XIN CHÀO VÀ CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ ĐẾN VỚI BLOGSPOT.COM CỦA LUU VAN CHUONG

Thứ Hai, 29 tháng 4, 2024

Máy tính điện tử (MTĐT) Minsk-22 (gọi tắt là máy Minsk-22) vào Đà Nẵng năm 1982

Tôi là sinh viên ngành toán kinh tế thuộc khoa toán kinh tế đại học kinh tế kế hoạch Hà Nội năm 1975 - 1976 có học loại máy này hôm nay tình cờ trên trang của Giáo sư Tin học Phan Huy Khánh có đăng bài viết này xin phép chủ trang lưu lại đây làm kỷ niệm một thời nhập môn tin học của Toán học Việt Nam;

GS-TS Phan Huy Khánh 

TÓM TẮT

Tác giả kể lại câu chuyện máy tính điện tử (MTĐT) Minsk-22 (gọi tắt là máy Minsk-22) vào Đà Nẵng năm 1982. Máy Minsk-22 thuộc thế hệ 2, sử dụng linh kiện bán dẫn, thuộc dòng máy Minsk, được sản xuất tại thành phố Minsk, thủ độ nước CH Belarus (thuộc Liên Xô cũ). Máy Minsk-22, đầu tiên đến Hà Nội, sau đó đến Đà Nẵng, là chiếc MTĐT thế hệ 2 cuối cùng (cũng là loại MTĐT duy nhất ở Việt Nam thời đó) chứng kiến một giai đoạn lịch sử trong tiến trình phát triển CNTT ở Việt Nam nói chung, ở Đà Nẵng, Miền Trung nói riêng. Qua các sự kiện chảy theo dòng thời gian của những năm 70, 80 thế kỷ trước, bài báo nhắc lại những kỷ niệm khó quên về những người thầy, những người bạn học, những bài tập thực hành lập trình bằng ngôn ngữ máy lần đầu tiên trên MTĐT Minsk-22 khi tác giả còn theo học lớp Toán Tính K19, Khoa Toán-Lý, trường ĐHBK Hà Nội. Câu chuyện làm sống lại một hành trình gian khổ không kém phần thú vị để đưa MTĐT Minsk-22 từ trường ĐHBK Hà Nội về trường ĐHBK Đà Nẵng và những ngày lắp đặt, vận hành cho đến khi máy Minsk-22 bị người ta “thanh lý”, rồi hoàn toàn biến mất từ đó đến nay.

1. Hồi tưởng lại

Cách đây không lâu, tình cờ vào mạng tìm kiếm tài liệu với Google, tôi tìm đọc được một bài báo thú vị nói về thầy giáo Nguyễn Bá Hào của anh Nguyễn Đăng Hà, cựu sinh viên K13, thuộc khoa Toán-Lý (trước đây là Khoa Cơ bản), trường ĐHBK Hà Nội. Thầy Nguyễn Bá Hào cũng là thầy cũ của tôi. Đó là thời gian tôi được phục viên, rời quân ngũ về tiếp tục học lại đại học với lớp K19 Toán-Tính (viết tắt cụm từ “Toán học Tính toán”), cùng khoa Toán-Lý. Hồi đó chúng tôi được gọi là “bộ đội đi học”, do đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự. Nhớ lại, tôi vào học K14 Toán-Lý được hai năm, từ năm 1971 đến 1976, tôi nhập ngũ, vào Đoàn Pháo 75 tại chiến trường B2 Miền Đông và Miền Tây Nam Bộ. Thầy Nguyễn Bá Hào đã dạy chúng tôi các môn “Hệ điều hành”, “Ngôn ngữ lập trình COBOL”. Tôi cũng được học với các thầy khác, thầy Nguyễn Văn Ba, Đỗ Xuân Lôi… Các thầy đã dẫn dắt chúng tôi đi vào thế giới mới lạ của MTĐT, tạo dựng niềm say mê và ham thích lập trình cho đến ngày nay. Ngành Toán-Tính, lập trình cho MTĐT (nay là Tin học, CNTT), hồi đó vẫn còn rất mới mẻ. Đến tháng 10 năm 1979, tôi tốt nghiệp ra trường và “được” Bộ Đại học và Trung học Chuyên nghiệp (nay là Bộ Giáo dục và Đào tạo) phân công, bổ nhiệm vào trường ĐHBK Đà Nẵng. Thấm thoắt đã 34 năm trôi qua. Năm 2013 này, trường ĐHBK Hà Nội tuyển sinh khoá K58.

         Điều đáng nói, anh Nguyễn Đăng Hà đã nhắc lại những kỷ niệm về thực hành lập trình trên máy MTĐT Minsk-22 tại nhà 39 Trần Hưng Đạo, Hà Nội. Chình điều này đã thôi thúc tôi tìm cách để viết bài báo này, hồi tưởng lại một thời đã học đại học ở Hà Nội, có dịp làm việc với máy Minsk-22. Tưởng rằng sẽ không có dịp nào để trở về lại quá khứ đó, nhưng như một cơ duyên, tôi lại gặp lại máy Minsk-22 “bằng xương bằng thịt” ở trường ĐHBK Đà Nẵng vào đầu những năm 80, với bao sự kiện đáng nhớ.

Câu chuyện này kể lại từ lúcMTĐT Minsk-22 có mặt tại Phòng Toán học Tính toán, thuộc Uỷ ban Khoa học Kỹ thuật Nhà nước (UBKHKTNN) năm 1968, sau đó được bốc chuyển đến trường ĐHBK Hà Nội năm 1980, rồi được bốc chuyển bằng ô tô vào Đà Nẵng năm 1982, từ đó vĩnh viễn biến mất. Qua các sự kiện chảy theo dòng thời gian của những năm 60, 70 và 80 của thế kỷ trước, từng bước hồi tưởng lại những kỷ niệm khó quên mà tôi được biết, được làm người trong cuộc.

2. MTĐT Minsk-22 đến Hà Nội

2.1. Thời gian đầu

Theo tài liệu trên mạng, vào những năm 1960 của thế kỷ trước, nước ta bắt đầu xây dựng ngành MTĐT. Vào khoảng cuối năm 1968, đầu 1969, MTĐT Minsk-22 (Электронно-Вычислительной Машине Минск-22) được Liên Xô tặng và nhập đường biển về nước qua Cảng Hải Phòng, rồi theo đường tàu hoả về Hà Nội. Lúc này, miền Bắc đang ở trong thời kỳ chiến tranh. Để tránh bị bom đạn máy bay Mỹ phá hoại, máy Minsk-22 được “trú ẩn” tại tầng hầm của toà nhà 39 Trần Hưng Đạo, UBKHKTNN. Những người đầu tiên phụ trách Minsk-22 là GS. Nguyễn Lãm và các kỹ sư của Phòng Toán học Tính toán.

Hình 1. Nhà 39 Trần Hưng Đạo có tầng hầm  đặt MTĐT Minsk-22

Máy Minsk-22 thuộc thế hệ hai, dòng máy tính lớn (Macro Computer), dùng linh kiện bán dẫn (chưa phải mạch tổ hợp), kết hợp kỹ thuật cơ khí chính xác, được chế tạo tại Belarus, thuộc Liên Xô cũ . Phiên bản sau của họ Minsk[1] là MTĐT Minsk-32, sản xuất năm 1968. Năm 1974, máy Minsk-32 được Nhà nước mua về, đặt tại 34A Trần Phú, Hà Nội, thuộc Bộ Quốc Phòng và Tổng cục Thống kê. MTĐT Minsk-32 sử dụng ngôn ngữ máy hai địa chỉ, do được sản xuất sau nên có thể làm việc với các ngôn ngữ lập trình (NNLT) bậc cao như COBOL, FORTRAN và ALGAMS (một phiên bản của ALGOL).

Hình 2. Bàn điều khiển MTĐT Minsk-22, bên trái là máy đọc băng giấy đục lỗ, bên phải là hai tủ băng từ.

Hình 3. Các tủ linh kiện MTĐT Minsk-22.

Vào thời điểm đó, Minsk-22 là một trong những MTĐT hiện đại nhất của Liên Xô và các nước Đông Âu. Diện tích đặt máy khoảng 80m². Hệ thống Minsk-22 gồm một đơn vị trung tâm, dung tích bộ nhớ trong là 4096 ô, mỗi ô có 37 ngăn (Bit), khoảng 19KB, là một ma trận xuyến ferit từ, tốc độ xấp xỉ từ 5 đến 6 ngàn phép tính/giây sử dụng hệ 2 . Máy Minsk-22 chưa có hệ điều hành như những máy tính hiện nay.

Hình 4. Đoạn băng giấy đục lỗ 5 kênh mã M-2.

Thiết bị vào/ra gồm máy đọc/máy đục băng giấy đục lỗ, máy đọc/máy đục bìa giấy đục lỗ và teletip (dạng máy đánh chữ). Tuy nhiên thực tế chỉ dùng băng giấy đục lỗ 5 kênh theo mã điện tín quốc tế M-2 (H.4) để đưa chương trình và số liệu vào máy. Thiết bị đưa ra chủ yếu là máy in khổ hẹp (16 cột), máy in khổ rộng (128 cột). Thiết bị nhớ ngoài là băng từ có dung tích 400 ngàn ô (~15MB), băng giấy (35 ngàn ký tự), hay bìa giấy (vô hạn).

Hình 5. Cơ chế hoạt động của tủ băng từ.

Máy Minsk-22 có hai tủ băng từ (h.5 do tôi tự vẽ). Trong mỗi tủ, dải băng từ (màu nâu đỏ) được thả rơi tự do xuống hai thùng hai bên cánh cửa tủ, phía trên vắt ngang qua hệ thống điều khiển, mỗi bên có hai bánh xe ép vào băng để chuyển băng từ qua trái hay qua phải, đi qua đầu đọc/ghi nằm ở giữa. Nhìn từ bên ngoài qua cửa kính có thể thấy băng từ khi làm việc kêu lạch xạch, rơi tự do, loằng ngoằng như hai con rắn hai bên. NNLT chủ yếu là ngôn ngữ máy hai địa chỉ. Khi lập trình, sử dụng hệ 8 để viết các dòng lệnh lên giấy mẫu (H.6). Số liệu hệ 10 khi đưa vào máy bằng băng giấy đục lỗ phải đổi sang hệ 2-10, mã M-2 với những quy ước rất phức tạp.

2.2. Những ngày làm quen với Minsk-22

Đến cuối năm học thứ ba, tôi mới được đặt chân đến 39 Trần Hưng Đạo, để bắt đầu thực hành lần đầu tiên việc lập trình trên MTĐT.

Số hiệu của lệnh

Mã phép tính

Địa chỉ

ô chỉ số

α

Địa chỉ

Giải thích

Dấu

θ

a1

a2

 

 

 

 

 



 

 

Hình 6. Giấy mẫu viết chương trình.

Những ngày đó, cả 14 người lớp K19 Toán-Tính chúng tôi, ai cũng háo hức và xen lẫn hồi hộp. Máy Minsk-22 được đặt trong phòng lạnh. Vào phòng phải tụt hết dép, guốc bỏ ngoài. Khi mở cửa vào, một luồng khí lạnh tràn ra làm cái nóng Hà Nội dịp hẻ tháng bảy như dạt hết ra phía sau. Tôi nghe tiếng máy kêu vo vo khác lạ (thực chất là các máy điều hoà đời cũ, kêu to). Đập vào mắt tôi là bảng điều khiển trung tâm (H.3) với các đồng hồ, các hàng phím đèn vàng nhấp nháy, các công tắc (khoá) và phím nhấn, cứ hoa cả mắt. Phía sau bảng điều khiển là dãy các tủ khá to đứng bao quanh sừng sững. Tất cả đều được sơn một màu xanh men ngọc, rất đặc thù của dòng máy Minsk. Tôi còn nhớ có một vật trang trí trong suốt (có lẽ bằng pha-lê) đặt trên nóc bảng điều khiển trung tâm rất lạ mắt. Ngoài ba hay bốn cán bộ đang chạy máy thường trực, chúng tôi chỉ được vào phòng máy lần lượt mỗi người một lần khoảng 30 phút.

Đề được vào chạy máy, chúng tôi phải viết chương trình bằng ngôn ngữ máy trong hệ 8. Cả chương trình và số liệu lại phải được viết bằng tay lên giấy mẫu quy ước. Sau đó cả lớp gom giấy mẫu đưa đến Phòng đục lỗ để các cán bộ ở đó đục ra băng giấy. Mày đục lỗ giống máy đánh chữ, vừa đục lỗ lên băng giấy, vừa đánh mực in lên băng giấy khổ hẹp để kiểm tra lổ đục. Có lỗ đục là 1, không có lỗ đục là 0 trong hệ 2.

Bài tập chạy máy là giải hệ phương trình, tính toán ma trận, tính gần đúng hàm số… của môn “Phương pháp tính”. Sau khi đục lỗ, mỗi người nhận được cuộn băng giấy đục lỗ và một mẩu giấy in chương trình, số liệu để kiểm tra. Phải thuộc lòng mã M-2 và dò băng giấy trước khi đến phòng máy. Nóng đổ mồ hôi để dò tương ứng các lỗ theo hệ 2 với các chữ số hệ 8 và hệ 2-10 quy ước. Khi phát hiện sai sót, máy đục thiếu lỗ, cán bộ kỹ thuật đục sai, lại phải dùng lưỡi dao cạo (phải tìm bằng được lưỡi CROMA của CHDC Đức, rất hiếm hồi đó) để cố gắng khoét tròn lỗ bị thiếu hay lỗ chưa thủng (đường kính cỡ 1,5 mm), hoặc dán che lỗ lại.

Hình 6. Một đoạn chương trình bằng ngôn ngữ máy. 

Tuy nhiên chương trình vẫn chưa chạy được. Hồi hộp xem kỹ thuật viên lắp giấy vào máy đọc. Chưa kịp định thần thì máy đã đọc xong rồi. Chỉ trong tích tắc, đoạn băng (3 – 5m) đã chạy vèo qua dãy tế bào quang điện. Ngay lập tức  trên bảng điều khiển, đèn báo lỗi (Останов) sáng lên, chương trình sai, hoặc do lỗi đục lỗ. Thất vọng, hụt hẫng. Lại phải cuộn vội băng giấy mang về nhà chuẩn bị lại từ đầu. Có người chưa kịp nhìn hết phòng máy, chưa kịp thấy mặt kỹ thuật viên là ai, chưa kịp cảm nhận không khí mát lạnh, tiếng máy chạy vo vo và mùi vị rất lạ, đã phải ra ngoài dáo dác tìm dép để đến lượt người khác đang háo hực chờ ở ngoài.Nhìn nhau, mệt mỏi, nhưng ai cũng rất vui và có vẻ tự hào, quên cả cái nóng táp sầm sập vào người. Trước khi vào phòng máy chạy chương trình, ai cũng đã tìm cách tự tính bằng tay biết trước được kết quả rồi, nhưng phải vào máy nhiều lần (vừa hết đợt thực hành) để có được kết quả gần giống vậy. Cầm trong tay đoạn giấy khổ hẹp in kết quả, các chữ số in lượn sóng nhích lên, thụt xuống, chữ đậm, chữ nhạt, vỏn vẹn vài ba hàng, mà vui như mở cờ trong bụng.

2.3. Về trường Đại học Bách khoa Hà Nội

Khoảng năm 1974, Viện Tính toán và Điều khiển học, Viện Khoa học Việt Nam, nhận được máy tính mới ODRA của Ba Lan và quyết định đưa máy Minsk-22 về Bộ Đại học và Trung học Chuyên nghiệp. Năm 1977, Bộ giao máy Minsk-22 cho trường ĐHBK Hà Nội. Máy Minsk-22 vẫn đặt tại 39 Trần Hưng Đạo. Năm 1979, Trường ĐHBK Hà Nội lại được nhận máy tính mới EC-1022 và thành lập Trung tâm Máy tính  (TTMT) trực thuộc Khoa Toán-Lý. Máy EC-1022 là thế hệ sau cũa họ Minsk, là sản phẩm hợp tác của khối COMECON (SEV), phỏng IBM, thuộc đầu thế hệ 3, dùng mạch tích hợp IC (Integrated Circuit), sản xuất tại Belarus . Để sử dụng máy EC-1022, trường ĐHBK Hà Nội đã cử nhiều đoàn cán bộ của TTMT sang Liên Xô học tập. Máy hoạt động từ năm 1981-1982, đến khoảng năm 1989 thì bị “thanh lý”.

Do diện tích đặt máy EC-1022 chiếm nhiều phòng, trường đã cải tạo một phần lầu 2 nhà C1 để lắp đặt máy. Cùng lúc, cán bộ của TTMT phải làm việc ở cả hai nơi, vừa ở 39 Trần Hưng Đạo với máy Minsk-22, vừa ở trường với máy EC-1022. Do có ít cán bộ chuyên môn, TTMT không thể làm việc hiệu quả và khó quản lý, trường đã quyết định chuyển máy Minsk-22 về trường. Năm 1980, TTMT đã tháo dỡ và bốc chuyển máy Minsk-22 về đặt cạnh phòng máy EC-1022.

3. MTĐT Minsk-22 vào Đà Nẵng

Trước khi kể lại câu chuyện MTĐT Minsk-22 đã vào Đà Nẵng như thế nào, cũng cần nhắc lại một vài sự kiện. Sau khi tốt nghiệp trường ĐHBK Hà Nội năm 1979, tôi được Khoa Toán-Lý giữ lại làm cán bộ giảng dạy. Tuy nhiên sau đó, tôi lại được Bộ điều động “vào Nam” đưa vào trường ĐHBK Đà Nẵng (cũng như nhiều người khác những năm đó). Thời gian đầu, tôi về Bộ môn Toán, thuộc Khoa Cơ Bản. Về trước tôi một năm (1978) và cùng Bộ môn là chị Bùi Thị Hoàng (nay đã nghỉ hưu), xem là cùng ngành Toán-Tính với tôi. Trước đó, chị công tác tại UBKHKTNN, Hà Nội. Sau một học kỳ tham gia chữa bài tập toán và chuẩn bị bài giảng, năm học 1980-1981, tôi được Bộ môn Toán phân công dạy môn học “Kỹ thuật tính toán” cho lớp 77K3, hồi đó thuộc ngành Ngoại thương. Những năm đó hai chị em chỉ giảng dạy môn học này cho Khoa Kinh tế, thuộc trường ĐHBK Đà Nẵng (từ năm 1990 tách ra thành trường ĐH Kinh tế). Nội dung môn học gần với môn “Tin học đại cương” bây giờ, tuy nhiên chúng tôi dạy NNLT FORTRAN. Dạy “chay”, học “chay”, vì không có MTĐT. Chúng tôi đã thử đề nghị cho sinh viên được đi thực tập máy điện toán IBM360/50 ở Sài Gòn, dĩ nhiên trường không đồng ý.

Năm sau, Bộ môn Toán có thêm anh Phan Đinh Lợi, vừa tốt nghiệp K20 cùng Khoa Toán-Lý với tôi, gốc người Hà Nội. Cả ba chị em lúc đó đều mong mỏi được tách khỏi Bộ môn Toán để thành lập riêng một Bộ môn Toán-Tính và được giảng dạy chuyên ngành. Có thể những năm 80 và 81, khi máy Minsk-22 đã trải qua một thời kỳ vẻ vang, trở nên cũ kỹ hơn so với máy EC-1022 thế hệ sau đứng bên cạnh, trường ĐHBK Hà Nội tìm được trường ĐHBK Đà Nẵng để tặng lại máy Minsk-22. Cho đến nay, không còn ai nhớ những ngày tháng đó.

Cuối năm 1981, PGS. Lý Ngọc Sáng, hiệu trưởng trường ĐHBK Đà Nẵng và GS. Hà Học Trạc, hiệu trưởng trường ĐHBK Hà Nội, đã gặp gỡ nhau và đi đến quyết định chuyển máy Minsk-22 vào trường ĐHBK Đà Nẵng. Sau Tết Âm Lịch, khoảng tháng 3/1982, 5 chiếc xe ô tô “Zin Khơ” trọng tải 5 tấn mỗi chiếc lập thành đoàn chạy thẳng ra trường ĐHBK Hà Nội để nhận máy. Anh Huỳnh Đốc, trưởng Phòng Thiết bị của trường, làm trưởng đoàn (anh đã mất năm 2010), anh Doãn Văn Tân làm quản lý. Ba chị em chúng tôi cũng được tham gia, đi ra bằng tàu hoả, khi về Đà Nẵng mới theo xe ô tô của đoàn.

3.1. Đường vào Đà Nẵng

Máy Minsk-22 có khoảng 10 tủ sắt (lớn hơn tủ quần áo) và rất nhiều thùng sắt, hòm gỗ đựng máy móc, thiết bị, linh kiện, tài liệu… Một cần cẩu lớn được thuê cẩu từ lầu 2 nhà C1 xuống 5 thùng xe tải. Các tủ máy rất nặng và cồng kềnh. Để giảm xóc và tránh va đập, chúng tôi phải mua mấy xe rơm khô chở từ ngoại thành Hà Nội vào để chèn giữa các tủ, các thùng. Cận thận hơn nữa, mỗi tủ máy lại được trùm bọc kín một lớp chăn chiên. Dịp đó, Bộ môn Mac-Lênin trường ĐHBK Hà Nội gửi nhờ xe chở vào Đà Nẵng mấy thùng gỗ lớn chứa sách “Tuyển tập V. I. Lênin” được Liên Xô tặng, bìa cứng màu xanh dương, in giấy trắng tinh, rất đẹp (số sách này sau này vẫn còn nhiều, chất đống ở Bộ môn Máy tính). Do thiếu chỗ, chúng tôi quyết định tháo các thùng sách ra và chèn vào các chỗ trống trong các tủ máy. Chúng tôi bảo nhau vậy là gặp điều may mắn rồi. Có Lênin trên xe, thế nào cũng thượng lộ bình an trên cả quãng đường gần 800 cây số vào Đà Nẵng. Sáng hôm đó, trời lạnh cóng. Chúng tôi hãnh diện nhìn cán bộ, sinh viên trường ĐHBK Hà Nội dừng lại hai bên đường xuýt xoa, tò mò nhìn đoàn xe phủ bạt kín mít chạy lầm lũi qua cổng Parabol.

Qua Bệnh viện Bạch Mai, qua ga Giáp Bát, rồi ra ngoại thành Hà Nội. Miền Bắc vừa trải qua chiến tranh, bị bom đạn cày xới, phố xá, làng quê đói nghèo xơ xác. Trên hành trình xuống phương Nam, đoàn xe men theo Quốc lộ 1 rất nhỏ hẹp, nhiều đoạn như đường làng, quanh co, khúc khuỷu, đầy ổ voi, ổ gà, nước đọng vũng… Cả đoàn xe đánh võng, gầm rú, thỉnh thoảng dừng lại chờ một đàn bò ngơ ngác lửng thững qua đường, hay một xe đạp thồ thủng xăm nằm vật vã giữa đường…

Sau một ngày một đêm, rạng sáng hôm sau máy Minsk-22 vào đến Đà Nẵng. Dỡ bạt ra, hầu như các tủ máy đều bị cong vênh, trầy xước. Cửa kính một tủ băng từ bị vỡ. Nhiều linh kiện bị đứt chân, bong tróc cả mối hàn… Phòng Thiết bị lại thuê cần cẩu để cẩu toàn bộ thiết bị, linh kiện lên hai phòng kề nhau ở lầu 1, nằm giữa Khu A, vốn là phòng khách, nay là phòng Truyền thống của trường. Xúm xít, hò hè, nâng, đỡ, kê, bẩy, đẩy qua, vật lại, cuối cùng, cả hệ thống máy móc Minsk-22 cũng vào hết trong phòng.

Những ngày sau đó, tôi có cảm giác như cả trường ĐHBK đều biết đến sự kiện này, có cả tò mò và ngạc nhiên. Phòng Thiết bị vừa phải tu sửa phòng đặt máy (trước đó chưa chuẩn bị gì, mới di chuyển hết đồ đạc ra ngoài), vừa đục khoét tường lắp máy điều hoà và tiến hành lắp đặt máy. Phòng ngoài, phía nhìn ra sảnh, dùng nơi đặt máy. Phòng sau làm kho chứa linh kiện, thiết bị…. Phòng máy được lắp 6 máy điều hoà Westinghouse loại cũ đã qua sử dụng. Loại máy này chỉ có một thùng, vừa làm dàn lạnh vừa làm dàn nóng, mỗi lần bật lên, chạy kêu ầm ĩ, nước chảy giọt lênh láng ra hành lang. Những ngày đó, trừ hôm bị cắt điện, gần như được mở chạy làm lạnh cả ngày, cả đêm, 24/24, 7/7.

Nhờ “thành tích” chuyên chở, lắp đặt, và cũng đúng vào dịp đang diễn ra Đại hội Đảng CSVN lần thứ V ở Hà Nội, chúng tôi vinh dự được trường tặng ngay cho mỗi người một chiếc “Huy hiệu Đại hội Đảng V”.

3.2. Đánh vật với Minsk-22

Mấy ngày sau, trường ĐHBK Hà nội cử hai cán bộ của TTMT là Trần Quốc Hưng (thầy giáo cũ của tôi) và Lê Minh Tân vào Đà Nẵng để trợ giúp lắp đặt. Phải mất hơn một tuần để kê dịch đặt lại các tủ đúng vị trí, rồi tháo lắp, chữa chỉnh, cắm các đầu giắc dây dữ liệu và điều khiển. Máy Minsk-22 có rất nhiều dây dẫn đủ màu sắc, được bó thành từng bó lớn và dài, chạy loằng ngoằng quanh phòng. Bên trong mỗi tủ sắt có đến hàng trăm bản mạch điện tử với hàng chân cắm mạ đồng màu vàng rực trên các giá đỡ. Có thể nói, tài liệu, bản vẽ mô tả cấu trúc máy và hướng dẫn sử dụng kèm theo máy thật nhiều. Tất cả đều được đóng kẹp bìa cứng theo từng đơn vị điều khiển, từ CPU, bộ nhớ trong, các thiết bị vào/ra, đến các khối chức năng. Nhiều tài liệu khi mở ra trải dài cả mét. Mất rất nhiều công sức (nhiều hôm hỳ hục đến tận khuya) để vận hành, chạy thử, máy Minsk-22 được bàn giao chính thức cho trường.

Những ngày đó, chị Hoàng, anh Lợi và tôi luôn có mặt để lắp máy và làm quen dần cách sử dụng. Ban Giám hiệu cũng thường xuyên đến quan sát, thăm hỏi và động viên. Mỗi lần máy được khởi động, tôi nhìn thấy hai dải băng từ trong hai tủ băng từ chạy qua vắt lại, kêu lạch xạch mỗi lần ngắt. Trên mặt bảng điều khiển, cả vùng bao quanh hàng phím mã (Набор Кода, có 37 phím bấm tương ứng với 37 ô nhớ của bộ nhớ trong) sáng bóng, dùng lâu ngày nhẵn hết cả nước sơn xanh men ngọc vốn có. Được hướng dẫn, tôi bắt đầu nhớ quy trình điều khiển. Bắt đầu nhấn phím ΠУСK (Start) khởi động máy, nhấn các phím xoá bộ nhớ trong, hạn chế vùng làm việc và chỉ định địa chỉ vùng nhớ đọc vào. Lắp cuộn băng giấy đục lỗ vào một vòng nhựa và lắp tiếp vào bánh xe bên trái của máy đọc (giống máy chiếu phim). Nhấn phím đưa vào bằng băng giấy ΠЛbbод, cuộn băng giấy đục lỗ chạy vèo qua máy đọc đưa chương trình số liệu vào máy. Để vận hành suôn sẻ máy Minsk-22, cần nhiều công đoạn phức tạp và tốn kém, kể cả nhân lực và tiền bạc. Chỉ nói riêng việc phải có phòng đục băng giấy cũng đã gây tranh cãi về khâu tổ chức và quản lý và quy trình khai thác…

Sau khi bàn giao được vài tuần, máy lại hỏng. Anh Trần Quốc Hưng lại lặn lội từ Hà Nội bay vào Đà Nẵng một lần nữa để tìm nguyên nhân khắc phục. Khi phát hiện được do hỏng bộ nhớ trong (Мозу), ai cũng mừng, vì may mắn là vẫn còn được dự trữ một thiết bị nhớ mới tinh để sẵn sàng thay thế. Đó là một ma trận 64×64 xuyến sắt từ, tròn nhỏ cỡ hạt gạo. Xuyên qua nó là 16 sợi dây đồng vàng rất mảnh. Cầm nâng niu thiết bị nhớ trên tay, thấy cả mảng xuyến rung rinh, cứ có cảm giác lo sợ bị đứt dây. Sau đó thì máy cũng chạy được, chủ yếu là chạy kiểm tra mấy chương trình nhỏ đã được đục lỗ sẵn trên băng giấy mang từ Hà Nội vào. Theo yêu cầu, máy phải để chạy liên tục ngày đêm không ngưng nghỉ (kể cả hệ thống máy điều hoà). Về sau, vì phòng máy tính tiêu tốn nhiều điện quá, máy điều hoà lại hư hỏng thường xuyên, nên trường đã đề nghị tắt máy Minsk-22, chỉ khi nào sử dụng mới cho bật máy lên.

Sau khi máy Minsk-22 được lắp đặt, trường thành lập Bộ môn Máy tính, do anh Huỳnh Đốc làm Tổ trưởng Bộ môn, vừa làm trưởng Phòng Thiết bị. Khoảng một năm sau, đầu năm 1983, anh Nguyễn Ngọc Diệp ở Khoa Cơ khí đi thực tập một năm ở Pháp vừa về. Anh mang về chiếc máy tính cá nhân Sinclair ZX80 có thể nói “siêu nhỏ nhẹ” và độc đáo (nhỏ hơn bàn phím máy tính bàn). Bộ nhớ chỉ 1KB. Để đưa ra màn hình, anh Diệp phải lôi tivi đen-trắng 11 inch của nhà ra để cắm máy vào mỗi khi chạy. Hồi đó máy Sinclair đã có thể lập trình với ngôn ngữ BASIC, mà đối với tôi, hết sức lạ lẫm.

Sau đó, anh Nguyễn Ngọc Diệp được trường bổ nhiệm làm Tổ trưởng Bộ môn Máy tính. Thời gian này, Bộ môn lần lượt được nhận về những chiếc MTĐT để bàn (vi tính) mới. Đầu tiên là hai chiếc máy Apple IIe do Việt kiều Pháp mua tặng, sau đó là một chiếc máy NEC cũng được Việt kiều Nhật mua tặng. Câu chuyện đi nhận máy ở Sân bay Tân Sơn Nhất, cũng như ở Cảng Hải Phòng, sau này kể lại, cứ cười ra nước mắt. Năm 1984, tôi được bổ nhiệm làm Tổ trưởng Bộ môn Máy tính. Những năm tháng này, việc giảng dạy môn “Tin học đại cương” bắt đầu được triển khai cho hầu hết các khoa trong trường. Do được trang bị nhiều máy tính để bàn mới, và với những tính năng ưu việt của thế hệ máy tính này (thay đổi liên tục, chóng mặt cho đến nay), hầu hết mọi hoạt động khai thác máy của Bộ môn đều chỉ tập trung vào các máy để bàn. Tất cả các máy tính này đều được lắp đặt cùng chỗ trong phòng máy Minsk-22. Từ những ngày đó trở đi, gần như máy Minsk-22 đứng bất động, im lìm. Nhờ có máy tính mới, rất mới lạ đối với cả Đà Nẵng, Miền Trung Tây Nguyên, Bộ môn Máy tính đã tiếp thị và triển khai được một số hợp đồng kinh tế xây dựng các phần mềm quản lý cho các công ty, xý nghiệp ngoài trường. Nhiều cán bộ của trường và cơ quan ngoài cũng tham gia sử dụng máy vi tính. Cùng với Xí nghiệp Tính toán (nay là Trung tâm Tin học Thống kê Khu vực III), Cục Thống kê Quảng Nam-Đà Nẵng đã tổ chức các cuộc xêmine về lập trình BASIC. Ngày đó họ có máy tính một địa chỉ C8205, còn gọi là Celeron, bộ nhớ dùng trống từ (Drum).

3.3. Xẻ thịt Minsk-22

Năm 1987, tôi đi làm NCS. Cuối năm 1993, tôi về lại Bộ môn thì không còn máy Minsk-22 nữa. Cũng như số phận của các dòng MTĐT thế hệ trước, máy Minsk-22 bị xẻ thịt, “thanh lý”. Nhiều năm sau đó, ở Bộ môn, từ năm 1995 thành Khoa CNTT, vẫn còn hai hay ba tủ sắt đã gở bỏ hết linh kiện bên trong, dùng đựng đồ lặt vặt, đứng chơ chỏng ở góc phòng, chung số phận với các máy Apple IIe.

Năm 2004, Hội thảo Quốc gia lần thứ VII “Một số vấn đề chọn lọc của CNTT & Truyền thông” diễn ra tại ĐH Đà Nẵng. GS. Bạch Hưng Khang, Viện trưởng Viện CNTT, Viện KH&CN VN, đã hỏi tôi về máy Minsk-22, nếu còn thì Viện sẽ mua lại. Tôi nghĩ có thể anh Khang hỏi đùa cho vui. Tuy nhiên tôi nghĩ nếu bây giờ mà vẫn còn hệ thống máy Minsk-22 như ngày nào, thì thật là một bảo tàng quý giá về một thế hệ MTĐT dùng bán dẫn. Có thể tìm thấy ở đó thật sống động kiến trúc và nguyên lý Von Neumann phát triển từ mô hình Turing, cấu trúc phần cứng, cơ chế biểu diễn thông tin, sử dụng các thiết bị vào/ra, lập trình bằng ngôn ngữ máy 2 địa chỉ, v.v… Tất cả những kiến thức có được từ hiểu và khai thác máy Minsk-22 giúp chuyên sâu về Tin học. Ngày nay, với thế giới vi tính đa dạng, từ máy để bàn (Desktop) đến máy xách tay (Laptop), từ điện thoại thông minh đến máy tính bảng (tablet), NSD không còn biết phía sau màn hình, bàn phím là gì trong đó, và như thế nào… như là một lẽ dĩ nhiên. Có thể vài ba năm nữa, máy tính cầm tay sẽ là một phép tích hợp của tất cả những loại máy này, kể cả tivi, điện thoại… Nhưng cũng nên nhớ rằng, tất cả đều là MTĐT ở thế hệ 4, sử dụng mạch tổ hợp lớn CMOS (Complementary Metal-Oxide-Semi-conductor), hoạt động theo kiến trúc cơ sở và nguyên lý tuần tự Von Neumann.

Trong câu chuyện có kể lại sự kiện Bộ môn Máy tính đã được tham gia “thanh lý” kho băng giấy cho Làng Pháo Nam Ô nức tiếng một thời ở Hoà Hiệp, phía Bắc Đà Nẵng. Những năm 80, có được băng giấy Liên xô trắng tinh, dày, rộng 25mm, vừa dai, vừa đóng thành cuộn dài cỡ 80m, để quấn làm vỏ pháo, chắc chắn là tuyệt vời. Tôi cứ tưởng tượng dịp Tết đến Xuân về khi nhà nhà nổ pháo Nam Ô, trong xác pháo bay tung trời có thể có những mảnh giấy của máy Minsk-22 bay lả tả.

Cũng muốn kể thêm về hành trình nhận máy Minsk-22. Tôi với anh Phan Đinh Lợi đã tranh thủ chuyến đi để thực hiện “chiến dịch KT”. Khi đi ra Hà Nội bằng tàu hoả, nghe nói ở Hà Nội có vài mặt hàng rất đắt giá, nên khi tàu dừng ở Ga Đồng Hới, Quảng Bình, chập choạng tối, hai anh em nhảy bổ xuống, dồn hết tiền mang theo, ngả giá mua được một thúng trứng vịt quê và khăn mặt (xuất xứ Lào, tuồn về qua cửa khẩu Lao Bảo). Mang khăn mặt (K) và trứng (T) lên tàu, không dám lại về chỗ ngồi (sợ chị Hoàng cười cho), mà nằm ngủ vạ vật canh hàng tại hành lang một toa giường nằm. Nửa đêm có cô nhân viên đi qua xốc dậy la ầm lên “Gớm hai ông tướng này, buôn trứng như điên, mà ngủ như điên !”. Ra Hà Nội chúng tôi bán tống bán táng ở Chợ Đồng Xuân (kể lại rất dài dòng), chẳng lãi bao nhiêu mà tôi lại bỏ quên cái áo đi mưa quân đội. Trên chuyến về, theo gợi ý của gia đình anh Lợi, chúng tôi lại “tranh thủ” chất nhiều bì khoai tây (KT) lên ô tô mang vào Đà Nẵng. Thế nhưng kết cục cũng chẳng hơn gì. Bán không được, suốt nhiều ngày sau, vừa ăn vừa cho, mãi mới hết.

4. Thay lời kết

Đã hơn 32 năm trôi qua. Còn có bao nhiêu sự kiện thú vị đáng kể nữa tính từ ngày Bộ môn Máy tính được thành lập. Để viết được bài này, tác giả đã gọi điện, nhắn tin cho nhiều người, tìm kiếm trên Google. Tác giả lục tìm được trong tủ sách gia đình cuốn sách cũ “Lập chương trình cho máy tính điện tử”  do trung tâm tính toán của Viện HLKH Liên Xô xuất bản năm 1965, do ông Nguyễn Văn Kỷ và hai người khác cùng dịch ra tiếng Việt. Đây là một tài liệu hướng dẫn lập trình ALGOL-60, cách sử dụng và lập trình ngôn ngữ máy Minsk-22, rất bổ ích trong suốt thời gian tôi học đại học ở Hà Nội và sau đó theo thầy Trần Quốc Hưng lắp đặt tại Đà Nẵng.

Ngày nay, khi nghe tên Minsk, người ta nghĩ ngay đến “xe máy bình bịch” Minsk, nổi tiếng “trâu bò”, từ Belarus đến nước ta những năm 60 đến nay, một loại “xe thồ” rất thịnh hành ở vùng núi, biên giới phía Bắc. Giới trẻ, kể cả người nước ngoài, dùng xe Minsk thành “câu lạc bộ”, thành “mốt” du lịch bụi (phượt) hay kiếm sống.

It người nhớ đến chuyện Làng Pháo Nam Ô, chuyện máy Minsk-22…

Lời cảm ơn

Tác giả gửi lời cảm ơn chân thành đến tất cả những người đã giúp tác giả, qua trao đổi, ghi chép lại sự kiện máy Minsk-22 vào Đà Nẵng. Đặc biệt tác giả bày tỏ lòng biết ơn đến thầy giáo cũ Trần Quốc Hưng, thầy Nguyễn Ngọc Diệp, anh Đỗ Văn Uy (K17 Toán-Lý), Nguyễn Thành Sự (K18 Toán-Lý).

 Chú Thích:

[1] Minsk (tiếng Belarus: Мінск, tiếng Nga: Минск, đọc Minxcơ hay Minxcơva), thủ đô của nước Cộng hòa Belarus thuộc Cộng đồng các Quốc gia Độc lập SNG, trước đây thuộc Liên bang Xô viết.

Nguồn bài đăng : GS-TS Phan Huy Khánh

Thứ Ba, 26 tháng 3, 2024

XỨ THANH

Xứ Lạng rồi đến xứ Thanh
Đường vô xứ Nghệ loanh quanh bàn cờ
Đường về xứ Huế mộng mơ
Đường vô xứ Quảng câu thơ nặng lòng
"Học trò trong Quảng ra thi
Thấy cô gái Huế bước đi không đành"
Bạn ơi hãy đến xứ Thanh
Thăm đền Đồng Cổ, thăm thành Tây Đô
Có sông có biển có hồ
Ruộng đồng man mác nhấp nhô núi đồi
Có bà Triệu Ẩu cưỡi voi
Xông pha trận mạc chiến công lẫy lừng
Trên rừng có ông Thánh Bưng
Có ông Độc Cước canh chừng biển khơi
Danh lam thắng cảnh khắp nơi
Có chàng Từ Thức dạo chơi Thiên Đường
Có thôn có bản có mường
Có đập thủy điện có đường hàng không
Đất này rạng rỡ chiến công
Anh hùng hào kiệt danh lừng khắp nơi
Con vua cháu chúa bao đời
Lam Kinh, phủ Trịnh uy linh phụng thơ
Hàm Rồng, núi Ngọc như mơ
Tản Đà cũng phải đề thơ trữ tình
"Hàm Rồng nay lại về Thanh
Lung linh đáy nước in hinh thi nhân"
Sầm Sơn rộn rã bước chân
Đón chào du khách xa gần về đây
Xứ Thanh, Thanh Hóa xưa nay
Rừng vàng biển bạc đắm say nhân tình

Facebook Guốc Mộc (Trịnh Tiến Huynh)

ĐẠO PHẬT LÀ MINH TRIẾT

Nhắc tới đạo Phật, điều đầu tiên nghĩ tới là "tam pháp ấn" rồi mới đến "tứ diệu đế". Khi Albert Einstein nói rằng đạo Phật bao trùm cả vũ trụ, nghĩa của nó không phải là Phật có phép màu mà là trên khía cạnh khoa học và minh triết.

Vô thường, vô ngã và nhân quả là những bản chất và quy luật bất biến từ cấp độ tế bào đến vũ trụ rộng lớn. Không có vật chất hiện tượng nào tồn tại mãi ở một dạng thức; không có gì là chính nó, tất cả đều do vay mượn giao thoa mà thành; sự vật hiện tượng này là kết quả của cái kia.

Đức Phật giác ngộ ra điều đó hàng ngàn năm trước khi có khoa học thực nghiệm. Đó là kết quả mà thái tử Tất Đạt Đa rời cung điện và thường nghiệm giữa đời sống, không phải do đấng thần linh nào chỉ điểm.

Chưa hết, đức Phật còn là một nhà tư tưởng vĩ đại khi ngài chủ trương "chúng sinh bình đẳng", ta là Phật chúng sinh cũng sẽ là Phật. Phật cũng là người có tinh thần tự do. Ngài là một triết gia chủ xướng "vô ngôn" như Socrates và Lão Tử sau này.

"Đừng vội tin lời ta chỉ vì ta là Phật, hãy tự chứng nghiệm". Chính tinh thần tự do này mới giúp đạo Phật lan toả đến mọi giai tầng chúng sinh.

........

Bùi Giáng là một "tiên ông" thoát tục, Lê Mạnh Thát là một thiền sư, ông Tuệ Sỹ là một ẩn sĩ. Họ có mẫu số chung là mang vẻ đẹp Phật pháp nhưng không dính mắc, "trụ mà không trụ".

Đây chính là những bậc trí thức ưu tú của đại học Vạn Hạnh, thời mà Phật học đạt đến đỉnh cao tri kiến. Tri thức của họ có sự giao thoa của nhiều luồng tư tưởng triết thuyết. Trong đó triết gia Buddha đứng cạnh (thậm chí cao hơn) những tên tuổi lẫy lừng như Kant, Hegel, Nietzsche, Sartre...

Phật trong đạo cũng như trong đời, ai chưa thấu hiểu vô thường, vô ngã và nhân quả đều không thể giải thoát khỏi luân hồi.

Bản chất cuộc sống là vô thường nên hãy trân quý từng khoảnh khắc bớt tham sân si, vô ngã cho nên hãy bào mòn cái tôi mà sống khiêm nhường và biết ơn, có nhân là có quả cho nên tránh dữ làm lành, nói lời từ ái...

Cái đạo chỉ là để thi triển những minh triết đó ra mà thôi. Đạo Phật ngày nay mãi chạy theo cái lễ mà mất phần gốc rễ, theo cái tướng mà mất cái chân, nghi ngút khói nhang mà quên đi giá trị tư tưởng.

Phật là minh triết, tại sao nhiều ông sư phủ nhận nó? Bởi vì họ muốn dân tình đi theo hướng thần quyền. Họ muốn người dân tin rằng Phật là thần có quyền năng ban thưởng quở phạt. Họ đang nhắm tới hai bản năng tự nhiên của con người đó chính là lòng tham và nỗi sợ hãi.

Khi người dân tin như vậy, họ sẽ được danh lợi đủ đường. Bởi vì trong mắt của người vô minh, họ không khác gì là hiện thân hoặc tín giả của đức Phật và tha hồ hý lộng quỷ thần để được cung phụng. Điều mà chính đức Phật đã tiên lượng từ đầu.

******

Đạo Phật là minh triết, không phải một tôn giáo. Ai nói với bạn điều đó tức là người đó đã lĩnh hội trọn vẹn tinh thần và giá trị Phật giáo kinh điển. Hãy tin theo lời người đó vậy!

FB Nguyễn Tiến Tường

ĐẠO PHẬT LÀ GÌ

 1. Đạo phật là một triết lý, một lối sống để tìm đến sự an lạc trong tâm hồn, không phải là một tôn giáo vì Phật không phải là đấng toàn năng để có thể ban phước lộc cho người này hay trừng phạt người kia.

2. Đạo phật không đòi hỏi những hình thức cúng bái rườm rà hoặc những kiêng cữ đầy mê tín mà quan trọng nhất là lòng thành.

3. Tu phật không phải là cạo đầu, ăn chay, mặc áo tràng hay tụng kinh niệm Phật. Tu là nhìn lại mình đã sai ở đâu để sửa chính bản thân mình. Khi mình sửa được bản thân mình thì đó cũng là lúc mình giải được nhiều phiền não khiến mình đau khổ.

4. Lạy Phật không phải là để cầu xin mà là một cách thể hiện sự kính trọng và biết ơn đối với một bậc thầy minh triết đã soi đường dẫn lối cho mình thoát khỏi u mê. (Đây là điều mà trước giờ tôi chưa nghe vị sư nào nói khi giảng pháp mà chỉ toàn nghe là cầu trời khẩn Phật để được phù hộ).

Nguồn: Thích Pháp Hòa


Thứ Bảy, 23 tháng 3, 2024

TẠI SAO KHÔNG NÊN ĐI CHÙA?

 

Hình ảnh chỉ mang tính Minh hoạ

1. Vì chùa, hiểu đúng, là trường học của nhà Phật. Chỉ nên đến trường khi là người học và có nhu cầu học.

2. Nếu bạn không phải là người đi học thì đến trường sẽ là việc không những ngớ ngẩn mà còn làm ảnh hưởng đến những thầy trò đang học hành ở đó. Đến chùa để chơi cũng vậy, không những vô ích mà còn bị "tổn phước" vì quấy rối người tu hành. "Khuấy đảo nước ngàn sông không bằng làm động tâm người tu hành".

3. Mọi việc đều không thể cầu. Nếu muốn có phước lộc thì phải làm việc phước lộc, như chia sẻ (bố thí), giữ gìn đạo đức (trì giới), không buông lung tâm ý (nhẫn nhục), siêng năng (tinh tấn), giữ cho tâm trí bình ổn (thiền định), thấy biết đúng bản chất của mọi sự mọi vật (trí tuệ)... Cầu cúng là hoàn toàn mê tín ngu si. Không những không có lợi ích mà còn làm hao tốn tiền của, mất ý chí và tinh thần tự lực tự cường. Tóm lại, phải cầu nơi chính mình bằng cách thấu suốt lý nhân quả của tự nhiên và kiên trì nó trong đời sống cá nhân.

4. Chùa, còn gọi là tịnh xá, là thiền môn, tức là chốn thanh tịnh để tu hành. Bất cứ chùa nào khuyến khích hay quảng bá nhằm thu hút dân chúng đến để thu tiền hoặc sử dụng các dịch vụ thì đều không phải chùa. Nó là các cơ sở kinh doanh núp bóng chùa. Kéo nhau đến những nơi như thế đều là đang tiếp tay và làm giàu cho bọn gian thương, vừa bị mất tiền, vừa bị cười vào mặt.

5. Ngày xưa khi sách vở hạn chế và phương tiện hiện đại chưa có thì người muốn tu học Phật pháp phải đến chùa, "tầm sư học đạo". Ngày nay nhờ sự phát triển của công nghệ, chúng ta hoàn toàn có thể tiếp xúc với kinh sách và lời giảng của các vị thầy có đạo hạnh mà không cần phải tới chùa. Vì thế, người có nhu cầu học hoàn toàn có thể "học phật Pháp online". Việc đi chùa là không thật sự cần thiết nữa. Quan trọng là anh có muốn học hay không!

6. Phật giáo là đạo tình thương (từ bi), của dũng khí và của trí tuệ, "duy tuệ thị nghiệp" - lấy trí tuệ làm sự nghiệp - chứ không phải lấy những cầu cúng mê muội làm đường đi và đích đến. Hãy chăm chỉ học 8 con đường chân chính để đưa đến thành tựu lý tưởng tinh thần (bát chánh đạo). Ngôi chùa thật sự là ở trong tâm của mỗi người. Đó mới là ngôi chùa cần trở về.

NĐK – Sưu Tầm

Thứ Năm, 21 tháng 3, 2024

BẢO VỆ SỨC KHOẺ TRONG ĐỘ TUỔI NGUY HIỂM NHẤT

Để có được trường thọ, trong 10 năm từ 70 đến 79 tuổi thật là quan trọng!

Học giả Israel đã phát hiện ra điều đó

70-79 tuổi là giai đoạn nguy hiểm. Trong giai đoạn này, nhiều cơ quan khác nhau của cơ thể giảm nhanh chóng. Đây là một thời kỳ thường xuyên mắc các bệnh lão khoa khác nhau, và thông thường dễ bị tăng huyết áp, xơ vữa động mạch, tăng huyết áp và tiểu đường.

Sau khi bước vào độ tuổi 80, những căn bệnh trên sẽ giảm đi, sức khỏe tinh thần và thể chất có thể trở lại ở độ 60-69 tuổi.

Vì vậy, tuổi từ 70 đến 79 tuổi được gọi là ′′nhóm tuổi nguy hiểm". Khi về già mọi người muốn có một cuộc sống khỏe mạnh. Họ nhận ra rằng ′′Sức khỏe là của cải".

Việc chăm sóc sức khỏe 10 năm từ 70 đến 79 tuổi là rất quan trọng.

Dưới đây là một số bước đơn giản được gọi là ′′Làm năm điều mỗi ngày′′

Điều này sẽ giúp bạn vượt qua giai đoạn ′′nhóm tuổi nguy hiểm′′ của cuộc đời mình.

1. Nước

Nước là ′′thức uống tốt nhất và rẻ nhất cho sức khỏe". 3 thời điểm quan trọng với mỗi lần 1 ly nước:

Cốc đầu tiên: Sau khi ra khỏi giường. Bạn có thể uống một ly nước trong một cái bụng rỗng. Ngay cả khi chúng ta không cảm thấy khát nước sau khi thức dậy, máu ở trạng thái bị đặc do thiếu nước. Do đó, sau khi ra khỏi giường, bạn phải từ từ bổ sung nước càng sớm càng tốt.

Cốc thứ hai: Sau khi tập thể dục. Một bài tập thể dục phù hợp là một trong những nền tảng của trường thọ. Tuy nhiên, sau khi tập thể dục, đặc biệt chú ý cần phải bổ sung và thay thế nước. Điều này đặc biệt khuyến khích đối với người già.

Cốc thứ ba: Trước khi đi ngủ. Một cốc nước trước khi đi ngủ có thể làm giảm độ nhớt của máu một cách hiệu quả và làm chậm quá trình lão hóa. Giúp chống lại đau thắt ngực, nhồi máu cơ tim và các bệnh khác.

2. Cháo

Trung Quốc Daily Online đã công bố một nghiên cứu 14 năm do Đại học Harvard thực hiện trên 100,000 người. Thấy rằng mỗi ngày một bát cháo ngũ cốc nguyên hạt khoảng 28 gram giảm 5% đến 9% tử vong và giảm cơ hội mắc bệnh tim mạch. Các loại ngũ cốc nguyên hạt như gạo lứt, ngô và tam giác mạch dường như đã tránh được tất cả các bệnh, đặc biệt là bệnh tim.

3. Một cốc sữa

Sữa được gọi là ′′huyết trắng ′′ và có trong cơ thể con người. Giá trị dinh dưỡng của nó được biết đến với rất nhiều canxi, chất béo và protein. Sữa và các sản phẩm từ sữa được khuyến nghị dùng hàng ngày là 300 gam. Khuyến nghị uống một hoặc hai bình sữa 200 ml hoặc gói sữa mỗi ngày.

4. Một quả trứng

Trứng có thể nói là loại thực phẩm thông dụng nhất của con người. Tỷ lệ hấp thụ protein trứng của cơ thể có thể cao hơn 98 %.

5. Một quả táo

Nghiên cứu hiện đại tin rằng táo có tác dụng hạ mỡ máu, giảm cân, ngăn ngừa ung thư, ngăn ngừa lão hóa, tăng cường trí nhớ, và làm cho da mịn màng và mềm mại. Lợi ích sức khỏe của táo màu khác nhau:

+Táo đỏ có tác dụng hạ lipid máu và làm mềm mạch máu

+Táo xanh có tác dụng dưỡng gan và giải độc, chống trầm cảm nên thích hợp hơn cho người trẻ.

+Táo vàng có tác dụng tốt trong việc bảo vệ thị giác.

(Sưu tầm)

TÌM HIỂU VỀ ĐẠO PHẬT

 

Mấy nay khầy Thích Chân Quang nói kháy Thầy Pháp Hòa là rằng bậy, khi Thầy Pháp Hòa nói: “Đạo Phật không phải là một Tôn Giáo, mà là một Triết Lý sống thật. Bởi Đạo Phật không có Đấng quyền năng tạo dựng muôn loài như Đạo Công Giáo nên việc lạy lục, cúng vái để xin được cái này cái kia là sai Pháp, mà cũng chẳng được ích gì bởi Đức Phật không có quyền năng của một đấng thưởng thiện, phạt ác".

Bài thuyết Pháp của Thầy Hoà khiến không những mình Khầy Chân Quang nóng mặt, mà mình tin cả 100, nghìn thầy cũng như đa số Phật tử Việt Nam nóng mặt. Vì xưa nay theo Phật Giáo Tàu nên đa phần sư sãi, thầy chùa cho đến phật tử luôn nghĩ rằng Đức Phật là người ban phước lành mà không dễ chấp nhận Đạo Phật chân chính là một triết lý Sống Thật.

Đức Phật (phiên âm từ Bubta có nghĩa là Người Đã Giác Ngộ ) tức là Đức Tất Đạt Đa cũng như cả tỷ, triệu người tu trước đây đều đã Giác Ngộ, người thì có Thầy chỉ cho cách Giác Ngộ. Người thì tự tu và Giác Ngộ.

Đức Tất Đạt Đa khác các vị Đã Giác Ngộ trước là Ngài đã Hoằng Pháp ( tức đi giảng dạy các Tỳ Khoe cách đi đến Giác Ngộ mà thôi, còn đại đa các vị tu hành trước thầy Tất Đạt Đa sau khi đã Giác Ngộ chưa một ai Hoằng Pháp. Ngày nay các Khầy chùa Lữa ở Đông Lào dù chưa Giác Ngộ, vẫn Hoằng Pháp onl hằng ngày).

Sau đây là bài chia sẽ tất tần tật về cái chính của Đạo Phật. Kính mong đón nhận trong niềm hoan hỉ, tránh cãi nhau đúng sai.

NHỮNG HIỂU LẦM VỀ ĐẠO PHẬT.

Đạo Phật ngày càng suy đồi, tha hóa, “mạt pháp”, nguyên nhân thì nhiều, nhưng đôi khi vì trong giới tu sĩ và cư sĩ không trang bị đủ kiến thức của giáo pháp như thực - tức là giáo pháp cội rễ - mà chỉ chạy theo cành, nhánh, ngọn lắm hoa và nhiều trái. Từ đấy, khó phân biệt đâu là đạo Phật chơn chánh, đâu là đạo Phật đã bị biến chất, chạy theo thị hiếu dung thường của thế gian. Đôi nơi đạo Phật còn bị trộn lẫn với tín ngưỡng duy linh và cả tín ngưỡng nhân gian nữa... Nhiều lắm, không kể xiết đâu.

Với cái nhìn “chủ quan” của một tu sĩ Thēravāda, tôi xin mạo muội liệt kê ra đây những hiểu lầm tai hại và rất phổ biến của Phật giáo trong và ngoài nước để chư vị thức giả cùng thấy rõ như thực:

1- Tôn giáo:

Đạo Phật có những sinh hoạt về tôn giáo nhưng đạo Phật không phải là tôn giáo vì đạo Phật không có một vị thượng đế tối cao hoá sinh muôn loài và có quyền ban thưởng, phạt ác...

2- Tín ngưỡng:

Đạo Phật có những sinh hoạt tín ngưỡng nhưng đạo Phật không phải là tín ngưỡng để mọi người đến van vái, cầu xin những ước mơ dung tục của đời thường.

3- Triết học:

Đạo Phật có một hệ thống tư tưởng được rút ra từ Kinh, Luật và Abhidhamma, được gọi là “như thực, như thị thuyết” chứ không phải là một bộ môn triết học “chia” rồi “chẻ”, “phán” rồi “đoán” như của Tây phương.

4- Triết luận:

Đạo Phật có tuệ giác để thấy rõ Cái Thực chứ không sử dụng lý trí phân tích, lý luận. Còn triết, còn luận là vì chưa thấy rõ Cái Thực. Đạo Phật là đạo như chơn, như thực. Kinh giáo của đức Phật luôn đi từ cái thực cụ thể để hướng dẫn mọi người tu tập, nó không có triết, có luận đâu. Ngay “thiền” mà còn “luận” (thiền luận) là đã đánh mất thiền rồi.

5- Từ thiện xã hội:

Đạo Phật có những sinh hoạt từ thiện xã hội nhưng không coi từ thiện xã hội là tất cả, để hy sinh cuộc đời đầu tròn, áo vuông một cách uổng phí. Đạo Phật còn có những sinh hoạt cao cả hơn: Đó là giáo dục, văn hoá, nghệ thuật, tu tập thiền định và thiền tuệ nữa. Từ thiện xã hội thì ai cũng làm được, thậm chí người ta còn làm tốt hơn cả Phật giáo, ví dụ như Bill Gates. Còn giáo dục, văn hoá, nghệ thuật của đạo Phật là nền tảng Mỹ Học viết hoa (nội hàm các giá trị nhân văn, nhân bản) mà không một tôn giáo, một chủ nghĩa, một học thuyết nào trên thế gian có thể so sánh được. Và đây mới là sự phụng hiến cao đẹp của đạo Phật cho thế gian. Còn nữa, nếu không có tu tập thiền định và thiền tuệ thì mọi hình thái sinh hoạt của đạo Phật, xem ra không phải là của đạo Phật đâu!

6- Cực lạc, cực hạnh phúc:

Đạo Phật có nói đến hỷ, lạc trong các tầng thiền; có nói đến hạnh phúc siêu thế khi ly thoát tham sân, khổ lạc (dukkha), phiền não của thế gian - chứ không có một nơi chốn cực lạc, cực hạnh phúc được phóng đại như thế.

7) 8 vạn 4 ngàn pháp môn:

Đạo Phật có nói đến 8 vạn 4 ngàn pháp uẩn (dhammakhandha) chứ không nói đến 8 van 4 ngàn pháp môn (dhammadvāra). Uẩn (khandha) ngoài nghĩa che lấp, che mờ và nghĩa chồng lên, chồng chất, còn có nghĩa là nhóm, liên kết, tập hợp ví như Giới uẩn (nhóm giới), Định uẩn (nhóm định), Tuệ uẩn (nhóm tuệ). Do từ uẩn (khandha) lại dịch lệch ra môn - cửa (dvāra), pháp môn nên ai cũng tưởng là có 8 vạn 4 ngàn pháp môn, tu theo pháp môn nào cũng được! Ai là người có thể đếm đủ 8 vạn, 4 ngàn cửa pháp này? Còn nữa, xin lưu ý, 8 vạn 4 ngàn chỉ là con số tượng trưng, có nghĩa là nhiều lắm, đếm không kể xiết theo truyền thống tôn giáo và tín ngưỡng Ấn Độ cổ thời. Ví dụ 84 ngàn lỗ chân lông, 84 ngàn vi trùng trong một bát nước, 84 ngàn phiền não, 84 ngàn cách tu..

8- Xin xăm, bói quẻ, cầu sao, giải hạn, xem ngày giờ tốt xấu:

Những hình thức này không phải của đạo Phật. Trong kinh tụng Pāḷi có đoạn: “Sunakkhataṃ sumaṅgalaṃ supabhātaṃ suhuṭṭhitaṃ, sukhno ca suyiṭṭaṃ brahmacārisu. Padakkhinaṃ kāyakammaṃ vācākammaṃ padakkhinaṃ padakkhinaṃ manokammaṃ paṇidhī te padakkhinā...” Có nghĩa là: Giờ nào (chúng ta) thực hành thân, khẩu, ý trong sạch; giờ đó được gọi là vận mệnh tốt, là giờ tốt, là khắc tốt, là canh tốt... Ngày đó gọi là có nghiệp thân phát đạt, nghiệp khẩu phát đạt, nghiệp ý phát đạt. Và nguyện vọng theo đó được gọi là nguyện vọng phát đạt. Người tạo nghiệp thân, nghiệp khẩu, nghiệp ý phát đạt như thế rồi sẽ được những lợi ích phát đạt (chữ phát đạt có thể có thêm nghĩa nhiêu ích).

9- Định mệnh:

Đạo Phật có nói đến nghiệp, đến nhân quả nghiệp báo chứ không hề nói đến định mệnh. Theo đó, gây nhân xấu ác thì gặt quả đau khổ, gây nhân lành tốt thì gặt quả an vui - chứ không phải “cái tơ cái tóc cũng do trời định” như định mệnh thuyết của Khổng Nho hoặc định mệnh 4 giai cấp của Bà-la-môn giáo.

10- Siêu độ, siêu thoát:

Không có bài kinh nào, không có uy lực của bất kỳ ông sư, ông thầy nào có thể tụng kinh siêu độ, siêu thoát cho hương linh, vong linh, chân linh cả. Thời Phật tại thế, nếu có đến nơi người mất, chư tăng chỉ đọc những bài kệ vô thường, khổ và vô ngã để thức tỉnh người sống; và hiện nay các nước Phật giáo Thēravāda còn duy trì. Có thể có hai trường hợp:

- Nếu vừa chết lâm sàng thì thần thức người chết vẫn còn. Vậy có thể đọc kinh, mở băng kinh, chuông mõ, hương trầm... để “thần thức người chết” hướng về điều lành... để thần thức tự tạo “cận tử nghiệp” tốt cho mình.

- Nếu thần thức đã lìa khỏi thân rồi – thì họ đã tái sanh vào cõi khác rồi, ngay tức khắc. Khi ấy thì gia đình làm phước để chư tăng tụng kinh hồi hướng phước ấy cho người đã mất.

Cả hai trường hợp trên đều không hề mang ý nghĩa siêu độ, siêu thoát mà chỉ có ý nghĩa gia hộ, gia niệm, gia lực mà thôi. Tu dựa vào tha lực cũng tương tự như vậy, nhưng cuối cùng cũng phải tự lực: “Tự mình thắp đuốc mà đi, tự mình là hòn đảo của chính mình”. Chư thiên chỉ có khả năng hoan hỷ phước và báo truyền thông tin ấy cho người quá vãng mà thôi. Họ không có uy lực ban phước lành cho ai cả.

11- Huyền bí, bí mật:

Giáo pháp của đức Phật không có cái gì được gọi là huyền bí, bí mật cả. Đức Phật luôn tuyên bố là “Như Lai thuyết pháp với bàn tay mở ra”; có nghĩa là ngài không có pháp nào bí mật để giấu kín cả!

12- Tâm linh:

Ngày nay, người ta tràn lan lễ hội, tràn lan mọi loại điện thờ với những hình thức mê tín, dị đoan, sa đoạ văn hoá... mà ở đâu cũng rêu rao các giá trị tâm linh. Đạo Phật không hề có các kiểu tâm linh như vậy. Thuật ngữ tâm linh này được du nhập từ Trung Quốc. Và rất tiếc, tôi không hề tìm ra nguồn Phật học Pāli hay Sanskrit có từ nào tương thích với chữ “linh” này cả!

13- Niết-bàn:

Nhiều người tưởng lầm Niết-bàn là ở một cõi nào đó, một nơi chốn nào đó; thậm chí là ở một thế giới ở ngoài thế gian này. Người nào tìm kiếm Niết-bàn kiểu ấy, thuật ngữ thiền tông có cụm từ “lông rùa, sừng thỏ” như ngài Huệ Năng đã nói rõ: “Phật pháp tại thế gian. Bất ly thế gian giác. Ly thế mịch bồ-đề. Cáp như tầm thố giác”. Thố giác là sừng thỏ. Và giác ngộ cũng vậy, chính ở trong khổ đau, phiền não mới giác ngộ bài học được.

14- Bỏ khổ, tìm lạc:

Tu Phật không phải là bỏ khổ, tìm lạc. Xin lưu ý cho: Khổ và Lạc chính là căn bản của phiền não!

15- Tu để được cái gì?

Có nhiều người nghĩ rằng, tu là để được cái gì đó. Xin thưa, được cái gì là sở đắc. Ai sở đắc? Chính là bản ngã sở đắc. Đạo Phật là vô ngã. Hãy xin đọc lại Bát-nhã tâm kinh.

16- Tu là sửa mình:

Nếu tu là sửa thì mình đã từ “cái ta này” biến thành “cái ta khác”. Nếu tu là không sửa thì cứ để nguyên trạng tham, sân, si như vậy hay sao? Xin thưa, sửa hay không sửa đều trật. Đạo Phật quan trọng ở Cái Thấy! Có Cái Thấy mới nói đến giác ngộ và giải thoát. Không có Cái Thấy này thì tu kiểu gì cũng chệch hướng hoặc rơi vào phước báu nhân thiên.

17- Vía:

Đạo Phật không có vía nào cả. Vía, hồn, phách là quan niệm của nhân gian. Ví dụ, ba hồn bảy vía. Ví dụ, nam thất, nữ cửu – nam bảy vía, nữ chín vía. Nếu là nam thất, nữ cửu thì nó trùng với nam 7 khiếu, nữ 9 khiếu. Vía là phần hồn. Không có cái hồn, cái linh hồn tự tồn tại nếu không có chỗ nương gá. Vía không độc lập được. Như danh - phần tâm, sắc - phần thân – luôn nương tựa vào nhau. Chỉ có năng lực thiền định mới tạm thời tách lìa danh ra khỏi sắc, như Cõi trời Vô tưởng của tứ thiền. Tuy nhiên, cõi trời Vô tưởng hữu tình này không phải là không có danh tâm mà chúng ở dạng tiềm miên. Còn các Cõi trời Vô sắc thì sắc không phải là không có, chúng cũng ở dạng tiềm miên. Thật đáng phàn nàn, Phật và Bồ-tát đều có “vía” cả! Và cũng thật là “đau khổ” khi trong lễ an vị Phật, người ta còn hô “Thần nhập tượng” nữa chứ!

18- Bồ-tát:

Bồ-tát là âm của chữ Bodhisatta: Chúng sanh có trí tuệ. Vậy, chúng ta tạm thời bỏ quên “khái niệm Bồ-tát” quen thuộc trong kinh điển mà trở về với nghĩa gốc là “chúng sanh có trí tuệ”. Và như vậy, sẽ có hạng chúng sanh có trí tuệ với nguyện lực Thanh Văn; chúng sanh có trí tuệ với nguyện lực Độc Giác; chúng sanh có trí tuệ với nguyện lực Chánh Đẳng Giác. Ngoài 3 loại chúng sanh có trí tuệ trên – không có loại chúng sanh có trí tuệ nào khác.

19- Phật:

Phật là âm của chữ Buddha, nghĩa là người Giác ngộ. Vậy chúng ta nên tạm thời bỏ quên “khái niệm Phật” từ lâu đã mọc rễ trong tâm thức mà trở về nghĩa gốc là bậc Giác ngộ. Vậy, có người Giác ngộ do nghe pháp từ bậc Chánh Đẳng Giác, được gọi là Thanh Văn Giác. Có người Giác ngộ do tự mình tu tập vào thời không có đức Chánh Đẳng Giác, được gọi là Độc Giác. Có vị Giác ngộ do trọn vẹn 30 ba-la-mật, trọn vẹn minh và hạnh nên gọi là Chánh Đẳng Giác. Không có vị Giác ngộ (Phật) nào ngoài 3 loại Giác ngộ trên.

20- Thể nhập:

Tu là không thể nhập vào cái gì cả. Thể nhập là bỏ cái ngã này để nhập vào cái ngã khác. Cái ngã khác ấy có thể là dòng sông, có thể là ngọn núi, có thể là một cội cây, có thể là một thần linh, thượng đế. Cái cụm từ “thể nhập pháp giới” rất dễ bị hiểu lầm. Khi đi, chánh niệm, tỉnh giác trọn vẹn với cái đi; khi nói, chánh niệm, tỉnh giác trọn vẹn với cái nói; khi ăn, chánh niệm, tỉnh giác trọn vẹn với cái ăn – thì đấy mới đúng nghĩa “thể nhập pháp giới”, ngay giây khắc ấy, mọi tham, sân, phiền não không có chỗ để phan duyên, sanh khởi.

• Hòa thượng Giới Đức

 Ngọa Tùng Am, Huế.

————

* Lời pháp của Đức Dalai Lama: Phật giáo không chấp nhận một lý thuyết về Thượng đế, hay một đấng sáng tạo. Theo Phật giáo, hành động của chính mình suy cho cùng là người tạo tác (nghiệp của mình). Một số người nói rằng, từ một góc độ nhất định, Phật giáo không phải là một tôn giáo mà là một khoa học về tâm thức.

Nguồn Fb Nguyễn Tiến Dũng

Thứ Ba, 19 tháng 3, 2024

TẢN MẠN CHUYỆN TU THỜI NAY

Hình ảnh trên mạng chỉ mang tính minh hoạ bài viết

Đất nước ta chưa bao giờ chùa chiền lại nhiều như bây giờ, chưa bao giờ đội ngũ tăng, ni lại đông đảo như bây giờ, chưa bao giờ người mộ đạo Phật lại say cuồng như bây giờ và cũng chưa bao giờ con người lại vô cảm, tàn nhẫn và tham lam như bây giờ.
Đạo Phật ở Việt Nam đang ở giai đoạn cực thịnh và bắt đầu có dấu hiệu khủng hoảng đức tin không ngoài nguyên nhân do chính những người hành đạo phá vỡ nó một cách phi hệ thống.
Nhiều nhà sư pháp thoại trước tăng chúng và đại chúng rằng “nếu một ngày nào đó trên đất nước này không còn chùa chiền và tăng, ni thì ai là người hướng dẫn đại chúng tiếp cận với triết lý của Phật mà biết đường tu tập? Ai sẽ biết đến Phật và thực hành những giáo lý của Phật vốn đã hình thành và tồn tại hơn 2600 năm qua”. Hoặc họ cho rằng “nếu không có bố thí, cúng dường của đại chúng thì các tăng, ni ăn bằng gì, sắm lễ bằng gì để dâng lên Phật và lấy gì để sống mà tu với hành”?
Cần khẳng định lại lần nữa rằng Phật đã nhập Niết-bàn 2600 năm trước nên không cần ăn và không ăn được gì cả trong khi ngài không khuyên ai xây chùa và cúng lễ. Còn ăn gì để tu là việc của các vị bởi tu là tu cho các vị, cho ấm cái thân của các vị chứ dứt khoát không thể tu hộ ai ! Cho nên cùng là người như nhau chứ các vị có là thánh thần gì đâu mà không tự làm ra những thứ như người khác đã làm theo nguyên lý có làm có hưởng thay vì ngồi chờ của bố thí? Hành ư? Xét ra thì đã có mấy vị tu xong đâu mà hành ? Mà tu chưa xong đã hành thì chỉ có thêm nặng nghiệp chứ báu bở gì đâu! Bởi vậy làm gì để có cái mà ăn, ăn để mà tu là trách nhiệm của các vị với bản thân mình chứ không thuộc trách nhiệm của đại chúng.
Khi muốn dẫn chứng một điều nào đó thì các vị lại thuyết rằng “Phật nói, Phật dạy” nhưng thực tế ai là người đã nghe thấy Phật nói, Phật dạy trong khi Phật không trực tiếp viết ra Kinh mà chỉ do những thế hệ sau đó dựa vào điều Phật đã giảng Pháp mà tự viết ra. Vậy thì ai dám chắc những điều đã diễn giải trong Kinh hoàn toàn là lời thuyết của Phật mà không có sai lệch theo quan điểm của người khác vì lý do nào đó hoặc do “tam sao thất bản”?
Ai sẽ dẫn dắt đại chúng tiếp cận với triết lý của Phật ư? Vậy thì trải qua bao giai đoạn chiến tranh liên miên các ngôi chùa lớn nhỏ hoặc bị phá dỡ, hoặc bị đóng cửa ; tất cả các lễ hội, các nghi lễ chùa chiền bị cấm đoán để tập trung mọi nguồn lực cho chiến tranh thì ai dẫn dắt con người tiếp cận với triết lý của Phật mà con người khi ấy lại tử tế với nhau, thương yêu, đùm bọc, chia sẻ với nhau, giúp đỡ nhau như thế trong khi bây giờ với 18000 ngôi chùa, hàng 60 nghìn tăng, ni dẫn dắt mà con người ngày càng vô cảm, tham lam và tàn nhẫn với nhau như thế?
Vậy thì có phải cứ ai ở chùa, khoác tấm Cà-sa đã là tu? Có phải cứ đến chùa nghe sư thuyết giảng cái gọi là giáo lý mới “cải ác vi thiện”? Không ! Bất kỳ đạo nào thì cũng sinh ra từ đạo trời, đạo người, tuân thủ đạo trời, đạo người mà hành sự. Chỉ cần tôn trọng quy luật của tự nhiên, biết lẽ phải trong hành xử được tóm lại bởi một câu rất ngắn gọn rằng “đừng làm cho người những gì mà mình không muốn người làm cho mình” là đủ, là thiện và là tu rồi đấy!
Kiếm được cái gì bằng trí tuệ, công sức trong sự chính đáng thì dùng cái đó, không kiếm được thì nhịn dùng ; có ít dùng ít, có nhiều dùng nhiều. Thấy của người không thèm khát, không tìm cách chiếm đoạt. Có công thì hưởng, không có công thì từ chối. Thấy ai khổ thì thương, thấy ai thiếu thì chia sẻ, ai khó thì giúp đỡ, ai lỡ lầm thì khuyên bảo, tha thứ. Không thù hận để tránh oan oan tương báo nối đời, không cậy mạnh hiếp yếu, không vô cớ tấn công người khác, không dùng miệng lưỡi cay độc, không xảo ngôn xảo ngữ để gây tổn thương mất mát cho người đời. Biết đủ trong cái đủ mà không dậy lòng tham - thế là tu rồi đấy, đắc đạo rồi đấy, thành Phật rồi đấy!
Ai cũng có thể thực hiện được điều đó ở mọi lúc mọi nơi chứ cứ gì phải đến chùa, cứ gì phải nghe ai thuyết giảng, cứ gì phải lo kiếp trước hay kiếp sau? Nhưng khốn nạn thay rằng đến kiếp này sống còn chưa nên thân, chưa ra cái giống người lại cứ lo đến kiếp sau, hàng trăm kiếp sau khi chẳng ai chứng minh được điều đó có hay không!
Thật vô lý và khó chấp nhận!
Lão Nông
Copy từ Facebook

Phạm Đức Bảo