Xã Tân Sơn tiếp giáp với xã Biển Hồ thành phố Pleiku, bà con các
dân tộc nuôi rất nhiều gà, heo thả vườn. Do vận động nhiều và tìm ăn những thức
ăn trong thiên nhiên nên thịt gà cũng như heo ở đây rất dẻ dặt, thơm ngon, còn
đọng nhiều tính hoang dã của vùng sơn cước. Có dịp đến Pleiku, du khách nên
thưởng thức món gà nướng ăn với cơm lam, tận hưởng hương vị ẩm thực cao nguyên.
Ở những khu du lịch khác thuộc các tỉnh Tây Nguyên người ta nướng gà theo cách
sau: Gà tơ khoảng chừng một ký rưỡi trở lại, làm sạch để trong rổ chừng 10
phút cho ráo nước rồi dùng cây xăm đâm vào thịt để cho gia vị ướp dễ thấm. Phụ
liệu và gia vị gồm có mật ong, dầu mè, nước tương ngon, ít muối, bột ngọt, ngũ
vị hương, tỏi bằm một củ, tiêu sọ đâm dập, vài lát gừng xắt sợi, vài miếng vỏ
cam sắc sợi mỏng… Cũng có thể mua loại nước sốt dùng để ướp nướng có bán sẵn ở
các chợ, siêu thị. Trộn đều tất cả gia vị và phụ liệu trên, dùng cọ phết đều
lên thân gà.Để gà lên vỉ nướng với lửa than hồng. Khi thấy gà khô ráo mặt, ta
lấy xuống phết thêm gia vị một lần nữa cho thấm rút vào thịt. Giữ lửa liên tục,
không để bị tắt trong suốt thời gian nướng. Gà chín đem xuống đặt vào dĩa có
lót sẵn xà-lách, cà chua, rau diếp, càng cua. Chấm thịt gà nướng với nước tương
ngon dầm ớt hiểm, ăn kèm với cơm lam.
Còn ở đây người ta nướng gà và dùng gia vị nguyên thuỷ hơn
nhiều: Gà làm thịt xong, chặt chân, cổ và bộ lòng làm món cháo gà (dùng để ăn
nóng sau khi nhậu xong), phần còn lại của con gà (không chế biến, không phết gia
vị) người ta dùng xăm thép, nứa hoặc cây lồ ô xuyên qua con gà và cắm xung
quanh bếp lửa, làm cho thịt khô dần và cho đến khi chín tới, vàng ươm, thơm
lừng, xong xếp ra dĩa, mỗi dĩa một con, thông thường là khẩu phần nhậu của một
người khi đến đây để thưởng thức. Khi ăn dùng tay xé gà không dùng các thực cụ:
dĩa, dao, muỗng, đũa. Chấm thịt gà với muối é, ớt xanh.....muối là muối hầm hạt
to nguyên thuỷ rang khô bỏ vào cối giã nhỏ (không phải muối tinh, hay muối
iốt), ớt xanh có mùi và vị thơm hăng hắc nhưng rất cay, é là lá cây é được bỏ
vào cối giã cùng với ớt xanh và hạt muối rang, người ta không dùng thêm bất kỳ
một gia vị nào khác các loại trên, vì theo sự giải thích của dân địa phương nếu
dùng gia vị (hiện đại) thì sẽ làm mất hương vị của thịt gà, ban đầu không tin nhưng
khi thưởng thức thấy quả đúng là như vậy
Cảnh nướng gà
chiếu ngày 01/5/2011 tại Tân Sơn-Pleiku
Cảnh giã muối é,
ớt xanh
Du khách lúc 15h30' ngày 01/5/2011
Gia đình tôi
Khu chăn nuôi gà, heo của đồng bào dân tộc địa phương
Cơm lam có nguồn gốc từ những chuyến
đi rừng dài ngày của người đàn ông với túi gạo mang theo, dao quắm và đá đánh
lửa cùng ống nứa sẵn có trong rừng, vậy mà nay đã trở thành món đặc sản,
"hút hồn" du khách đến với Tây nguyên. Trong hình dung cảm tính của
nhiều người, cơm lam phải là thứ cơm đại loại có mầu xanh của lá rừng, có hương
thơm của cây rừng... Nhưng thực tế đặc sản của vùng đất bazan ấy được làm từ
gạo nếp ngâm lẫn với lá thơm đêm trước, cho vào ống nứa non. Khi gạo đã đầy hai
phần ba ống, người "đầu bếp" khéo léo đổ nước suối mát lạnh đựng
trong những cái bầu khô như cái hồ lô đen bóng dốc vào từng ống một. Người ta
tước những thẻ lá chuối già hườm hườm và ươm ươm vàng đã tai tái héo bởi hơi nóng
lửa hơ và bắt đầu vê từng cái nút cho từng ống nứa. Những chiếc ống sau khi đã
nạp đủ gạo, nước, nút lá chuối kín, được vùi vào bếp tro hồng. Tiếng những hạt
lửa nhỏ nổ, tiếng nước reo li ti trong ống nghe thật ấm áp, vui tai. Những hạt
gạo dẻo bắt đầu giữ rịt lấy nhau, nước từ thành ống nứa ngấm dần vào từng hạt
gạo.... Chỉ là một món ăn giản dị của núi rừng, gắn với những con suối chảy róc
rách đầu nguồn, những nương lúa chín vàng bên sườn đồi, những vạt rừng tre,
nứa, lồ ô xanh ngút đầu non và bếp lửa hồng mùa đông của mẹ, mà sao có thể
khiến người đi xa khó nguôi quên đến thế. Cơm lam cũng khiến người mới gặp lần
đầu bỗng ngỡ ngàng trước một món ăn tưởng không có gì đơn giản, khiêm tốn hơn,
mà chứa trong đó biết bao nghệ thuật và ý tưởng của hạt gạo vùng cao trong mối
giao tình với nước, lửa và những ống nứa non...hình như ống nứa càng nhỏ, càng
non, càng dài thì cơm đựng trong ống càng ngon. Cơm lam thường được ăn cùng với
thịt rừng nướng hay thịt gà nướng. Từ lịch sử hình thành và cách làm từ lâu cơm
lam đã là một món ăn truyền thống đậm chất dân dã của dân tộc Jrai, Bahnar.
Theo truyền thống của người Bahnar, Jrai, cơm lam thường được sử dụng làm lương
thực khi đi lên rẫy, thết đãi bạn bè hay trong các dịp lễ trọng đại của cộng
đồng. Trong sự biến thiên, giao thoa của các giá trị tinh thần, cơm lam không còn
là món ăn của riêng đồng bào dân tộc thiểu số nữa mà nó đã trở thành tài sản
chung trong khối tài sản văn hóa ẩm thực các dân tộc Việt Nam. Cơm lam xuất
hiện ngày càng nhiều trong các bữa tiệc thịnh soạn, những bữa cơm thết đãi
người thân, bạn bè ở các nhà hàng, khách sạn của tỉnh Gia Lai. Giữa không gian
mênh mông, thoáng đãng, từng khúc cơm lam trắng ngần chấm muối vừng ăn với thịt
gà, lợn nướng thật không gì thú bằng. Trong men rượu cần chuếnh choáng say,
người ăn thưởng thức cơm lam đậm hương vị nồng ấm của cây, của đất và như tận
hưởng được cả thanh âm của núi rừng. Cơm lam của người JơRai, Bahnar thể hiện
sâu sắc tính cộng đồng, gắn kết chặt chẽ với nhiều chi tiết liên quan đến đời sống thường nhật của người dân.
Rượu
cần Phố núi
Đây là
đặc sản rất riêng của núi rừng Tây Nguyên, rượu cần được làm từ men rượu ủ với
cơm, ngô, sắn nấu chín đựng trong ghè sành, trên phủ lá chuối khô nén chặt. Độ
4-5 ngày rượu cần ngấm men, khi uống cho thêm nước lọc vào. Rượu cần có nồng độ
nhẹ, có vị chua chua, ngọt ngọt, người ta uống rượu bằng cần. Trong những dịp
Tết, lễ hội người ta thường uống rượu cần để chúc mừng sức khoẻ, mừng mưa thuận
gió hoà. Rượu cần có nhiều loại. Rượu thóc là lúa mới xay, rửa cho sạch, ngâm
nước rồi trộn men để bỏ vào ché. Lấy lá chuối bịt chặt miệng ché độ năm, sáu
hôm sau là dùng được. Rượu cơm là rượu làm bằng gạo nấu thành cơm ủ với men;
hoặc là trộn đều bỏ vào ché; hay bỏ một lớp cơm, một lớp men cũng được. Cơm
rượu chỉ độ vài ba hôm là nở tràn ché. Còn rượu kê, bo bo, bắp, mì, v.v... thì
cũng làm theo cách trên. Đồng bào Ba Na gọi rễ cây men là Hiam. Rễ này cùng với
gừng, ớt được giã nhỏ, trộn với gạo rồi viên thành viên nhỏ. Hoặc lấy rễ dây
men - loại dây có gai bò trên mặt đất giống như dây trầu - đem phơi khô, giã
nhỏ với củ riềng hay củ gừng rồi cũng viên thành từng viên lớn như quả trứng gà
so. Mỗi ché chỉ bỏ độ một viên men là đủ. Đến lúc uống mới đem cần cắm vào ché.
Cần uống thường làm bằng cây trúc hay cây triêng. Cuốn cây triêng thường dài cả
mét, chặt đem về phơi khô, rút lõi bỏ đi, dùng làm cần rượu thì tuyệt!
Rượu cần tuy nhẹ, dễ uống, nhưng uống nhiều, khách dễ bị say và có thể
ngã lăn quay lắm...lắm
Trường Sơn cao
ngất rừng xanh
Quây quần hũ rượu,
Em - Anh chung cần
Uống rượu cần thể hiện sự đoàn kết, thương yêu không có chuyện chén
chú, chén anh, chén ông, chén bác... Mọi người cùng uống với nhau chung cần, trẻ,
già, trai, gái, cha, mẹ, vợ, con, anh, em, bè bạn,...nhâm nhi thịt gà nướng mà
không sợ mất vệ sinh...thắm đượm tình người.
Khu ẩm thực được đặt từ trước, nhưng thường tới 18 giờ mới đông
khách, có lẽ do ngày lễ du khách ăn, nhậu muộn hơn thường ngày
Khu chăn nuôi gà, heo của đồng bào dân tộc địa phương