như một lẽ tự nhiên không thể nào khác được bởi với thơ ông, thơ là chiếc cầu linh diệu nhất nối trái tim đến với những trái tim. Nhà thơ lúc nào cũng khát khao cháy bỏng được làm phấn thông vàng bay khắp cõi đất này, tràn ngập cả không gian. Nỗi sợ cô đơn vây phủ lên mọi bày thơ, trong hạnh phúc tột cùng đã thấp thoáng những dự cảm lo âu.
"Lòng ta trống lắm, lòng ta lạnh
Như túp nhà không bốn vắch xiêu"
Tôi luôn tự hỏi, nếu những vần thơ Xuân Diệu không thấm đẫm một bầu cảm xúc, một niềm yêu đời mãnh liệt thì những vần thơ của ôngn có thể rung động lòng người đến thế? Những vần thơ như kết tinh từ xúc cảm đắm say đến cuồng nhiệt ngây ngất của người nghệ sĩ đối với cuộc sống này. Nó giúp ông khám phá những hương mật ngọt ngào của thiên nhiên trần thế:
" Của ong bướm này đây tuần tháng mậ,
Này đây hoa của đồng nội xanh rì,
Này đây là của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si."
Một điệp ngữ "này đây" như một đợt sóng trào dâng của niềm yêu đời, nhà thơ như muốn chỉ cho mỗi người thấy cuộc sống này đáng yêu như vậy đấy. Vậy bạn ơi hãy sống hết mình với đời, với người bằng tất cả tâm hồn mình và hưởng thụ cuộc sống đẹp đẽ này. Cần gì phải đi đâu, phải thoát lên tiên hay mơ màng tới nơi phương xa xứ lại. Thiên đường là đây, là cõi đất mến yêu, gần gũi này.
Xúc cảm đâu muốn nguôi yêu, lúc nào nó cũng muốn cựa quậy trên trang giấy để bứt phá, đạp tung những khuôn khổ bó buộc của câu chữ khiến thành trì chữ nghĩa phải lung lay:
"Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếch choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi,
Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào người!"
Các động từ mạnh "riếc", "ôm", "say","thâu" như muốn xô lệch cả con chữ. Cái áo xưa giờ đã quá chật hẹp không đựng nổi bầu cảm xúc tười rói, luôn phập phồng sự sống. Cảm xúc tràn ra ngoài câu chữ, thấm vào lòng người đọc, thổi bùng lên ngọn lửa của lòng yêu sống. Nó khiến ta không thể yên. Thơ hay tiếng lòng của nghệ sỹ đã đốt thành thơ? Bao xúc cảm, men say ngất ngây tột đỉnh đã dồn lại để bật lên một câu thơ độc đáo vào bậc nhất trong thi đàn Việt Nam: "Hỡi Xuân Hồng ta muốn cắn vào người!" Có lẽ nhiều người còn nhắc tới tính hiện đại của câu thơi đấy. Còn tôi, tôi chỉ muốn nói rằng câu thơ ấy là tiếng vang thốt ra từ bầu tâm huyết cua Xuân Diệu đối với cõi đời này. Tư tưởng tạo nên tầm vóc của nhà văn. Tình cảm thổi hồn cho tư tưởng ấy sống dậy thành sinh thể. Có thể nào phủ nhận mỗi quan hệ máu thịt không thể tách rời ấy? Tư tương của Xuân Diệu cũng vậy,nó đã sống trong tình cảm, trong tâm huyết của nhà thơ. Mỗi câu thơ thâm nhập và hồn ta đâu phải là con chữ vô hồn, nó là tất cả cảm xúc của thi nhân khuấy động mãi trong ta, thắp lên trong ta ngọn lửa của niềm ham sống. Mỗi câu, mỗi chữ viết ra đều là máu thịt của nhà văn. Không có bầu cảm xúc ấy, liệu người đọc có thể nhớ mãi câu thơ: "Tháng giêng ngon như một cặp môi gần"- câu thơ viết ra bởi một cảm quan nhân sinh yêu đời, khoẻ khoắn, nồng nhiệt? Không có "lòng khắt khao giao cảm với đời" ấy, liệu có tạo lên một "\Nguyệt ccầm " tuyệt tác, liệu Xuân Diệu có thể lắng nghe được những rung động tinh tế, mơ hồ, hư thoảng trong lòng người và vạn vật để truyền vào những vần thơ ít lời nhiều ý súc tích nhưng đọng lại bao tinh hoa? Tình cảm mãi là ngọn nguồn sâu xa của mọi sáng tạo nghệ thuật chân chính trên cõi đời này.
Xuân Diệu đã ví mình như một con chim hoạ my "đến từ núi lạ" ,"ngứa cổ hót chơi" khi gió sớm, lúc trăng khuya. Con chim hoạ mi ấ không mong vì tiếng hót của mình là hoa nở, nhưng nguyện thề rằng, đó phải là tiếng hót thiết tha, nồng nàn đến vỡ cổ, đến độ trào máu. Có lẽ vì tiếng hót đắm say đến nhường ấy nên đã đọng lại trên bầu trời thi ca Việt Nam một cung bậc riêng, càng nghe càng lảnh lót, vang ngân. Vâng,toàn bộ sức sống của hồn thơ Xuân Diệu là ở đấy chăng? Là con người đã biết hát lên bằng tất cả những rung cảm sâu lắng mãnh liệt của mình niềm "khát khao giao cảm với đời" , trái tim đấy cao hơn nhà thơ, cao hơn nhà nghệ sĩ.
Đã có một thời người ta quá đề cao vai trò tư tưởng của nhà văn. Điều đó dẫn đến một thực trạng đáng buồn là văn chương cơ hồ trở thành triết học, luận thuyết giáo điều, rơi vào nguy cơ mất dần vẻ đẹp đích thực của nó. Chúng ta không thể phủ nhận vai trò to lớn của tư tưởng nghệ thuật. Tuy nhiên cũng không vì thế mà lãng quên đặc trưng của văn chương nghệ thuật, khiến văn chương đúng là văn chương, là tình cảm: văn học phải được gửi vào xúc cảm, sống trong tình cảm. Đó là bài học đối với mọi nghệ sĩ chân chính trong sáng tạo nghệ thuật.
Đã có không ít người than thở về sự bạc bẽo của nghề văn. Theo tôi, sự bạc bẽo của văn chương nếu có là ở đấy chăng? Nghệ thuật không dung nạp những tác phẩm chỉ là cái loa phát ngôn cho tư tưởng của nhà văn.
Và vì thế, ý kiến của Nguyễn Khải là lời tâm niệm của những ai quyết thuỷ chung
với văn chương nghệ thuật.
Bùi Việt Lâm
Trường THPT chuyên Hùng Vương - Bài đạt giải nhất
Bài văn đoạt giải nhì kỳ thi học sinh giỏi quốc gia năm 2000, Bảng A.
Đề bài:
Nhận xét về sáng tác của Thạch Lam, Nguyễn Tuân viết: "Xúc cảm của nhà văn Thạch Lam thường bắt nguồn và nảy nở lên từ những chân cảm đối với những con người ở tầng lớp dân nghè. Thach Lam là một nhà văn quý mến cuộc sống, trang trọng trước sự sống của mọi người xung quanh. Ngày nay đọc lại Thạch Lam, vẫn thấy đầy đủ cái dư vị mà nhã thú của những tác phẩm có cốt cách và phẩm thất văn học". (Theo tuyển tập Nguyễn Tuân, tập III, NXB văn học Hà Nội, 1996, trang 375)
Anh, chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Dựa và một số sáng tác của Thạch Lam, hãy chứng minh ý kiến đó.
(Đề thi học sinh giỏi quốc gia năm 2000, Bảng A)
Bài Làm:
Giữa bộn bề phồn tạp buổi chợ phiên văn chương, giữa náo nhiệt đông đúc của gian hàng lãng mạn, Thạch Lam được nhật như một khách hàng đặc biệt. Con người của Tự lực văn đoàn ấy đã không đưa ta tới những chân trời phiêu du, mộng tưởng của những tình yêu, khát vọng thường thấy trong trời lãng mạn mà dắt ta đi vào giữa cõi đời ta đáng sống, con người dịu dàng nhân ái ấy đã nguyện gắn ngòi bút của mình với những kiếp người đau khổ, vẫn luôn trân trọng sự sống nơi trần gian. Nói như Nguyễn Tuân: "Xúc cảm của nhà văn Thạch Lam thường bắt nguồn và nảy nở lên từ những chân cảm đối với những con người ở tầng lớp dân nghè. Thach Lam là một nhà văn quý mến cuộc sống, trang trọng trước sự sống của mọi người xung quanh. Ngày nay đọc lại Thạch Lam, vẫn thấy đầy đủ cái dư vị mà nhã thú của những tác phẩm có cốt cách và phẩm thất văn học".
Cũng là một nhà văn có tâm huyết với đời, Nguyễn Tuân đã đem tấm lòng mình ra để cảm Thạch Lam, để thấy được bên trong dòng chữ rất đỗi yêu bình ấy là cả trái tim một con người không khi nào vơi cạn tình yêu cuộc sống và tình yêu với dân nghèo. Lời nhận xét của Nguyễn Tuân đã khái quát được phẩm chất tâm hồn Thạch Lam và những giã trị đích thực của văn chương Thạch Lam.
Giống như cái cây xanh ngoài kia hút màu từ đất mẹ, tác phẩm văn học phải bắt rễ sâu chắc vào mảnh đất cuộc đời để từ đó toả ra tán lá rộng, dày góp phần làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn. Hơn thế tác phẩm nghệ thuật phải là tiếng nói xuất phát từ những rung động chân thực của nhà văn trước hiện thực, nẩy nở lên từ những tình cảm của nhà văn dành cho con người. Nhà văn phải biết sống hết mình. Nếu thiếu đi trái tim đầy tình yêu thương của nhà văn thì cái hiện thực kia sẽ mãi mãi nằm trong yên lặng. Vâng, không gì khác ngoài tình yêu và tâm huyết của nghệ sĩ đã làm nên giá trị cho tác phẩm.
Giá trị của những truyện ngắn của Thạch Lam cũng không nằm ngoài quy luật đó. Nguyễn Tuân cho rằng: " Xúc cảm của nhà văn Thạch Lam thường bắt nguồn và nảy nở lên từ những chân cảm đối với những con người ở tầng lớp dân nghè".
Sống trong lòng chế độ thực dân nửa phong kiến, chứng kiến biết bao bất công tàn bạo của một chế độ mục rữa, thối nát, Thach Lam đã dám nhìn thẳng vào sự thực ở đời để thấy được bao kiếp người đang quằng quại đau khổ, đang vật vã trong những bế tắc không lối thoát. Mảnh đất hiện thực nghiệt ngã ấy đã tác động vào tâm hồn nhà văn, khơ gợi lên những cảm xúc, những rung động yêu thương chân thành. Có lẽ Thạch Lam đã đau nỗi đau của con người trong thời đại ông đến thế nào, ông mới có thể bước qua những ngưỡng cửa văn học lãng mạn để đến với văn học hiện thực. Chúng ta không quên quan niệm bất hủ của ông về văn chương:" Đối với tôi, văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát ly hay sự quên; trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn". Chính nhận thức đúng đắn ấy đã giúp cho Thạch Lam có được những chân cảm đối với những con người ở tầng lớp dân nghèo. Những "chân cảm"- phải chăng Nguyễn Tuân muốn nhấn mạnh độ chân thực trong cảm xúc, tình cảm của Thạch Lam? Và có lẽ Nguyễn Tuân đã nói lên được dòng tư tưởng, tình cảm dào dạt trong những sáng tác của Thạch Lam, cái đề tài mà mà ông quan tâm hướng tới.
Hiện thực cuộc sống là rộng lớn, là vô cùng. Và mỗi nhà văn với chiếc xẻng nghệ thuật trong tay mình đã đào xới một mảnh đất để lật lên những vỉ hiện thực và tìm cho mình thế giới hình tượng trong đó. Nếu như Vũ Trọng Phụng xuất sắc ở mảng đề tài về cuộc sống thành thị của xã hội "chó đểu", nếu như Nguyễn Công Hoan tài năng trong việc khắc học bức trạnh thế giới quan lại khả ố, bất lương và Nam Cao rựng rỡ trong những sáng tác về người nông dân và trí thức tiểu tư sản thì Thạch Lam lại hướng ngòi bút vào cuộc sống của những người ở tầng lớp dân nghèo với những khám phá tinh vi về thế giới nội tâm, đời sống tinh thần bên cạch những nỗi khổ "áo cơm ghì sát đất"
Chúng ta không khỏi đau xót khi chứng kiến thảm cảnh "Nhà mẹ Lê" - một người mẹ khốn khổ cùng với một người con nheo nhóc, đói khát. Bức tranh hiện thực hiện lên qua mấy trang văn ấy cũng sắc sảo không kém phần bất kỳ một tác phẩm nào viết về cái đói, cái nghèo. "Nhà mẹ Lê" là một nỗi đau của Thạch Lam. Cái chết của người mẹ đáng thương ấy cùng với nỗi bất hạnh của đàn con thơ dại mà "đứa lớn nhất mới mười bảy tuổi, còn đứa bé nhất thì đang bế trên tay" chính là vấnđề đáng quan tâm nhất, chính là cái hiện thực tàn ác mà nhà văn chân chính không thể thờ ơ. Viết về cái gì đi chăng nữa thì số phận con người vẫn mãi là lời gọi tha thiết nhất đối với ngòi bút nhà văn.
Với Thạch Nam cuộc sống nơi phố huyện nghèo, tăm tối đã thu hút ông khám phá. Và ông thấy được ở trong cái lạnh lẽ của cơm gió lạnh đầu mùa kia có cả nỗi khổ của bé Hiên không có áo ấm mùa đông, nỗi khổ của người mẹ ngày ngày đi bắt cua, bắt ốc không kiếm được cho con tấm áo.
Những con người ấy thân thuộc với ông quá, trong lòng ông đã rung lên những sợi dây tình cảm khi viết về cảnh đời của những con người nhỏ bé. Có nhà triết học cho rằng, biết xúc cảm cũng là một năng lực. Tôi thấy điều đó đúng với thạnh Lam. Cái năng lực ấy vố dĩ không phải của trời ban mà nó được hình thành từ chính tấm lòng tràn đầy tình yêu thương của nhà văn đối với người lao động.
Viết riêng về tầng lớp dan nghèo, Thạch Lam không chỉ quan tâm đến nỗi khổ vật chất mà với ông, cái đáng sợ là sự xói mòn về tâm hồn. Truyện ngắn "Hai đứa trẻ" đã chỉ ra bi kịnh ấy. Cái mới của Thạch Lam trong việc thể hiện nỗi khổ con người là ông phát hiện ra nỗi khổ phải sống trong cảnh quẩn quanh,tù túng, bế tắc, phải chìm nghỉm trong cáim"Ao đời phẳng lặng" (Chữ của Xuân Diệu).
Cuộc sống của Liên và An có khác gì sự giam hãm về tinh thần? Mỗi ngày cứ đi qua trong sự im lặng đáng sợ của bóng tối, trong lặng lẽ của quầy hàng không có khách. một cuộc sống không sôi nổi, không biết động, không mơ ước, cuộc sống ấy không đáng bị thay đổi lắm sao? Ngay cả đến cảnh thiên nhiên cũng nhuốm vẻ u buồn:"Chiều, chiều tối. Một buổi chiều chầm chậm lặng lề của cuộc đời và đáng sợ nhất vẫn là bóng tối, bóng tối trùm lên phố huyện" Cái hay của Thạch Lam là đã diễn tả bóng tối qua ánh sáng leo lét của ngọn đèn dầu nơi chõng hành chị Tí hay ánh lửa trong gánh phở bác Siêu. Cái leo lét nhập trời nữa cũng không chống chọi nổi sự bao phủ của màn đêm. Nó chỉ cho ta thấy sự đối lập khủng khiếp giữa ánh sáng và bóng tối. Và cuộc đời của những con người kia, những Liên, những An, những chị Tí bác Siêu, bà cụ Thi cũng có khác gì ngọn đèn leo lét đó, không thể toả sáng được giữa bóng đêm mịt mù của cuộc đời.
Truyện giản dị, nhẹ nhàng mà gợi cho ta bao suy tư về số phận con người. Chính những xúc cảm của nhà văn đã đem đến cho người đọc sự xúc động, để lại những băn khoăn, day dứt trong mỗi chúng ta.
Tôi đọc văn Thạch Lam trong một buổi trưa yên tĩnh và tôi thấy chưa hẳn nhà văn của chúng ta đã hoàn toàn thất vọng về cuộc sống.Cũng giống như cái cảm giác ban trưa ngột ngạt mà có làn gió mát thổi qua,tôi cảm nhận được luồng gió vô tình mà Thạch Lam mang lại sau những trang văn tưởng như bế tắc không có lối thoát ấy.Tôi vẫn thấy lờ mờ rằng hình như Thạch Lam cũng đồng cảm với Pauxtopxki trong ý nghĩ:Dù ai đó có nói với bạn điều gì đi chăng nữa,bạn hãy cứ tin rằng cuộc sống kì diệu và đẹp đẽ.Thạch Lam đã tin vào điều ấy. Ông tin rằng chính linh hồn con người sẽ cứu sống con người ra khỏi sự tăm tối,chính những ước mơ,hoài bão và cả tình thương của con người sẽ giúp họ vượt qua ngiệt ngã của cuộc sống.Và ông đã xây dựng nên những tính cách như thế.
Ông đã thổi vào trong Gió lạnh đầu mùa sự ấm áp của tình người,của lòng thương. Ông đã để nhân vật Sơn đem tấm áo cho bé Hiên, để Hiên bớt đi cái lạnh, đế Hiên cảm thấy cuộc sớng chưa hẳn đã đau khổ. Gió vẫn cứ lạnh đấy nhưnh dù gió có lạnh đến thế nào thì tình người vẵn cứ vượt lên trên tất cả.Nguyễn Tuân đã rất đúng khi cho rằng:"Thạch Lam là một nhà văn quý mến cuộc sống,trang trọng trước sự sống của mọi người xung quanh".Phải rồi,nế không có sự quý trọng cuộc đời của nhà văn thì chắc hẳn những người như bé Hiên sẽ suốt đời không có được một manh áo ấm và triết lí về tình thương sẽ tuột khỏi tác phẩm,rơi vào trong cái lạnh lõ cuar thiên nhiên. Đọc Gió lạnh đầu mùa,tôi không cảm thấy cái lạnh tràn về mà bỗng thấy lòng mình như được sưởi ấm bởi hơi nóng của tình yêu thương con người.Vâng, tình cảm thánh thiện trong tâm hồn của một đứa trẻ như Sơn sẽ xua đi mọi lạnh giá khắc nghiệt của thời tiết bởi vì "không có gì nghệ thuật hơn bản thân lòng yêu quý con người". Thạch Lam đã cho tôi thấm thía chân lí ấy và còn gì đẹp hơn một tác phẩm "ca tụng lòng thương,tình bác ái,sự công bình...Nó làm cho người gần người hơn" (Nam Cao).
Có một ai đó đã nói:Hi vọng chính là một nghệ thuật sống. Đọc như những trang viét của Thạch Lam,người ta cũng thấy một niềm hi vọng được nhen nhóm lên từ trong chính những đau khổ,mờ mịt của cuộc đời.Nhà văn đã yêu cuộc sống,trân trọng và nâng niu nó; đặt cả con tim mình lên câu chữ để đem theo cái hơi thở nồng nàn của sự sống đến cho người đọc.
Từ cái quẩn quanh, ngột ngạt của cuộc sống tù túngg nơi phố huyện, người đọc vẫn thấy được niềm tin ở tương lai cho dù nó thật mong manh, yếu ớt - mong manh như chính cuộc đời của những con người nơi đây, yếu ớt như ánh sáng những ngọn đèn, ánh lửa trong đêm tối.
Thạch Lam đã không làm mất đi trong ta ngọn lửa của niềm tin hi vọng. Tình yêu mến và trân trọng cuộc sống đã giúp ông xây dựng nhân vật Liên trong "Hai đứa trẻ", để cho Liên có một ước mơ. Cảnh đợi tàu và mong ước ccủa chi em Liên là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của nhà văn. Con tàu đi qua sẽ chẳng có gì trong nhận thức của con người (Có chăng Tế Hanh đã từng thốt lên:
"Tôi thấy tôi thương những con tàu
Ngày đời không đủ sức đi mau
Có chi vương víu trong hơi máy
Với những toa đầy nặng khổ đau")
Nhưng với Liên đó là cả một niềm khát khao. Con tàu trong suy tưởng của Liên không phải chở đi những đau khổ của kiếp người mà nó là ánh sáng, là hi vọng của phố huyện này. Con tàu chở mơ ước của chị em Liên về một Hà Nội đầy ánh sáng, Hà Nội của niềm vui rực rỡ. Nên cái ước mơ được nhìn thấy chuyến tàu ở chúng ta thật bình thường thì đối với Liên,nó thật mãnh liệt và lớn lao biết bao.Nhưng Thạch Lam muốn cho người đọc hiểu rằng:Liên mơ ước chuyến tàu cũng chính là đang mơ ước về một sức sống sôi nổi hơn,về một cuộc đời có nhiều ánh sáng hơn,nhiều niềm vui hơn.Và khi nhà văn miêu tả nỗi khát kha bé nhỏ hết sức tội nghiệp ccủa chị em Liên, ông không chỉ muốn qua đó thể hiện bức tranh hiện thực cuộc sống và tâm hồn con người mà hơn thế,nhà văn còn gợi lên trong ta những khát khao cao đẹp,những ước muốn được đấu tranh cho sức sống tươi đẹp của con người.Nói như nhà văn Nga Sôlôkhôp:" Đối với con người,sự thực đôi khi nghiệt ngã,nhưng bao giờ cũng dũng cảm củng cố trong lòng người đọc niềm tin ở tương lai.Tôi mông muốn những tác phẩm của tôi sẽ làm cho con người tốt hơn,tâm hồn trong sạch hơn,thức tỉnh tình yêu đối với con người và khát vọng tích cực đấu tranh cho lí tưởng nhân đạo và tiến bộ của loài người".Thạch Lam cũng đã gặp Sôlôkhôp trong quan niệm về văn học ấy khi ông khẳng định văn chương chính là thứ khí giới để làm cho "lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn".
Với Thạch Lam,"cái đẹp chính là sức sống"(Secnưsepxki).Không có gì cao cả hơn sức sống trên trái đất này.Và thông qua Hai đứa trẻ.Nhà văn đã mang đến cho ta một niềm tin về cuộc sống,thức tỉnh ta thoát khỏi kiếp sống mòn mỏi,bế tắc,ngột ngạt về tinh thần,khơi dậy trong ta ý thức đấu tranh cho cái đẹp trong tâm hồn những đứa trẻ,cũng là cho cái đẹp trên trái đất này.
Thiếu đi tình yêu mến cuộc sống,lòng trân trọng sức sống của mọi người xung quanh,làm sao Thạch Lam có thể viết nên những tác phẩm có giá trị,những sáng tác để cho cái đẹp trên trái đất,cho lời kêu gọi đấu tranh về hạnh phúc,niềm vui và tự do,cho cái cao rộng của tâm hồn và cho cái rực rỡ như những mặt trời không bao giờ tắt?
Có một lần khi viết về Nguyễn Tuân,Thạch Lam đã khẳng định: "Trong cái vội vã cẩu thả của những tác phẩm xuất bản gần đây,những sản phẩm đã hạ thấp văn chương xuống mực những tác phẩm đua đòi,người ta lấy làm sung sướng khi thấy một nhà văn kính trọng và yêu mến cái đẹp,coi công việc sáng tạo là một công việc quý báu và thiêng liêng".Chúng ta cũng có trách nhiệm với ngòi bút của mình. Đọc văn Thạch Lam,quả thực,ta thấy được "đầy đủ cái dư vị và cái nhã thú của những tác phẩm có cốt cách và phẩm chất văn học".
Nguyễn Tuân đã cảm nhận ở Thạch Lam cái thần chắt chiu từ ngòi bút nhà văn, cũng chính là cái thần thái của con người Thạch Lam. Đó là một nhà văn dịu dàng trong hành động, nhân từ trong suy nghĩ, một nhà văn bằng cả cái tinh tế của hồn mình để cảm nhận được cái sắc màu của lá rơi, của những gì dịu dàng bé nhỏ nhất trong đời. Văn Thạch Lam cũng có cái phong thái ấy. Đó là phong thái của những tác phẩm "cốt cách và phẩm chất văn học". Trước hết nên hiểu thế nào là một tác phẩm có "cốt cách và phẩm chất văn học"? "Cốt cách" là cải riêng, cái độc đáo, phong cách thể hiện được hồn người , tình người. Một tác phẩn có "cốt cách" phải là một tác phẩn có giá trị, mang đến cho người đọc những hiểu biết và khơi gợi những tình cảm đẹp. Hơn thế, nó phải có "phẩm chất văn học" nghĩa là phải được chứa đựng trong một hình thức phù hợp, có phương tiên biểu hiện nghệ thuật tương xứng.
Quả thực ta đã từng day dứt trước một lối văn sắc lạnh, khách quan, tỉnh táo của Nam Cao, hả hê bất ngờ trước những trang viết châm biếm của Nguyễn Công Hoan và khóc cùng những giọt nước mắt trong văn Nguyên Hồng. Giời đây đọc văn Thạch Lam, ta thấy yêu cái nét đẹp nhã nhăn, bình dị, đượm buồn trong lối viết của ông. Cái dư vị Thạch Lam tạo ra được chính là thực chất cuộc sống với những đau khổ của con người, những nỗi thương tâm của những chị Tí, những cô hàng xén và những cao đẹp trong hồn người: tình yêu thương con người của bé Sơn, khát vọng đáng quý của Liên, những rung cảm nhẹ nhàng trong tâm hồn Thanh (Dưới bóng hoàng lan) khi trở về quê,... Những rung động ấy chính là cái dư vị của chât thơ trong trang viết Thạch Lam và đó ccũng là "nhã thú" mà Nguyễn Tuân nói đến khi tiếp cận, đọc lại để lắng nghe chất thơ dịu nhẹ mà Thạch Lam lượm lặt đê góp lên trang viết của mình - một chất thơ bàn bạc toát ra từ tâm hồn người, nó cũng là cái đẹp.
Đưa ta vào thế giới của những rung ngân tinh vi trong tâm hồn, Thạch Lam đã có được "niềm vui của những người nghệ sĩ chân chính là niềm vui của những người biết vươn tới tương lai" (Pauxtôpxki)
Suốt đời tâm huyết với văn chương và những năm tháng ngắt ngủi của những ngày sống trên đơi này, Thach Lam đã đem trái tim mình đặt lên trang viết, cho nó sống mãi với ý nghĩa của những tác phẩm có giá trị.
Bằng "những tác phẩm có cốt cách và phẩm chất văn học', Thạch Lam xứng đáng với lòng yêu quý và trân trọng của mỗi người đọc chúng ta, xứng đáng với thiên chức của người nghệ sĩ.
Nguyễn Thu Hiền
Trường THPT chuyên Trần Phú - Hải Phòng
Bài đoạt giải nhì
Bài văn đoạt giải nhất kỳ thi học sinh giỏi quốc gia năm 2001, bảng A
Đề bài:
Nhà văn Bùi Hiển đã phát biểu khẳng định ý
nghĩa đặc biệt của tiếng nói tri ân trong văn chương: "Ở nước nào cũng thế
thôi, sự cảm thông sẻ chia giữa người đọc và người viết là trên
hết". (Bào Văn nghệ, số ra ngày 10 - 2- 2001)
Anh, chị có suy nghĩ gì về
vấn đề này? Hãy phân tích hai bài thơ "Độc tiểu thanh ký" của thi hào
Nguyễn Du và "Kính gửi cụ Nguyễn Du" của nhà thơ Tỗ Hữu để làm rõ
tiếng nói chi âm ở mỗi bài.
(Đề thi học sinh giỏi quốc
gia năm 2001, bảng A)
Bài làm
"Bất
tri ba bách dư niên hậu
Thiên hạ hà
nhân khất Tố Như?"
Nguyễn Du xưa đã từ dã cõi
đời không một lời trăn trối, mang theo cả một tâm sự bi kịch, u uất không giải
toả cùng ai. Những ai đã sống sâu sắc với cuộc đời hẳn thấu hiểu lắm tâm sự của
Nguyễn Du - một con người suốt đời đi tìm tri kỉ giữa cõi đời đen bạc. Tố Như
ơi! Xin người hãy "ngậm cười nơi chín suốt" vì "cả cuộc đời này
hiểu Nguyễn Du" vì có biết bao nhiêu người như Huy Cận, Bùi Kỷ, Tế Hanh,
Chế Lan Viên, ... và đặc biệt Tố Hữu đã làm thơ giãi bày, giải toả hộ Người
những uất hận kia. Bài thơ "Kính gửi cụ Nguyễn Du" ra đời như bắc
nhịp cầu tri âm đến với những tâm sự của Tố Như trong "Độc Tiểu Thanh
ký" đồng thời cũng khẳng định ý nghĩa đặc biệt cuả tiếng nói tri âm trong
văn chương, nói như nhà văn Bùi Hiển: "Ở nước nào cũng thế thôi, sự cảm
thông sẻ chia giữa người đọc và người viết là trên hết"
Là một nhà văn đã từng nếm
trải những vinh quang và cả những cay đắng trong nghề văn, Bùi Hiển hiểu hơn ai
hết ý nghĩa đặc biệt cảub tiếng nói tri âm giữa nhà văn và người đọc. Đã có
những thời người ta chỉ đề cao vai trò của tác giả và tác phẩm mà xem nhẹ yếu
tố bạn đọc. Đúng, nhà văn là người tạo ra tác phẩm bằng tài năng và tâm huyết
của mình. Nhưng lẽ nào ảnh chỉ muốn tác phẩm ấy là chỉ của riêng anh, chỉ mình
anh biết, anh hay?Nếu thế tác phẩm của nhà văn ấy sẽ sớm đi vào quên lãng,
không một ai biết đến. Phải chăng vì vậy mà M. Gorki đã viết: "Người tạo
lên tác phẩm là tác giả nhưng người quyết định số phận tác phẩm lại là độc
giả?" Tác phẩm văn học chỉ ssống được trong tấc lòng của những người tri
kỷ - là bạn đọc. Thế nhưng không phải bạn đọc nào cũng hiểu được tác phẩm và
thông điệp thẩm mĩ của tác giả. Thực tế văn học đã có biết bao chuyện đáng buồn
- người đọc hiểu hoàn toàn sai lệch giá trị của tác phẩm và suy nghĩ của nhà
văn. Cho nên ở bất kỳ thờ đại nào, bất kỳ nền văn học dân tộc nào cũng rất cần
có tiếng nói tri âm của bạn đọc dành cho tác giả. Nghĩ là bạn đọc ấy phải cảm
thông, sẻ chia với những nỗi niềm tâm sự, nghĩ suy của người viết gửi trong tác
phẩm.
Ý kiến của nhà văn Bùi Hiển,
vì thế, có thể xem như một yêu cầu lý tưởng trong tiếp nhận văn học mọi thời
đại, mọi dân tộc. Vậy vì sao Bùi Hiển lại đề cao ý nghĩa của tiếng nói tri âm
như vậy? Có lẽ đó là yếu tố đặc thù của lĩnh vực văn chương. Nếu như trong các
ngành khoa học, khi một chân lý khoa học được tìm ra là đúng đắn thì sớm hay
muộn nó sẽ được công nhận và khẳng định. Còn với văn học thì sao? Những nghĩ
suy và ttâm trạng của nhà văn sâu sắc, nhiều tầng bậc, không phải một thời, một
người là có thể hiểu thấu để mà cảm thông chia sẻ. Tiếp nhận văn học, họ phụ
thuộc và nhiều yếu tố, có khi do tâm lý và tâm thế tiếp nhận, cũng có khi do môi
trường văn hóa mà người đọc đang sống, đang tiếp thu... Chuyện khen chê, khẳng
định hay phủ định trong văn chương là điều dễ thấy. Bởi vậy phải là người đọc
có con mắt xanh mới có thể thấu hiểu, cảm thông, chia sẻ với người viết được.
Thế nhưng cơ sở nào đem lại
sự cảm thông, chia sẻ giữa người đọc và người viết? Trước hết cần phải bắt đầu
từ quy luật của sáng tạo nghệ thuật. Người nghệ sĩ cầm bút trước tiên là để
giãi bày lòng mình, khi những trăn trở, suy nghĩ, day dứt, dằn vặt vui hay buồn
không thể nói với ai thì người nghệ sĩ tìm đến văn học bởi "thơ là tiếng
lòng" là tiếng nói hồn nhiên nhất của trái tim và "có những điều chỉ
nói được bằng thơ".Người nghệ sĩ sáng tác trước hết cũng do chính mình
hoặc cho những người thực sự hiểu mình mà thôi. Phải chăng vì vậy khi Dương
Khuê mất Nguyễn Khuyến đã không viết thơ vì:
"Câu
thơ nghĩ đắn đo không viết
Viết đưa
ai, ai biết mà đưa."
Thế nhưng thơ là "tiếng
nói điệu đồng đi tìm những tâm hồn đồng điệu". Nhà thơ đồng thời cũng là
người đọc thơ. Như Tế Hanh nói:" Đọc thơ đồng chí ngỡ thơ mình" . Nhà
văn viết tác phẩm như ban pháp phấn thông vàng đi khắp nơi, mong có người theo
phấn tìm về. Cho nên bạn đọc là mốt mắt xích không thể thiếu trong chu trình
sáng tác - tiếp nhận tác phẩm. Bạn đọc cũng là những người có suy nghĩ, tình
cảm,cảm xúc, có niềm vui, nỗi buồn, có cảnh ngộ và tâm trạng, nhiều khi bắt gặp
sự đồng điệu với nhà văn, nhà thơ. Khi hai luồng sóng tâm tình ấy giao thoa thì
tác phẩm rực sáng lên trở thành nhịp cầu nối liền tâm hồn với tâm hồn, trái tim
với trái tim. Cho nên người đọc đến với thơ để tìm thấy chính mình, thấy những
suy nghĩ, cảm xúc của chính mình mà nhà thơ bằng tài năng đã gửi gắm qua những
câu thơ. Phải chăng vì thế Lưu Quý Kì viết: "Nhà thơ gói tâm tình của mình
trong thơ. Người đọc mở ra bỗng thấy tâm hồn của chính mình". Và như thế
Bá Nha đã tìm được Tử Kì, những tri âm đã gặp được nhau qua chiếc cầu văn
chương. Văn học quả là có sức cảm hoá thật kỳ diệu.
Có lẽ chính bở ý nghĩa đặc
biệt của tiếng nói tri âm trong văn chương mà có biết bao nhiêu nhà thơ, nhà
văn đã sáng tác nhưng tác phẩm mà đối tượng lại chính là các nhà văn, nhà thơ.
Bằng Việt viết về Pauxtôpxki, Ximônôp sung sướng khi ttìm được tri âm là Tố
Hữu:
"Ở đây tôi
thấy thơ tôi
Sống trong bản
dịch tuyệt vời của anh"
Trường hợp của Nguyễn Du và
Tố Hữu trong hai bài thơ "Độc tiểu thanh ký" và "Kính gửi cụ
Nguyễn Du" cũng không nằm ngoài mạch nguồn cảm hứng giàu giá trị nhân văn
ấy.
Có thể thấy hai bài thơ đều
là tấc lòng của hai nhà thơ gửi gắm cho những người nghệ sĩ sống khác thời đại.
Nguyễn Du viết về Tiểu Thanh, cách Tố Như ba trăm năm nhưng đồng thời Tiểu
Thanh cũng là một nhà thơ. Sống cô đơ, vò võ một mình trong sự ghe tuông cay
nhiệt của người vợ cả, sự thiếu đồng cảm của chính người chồng, Tiểu Thanh đã
tìm đến thơ để ký thác tâm tình, để tìm đến một tri âm vô hình cho khuây khoả
nỗi cô đơn. Thế mà thói đời cay nghiệt, khi nàng chết, những vần thơ của nàng
cũng phải giã từ cõi đời trong ngọn lửa ghe tuông, đố kỵ. Những câu thơ xót lại
của nàng khiến Tố Như rung động. Một trái tim lúc nào cũng căng lên như dây đàn
nối đất với trời và nỗi đau của con người có thể làm sợ giây ấy rung lên bần
bật. Dễ hiểu vì sao Nguyễn Du lại viết hay, xúc động về Tiểu Thanh như vậy. Còn
Tố Hữu trong những năm tháng chống Mĩ cứu nước nhất là trong những ngày kỷ niệm
ngày kỷ niệm ngày sinh của Nguyễn Du, đã xúc động viết lên "Kính gửi cụ
Nguyễn Du". Tố hữu đã thể hiện sự cảm thông, chia sẻ với bi kịch của
Nguyễn Du và hết lời ca ngợi giá trị của thơ caTố Như. Như thế hai bài thơ "Độc
Tiểu Thanh ký" và " Kính gửi cụ Nguyễn Du" đều thể hiện tiếng
nói tri âm giữa Nguyễn Du, Tố Hữu - người đọc đồng thời cũng là những nhà thơ
với Tiểu Thanh, Nguyễn Du- những người nghệ sĩ sống khác thời đại. Sự trùng hợp
tuyệt đẹp này còn góp phần khẳng đinh giá trị nhân đạo sâu sắc, mênh mông của
dân tộc và văn học Việt nam. Bở lẽ Tiểu Thanh, Nguyễn Du là ai nếu như không
phải là những người tài hoa và bạc mệnh?
Mặc dù vậy, bẩn chất của lao
động nghệ thuật bao giờ cũng là sáng tạo. Cho nên hai bài thơ dù giống nhau ở
cảm hứng nhưng nội dung tiếng nói tri âm và cách thể hiện có sự khác biệt sâu
sắc. Trước hết "Độc Tiểu Thanh ký" là tiếng nói tri âm của một các
nhân dành cho một cá nhân. Nguyễn Du thấu hiểu nỗi khổ của Tiểu Thanh - người
con gái sống khác dân tộc, khác thời đại. Có một khoảng không gian và thờ gian
diệu vợi, hun hút cách ngăn hai người nhưng chính văn chương đã xoá nhoà khoảng
cách địa lý, biên giới lịch sử để họ tìm đến với nhau. Nguyễn Du xót thương co
cảnh ngộ của nàng:
"Tây
Hồ hoa uyển tẫn thành khư
Độc điếu
song tiền nhất chỉ thư."
Bài thơ mở đầu bằng câu thơ
nói về quy luật nghiệt ngã của cuộc đời. Dòng đời lạnh lùng chẳy trôi, cuốn
theo bao con người, bao số phận, tàn phá bao cảnh sắc. Hồ Tây xưa đẹp đẽ, rực
rỡ là thế, giờ chỉ còn là một đống đất hoang lạnh, vắng vẻ, tiêu điều. Một sự
biết đổi thật ghê gớm! Tận nghĩa là biết đổi hết, sạch trơn. Cảnh xưa đã không
còn. Câu thơ nghe ngậm ngùi, thoáng gợi sự đời dâu bể "thương hải biết vi
tang điền" hay xót xa nỗi niềm "thế gian biết đổi vũng nên đồi"
trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đó là quy luật của tự nhiên, sao ta không khỏi day
dứt? Bở lẽ cũng với sự đổi thay ấy, là sự ra đi của kiếp người, đời người. Tiểu
Thanh nàng hỡi, sự hiện diện của nàng trên cõi đời này còn gì đâu nếu không còn
những vần thơ sót lại. Nhưng thay những vần thơ ấy - tấc lòng của nàng đã đến
được với bế bờ tri âm - ấy chính là Nguyễn Du. Nguyễn Du hiểu lắm nỗi oan
nghiệt của nàng:
"Chi
phấn hữu thần liên tử hậu.
Văn chương
vô mệnh luỵ phần dư."
Cả cuộc đời Tiểu Thanh hiện
lên qua hai chữ: chi phấn và văn chương. Nói đến son phấn là nói đến tài sắc,
nói đến văn chương là nói đến tằng năng. Người là người tài năng, nhan sắc trọn
vẹn, thế sao cuộc đời nàng lại đau khổ dường vậy? Nhà thơ đã thổi hồn vào son
phấn, văn chương để chúng cất lên tiếng nói bi phẫn, xót xa. Son phấn có thần
chắc pphải xot xa vì những việc sau khi chết còn văn chương không có mệnh mà
còn bị đốt bỏ. Hỡi cuộc đời, son phấn, văn chương để cất lên tiếng nói bi
thương thấu thiết ấy? Hai câu thực cũng chính là chìa khoá mở cửa vào hai câu
luận:
" Cổ
kim hận sự thiên nan vấn,
Phong vận
kì oan ngã tự cư"
Thế là đâu chỉ Tiểu Thanh, đó
là số bất hạnh của bao nhiêu con người. Hai chữ "cổ kim" gợi dòng
thời gian miệt mài chảy trôi, vô thuỷ vô chung từ xưa đến nay, từ Đông sang
Tây, trên đó thấp thoáng tiếng khóc của nàng Kiều, tiếng ai oán của cô Cầm,
tiếng hát của người ca nữ đất Long Thành, người hát rong ở Thái Bình, tiếng van
lơ của người mẹ ăn xin,... Đó là nỗi hận của bao kiếp người, bao cuộc đời, bao
thế hệ. Giời đây tấn cả cùng về đổ xuống câu thơ của Tố Như. Một mối hận chất
chứa, dày đặc thế mà trời khôn hỏi. Hỏi người, người không biết. Hỏi trời, trời
không đáp. Cho nên Nguyễn Du tự lý giải cho mình:
"Phong
vận kì oan ngã tự cư."
Tiểu Thanh đau khổ, bao con
người đau khổ chính bởi nỗi oan lạ lùng vì nết phong nhã. Thì ra chính
"chi phấn, văn chương" kia là nguyên nhân gây ra nỗi khổ dường này!
Nhà văn tự coi mình là người cùng hội, cùng thuyền với Tiểu Thanh và những
người tài hoa bạc mệnh. Thế là Nguyễn Du đã "lấy hồn tôi để hiểu hồn
người". Tố như sở dĩ là tri âm bở lẽ ông thấy mình trong cuộc đời và văn
thơ Tiểu Thanh. Cho nên bài thơ kết thúc bằng tâm sự của chính Nguyễn Du:
"Bất
tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà
nhân khất Tố Như?"
Thương người rồi mới thương mình.
Thương người càng sâu sắc thì thương mình cảnh da diết. Tiểu Thanh đã có may
mắn là tìm được tri âm nơi - Nguyễn Du, thế còn Nguyễn Du thì ai là Tri âm đây?
Bài thơ kết thúc mà nỗi đau cứ khắc khoải, đau đáu khôn nguôi. Tố Như đã từng
cho mình mang nỗi sầu "vị tằng khai" không giải toả được, sâu thẳm
như nước sông Lam dưới chân núi Hồng:"Ngã hữu thốn tâm vô dữ ngã" Cho
nên ông không hỏi người ở hiện tại mà hướng về người cách mình hơn ba trăm năm
xa xôi, vô tri kỉ ở một nàng Kiều trong trang sách, ở Tiểu Thanh cách mình ba
trăn năm và ở một dân tộc khác. Bài thơ khép lại mà đau đáu nỗi đau không tri
âm, không tri kỉ giữa cõi đời đen bạc. Như vậy, hiểu Tiểu Thanh, day dứt trước
số phận nàng, ráo riết tìm ra câu trả lời nhưng cuỗi cùng nguyễn Du bế tắc, rơi
vào thuyết hư vô, siêu hình như trong truyện Kiều:
"Ngẫm hay
muôn sự tại trời
Trời kia đã bắt
làm người có thân
Bắt phong trần
phải phong trần
Cho thanh cao mới
được phần thanh cao"
Cho nên bài thơ đẫm nước mẳt
trong giọng điệu bi phẫn, sầu tủi, nghẹn ngào. Dẫu sao tấm lòng tri âm của Tố
Như với Tiểu Thanh cũng vô cùng cao quý, đáng trân trọng.
Hai trăn năm sau Nguyễn Du, Tố Hữu đứng trên đỉnh cao của thời đại, của dân tộc, hướng về quá khứ cha ông, với niềm xót xa thương cảm. Biết bao nhà thơ đồng cảm với Nguyễn Du như ở Tố Hữu, sự đồng cảm ấy sâu sắc, mênh mông hơn. Trước hết, nhà thơ hiểu, chia sẻ với bi kịch của Nguyễn Du:
Hai trăn năm sau Nguyễn Du, Tố Hữu đứng trên đỉnh cao của thời đại, của dân tộc, hướng về quá khứ cha ông, với niềm xót xa thương cảm. Biết bao nhà thơ đồng cảm với Nguyễn Du như ở Tố Hữu, sự đồng cảm ấy sâu sắc, mênh mông hơn. Trước hết, nhà thơ hiểu, chia sẻ với bi kịch của Nguyễn Du:
"Hỡi lòng tê
tái thương yêu
Giữa lòng trong
đục, cánh bèo lênh đênh
Ngổn ngang bên
nghĩa bên tình
Trời đêm đâu biết
gửi mình nơi nao?
Ngẩn ngơ trông
ngọn cờ đào
Đành như thân gái
sóng xao Tiền Đường!"
Tưởng như đó là những lời Tố
Hữu viết về Thuý Kiều. Mà quả thực, nhà thơ tỏ lòng thương cảm với nàng Kiều
tài sắc mà như cánh bèo lênh đênh. Nàng đã từng đứng trước sự lựa chọn chữ
"Hiếu' và chữ "Tình" khi quyết định bán mình chuộc cha, đã từng
xao lòng trước vinh hoa để rồi xót xa thấy ngọn cờ đào Từ Hải, kết liễu đời
mình nơi dòng Tiền Đường định mệnh. Thế nhưng qua sự so sánh "đành như
thân gái", người đọc hiểu được đó là lời tâm huyết gan ruột của Tố Hữu gửi
Tố Như. Trong cuộc đời bể dâu kia, Tố Như cũng như cánh bèo chìm nổi, từng đớn
đau trước bi kịch cuộc sống "sống hay không sống" và sống như thế nào
giữa đen tối và tội ác, "giữa dòng trong, dòng đục kia?". Nguyễn Du
cũng đã từng đứng trước sự lựa chọn giữa "nghĩa"và "tình".
Người hiểu xã hội phong kiến đã đến hồn cáo chung, hiểu được sự mọt rỗng của
triều Lê nhưng tình với nhà Lê, tư tưởng phù Lê của tổi trung không thờ hai chủ
nên Người đã từng chống lại Tây Sơn. Thế nhưng trong đêm đen cuộc đời, người
đâu đã thoát khỏi bi kịch. Người thấy triều đại Tây Sơn là tiến bộ, châm chí
còn hướng về những tưỡng lĩnh Tây Sơn tài hoa trong "Long thành cầm
giả" nhưng cuối cùng lại theo Nguyễn Ánh, làm quan cho triều Nguyễn. Bi kịch
không tự giải thoái được, Người "đành như thân gái sóng xao Tiền
Đường" phó mặc cho số phận. Tố Hữu thấy Thuý Kiều là hiện thân của Nguyễn
Du. Nguyễn Du viết truyện Kiều để ký thác tâm sự chính mình. Đó thực sự là một
tấm lòng tri âm sâu sắc.
Không chỉ hiểu bi kịnh của
Nguyễn Du, Tố Hữu còn chia sẻ cảm thông với bi kịch tình đời của Người:
"Nỗi niềm xưa
nghĩ mà thương:
Dẫu lìa ngỏ ý còn
vương tơ lòng...
Nhân tình , nhắm
mắt, chưa xong
Biết đâu hậu thế
khóc cùng Tố Như?
Mai sau dù có bao
giờ...
Câu thơ thuở
trước, đâu ngờ hôm nay"
Phải thương cảm Tố Như sâu
sắc lắm, Tố Hữu mới có thể nhận thấy bi kịch ẩn sâu này. Nguyễn Du cả một đời
yêu thương con người, cả đến khi nhắm mắt xuôi tay vẫn chưa nguôi nỗi đau đáu
hỏi người ba trăm năm sau: Ai người khóc Tố Như? Tố Hữu sử dụng ý thơ ấy thật
linh hoạt. Khóc cùng không chỉ khóc cho Tố Như mà cùng Tố Như khóc cho nỗi đau
của con người. Đó phải chăng cũng là điều Tố Như tìm kiếm, trăng trối trước lúc
đi xa?
"Tiếng thơ ai động đất trời
"Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước
vọng lời ngàn thu
Nghìn năm sau nhớ
Nguyễn Du
Tiếng thương như
tiếng mẹ ru những ngày"
Tiếng thơ ai nghe vừa trìu
mến, vừa thân thương, vừa ngưỡng phục. Tiếng thơ của Nguyễn Du thấu lòng người,
thấu cả trời xanh. Dường như trời xanh cũng rung động bở những vần thơ ấy. Thật
là một tầm vóc lớn lao, vĩ đại! Không những vậy, Tỗ Hữu còn nghe thấy trong
tiếng thơ ấy hồn của dân tộc, lời của nước non:
"Nghe như non
nước vọng lời ngàn thu"
Tố Hữu đã từng vì tiếng nói
của Hồ Chí Minh như lời non nước:
"Con
nghe Bác, tưởng nghe lời non nước
Tiếng ngày
xưa và cả tiếng mai sau..."
Lần thức hai ông lại hình
dung hình ảnh so sánh để ca ngợi sự vĩ đại của một nhà thơ - một danh nhân văn
hoá lỗi lại của dân tộc và thế giới. Tiếng thơ của Nguyễn Du là tiếng nói của
cá nhân đã trở thành lời của non nước. Non nước mượn thơ người để vọng lời.
Trong tiếng thơ ấy có cả tiếng lòng của dân tộc, của nước non. Cho nên nó có
tầm vóc ngang hàng với không gian vũ trụ, dằng dặt mà còn gợi không gian mênh
mông cho tiếng thơ cụ Tiên Điền vang vọng, chảy trôi. Hôm nay, mai sau, thậm
chí nghìn năm sau người Việt Nam vẫn không quên được tiếng thơ ấy vì:
"Tiếng thơ như tiếng mẹ ru tháng ngày"
Thơ của Nguyễn Du được ví với
"tiếng thơ", "lời non nước", "lời nghìn thu",
"tiếng thương", rồi "tiếng mẹ ru". Đó là những cấp bậc đánh
giá hay chăng chính là con đường đi vào bất tử của thơ Nguyễn Du? Cái đích cuối
cùng của thơ là "chảy đến lòng người" nên hình ảnh tiếng mẹ ru chính
là cách đánh giá cao nhất dành cho một tiếng thơ. Tiếng thơ ấy đã nhập vào
nguồn mạch văn hoá, vào đời sống tâm hồn, tình cảm của người dân Việt Nam trở
thành dòng sữa ngọt ngào nuôi dưỡng bao thế hệ. Tiếng thơ ấy là tình thương của
mẹ dành cho người con, là hiện thân của tình mẹ mênh mông. "Thương"
là nội dung bản chất, là cội nguồn hay là phương tiện của tiếng thơ? Và hiêu
theo cách nào cũng là sự tri âm tuyệt đối của Tố Hữu và Tố Như rồi. Bở lẽ
Nguyễn Du là "nhà nhân đạo lỗi lạc" (Niculin), là trái tim lớn suốt
đời mang nặng nỗi thương đời:
"Đau đớn thay
phận đàn bà"
Không chỉ thấu hiểu, sẻ chia
với cuộc đời, ngợi ca thơ Nguyễn Du, Tố Hữu còn tìm cách lí giải nỗi đau của
Nguyễn Du. Ông cho rằng nỗi đau ấy không phải do trời mà chính là do xã hội
vạn ác thời Nguyễn Du gây nên:
"Gớm quân Ưng
khuyển, ghê bầy Sở Khanh
Cũng loài hổ báo,
ruồi xanh
Cũng phường gian
ác hôi tanh hại người!"
Chính thằng bán tơ, bè lũ Mã
Giám Sinh, Tú Bà, Ưng Khuyển, Sở Khanh mới là những kẻ gieo mần đau khổ cho
Nguyễn Du, Tiểu Thanh, Thuý Kiều. Cho nên muốn thay đổi số phận phải tiêu diệt
xã hội vạn ác ấy đi. Và tiếng trống ba hồi gọi quân kết thúc bài thơ là sự giải
quyết ấy. Xã hội nay vẫn còn những kẻ ác, nhưng cả dân tộc ra trận để tiêu diệt
kẻ thù để cuộc đời nhiều hạnh phúc và tình yêu hơn. Tố Hữu không sa vào tư
tưởng bi quan như Nguyễn Du bởi ông là nhà thơ của cách mạng, được luồng gió
mới của thời đai thổi mát. Nguyễn Du ơi, xin người hãy yêu lòng. Những cô Kiều,
cô Cầm, người mẹ ăn xin...của Người sẽ không còn đau khổ nữa đâu.
Chính sự khác nhau về tiếng
nói tri âm ấy đã chuyển hoá thành hình thức nghệ thuật khác nhau. Bài "Độc
Tiểu Thanh ký" của Tố Như viết theo thể thơ Đường luật, cô đúc, hàm xúc
nhưng phảng phất giọng điệu bi phẫn do rất nhiều thanh trắc, dấu nặng tạo cảm
giác trĩu nặng, ngưng đọng. Còn Tố Hưu sử dụng thành công thể lục bát nhẹ
nhàng, đằm thắm, trang trọng; hình thức tập Kiều, lẩy Kiểu để chuyển tải giọng
điệu lạc quan, hào hứng, say mê.
` Như vậy, tiêng nói tri âm
giữa người đọc và người viết là điều văn học dân tộc nào, thời đại nào cũng
hướng tới. Điều đó đặt ra yêu cầu với nghệ sĩ phải sáng tác từ những cảm xúc
chân thành nhất, da diêt nhất. Và người đọc hãy sống hết mình với tác phẩm để
hiểu được thông điệp thẩm mỹ của tác giả, để chia sẻ cảm thông với tác giả. Mỗi
người hãy rung lên khúc đàn Bá Nha như Tử kì để văn chương mãi tươi đẹp, kỳ
diệu.
Tôi muốn đến với Nguyễn Du
như đến với một con người suốt đời khắc khoải, da diết với thân phận con người.
Nguyễn Du đã từng rỏ bao nhiêu nước mắt khóc thương những người đau khổ ấy, lẽ
nào ta lại chẳng một lần khóc cho Nguyễn Du để bi kịch của Người sẽ tan như
bóng hình Trương Chi trong chén nước của Mị Nương xưa.
Nguyễn Thị Hải Hậu
Trường THPT chuyên Hùng Vương - Phú Thọ
Bài đoạt giải nhất
Bài văn đạt giải nhất quốc gia năm học 2001 bảng B
BÀI VĂN ĐẠT GIẢI NHẤT QUỐC GIA NĂM 2001
BẢNG B
Đề : Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành, Những đứa con trong gia
đình của Nguyễn Thi và Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu đều
là những truyện ngắn hay đã khám phá, ca ngợi vẻ đẹp của con người Việt Nam
trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
Anh, chị hãy so sánh và làm
rõ những khám phá, sáng tạo riêng của mỗi tác phẩm trong sự thể hiện của mỗi
chủ đề đó.
Bài làm
Yêu biết mấy
những con người đi tới
Hai cánh tay như hai cánh bay lên
Ngực dám đón những phong ba dữ dội
Chân đạp bùn không sợ các loài sên!
Hai cánh tay như hai cánh bay lên
Ngực dám đón những phong ba dữ dội
Chân đạp bùn không sợ các loài sên!
Hình ảnh những con người Việt
Nam ấy đã đi vào thơ ca như một niềm thơ lớn và trở thành phầm hồn của mỗi
người con đất Việt. Yêu biết mấy hình ảnh những người dân quê tôi: cần cù trong
lao động, anh hùng trong chiến đấu. Văn thơ thời kì kháng chiến chống Mĩ đã
dựng lại cả một thời kì máu lửa, đi sâu tìm tòi, khám phá, ngợi ca vẻ đẹp của
con người. Tôi nhớ mãi một Tnú, cụ Mết trong Rừng xà nu của Nguyễn Trung
Thành; chị Chiến, anh bộ đội tên Việt trong Những đứa con trong gia đình
của Nguyễn Thi ; và cô Nguyệt - người con gái trẻ tuổi, dũng cảm trong Mảnh
trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu. Họ là hiện thân của vẻ đẹp con người
Việt Nam, của sức sống dân tộc. Năm tháng trôi đi và lịch sử đã bước sang trang
mới nhưng những con người ấy vẫn sáng ngời lên, nhắc nhở ta về một quảng đường
đầy gian khổ, đau thương, lại rất đỗi anh hùng mà đất nước mình đã đi qua. Để
rồi mỗi lần đọc lại, tôi không khỏi ngỡ ngàng vì người dân mình đẹp quá, dũng
cảm quá ; và lòng tôi tưởng như được sống lại những ngày còn chiến tranh, bom
đạn ấy.
Đọc Rừng xà nu của
Nguyễn Trung Thành, Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi, Mảnh
trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu, hiện lên một tập thể anh hùng nhiều
thế hệ đang ngày đêm chiến đấu với kẻ thù để giữ từng tất đất, ngôi nhà cho quê
hương đất nước. Viết về đề tài chiến tranh, cả ba nhà văn không đi sâu vào miêu
tả những đau thương, mất mát của mình hay tội ác tày trời của giặc Mĩ mà đi vào
khám phá, ca ngợi vẻ đẹp con người Việt Nam trong chiến tranh. Tôi còn nhớ một
câu nói của nhà văn nổi tiếng : Con người, tất cả ở con người. Có thể huỷ diệt
được cuộc sống của con người nhưng không thể chiến thắng được nó. Nguyễn Trung
Thành, Nguyễn Thi, Nguyễn Minh Châu viết về con người phải chăng cũng có một
lòng tin như thế ? Hình ảnh cụ Mết, anh Tnú, Việt, chị Chiến, Nguyệt và còn
biết bao người nữa hiện ra trong cảnh sống chết từng giây, mưa bom bão đạn mà
vẫn hiên ngang, sáng lên một vẻ đẹp phẩm chất lạ thường. Họ là kết tinh của vẻ
đẹp dân tộc, sức sống dân tộc. Những con người yêu nước thiết tha, chiến đấu
dũng cảm quên mình vì Tổ quốc ấy lại rất đỗi giản dị, sáng trong, gắn bó với
từng làng bản, thôn xóm. Bên cạnh phẩm chất anh hùng Nguyệt trong Mảnh trăng
cuối rừng còn sáng ngời lên một tình yêu chung thuỷ, sắt son đầy màu sắc
lãng mạn. Các tác phẩm thời kì này đều đi vào khắc hoạ phẩm chất đẹp đẽ của con
người Việt Nam với giọng điệu ca ngợi, hào hùng vang vọng không khí của sử thi
hoành tráng. Ba tác phẩm đã dựng nên một tác phẩm anh hùng, nhiều thế hệ giữa
hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt, trong đó mỗi nhân vật đều có một vẻ đẹp riêng,
một tâm hồn riêng, một cái “tôi” riêng hoà chung với cái ta rộng lớn.
Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành là một truyện ngắn
xúc động, hào hùng về cuộc đấu tranh anh dũng của dan làng Xôman nhà văn đã đi
sâu khám phá những con người Tây Nguyên, những con người cả đời gắn bó với cây
xà nu như gắn bó với Đảng với cách mạng. Con người hiện lên trong trang văn của
Nguyễn Trung Thành là hình ảnh của một tập thể anh hùng nhiều thế hệ. Trang sử
hào hùng của Tây Nguyên không chỉ một người viết mà là sự nối tiếp, kế tục từ
đời này sang đời khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác. Họ đã cùng nhau dựng xây
làng bản, dựng xây lịch sử của một đất nước đứng lên. Nguyễn Trung Thành tìm
đến miền đất núi rừng đầy đau thương. Nhà văn dã lắng nghe họ sống để ghi lại
cái nhịp sống hào hùng, ghi lại vẽ đẹp tâm hồn, bản chất anh hùng của những
người giản dị, mộc mạc mà thiêng liêng, cao quý. Nguyễn Trung Thành như đã trở
thành người con của Tây Nguyên, của dân làng Xôman. Khi viết Rừng xà nu tựa
hồ ông ngợi ca, tự hào về làng mình, về quê hương của mình.
Nói đến phong trào đấu tranh
của dân làng Xôman, ta không quên hình ảnh anh Quyết, anh là cán bộ của Đảng,
là người đã nhen nhóm phong trào cách mạng cho cộng đồng dân làng Xôman. Tnú
còn nhớ như in lời của anh; “sau này, nếu Mĩ-Diệm giết anh, Tnú phải làm cán bộ
thay anh” anh đã chính là người đã truyền sức mạnh, niềm tin cho Tnú, cho Mai,
…Anh là một người chiến sĩ dũng cảm, anh hùng.
Nếu như anh Quyết là hiện
thân của lớp trẻ, của Đảng thì hình ảnh cụ Mết lại sáng lên trong truyện ngắn
như một trụ cột của dân làng Xôman. Chẳng những vậy mà sau này, Nguyễn Trung
Thành đã ghi lại hồi kí, đại ý : Ông là cội nguồn, là Tây Nguyên của thời đất
nước đứng lên còn trường tồn đến hôm nay. Ông như lịch sử bao trùm nhưng không
che lấp đi sự nối tiếp mãnh liệt, ngày càng mãnh liệt hơn, sành sỏi và tự giác
hơn. Mỗi lời nói của cụ Mết như lời nói của sông núi, là lời nói của dân tộc.
Ông cụ là cuội nguồn của dân làng Xôman, là người đã lãnh đạo dân làng Xôman
đánh giặc: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”. Cụ hiện thân cho truyền
thống, cho nét đẹp từ ngàn xưa của dân làng. Cụ rất ít khen tốt giỏi mà chỉ nói
“được”, cụ truyền lại sức mạnh, răn dạy con cháu : “Nhớ lấy ghi lấy. Sau này
tau chết rồi, bay còn sống phải nói lại với con cháu”. Hình ảnh của cụ Mết là
hình ảnh của một già làng suốt đời đã gắn bó với Tây Nguyên, chiến đấu bảo vệ
buôn làng. Cụ tự hào về cây xà nu, đố bọn nó giết hết Rừng xà nu đất
này. Đẹp thay hình ảnh của một ông cụ “râu bây giờ đã dài tới ngực đen bóng,
mắt vẫn sáng và xếch ngược” hiển hiện giữa núi rừng Tây Nguyên. Và hình ảnh của
cùng lớp thanh niên trong làng cầm giáo mà cứu Tnú cho thấy cụ là hiện thân của
sức sống dân tộc, tâm hồn dân tộc. Nguyễn Trung Thành ngợi ca cụ Mết như ca
ngợi cội nguồn, ngợi ca Tây Nguyên bởi vẻ đẹp tâm hồn cụ là vẻ đẹp của ngày
xưa, trường tồn và mãnh liệt cho đến hôm nay.
Viết về Rừng xà nu viết
về những con người anh hùng quả cảm, nhà văn đã khắc hoạ hình tượng nhân vật
trung tâm: Tnú. Tnú là một thanh niên trẻ, anh dũng, gan dạ với cuộc đầy bi
kịch, đau thương nhưng anh đã vượt lên trên tất cả để sống, đẻ chiến đấu và vẻ
đẹp của Tnú là vẻ đẹp của một con người chiến thắng, của một chiến sĩ anh hùng.
Phẩm chất anh hùng của Tnú
được bộc lộ từ khi còn là một cậu bé cùng Mai đưa thư, tiếp tế cho cán bộ. Tnú
yêu cách mạng, yêu Đảng. Một lần bị giặc bắt, anh Quyết không khai mặc dù bị
tra tấn dã man. Lòng căm thù giặc đã trở thành dòng máu chảy trong lòng anh từ
lúc làng Xôman còn chưa biết vùng dậy đánh giặc. Tnú lớn lên trong sự yêu
thương của dân làng, trong mối hận của trả thù và ao ước được làm cán bộ. Anh
trở thành anh thanh niên xung phong của dân làng Xôman. Cuộc đời của Tnú là
cuộc đời đầy đắng cay bất hạnh. Một lần quân giặc đã bắt mẹ con Mai (vợ của Tnú
)để buột anh phải ra hàng. Không kìm được lòng khi nhìn thấy Mai cùng đứa con
bị đánh. Anh lao ra nhưng không cứu được hai mẹ con Mai. Rồi Mai chết, đứa con
cũng chết. Tnú chắc cũng sắp chết, Tnú sẽ nghĩ “Ai sẽ làm cán bộ lãnh đạo dân
làng Xôman đánh giặc”? Và chỉ tiếc mình không được sống đến ngày cùng dân làng
nổi dậy. Chao ôi! Đến lúc cái chết cận kề mà anh cũng chẳng nghĩ gì cho riêng
mình. Tnú chỉ đau đáu một nỗi niềm với cách mạng, với Đảng. Và khi mười đầu
ngón tay của anh cháy như mười ngọn đuốc anh cũng không kêu van, anh thấy lửa
cháy trong bụng, thấy máu đã mặn chát nơi đầu lưỡi “răng anh đã cắn nát môi anh
rồi”. Tnú hi sinh tất cả, quên mình vì đồng loại, bàn tay của anh là bàn tay
của người anh hùng, bàn tay ấy kể với ta về số phận một con người đau thương mà
không hề chùn bước. Tnú chẳng gục ngã cũng như cây xà nu kia : “Cạnh một cây xà
nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mới mọc lên”. Anh đem theo hình ảnh của
Mai, của những tháng ngày đã qua, của hồi ức buồn để bước tiếp trên con đường
cách mạng. Tnú là một con người anh hùng, quả cảm, giàu yêu thương rồi bé Heng,
Dít -tất cả đều mang cái hồn của dân làng Xôman. Nguyễn Trung Thành đã ngợi ca
vẻ đẹp của con người Việt Nam trong thời kì chống Mĩ cứu nước với bản chất anh
hùng, quả cảm của cả một cộng đồng vừa anh dũng lại vừa nhân ái trong công cuộc
bảo vệ quê hương. Tôi còn nhớ những câu thơ :
Đứng
vững chãi bốn ngàn năm sừng sững
Lưng đeo
gươm hay mềm mại bút hoa.
Trong và
thực sáng hai bờ suy tưởng
Sống
hiên ngang và nhân ái chan hoà.
Và nếu như Nguyễn Trung Thành
khám phá vẻ đẹp ở những con người ở miền rừng núi Tây Nguyên thì Nguyễn Thi
trong Những đứa con trong gia đình lại phát hiện vẻ đẹp con người ở vùng
nông thôn Nam bộ. Nếu như phẩm chất anh hùng trong Rừng xà nu bộc lộ qua
hình ảnh tập thể của dân làng Xôman thì bản chất anh hùng trong truyện ngắn
Nguyễn Thi lại chỉ bộc lộ trong bối cảnh một gia đình. Nhân vật chính trong
truyện là Việt và Chiến. Cả hai chị em điều phải sống trong cảnh thiếu thốn
tình thương khi ba và má đã bị giặc sát hại. Việt và Chiến tranh nhau đi bộ đội,
nỗi đau sự thiếu hụt tình cảm gia đình đã hun đúc cho cả hai chị em lòng căm
thù giặc sâu sắc. Việt là một anh bộ đội gan dạ, dũng cảm, tuy bị thương nhưng
vẫn cố tìm và quyết đi theo cùng đồng đội. Trên mặt trận chiến đấu, Việt là một
anh lính Cụ Hồ anh hùng quả cảm lập chiến công mà vẫn khiêm tốn không muốn báo
cho chị biết. Chị Chiến cũng là một người gan dạ, dũng cảm, chị mong mỏi, khát
khao được đánh giặc để trả thù cho ba má. Nguyễn Thi đã ca ngợi phẩm chất anh
hùng của “những đứa con trong gia đình” tuy nhỏ tuổi mà nặng lòng với cách mạng
sẵn sàng hi sinh thân mình vì sự nghiệp cứu nước. Bản chất anh hùng của con
người Việt Nam có ở mọi thế hệ, mọi dân tộc tựa như đã trở thành dòng máu chảy
ngầm ở mỗi người con đất Việt. Chiến và Việt là hình ảnh của lớp trẻ hăng hái,
dũng cảm trên bước đường chiến đấu gian khổ, khốc liệt của quê hương. Họ tiêu
biểu cho sức trẻ có thể làm đổi thay sức lịch sử là ghi thêm trang mới.
Nguyễn Thi đã phát hiện vẻ
đẹp anh dũng của con người Việt Nam nhưng chưa đủ, nhà văn còn tìm thấy ẩn sâu
bên trong những con người gan góc, quả cảm ấy là một tình yêu thương lớn lao,
tình yêu thương gia đình. Việt tuy đã là anh bộ đội song vẫn ngây thơ, trẻ con
như cậu bé thuở nào. Đoạn hai chi em Việt khiêng bàn thờ ba má sang nhà chú Năm
gửi để đi bộ đội thật cảm động, nó để lại trong lòng ta biết bao rung động,
tình cảm ngọt ngào: “Nào, đưa ba má sang ở tạm bên nhà chú, chúng con đi đánh
giặc trả thù cho ba má”. Câu văn như nghẹn ngào mà lại chứa chan biết bao nhiêu
sự quyết tâm của hai chị em Chiến và Việt. Việt cảm nhận được gánh nặng đang đè
lên vai mình. Lần đầu tiên Việt cảm nhận rõ lòng mình như thế. Và Việt thấy
thương chị. Con người Việt Nam trong chiến tranh đâu chỉ biết chiến đấu mà còn
biết yêu thương. Họ đã vượt lên trên nỗi đau của cá nhân để chiến đấu vì nỗi
đau đồng loại. Hình ảnh của Chiến và Việt hiện lên trong trang viết Nguyễn Thi
thật xúc động, neo lại trong tâm hồn ta vừa ngạc nhiên vừa như ngỡ ngàng vì vẻ
đẹp của con người Việt Nam một thuở.
Không đi sâu vào đề tài chiến
tranh, không miêu tả nhiều về cuộc chiến đấu anh dũng của dân tộc, truyện ngắn Mảnh
trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu đã tìm những hạt ngọc còn ẩn sâu trong
cuộc sống. Nhà văn đã viết về đề tài tình yêu trên nền của chiến tranh bom đạn.
Đọc Mảnh trăng cuối rừng, ta bồi hồi tự hỏi :
Và nơi
đâu? Trên trái đất này
Người
vẫn ngọt ngào qua muôn nỗi đắng cay
Sống
chết từng ngày, mưa bom bão đạn
Lòng
nóng bỏng căm thù vẫn mát tươi tình bạn
Có nơi nào đẹp như nơi này
chăng ? Và có người dân nơi đâu vừa anh hùng trong chiến đấu, vừa nóng bỏng căm
thù lại vẫn mát tươi một tình bạn, một tình yêu, tình đồng đội và tất cả gom
lại thành tình yêu quê hương đất nước? Hiện lên trong Mảnh trăng cuối rừng của
Nguyễn Minh Châu là hình ảnh của Nguyệt. Vẻ đẹp ngoại hình và phẩm chất của
Nguyệt được khắc hoạ miêu tả thông qua cái nhìn của Lãm. Nguyệt sống giữa bom
đạn mà niềm tin vào cuộc sống – “cái sợi chỉ xanh óng ánh ấy, bao nhiêu bom đạn
giội xuống cũng không hề đứt, không thể nào tàn phá nổi ư ?”. Nguyệt có một niềm
tin của cuộc sống.
Hình ảnh Nguyệt hiện lên với
“đôi gót chân hồng hồng, sạch sẽ, đôi dép cao su cũng sạch sẽ”. Ở đầu tác phẩm
đã gây cho người đọc biết bao yêu mến. Nguyệt có vẻ đẹp dịu dàng, “mát mẻ như
sương núi” toả ra từ nét mặt, dáng người mảnh dẻ. Nguyệt còn là một cô gái dũng
cảm, giúp Lãm vượt qua quãng đường khó. Lời nói cứng cỏi “anh bị thương thì xe
cũng mất, anh cứ nấp đó” cùng hình ảnh “Nguyệt nhìn vết thương, cười. Khuôn mặt
hơi tái nhưng vẫn tươi tỉnh và xinh đẹp” đã làm Lãm “dấy lên một tình yêu
Nguyệt gần như mê muội lẫn cảm phục” và còn in đọng mãi trong lòng độc giả hình
ảnh một cô gái trẻ tuổi, gan góc, thông minh được Nguyễn Minh Châu khắc hoạ với
giọng điệu ngợi ca, trân trọng. Nhà văn đã tìm thấy ở Nguyệt - hiện thân của
sức trẻ - một sức sống, sức chống chọi phi thường. Nguyệt hiện lên trong trang
viết, giữa khung cảnh chiến tranh như một mảnh trăng non đầu tháng, sáng trong,
dịu hiền và luôn ẩn giấu một vẻ đẹp khiến ta phải tìm kiếm.
Thế nhưng, Nguyễn Minh Châu
không chỉ miêu tả phẩm chất anh hùng của Nguyệt mà còn khắc hoạ được vẻ đẹp
lãng mạn của tình yêu, sức sống mãnh liệt và niềm tin bất diệt của cô vào cuộc
sống. Nguyệt yêu Lãm khi chưa hề biết mặt, chưa hề thư từ mà chỉ qua lời của
chị Tính. Cô Nguyệt chờ Lãm, mặc cho đôi khi Lãm đã quên lời hẹn ước nhưng
Nguyệt vẫn tin tưởng vào tình yêu tưởng chừng như mong manh mà dẻo dai ấy. Hơn
một lần Lãm phải ngạc nhiên vì “cái sợi chỉ xanh óng ánh”. Phải thầm thán phục
khi biết Nguyệt phải một lòng chờ mình. Không khí truyện đầy lãng mạn, thơ mộng
và vẽ đẹp của Nguyệt dần dần khám phá, soi tỏ. Trong chiến tranh, người ta
không chỉ biết chiến đấu mà còn sáng lên một tình yêu chung thuỷ, son sắt. Nếu
Nguyệt chỉ thông minh, gan dạ, dũng cảm thì chị cũng biết như bao cô gái thanh
nên xung phong khác. Nguyễn Minh Châu đã phát hiện ra vẻ đẹp tiềm ẩn, tưởng như
mỏng manh giữa chiến tranh bom đạn của người con gái ấy. Nguyệt sáng lên trong
trang viết của ông hoà cùng với ánh trăng, và văn của Nguyễn Minh Châu cũng
sáng lên trong lòng chúng ta bởi sức sống, niềm tin mãnh liệt của con người. Vẻ
đẹp tâm hồn của Nguyệt khiến ta tin yêu con người. Kì vọng vào tương lai.
Nguyễn Minh Châu đã tìm thấy hạt ngọc nơi cuối rừng, hạt ngọc của thời rực lửa
và cất lên khúc ca ngợi ca về con người. Về vẻ đẹp con người Việt Nam hoà chung
với khúc ca bất diệt, đầy tự hào của văn học thời kì chống Mĩ cứu nước.
Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành, Những đứa con
trong gia đình của Nguyễn Thi, Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh
Châu là những tượng đài rộng lẫy về vẻ đẹp của con người Việt Nam trong cuộc
kháng chiến chống Mĩ cứu nước đầy gian khổ, thử thách mà rất đỗi anh hùng của
dân tộc. Các nhà văn viết về tác phẩm anh hùng, sức sống mãnh liệt và những vẻ
đẹp của con người trong thời chiến với giọng điệu ngợi ca, hào hùng nhưng ở mỗi
tác phẩm ta đều bắt gặp một cách khám phá, sáng tạo riêng. Nếu như Rừng xà
nu, Nguyễn Trung Thành đã dựng nên tập thể anh hùng với hình ảnh cây xà nu
ham ánh sáng, có sức sống dẻo dai thì Nguyễn Minh Châu lại khắc hoạ hình ảnh
mảnh trăng non cuối rừng để làm sáng lên vẻ đẹp của Nguyệt. Nếu như Rừng xà
nu và Những đứa con trong gia đình đậm không khí sử thi, âm vang
trầm hùng, bút pháp hùng tráng, đồ sộ thì Mảnh trăng cuối rừng lại đến
với lòng ta bằng giọng điệu thiết tha, ngọt ngào, giàu màu sắc lãng mạn. Ba tác
phẩm đi vào những khía cạnh khác nhau của đời sống kháng chiến, nhân vật hiện
lên từ những khung cảnh, hoàn cảnh khác nhau và bút pháp khắc hoạ cũng mang
tính độc đáo, cá biệt nhưng đều góp vào tiếng nói chung của dân tộc, tiếng nói
khám phá, ngợi ca vẻ đẹp của con người Việt Nam trong thời kì chống Mĩ cứu
nước.
Những năm tháng trôi đi và lịch sử không ngừng biến động nhưng Rừng xà
nu, Những đứa con trong gia đình, Mảnh trăng cuối rừng mãi là những bông
hoa không tuổi tựa mùa xuân không ngày tháng đã ghi lại quá khứ hào hùng, sôi
động của đất nước mình một thuở. Vẻ đẹp con người Việt Nam đã làm nên cái hồn
của cả dân tộc và góp phần làm cho tác phẩm còn sống mãi với thời gian. Văn học
thời kì chống Mĩ cứu nước đã bắt được nhịp sống của dân tộc, đã ngợi ca sức
sống và vẻ đẹp của con người Việt Nam. Giờ lật lại, chúng ta không khỏi tự hào,
xúc động về những năm tháng đất nước nước mình đã đi qua, về vẻ đẹp muôn đời
của người con đất Việt. Và ta mãi cất lên những bài ca không quên – bài
ca viết về quê hương, viết về con người bởi tự hào biết mấy hai tiếng :Việt
Nam.
VŨ TRÚC HÀ
Trường THPT chuyên Chu Văn An - Lạng
Sơn.
Đề bài:
Bàn về truyện cổ tích và ca dao,có ý kiến cho
rằng:"Các nhà văn học được văn trong
chuyện cổ tích và học được thơ trong ca dao". (Đỗ Bình Trị, phân
tích tác phẩm văn học dân gian, NXB Giáo
dục, Hà Nội, 1995, trang 111)
Anh chị suy nghĩ như thế nào về ý kiến trên?
Bài làm
Có những tác phẩm ra đời cách đây rất lâu mà không
bao giờ cũ, vẫn để lại trong lòng người đọc những ấn tượng, ám ảnh, day dứt
khôn nguôi. Đó là những câu chuyện cổ tích, những áng ca dao, dân ca. Dù năm
tháng đổi thay, những đền đài rồi sụp đổ, những tranh tượng tiêu tan thì các tác phẩm văn học dân
gian ấy vẫn cứ tồn tại, bền bỉ, như dòng sông
chảy mãi tưới mát tâm hồn bao thế hệ người đọc hôm qua và hôm nay và mai
sau. Song không chỉ bồi đắp tâm hồn muôn triệu con người, những câu chuyện cổ,
những áng ca dao còn là nguồn cảm hứng khơi nguồn cho các tác phẩm thơ ca, văn
chương của văn học viết, giúp các nhà thơ, nhà văn học được nhiều điều. Bởi
thế, khi bàn về chuyện cổ tích và ca dao,có ý kiến cho rằng: "Các nhà văn
học được văn trong chuyện cổ tích và học được thơ trong ca dao".
Tôi còn nhớ người nghệ sỹ mù, nhà thông thái của
Hy Lạp cổ đại Hômerơ từng lang thang
khắp các thành phố, khắp các nẻo đường nhặt nhạnh, lắng nghe những câu chuyện
dân gian, để từ chất liệu vô giá ấy viết lên hai thiên trường ca bất hủ: Iliat
và Ôđixê. Tác giả của sử thiRamayana và Mahabharata ccũng kiếm tìm bền bỉ trong
kho thần thoại dân gian ấn Độ để sáng tác nên hai thiên sử làm rạng danh cho
nền văn học ở đất nước giàu truyền thống văn hoá này. Học tập tinh hoa văn hoá
của văn học dân gian để làm đẹp, làm giàu cho các sáng tác văn học viết là một
quá trình bền bỉ của nhiều nhà nghệ sỹ ở nhiều nền văn học trên thế giới. ý
kiến của nhà nghiên cứu Đỗ Bình trị khi bàn về chuyện cổ tích và ca dao đã
khẳng định sự học tập, tiếp thu tinh hoa văn học dân gian của các nhà văn nhà
thơ. Truyện cổ tích và ca dao, những sáng tác truyền miệng vô danh cứ âm thầm
bền bỉ sống từ đời này qua đời khác. Nó được kể lại, được ngâm nga, hát lên
trong những lời mẹ ru con bên nôi, những tâm tình của gái trai bên cối gạo,
những người chống đò hát với đêm trăng(ý của Chế Lan Viên). Một dân tộc có thể
đếm được số nhà văn, nhà thơ, nhưng sao có thể tính được những người vô danh
sáng tác nên cả nền văn học bằng trí nhớ? Truyện cổ tích và ca dao mãi bất diệt
trong đời sống tâm hồn, tâm hồn tình cảm con người, khơi nguồi cảm hứng cho bao
nghệ sĩ. "Học" ở đây được hiểu là sự tiếp nối, kế thừa một cách sáng
tạo những vẻ đẹp của truyện cổ tích và ca dao. Các tác giả không sao chép thụ
đông vẹn nguyên những sáng tác dân gian truyền miệng mà học tập trên cơ sở sáng
tạo, học trên cơ sở phát huy. Có như vậy những tác phẩm văn học viết mới tồn
tại theo thời gian,trụ vững cùng năm tháng. Nếu không chúng ta sẽ chẳng khác
nào một bản sao vụng về về văn học dân gian. "Học được văn trong chuyện cổ
tích, học được thơ trong ca dao"- sự học đấy không chỉ giản đơn thoáng
chốc trong ngày ột ngày hai, mà là cả một quá trình lâu dài, bền bỉ. Những
truyện cổ tích, những áng ca dao cứ thấm nhầm trong tâm hồn nghệ sĩ để hồn văn
hồn thơ tự nhiên chuyển hoá và văn học viết, chứ không phải sự bắt trước sống
sượng, vô hồn. Các tác giả học được gì ở sáng tác dân gian? Họ tiếp thu những
ngôn ngữ, lối cấu tứ,hình ảnh...Trong ca dao họ học được cách xậy dựng nhân
vật, không khí chuyện huyền ảo, thần bí, cách kết thúc có hậu..trong cổ tích.
Các tác phẩm dân gian cứ thả hồn mình và các sáng tác của các nhà văn hiện đại.
Chính sự học tập này là một trong những yếu tố tạo nên sự hấp dẫn của văn học
viết.
Đọc văn học viết không hiểu sao tôi cứ thấy thấp
thoáng về một Chử Đồng Tử, một sự tích Trầu Cau, những hồn ca dao dân ca thuở
nào vương vấn. Những tác phẩm ấy không chết mà vẫn tái sinh vĩnh cửu trong nền
văn học hôm nay cũng như văn học Hi - La đã góp phần tái sinh làm nên cả một
nền văn học Phục Hưng "xanh màu nhân bản". Vì lẽ gì các nhà văn nhà
thơ lại tiếp nối học tập những truyện cổ tích, những áng ca dao mang hồn quê
muôn thuở? Điều gì làm nên sự nối dài trong lịch sử văn học này?
Trước hết có thể thấy rằng, văn học dân gian là
văn học đầu tiên xuất hiện trong lịch sử văn hoá tinh thần của con người. Nó
đồng hành cùng sự sống của con người ngay từ lúc sơ khai. Khi con người thoát
khỏi những tiếng gào rú vô hồn, những âm thanh vô nghĩa, khi con người biết
đứng trên đôi chân khoẻ mạnh của chính mình biết cảm nhận cái đẹp, cũng là lúc
văn học dân gian ra đời - một nền văn học chỉ lưu truyền trong trí nhớ. Truyện
cổ tích và ca dao xuất hiện muộn hơn các thể loại văn học dân gian khác như
thần thoại, sử thi, truyền thuyết khi xã hội đã có đấu tranh gia cấp. Như thế
chính sự ra đời muộn hơn và đạt được nhiều thành tựu đáng kể mà truyện cổ tích
và ca dao đã đen đến cho các nhà văn, nhà thơ sau này những bài học về nghệ
thuật giúp các tác giả học được nhiều điều. Có học giả đã nhận xét rằng: Các
tác giả trong "Kinh thi" phần nhiều là của nông dân, phụ nữ làm ra mà
nhiều văn sĩ đời sau không theo kịp được. Là tiếng nói bình dân, nhưng cũng như
Kinh thi", truyện cổ tích và ca dao Việt Nam sống với thời gian bằng sức
hấp dẫn nội tại của nó. Vẻ đẹp ấy muôn đời vẫn được khám phá tìm kiếm. Các nghệ
sĩ sau này học tập, tiếp thu những vẻ đẹp cả nội dung nghệ thuật và nội dung có
giá trị vĩnh cửu, ngàn đời của văn học dân gian. Từ câu chuyện cổ dân gian nước
Nga Puskin chẳng sáng tác nên "Ông lão đánh cá và con cá vàng' sao?
"Vợ chồng A Phủ" cũng phảng phất hồn cổ tích muôn đời in dấu vào trang
viết.
Những câu ca dao chẳng đã đổ bóng lung linh trong
thơ Nguyễn Du, Nguyễn Bính sao? Nếu văn học dân gian chỉ đơn giản là những câu
hò vè vô nghĩa, những lời nói bắt thành vần, sao
chúng có thể làm nên những bài thơ nghệ thuật cho văn nghệ sĩ sau này học
tập, tiếp thu? Chính nhữngthành tựu trong văn của truyện cổ tích và thơ của ca
dao đã giúp các tác giả sau này học được nhiều điều.
Có thể thấy lịch sử văn học phát triển trong sự
nối dài của nhiều nền văn học. Văn học dân gian và văn học viết vừa song hành,
vừa tiếp nối nhau. Nền văn học ra đời sau tất yếu phải tiếp thu những tinh hoa
của nền văn học trước. Các nhà văn, nhà thơ sau này tất nhiên phải học tập cái
hay cái đẹp của văn trong truyện cổ, của thơ trong ca dao. ấy là quy luật của
sáng tạo nghệ thuật.
Những câu truyện cổ tích, những câu ca dao tái
sinh mình trong các tác phẩm văn học viết sau này. nhưng sự học tập của các nhà
thơ nhà văn không phải là sự sao chép nguyên vẹn, bê nguyên cổ tích, ca dao vào
trong trang viết. Trái lại, bẳn chất của văn học là sáng tạo. Văn chương sẽ
đi về đâu nếu như những nghệ sĩ chỉ lặp
đi lặp lại những điều đã có, nếu nhà văn nhìn đời bằng con mắt cũ mòn? Bởi thế,
tiếp thu mà không quên sáng tạo. các tác giả đem cái hồn văn của cổ tích với mô
típ nhân vật, kết cấu, cách nhận thức, suy nghĩ của người xưa vào văn mình, đem
cái hồn thơ lấp lánh trong ca dao để làm nên chất hồn riêng cho thi phẩm. Quá
trình học được kia vì thế mà không hề thụ động, có tiếp thu nhưng phải trên cơ
sở sáng tạo, phát huy. Những giấc mơ cổ tích ngày nào, những giai điệu ngọt
ngào tình tứ của ca dao tưởng đã lùi xa vào dĩ vẵng, tưởng chỉ tồn tại như sản
phẩm tinh thần của con người một thời. Song nó đã bắt rễ vào trái tim tâm hồn
người Việt. Từ lúc nào, cổ tích ca dao đã ngấm sâu vào muôn nẻo hồn thơ, muôn
nẻo hồn văn của các nghệ sĩ hôm nay. Thế mới thấm thía bài học sáng tạo của
nghệ sĩ muôn đời. ý kiến của nhà nghiên cứu Đỗ Bình Trị xét đến cùng là sự học
tập, tiếp nối, kết thừa, sáng tạo, phát huy những tinh hoa truyện cổ,cao dao để
làm giàu, làm đẹp thêm cho văn học viết.
ý kiến đó là sự nghiên cứu nghiêm túc, bền bỉ của nhà phê bình. Nó được thử
nghiệm, minh chứng bởi quá trình phát triển của văn học, bởi hành trình tiếp
thu những giá trị đẹp đẽ của truyện cổ, ca dao từ văn học trung đại, văn học
hiện đại đến văn học hiện đại hôm nay.
Sự tiếp thu ấy không chỉ diễn ra trong văn học
Việt Nam ma cả Văn học nhân loại. Bởi vậy, ý kiến của nhà nghiên cứu Đỗ Minh
Trị là đúng đắn và có tình thuyết phục cao. Ai đó không ngần ngại khẳngđịnh
rằng: Lịch sử của văn học là lịch sử tâm hồn của mỗi dân tộc. Bởi văn học gắn
liền cùng cuộc sống đồng hàng cùng sự sống con người. Trong đó cổ tích, ca dao
chính là tâm hồn con người lúc ấu thơ. Tâm hồn ấy sẽ dần cứng cáp và phát triển
trong nền văn học viết. Nhưng trang
truyện cổ, những câu ca dao bao thế kỷ rồi vẫn như những con sóng xô bờ tâm hồn để mặt biểt tâm hồn lòng người
không ngừng rung động, xôn xao. Nó âm vọng vào cả nền văn học sau này, để con
người hôm nay, mỗi lần giở Truyện Kiều, đọc thơ Hồ Xuân Hương, thơ Nguyễn Bính,
Tố Hữu, Nguyễn Khoa Điềm...lại thấy thấp
thoáng, lại được gặp lại nơi mỗi trang thơ hồn ca dao đi về muôn thuở. Các tác
giả đã học tập được thơ của những câu hát dân gian. Chất thơ vút lên từ mồ hôi,
nước mắt, từ cuộc sống cần lao lam lũ của đời thường. Vì đâu Truyện Kiều có thể
trở thành tiếng hát của tâm hồn dân tộc? Bởi lẽ tiếng thơ Tố Như đã đi về cùng
ca dao muôn đời. Nhà thơ đã học tập những tinh chất, tinh hoa trong ca dao.
Chính Tố Như đã nói: Thôn ca sơ học tang ma ngữ ( trong nơi thôn, xóm, ta học
được tiếng hát của trồng dâu, trồng gai). Đi vào cuộc sống, trở về với nguyên
thuỷ dân ca, nhà thơ sẽ trưởng thành lên rất nhiều, nhà thơ sẽ học được nhiều
điều."Học được thơ trong ca dao",Nguyễn Du đã học được ngôn ngữ,hình
ảnh, thể lục bát truyền thống,...từ tiếng hát tâm hồn người lao động. Hình ảnh
nàng Kiều chẳng phải là hiện thân điển hình cho những người phụ nữ khốn khổ,
khốn cùng nơi những câu hát than thân: Thân em như hạt mưa sa, Thân em như hạt
mưa rào sao? Khơi nguồn thi cảm từ bề sâu nhân thế, không biết đã bao thi nhân
đau đớn lòng. Nguồn cảm hứng về nỗi khổ con người đã được khai thác nhiều mà
xem ra chưa cạn vơi đi nhiều lắm. Nguyễn Du đã bắt nhịp tâm hồn cùng tiếng khóc
của người phụ nữ dưới đáy cùng bể khổ kia,để cất lên khúc hát rong về nỗi khổ
phận người. Cảm hứng ấy chẳng phải đã được khởi nguồn từ ca dao, dân ca sao?
Song có lẽ, là lối sử dụng hình ảnh, ngôn ngữ, thi liệu. Những vầng trăng,
những lời thề nguyền, hò hẹn, những từ ngữ vừa bình dị, vừa lấp lánh chất
thơ,... đi vào Truyện Kiều từ miền ca dao xưa cũ.Vầng trăng trong cuộc chia li
Kiều-Thúc:
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in chiếc gối,nửa soi dặm trường!
được học tập từ vầng trăng của ca dao một thuở:
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Đường trần ai vẽ ngược xuôi hỡi chàng?
Vẫn là vầng trăng ấy, mà sao từ ca dao hoá thân
vào "Đoạn trường tân thanh" lại mang một nét hồn riêng biệt. Vầng
trăng trong con mắt người biệt li nhuốm đầy tâm trạng. Vì người phải chia phôi
nên trăng cũng thành xẻ nửa. Lấy cái nhìn chủ thể mà nhìn hiện thực khách quan,
Nguyễn Du đã để vầng trăng vốn tròn đầy, viên mãn, vỡ ra thành hai mảnh. Câu
thơ dâng đầy một nỗi xót xa cùng bao dự cảm âu lo. Thực chất trăng vẫn viên
mãn, tròn đầy, nhưng đó là viên mãn trong cái nhìn của kẻ không cô đơn. Còn hôm
nay Kiều và Thúc, mỗi người chỉ mang trong mình một nửa vầng trăng thôi, một
nửa vầng trâng hao khuyêt. Thấy phảng phất trong thơ Tố Như cuộc biệt li của cô
gái - chàng trai của ca dao. Cuộc biệt ly ấy hoá thân vào sự chia phôi giữa
Kiều và Thúc. Vầng trăng tan vơ trong ca dao lại in bóng ở truyện Kiều. Nừu như
không học tập ngôn ngữ, hình ảnh của
người lao động bình dân, sao Nguyễn Du có thể viết nên hai câu thơ bất hủ, hai
câu thơ góp phần không nhỏ làm nên vẻ đẹp toàn bích của Truyện Kiều?
Thể lục bát truyền thống làm nên giai điệu ngọt
ngào của chất thơ trong ca dao được học tập đầy sáng tao trong thơ Nguyễn Du.
Nhà thơ đã tiếp thu vốn văn học dân gian để đưa vào tác phẩm của mình những vần
thơ tuyệt tác. Làm nên vị trí kiệt tác số một của "Đoạn trường tân
thanh" trong văn học Việt Nam có nhiều lý do, song không thể thiếu: Tố Như
đã đi vào nơi cuộc sống của người bình dân, bằng vốn tri thức sách vở và đời
thực, ông đã "học được thơ trong ca dao", một sự học tập đầy sáng
tạo.
Không chỉ Nguyễnn Du, Nguyễn Bính- một nhà thơ mới
- cũng đã đem lại "một thời đại trong thi ca" môt tiếng thơ quen. Bởi
thi sĩ đã trở về nương hồn mình nơi bến nước, gốc đa, những đem hội chèo để
lắng nghe tiếng vọng của ca dao đổ về từ cội nguồn dân tộc. Nến Xuân Diệu từ bỏ
chốn làng quê thuần hậu, đi đến nơi thành thị để làm một người rất mới, rất
Tây, nếu Huy Cận đắm mình trong sương khói Đường thi bẳng lảng thì Nguyễn Bính
trở về đưa hồn thơ chan hoà vào ca dao thuần hậu nguyên thuỷ muôn đời. Có lạ chăng khi trong thơ của một nhà
thơ mới mà cứ thấp thoáng về một "người nhà quê" một hồn thơ về một
bến nước gốc đa, với nỗi thương tương tư của người Việt Nam thuở trước. Hoá ra
tâm hồn của chàng thi sĩ 'quê mùa" Nguyễn Bính đã ăm áp chất thơ của ca dao.
Nhưng từ ngữ, hình ảnh, cách tỏ tình lứa đôi trong thơ, những "mình",
những "ta", những "anh", những "nàng", lối lục
bát mênh mang giai điệu chữ tình sao gần với ca dao làm vậy? Đọc thơ Nguyễn
Bính mà cứ ngỡ rằng thêm lần nữa được thưởng thức nguồc ca dao từ xưa cũ. Xong
ngẫm nghĩ kỹ, vẫn thấy một cái tôi Nguyễn Bính không nhạt nhoà, hoà lẫn trong
thơ ca của những thi sĩ bình dân:
"Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Một người chín nhớ, mười mong một người.
Gió mưa là bệnh của giời,
Nắng mưa là bệnh của tôi yêu nàng.
Không nói "anh nhớ em", "tôi nhớ
nàng" mà kín đáo ngụ nỗi nhớ vào hai miền không gian xa cách: thôn Đoàn - thôn Đông, một
người - một người. Đúng là cách bày tỏ tình cảm kín đáo, vòng vo của ca dao.
Tình cảm là thực sự của mình, nhưng cứ gắn cho một đối tượng nào bóng gió, xa
xôi lắm; những "mận", những "đào", những "mượn mình
làm mối cho ta một người", mà lại là "Một người vừa đẹp vừa tươi như
mình". Hai chữ một mình bị đẩy ra hai đầu câu thơ, khiến khoảng cách vô
cùng cách trở: chín nhớ mười mong. Thành ngữ dân gian đi vào câu thơ một cách
tự nhiên. Có phải Nguyễn Bính đã lấy từ "Yêu nhau tam tứ núi cũng
trèo"của ca dao?Chàng thi sĩ"quê mùa"ấy đã phả vào thơ mình một
chất thơ lấy từ ca dao. Đó là một trong những nét làm nên sức hấp dẫn riêng của
thơ Nguyễn Bính.
Một Tố Hữu đem vào thơ mình nguồn ca dao một thuở
với những "mình', "ta" (Việt Bắc). Mượn cách nói của tỏ tình đôi
lứa để biểu đạt những tình cảm chính trị lớn lao. Thơ Tố Hữu gần với ca dao
biết mấy! Nguyễn Khao Điềm trong "Mặt đường khát vọng" cũng tìm về ca
dao để cắt nghĩa, lý giải sự sinh thành, phát triển của đất nước ở bề sâu của
văn hoá. Và cả những Nguyễn Duy, Nguyễn Cống Trứ, Đồng Đức Bốn...sau này. Các
nhà thơ đã học tập chất thơ- những từ ngữ,hình ảnh, cảm hứng, cấu tứ, giọng
điệu ở ca dao.
Không chỉ học tập chất thơ trong ca dao, văn học
viết còn tiếp thu chất văn trong cổ tích. Những câu chuyện vô danh chở đầy ước
mơ hồn nhiên của con người thuở trước giờ lại đổ bóng hình vào văn học hiện đại
hôm nay. Victo Huygô xây dựng nên hình
tượng Quadimôđô từ thế giới nhân vật dị dạng, méo mó trong cổ tích. Những chất
liệu từ cổ tích đã cung cấp cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo. Họ học ở cổ
tích cách xây dựng nhân vật theo môtíp thiện - ác, phả vào trang văn của mình
chất huyền ảo, thiêng liêng. Và niềm tin, sự lạc quan vào tư tưởng các nhà văn
hiện thực cách mạng. Có ai đó cho rằng "Vợ chồng A Phủ" của Tô Hoài
lá thiên truyện thấm đầy chất cổ tích và hiện thực. Cổ tích chuyển hoá vào hiện
thực. Môtíp nhân vật ấy chắc hẳn Tô Hoài đã học được từ chất văn trong trang
chuyện cổ ngày xưa. Mị tiêu biểu cho người con gái nghèo, bất hạnh, cô phải
chịu những đau khổ trong cuộc đời nhưng lại mang trong mình những khoảng sáng
của những phẩm chất tốt đẹp.
A Phủ là hiện thân của nhân vật các chàng trai mồ
côi hoàn toàn không có gì cả, song lại có một sức sống bề bỉ, dẻo dai. Họ không
có gì cả mà lại mang trong mình những phẩm chất vô giá. Có phải ta đạng gặp lại
hình ảnh Chử Đồng Tử trong A Phủ, gặp lại cô Tấm dịu hiền trong hình ảnh Mị? Lối kết thúc có
hậucũng được sử dụng trong truyện ngắn. A Châu người chiến sĩ cách mạng là hình
ảnh của ông tiên, vị phật đem lại hạnh phúc cho những chàng trai, cô gái bất
hạnh. Có thể thấy "Vợ chồng A Phủ", Tô Hoài đã đọc được chất văn từ
cổ tích xa xưa. Lời kể chuyện trầm trầm, khách quan nhưng vẫn thấy ấm áp tấm
lòng người cầm bút.
Như thế có thể thấy rằng các nhà văn nhà thơ đã
học được văn trong truyện cổ tích và học được thơ trong ca dao. Đó là sự học
tập đầy sáng tạo, học tập trên những gì có sẵn. Chính nguồn thơ, nguồn văn ở văn học dân gian
đã nuôi dưỡng cho những sáng tác ở văn
học viết. Nó tái sinh trong văn học hôm nay. ý kiến của nhà phê bình Đỗ Bình
Trị không trực tiếp nói nên sức sống của văn học dân gian. Song qua học tập và
tiếp thu của các tác giả mà ta hiểu được sức sống đó nhừng nào. Ngược lại có
những tác phẩm học tập từ ca dao rồi tác động, ảnh hưởng tới chính ca dao
(Truyện Kiều). Nhiều câu ca dao được sáng tác từ chính từ mối tình Kim- Kiều
trắc trở:
Anh xa em như liễu xa hồ
Như Thuý Kiều xa Kim Trọng biết mấy niên cho tái
hồi.
ý kiến này cũng đặt ra cho người cầm bút muôn đời:
Anh hãy học tập, tiếp thu sáng tạo những tinh hoa của truyện cổ, của ca dao để
làm đẹp thêm cho sáng tác của mình. Bởi ca dao, truyện cổ là dòng sông muôn đời
bồi đắp cho người sáng tạo.
Ôi những dòng sông bắt nước
từ đâu
Mà khi về Đất nước mình thì
bắt lên câu hát.
Ca dao, truyện cổ cũng như những dòng sông ấy,
tháng năm vẫn âm vang nhịp sóng trong tâm hồn nghệ sĩ muôn đời. Các nhà văn,
nhà thơ muôn đời vẫn học được nhiều từ ca
dao truyện cổ.
Nguyễn Thị Minh Thương
Trường THPT chuyên Hùng Vương- Phú Thọ
(Bài đạt giải nhất kỳ thi
học sinh giỏi Quốc gia năm2003, bảng A)
Trong kỳ tuyển sinh đại học
năm 2009, Nguyễn Trung Ngân dự thi ĐH Cần Thơ là thí sinh duy nhất trong cả
nước đạt 9,75 (làm tròn thành 10 điểm).
Câu 1 (2 điểm): Anh/ chị hãy
nêu những nét chính trong quan điểm nghệ thuật của Nam Cao trước Cách mạng
tháng Tám.
Nam Cao là một nhà văn lớn của nền văn
học hiện thực phê phán nói riêng và là một nhà văn lớn của văn học Việt Nam nói
chung. Sở dĩ Nam Cao có một vị trí xứng đáng như vậy bởi cả cuộc đời cầm bút
của mình, ông luôn trăn trở để nâng cao "Đôi Mắt" của mình. Tất cả
những gì Nam Cao để lại cho cuộc đời chính là tấm gương của một người "trí
thức trung thực vô ngần" luôn tự đấu tranh để vươn tới những cảnh sống và
tâm hồn thật đẹp. Với những nét tiêu biểu như vậy, Nam Cao đã thể hiện qua một
hệ thống các quan điểm sáng tác của mình trước cách mạng tháng Tám.
Quan điểm nghệ thuật của Nam Cao trước
cách mạng tháng Tám được thể hiện qua "Trăng Sáng" và "Đời
Thừa". Trong "Trăng Sáng", nhà văn quan niệm văn chương nghệ
thuật phải "vị nhân sinh", nhà văn phải viết cho hay, cho chân thực
những gì có thật giữa cuộc đời, giữa xã hội mà mình đang sống. Ông viết
"Chao ôi! Nghệ thuật không là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng
lừa dối! Nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp
người lầm than". Đó chính là quan điểm nghệ thuật của Nam Cao. Trước cách
mạng, Nam Cao mang tâm sự u uất, đó không chỉ là tâm trạng của một người nghệ
sĩ "tài cao, phận thấp, chí khí uất" (Tản Đà) mà đó còn là tâm sự của
người người trí thức giàu tâm huyết nhưng lại bị xã hội đen tối bóp nghẹt sự
sống. Nhưng Nam Cao không vì bất mãn cá nhân mà ông trở nên khinh bạc. Trái lại
ông còn có một trái tim chan chứa yêu thương đối với người dân nghèo lam lũ.
Chính vì lẽ đó mà văn chương của ông luôn cất lên "những tiếng đau khổ kia
thoát ra từ những kiếp lầm than".
Trong "Đời thừa", một tác
phẩm tiêu biểu của văn Nam Cao trước cách mạng, Nam Cao cũng có những quan điểm
nghệ thuật. Khi mà ta đã chọn văn chương nghệ thuật làm nghiệp của mình thì ta
phải dồn hết tâm huyết cho nó, có như thế mới làm nghệ thuật tốt được.
"Đói rét không có nghĩa lý gì đối với gã tuổi trẻ say mê lý tưởng. Lòng
hắn đẹp. Đầu hắn mang một hoài bão lớn. Hắn khinh những lo lắng tủn mủn về vật
chất. Hắn chỉ lo vun trồng cho cái tài của hắn ngày một thêm nảy nở. Hắn đọc,
suy ngẫm, tìm tòi, nhận xét, suy tưởng không biết chán. Đối với hắn lúc ấy,
nghề thuật là tất cả, ngoài nghệ thuật không có gì đáng quan tâm nữa...".
Nam Cao còn quan niệm người cầm bút phải có lương tâm và trách nhiệm đối với
bạn đọc, phải viết thận trọng và sâu sắc: "sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì
cũng là sự bất lương rồi, còn sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê
tiện". Với Nam Cao, bản chất của văn chương là đồng nghĩa với sự sáng tạo
"văn chương không cần đến những người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu
mẫu đưa cho, văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi khơi
những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có". Quan điểm của Nam
Cao là, một tác phẩm văn chương đích thực phải góp phần nhân đạo hóa tâm hồn
bạn đọc: Nó phải chứa đựng một cái gì đó vừa lớn lao vừa cao cả, vừa đau đớn
vừa phấn khởi: "Nó ca ngợi tình thương, lòng bác ái, sự công bình, nó làm
người gần người hơn".
Văn nghiệp của Nam Cao (1915-1951) chủ
yếu được thể hiện trước cách mạng tháng Tám. Quan điểm sáng tác thể hiện trong
hai truyện "Trăng Sáng" và "Đời Thừa" giúp ta hiểu sâu hơn
về Nam Cao. Qua đó, ta thấy được những đóng góp về nghệ thuật cũng như tư tưởng
của Nam Cao cho văn học Việt Nam. Từ đấy giúp ta hiểu vì sao Nam Cao - một nhà
văn chưa tròn bốn mươi tuổi lại để lại cho cuộc đời một sự nghiệp văn chương vĩ
đại đến như vậy.
Câu 2 (5 điểm): Phân tích tâm
trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ (Vợ chồng A Phủ - Tô
Hoài).
Mị là nhân vật
trung tâm trong truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" mà nhà văn Tô Hoài đã
giành nhiều tài năng và tâm huyết để xây dựng. Truyện được trích từ tập
"truyện Tây Bắc" (1953) của Tô Hoài. Trong chuyến đi cùng bộ đội vào
giải phóng miền Tây Bắc (1952), Tô Hoài đã có dịp sống, cùng ăn, cùng ở với
đồng bào các dân tộc miền núi, chính điều đó đã giúp Tô Hoài tìm được cảm hứng
để viết truyện này. Tô Hoài thành công trong "Vợ chồng A Phủ" không
chỉ do vốn sống, tình cảm sống của mình mà còn là do tài năng nghệ thuật cùa
một cây bút tài hoa. Trong "Vợ chồng A Phủ", Tô Hoài đã sử dụng nhiều
biện pháp nghệ thuật, trong đó nổi bật và đáng chú ý nhất là biện pháp phân
tích tâm lý và hành động của Mị trong từng chặng đường đời. Điểm nghệ thuật ấy
thật sự phát sáng và thăng hoa trong đoạn văn miêu tả tâm lý và hành động của
nhân vật Mị trong đêm mùa đông cứu A Phủ. Qua đó ta thấy được giá trị hiện thực
và nhân đạo của tác phẩm.
Trong tác phẩm
này, điều gây cho bạn đọc ấn tượng nhất đó chính là hình ảnh của cô gái
"dù làm bất cứ việc gì, cô ta cũng cúi mặt, mắt buồn rười rượi". Đó
là tâm lý của một con người cam chịu, buông xuôi trước số phận, hoàn cảnh sống
đen tối đầy bi kịch. Sở dĩ Mị có nét tính cách ấy là do cuộc sống hôn nhân
cưỡng bức giữa Mị và A Sử. Mị không được lấy người mình yêu mà phải ăn đời ở
kiếp với một người mà mình sợ hãi, lạnh lùng. Một nguyên nhân nữa chính là do
uy quyền, thần quyền, đồng tiền của nhà thống lý Pá Tra đã biến Mị thành một
đứa con dâu gạt nợ. Mang tiếng là con dâu của một người giàu có nhất vùng,
nhưng thật sự Mị chỉ là một kẻ nô lệ không hơn không kém. Điều đó làm Mị đau
khổ, Mị khóc ròng rã mấy tháng trời và từng có ý định ăn nắm lá ngón kết thúc
cuộc đời mình. Thế nhưng "sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi".
Chính vì thế Mị đã buông xuôi trước số phận đen tối của mình, trái tim của Mị
dần chai sạn và mất đi nhịp đập tự nhiên của nó.
Song song với nét
tính cách đó lại là tâm trạng của một người yêu đời, yêu cuộc sống, mong muốn
thoát khỏi hoàn cảnh sống đen tối, đầy bi kịch. Điều đó đã được thể hiện trong
đêm mùa xuân.
Trong đêm mùa
xuân ấy, tâm trạng của Mị phát triển theo những cung bậc tình cảm khác nhau,
cung bậc sau cao hơn cung bậc trước. Ban đầu, Mị nghe tiếng sáo Mèo quen thuộc,
Mị nhẩm thầm bài hát người đang thổi, rồi Mị uống rượu và nhớ lại kỷ niệm đẹp
thời xa xưa... Mị ý thức được về bản thân và về cuộc đời rồi Mị muốn đi chơi.
Nhưng sợi dây thô bạo của A Sử đã trói đứng Mị vào cột. Thế nhưng sợi dây ấy
chỉ có thể "trói" được thân xác Mị chứ không thể "trói"
được tâm hồn của một cô gái đang hòa nhập với mùa xuân, với cuộc đời. Đêm ấy
thật là một đêm có ý nghĩa với Mị. Đó là đêm cô thực sự sống cho riêng mình sau
hàng ngàn đêm cô sống vật vờ như một cái xác không hồn. Đó là một đêm cô vượt
lên uy quyền và bạo lực đế sống theo tiếng gọi trái tim mình.
Sau đêm mùa xuân
ấy, Mị lại tiếp tục sống kiếp đời trâu ngựa. Thế nhưng viết về vấn đề này, Tô
Hoài khẳng định: cái khổ cái nhục mà Mị gánh chịu như lớp tro tàn phủ khuất che
lấp sức sống tiềm tàng trong lòng Mị. Và chỉ cần có một luồng gió mạnh đủ sức
thổi đi lớp tro buồn nguội lạnh ấy thì đốm lửa ấy sẽ bùng cháy và giúp Mị vượt
qua cuộc sống đen tối của mình. Giá trị nhân đạo của tác phẩm ngời lên ở chỗ
đó.
Và cuối cùng,
luồng gió ấy cũng đến. Đó chính là những đêm mùa đông dài và buồn trên núi rừng
Tây Bắc đang về. Mùa đông rét buốt như cắt da cắt thịt, vì thế đêm nào Mị cũng
ra bên ngoài bếp lửa để thổi lửa hơ tay. Trong những đêm đó Mị gặp A Phủ đang
bị trói đứng chờ chết giữa trời giá rét. Thế nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa
hơ tay "Dù A Phủ là cái xác chết đứng đó cũng thế thôi". Tại sao Mị
lại lãnh cảm, thờ ơ trước sự việc ấy? Phải chăng việc trói người đến chết là
một việc làm bình thường ở nhà thống lý Pá Tra và ai cũng quen với điều đó nên
chẳng ai quan tâm đến. Hay bởi Mị "sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ
rồi" nên Mị lãnh đạm, thờ ơ trước nỗi đau khổ của người khác. Một đêm nữa
lại đến, lúc đó mọi người trong nhà đã ngủ yên cả rồi, Mị lại thức dậy đến bếp
đốt lửa lên để hơ tay. Lửa cháy sáng, "Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt
A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen
lại". Đó là dòng nước mắt của một kẻ nô lệ khi phải đối mặt với cái chết
đến rất gần. Chính "dòng nước mắt lấp lánh ấy" đã làm tan chảy lớp
băng giá lạnh trong lòng Mị. Lòng Mị chợt bồi hồi trước một người, trùng cảnh
ngộ. Đêm mùa xuân trước Mị cũng bị A Sử trói đứng thế kia, có nhiều lần khóc
nước mắt rơi xuống miệng, xuống cổ không lau đi được. Mị chợt nhận ra người ấy
giống mình về cảnh ngộ, mà những người cùng cảnh ngộ rất dễ cảm thông cho nhau.
Mị nhớ lại những chuyện thật khủng khiếp lúc trước kia, “chúng nó bắt trói đến
chết người đàn bà ngày trước cũng ở trong cái nhà này”. Lý trí giúp Mị nhận ra
“Chúng nó thật độc ác”. Việc trói người đến chết còn ác hơn cả thú dữ trong
rừng. Chỉ vì bị hổ ăn mất một con bò mà một người thanh niên khỏe mạnh, siêng
năng, say sưa với cuộc đời đã phải lấy mạng mình thay cho nó. Bọn thống trị coi
sinh mạng của A Phủ không bằng một con vật. Và dẫu ai phạm tội như A Phủ cũng
bị xử phạt như thế mà thôi. Nhớ đến những chuyện ngày trước, trở về với hiện
tại, Mị đau khổ cay đắng cho thân phận của mình: “Ta là thân đàn bà chúng nó đẵ
bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết chờ ngày rũ xương ở đây thôi”.
Nghĩ về mình, Mị lại nghĩ đến A Phủ “có chừng này, chỉ đêm nay thôi là người
kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Người kia việc gì mà phải
chết như thế. A Phủ…. Mị phảng phất nghĩ như vậy”. Thật sự, chẳng có lí do gì
mà bọn thống lí Pá Tra bắt A Phủ phải chết vì cái tội để mất một con bò! Trong
đầu Mị bỗng nhiên nghĩ đến cảnh A Phủ bỏ trốn và chính Mị sẽ là người chết thay
cho A Phủ trên cái cột tưởng tượng đó. Thế nhưng, Mị vẫn không thấy sợ, sự suy
tưởng của Mị là có cơ sở của nó. Cha con Pá Tra đã biến Mị từ một con người yêu
đời, yêu cuộc sống, tài hoa chăm chỉ, hiếu thảo, tha thiết với tình yêu thành
một con dâu gạt nợ, một kẻ nô lệ đúng nghĩa, chúng đã tàn ác khi trói một người
đàn bà ngày trước đến chết thì chẳng lẽ chúng lại không đối xử với Mị như thế
ư? Như vậy, chứng kiến “dòng nước mắt lấp lánh” của A Phủ, tâm trạng của Mị
diễn biến phức tạp. Mị thông cảm với người cùng cảnh ngộ, Mị nhớ đến chuyện
người đàn bà ngày trước, lí trí giúp Mị nhận ra bọn lãnh chúa phong kiến thật
độc ác, Mị xót xa trước số phận của mình rồi Mị lại nghĩ đến A Phủ; sau đó Mị
lại tưởng tượng đến cái cảnh mình bị trói đứng… Một loạt nét tâm lí ấy thúc đẩy
Mị đến với hành động: dùng dao cắt lúa rút dây mây cởi trói cho A Phủ. Đó là
một việc làm táo bạo và hết sức nguy hiểm nhưng nó phù hợp với nét tâm lí của
Mị trong đêm mùa đông này.
Sau khi cắt dây
cởi trói cho A Phủ, Mị cũng không ngờ mình dám làm một chuyện động trời đến
vậy. Mị thì thào lên một tiếng “đi ngay” rồi Mị nghẹn lại. A Phủ vùng chạy đi,
còn Mị vẫn đứng lặng trong bóng tối. Ta có thể hình dung được nét tâm lí ngổn
ngang trăm mối của Mị lúc này. Lòng Mị rối bời với trăm câu hỏi: Vụt chạy theo
A Phủ hay ở đây chờ chết?. Thế là cuối cùng sức sống tiềm tàng đã thôi thúc Mị
phải sống và Mị vụt chạy theo A Phủ. Trời tối lắm nhưng Mị vẫn băng đi. Bước
chân của Mị như đạp đổ uy quyền, thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến đương
thời đã đè nặng tâm hồn Mị suốt bao nhiêu năm qua. Mị đuổi kịp A Phủ và nói lời
đầu tiên. Mị nói với A Phủ sau bao nhiêu năm câm nín: “A Phủ. Cho tôi đi! Ở đây
thì chết mất”. Đó là lời nói khao khát sống và khát khao tự do của nhân vật Mị.
Câu nói ấy chứa đựng biết bao tình cảm và làm quặn đau trái tim bạn đọc. Đó
chính là nguyên nhân - hệ quả của việc Mị cắt đứt sợi dây vô hình ràng buộc
cuộc đời của mình. Thế là Mị và A Phủ dìu nhau chạy xuống dốc núi. Hai người đã
rời bỏ Hồng Ngài - một nơi mà những kỉ niệm đẹp đối với họ quá ít, còn nỗi buồn
đau, tủi nhục thì chồng chất không sao kể xiết. Hai người rời bỏ Hồng Ngài và
đến Phiềng Sa, nhưng những ngày phía trước ra sao họ cũng chưa biết đến…
Rõ ràng, trong
đêm mùa đông này, sức sống tiềm tàng đóng một vai trò hết sức quan trọng. Chính
nó đã giúp Mị vượt lên trên số phận đen tối của mình. Mị cứu A Phủ cũng đồng
nghĩa với việc Mị tự cứu lấy bản thân mình. Qua đoạn trích trên, Tô Hoài đã ca
ngợi những phẩm chất đẹp đẽ của người phụ nữ miền núi nói riêng và những người
phụ nự Việt Nam nói chung. Tô Hoài đã rất cảm thông và xót thương cho số phận
hẩm hiu, không lối thoát của Mị. Thế nhưng bằng một trái tim nhạy cảm và chan
chứa yêu thương, Tô Hoài đã phát hiện và ngợi ca đốm lửa còn sót lại trong trái
tim Mị. Tư tưởng nhân đạo của nhà văn sáng lên ở đó. Đồng thời qua tác phẩm, Tô
Hoài cũng đã khẳng định được chân lí muôn đời: ở đâu có áp bức bất công thì ở
đó có sự đấu tranh để chống lại nó dù đó là sự vùng lên một cách tự phát như
Mị. Quả thật, tác phẩm này giúp ta hiểu được nhiều điều trong cuộc sống.
Với truyện ngắn
“Vợ chồng A Phủ” nói riêng và tập “Truyện Tây Bắc” nói chung, ta hiểu vì sao Tô
Hoài lại thành công trong thể loại truyện ngắn đến như vậy. Nét phong cách nghệ
thuật: màu sắc dân tộc đậm đà chất thơ chất trữ tình thấm đượm, ngôn ngữ lời
văn giàu tính tạo hình đã hội tụ và phát sáng trong truyện ngắn này. Tác phẩm
“Truyện Tây Bắc” xứng đáng với giải nhất truyện ngắn - giải thưởng do Hội nghệ
sĩ Việt Nam trao tặng năm 1954 - 1955. Và “Vợ chồng A Phủ” thực sự để lại ấn
tượng tốt đẹp trong lòng bạn đọc bởi những giá trị nghệ thuật, giá trị hiện
thực và giá trị nhân đạo của nó. Truyện ngắn này quả là một truyện ngắn tiêu
biểu cho phong cách Tô Hoài.
Đối với riêng em,
truyện “Vợ chồng A Phủ” giúp em cảm thông sâu sắc trước nỗi khổ của người phụ
nữ trong xã hội phong kiến miền núi, từ đó giúp em ngày càng trân trọng khát
vọng của họ hơn. Đây quả là một tác phẩm văn chương đích thực bởi nó đã góp
phần nhân đạo hóa tâm hồn bạn đọc như Nam Cao đã quan niệm trong truyện ngắn
“Đời thừa”.
Phần riêng (3
điểm): Cảm nhận về đoạn thơ sau trong bài “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử:
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở
trăng về kịp tối nay?
Cảm nhận thơ trữ
tình xét cho cùng là cảm nhận "cái tình" trong thơ và tâm trạng của
nhân vật trữ tình trước thiên nhiên, vũ trụ, đất trời. Đến với thơ ca lãng mạn
Việt Nam, giai đoạn 1932 -1945 "ta thoát lên trên cùng Thế Lữ, ta phiêu
lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng cùng Hàn Mặc Tử, Chế Lan
Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu" (Hoài Thanh - Thi nhân Việt Nam). Đúng
thế, bạn đọc đương thời và hôm nay yêu thơ của Hàn Mặc Từ bởi chất "điên
cuồng" của nó. Chính "chất điên" ấy đã làm nên phong cách nghệ
thuật độc đáo, riêng biệt, mới mẻ của Hàn Mặc Tử. "Chất điên" trong
thơ ông chính là sự thay đổi của tâm trạng khó lường trước được. Nét phong cách
đặc sắc ấy đã hội tụ và phát sáng trong cả bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ"
của nhà thơ rất tài hoa và cũng rất đỗi bất hạnh này. "Đây thôn Vĩ
Dạ" trích từ tập Thơ Điên của Hàn Mặc Tử. Chất điên cuồng ấy thể hiên cụ
thể và rõ nét trong khổ thơ:
"Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?"
Với lời trách cứ
nhẹ nhàng dịu ngọt vừa như một lời mời, Hàn Mặc Tử trở về với thôn Vĩ Dạ trong
mộng tưởng:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cây nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Cảnh vật ở thôn
Vĩ Dạ - một làng kề sát thành phố Huế bên bờ Hương Giang với những vườn cây
trái, hoa lá sum suê hiện lên thật nên thơ, tươi mát làm sao. Đó là một hàng
cau thẳng tắp đang tắm mình dưới ánh “nắng mới lên” trong lành. Chưa hết, rất
xa là hình ảnh “nắng hàng cau nắng mới lên” còn rất gần lại là “vườn ai mướt
quá xanh như ngọc”. “Mướt quá” gợi cả cây non tràn trề sức sống xanh tốt. Màu
“mướt quá” làm cho lòng người như trẻ hơn và vui tươi hơn. Lời thơ khen cây cối
xanh tốt nhưng lại như huyền ảo, lấp lánh mới thấy hết cẻ đẹp của “vườn ai”.
Trong không gian ấy hiện lên khuôn “mặt chữ điền” phúc hậu, hiền lành vừa quen
vừa lạ, vừa gần, vừa xa, vừa thực vừa ảo bởi “lá trúc che ngang”. Câu thơ đẹp
vì sự hài hòa giữa cảnh vật và con người. “Trúc xinh” và “ai xinh” bên nhau làm
tôn lên vẻ đẹp của con người. Như vậy tâm trạng của nhân vật trữ tình ở đoạn
thơ này là niềm vui, vui đến say mê như lạc vào cõi tiên, cõi mộng khi được trở
về với cảnh và người thôn Vĩ.
Thế nhưng cũng
cùng không gian là thôn Vĩ Dạ nhưng thời gian có sự biến đổi từ “nắng mới lên”
sang chiều tà. Tâm trạng của nhân vật trữ tình cũng có sự biến đổi lớn. Trong
mắt thi nhân, bầu trời hiện lên “Gió theo lối gió mây đường mây” trong cảnh
chia li, uất hận. Biện pháp nhân hóa cho chúng ta thấy điều đó. “Gió theo lối
gió” theo không gian riêng của mình và mây cũng thế. Câu thơ tách thành hai vế
đối nhau; mở đầu vế thứ nhất là hình ảnh “gió”, khép lại cũng bằng gió; mở đầu
vế thứ hai là “mây”, kết thúc cũng là “mây”. Từ đó cho ta thấy “mây” và “gió”
như những kẻ xa lạ, quay lưng đối với nhau. Đây thực sự là một điều nghịch lí
bởi lẽ có gió thổi thì mây mới bay theo, thế mà lại nói “gió theo lối gió, mây
đường mây”. Thế nhưng trong văn chương chấp nhận cách nói phi lí ấy. Tại sao
tâm trạng của nhân vật trữ tình vốn rất vui sướng khi về với thôn Vĩ Dạ trong
buổi ban mai đột nhiên lại thay đổi đột biến và trở nên buồn như vậy?. Trong
mộng tưởng, Hàn Mặc Tử đã trở về với thôn Vĩ nhưng lòng lại buồn chắc có lẽ bởi
mối tình đơn phương và những kỉ niệm đẹp với cảnh và người con gái xứ Huế mộng
mơ làm nên tâm trạng ấy. Quả thật “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” nên cảnh
vật xứ Huế vốn thơ mộng, trữ tình lại bị nhà thơ miêu tả vô tình, xa lạ đến như
vậy. Bầu trời buồn, mặt đất cũng chẳng vui gì hơn khi “Dòng nước buồn thiu hoa
bắp lay”.
Dòng Hương Giang
vốn đẹp, thơ mộng đã bao đời đi vào thơ ca Việt nam thế mà bây giờ lại “buồn
thiu” – một nỗi buồn sâm thẳm, không nói nên lời. Mặt nước buồn hay chính là
con sóng lòng "buồn thiu” của thi nhân đang dâng lên không sao giấu nổi.
Lòng sông buồn, bãi bờ của nó còn sầu hơn. “Hoa bắp lay” gợi tả những hoa bắp
xám khô héo, úa tàn đang “lay” rất khẽ trong gió. Cảnh vật trong thơ buồn đến
thế là cùng. Thế nhưng đêm xuống, trăng lên, tâm trạng của nhân vật trữ tình
lại thay đổi:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”
Sông Hương “buồn
thiu” lúc chiều dưới ánh trăng đã trở thành “sông trăng” thơ mộng. Cắm xào đậu
bên trên con sông đó là “thuyền ai đậu bến”, là bức tranh càng trữ tình, lãng
mạn. Hình ảnh “thuyền” và “sông trăng” đẹp, hài hòa biết bao. Khách đến thôn Vĩ
cất tiếng hỏi xa xăm “Có chở trăng về kịp tối nay?”. Liệu “thuyền ai” đó có chở
trăng về kịp nơi bến hẹn, bến đợi hay không? Câu hỏi tu từ vang lên như một nỗi
lòng khắc khoải, chờ đợi, ngóng trông được gặp gương mặt sáng như “trăng’ của
người thôn Vĩ trong lòng thi nhân. Như thế mới biết nỗi lòng của nhà thơ giành
cho cô em gái xứ Huế tha thiết biết nhường nào. Tình cảm ấy quả thật là tình
cảm của “Cái thưở ban đầu lưu luyến ấy. Ngàn năm nào dễ mấy ai quên” (Thế Lữ).
Đến đây ta hiểu thêm
về lòng “buồn thiu” của nhân vật trữ tình trong buổi chiều. Như vậy diễn biến
tâm lí của thi nhân hết sức phức tạp, khó lường trước được. Chất “điên” của một
tâm trạng vui với cảnh, buồn với cảnh, trông ngóng, chờ đợi vẫn được thể hiện ở
khổ thơ kết thúc bài thơ này:
“Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Vẫn là một tâm
trạng vui sướng được đón “khách đường xa” - người thôn Vĩ đến với mình, tâm
trạng nhân vật trữ tình lại khép lại trong một nỗi đau đớn, hoài nghi “Ai biết
tình ai có đậm đà?”. “Ai” ở đây vừa chỉ người thôn Vĩ vừa chỉ chính tác giả.
Chẳng biết người thôn Vĩ có còn nặng tình với mình không? Và chẳng biết chính
mình còn mặn mà với “áo em trắng quá” hay không? Nỗi đau đớn trong tình yêu
chính là sự hoài nghi, không tin tưởng về nhau. Nhân vật trữ tình rơi vào tình
trạng ấy và đã bộc bạch lòng mình để mọi người hiểu và thông cảm. Cái mới của
thơ ca lãng mạn giai đoạn 1932 - 1945 cũng ở đó.
Đọc xong bài thơ “Đây
thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử, nhất là khổ thơ “Gió theo lối gió -…. kịp tối nay”
để lại trong lòng người đọc những tình cảm đẹp. Đoạn thơ giúp ta hiểu thêm tâm
tư của một nhà thơ sắp phải giã từ cuộc đời. Lời thơ vì thế trầm buồn, sâu
lắng, đầy suy tư.
Bạn đọc đương
thời yêu thơ của Hàn Mặc Tử bởi thi nhân đã nói hộ họ những tình cảm sâu lắng
nhất, thầm kín nhất của mình trong thời đại cái “tôi”, cái bản ngã đang tự đấu
tranh để khẳng định. Tình cảm trong thơ Hàn Mặc tử là tình cảm thực, do đó nó
sẽ ở mãi trong trái tim bạn đọc. Ấn tượng về một nhà thơ của đất Quảng Bình đầy
nắng và gió sẽ không bao giờ phai nhạt trong tâm trí người Việt Nam.
Nguồn: vnexpress
Trích bài làm em Nguyễn Thị Tâm, thi khối C, Học viện Cảnh sát nhân dân.
Câu 2 (5 điểm):
Phân tích hai trích đoạn thơ:
Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
(Bên kia sông Đuống - Hoàng Cầm, Văn
học 12, tập 1, NXB Giáo dục, tái bản 2004, tr.79)
Những người vợ nhớ
chồng còn góp cho Đất nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng
yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của
Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín
con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng
nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò
nghèo góp cho Đất nước mình núi Bút, non Nghiên
Con cóc, con gà
quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân
nào đã góp tên Ông Đốc, ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Và ở đâu trên
khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một
dáng hình, một ao ước một lối sống ông cha
(Đất nước, trích chương V trường
ca Mặt đường khát vọng - Nguyễn Khoa Điềm,
Văn học 12, tập 1, NXB Giáo dục, tái bản 2004, tr.249-250)
Văn học 12, tập 1, NXB Giáo dục, tái bản 2004, tr.249-250)
Bài làm:
Chưa bao giờ trong
dòng chảy của Văn học Việt Nam lại xuất hiện nhiều gương mặt thơ với những phát
hiện độc đáo và xúc động viết về quê hương mình đã gắn bó trọn đời trọn kiếp,
vậy mà chỉ viết trong một đêm. Thế nên tất cả những hình ảnh, những cảm xúc
trong bài thơ đều là những hồi ức nóng bỏng, vừa là cháy đỏ yêu thương thắm
nồng tình cảm vừa là ngùn ngụt chí căm thù quân xâm lược.
Đoạn trích:
"Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp"
Đây là đoạn thơ mở
đầu phần hai của bài thơ. Sau khi bộc lộ nỗi niềm nhớ tiếc về một dòng sông
Đuống êm đềm, thanh bình nay đã trở thành quá khứ, thành nỗi xót xa đến
"rụng bàn tay" nhà thơ tiếp tục hồi tưởng về quê hương với những giá
trị truyền thống.
Mở đầu đoạn trích Bên kia sông
Đuống vang lên như một lời giới thiệu. Nơi ấy là nơi nào? Đây chính là thôn
Lạc Thổ - xã Song Hồ - huyện Thuận Thành - tỉnh Bắc Ninh, nơi bờ nam sông Đuống
của nhà thơ đang bị giặc chiếm đóng. Nơi ấy là nơi lưu giữ những hồi ức, những
kỷ niệm tuổi thơ êm đềm của tác giả giờ đây đã trở thành máu thịt của tâm hồn,
trở thành một mảng ký ức của nỗi đau. Câu thơ ngắn gọn, chỉ có bốn từ vang lên
như một tiếng gọi, gọi lòng thi sĩ trở về với quê hương đồng thời cũng như một
tiếng lòng của thi sĩ, trở thành một nỗi đau day dứt ám ảnh. Thế nên điệp khúc Bên
kia sông Đuống cứ lặp đi lặp lại trong suốt bài thơ.
Sau lời giới thiệu
ấy một quê hương Kinh Bắc đã hiện ra với một truyền thống văn vật:
"Quê hương ta lúa nếp thơm nồng"
Bức tranh quê
hương hiện lên với phong cảnh đồng ruộng, bát ngát, hương thơm bay thoang
thoảng của lúa nếp. Đọc đến đây ta thấy quê hương của Hoàng Cầm có gì đó thật
gần gũi với mọi làng quê Việt Nam. Nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã từng thốt lên:
"Việt
Nam đất nước ta ơi
Mênh
mông biển lúa đâu trời đẹp hơn"
(Bài thơ Hắc Hải)
Nói về quê hương tác
giả tràn ngập một niềm vui sướng tự hào. Cụm từ "quê hương ta" đứng
ngay đầu câu thơ gợi ra một niềm tự hào, kiêu hãnh về quê hương của tác giả.
Một quê hương tươi đẹp và trù phú, ấm no và yên bình. Hình ảnh "lúa nếp
thơm nồng" không chỉ gợi ra một khung cảnh quê hương giàu đẹp, ấm no, mùa
màng tốt tươi mà còn gợi lên truyền thống của quê hương.
Đó chắc hẳn là một
làng quê giàu truyền thống hội hè, đình đám, những lễ hội. Một Kinh Bắc cổ kính
lâu đời. Không chỉ có vậy hình ảnh lúa nếp thơm nồng còn làm cho ta nhớ tới
những sự tích "bánh chưng, bánh dày", ta liên tưởng đến những con
người hiếu nghĩa, hiếu thảo. Có thể cái "nồng" ấy còn là cái nồng của
cảm xúc của tình cảm tác giả.
Quê hương Kinh Bắc
đâu chỉ có ấm no, trù phú ở đó còn có truyền thống văn hóa lâu đời. Đó chính là
tranh Đông Hồ một nét văn hóa dân gian nổi tiếng của quê hương Kinh Bắc.
"Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong"
Quê hương Hoàng
Cầm là ở thôn Lạc Thổ, xã Song Hồ - một làng nghề làm tranh dân gian lâu đời.
Người Kinh Bắc thuở xưa thường làm tranh để gửi vào đó những ước mơ, khát vọng
của mình về một cuộc sống ấm no. Câu thơ trên giới thiệu những bức tranh quê
hương với nét vẽ "gà lợn". Đó là cuộc sống của người dân, những con
vật gần gũi với cuộc sống của người dân. Tất cả đều được đưa vào tranh, trở
thành nét văn hóa truyền thống của dân tộc.
Ta còn nhớ đến
những bức tranh như Hứng dừa, Đám cưới chuột, Đánh ghen... Nhưng có lẽ
Hoàng Cầm nói về tranh Đông Hồ là để khen cái tài của người làm tranh. Những
con người Kinh Bắc tài hoa, chất phác, bình dị và rất vui tính nữa. Họ đều là
những con người dễ thương, dễ mến và hiếu khách. Bức tranh Đông Hồ hiện lên với
nét vẽ "nét tươi trong" và được tác giả đánh giá là màu dân tộc sáng
bừng trên giấy điệp".
Người Đông Hồ vẽ
tranh bằng những màu lấy từ tự nhiên như màu đỏ của cánh hoa lựu, màu hồng của
hoa sen, màu vàng của nghệ... tất cả đều là những màu nguyên, đều gợi lên nét
tươi trong. Nhưng liệu có quá to tát khi tác giả nói là "màu dân tộc sáng
bừng" không, chắc chắn là không bởi đó là "màu dân tộc sáng bừng trên
giấy điệp".
Giấy điệp" là
một loại giấy mà có lẽ chỉ có người làm tranh Đông Hồ mời có bí quyết để tạo ra
một loại giấy mỏng nhưng rất bền và chắc. Câu thơ tràn ngập niềm tự hào của tác
giả khi nhớ về quê hương. Cái "sáng bừng" ấy là cái sáng bừng của cảm
xúc, của lòng tự hào kiêu hãnh. Một quê hương giàu đẹp như thế làm sao không
khỏi tự hào, kiêu hãnh cơ chứ và cũng làm sao không khỏi đau đớn, xót xa khi
mất đi quê hương ấy cơ chứ.
Nhưng khác với
Hoàng Cầm, Nguyễn Khoa Điềm lại khám phá đất nước ở một khía cạnh khác. Đó
chính là tư tưởng đất nước của nhân dân, do nhân dân làm ra. Nguyễn Khoa Điềm
là một nhà thơ trẻ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Trường ca Mặt
đường khát vọng của ông được viết trong những ngày tháng nóng bỏng của
chiến trường Bình - Trị - Thiên, đó là sự thức tỉnh của thế hệ trẻ về vai trò
của nhân dân, về trách nhiệm của thế hệ trẻ hôm nay đối với cuộc kháng chiến
của dân tộc.
Nguyễn Khoa Điềm
đã thấm nhuần đất nước là máu xương của mình, đã "gắn bó và san sẻ",
đã "đi trả thù mà chẳng sợ dài lâu". Cho nên ta có thể thấy tư tưởng
thấu suốt trong chương thứ năm của trường ca "Mặt đương khát vọng" là
đất nước của nhân dân, do nhân dân. Tư tưởng này được thể hiện rõ trong đoạn
trích:
"Những người vợ nhớ chồng còn góp cho đất nước những núi Vọng
Phu"
... Chẳng mang một dáng hình, một lối sống ông cha"
Đó là sự cảm nhận
đất nước về phương diện địa lý. Tất cả những dáng núi, hình sông trên đất nước
ta đều do nhân dân làm ra. Tác giả đã thể hiện tư tưởng này qua một động từ, đó
là "góp". Mọi người đều góp phần xây dựng đất nước. Chủ thể của động
từ ấy là những người vợ nhớ chồng, cặp vợ chồng yêu nhau, gót ngựa Thánh Gióng,
người học trò nghèo và cả những người dân bình thường... Họ đều là những con
người hiếu nghĩa, thủy chung, cũng giàu truyền thống hiếu học và cũng kiên
cường, anh dũng lắm thay: những núi Vọng Phu đất Tổ Hùng Vương, núi Bút, non
Nghiên, ông Đốc, bà Điểm...
Dường như bàn chân
nhân dân đi đâu, bàn tay nhân dân xây đắp những gì nhân dân đều hà hơi, thổi linh
hồn mình vào đấy. Thế nên đất nước chứa đựng linh hồn của nhân dân, chính là
tâm hồn nhân dân đó. Tác giả còn khắc sâu tư tưởng đất nước của nhân dân khi
diễn tả những thứ nhân dân làm ra: đều có núi Bút, núi Vọng Phu, có Non Nghiên,
có dòng sông, ao đầm nơi nào cung có bàn tay nhân dân xây đắp. Và từ đó nhà thơ
đi đến một khái quát.
"Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha"
Câu thơ đã khái
quát, khẳng định một điều rằng tất cả khắp mọi nơi trên đất nước đều do nhân
dân làm và thổi linh hồn mình vào đấy.
Vì vậy mà trong
đất nước đã in bóng hình của nhân dân và trong nhân dân có bóng hình đất nước.
Đất nước và nhân
dân hòa vào nhau tạo nên một đất nước vừa thực vừa linh thiêng. Một đất nước
vừa địa linh và nhân kiệt. Đây là một tư tưởng rất mới mẻ, khẳng định vai trò
của nhân dân với đất nước. Biết bao thế hệ người dân ta từ già, trẻ, trai, gái
đều đã ngã xuống, máu của họ tạo thành sông suối, xương của họ tạo lên dáng núi
và tâm hồn của họ thành hồn sông núi, hồn xứ sở. Họ là người làm ra đất nước.
Qua hai đoạn thơ
trên ta thấy cả Hoàng Cầm và Nguyễn Khoa Điềm đều rất tinh tế, tài hoa và sâu
sắc trong việc khám phá những điều kỳ diệu về đất nước. Thế nhưng, nhà thơ đều
có những sự khám phá thú vị của mình, đều tìm ra những nét khác nhau về đất
nước muôn màu và thăng hoa thành những cảm xúc, những vần thơ tuyệt đẹp.
Hoàng Cầm khám phá
đất nước trong nỗi nhớ thương, tiếc xót. Khi mà đau đớn đến quá đột ngột lại
cộng với tâm hồn tài hoa và nhạy cảm đã tạo nên những câu thơ về đất nước đầy
cảm xúc.
Khác với Hoàng
Cầm, Nguyễn Khoa Điềm với tư tưởng đất nước của nhân dân đã phải trải qua một
quá trình chiêm nghiệrn thực tế mới rút ra được. Nhưng cả hai nhà thơ đều chung
nhau là tìm về những giá trị truyền thống của quê hương đất nước, những nét văn
hóa của làng quê phong cảnh đất nước và cả hai thi sĩ đều có chung một cảm xúc
đầy tự hào và yêu thương.
Đề tài về đất nước luôn luôn là một
cảm hứng cho mọi nền văn học nhất là nền văn học của một dân tộc mà tình yêu
nước luôn luôn bị đem ra thử thách. Thành công về đề tài này đã nhiều nhưng Bên
kia sông Đuống của Hoàng Cầm và Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm vẫn có
một tiếng nói riêng, một sự khám phá riêng với một phong cách riêng. Hai mặt
đất nước của nhân dân và đất nước giàu truyền thống, góp vào vườn thơ về đất
nước như hai bông hoa đẹp nhất tỏa hương thơm đến muôn đời, muôn thế hệ.
* Câu 3: Nhận định về Nam Cao, sách Văn học 11 viết: “Ông có sở
trường diễn tả, phân tích tâm lý con người”. (Văn học 11, tập một, NXB Giáo
dục, tái bản 2004, trang 201). Qua nhân vật Hộ trong truyện ngắn Đời thừa,
anh/chị hãy chứng minh nhận định trên.
Bài làm:
Nhà văn Nam Cao
(1915 - 1951) là cây bút hiện thực xuất sắc của nền văn học Việt Nam trước cách
mạng và cũng là nhà văn có nhiều đóng góp cho nền văn học non trẻ những ngày
đầu.
Trước cách mạng,
do bên cạnh việc viết về bi kịch của người nông dân với tác phẩm bất hủ “Chí
Phèo” người đọc còn nhớ mãi bi kịch của người trí thức tiểu tư sản trước
cách mạng trong tác phẩm “Đời thừa” mà được thể hiện rõ qua nhân vật Hộ.
Nhà văn Nam Cao với tài năng xuất chúng và một tấm lòng yêu thương nhân ái bao
la đã thể hiện rõ được tâm lý của người trí thức tiểu tư sản trong cảnh ngộ bi
kịch ấy. Chính vì vậy nhận định về Nam Cao, sách Văn học 11 viết “Ông có sở
trường về diễn tả, phân tích tâm lý con người”.
Truyện ngắn “Đời
thừa” ra mắt bạn đọc lần đầu tiên trong “Trang tiểu thuyết số 7” số
ra ngày 4-3-1943. Tác phẩm cùng đề tài này có “Mực mài nước mắt” của Lan
Khai, “Nợ văn” của Lãng Tử, "Đời thừa" còn gần gũi về
đề tài với một số tác phẩm của Nam Cao như “Trăng sáng”, “Nước mắt” và
tiểu thuyết “Sống mòn”. Qua tác phẩm Nam Cao đã miêu tả thành công tâm
trạng của một người trí thức tiểu tư sản trước cách mạng.
Hộ vốn là một nhà
văn, một nhà văn mang trong mình hoài bão lớn ấy là viết được một tác phẩm
“vượt qua mọi giới hạn và bờ cõi” ai đó vội cho đó là sự háo danh. Nhưng không
phải vậy. Đó là ước mơ của một con người có lý tưởng, có hoài bão lớn, muốn
khẳng định được tài năng của mình. Hộ còn là một nhà văn chân chính.
Điều này được thể
hiện qua một loạt quan niệm của anh về văn chương “văn chương không cần đến
những người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho, văn chương chỉ dung
nạp những người biết đào sâu tìm tòi khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo
những gì chưa có” với ý nghĩ ấy Hộ đã vô cùng căm ghét sự cẩu thả trong văn
chương “cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện”. Như vậy qua những quan
niệm của Hộ về văn chương ta thấy đây là một nhà văn có hoài bão, một nhà văn chân
chính, có lương tri của một người cầm bút chân chính ý thức được trách nhiệm
của người nghệ sĩ.
Thế nhưng trước
khi là một nhà văn Hộ còn là một người chồng, một người cha, hắn còn có một
gánh nặng gia đình trên vai. Cuộc sống với một gia đình đông con, một người vợ
thất nghiệp đã cướp đi ở hắn sự thanh thản sự thanh thản cần thiết để một tâm
hồn văn chương thăng hoa, khi mà cứ hết tháng lại “tiền nhà, tiền gạo, tiền
nước mắm”.
Hoài bão văn
chương có thể nung nấu trong chốc lát nhưng chuyện cơm áo là chuyện phải đối
mặt hàng ngày. Chả thế mà Xuân Diệu đã từng thốt lên:
“Nỗi đời cay đắng giơ nanh vuốt
Cơm áo không đùa với khách thơ”
Thế là Hộ điên
lên, phải xoay tiền. Nam Cao đã thật tỉ mỉ khi miêu tả tâm trạng của Hộ trong
cảnh túng quẫn ấy “đang ngồi hắn đứng phắt dậy mặt hầm hầm đi ra phố, vừa đi
vừa nuốt nghẹn”. Chỉ một đoạn văn ngắn mà ông đã tái hiện lại tâm trạng của Hộ:
thật bức bách. Nanh vuốt của họa cơm áo đang có nguy cơ nuốt chửng nhà văn Hộ
đầy tâm huyết ngày nào.
Và thế là để có
tiền thì Hộ phải viết. Nam Cao là một nhà văn hiện thực nên ông biết rằng Hộ
muốn có tiền thì phải viết, viết những tác phẩm đáp ứng được nhu cầu của một
đám thị dân lúc bấy giờ “những tác phẩm làm người ta quên ngay sau lúc đọc”. Hộ
phải viết những tác phẩm ấy, nhưng giả dụ có ai bảo hắn viết những tác phẩm cao
quý hắn cũng chẳng biết đường nào mà viết bởi tâm trạng bức bách ở trên. Thế
rồi Hộ bị văng vào quỹ đạo của bi kịch.
Hắn thấy xấu hổ
khi đọc những tác phẩm ấy “hắn đỏ mặt lên”. Đó là sự xấu hổ của một chút lương tri
ít nhiều chưa vỡ nát trong Hộ. Hộ đau đớn, tủi cực không phải vì không được
viết, mà là anh đã tự giẫm lên những nguyên tắc do mình đặt ra, còn gì đau đớn
hơn khi mình lại phản bội chính mình. Nam Cao tỏ ra rất tinh tế và cảm thông
trước tâm trạng của Hộ. Phải hiểu, phải cảm thông thế nào thì ông mới có thể
viết lên những trang văn đầy giằng xé như vậy.
Thế là từ không
thực hiện được giấc mộng văn chương và Hộ đã trở thành kẻ phản bội chính mình.
Nhưng Nam Cao không dừng lại ở đó, ông muốn người đọc đi đến tận cùng sự khổ
cực, bi kịch của người trí thức. Hộ lại bị đẩy ra khơi - trước từng cơn sóng dữ
của cuộc đời. Nó đã quăng anh vào bi kịch nghề nghiệp nó lại quật anh vào một
bi kịch khác, bi kịch không thực hiện được tình người cho trọn.
Mọi chuyện bắt đầu
từ lúc hắn lấy Từ. Lấy Từ hắn đã thực hiện được nguyên tắc tình thương của mình
đã cứu được ba con người. Nhưng rồi, từ đó bi kịch đã mở ra với hắn. Gánh nặng
gia đình đã đè nặng lên vai khiến hắn thấy mình khổ, đáng trách hơn là hắn coi
Từ là nguyên nhân khiến mình khổ. Từ đó hắn đã tìm đến rượu, có lúc hắn toan
ruồng bỏ vợ con.
Khi say hắn đã có những hành động vũ
phu quá đáng “hắn chỉ tay vào mặt Từ” đuổi mấy mẹ con Từ ra ngoài. Nam Cao đã
có một lời biện hộ yếu ớt ấy là cho hắn hành động trong lúc say. Nhưng tất cả
đều đổ nhào trước nguyên tắc: nguyên tắc tình thương. Hộ thật đáng trách khi
coi vợ con là nguyên nhân làm mình khổ. Thế là mọi nguyên tắc tình thương mà
hắn đặt ra trước đây “kẻ mạnh là kẻ giúp đỡ người khác trên đôi vai mình” đã bị
hắn đạp đổ.
Giờ đây đâu còn là
một nhà văn Hộ giàu tâm huyết, giàu lòng nhân đạo nữa mà là một con người vũ
phu quá đáng. Hộ thật đáng trách nhưng có lẽ đáng thương hơn là đáng trách. Thế
nhưng Nam Cao đã để cho nhân vật của mình dừng lại trên con đường bị tha hóa
ấy. Sau mỗi lần say, Hộ lại tỉnh và nhận rõ được sai lầm của mình xin lỗi và
làm lành với vợ con.
Phải là một người
đầy tài năng, già tay nghệ thuật và vững tin vào con người thì Nam Cao mới có
thể đặt nhân vật vào lốc xoáy cuộc đời nhưng cuối cùng tình người vẫn chiến
thắng. Hộ đã khóc “Anh chỉ là một thằng khốn nạn”. Giọt nước mắt ăn năn, hối
lỗi. Câu chuyện về cuộc đời Hộ đã khép lại bằng câu hát ru đẫm nước mắt của Từ:
“Ai
làm cho khói lên giời
Cho
mưa xuống đất cho người biệt li”
Như vậy, qua tấn bi
kịch của nhà văn Hộ, Nam Cao đã khắc họa một cách chân thực và sâu sắc bi kịch
của người trí thức tiểu tư sản trước cách mạng. Đồng thời lên án xã hội bất
công không cho con người phát triển toàn diện về tài năng và nhân cách. Qua đây
ta cũng thấy được tài năng nghệ thuật về diễn tả và phân tích tâm lý bậc thầy
của nhà văn Nam Cao. Nhưng dù cuộc đời có cay nghiệt, lốc xoáy có dữ dội thì
nhân vật của ông vẫn hướng về chân trời của cái chân, thiện, mĩ.
Theo Tiền Phong, Gia đình
& xã hội
Bài văn điểm
10- Đại học Đà Nẵng
Câu 1 (2đ): Anh (chị) hãy trình bày hoàn cảnh ra đời
bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu. Nêu những đặc điểm nghệ thuật của tác phẩm đó
(đoạn trích được học).
Câu 2 (5đ): Phân tích hình tượng sóng trong bài thơ
Sóng của Xuân Quỳnh. Anh (chị) cảm nhận được gì về vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ
trong tình yêu qua hình tượng này?
Câu 3.a. Theo chương trình PTTH không phân ban (3 đ)
Phân tích hình tượng Cây
xà nu trong truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành. Nhận xét ngắn gọn về
nghệ thuật miêu tả cây xà nu của nhà văn.
Bài
làm của thí sinh Hoàng Thuỳ Nhi
Câu 1. Hoàn cảnh ra đời của bài thơ “Việt Bắc” - Tố Hữu:
Cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc thắng lợi, hiệp định
Giơ-ne-vơ được ký kết. Tháng 10 năm 1954 cơ quan Trung ương của Đảng và Chính
phủ rời căn cứ Việt Bắc về thủ đô Hà Nội. Trong không khí buổi tiễn đưa mang
tầm vóc lịch sử ấy, Tố Hữu đã xúc động viết bài thơ “Việt Bắc”. “Việt Bắc” trở
thành khúc hát ân tình thuỷ chung giữa người miền ngược với người miền xuôi,
giữa nhân dân với Đảng, giữa cách mạng với Bác Hồ. “Việt Bắc” là bài thơ có giá
trị, để viết nên một bài thơ hay như thế, Tố Hữu đã sử dụng những hình thức
nghệ thuật:
- Sử dụng thể thơ dân tộc, thơ lục bát.
- Những hình ảnh so sánh ví von, gần với lời ăn tiếng nói của dân tộc.
- Giọng văn tâm tình, ngọt ngào, tha thiết.
- Ngôn ngữ giàu nhạc điệu như những câu hát giao duyên. Câu hỏi lời đáp
giữa hai nhân vật Ta và Mình trong bài thơ thực chất chỉ là một. Đó là sự phân
thân, hoá thân của tác giả để cảm xúc được thể hiện một cách tự nhiên,
tha thiết.
Câu 2:
“Sóng” được in trong tập “Hoa dọc chiến hào”, xuất bản
năm 1968 của nữ nhà thơ tình nổi tiếng Xuân Quỳnh. Bài thơ nói về tâm trạng,
tình yêu mãnh liệt của người con gái khi yêu. Hãy đến với bài thơ bằng nhạc
điệu, bài thơ là âm điệu của một cõi lòng bị sóng khuấy động, đang rung lên
đồng điệu đồng nhịp với sóng biển. Rạo rực đến xôn xao, khát khao đến khắc
khoải, có một hình tượng sóng được vẽ lên bằng âm điệu, một âm điệu dập dồn,
chìm nổi, miên man như hơi thở chạy suốt cả bài.
Sắc điệu trữ tình của bài thơ được gợi lên từ hình tượng
sóng. Cả bài thơ là những con sóng tâm tình xôn xao trong lòng người con gái
đang yêu khi đứng trước biển ngắm nhìn những con sóng vô hồi, bất tận. Sóng là
một hình tượng ẩn dụ, đó là sự hoá thân của cái tôi trữ tình của nữ sĩ, lúc thì
hoà nhập, lúc sự phân thân của “em” - người con gái đang yêu một cách say
đắm. Sóng đã khơi gợi một hồn thơ phong phú, hồn nhiên, sôi nổi. Thông qua hình
tượng sóng, Xuân Quỳnh đã có một cách nói rất hay để diễn tả tâm trạng của
người con gái.
Sóng biến hoá, sóng vỗ liên hồi, triền miên và bất
tận:
“Dữ dội
và dịu êm
ồn ào
và lặng lẽ”
trạng thái của sóng cũng là tâm trạng khi yêu, là khát
vọng to lớn, mạnh mẽ về một tình yêu chân thành. Hành trình của sóng từ sông ra
đại dương:
“Sông
không hiểu nổi mình
Sóng
tìm ra tận bể”
nơi mênh mông dạt dào, có đến nơi biển rộng trời cao sóng
mới được vẫy vùng, mới thực sự tìm thấy mình trong sức sống mạnh mẽ với những
khát khao to lớn. Sóng được làm biểu tượng của tình yêu. Miêu tả sóng biến hoá
là cũng để nói lên cái phức tạp, đa dạng, khó hiểu của tình yêu. Cũng giống như
sóng biển, tình yêu là một hiện tượng kỳ diệu của con người. Con sóng “ngày
xưa” và con sóng “ngày sau” vẫn thế - triền miên, bất tận. Cũng như tình
yêu mãi mãi là khát vọng của tuổi trẻ, của đôi lứa, cuả anh và em:
“Ôi con
sóng ngày xưa
Và ngày
sau vẫn thế
Nỗi
khát vọng tình yêu
Bồi hồi
trong ngực trẻ” .
Con sóng tìm đến biển, đến đại dương là để tự hiểu mình.
Cũng như em “khát” được đến bên anh, đến với một tình yêu đẹp để hiểu rõ
hơn về tâm hồn em về con người đích thực của em. Người con gái hỏi sóng hay
đang tự hỏi chính mình:
“Sóng
bắt đầu từ gió
Gió bắt
đầu từ đâu
Em cũng
không biết nữa
Khi nào
ta yêu nhau”
cái giây phút giao duyên của đôi lứa. “Khi nào ta yêu
nhau” tìm được một câu trả lời thật khó, bởi tình yêu là một hiện tượng, một
thứ tình cảm khó có thể cắt nghĩa được. Bởi vậy trong bài thơ tình số 21 của
thi hào Tagor đã viết rằng :
“Trái
tim anh cũng ở gần em như chính đời em vậy
Nhưng
chẳng bao giờ em biết trọn nó đâu”
Câu thơ “khi nào ta yêu nhau” đã diễn tả đúng nỗi niềm
điển hình của những trai gái đang sống trong tình yêu đẹp. Sóng vỗ “dữ dội -
dịu êm” , “ồn ào - lặng lẽ”, sóng “dưói lòng sâu” “sóng” trên mặt
nước”, sóng nhớ bờ, đó là biểu hiện của tình yêu và nỗi nhớ. Yêu chân thành tha
thiết, nhớ bồi hồi triền miên. Nỗi nhớ ấy day dứt, dày vò, choán đầy cả không
gian, thấm trong chiều sâu, bề rộng, trải trong chiều dài thời gian:
“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được”
Thật tự nhiên và thơ mộng, con sóng nhớ bờ nên ngày đêm
sóng vỗ, sóng thao thức với thời gian và đại dương. Cũng giống như bên đợi
thuyền, thuyền nhớ bến, lúc nào lòng người con gái cũng bồi hồi nhớ thương:
“Lòng
em nhớ đến anh
Cả
trong mơ còn thức”
“Còn thức” tức là lúc nào em
cũng nhìn thấy rõ hình bóng anh, ánh mắt anh ... Một tình yêu cuồng
nhiệt, say mê. Con sóng khao khát được đến bờ để được vỗ về, ve
vuốt:
“Hôn
thật khẽ thật êm
Hôn êm
đềm mãi mãi”
(Xuân
Diệu)
Cũng như “em” muốn được gần bên anh, được hoà nhịp vào
trong tình yêu với anh. Tình yêu của người con gái thật mãnh liệt, nồng nàn.
Sóng xa vời cách trở vẫn tìm được tới bờ, cũng như anh và em sẽ vượt qua mọi
khó khăn để đến với nhau, để sống trong hạnh phúc trọn vẹn của lứa đôi.
“Ở
ngoài kia đại dương
Trăm
ngàn con sóng nhỏ
Con nào
cũng tới bờ
Dù muôn
vời cách trở”
Người con gái đã bày tỏ lòng mình một cách chân thành,
say đắm, thắm thiết. Chân thật và thuỷ chung là đặc tính của tình yêu:
“Dẫu
xuôi về phương Bắc ...
Hướng
về anh một phương”.
Sóng đã bày tỏ nỗi lòng của người con gái, khát vọng được
sống hết mình trong một tình yêu đẹp, sắt son thuỷ chung. Người ta thường nói
xuôi vào Nam, ngược ra Bắc; nhưng ở đây, trong nỗi nhớ chất đầy nhà thơ lại
dùng ngược lại. Từ đó nhà thơ đã nói đến nỗi nhớ bất chấp vạn vật, khoảng cách,
tình yêu là sự gặp gỡ giữa hai tâm hồn không có giới hạn.
Cuối cùng sóng đã nói hộ nhà thơ nỗi khát vọng được sống
trọn vẹn trong tình yêu. Tình yêu lứa đôi đẹp đẽ, nồng nàn như trăm ngàn con
sóng nhỏ giữa đại dương mênh mông, muốn được hoà nhịp vào biển lớn của tình yêu
cộng đồng:
“Làm
sao được tan ra
Thành
trăm con sóng nhỏ
Giữa
biển lớn tình yêu
Để ngàn
năm còn vỗ” .
Cả bài thơ, nếu kể đến nhan đề, thì tác giả đã mười một
lần nhắc đến từ “sóng”. Sóng vỗ như tâm tình xôn xao. Sóng cho ta nhiều
ấn tượng về âm điệu của sóng, cũng như giọng điệu tâm tình, nhịp điệu của bài
thơ. Thơ hồn nhiên, liền mạch về cảm xúc, trong sáng trong cách diễn đạt của
tác giả. Sóng vỗ trên đại dương mênh mông cũng chính là sóng vỗ trong lòng
người con gái.
Từ hình tượng “sóng” Xuân Quỳnh cho ta thấy rõ vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ
trong tình yêu. Với tình yêu chân thành, thắm thiết, người phụ nữ muốn
sống hết mình, sống trọn vẹn trong tình yêu đẹp. Yêu là nhớ ngày mong đêm,
người phụ nữ khát khao được hoà nhập gần gũi trong tình yêu ấy. Họ yêu thật
nồng nàn, say đắm, thủy chung !
Xuân Quỳnh viết bài thơ này vào những năm 1967, khi cuộc
kháng chiến của nhân dân miền Nam ở vào giai đoạn ác liệt, khi thanh niên trai
gái ào ào ra trận “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, khi sân ga, bến nước, gốc
đa, sân trường diễn ra những cuộc chia ly màu đỏ. Cho nên có đặt bài thơ vào
trong hoàn cảnh ấy ta mới càng thấy rõ nỗi khát khao của người con gái trong
tình yêu.
“Ôi con
sóng nhớ bờ
Ngày
đêm không ngủ được” .
Đọc xong bài thơ “Sóng” ta càng ngưỡng mộ hơn những con
người phụ nữ Việt Nam, những con người luôn thuỷ chung, luôn sống hết mình vì
một tình yêu. Xuân Quỳnh xứng đáng là một nhà thơ nữ của tình yêu lứa đôi, bà
đã làm phong phú hơn cho nền thơ nước nhà.
Phần tự chọn:
Câu 3. a:
Nguyễn Trung Thành là nhà văn có duyên nợ gắn bó với mảnh
đất Tây Nguyên. Qua hai cuộc kháng chiến cùng vào sinh ra tử với những người
dân nơi đây đã cung cấp cho Nguyễn Trung Thành một vốn hiểu biết vô cùng sâu
rộng về mảnh đất âm vang rộn tiếng cồng chiêng trong mùa lễ hội, nơi có những
người con trung dũng, kiên cường. Nếu trong kháng chiến chống Pháp, Nguyễn
Trung Thành - bút danh Nguyên Ngọc nổi tiếng cùng “Đất nước đứng lên”;
thì trong những năm kháng chiến chống Mỹ, đặc biệt là những năm 1965 khi
cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam đang diễn ra gay go ác liệt thì
Nguyễn Trung Thành cho ra mắt người đọc truyện ngắn “Rừng xà nu”. Tác phẩm này
đã là một bản hùng ca, ca ngợi cuộc sống và con người Tây Nguyên trong cuộc
chiến tranh vĩ đại. Và nổi bật hơn cả trong tác phẩm chính là hình tượng cây xà
nu.
Cây xà nu là một hình tượng nhân vật trung tâm trong
truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành. Xuyên suốt trong tác phẩm ta
bắt gặp những cánh rừng xà nu nối tiếp nhau chạy đến chân trời. Cây xà nu là
một loài cây quen thuộc, có mặt trong cuộc sống hàng ngày của người dân Tây
Nguyên. “Củi xà nu cháy trong mỗi bếp lửa gia đình, khói xà nu nhuộm bảng
đen cho con trẻ học chữ, đuốc xà nu rọi sáng sân nhà Ưng trong những đêm lễ
hội...”. Tất cả mọi hoạt động dù lớn dù nhỏ của người dân Tây Nguyên đều
có sự góp mặt của cây xà nu. Sự sống của dân làng Xô Man đều gắn liền với
những cánh rừng xà nu. Khi Nguyễn Trung Thành viết : “Làng ở trong tầm đại bác
của đồn giặc, chúng nó bắn đã thành lệ, ngày hai lần, hoặc buổi sáng sớm và xế
chiều, hoặc đứng bóng và xẩm tối, hoặc nửa đêm và trở gà gáy. Hầu hết đạn đại
bác của đồn giặc đều rơi vào những ngọn đồi xà nu, cạnh con nước lớn”, nhà văn
đã phản ảnh không khí căng thẳng của thời đại, gợi lên sự đối mặt quyết liệt
giữa sự sống và cái chết. Nổi bật trên nền bối cảnh ấy, Nguyễn Trung Thành đã
đi sâu miêu tả những đặc điểm nổi bật của câu xà nu. Cũng như bao loài cây
khác, cây xà nu là một loài cây ham ánh sáng và khí trời “trong rừng ít
có loài cây nào sinh sôi nảy nở khoẻ đến vậy... ít có loài cây nào ham ánh sáng
đến thế” cũng có nghĩa là ham sống, khao khát muốn được vươn lên giữa bầu trời
cao rộng.
Thế nhưng trong những năm tháng chiến tranh ác liệt ấy,
cũng như bao cánh rừng khác của Việt Nam, rừng xà nu đã bị tàn phá rất dữ dội
“Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào là không bị thương. Có những cây
bị chặt đứt ngang nửa thân mình đổ ào ào như một trận bão; ở chỗ vết thương
nhựa ứa ra tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt rồi dần dần bầm
lại đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn”. Tuy vậy, bất chấp mọi sự tàn phá
huỷ diệt của chiến tranh, cây xà nu vẫn vươn lên với một sức sống mãnh liệt
“cạnh cây mới ngã gục đã có bốn, năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn
mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Tư thế vươn lên mạnh mẽ ấy của cây xà nu như
để thách thức với bom đạn của chiến tranh “đố chúng nó giết được cây xà nu đất
ta”. Sức sống mãnh liệt đã giúp những cánh rừng xà nu vươn lên trong một màu
xanh, hiện lên hiên ngang, kiêu dũng như một tráng sĩ “cứ thế hai ba năm sau,
rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho dân làng Xô man”.
Bằng nghệ thuật so sánh, nhân hoá, ẩn dụ, Nguyễn Trung
Thành đã dựng lên thật thành công và rõ nét, ấn tượng về hình tượng cây xà nu.
Không dừng lại ở đó, Nguyễn Trung Thành còn đặt hình tượng cây xà nu vào trong
quan hệ đối chiếu sóng đôi với con người mảnh đất Tây Nguyên. Nếu cây xà nu là
một loại cây ham ánh sáng và khí trời, thì người dân Tây Nguyên yêu tự do, tin
vào Đảng, đi theo bước chân cách mạng như muôn cây vẫn hướng vào ánh sáng mặt
trời. Nếu cây xà nu bị tàn phá, huỷ diệt bởi đạn bom, khói lửa thì những người
dân Tây Nguyên phải chịu bao đau thương mất mát do chính kẻ thù gây ra. Bao
nhiêu người bị giặc giết chết như những cây xà nu bị chặt đứt ngang nửa thân
mình, bao nhiêu người còn sống mà phải mang trong mình bao nỗi thương đau. Bằng
cách miêu tả hình ảnh cây và người trong quan hệ sóng đôi như thế, Nguyễn Trung
Thành đã khắc sâu tội ác dã man của kẻ thù để qua đó tác giả giúp ta hình dung
rõ hơn những thảm cảnh dân ta phải chịu do bọn giặc gây ra.
Cũng giống như những cánh rừng quê hương, như những con
người Việt Nam vẫn ý thức được rằng:
“Gươm nào chia được dòng Bến Hải
Lửa nào thiêu được dãy Trường Sơn
Căm hờn lại giục căm hờn
Máu kêu trả máu đầu van trả đầu”
Các thế hệ nhân dân Tây Nguyên đã thay nhau tiếp nối đứng
lên. ánh sáng của niềm tin “Đảng còn thì núi nước này còn” đã soi đường chỉ lối
cho những bước chân đến với cách mạng. Thế hệ này ngã xuống, thế hệ sau tiếp
nối đứng lên; anh Sút bà Nhan bị giặc giết, đi thay họ tiếp tế nuôi quân đã có
T Nú và Mai. Cứ như thế, các thế hệ người Tây Nguyên đã thay nhau giữ vững ngọn
lửa truyền thống, thay nhau giữ vững ý chí đánh giặc kiên cường, để giữ làng,
giữ nước của dân làng Xô man nói riêng và của người Tây Nguyên nói chung.
Dưới ngòi bút miêu tả của Nguyễn Trung Thành, cây xà nu
hiện lên sừng sững, đồng hành với những bước đi, cuộc sống của dân làng Xô man.
Gắn bó với cánh rừng anh dũng, kiêu hùng, những người dân Tây Nguyên như được
tiếp thêm sức mạnh để đứng lên chiến đấu. Và gắn bó với con người Tây Nguyên ân
tình, thuỷ chung, trung dũng như thế. Cây xà nu cũng luôn luôn sánh bước cùng
họ để họ có cuộc sống bình yên hơn; để “hầu hết đạn đại bác của đồn giặc đều
rơi vào những ngọn đồi xà nu, cạnh con nước lớn” chứ không nhằm vào những người
dân vô tội lầm than.
Cây xà nu là hình tượng mang đậm chất lý tưởng, tiêu biểu
cho phẩm chất, số phận của người dân Tây Nguyên. Hình tượng cây xà nu trong tác
phẩm mang đậm chất sử thi, tính hào hùng, nó làm rõ chủ đề tư tưởng của truyện
ngắn “Rừng xà nu”. Để xây dựng một hình tượng xà nu như thế, Nguyễn Trung
Thành đã sử dụng những câu văn miêu tả, những từ ngữ, hình ảnh chọn lọc đặc
sắc, cùng nghệ thuật so sánh, nhân hoá, ẩn dụ, giọng văn miêu tả trong tác phẩm
rất linh hoạt.
Có đọc “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành ta mới cảm
nhận hết vẻ đẹp hình tượng cây xà nu. Hình tượng này đã góp phần tạo nên một
“Rừng xà nu” trọn vẹn, mang đậm giá trị văn học. Nguyễn Trung Thành đã góp phần
làm phong phú thêm cho nền văn học dân tộc./.
Nhận xét về bài văn đạt điểm 10
Người chấm 1: Thạc sĩ
Lê An Vinh, giảng viên khoa Ngữ văn - Đại học Sư phạm Đà Nẵng.
“Bài làm hoàn chỉnh cả 3 câu, nếu áp với đáp án của Bộ thì vẫn còn thiếu
một vài ý nhỏ. Nhưng bù vào đó, là sự cảm thụ văn học rất tốt, tư duy mạch
lạc, chất văn bay bổng, cảm xúc dồi dào, đặc biệt giàu sáng tạo.
Người chấm 2: Thạc sĩ
Lương Vĩnh An, giảng viên khoa Ngữ văn ĐH Sư phạm Đà Nẵng:
“So với đáp áp của Bộ, bài làm chưa đạt tuyệt đối 100%. Nhưng sự sáng tạo
trong tư duy, ngôn ngữ, xúc cảm văn chương... thì thật đáng ngạc nhiên. Đọc
câu một, nghĩ người làm học thuộc bài, nhưng càng đọc càng không tin đó là
một bài làm của thí sinh trong thời hạn 180 phút! Chữ viết đẹp, câu cú rành
mạch. Nếu có điểm 11, tôi sẽ là người cho bài viết điểm đó!”.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét