XIN CHÀO VÀ CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ ĐẾN VỚI BLOGSPOT.COM CỦA LUU VAN CHUONG

Thứ Bảy, 14 tháng 12, 2024

VỀ MIỀN BÁO BỒNG “ĐỊA LINH NHÂN KIỆT”

 

         Báo Bồng là vùng đất cổ, bởi Báo Bồng nằm giữa khu vực sinh sống của con người thuộc văn hóa Đa Bút (làng Đa Bút), di chỉ Rú Hến (làng Kênh Thủy), di chỉ Cồn Cổ Ngựa thuộc xã Hà Lĩnh, huyện Hà Trung.

       Xưa kia, khi các chân sào chống thuyền trên dòng sông Mã, vượt qua ngã Ba Bông(1), trai đò cất tiếng hò: Thuyền đà vượt ngã Ba Bông/ Đến đây là đất Báo Bồng em ơi. Trai đò báo cho khách trong thuyền biết thuyền đã đến miền Báo Bồng.

       Đất Báo Bồng ngày xưa chỉ có hai làng là Biện Thượng và Biện Hạ. Ngày nay đất Báo Bồng gồm các làng Bồng Thượng (xã Vĩnh Hùng), làng Bồng Trung, Bồng Hạ, Bồng Thôn, làng Mai và làng Vực (xã Minh Tân) thuộc huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Đường đến miền Báo Bồng hôm nay rất thuận tiện bằng cả đường sông và đường bộ. Nếu đi từ thành phố Thanh Hóa, ngược quốc lộ 45 đến thị trấn Quán Lào 26 cây số, rẽ phải 7 cây số, qua cầu Yên Hoành gặp đất Báo Bồng. Hoặc từ quốc lộ 1A (ở khu vực Đò Lèn) ngược quốc lộ 217 (Đò Lèn - Na Mèo) khoảng mươi lăm cây số là đến Báo Bồng. Miền Báo Bồng cách Thành nhà Hồ 14 cây số.

       Làng Bồng Thượng và làng Bồng Trung trước kia là một đơn vị hành chính có tên là sách Biện Đà rồi hương Biện Thượng, xã Biện Thượng, rồi làng Biện Thượng. Vào năm 1510, dưới triều Hồng Thuận thứ 2, đời vua Lê Tương Dực, dân cư ở phía Đông làng Biện Thượng đủ thành lập một làng riêng. Các cụ trong làng xin được thành lập làng lấy tên là Đông Biện - làng nằm ở phía đông làng Biện Thượng. Cuối thế kỷ XIX vì kiêng chữ Biện húy của vua Đồng Khánh và chúa nào đó nên làng Biện Thượng đổi thành là Bồng Thượng, làng Đông Biện đổi là Bồng Trung, làng Biện Hạ đổi là Bồng Hạ.

       Làng Biện Thượng còn có tên gọi làng Báo. Hiện chưa tìm thấy sách vở ghi về đơn vị hành chính làng Báo, mà chỉ được lưu truyền, để làng Báo vẫn còn mãi với cư dân làng Bồng Thượng, với người dân trong vùng. Những tên núi, tên sông, chùa chiền vẫn được gọi theo tên làng Báo, đó là núi Hùng Lĩnh gọi là núi Báo, rồi bến Đò Báo, chùa Báo, Phủ Báo.

       Đặc biệt, tên làng Báo đã đi vào thành ngữ, thi ca lưu truyền trong Nhân dân. Nói về cảnh đẹp, cảnh nhộn nhịp của Báo Bồng ca dao có câu:

Nhác trông phong cảnh vui thay

Báo Bồng có phải chốn này hay không

       Xưa kia, điều kiện sản xuất nông nghiệp ở làng Báo vô cùng khó khăn, vất vả. Rồi khu vực Bồng Báo ba bề đều núi cao bao bọc, do đó thời tiết ở đây cũng khác thường được phản ánh qua tục ngữ, thành ngữ:

- Ăn cơm làng Báo tháo xương hông

- Mưa từ trong Nghệ mưa ra

- Mưa khắp thiên hạ mưa qua Báo Bồng

       Nói về Báo Bồng quê hương Chúa Trịnh và đất Báo Bồng lắm người học hành đỗ đạt cao và làm quan.

- Ngựa xe về Bồng Báo

- Bồng Báo là đất quý hương

Ai về Bồng Báo kéo dây cương ngựa thờ.

       Trong truyện thơ Quan Âm Thị Kính, trong đó có câu “Ngựa bất kham thôi phó về Bồng Báo”. Câu thơ nói đến đất Bồng Báo giỏi dạy người xấu thành người tốt.

        Làng Bồng Thượng, Bồng Trung, Bồng Hạ, trước làng có dòng sông Mã chảy qua, sau làng có dãy núi Mông Cù có đỉnh cao 374m. Phía đông có dãy núi Biện Lĩnh (gọi theo làng là núi Bền), phía Tây có dãy núi Hùng Lĩnh (gọi theo làng là núi Báo). Sách Đại Nam nhất thống chí triều Nguyễn viết: “Mạch núi từ phía đông núi Hùng Lĩnh, theo ven sông Mã bỏ xuống, nổi vọt lên 29 ngọn, đứng xa mà trông hiện ra nhiều hình tàn lộng, như lâu đài, như cờ quạt, như voi, ngựa, như gấm hoa, như bình phong, khi râm, khi nắng, buổi sáng, buổi chiều khí sắc luôn thay đổi”. Nhà sử họ Phan Huy Chú viết về tỉnh Thanh Hóa “vẻ non sông tốt tươi chung đúc nên sinh ra nhiều bậc vương tướng, khí tinh hoa tụ họp lại nảy sinh ra nhiều bậc vương tướng, khí tinh hoa tụ họp lại nảy ra nhiều văn nho.... Bởi vì đất thiêng thì người giỏi nên nảy ra những bậc phi thường, vương khí chung đúc nên xứng đáng đứng đầu cả nước”. Đất Báo Bồng là một miền đất thiêng.

       Theo cuốn “Gia phả dòng họ Trịnh Kỷ và Trịnh Tư phụ tập” biên soạn vào đời Gia Long thứ 2 (1803), được Nghiêm Thành Sâm và Nguyễn Hữu Sáng - người xã Quảng Giao, huyện Quảng Xương phụ sao, hiện lưu giữ tại Thư viện tỉnh Thanh Hóa, nhà Hán học Bùi Xuân Vỹ dịch, nội dung cuốn gia phả có đoạn: “Tổ bốn đời của ông Trịnh Kiểm là ông Trịnh Liễu vốn người làng Sáo Sơn (nay là Sóc Sơn). Ông Trịnh Liễu lúc bé cha mất sớm, nhà nghèo nhưng vẫn ham học.

       Lớn lên ông lấy cày cấy, chăn nuôi làm nghề sinh sống. Tính tình nhân hậu lại hay thương người. Ông Trịnh Liễu được một thầy địa lý ở xứ Chỏng nún (núi Nang Lợn) có một ngôi đất quý để mộ ở đấy bốn đời sau có thể làm nên vương nghiệp. Thầy địa lý còn hướng dẫn ông Liễu đi về phía đông núi Hùng Lĩnh, đến Ngõ Thẳng làng Biện Thượng, thầy địa lý nói: “chỗ này có thể lập được một dương cơ tốt”. Ông Liễu y theo thầy địa lý đã đi lấy hài cốt của bố mẹ đem chôn cất ở nơi được chỉ dẫn. Sau đó, ông Liễu lấy con gái ông Tú họ Hoàng làng Biện Thượng, rồi dời nhà về Ngõ thẳng ở. Ông Trịnh Liễu đã sinh ra ông Trịnh Lan. Ông Trịnh Lan sinh ra ông Trịnh Lâu. Ông Trịnh Lâu lấy con gái người họ Hoàng ở thôn Hổ, làng Vệ Quốc, huyện Yên Định sinh ra Trịnh Kiểm.

       Trịnh Kiểm lớn lên là người rất thông minh, can đảm và mưu lược hơn người. Bấy giờ, nhà Mạc cướp ngôi nhà Hậu Lê, Nguyễn Kim là người quê ở Gia Miêu (nay thuộc xã Hà Long, huyện Hà Trung) là An thành hầu dưới triều Lê Sơ dựng cờ khởi nghĩa tái lập nhà Lê. Trịnh Kiểm đầu quân làm gia tướng theo Nguyễn Kim. Nguyễn Kim mến tài đem con gái Ngọc Bảo gả cho Trịnh Kiểm.

       Năm 1533, Nguyễn Kim sai Trịnh Kiểm đem quân sang Ai Lao đón Lê Duy Ninh về lập làm vua (tức vua Lê Trang Tông). Vua thấy Trịnh Kiểm tướng mạo khác thường, bèn phong cho làm Đại tướng quân, lúc đó Trịnh Kiểm mới 37 tuổi.

       Năm 1545, Nguyễn Kim bị hàng tướng nhà Mạc đánh thuốc độc chết, binh quyền về tay Trịnh Kiểm và Trịnh Kiểm được vua Lê gia phong làm Thái sư Lượng Quốc Công, đứng đầu trăm quan cùng lo việc nước.

       Năm Bính Ngọ (1546), Trịnh Kiểm rút quân về Thanh Hóa, lập hành điện ở sách Vạn Lại (nay thuộc xã Xuân Châu, huyện Thọ Xuân) để cho vua ở và dựng hành dinh ở Ngõ Thẳng làng Biện Thượng (nay thuộc xã Vĩnh Hùng, huyện Vĩnh Lộc), tức phủ Trịnh.

       Từ khi lên nắm quyền bính, Trịnh Kiểm ra sức củng cố lực lượng, thu hút nhiều nhân tài, nên Nam triều ngày càng mạnh lên, họ Trịnh cai quản vùng phía nam của Đại Việt (trên danh nghĩa vẫn là dưới quyền vua Lê) và chiến đấu với nhà Mạc ở phía bắc (Bắc Triều). Bấy giờ, nhà Lê chiếm được Thanh Hóa và Nghệ An. Nhờ có khẩu hiệu “Phù Lê - Diệt Mạc”, thanh thế họ Trịnh ngày một lớn.

       Năm 1556, vua Lê Trang Tông mất sớm, không có con nối dõi, Trịnh Kiểm bèn đi tìm được người trong tôn thất nhà Lê là Lê Duy Bang lập làm vua, tức là Lê Anh Tông. Từ đó, họ Trịnh vốn đời cầm quyền nhưng danh nghĩa vẫn tôn phò làm bề tôi cho nhà Lê, hai họ sống chung trong cơ chế “lưỡng đầu” suốt trên 240 năm, đất nước không có ngoại bang xâm lược.

       Ngay trong khói lửa chiến tranh, Trịnh Kiểm vẫn chăm lo tới công việc triều chính. Ông đã cho đo đạc ruộng đất, lập chế độ thuế khóa, chú ý tới phát triển nông nghiệp. Trên lĩnh vực giáo dục khoa bảng, Trịnh Kiểm đã mở khoa thi Sĩ vọng, mở các kỳ thi Hương… để chọn lựa hiền tài cho đất nước. Ông còn chú trọng mở rộng bang giao với Ai Lao để giữ yên mặt phía tây. Với những cống hiến của Trịnh Kiểm cho Vương triều Lê và trong công cuộc xây dựng đất nước, vua Lê Anh Tông đã gia phong cho ông chức Thượng tướng Thái Quốc công và tôn là Thượng Phụ.

       Trịnh Kiểm mất ngày 18/02 Âm lịch năm Canh Ngọ (1570) được truy tôn là Minh Khang Thái Vương. 25 năm giữ binh quyền, đức Minh Khang Thái Vương Trịnh Kiểm có công lao rất lớn, là rường cột tạo dựng triều Lê Trung Hưng và là người mở đầu sự nghiệp nắm quyền của các Chúa Trịnh, đó là: Trịnh Tùng (1570 - 1623), Trịnh Tráng (1623 - 1657), Trịnh Tạc (1657 - 1682), Trịnh Căn (1682 - 1709), Trịnh Cương (1709 - 1729), Trịnh Giang (1729 - 1740), Trịnh Doanh (1740 - 1767), Trịnh Sâm (1767 - 1782), Trịnh Cán (1782), Trịnh Khải (1782 - 1786), Trịnh Bồng (1786 - 1787).

       Như phần trên đã nói, vào năm 1546, Trịnh Kiểm rút quân về Thanh Hóa và lập hành điện ở Vạn Lại để vua Lê ở; đồng thời lập hành dinh ở Biện Thượng, gọi là phủ Liêu. Phủ Liêu là cả một hệ thống cung điện, đền đài khá hoàn chỉnh làm nơi thờ tự tiên tổ, nơi ăn ở và làm việc của nhà Trịnh trong công cuộc “Phù Lê diệt Mạc”.

       Tháng Chạp năm 1592, nhà Mạc cơ bản bị diệt, cuộc nội chiến Nam - Bắc triều chấm dứt. Tháng 4 năm 1593, chúa Trịnh Tùng rước vua Lê từ Thanh Hóa ra Thăng Long ngự ở chính điện. Năm 1599, chúa Trịnh Tùng lập ra phủ Chúa ở Thăng Long làm nơi ở và làm việc của chúa Trịnh. Lúc bấy giờ ở Biện Thượng và Thăng Long vẫn có sự giao lưu thường xuyên. Không một đời chúa nào mà không có một lần về bái yết tôn lăng hoặc lưu lại Biện Thượng trong khi đi tuần trong kinh lý trấn Thanh Hoa. Không một quan đại thần nào mà không có một lần về chiêm ngưỡng quê hương đất tổ nhà Trịnh. Chính những sự đi lại tấp nập mà người xưa có câu “Ngựa xe về Bồng Báo”.

       Trải qua các cuộc binh đao và thời gian mưa nắng, phủ nhà Trịnh ở Biện Thượng chỉ còn lại một ngôi nhà cổ 7 gian, xây gạch vồ, lợp ngói mũi, làm toàn bằng gỗ lim, cột to. Năm 1995, ngôi nhà Phủ Trịnh được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng Di tích lịch sử cấp quốc gia. Năm 2015, Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa đã phê duyệt dự án đầu tư xây dựng công trình bảo tồn, tu bổ, tôn tạo khu Phủ Trịnh nhằm mục đích phát huy giá trị di tích, góp phần tôn vinh công lao to lớn của các chúa Trịnh trong sự nghiệp trung hưng nhà Lê. Từ đó công việc xây dựng, tu bổ, tôn tạo khu di tích Phủ Trịnh đã và đang được tiến hành.

       Năm 2019, Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa có quyết định phê duyệt quy hoạch chi tiết xây dựng khu di tích Phủ Trịnh, xã Vĩnh Hùng, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa với mục tiêu xây dựng khu di tích Phủ Trịnh thành điểm đến của du lịch Thanh Hóa nói riêng, Việt Nam nói chung, góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế địa phương. Quyết định nêu rõ tính chất, chức năng khu di tích lịch sử quốc gia Phủ Trịnh gắn liền với điểm tham quan, du lịch quan trọng của tỉnh Thanh Hóa.

       Quy mô quy hoạch khu di tích Phủ Trịnh có tổng diện tích là 16,36ha. Trong đó khu vực di tích bao gồm: Khu phủ từ gồm các hạng mục: Nhà tiền điện, nhà Hậu điện, cổng, nhà tả mạc, sân, vườn, cảnh quan… Khu trưng bày, Vườn Thượng Uyển gồm có 11 gian: Lầu ngắm cảnh, khu trưng bày thú trên đá, hồ nước, các loại cây hoa, cây cảnh. Khu lễ hội có các hạng mục: Nhà bia, cổng Nam, cổng tây, lầu ngâm thơ trên hồ nước, sân vườn, cảnh quan… Khu cảnh quan phía ngoài đê có khu cây xanh, có bến thuyền sông Mã và đường giao thông để khách đi bằng đường thủy về thăm Phủ Trịnh.

       Về thăm khu di tích Phủ Trịnh, du khách đến thăm một số di tích lịch sử liên quan đến nhà Trịnh đã được xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia, đó là: Nghè vẹt, Nhà thờ họ Hoàng Đình (làng Bồng Thượng), mộ tổ 5 đời của Thái vương Trịnh Kiểm, lăng mộ Thành tổ Triết vương Trịnh Tùng (làng Sóc Sơn)…

       Nghè Vẹt là một công trình kiến trúc quy mô rất lớn, gồm có: Nhà tiền đường 11 gian, trung đường 11 gian và hậu cung. Nhà làm toàn bằng gỗ lim, cột to, mái lợp ngói mũi. Dãy cột cái phía sau nhà tiền đường, mỗi cây cột bài trí một chim Vẹt gỗ và một tượng phỗng gỗ (quan hầu) tất cả đều chầu vào gian giữa. Ở hai cột quân phía sau nhà tiền đường có đặt đôi Ngựa hồng cũng chầu vào gian giữa. (Đầu năm 70 của thế kỷ XX, địa phương hạ giải 8 gian cả dãy nhà trung đường, hiện còn 3 gian). Nghè Vẹt đã được trùng tu tôn tạo khang trang.

       Nghè Vẹt là nơi thờ Thành hoàng làng Biện Thượng. Thần họ Trịnh tên húy là Gia, người đất Thiên Vực, lộ Vĩnh Ninh (nay là Thọ Vực, huyện Vĩnh Lộc). Vào niên hiệu Hàm Thông, đời vua Đường Ý Tông (Trung Quốc), vua sai Cao Biền đem quân đánh giặc, Trịnh Gia theo giúp được làm quản gia và trở nên giàu có. Ông rất thương người nghèo đói, thường đem của chu cấp cho Nhân dân trong cả huyện. Sau bị người ở xã Vĩnh Thành (nay thuộc thị trấn Vĩnh Lộc) hiềm thù giết chết rồi bỏ xác xuống sông. Cao Biền bèn làm lễ chôn cất. Từ đó về sau, dân ở ven sông Vĩnh Ninh (Vĩnh Lộc) và một số nơi khác lập đền thờ. Trên đất Thanh Hóa có 72 nơi thờ Trịnh Gia, riêng huyện Vĩnh Lộc có 28 nơi thờ. Kỵ thần vào ngày 14/11 âm lịch.

       Nhà thờ họ Hoàng Đình là nơi thờ Thái tử Vinh Quốc công Hoàng Đình Ái - danh tướng thời Lê Trung Hưng. Hoàng Đình Ái sinh năm 1527, quê ở Biện Thượng. Từ nhỏ Hoàng Đình Ái đã theo nghiệp võ, lớn lên ông đầu quân giúp nhà Lê Trung Hưng, làm quan trải 4 triều: Trung Tông (1549-1556), Anh Tông (1557-1573), Thế Tông (1573-1600), Kính Tông (1600-1619), “một đời công thần ở ngôi vị tướng văn, tướng võ, công danh bao trùm thiên hạ, sự nghiệp rải khắp biên thùy”. Ông mất năm 1608, hưởng thọ 81 tuổi, triều đình truy tặng Bình Chương sự, Nhã Đô Mậu nghĩa công, ban tên thụy là Hậu Đức. Vua sai Đông các đại học sĩ Ngô Chí Hòa soạn văn bia để ghi công. Lời minh trong văn bia ghi: “Non sông nước Nam/ Giữa tin Nhật nguyệt/ Tướng công chung nghĩa/ Đứng giữa đất Việt/ Thư khoán nhà Hán/ Cờ quạt nhà Chu/ Hoàn nghiệp tướng công/ Rạng danh muôn thuở/ Hòe quế đầy sân/ Lan chi đầy thềm/ Con cháu tướng công/ Trăm đời hiển đạt”.

       Từ Bồng Thượng khách du lịch lên làng Sóc Sơn (cùng xã Vĩnh Hùng) thăm viếng mộ tổ 5 đời Thái sư Trịnh Kiểm là Tuy nhân vương Trịnh Kỷ, cùng phu nhân họ Lê, húy là An Nhân. Khu mộ nằm ở nanh lợn thuộc khu vực Chổng Nun. Truyền lại đây là nơi đất quý được thầy địa lý mách bảo, Trịnh Liễu đưa hài cốt bố mẹ chôn cất tại đây, về sau đến đời Trịnh Kiểm đã làm nên vương nghiệp.

       Ở làng Sóc Sơn còn có khu lăng mộ chúa Trịnh Tùng, con thứ của Trịnh Kiểm, nằm trên khu đất cao bên cạnh hón thác (suối), quanh năm có nước chảy ra sông Mã. Trịnh Tùng có 53 năm nắm giữ binh quyền và phục triều 4 triều vua Lê: Anh Tông, Thế Tông, Kính Tông, Thần Tông, đất nước hai mặt Nam - Bắc đều yên ổn. Trịnh Tùng mất năm 1623, hưởng thọ 74 tuổi. Triều đình nhà Lê tôn phong Miếu hiệu là Thành tổ Triết Vương. Khu lăng mộ Trịnh Tùng được tu bổ, tôn tạo từ năm 2012 trên diện tích 11.000m2. Công trình gồm: Lăng mộ, nhà bia, cổng tứ trụ, hậu chẩm, tượng chầu, sân, hồ bán nguyệt, cây xanh…

       Đất Báo Bồng còn là đất học hành, khoa bảng và tinh thần yêu nước, ý chí chống xâm lược. Trong thời kỳ phong kiến, nơi đây có nhiều người đỗ đạt cao, đứng đầu là Trịnh Tuệ, người làng Biện Thượng có Trịnh Khắc Tuy đỗ Tiến sĩ năm 1685, Trịnh Kiên đỗ Tiến sĩ năm 1448… Ở làng Đông Biện có Đỗ Thiện Chính đỗ Hoàng giáp năm 1659, Tống Duy Tân đỗ Tiến sĩ năm 1875, Đỗ Thiện Kế đỗ Phó bảng năm 1875. Dưới triều Nguyễn, làng Đông Biện có 27 người đỗ Cử nhân và có người đỗ Tú tài (cả huyện Vĩnh Lộc dưới triều Nguyễn có 42 người đỗ Cử nhân). Người đương thời ca ngợi, “Nghệ Đông Thành, Thanh Đông Biện”, nói về đất Đông Thành thuộc huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An và đất Đông Biện tỉnh Thanh Hóa có nhiều người học hành, đỗ đạt cao.

       Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, nước Việt Nam ra đời, người Bồng Báo vẫn phát huy truyền thống đất học, trẻ em lớn lên đều đi học, nhiều người có trình độ đại học. Đến nay có 25 người có học vị Tiến sĩ, trong đó làng Bồng Trung có 15 Tiến sĩ. Năm 2018, em Hoàng Minh Trung - làng Bồng Trung đạt Huy chương Vàng môn Sinh học tại kỳ thi Olympic Sinh học quốc tế. Năm 2019, em lại tiếp tục đạt Huy chương Bạc với môn học này.

       Về tinh thần yêu nước chống xâm lược, trong phong trào chống Pháp cuối thế kỷ XIX, làng Đông Biện có Lê Văn Điếm - một dũng tướng không sợ hy sinh, quyết chiến đấu với giặc đến hơi thở cuối cùng và Tiến sĩ Tống Duy Tân là lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Hùng Lĩnh chống thực dân Pháp (1886 - 1892).

       Lê Văn Điếm sinh năm 1850, là người có sức khỏe khác thường, lớn lên ông đi lính và được tuyển vào trường võ bị trong quân đội nhà Nguyễn. Sau thời gian học tập, ông tỏ ra là một võ sinh xuất sắc được tuyển đi thi võ. Kết quả ông đã đậu Phó bảng võ (kém Tiến sĩ một bậc). Sau khi trúng tuyển, ông được phục vụ dưới quyền của ông Ích Khiêm - vị quan lớn của triều Nguyễn. Ông được giữ chức Đề đốc hộ thành Nam Định (chỉ huy quân đội trong một tỉnh). Năm 1883, quân Pháp mở rộng xâm lược Bắc Kỳ lần thứ 2. Sau khi đánh chiếm thành Hà Nội, chúng kéo quân đánh chiếm thành Nam Định. Về tương quan lực lượng, quân Pháp mạnh hơn ta rất nhiều. Về phía ta, quân số đã ít, vũ khí lại thô sơ. Trước tình hình đó, Tổng đốc tỉnh Nam Định Vũ Trọng Bình rất hoảng hốt phải bỏ chạy, Án sát Hồ Bá Ơn bị thương. Quân Pháp tấn công mạnh, nhưng Đô đốc Lê Văn Điểm vẫn kiên cường đốc quân chống trả quyết liệt. Quân địch càng tăng cường hỏa lực. Cuộc chiến đấu diễn ra rất ác liệt. Lê Văn Điếm và binh sĩ vẫn kiên cường chống trả đến phút chót. Cuối cùng, ông bị đạn bắn thủng ruột rồi hi sinh vào ngày 27 tháng 3 năm 1883 (19 tháng 2 năm Quý Mùi).

       Sau khi Lê Văn Điếm qua đời, Nhân dân rất lấy làm thương tiếc, triều đình nhà Nguyễn đã truy phong tước cho ông và bố mẹ ông.

       Khu lăng mộ Đề đốc Lê Văn Điếm nằm cạnh quốc lộ 217, thuộc địa phận làng Bồng Trung (xã Minh Tân). Lăng mộ được tôn tạo năm 2010 bằng vật liệu đá xanh, kiến trúc theo kiểu lăng mộ của các Quận công trước đây. Tổng diện tích lăng mộ là 300m2, riêng phần khuôn viên lăng mộ là 150m2. Khu lăng mộ có giá trị về lịch sử, về nghệ thuật điêu khắc và mỹ thuật đương đại được thể hiện ở các mảng đề tài trang trí khá phong phú như: Chạm hình chim phượng, hoa lá cách điệu, hoa văn sóng nước, tùng, trúc, cúc, mai…

       Tống Duy Tân sinh năm 1838, ông thi đỗ Cử nhân năm 1870, đến năm 1875 ông đỗ Tiến sĩ, được bổ làm Tri phủ Vĩnh Tường (Vĩnh Phúc). Về sau, ông được thăng lên chức Thừa biện Bộ Hình. Ông là một vị quan nghiêm minh xét xử công bằng, được Nhân dân trong vùng mến phục.

       Do không đồng tình thái độ của triều đình nhà Nguyễn với thực dân Pháp, Tống Duy Tân cáo quan về quê dạy học, mượn cớ về để tang mẹ mới tạ thế. Tại quê nhà, ông vừa dạy học, vừa bí mật chuẩn bị lực lượng chống thực dân Pháp. Khi Tôn Thất Thuyết còn làm Tổng đốc Thanh Hóa, nể lời mời, Tống Duy Tân nhận chức Đốc học Thanh Hóa, sau làm Thượng Biện tỉnh vụ, rồi làm Chánh sứ Sơn phòng.

       Năm 1885, hưởng ứng chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi, Tống Duy Tân đã kịp thời vận động Nhân dân xây dựng lực lượng, “sức đi các phủ, huyện lấy hương binh ra đầu quân” làm cuộc khởi nghĩa chống Pháp mang tên Hùng Lĩnh (Hùng Lĩnh là một ngọn núi ở làng Bồng Thượng, dân làng gọi là núi Báo). Tại quê nhà được Nhân dân đồng tình ủng hộ, trong đó có một số người ở quê tham gia trong bộ chỉ huy cuộc khởi nghĩa như Nguyễn Sự Chí (làng Bồng Trung), Lê Văn Dơi (làng Bồng Thượng), Trịnh Văn Khôi (làng Bản Thủy - quê vợ Tống Duy Tân). Nghĩa quân dựa vào dãy núi Mông Cù, làng Đa Bút làm chiến khu. Sau này, Tống Duy Tân đã tổ chức xây dựng căn cứ Bồng Trung - Đa Bút để đánh trả các cuộc tấn công của quân Pháp. Cứ điểm Bồng Trung - Đa Bút trở thành một trong những trung tâm của phong trào khởi nghĩa của Nhân dân Thanh Hóa. Thực dân Pháp đã tức tốc mang quân tới đánh phá hòng tiêu diệt nghĩa quân.

       Trong hai trận đánh liên tiếp, ngày 8 tháng 11 và ngày 22 tháng 12 năm 1885, khi quân Pháp từ tỉnh lỵ Thanh Hóa đi bằng xuồng máy ngược dòng sông Mã lên đánh phá chiến khu đã bị nghĩa quân tiêu diệt nhiều tên bị thương. Đến đầu năm 1886 nghĩa quân Hùng Lĩnh trên bước đường trưởng thành đã phối hợp chiến đấu với nhiều đội nghĩa quân khác trong tỉnh. Nhưng từ sau khi cứ điểm Ba Đình bị triệt hạ (01 - 1887), phong trào đấu tranh của Nhân dân Thanh Hóa đứng trước những khó khăn lớn. Sau những cuộc đàn áp đẫm máu của địch, lực lượng nghĩa quân bị suy giảm, một số lãnh tụ hi sinh trong chiến đấu hay bị sa vào tay giặc. Trong tình thế đó, Tống Duy Tân không thể duy trì toán quân nhỏ của mình để đương đầu với địch, mà phải tìm mọi cách tăng cường lực lượng, chắp nối với các phong trào ở hai miền Trung, Bắc. Nhằm mục đích ấy, nghĩa quân Hùng Lĩnh tạm phân tán, còn Tống Duy Tân tìm đường ra Bắc vận động văn thân và Nhân dân ủng hộ phong trào đấu tranh của Thanh Hóa.

       Bước vào các năm (1889 - 1890), nghĩa quân Hùng Lĩnh được phục hồi và phát triển. Dưới sự chỉ huy của Tống Duy Tân và Cao Bá Điển, nghĩa quân Hùng Lĩnh đã lập được nhiều chiến công trong các trận đánh ở Vân Đồn, núi Mưng (Nông Cống), Yên Lãng (Thọ Xuân)… Nhưng suốt trong hai năm 1891 - 1892, nghĩa quân Hùng Lĩnh phải chiến đấu lưu động trên một địa bàn rộng lớn từ các huyện miền xuôi lên các huyện miền núi Thanh Hóa, trong tình thế bị địch bao vây o ép ráo riết, lực lượng chiến đấu bị giảm sút, vũ khí và binh lương ngày càng hao hụt. Tống Duy Tân và Cao Bá Điển bàn với các tướng lĩnh tạm thời phân tán về các địa phương, vũ khí, binh lương phần lớn chuyển giao cho Cầm Bá Thước, Tống Duy Tân dẫn một toán quân nhỏ về ẩn ở hang Dong thuộc huyện Bá Thước, sau đó lại tìm cách gây dựng lại phong trào. Nhưng Pháp đã đem quân vây bắt được Tống Duy Tân và kết án tử hình ông vào ngày 5 tháng 10 năm 1892 tại Thanh Hóa. Tấm lòng yêu nước cao cả và cái chết vẻ vang vì nước, vì Nhân dân của Tống Duy Tân sống mãi với quê hương đất nước. Năm 1920, Nguyễn Ái Quốc - tức Chủ tịch Hồ Chí Minh, khi đang hoạt động ở nước Pháp đánh giá: “Tống Duy Tân là một nhà đại trí thức, đấu tranh dũng cảm chống bọn xâm lược Pháp” và Người khẳng định: “Tôi tôn kính tất cả những Tống Duy Tân… cái chết của họ làm cho Tổ quốc họ sống lại, lòng can đảm của họ bất diệt”.

       Lăng mộ Tống Duy Tân hiện đang nằm trong khuôn viên trường học mang tên ông, đó là Trường THPT Tống Duy Tân ở làng Bồng Trung.

       Truyền thống yêu nước của Nhân dân Bồng Báo được phát huy “Trong 30 năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ (1945 - 1975), Nhân dân cả 3 xã miền Bồng Báo đều có thành tích xuất sắc về đóng góp sức người, sức của cho các cuộc kháng chiến của Nhân dân ta giành thắng lợi. Đặc biệt, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, xã Vĩnh Ninh và xã Vĩnh Tân đều được tặng thưởng Huân chương kháng chiến về thành tích tòng quân chi viện; xã Vĩnh Hùng được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Nhì về thành tích tòng quân chi viện cho tiền tuyến.

       Ở các xã miền Bồng Báo còn nhiều di tích lịch sử được xếp hạng, được gìn giữ và phát huy giá trị, là điểm đến thăm quan của khách du lịch, đó là khu tượng đá Đa Bút, chùa Đa Bút, chùa Bền, nghè Cung, đình Bồng Trung, đình Bồng Hạ, đình Bồng Thôn, đình làng Vực, chùa và Phủ Báo và từ đường (nhà thờ) các dòng họ như: họ Trịnh Tất Đạt, họ Đỗ, họ Mai, họ Nguyễn Ngõ Phủ, họ Nguyễn Bá Thân (xã Minh Tân), họ Lê Văn Ngõ Thẳng, họ Lê Đình, họ Hoàng Đình Phùng (xã Vĩnh Hùng).

       Ngoài ra, ở phụ cận miền Báo Bồng có những di tích lịch sử, danh thắng đã được xếp hạng cấp quốc gia, là những điểm du lịch hấp dẫn, như: Bia ký và đền thờ Trịnh Khả (làng Giang Đông, xã Vĩnh Hòa), chùa Hoa Long, đền thờ Thượng tướng quân Trần Khát Chân (xã Vĩnh Thịnh), danh thắng Kim Sơn và chùa Linh Ứng (xã Vĩnh An).

       Các làng xã ở Báo Bồng từ xưa có nhiều phong tục, tập quán và các lễ hội được cả làng tham gia đó là: lễ Thượng Nguyên (rằm tháng Giêng), lễ Kỳ Phúc (lễ cầu phúc), ngày kỵ thần (thành hoàng làng). Ở làng Bồng Thượng có lệ rước bóng ở Phủ Báo (rước kiệu mẫu Liễu Hạnh vãn cảnh ngày Xuân) vào ngày 28 tháng 2 âm lịch, thu hút đông đảo Nhân dân trong vùng tham gia: Câu ca về lễ rước bóng còn truyền mãi đến nay: “Lệ làng 28 tháng 2/ Lệ làng rước bóng gái trai phải lòng/ Mưa xuân cho cỏ rậm đồng/ Cho trai với gái phải lòng thương nhau”. Hiện nay miền Báo Bồng có thêm lễ hội Phủ Trịnh và giỗ Đức Minh Khang Thái vương Trịnh Kiểm vào ngày 18 tháng 2 âm lịch tại làng Bồng Thượng. Đây là lễ hội cấp tỉnh nên đông đảo khách thập phương và con cháu dòng họ Trịnh cả nước về tham dự.

       Về sản vật ở miền Bồng Báo có rất nhiều. Theo sách “Thanh Hóa tỉnh, Vĩnh Lộc huyện chí” của cử nhân Lưu Công Đạo người Châu Hoan (Nghệ An) biên soạn năm Bính Tý, đời vua Gia Long thứ 15 (1816) khi ông giữ chức Huyện Doãn (Tri huyện) huyện Vĩnh Lộc cho biết: Ở Biện Thượng (vùng Bồng Báo) có nhiều sản vật quý như long cốt, nhân sâm, con trai, con ốc, khoai lang Đa Bút… Nhân sâm tức loài sâm củ hao hao hình người, là sản vật quý hiếm, mọc ở núi Hùng Lĩnh, dân làng gọi là núi Báo, do đó nhân sâm ở đây gọi tắt là sâm Báo. Lưu Công Đạo đã viết về nhân sâm như sau: “Nhân sâm là sản vật hiếm ở các núi Biện Thượng, Hùng Lĩnh, tục gọi là Báo sâm, mùi vị ngọt, hơi chua, tính hơi hàn. Tẩm nước gừng đen đồ với gạo nếp, xắt thành từng miếng nhỏ, thời tiết càng nóng uống càng tốt, sách bản thảo chép rằng: Nước Nam có nhiều sâm, chỉ có sâm ở đất Biện công hiệu hơn hẳn các nơi khác. Dùng nhân sâm có nhiều hiệu nghiệm kỳ lạ”(2).. Ngày 09 tháng 12 năm 2019, rượu sâm Báo xã Vĩnh Hùng, huyện Vĩnh Lộc đã được Hội đồng thẩm định tỉnh Thanh Hóa xếp hạng là sản phẩm OCOP cấp tỉnh năm 2019./.

Tác giả: Lê Khắc Tuế

Chi hội Khoa học lịch sử Tây Đô

SƯ MINH TUỆ - BỘ HÀNH VỀ MIỀN ĐẤT PHẬT!

 

PHẦN I. TRÊN ĐẤT NƯỚC AI-LAO

(13.12.2024)

I/ BUỔI SÁNG ĐẦU TIÊN TRÊN ĐẤT AI-LAO

Ông Đoàn Văn Báu: Chiếc xe phía trước là của chị làm ngành Hải Quan tại nước Lào. Chị ấy cũng rất là tế nhị.

Khi chị biết các sư nghỉ ở đây, chị đã chạy quá ra một cây số, chờ các thầy đến, để cúng dường nước uống.

Ngày hôm qua, khi chị nghe nói, thầy chỉ ăn một bữa một ngày, và đang ngồi ngoài rừng, chị ấy đã chạy ra ngoài, lúc đang làm việc, mà ôm mặt, khóc nức nở.

Chúng ta hãy xem người dân đầu tiên của nước sở tại, đảnh lễ sư. Chị ấy lúc này đã bỏ giày ra, đi chân đất và quỳ bên đường. Chị giữ khoảng cách và đảnh lễ rất đẹp.

Tôi đã thấy chị xúc động và rơi nước mắt.

Chị chờ đây lâu chưa chị?

Phật Tử Ai-Lao: Cũng một tí thôi. Ở đây là nước với hạt điều, xin em hãy cầm giúp. Đi trên đường, khi nào cảm thấy… (nghẹn ngào).

Ông Đoàn Văn Báu: Vâng, vâng, em cảm ơn chị.

Phật Tử Ai-Lao: Được gặp, chị mừng lắm.

Ông Đoàn Văn Báu: Người Việt gọi là có duyên.

Phật Tử Ai-Lao: Chị thấy là chị có duyên, chị có phước. Vì chị… (khóc). Chị thấy ông ở trên mạng… (khóc). Cái clip, có người đánh ông đó… (khóc). Chị viết trên trang của chị: Ông là con của ông Phật ở trên trời đó… (khóc).

Thật, nếu mà không phải con của Phật, thì người ta sẽ phản ứng lại… (khóc). Nhưng mà ông thì đã không như thế… (khóc).

II/ CẢM NGHĨ

1. PHẬT TỬ BUỔI SÁNG ĐẦU TIÊN TRÊN NƯỚC AI-LAO

Tôi xem video này từ sáng đến giờ, không biết đã bao lần. Bao lần xem là đủ bao lần tôi xúc động vì hình ảnh của chị Phật Tử nước bạn. Chị thiệt là dễ thương, vừa đẹp người lại đẹp nết.

Tôi không hồ đồ, vội vã, khi ca ngợi chị như thế đâu. Mà chính một loạt các hành vi, thái độ của chị, dù chỉ diễn ra vỏn vẹn trong hai phút, cũng đã quá đủ cho tôi có ấn tượng ban đầu như vậy về chị.

Giá mà tôi có thể được ôm chị, và nói, cảm ơn chị nhiều lắm, ngưỡng mộ chị nhiều lắm, chị thiệt là đáng yêu làm sao. Người đẹp như chị, thiệt hiếm có trên đời.

2. PHÁP DANH CỦA SƯ MINH TUỆ

Nhớ gì, tôi sẽ nhắc đó cùng các bạn. Tôi đã bỏ hàng mấy trăm giờ ra xem tất cả các video về sư, và tôi xin khẳng định, sư đã lặp đi lặp lại không biết bao lần: Minh Tuệ, là Pháp danh, là tự sư lấy tên đó cho mình, và không có họ Thích phía đầu.

Chỉ đơn giản là Minh Tuệ.

Sư cũng nói thêm, sư chưa là thầy của ai cả. Sư chỉ là người xuất gia, bộ hành, khất thực, tu tập theo mười ba hạnh Đầu Đà.

3. Y PHẤN TẢO CỦA SƯ MINH TUỆ

Sư cũng đính chính rất nhiều lần, áo nhiều mảnh mà sư mặc (chớ không phải áo bảy màu, như cá bảy màu, hay như cầu vồng bảy màu), có đủ màu, tùy vào việc nhặt được vải gì trên đường, miễn dày, miễn không hoa hòe, là sư cắt ra miếng vuông vức, giặt sạch và sẽ may, trong những lúc ngồi nghỉ bên đường. Thêm vào đó, việc mặc như vậy, là để không liên lụy đến hình ảnh của chùa chiền, của Giáo Hội, cả Nam Tông và Bắc Tông.

4. NỒI CƠM ĐIỆN CỦA SƯ MINH TUỆ

Nồi Cơm Điện, cũng chỉ là việc rất tình cờ, được sư dùng thay cho bình bát. Với sư, bình bát đẹp quá, không hợp với hạnh tu của sư, lại không bền, phải thay hoài, mà sư thì không có tiền mua, nên sư đã xin cái lõi nồi cơm điện của người ta, ngay từ hôm đầu tiên, sư quyết chí lên đường, tu theo hạnh: ba y, một bát.

5. ĐÔI CHÂN TRẦN CỦA SƯ MINH TUỆ

Trong một buổi phỏng vấn của nhiều năm về trước, khi người phỏng vấn xin được xem hai bàn chân của sư, và họ đã thảng thốt kêu lên, khi nhìn thấy đôi bàn chân sư, phần lồi ra, cháy nám, như có một lớp hắc ín quét lên - đau không sư ơi, thì sư đã cười thật tươi mà rằng, dạ đau chớ, chảy máu, mưng mủ, nhiễm trùng, đủ hết, những năm đầu, nhưng con cố gắng chịu đựng, vì con đi suốt đời, dép không bền đâu, vài tháng là đứt, chẳng lẽ thay hoài, chỉ da thịt con là bền thôi, không phải lo âu đến tiền mua dép.

6. ẤN ĐỘ ĐƯỢC MỆNH DANH LÀ VÙNG ĐẤT PHẬT

Còn nhiều điều về sư nữa, nếu các bạn thắc mắc, chịu khó coi lại các bài chuyển thoại của tôi về sư Minh Tuệ. Tất cả là sự thực, hình ảnh còn đó, lời sư còn đó, xin đừng vô tình hoặc cố ý, hiểu lầm, hiểu sai, làm tổn thương thêm sư, tổn thương cả những người kính trọng, thương yêu sư - một người con Phật, quá hiền lành, không dám giẫm đạp từ con sâu, cái kiến bên đường, không dám làm phiền đến một ai, trong suốt tám năm qua, từ khi trở thành tu sĩ.

Chuyện cuối, tôi muốn chia sẻ ngày hôm nay, có một vài ý kiến, cho rằng: Đất nào là đất Phật? Có đất nào không có Phật đâu? Tu ở đâu mà chẳng được? Sao phải ra xứ người?

Hành trình của sư, sẽ đi qua các nước: Ai Lao, Thái Lan, Miến Điện, và cuối cùng là Ấn Độ.

Miền Đất Phật, là tên gọi bao lâu nay, người ta dùng cho Ấn Độ, vì Đức Phật là hoàng tử của xứ Ấn Độ mấy ngàn năm trước. Người ta cũng gọi Tây Tạng, hay Nepal, hay Miến Điện là vùng đất Phật nữa, vì Phật Giáo vốn là tôn giáo chánh ở các xứ sở này. Thậm chí Cam Bốt, thậm chí Thái Lan, người ta cũng tự hào, nước của người ta là vùng đất Phật luôn.

Vậy thì thay vì viết, Sư Minh Tuệ - Bộ Hành Đến Ấn Độ, được đổi thành, Sư Minh Tuệ - Bộ Hành Về Miền Đất Phật, cũng có sai gì về chánh tả, hay ngữ pháp, hay nội dung của câu đâu.

Xin được tán thán sư Minh Tuệ, tán thán hạnh nguyện của ngài, kính chúc ngài được trọn vẹn thành tựu trên con đường tu tập.

Cảm ơn và mến chúc các bạn đọc an lạc.

Sài Gòn 13.12.2024

Phạm Hiền Mây

Nguồn:

Văn bản trò chuyện, trao đổi trên, được chuyển thoại từ video: Chị làm Hải Quan Lào Đảnh Lễ Sư Minh Tuệ Khi Sư Đi Qua. Phát hành ngày 13.12.2024, trên kênh YouTube Phật Bên Ta.

Thứ Tư, 4 tháng 12, 2024

Thực phẩm, thực vật thần dược của người Việt


Ôi Thần Dược, Mi Hại Ta...

Nhìn chung thì hầu như mọi thứ thực phẩm quanh ta đều được email và webpage người Việt ca tụng là “thần dược’’ trị ung thư và bá bịnh.

Thử điểm mặt qua những thứ món thuốc mà người Việt chúng ta tự bày cho nhau (cũng đôi khi  bắt chước người Mỹ hoặc người Tàu mà bày thuốc cho nhau):

Nhìn chung thì hầu như mọi thứ thực phẩm quanh ta đều được email và webpage người Việt ca tụng là “thần dược’’ trị ung thư và bá bịnh.

1. Nhiều người vang bóng một thời, người bày ra món này đã hốt nhiều chục triệu bạc xong lặn mất. Kế đó là nước măng cụt, bây giờ còn chút tiếng vang. Kế nữa là Canh Dưỡng Sinh, được phe ta uống như điên trong thời gian chừng sáu tháng rồi tịt ngòi.

Tiếp theo thì ngàn hoa đua nở: Hết  dưa chuột, rồi thì lá đu đủ, rồi tới mãng cầu. Đầu tiên là mãng cầu Mễ (bán nhiều tại Mỹ) sau chê phải là mãng cầu Xiêm loại trồng ở Việt Nam.

2. Hai thứ sau này đang phất cờ tiến mạnh vào niềm tin của bà con ta. Chắc chừng năm sau sập tiệm, tuy nhiên mấy vị nhanh tay chế viên mãng cầu, nước mãng cầu cũng kiếm được mươi triệu đô rồi.

Sau đó là dầu dừa được ca ngợi (do công ty Tây Mỹ bày bán, kiểu bán mỡ rắn thời nẩm), có một vị suýt chết vì dầu dừa hai năm trước, vị này ở Hố Nai chạy xuống Bến Tre mua dầu dừa ép lạnh về uống hai ba tháng đi hết nổi. May mà đọc thấy email  lúc đó về dầu dừa mới tỉnh ra mà ngưng uống,  nhưng tức quá gởi email la làng cho hả giận.

3. Hiện giờ thì trái Sung, cây Bồ Công Anh, trước đó thì Kim Thất Tai (sao hiện giờ ít nghe ai nhắc nói tới, chắc nó âm thầm dẹp tiệm rồi). Hiện giờ cũng còn đang hoành hành sức khỏe bà con ta là Cây Lượt Vàng, trước đây là cây Cần Tây, nay thì Cây Cần Tây cũng lặn mất rồi. Vài năm trước thì là Trà Xanh là thần dược, Trà mọi loại là tiên dược, những vị uống trà ngừa và trị bịnh hiện nằm nhà thương hay ra vào nhà thương (tôi nói ẩu) cũng bộn nên hết hơi sức để vuốt đuôi ca ngợi theo gian thương Trung Cộng. Nay thì được biết người ta hơi né trà rồi, lý do là thuốc trừ sâu (và đủ thứ hương thơm hóa chất vô danh) ướp vào trong đó, kể cả trà ướp xác chết cũng được bán ta cho bà con ghiền thưởng thức (chuyện này nói thật, có thật, không nói ẩu đâu, có “chạy Nhật Trình’’ mà).

4. Sau khi chê Trà thì bà con ta sang ca ngợi Cà-phê. Hình như trong tâm trí một số phe ta phải có cái gì đó để ca ngợi mới sống được chăng ? Hiện trứng gà được một vị tung lên tới mây xanh (kết quả là thống kê vừa công bố những vị nam giới ăn 7 trứng gà hay hơn mỗi tuần thì mau chết hơn những vị không ăn).

5. Còn gì nữa, cà chua, sả, xoài, trái chuối chín rục đều “trị được ung thư’’ (chắc mấy tiệm bán chuối chế ra chuyện để tiêu thụ chuối chín thâm đen cho khỏi bỏ thùng rác ?). Trước đó một chút và ngay hiện giờ chanh được ca tụng là giết tế bào ung thư 10.000 lần mạnh hơn “chimo”. Trước nước chanh trị ung thư thì có Giấm Táo và mật ong. Hiện giờ thì mật ong và Bột Quế, mới đây thì phong trào củ cải trắng chanh và nghệ.

Nói chung thì: Bất cứ rau trái nào trước mặt các bạn đều cũng đều được người Việt ca tụng là thần dược trị ung thư hay trị được những thứ bịnh mà Tây Y còn đang vật lộn!

6. Quên nữa còn gạo đen (dân Gò Công gọi: “gạo nhum”) cũng trị ung thư và nhiều bịnh ngặt, trước đó gạo lức được tâng lên làm thần dược, nay thì gạo lức rang pha nước uống là “thần’’ dược. Gạo lức được dân BBC gọi là gạo nâu đó nghe bà con. Nói thêm theo thống kê hiện giờ thì gạo lức chứa nhiều kim loại nặng có hại hơn là gạo giả trắng. Hai món sống dai là củ tỏi và gạo lức, không biết có bao nhiều người theo và bao nhiêu người khỏi bịnh. hiện giờ củ tỏi hầu hết 75% là do Trung Cộng trồng.

7. Gạo lức bị Mỹ điểm mặt năm trước, năm nay tỏi Trung Cộng cũng bị Mỹ điểm mặt.

Các bạn đọc chán chưa, còn nữa mấy mươi năm nay người ta ca ngợi Đậu Hũ đậu nành trị ung thư, thế mà mấy mươi năm nay cũng chưa thấy ai nhờ nó mà sống thêm. Quên nữa Cây Sả hiện được bà con ta nói trị ung thư mạnh hơn 10.000 lần “chimo’’ (con số nghe quen quen). Các bạn còn nhớ lá đu đủ một thời là khắc tinh bịnh ung thư, sau đó thấy không hiệu nghiệm bèn bày ra Lá Đu Đủ Đực mới hiệu nghiệm. Nhiều người cũng tốn tiền mua lá đu đủ khô hay viên về uống. Còn hết ? Thưa còn thí dụ: “Măng tây ai mà ngờ’’ (tôi thêm: Ai mà ngờ vô dụng). Mới vài tuần nay thì khoai môn Trung Cộng được ba con ta ca ngợi ăn nó không bị ung thư nữa. Nên lưu ý, cái gì mà Trung Cộng sản xuất cũng đều mang mầm bịnh, bà con biết rồi mà.

Còn hết ? Thưa còn dài dài, hiện đang bày nhau: Xay cam, bôm, cà chua, cabbage, cà rốt, Lô Hội và bỏ thêm 1 muỗng Mật Ong...hằm bà lằn, uống hàng ngày để ngừa ung thư. Thôi nghe, kể hoài còn hoài.

8. Thưa quý bạn, những thứ được kể bên trên là tôi chợt nhớ ra, chắc mới liệt kê được chừng phân nửa mà thôi. Hôm nào tôi ghi lại coi tất cả mọi thứ thực phẩm chúng ta ăn coi có món nào KHÔNG phải là thần dược hay không.

***

Một bằng hữu góp ý (nhiều năm trước):

Một đoạn phản hồi cho “những bài thuốc’’ (trích trong bài viết “Bà Nội Tướng Của Tôi’’)

“...Chẳng hạn như tôi nói với nàng là có người mách cho một bài thuốc rất đơn giản, chỉ cần gạo đem rang rồi nấu nước uống hằng ngày như uống trà thì có công hiệu rất tốt cho cơ thể như ngủ ngon, giảm huyết áp, giảm mỡ v.v...thì nàng hỏi lại tôi bộ miracle hả ? Gạo rang hay không rang cũng là gạo, tại sao nấu  cơm ăn hằng ngày thì chỉ chữa bệnh đói còn đem đi rang, cho qua lửa luyện tội lại trở thành “dược phẩm’’ là sao, vô lý quá vậy. Ấy vậy mà tôi cũng đòi nàng phải rang gạo nấu nước “thánh’’ cho tôi hết một thời gian hai ba tháng. Nàng bực mình lắm, tuy chìu ý tôi nhưng trong lòng không phục cho là what a silly vớ vẩn!

9. Có một thời gian, người ta đua nhau đi kiếm mua rau má đỏ con mắt, nói là rau này chữa được bệnh thấp khớp làm tôi cũng ráng đi tìm cho được (vì là mùa Đông nên khó kiếm chớ mùa Hè thì loại rau này mọc đầy dãy trong vườn nhổ không kịp) thì nàng bảo rau cỏ nào mà không có dược tính. Theo nàng biết thì rau má có tác dụng giải nhiệt, khi nào nóng trong người  uống vô sẽ hạ hỏa nhưng nếu lạm dụng nó thì sẽ sinh hàn. Mà thấp khớp thì kỵ hàn. Uống riết chắc đi không nổi phải bò luôn.

Rồi còn nhiều phương thuốc khác nữa như Lô hội, trái Nhào, đậu nành, canh dưỡng sinh gì đó lung tung, thứ nào cũng chữa bá bệnh như là thần dược.

Tôi thì thứ nào cũng muốn thử coi có hiệu nghiệm không chớ nàng thì nhứt định giữ vững lập trường không là không. Nàng nói thời buổi y học tân tiến này, có biết bao là thuốc hay thầy giỏi, bệnh gì thuốc đó, chữa còn không được, ở đó mà nghe người ta bày.

Muốn bào chế một viên thuốc, người ta phải nghiên cứu dung hòa bao nhiêu chất trong đó chớ đâu phải đơn giản một thứ một mà được. Phàm cái gì cũng vậy, phải có chừng mức, cứ một thứ mà tống vào cho cố xác thì có hại chớ sao. Có thể nó  chữa được bệnh này nhưng lại phản ứng sinh bệnh khác, hễ có hợp thì  có khắc, có lành tính thì cũng có ác tính. Vì vậy trung dung là thượng sách hơn cả, rủi ai phát giác ra là có hại thế nào đó thì mình cũng không đến đỗi nào, còn trở tay kịp.

Cụ thể như một lọai cải có tên là Phi Long (English spinach) mà tất cả các giống dân Âu, Á, Trung Đông gì cũng rất ưa chuộng (nhất là Lebanese, mua một lần cả trolley) vì nó có rất nhiều chất sắt làm tăng cường sinh lực đến đổi có một phim  cartoon muốn khuyến khích trẻ con ăn vegies đã bịa ra chuyện một nhân vật tên Popye.

10. Anh Popye này nhờ ăn thật nhiều spinach nên mới có đủ sức mạnh để đấu lại  mấy thằng baddies. Đó là nói về mặt lợi ích của lọai cải này, nhưng đồng thời nó cũng có tác hại gây bệnh gout (thống phong) nếu ăn nhiều (không biết nhiều là bao nhiêu) vì nó cũng chứa hàm lượng uric acid rất cao.

Như vậy thì tốt nhất là đừng nghe ai cả mà hãy nghe chính mình. Mỗi  tuần  nấu canh hoặc xào ăn hai ba lần là đủ liều rồi, cứ coi đó là thức ăn thôi, còn muốn làm thuốc thì để cho pharmacist họ làm, đâu có tới phiên mình.

Cũng như rượu, mỗi ngày một ly nhỏ cho máu lưu thông điều hòa thì có ích cho tim mạch nhưng nếu cứ uống cạn ly đầy, rót đầy ly cạn thì sơ gan đứng tim luôn là cái chắc.’’

11. Từ khi vào nghề Y đến nay đã hơn 30 năm, hễ cứ đến ngày này là nhận nhau những lời chúc tụng. Tôi không biết là mình có nên chúc tụng đồng nghiệp và nhận lời chúc tụng của người khác không, khi mà, ngành Y bây giờ không làm tròn trách nhiệm với người bệnh. 

Thôi thì cũng vài dòng cảm ơn những gì các bạn đã chúc nhau, và xin đưa ra những nguyên tắc chung để bà con cẩn thận với sức khỏe của chính mình.

Nguyến tắc thứ nhất:

Đừng tin những gì quảng cáo trên báo đài, truyền thông, và thế giới mạng về thuốc. Vì không độc thì không gọi là thuốc, người ta chỉ uống thuốc để tự tử, chứ không ai uống nước để tự tử bao giờ. Chính vì thế, mà ở các quốc gia tiên tiến, cấm quảng cáo thuốc trên phương tiện truyền thông dân dụng, chỉ được quảng cáo thuốc ở tạp chí và hội thảo chuyên ngành Y.

Nguyên tắc thứ hai:

Khi đi khám bệnh bất kỳ ở đâu, người bệnh cần có 1 câu hỏi phải hỏi: “Bệnh của tôi do nguyên nhân gì ?” Vì chỉ có thầy thuốc giỏi mới điều trị nguyên nhân bệnh, còn lại những thầy thuốc kém hiểu biết chỉ biết điều trị hậu quả - hay còn gọi là chữa triệu chứng - của bệnh.

Nguyên tắc thứ ba:

Đừng bao giờ tin những gì mình tìm kiếm trên mạng internet rồi tự suy diễn, tự làm bác sĩ cho mình và gia đình mình. Vì như thế chỉ làm hại chính mình và gia đình mình. Hãy cứ nghĩ, nếu bản thân bạn đủ khả năng được các trường Y nhận vào học thì các bạn đã trở thành bác sĩ, chưa kể các bác sĩ đã được đào tạo chính quy một thời gian dài về bộ máy tinh vi nhất của quả đất - con người - bình thường và bất thường từ tế bào đến bao nhiêu rối loạn khác về cả thể chất lẫn tinh thần, nhưng chưa chắc họ đã giỏi, thì các bạn chỉ vài cú enter với google, không có kiến thức căn bản về y khoa, thì các bạn như người điếc không sợ súng và tự hại mình thôi.

Nguyên tác thứ tư:

Đừng bao giờ tin những quảng cáo về các loại thức ăn, thức uống bổ, giúp chữa bệnh này hay bệnh khác. Ví dụ, sữa chống loãng xương, thực phẩm chứ năng, thức uống collagen, v.v...chỉ là những trò kinh doanh kiểu đa cấp để kiếm lãi. Loãng xương là một trong những tiến trình của một quá trình lão hóa của bất kỳ động vật nào được diễn ra ở mức độ phân tử sinh học, tiến trình này cho tới nay, y học vẫn còn mò mẫm và bất lực.

Nguyên tác thứ năm: Ăn uống và làm việc là thuốc. Ăn uống và làm việc đúng thì không hoặc ít bệnh tật. Ăn uống và làm việc sai là tự đưa mình vào nơi khổ đau của bệnh tật, vì sức khỏe qúy hơn vàng.

Chúc Cộng Đồng sức khỏe và hạnh phúc.

Sưu Tầm từ internet

Nguồn: BÀI ĐĂNG

 

Thứ Ba, 26 tháng 11, 2024

Thành lập nước Do Thái - Isarel

 Phạm Văn Tuấn

          Buổi trưa ngày 14 tháng 5 năm 1948, trên toàn dẻo đất nằm tại phía đông của Địa Trung Hải, trải dài từ thành phố Safad ở phía bắc xuống tận sa mạc Negev hoang vắng ở phía nam, từ thành phố cổ Jerusalem ở phía đông tới thành phố mới Tel Avis nằm sát biển ở phía tây, 650,000 người Do Thái yên lặng, hồi hộp chờ đợi bên các máy phát thanh. Rồi đúng 4 giờ chiều, vang lên tiếng nói của một nhân vật lãnh đạo quen thuộc: ông David Ben-Gurion. Vị chiến sĩ tiền phong này cất cao giọng nói đầy cảm động: “do quyền lợi quốc gia và lịch sử của Dân Tộc Do Thái và do Nghị Quyết của Liên Hiệp Quốc, tôi công bố ở đây việc thành lập một quốc gia mới tại Palestine, được gọi là nước Do Thái”.

        Từ nay, những người Do Thái đã có một Quốc Gia mới. Họ bàng hoàng, vui mừng, đứng lên chào bản nhạc “Hatikva”, bài ca hy vọng. Nhưng chính vào giờ phút lịch sử này, các nhà lãnh đạo Ả Rập của 40 triệu dân sống chung quanh, đã thề nguyền sẽ đẩy người Do Thái xuống biển, chôn vùi lá cờ mang ngôi sao David. Quốc gia non trẻ Do Thái đang đứng trước cuộc tấn công của năm nước Ả Rập với phi cơ, chiến xa, súng đại bác và súng máy đủ loại, tất cả đang sẵn sàng băng qua biên giới, tiến vào nước Do Thái mới.

1/ Nước Do Thái cổ.

         Lịch sử của dân tộc Do Thái cổ được mô tả trong Thánh Kinh Do Thái Torah rất quen thuộc với các người Thiên Chúa giáo và được gọi là Kinh Cựu Ước (the Old Testament). Bộ kinh Torah này gồm 5 cuốn sách là Sách Sáng Thế (Genesis), Sách Xuất Hành (Exodus), Sách Lê-vi (Leviticus), Sách Dân Số (Numbers) và Sách Phục Truyền (Deuteronomy). Năm cuốn sách này còn được gọi là Ngũ Kinh (Pentatech) hay Bộ Luật của Moses (The Law of Moses). Kinh Cựu Ước đã mô tả sự tạo dựng ra Trời Đất, các cám dỗ và tội lỗi của con người đầu tiên cùng với sự loại con người ra khỏi Vườn Địa Đàng.

        Tại miền Trung Đông, Canaan là một dải đất hẹp khoảng 130 cây số, phía tây là Địa Trung Hải, phía đông có sa mạc Ả Rập, xứ Ai Cập án ngữ tại phía nam còn mạn bắc là miền Mesopotamia với dòng sông Euphrates. Do là một miền đất nằm giữa hai nền văn hóa Ai Cập và Mesopotamia, Canaan đã dần dần trở thành một trung tâm thương mại của các đoàn thương nhân dùng lạc đà, từ thung lũng sông Nile đi lên và từ lưu vực sông Euphrates đi xuống và cũng vì thế tại miền đất này đã xẩy ra các trận chiến, các bất ổn.

         Vào phần tư cuối của thiên niên kỷ thứ 2 trước Tây Lịch, đế quốc Hittie ở phương bắc sụp đổ, đồng thời xứ Ai Cập ở phía nam cũng suy tàn trong khi thế lực Assyrian chưa xuất hiện, những người Do Thái hay Hebrews đã từ miền Mesopotamia di cư qua, tới miền Canaan gần Địa Trung Hải. Danh từ Hebrew có lẽ từ chữ “habiru” hay “hapiru” hay “apiru”. Đây là từ ngữ chỉ một loại người sống lang thang, bán du mục, tách biệt với các xã hội định cư khác. Một trong các vị lãnh tụ của nhóm habiru di dân này là ông Abraham. Ông được mô tả là người giàu có, có nhiều cừu, dê, bò và một số người phục tùng đủ tạo nên một đội quân nhỏ.

         Các tù trưởng miền đất Canaan đã khuyên ông Abraham tới định cư với họ và khi ông Abraham và bà Sarah cần chọn vợ cho người con trai là Isaac, họ đã kén một người họ hàng sống tại Haran, gần Urfa thuộc xứ Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay. Isaac có con trai là Jacob và ông này đã đổi tên thành Israel. Sống với hai người vợ là Leah và Rachel, cùng hai người hầu gái là Bilhal và Zilpah, Israel đã có 12 người con, mở đầu cho 12 bộ lạc và danh từ “Jew = người Do Thái” bắt nguồn từ chữ Judah là tên của một bộ lạc Do Thái mạnh nhất và đông dân nhất.

         Các câu chuyện về Thánh Kinh, về ông Abraham à đã dẫn tới một ý niệm mới, đó là quan niệm nhất thần (monotheism). Cũng theo Thánh Kinh, Thượng Đế (God) với tên gọi là Wahweh, đã hứa bảo vệ ông Abraham và các con cháu của ông trên miền đất Canaan dù có phải gây ra chiến tranh đi nữa, và các người Do Thái tự nhận mình là “con cháu của Abraham” đều bị ràng buộc theo cá nhân và theo tập thể vào các giới luật và lễ nghi của Thượng Đế.

         Vào khoảng thế kỷ 16 hay đầu thế kỷ 15 trước Tây Lịch, gia đình của Jacob vào khoảng 150 người, đã di cư tới Ai Cập để tránh một trận hạn hán và nạn đói tại miền đất Canaan. Sự phì nhiêu của thung lũng sông Nile đã lôi kéo các sắc dân khác tới đây làm công như kẻ nô lệ. Nhưng sự áp chế của người Ai Cập đã khiến cho người Do Thái nổi dậy, có lẽ dưới thời Vua Ramses II (1304-1273 trước TL). Rồi cuộc Xuất Hành (the Exodus) của người Do Thái được cho là đã xẩy ra vào thế kỷ 13 trước Tây Lịch và chấm dứt vào năm 1225 trước Tây Lịch.

       Sách Xuất Hành đã mô tả tình trạng nô lệ của người Do Thái tại Ai Cập cùng với sự vùng lên thành công của họ. Sự tạm lưu trên bán đảo Sinai đã cho người Do Thái ý thức về một số mệnh chung và họ tin rằng Thượng Đế Yahweh đã can thiệp, giúp đỡ nhiều thế hệ Do Thái, và như vậy Luật của Moses, bao gồm cả 10 Điều Răn (The Ten Commandments) đã là những khuôn mẫu để hướng dẫn dân tộc này qua các thời đại lịch sử. Kinh Torah hay Kinh Cựu Ước đã chủ trương một Thượng Đế và vì con người được tạo dựng nên theo hình ảnh của Thượng Đế nên mọi người được bình đẳng.

         Qua nhiều thập niên, dưới quyền lãnh đạo của Joshua, dân tộc Do Thái đã chinh phục dần được một phần đất của miền Canaan nhưng rồi các bộ lạc Do Thái bị giống người Philistine xuất hiện từ miền bờ biển phía tây, đẩy họ lùi về phía đông. Philistine là giống dân hiếu chiến, đã biết dùng võ khí bằng sắt và biết tổ chức kỷ luật theo một chế độ phong kiến quân sự quý tộc. Trước đe dọa của người Philistine vào khoảng năm 1050 trước Tây Lịch, nhà tiên tri Samuel đã phong cho vị Tướng Saul làm vua đầu tiên của xứ Israel. Nhưng một năm sau, người Philistine đã đánh tan đạo quân mới của Do Thái tại núi Gilboa, gần Bet Shean, giết chết Vua Saul và người con trai là Jonathan. Trước sự xâm lăng này, quyền lãnh đạo xứ Do Thái được trao về cho David là một người chăn cừu, trước kia đã được người Philistine huấn luyện và David cũng đã từng ở dưới quyền của Vua Saul.

          Vua David là một thiên tài về quân sự và chính trị, đã đánh bại được quân Philistine, mở mang bờ cõi, chinh phục được Ammon, Moab, Edom, Zobath và cả Damascus, và quan trọng hơn hết, Vua David đã thắng được người Jebusites và làm chủ được thành phố Jerusalem, một địa điểm kiểm soát con đường vận chuyển chính bắc nam nằm trong đất liền. Mặc dù cai trị một phần đất rộng lớn, Vua David đã không duy trì một chế độ quân chủ tuyệt đối mà cho rằng quyền tối thượng thuộc về Thượng Đế. Trong 33 năm trị vì, Vua David đã không ra lệnh xây dựng các đền thờ nguy nga hay các đài kỷ niệm to lớn. Người con kế vị của Vua David là Vua Solomon lại ít mộ đạo Do Thái hơn. Vua Solomon đã bắt dân chúng thuộc các miền đất phía bắc và miền Canaan phải làm tạp dịch và chịu thuế, ra lệnh xây dựng đền thờ tại Jerusalem, tạo ra một giới tu sĩ, làm cho cả nước có niềm tin và thực hành tôn giáo Do Thái.

          Vương quốc của Vua Solomon có kinh đô là Jerusalem và hai miền Samaria và Judea. Samaria là phần đất phía bắc, bị người Assyrian chinh phục vào năm 721 trước Tây Lịch, rồi vì lý do dân tộc Do Thái bị đô hộ và lưu đầy, nhà tiên trị Isaiah đã tuyên bố rằng sự giàu sang và quyền hành sẽ không thể được coi trọng hơn công bằng xã hội và lòng tin tưởng vào ý muốn của Thượng Đế, là những điều mà người Do Thái phải chú tâm. Các người Do Thái sống tại phần đất phía nam Judea cũng bị các đạo quân Babylon dưới thời Vua Nebuchadnezzar xâm lăng. Thành phố Jerusalem bị bao vây, vua Do Thái bị bắt. Người Do Thái tại miền này cũng phải bỏ xứ ra đi và trong hoàn cảnh này, nhà tiên tri Jeremiah đã xác nhận rằng người Do Thái không cần có một quốc gia mới có thể làm theo lời của Thượng Đế, và có cùng tư tưởng này là nhà tiên tri Ezekiel.

          Kể từ khi Ngôi Đền thứ nhất bị tàn phá vào năm 586 trước Tây Lịch, đa số người Do Thái đã sống bên ngoài phần Đất Thánh của họ. Họ thiếu đi một quê hương, họ bị phân tán giữa các dân tộc khác thuộc vùng Trung Đông. Người Do Thái phải tìm cách duy trì nguồn gốc của họ. Họ đã quay về với niềm tin tôn giáo, với các lề luật, các nghi thức và đây là những yếu tố đoàn kết họ lại thành một cộng đồng. Vì thế đã sinh ra các ngày lễ Sabbath, các luật lệ về ăn kiêng và giữ vệ sinh, tục lệ cắt da quy đầu, các lễ hội tôn giáo.

          Vào giữa thế kỷ thứ 6 trước Tây Lịch, Hoàng Đế Ba Tư là Đại Đế Cyrus đã đánh bại được người Baylon và cho phép người Do Thái trở về quê hương để “xây dựng nên căn nhà của Thượng Đế”. Rồi cũng tại Jerusalem, người Do Thái đã xây dựng nên Ngôi Đền thứ hai vào khoảng năm 520-515 trước Tây Lịch. Tuy thế đa số người Do Thái vẫn ưa thích sống ở các xứ sở bên ngoài, và danh từ “Diaspora” dùng để chỉ các sắc dân Do Thái sống trong các cộng đồng rải rác ở bên ngoài Erets Yisrael tức là phần đất Israel.

          Năm 332 trước Tây Lịch, Đại Đế Alexander của miền Macedonia đã tàn phá đế quốc Ba Tư nhưng cũng đã bỏ quên xứ Judah. Khi vị Đại Đế này qua đời, các tướng lãnh dưới quyền đã tranh giành địa vị. Đất nước Do Thái ở dưới quyền của Tướng Ptolemy I vào năm 301 trước Tây Lịch rồi Ngôi Đền thứ hai bị cướp phá bởi Tướng La Mã Antiochus IV vào năm 175 trước Tây Lịch.

          Dưới ách đô hộ của các kẻ ngoại xâm, người Do Thái đã nổi dậy dưới quyền lãnh đạo của Simon Maccabaeus vào năm 140 trước TL. Ông Simon vào thời kỳ này vừa là một giáo sĩ cao cấp, vừa là một nhà cai trị và thống lĩnh quân đội. Mặc dù vài năm sau, ông Simon bị ám sát chết, triều đại Hasmonean của ông đã phát triển ngang với triều đại của Vua David và cũng vào thời kỳ này, người Do Thái đã bị ảnh hưởng rất nhiều bởi nền Văn Minh Hy Lạp và các giáo sĩ cao cấp cũng có tên Hy Lạp, chẳng hạn như Menalaus hay Jason.

         Từ năm 64 trước TL, đội quân La Mã đã tiến sang phía đông. Herod được Thượng Viện La Mã chấp thuận làm Vua xứ Judah vào năm 37 trước TL và đã cai trị xứ Do Thái cho đến năm 04 trước TL. Xứ Do Thái đã sống dưới ách cai trị của nhiều kẻ ngoại quốc rồi tới năm 70 sau TL, người La Mã đã tàn phá Ngôi Đền thứ hai và lại phân tán giống dân Do Thái đi các nơi. Cứ điểm cuối cùng của dân Do Thái chống lại đạo quân La Mã là pháo đài Massada ở bên sườn đồi, cách thành phố Jerusalem 56 km về phía tây nam, cũng bị thất thủ. Cũng vì thế người Do Thái sau này thường dùng câu tuyên truyền “Massada sẽ không bao giờ thất thủ một lần nữa” để biểu lộ ý chí sẽ chiến đấu tới chết khi phải bảo vệ chủ quyền quốc gia.

          Sau khi Ngôi Đền thứ hai bị phá hủy và giới tu sĩ bị phân tán, các ngôi đền Do Thái nhỏ được xây dựng tại nhiều nơi và các giáo sư tôn giáo hay “rabbis” đã có những lời nhận xét về luật tôn giáo và tuyển tập các lời nhận xét này được xếp đặt thành bộ luật “Mishna”. Về sau vào khoảng năm 500 sau TL, các kinh điển và luật tôn giáo Mishna được biên tập thành Bộ Kinh Talmud.

         Qua thời gian, giống dân Do Thái đã phải sống dưới quyền cai trị của người Hồi giáo và người Thiên Chúa giáo nhưng các nhà tư tưởng Do Thái và các giáo sư tôn giáo vẫn tiếp tục khảo cứu các tập tục và phát biểu về Thánh Kinh. Vào thời Trung Cổ, có Moses Ben Mainon, hay còn được gọi là Maimonides (1135-1204) là người Do Thái sống tại Tây Ban Nha, di cư qua Ai Cập và đã làm đến chức thầy thuốc tại triều đình này. Maimonides là một học giả uyên thâm về Do Thái giáo, đã hiệu đính các lề luật Talmud bằng cuốn Minesh Torah và đã đề cập tới 613 điều răn rút từ Kinh Torah và những điều răn này đã là căn bản của đức tin và luật Do Thái giáo.

          Các cải tiến về các quan niệm thần học và triết học đã khiến cho các người Do Thái sống tại Tây Ban Nha và các quốc gia phía đông của châu Âu, kể cả những người ở dưới sự thống trị của người Hồi, được gọi là “Sephardim”, còn danh từ “Ashkenazim” dùng để chỉ những người Do Thái thuộc miền tây của châu Âu. Trong hai thế kỷ 18 và 19, các phong tục và nghi thức tôn giáo Do Thái đã được thay đổi khiến cho Do Thái giáo thích nghi được với thế giới mới và Phong Trào Phục Quốc Do Thái, hay Zionism, cũng như nền văn hóa Do Thái Yeddish bắt đầu xuất hiện.

         Ngày nay, các cộng đồng lớn của dân Do Thái hiện đang phát triển tại Hoa Kỳ, tại nước Nga và nước Do Thái. Mặc dù đạo Do Thái đã được phân chia thành các loại chính thống, bảo thủ hay cải cách, các tin đồ sùng đạo vẫn làm lễ tại nhà, tại giáo đường, ăn kiêng và giữ luật, cũng như đi hành hương tới Jerusalem và Núi Zion.

2/ Xứ Palestine.

         Palestine là một vùng đất trải dài từ Địa Trung Hải ở phía tây tới sa mạc Ả Rập ở phía đông, từ dòng sông Litani ở phía bắc xuống thung lũng Gaza tại phía nam. Miền đất này được gọi theo tên của người Philistine là giống người đã chiếm cứ phần bờ biển phía nam trong thế kỷ 12 trước Tây Lịch.

         Vào năm 330 sau Tây Lịch, Hoàng Đế Constantine (280-337) đã di chuyển kinh đô từ Rome tới Constantinople và công nhận đạo Thiên Chúa là tôn giáo chính thức. Do việc chuyển sang đạo Thiên Chúa của Hoàng Đế này, xứ Palestine đã hấp dẫn những người hành hương và trở nên thịnh vượng. Sau khi Đế Quốc La Mã bị phân hai vào năm 395, xứ Palestine ở dưới quyền kiểm soát thuộc phía đông, chịu sự cai trị Byzantine và chịu ảnh hưởng Thiên Chúa giáo cho đến khi người Ả Rập tới chinh phục vào năm 638 và truyền bá đạo Hồi.

         Đạo Hồi là một tôn giáo khác với đạo Do Thái và đạo Thiên Chúa, không những do các quan niệm về Thượng Đế, về các nhà tiên tri mà còn cả về sự kết hợp chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội với tôn giáo, khiến cho đạo Hồi có những nét đặc thù, rất thích hợp với các xứ Ả Rập. Tín đồ đạo Hồi tin tưởng rằng chỉ có 6 nhà tiên tri là Adam, Noah, Abraham, Moses, Jesus và Mohammed, vị tiên tri cuối cùng. Các vị sứ đồ này đã mang đến cho con người Lời của Thượng Đế và các lời dạy của Mohammed sẽ dẫn dắt con người tới Ngày Phán Xét sau này.

         Nhà tiên tri Mohammed chào đời vào khoảng năm 570 sau Tây Lịch, và theo nhà tiểu sử học đầu tiên viết về Mohammed là Ibn Ishaq, thì vào năm 610 khi ở tuổi 40 và tỉnh giấc sau một giấc ngủ trên Núi Hira, ông Mohammed đã nghe thấy tiếng nói từ trên Trời cao của một thiên thần có hình dạng người, bảo như sau: “Ô, Mohammed, nhà ngươi là tông đồ của Thượng Đế và ta là Gabriel”. Từ năm 613, nhà tiên tri Mohammed bắt đầu đi giảng đạo tại Mecca và các lời rao giảng của Mohammed được chép thành cuốn Kinh Koran. Ngoài Mecca, Medina là thành phố thứ hai được coi là linh thiêng của đạo Hồi.

        Khi ông Umar lên làm giáo chủ đạo Hồi, Jerusalem được chỉ định là nơi linh thiêng thứ ba của đạo Hồi, chỉ sau Mecca và Medina. Vào thời kỳ Umayyads với kinh đô Damascus, Tòa Nhà Mái Tròn “The Dome of Rock” được xây dựng năm 691 trên nền của Đền Thờ Solomon, để kỷ niệm nơi nghỉ đêm của nhà Tiên Tri Mohammed nhân dịp lên Trời diện kiến Allah. Đây là một kỷ niệm Hồi giáo lâu đời nhất đến nay vẫn còn tồn tại. Gần đó và ở về phía nam là ngôi đền Hồi Giáo Al Aqsa. Cũng vì vậy mà thành phố Jerusalem trở thành một nơi tranh chấp giữa hai khối Ả Rập và Do Thái.

       Dưới thời giáo chủ đạo Hồi Umar II (717-720), các giới hạn đối với cư dân trong vùng không theo đạo Hồi đã khiến cho số dân cải sang đạo Hồi gia tăng. Dân số cũng tăng cao do các bộ lạc từ sa mạc tới định cư, vì thế tại xứ Palestine, tôn giáo có đông tín đồ nhất là đạo Thiên Chúa đã chuyển thành đạo Hồi.

        Tới đầu thế kỷ 11, thành phố Jerusalem đã là nơi chiến trường của nhiều sắc dân. Các đoàn quân Thập Tự Chinh đã thiết lập tại Jerusalem thứ Kinh Đô La Tinh cho đến khi đoàn quân này bị Danh Tướng Hồi Giáo Salah-ad-Din (Saladin) đánh bại trong trận đánh quyết định Hattin diễn ra vào năm 1187. Thực ra đoàn quân Thập Tự Chinh chỉ hoàn toàn rút khỏi Palestine vào năm 1291 và xứ này ở trong một thời kỳ đen tối kéo dài suốt hai thế kỷ 14 và 15, với nền cai trị của thời đại Mameluke, với các bệnh dịch tàn phá cư dân.

         Năm 1516, Vua Hồi Giáo Selim I đã đánh thắng được chế độ cai trị Mameluke và trong bốn thế kỷ, xứ Palestine chịu sự đô hộ của Đế Quốc Ottoman có kinh đô đặt tại Damascus. Chế độ cai trị Ottoman đã kéo dài trong bốn thế kỷ (1516-1918). Trong thời gian này, xứ Palestine đã bị phân thành nhiều quận gọi là “sanjak” rồi vài quận lại tập hợp thành tỉnh gọi là “vilayet”. Phần lớn đất đai của xứ Palestine ở dưới quyền của quan cai trị người Thổ Nhĩ Kỳ “pasha” ngụ tại Damascus. Do xứ Palestine là nơi không có các tài nguyên, không có các đặc điểm chiến lược, các biên giới không được phân định rõ ràng nên chính quyền Ottoman tại Constantinople đã không quan tâm tới xứ sở này. Do không bị kiểm soát và kiềm chế, xứ Palestine trở nên một nơi bất an, vô trật tự, một nơi tham nhũng, hà khắc và bị bỏ quên, vì thế canh nông và thương mại của xứ sở này suy sụp đi, dân chúng nghèo nàn và bị áp bức. Vua Hồi giáo chỉ có một giàng buộc là bảo vệ Jerusalem, nơi linh thiêng của đạo Hồi, đạo Thiên Chúa và đạo Do Thái.

         Vào đầu thế kỷ 19, dân số Do Thái tại Syria vào khoảng 25,000 người. Phần lớn họ thuộc lớp người “Sephardim” tức là con cháu của các người Do Thái gốc Tây Ban Nha và gốc địa phương, lớp người còn lại là “Do Thái Ashkenazim” có nguồn gốc châu Âu, đã tới miền Đất Thánh này qua nhiều thế kỷ nhưng vẫn giữ quốc tịch cũ. Một nửa số người Do Thái sống tại các thành phố có tính linh thiêng đối với họ là Jerusalem, Hebron, Safed và Tiberias, nửa kia cư ngụ tại Aleppo, Damascus, Beirut và Tripoli là các thành phố thuộc xứ Syria.

 

Dưới thời đại Hồi giáo Ottoman, chính quyền được tổ chức theo lối tự quản (millets) và các cộng đồng Do Thái được hưởng một số độc lập và tự trị về thờ phượng tôn giáo, giáo dục và một số phạm vi khác nhưng trong một xã hội Hồi giáo ưu thế, người Do Thái giáo và người Thiên Chúa giáo không được coi là các tín đồ, nên thuộc loại công dân hạng thứ hai (dhimmis), phải đóng thuế thân để có được sự bảo vệ của chính quyền và đây cũng là dấu hiệu của giai cấp thấp hèn. Người Do Thái còn bị kỳ thị trong nhiều lãnh vực. Lời thề của họ trước Tòa Án bị coi không có giá trị, họ không được phép làm các chức vụ công, không được phép mang vũ khí, thường bị bạo hành bởi chính quyền và bởi dân chúng Hồi giáo địa phương.

        Tới giữa thế kỷ 19, eo đất Suez là nơi tranh chấp giữa hai thế lực Anh và Pháp nên xứ Palestine mới được Constantinople chú ý. Chính quyền Ottoman tăng cường kiểm soát Syria và Palestine. Quận (sanjak) Jerusalem được kiểm soát trực tiếp bởi đế quốc Ottoman nhờ thế các vụ đánh cướp của dân Bedouin giảm đi, sự an toàn gia tăng, nền kinh tế địa phương và các điều kiện sinh sống của người dân được cải tiến. Khi vua Hồi giáo Abdul-Hamid II cai trị Đế Quốc Ottoman từ năm 1876 tới năm 1909, việc canh tân về giao thông, giáo dục, quân sự được tiến hành, các công ty của châu Âu đã lắp đặt các đường sắt nối liền Jerusalem với Jaffa vào năm 1892 và một tuyến đường sắt khác nối hải cảng Deraa, Transjordan, được làm xong vào năm 1905. Vào thời kỳ này, các vua Hồi giáo muốn đề phòng sự xâm nhập ảnh hưởng của Anh-Pháp nên đã tăng cường việc kiểm soát từ trung ương nhưng mặt khác, chính quyền Hồi giáo lại dùng các viên kỹ sư và các nhà đầu tư người châu Âu, việc này đã làm cho các quốc gia của châu Âu càng có cơ hội xâm lấn vào vùng Palestine cũng như Trung Đông.

        Vào năm 1914, dân số của xứ Palestine vào khoảng 650,000 người. Đây là một đám dân hỗn tạp, chia rẽ giữa các loại người thành thị, nông thôn và du mục, giữa giai cấp sang trọng và giai cấp bần cùng gọi là “fellahin”. Cũng có sự chia rẽ về tôn giáo giữa các giáo phái đạo Hồi như Sunni, Shiite và Druze, giữa người Ả Rập Hồi giáo và người Ả Rập Thiên Chúa giáo, những người này chiếm vào khoảng 16 phần trăm dân số và phần lớn thuộc Chính Thống Giáo Hy Lạp (Greek Orthodox), họ văn minh hơn nhờ phát triển về Văn Hóa do tiếp xúc với các người Thiên Chúa giáo của châu Âu.

         Tại xứ Palestine, phong trào Quốc Gia Ả Rập (Arab nationalism) đang tiến triển vào cuối thế kỷ 19, rồi Cuộc Cách Mạng Thổ Nhĩ Kỳ xẩy ra vào năm 1908 bởi những nhân vật Thổ muốn duy trì Đế Quốc Ottoman bằng các chính sách quỷ quyệt để thực hiện việc trung ương tập quyền và Hồi giáo hóa (Islamization) các dân tộc trong vùng. Trong hoàn cảnh lịch sử này, các người Do Thái sống tại Palestine bị coi là các công dân hạng hai. Họ phải gánh chịu thuế đất và thuế thân rất nặng nề, đôi khi bị tàn sát và thường bị áp lực cải sang đạo Hồi. Người Do Thái tại xứ Palestine vào thời kỳ này cũng chịu ảnh hưởng của các lớp người Do Thái khác đang sống tại châu Âu là nơi đang phát triển các ý thức hệ mới, các phong trào quốc gia (nationalism).

3/ Dân Do Thái tại châu Âu.

         Vào năm 70 sau Tây Lịch, Ngôi Đền thứ hai của đạo Do Thái bị phá hủy, một số lớn người Do Thái đã bỏ xứ ra đi, họ sống bên ngoài xứ Palestine. Trong thời đại La Mã, giống dân Do Thái đã trở thành lớp thương nhân sống quanh vùng Địa Trung Hải. Họ đã đóng một vai trò quan trọng đối với nền kinh tế vì họ là các nhà buôn, thợ kim hoàn, thợ thủ công, các nhà tài chính và trong cuộc sống chung với các sắc dân khác, người Do Thái vẫn cố giữ bản chất sắc tộc và sự cách biệt của họ.

         Tới thời Trung Cổ, các người Do Thái tại châu Âu và tại nước Anh thường là các kẻ cho vay tiền kiếm lời, họ được sự che chở của các nhà cầm quyền địa phương. Đến khi người Ý và một số dân tộc khác bắt đầu biết nắm giữ các công việc kinh tế thì người Do Thái bị trục xuất tại nước Ý vào năm 1290. Vào cuối thế kỷ 14, người Do Thái bị đuổi khỏi nước Pháp rồi nước Tây Ban Nha cũng tìm cách loại người Do Thái ra khỏi xứ vào năm 1492. Tại châu Âu, người Do Thái bị chỉ định cư trú trong những khu nhà ổ chuột (ghettos) và các khu này bắt đầu xuất hiện tại miền bắc nước Ý vào thế kỷ 16. Mặt khác, do tài năng về thương mại, sắc dân Do Thái lại được đón mời tại miền đông của châu Âu vì thế nhiều người Do Thái đã bỏ các xứ khác, di cư qua Đế Quốc Ottoman, qua nước Nga, Ba Lan, Lithuania và cộng đồng Do Thái tại Ba Lan đã phát triển lớn mạnh nhất, cả về cơ sở chính trị lẫn văn hóa.

         Tại châu Âu, nền kỹ nghệ tư bản đã làm thay đổi vai trò kinh tế của người Do Thái. Những người này đã dần dần hội nhập vào cuộc sống kinh tế để trở nên các nhà chuyên môn. Thời kỳ Khai Sáng (Enlightenment) của thế kỷ 18 đã làm lợi cho người Do Thái, rồi sau Cuộc Cách Mạng Pháp, đã tăng lên số người Do Thái hội nhập vào các phần đất thuộc miền tây của châu Âu. Trong khi đó tại phần đất phía đông, người Do Thái còn bị kỳ thị vì nhịp độ kỹ nghệ hóa còn chậm chạp, vì các điều kiện chính trị và tôn giáo xung khắc. Kể từ năm 1791, các người Do Thái tại Đế Quốc Nga đã bị dồn vào các vùng đất nằm giữa Hắc Hải (the Black Sea) và Biển Baltic, được gọi là “Biên giới định cư” (the Pale of Settlement). Ba phần tư triệu người Do Thái sống tại nơi này thuộc gốc Ba Lan, họ đã bị loại khỏi các xứ Nga, họ phải sống nghèo nàn trong các thị trấn gọi là “shtetls”. Các lý tưởng của Cuộc Cách Mạng Pháp đã trở nên những điều cấm kỵ tại Vương Quốc của Sa Hoàng, vì thế sắc dân Do Thái sinh sống tại nước Nga thường trở nên một thứ “dê tế thần” của dân tộc Nga và nhà thờ Chính Thống Giáo. Trên dải đất Nga, người Do Thái bị giới hạn về công việc làm ăn, họ còn bị ngược đãi và tàn sát (pogroms). Vào năm 1850, tại xứ Nga có vào khoảng 2.3 triệu người Do Thái. Ngoài các ngược đãi, hành hạ thông thường, người Do Thái còn bị đưa vào quân đội. Để tránh các tàn sát tại phần đất Đông Âu, rất nhiều người Do Thái đã di cư qua Hoa Kỳ và một số nhỏ qua xứ Palestine.

          Sự nghi ngờ và thù ghét sắc dân Do Thái lại càng tăng thêm khi một tác giả ẩn danh làm việc cho Mật Vụ của Sa Hoàng đã cho xuất bản một cuốn sách nhan đề là “Các nghi thức của các vị cao niên học thức thuộc Xứ Zion” (Protocols of the Learned Elders of Zion). Cuốn sách này có ác ý mô tả một hội nghị của các lãnh tụ Do Thái đang tìm cách thống trị thế giới. Vì được dịch sang nhiều ngôn ngữ, cuốn sách “Nghi Thức” đã làm tăng thêm sự thù ghét sắc dân Do Thái tại châu Âu, thuộc cả phía đông lẫn phía tây.

         Vào năm 1881, Sa Hoàng Alexander II bị ám sát. Một trong các kẻ âm mưu là một người Do Thái trẻ. Sự việc này đã làm gia tăng các tàn sát, hành hạ, hạn chế sắc dân Do Thái của chính quyền Nga và trong khoảng từ 1880 tới 1900, đã có một triệu người Do Thái di cư từ nước Nga qua Hoa Kỳ và con số này lên tới 2.6 triệu người vào năm 1914. Cũng có một số nhỏ người Do Thái khác tìm cách tham gia vào thành phần trí thức của Cuộc Cách Mạng Nga. Lớp người Do Thái thứ ba đi tìm một lối thoát khác, đó là một phong trào giải phóng có mục đích thành lập một Quốc Gia Tự Trị dành riêng cho người Do Thái. Ý tưởng này đã được Leo Pinsker phổ biến qua tác phẩm “Tự Giải Phóng” (Auto-Emancipation) viết ra vào năm 1882. Đường hướng này về sau được chuyển thành Phong Trào Phục Quốc Do Thái (Zionism) với các động lực phát triển trong thập niên 1890 tại nước Pháp.

4/ Phong trào Phục Quốc Do Thái.

        Châu Âu là miền đất tiến bộ, văn minh, được “khai sáng” trước các miền đất khác nhưng cũng tại châu Âu, một số người theo Học Thuyết Darwin với chủ trương kỳ thị sắc dân Do Thái đã cho rằng giống dân Aryan vượt trội hơn giống dân Do Thái thấp hèn. Trước các kỳ thị có tính chủng tộc này, người Do Thái nhận thấy họ không thể tranh đấu thành công giành sự bình đẳng. Giải pháp của họ là phải lập nên một quốc gia tự trị.

         Lý thuyết gia đầu tiên về Phong Trào Phục Quốc Do Thái là ông Moses Hess, một người dân Đức gốc Do Thái, đã từng liên lạc với Karl Marx và Friedrich Engels. Ông Hess đã viết hai tác phẩm, phác họa sự trở về Palestine của dân Do Thái là cuốn “Rome và Jerusalem” xuất bản năm 1862 và cuốn “Chương trình thuộc địa hóa miền Đất Thánh” (Plan for the Colonization of the Holy Land) xuất bản năm 1867. Dù các sách của ông Hess biện hộ việc định cư tại Palestine của người Do Thái là một giải pháp, các người Do Thái tại Tây Âu đã không quan tâm tới đề nghị này vì họ đã quen với việc cư ngụ tại châu Âu hàng trăm năm rồi, và khi đó các vụ tàn sát người Do Thái tại miền Đông Âu chưa xẩy ra, khiến cho lớp người Do Thái tại khu vực phía đông cũng lơ là với vấn đề nêu ra.

        Vấn đề “Quê hương quốc gia” (national home) hay Quốc gia Do Thái tại Palestine tới cuối thế kỷ 19 vẫn còn mơ hồ, dù rằng danh từ “Phong Trào Phục Quốc Do Thái” (Zionism) có lẽ đã được Nathan Birnbaum đề cập lần đầu tiên trong một bài báo phổ biến vào năm 1886.

         Một người tiền phong khác của Phong Trào Phục Quốc Do Thái là ông Theodor Herzl (1860-1904). Các ý tưởng về một quốc gia Do Thái của ông Herzl không phải là mới mẻ, ông ta lại không có các hậu thuẫn tài chính hay yểm trợ chính trị. Đường lối của ông Herzl là bảo thủ, phản ánh quan niệm từ gia đình trung lưu của ông. Nhưng công lao của ông Herzl là đã khiến cho Thế Giới chú ý đến số phận của sắc dân Do Thái và nhờ ông mà việc lập quốc Do Thái trở thành một vấn đề chính của thời sự quốc tế.

       Ông Theodor Herzl sinh tại Budapest, cha là một thương gia giàu có. Gia đình ông sau đó đã di chuyển qua Vienna và tại đây, ông Herzl đã theo học Luật Khoa, đỗ ra và trở nên một nhà báo, viết báo cho tờ Neue Freie Presse (Nhật Báo Tự Do Mới). Năm 1891, ông Herzl đã tới Paris và rất quan tâm tới phong trào chống Do Thái và về số phận bị ngược đãi của sắc dân Do Thái tại châu Âu mà điển hình là vụ án Dreyfus.

         Alfred Dreyfus là một sĩ quan gốc Do Thái trong Bộ Tổng Tham Mưu Pháp, bị kết tội phản bội và bị tù chung thân tại đảo Devil. Ông Herzl cùng nhiều người khác đã tin tưởng rằng Dreyfus bị tù do một âm mưu và vụ xử án bất công. Về sau, do lời thú tội của một sĩ quan Pháp khác vào năm 1899, vụ án được xét xử lại.

         Vụ án Dreyfus là điển hình của phong trào chống Do Thái tại nước Pháp là quốc gia vẫn thường chủ trương Tự Do, Bình Đẳng và Huynh Đệ (Liberty, Equality & Fraternity). Theodor Herzl thấy rằng chỉ còn một giải pháp cho người Do Thái là thiết lập nên một quốc gia mới và đề nghị này được đề cập trong cuốn sách của ông nhan đề là “Quốc Gia của sắc dân Do Thái” (der Jundenstaat = the Jews ‘ State) xuất bản vào năm 1896.

        Trong các nhà tiền phong của Phong Trào Phục Quốc Do Thái, còn có một nhân vật khác tên là Asher Ginsberg, một nhà trí thức Nga gốc Do Thái, thường viết báo dưới bút hiệu Achad Ha-Am. Ông Ginsberg đã đề cập tới hai phương diện trong việc phục quốc là việc định cư và các hoạt động văn hóa, vì chính văn hóa sẽ làm cho người Do Thái tăng thêm tình cảm lệ thuộc dân tộc. Ông Ginsberg cũng cảnh cáo các nhà lãnh đạo Do Thái không nên bỏ quên các vấn đề Ả Rập tại xứ Palestine.

          Lịch sử của Phong Trào Phục Quốc Do Thái cũng đi tới một khúc rẽ quan trọng khi Hội Nghị Phục Quốc Do Thái đầu tiên hội họp tại Basel, Thụy Sĩ, vào ngày 29-8-1897 với 204 đại biểu từ khắp nơi trên thế giới. Hội nghị này đã xác định mục tiêu của phong trào là “tạo dựng nên một nơi cư ngụ cho sắc dân Do Thái tại Palestine, được xác nhận bởi Công Pháp”. Để đạt được mục tiêu này, hội nghị đã đồng thanh làm phát triển việc định cư các nhà nông nghiệp, các thợ thủ công gốc Do Thái, tổ chức và làm kiện toàn mối quan tâm về quốc gia và tìm kiếm các chấp thuận của bất cứ chính phủ nào để tiến tới mục tiêu phục quốc.

          Tuy các mục tiêu kể trên còn mơ hồ, các nhà lãnh đạo Phong Trào Phục Quốc Do Thái (Zionism) cũng đã cứu xét đề nghị của chính phủ Anh năm 1902 dùng miền el-Arish thuộc bán đảo Sinai, hay đề nghị lập quốc tại xứ Kenya với chương trình gọi là Kế Hoạch Uganda (Uganda Plan ), dù cho các người Do Thái tại Nga đã không vừa ý với cả hai đề nghị kể trên. Năm 1899, đảo Cyprus cũng là một địa điểm được đề nghị cứu xét nhưng vào thời bấy giờ, vị trí của nước Do Thái Mới còn tùy thuộc vào các cường quốc của châu Âu.

         Ý tưởng của ông Herzl tuy mơ hồ về địa điểm nhưng lại rõ ràng về cách thi hành với một công ty Do Thái phải được tổ chức để mua đất đai và xếp đặt các người định cư. Năm 1901, Ngân Quỹ Quốc Gia Do Thái (the Jewish National Fund) được thành lập để mua đất và vào năm 1908, Công Ty Phát Triển Miền Đất Palestine (the Palestine Land Development Company) được kết hợp với Ngân Quỹ kể trên, để giúp sức vào việc định cư. Ông Theodor Herzl đã cố gắng vận động sự yểm trợ quốc tế nhưng đã thất bại khi thương lượng với Vua nước Đức, với Vua Hồi giáo Abdul-Hamid và cả với vị Bộ Trưởng Thuộc Địa của nước Anh là ông Joseph Chamberlain, vào tháng 10 năm 1902.

        Vì muốn duy trì các tập quán, phong tục, văn hóa Do Thái cũng như Do Thái Giáo, với hai mục tiêu vừa thế tục, vừa tôn giáo, các nhóm nhỏ gồm những người Do Thái trẻ đã hội họp tại nước Nga và tại phần đất phía đông của châu Âu, để bàn việc định cư đầu tiên trên xứ Erets Yisrael hay “Đất Nước Do Thái”. Ngày 7 tháng 7 năm 1882, một nhóm nhỏ gồm 14 người trong đó có một phụ nữ, đã đổ bộ lên thị trấn Jaffa, xứ Palestine. Họ thuộc một phong trào có tên là Hibbat Zion (các người yêu Zion). Nhóm người này được coi là đợt sóng đầu tiên của các người Do Thái di cư về Palestine và phong trào di cư đã kéo dài từ năm 1881 tới năm 1903.

          Vào năm 1903, đã có vào khoảng 20 làng nông nghiệp mới được thành lập trên 90,000 mẫu đất (acres) với số dân định cư là 10,000 người. Tiếng Do Thái Hebrew được dùng và giảng dạy tại các trường học, người dân Do Thái mới được hướng dẫn về canh tác nông nghiệp, nhưng các người định cư mới này phần lớn chưa quen với các công việc đồng áng, họ lại không đủ vốn, tất cả các chương trình định cư đang đi dần tới chỗ bế tắc thì được sự hỗ trợ của Bá Tước Edmond de Rothschild.

        Nhà Mạnh Thường Quân người Pháp Bá Tước De Rothschild không phải là một người Do Thái, nhưng ông ta đã bảo trợ công cuộc định cư tại xứ Palestine vì việc này vừa là một hành động từ thiện, vừa là một công cuộc đầu tư. Ông De Rothschild đã bỏ tiền mua đất đai của các chủ đất Ả Rập (effendi), đôi khi cũng phải dùng tới cách hối lộ, và tìm cách đẩy lớp dân bần cùng (fellahin) địa phương đi chỗ khác, giành đất cho các người định cư Do Thái. Vào năm 1900, Bá Tước De Rothschild đã giúp ổn định được một dân số vào khoảng 5,000 người trên phần đất rộng 68,000 mẫu (acres). Sau đó, phần đất này được chuyển nhượng cũng vào năm 1900 cho Hiệp Hội Thuộc Địa Do Thái (the Jewish Colonization Association) đứng đầu bởi Bá Tước Maurice de Hirsch. Nhà tư bản người nước Bỉ khai thác về đường xe lửa này đã là một người cộng tác với ông De Rothschild và cũng đã bỏ ra hàng triệu quan tiền vào các chương trình định cư của người Do Thái. Ngoài ra còn một nhân vật thứ ba, cũng được Vua Hồi giáo Ottoman cho phép mua đất đai, đó là Sir Moses Montefiore, một người Anh gốc Do Thái.

          Đợt sóng di cư thứ hai bắt đầu vào năm 1904, gồm nhiều người tiền phong trẻ gốc Nga, tới các phần đất được mua bởi Ngân Quỹ Quốc Gia Do Thái. Những người di cư này phần lớn có các tư tưởng xã hội với nhiều người thuộc Đảng Poalei-Zion tức đảng Phục Quốc Xã Hội (Labor Zionist) được thành lập trong khoảng các năm 1903 và 1906. Trong số các nhân vật lãnh đạo của nhóm, có David Ben-Gurion và Izhak Ben-Zvi. Cũng do các tư tưởng xã hội, các nông trường tập thể Kibbitzim và các làng hợp tác xã Moshavim bắt đầu được thành lập từ năm 1909.

5/ Việc di cư của người Do Thái.

        Vào cuối thế kỷ 19, nước Anh đã quan tâm tới số phận của người Do Thái tại Palestine cùng ảnh hưởng của nước Anh tại vùng Trung Đông, đồng thời chính phủ Nga cũng giúp đỡ sắc dân này trong việc di cư bằng cách cho phép các người Nga và Ba Lan gốc Do Thái di chuyển rẻ tiền trên các con tầu biển của Nga từ hải cảng Odessa tới Palestine, nhờ thế số dân Do Thái tại Palestine đã gia tăng. Trong khi đó cũng có sự chống đối việc di cư từ các người Ả Rập nhưng phần lớn từ nhà thờ Chính Thống Giáo Hy Lạp (Greek Orthodox) với hai tờ báo địa phương là tờ al-Karmal (ra đời năm 1908) và tờ Filastin (1911).

        Trước khi xẩy ra Thế Chiến Thứ Nhất, cộng đồng Do Thái đã có khoảng 90,000 người chiếm từ 12 tới 14 phần trăm dân số Palestine và riêng tại thành phố Jerusalem, số dân Do Thái là 45,000 trên tổng số 80,000 dân. Sắc dân Do Thái lúc này là các cộng đồng nhỏ, địa phương, chia rẽ, rất khó đoàn kết vì sự khác biệt giữa các người định cư cũ và mới, giữa những người bảo thủ và cải cách, giữa các người sống đạm bạc xưa nay với những kẻ có trợ giúp từ các nước ngoài.

        Trong trận Thế Chiến Thứ Nhất, đế quốc Ottoman đã tham gia với nước Đức chống lại các nước Nga, Pháp và Anh. Nước Anh lúc này nhận ra rằng sẽ có lợi nếu đạt được sự ủng hộ của cả người Ả Rập lẫn người Do Thái tại miền Trung Đông. Rồi khi trận chiến còn đang diễn tiến, nước Anh lại trù liệu chia cắt đế quốc Ottoman với các nước Pháp, Nga và Ý. Việc phân chia ảnh hưởng và quyền lợi tại miền Trung Đông và đặc biệt tại xứ Palestine, đã gặp nhiều rắc rối do các hiệp ước và các xác nhận, đáng kể nhất là các thư liên lạc Hussein-McMahon năm 1915-16, Hiệp Ước Sykes-Picot năm 1916 và Bản Tuyên Bố Balfour.

        Công bố vào ngày 2-11-1917 là một bức thư của ông Bộ Trưởng Ngoại Giao Anh, Arthur J. Balfour, gửi cho Lord Rothschild, người đứng đầu Tổ Chức Phong Trào Phục Quốc Do Thái Anh. Bản Tuyên Bố xác nhận rằng chính phủ Anh coi là thuận lợi việc thành lập tại xứ Palestine một quê hương dành cho người Do Thái, đồng thời lại ấn định không được kỳ thị các quyền lợi dân sự và tôn giáo của các cộng đồng không Do Thái tại Palestine.

          Bản Tuyên Bố Balfour là kết quả của các vận động từ những nhà lãnh đạo Phong Trào Phục Quốc Do Thái trong đó phải kể tới ông Chaim Weizman, một nhà hóa học danh tiếng gốc Do Thái, sinh tại nước Nga nhưng làm việc tại Đại Học Manchester. Ông Weizman đã tới London để tìm ra một phương pháp tổng hợp acétone, một hóa chất rất cần thiết trong việc sản xuất thuốc nổ không khói cordite. Là một nhà phục quốc Do Thái nhiệt tâm, ông Weizman đã trở nên chủ tịch của Tổ Chức Phục Quốc Do Thái Thế Giới (the World Zionist Organization) và đã liên lạc thân thiện được với các nhân vật quan trọng khác như các ông David Lloyd George, Thủ Tướng Anh năm 1916; Winston Churchill, Bộ Trưởng Thuộc Địa; C.P. Scott, chủ bút tờ báo Manchester Guardian; Henry Wickham Steed, chủ bút tờ báo London Time; Mark Sykes, Bộ Trưởng Chiến Tranh và Đại Tá Richard Meinertzhagen lo phần vụ Trung Đông.

          Vào năm 1922, Hội Quốc Liên đã xác nhận tạm thời ủy quyền cho nước Anh thi hành các nguyên tắc của Bản Tuyên Bố Balfour. Đối với nước Anh, vấn đề Palestine chỉ là một trách nhiệm nhỏ. Trong thời gian Thế Chiến Thứ Nhất, người Anh đã giành được sự ủng hộ của người Ả Rập chống lại người Thổ Nhĩ Kỳ bằng lời hứa hẹn rằng nước Anh sẽ bảo trợ một nước Ả Rập rộng lớn, bao gồm phần lớn báo đảo Ả Rập. Nhưng khi chiến tranh kết thúc, hai nước Anh và Pháp đã chia nhau miền Trung Đông và làm ngơ trước các phản đối của người Ả Rập: nước Anh kiểm soát Ai Cập, Iraq, miền Transjordan ở phía đông dòng sông Jordan, miền Palestine và các bờ biển phía đông và phía nam của bán đảo Ả Rập. Nước Pháp chiếm Syria và Lebanon. Các nhà lãnh đạo Ả Rập do phẫn nộ và do không thể làm gì được hai cường quốc là Anh và Pháp, nên đã gây ra nhiều vụ quấy phá công cuộc định cư của người Do Thái tại Palestine.

        Đã xẩy ra các cuộc bạo loạn chống Do Thái tại miền đất Palestine do dân số Do Thái gia tăng và cũng do chính sách về Trung Đông của nước Anh đối với người Ả Rập. Năm 1920, người Ả Rập đã tấn công Tel Chai và các khu định cư khác của người Do Thái trong vùng đất Galilée. Bạo loạn cũng xẩy ra tại Jerusalem, Jaffa, Petach, Tikvah, Hadera trong khi đó quân đội Anh cố duy trì nền trật tự. Vào năm 1922, sống giữa 650,000 người Ả Rập tại xứ Palestine là vào khoảng 85,000 người Do Thái trong đó có cả những người mới di cư đến do sự bảo trợ của phong trào Phục Quốc.

          Sau khi đế quốc Ottoman tan rã, các cơ quan Phục Quốc Do Thái cũng như Ngân Quỹ Quốc Gia Do Thái đã tìm cách mua đất đai cư ngụ và các mảnh đất lớn được chuyển thành các hợp tác xã tập thể hay các nông trường tập thể (moshavim và kibbutzim).

        Từ năm 1919 tới năm 1923, đợt sóng thứ ba của người Do Thái di cư tới Palestine gồm 35,000 người trẻ, phần lớn từ nước Nga và miền Đông Âu và là những người được huấn luyện về nông nghiệp. Đợt sóng thứ tư (1924-1928) lại gồm các chủ tiệm thuộc giới trung lưu và các thợ thủ công bỏ chạy vì kinh tế suy thoái và vì các phong trào chống Do Thái tại Ba Lan. Các người di cư có trình độ giáo dục cao từ nước Đức là đợt sóng thứ năm, họ tới đất Palestine với tài sản, với kiến thức kỹ thuật và xây dựng.

        Vào thập niên 1930, các biến cố chính trị tại châu Âu đã ảnh hưởng tới tình trạng của xứ Palestine. Các chính sách chống Do Thái của một số chính phủ đã làm gia tăng làn sóng di cư Do Thái từ Ba Lan, Hungari và Romania. Rồi khi Hitler lên nắm chính quyền, do các đạo luật chủng tộc Nuremberg và do việc bắt người Do Thái phải đăng ký và đeo phù hiệu ngôi sao 6 cánh, tất cả đã khiến cho từ năm 1933 tới năm 1936, vào khoảng 65,000 người Do Thái đã di cư tới xứ Palestine và dân số của miền đất này lên gần tới 400,000 người hay 30 phần trăm của tổng số dân.

          Các xung đột giữa hai sắc dân Do Thái và Ả Rập vẫn tiếp tục xẩy ra khiến cho đã có đề nghị phân chia xứ Palestine thành hai khu vực nhưng đề nghị này đã bị chính quyền Anh bác bỏ. Đầu năm 1939, trước khi Thế Chiến Thứ Hai xẩy ra, nước Anh vì muốn giành lấy sự ủng hộ của khối Ả Rập để chống nhau với người Đức, nên đã ra một Bạch Thư, thay đổi chính sách đối với Palestine và giới hạn số người Do Thái di cư tới miền này là 75,000 trong vòng 5 năm tới. Tuy nhiên Bạch Thư 1939 đã bị cả người Ả Rập lẫn người Do Thái bác bỏ. Tới khi Thế Chiến Thứ Hai diễn ra, các người trong phong trào Phục Quốc Do Thái đã ủng hộ Đồng Minh chống lại Đức Quốc Xã trong khi một số lãnh tụ Ả Rập và vị lãnh đạo khối Ả Rập Palestine có ảnh hưởng nhất là ông Hajj Amin al-Husseini lại về phe với người Đức.

        Vào thời gian đầu của cuộc chiến, có tất cả vào khoảng 18.5 triệu người Do Thái trên toàn thế giới. Tới cuối cuộc chiến, 6 triệu người Do Thái đã bị giết. Đầu năm 1942, chủ trương tận diệt người Do Thái là ưu tiên hàng đầu của các hoạt động Đức Quốc Xã. Hitler đã dùng “giải pháp cuối cùng” để đáp ứng các quan điểm Tân-Darwin theo đó giống người Aryans có ưu điểm hơn các giống người Do Thái, Slav và Gypsy và các sắc dân sau này chỉ làm bẩn nền văn minh và văn hóa, vì thế cần phải tiêu diệt. Hitler lại còn tin tưởng rằng các người Do Thái đã thuộc về các tổ chức âm mưu, dù là Cộng Sản hay không, khiến cho nước Đức bị thất trận trong Thế Chiến Thứ Nhất.

        Việc tàn sát tập thể người Do Thái của chính quyền Đức Quốc Xã đã đi từng bước. Trước hết họ định nghĩa về người Do Thái theo chủng tộc. Đạo luật Nuremberg năm 1935 đã cấm đoán hôn nhân và các liên hệ tình dục giữa giống dân Aryan và giống dân Do Thái với mục đích nhận diện và tách riêng các người Do Thái. Sau đó tới các quy luật áp chế khác, người Do Thái bị bắt buộc phải đăng ký với địa phương và phải đeo một phù hiệu lớn gồm một ngôi sao vàng 6 cánh tại phía lưng và phía trước ngực.

         Sau biến cố Kristallnacht xẩy ra vào tháng 11 năm 1938, các nhóm băng đảng Đức Quốc Xã đã tới đập phá nhà ở và đền thờ Do Thái, và người Do Thái được khuyến khích bỏ lại tài sản, rời khỏi nước Đức. Nhưng đa số sắc dân này vào thời kỳ đó đã không bỏ chạy bởi vì cho rằng họ đã hội nhập vào xã hội Đức, họ mong chờ tại nạn rồi cũng qua đi. Và lại, họ không biết phải đi đâu trong một thời kỳ suy thoái kinh tế toàn cầu, trong khi các quốc gia tại châu Âu cũng như Hoa Kỳ, Úc, Nam Phi và các quốc gia Nam Mỹ lại có các luật lệ giới hạn về di dân.

        Tháng 7 năm 1938, Tổng Thống Franklin D. Roosevelt đã triệu tập một hội nghị quốc tế tại Evian, bên bờ hồ Geneva, để thảo luận về việc cấp cứu các người tị nạn Do Thái từ nước Đức, nhưng đã gặp thất bại. Phần lớn các quốc gia chỉ muốn nhận rất ít người Do Thái trong khi đó các nhà lãnh đạo Phong Trào Phục Quốc lại muốn người Do Thái được gửi tới xứ Palestine và cũng vào lúc này, chính sách của nước Anh không muốn làm tăng dân số Do Thái tới Palestine mà đang đi tìm các địa điểm thay thế khác, chẳng hạn như nước Úc hay xứ Guyana.

          Vào năm 1939, dân Do Thái sống tại nước Ba Lan đã bị quân đội Đức Quốc Xã tập trung lại trong các khu nhà ổ chuột (ghettos) rồi tới khi quân Đức xâm lăng Liên Xô vào năm 1941, các nhà lãnh đạo Quốc Xã đã quyết định dùng “giải pháp cuối cùng” (final solution) để giải quyết vấn đề Do Thái của châu Âu. Đầu tiên, các toán quân SS sát nhân (Einsatzgruppen) đã gom các người Do Thái lại, bắt họ đào hố rồi bắn chết tất cả và chôn các nạn nhân trong các nấm mồ tập thể. Hitler còn giao cho Adolf Eichman các quyền lực không giới hạn để thanh toán hết các người Do Thái tại nước Đức và tại các nước bị quân Đức chiếm đóng ở châu Âu. Từ tháng 12 năm 1941, đội quân SS còn dùng nhiều toa xe lửa bịt kín, nhốt đầy người Do Thái rồi bơm hơi ngạt vào trong. Ngoài ra trên lãnh thổ Đức còn có các trại tập trung đặc biệt, các trung tâm tận diệt được tạo nên với mục tiêu giết người Do Thái hàng loạt, và không thể nào mô tả hết được bản chất tàn bạo, ghê sợ của các trung tâm sát nhân này của Đức Quốc Xã.

          Trước các cuộc tàn sát người Do Thái của Hitler, các nhà Phục Quốc Do Thái đã cố gắng cấp cứu thật nhiều nạn nhân. Tại các hải cảng của miền nam châu Âu nào còn mở, chưa bị quân đội Quốc Xã chiếm giữ, các con tầu cũ kỹ đã được dùng đến để chở lậu người tị nạn tới xứ Palestine. Nhưng người Anh do lo sợ mất lòng người Ả Rập, đã dùng các đội tuần duyên ngăn cản các tầu thuyền tị nạn đó, vào lúc ban đầu phải quay đầu trở về nơi xuất phát rồi về sau, hướng dẫn người tị nạn đến phần đất tại miền Trung Phi Châu do người Anh kiểm soát. Sự xung đột giữa quyết định của chính quyền Anh và các cố gắng của các người Do Thái Phục Quốc đã lên cao điểm khi hai tầu biển chở người tị nạn bị đánh chìm. Tháng 11 năm 1940, do chở 1,700 dân tị nạn “bất hợp pháp” bị chính quyền Anh trục xuất đi Mauritius, con tầu Patria đã bị tổ chức Haganah đặt chất nổ và chìm trong vịnh Haifa, làm chết oan 100 nhân mạng. Tháng 2 năm 1942, 770 người tị nạn Do Thái bị chết khi một con tầu khác tên là Shuma bị chìm trong Hắc Hải (the Black Sea) sau khi bị chính quyền Anh làm áp lực với Thổ Nhĩ Kỳ không cho tới Palestine. Haganah là tổ chức quân sự bí mật của Cơ Quan Do Thái (the Jewish Agency).

          Vào lúc này, Cơ quan Do Thái, tổ chức Haganah và ông Chaim Weizman cố gắng lấy lòng chính quyền Anh bằng cách thành lập một đơn vị quân đội Do Thái, cấp trung đoàn, gồm các người Do Thái trẻ để chiến đấu chống Đức Quốc Xã bên cạnh quân đội Anh và dưới lá cờ Phục Quốc Do Thái. Một trong các mục đích của việc làm này là để tổ chức Haganah có cơ hội luyện tập, thu lượm kinh nghiệm, mua sắm võ khí. Kế hoạch về một đoàn quân Do Thái được Winston Churchill chấp thuận và trung đoàn bộ binh Do Thái này được gửi qua nước Ý để chiến đấu vào năm 1944, mặc dù trong nhiều năm qua, đã từng có nhiều người Do Thái tham gia trong quân đội Anh.

          Sau khi Thế Chiến Thứ Hai chấm dứt vào năm 1945, nước Anh đã tuyên bố chính sách của họ về vấn đề Palestine vẫn không thay đổi. Trong 6 năm qua, sự hậu thuẫn của khối Ả Rập đã làm lệch đi các chính sách của nước Anh thì ngày nay, người Anh lại e sợ thế lực Xô Viết lan tới vùng Trung Đông nhiều dầu mỏ. Tới lúc này, người Do Thái tại Palestine đành phải đứng lên cầm võ khí, không những để chống lại các băng nhóm phá hoại của người Ả Rập mà còn để đánh phá những kẻ mà họ coi là áp chế. Trong hai năm 1946 và 1957, quân đội Anh gồm 100,000 người cùng các căn cứ quân sự đã là mục tiêu quấy phá của người Do Thái trong khi hai tổ chức khủng bố Do Thái là Irgun Zvai Leuni và nhóm Stern đã phá hoại các khu vực Ả Rập. Các nhà phục quốc Do Thái diều hâu như Ben-Gurion và Golda Meir thì lo việc mua lậu võ khí cũng như đưa dân tị nạn về xứ Palestine đồng thời cổ võ Thế Giới chống lại các chính sách của người Anh.

          Trước các đòi hỏi của người Ả Rập, của người Do Thái và các rối loạn, Tổng Thống Hoa Kỳ Harry S. Truman là người ủng hộ phong trào Phục Quốc Do Thái, đã đề nghị chuyển vấn đề xứ Palestine cho Liên Hiệp Quốc.

 

6/ Người Do Thái bảo vệ lãnh thổ.

          Sau nhiều tuần lễ tranh luận gắt gao, vào ngày 29-11-1947, Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc đã bỏ thăm, với 33 phiếu thuận trên 13 phiếu chống và 10 phiếu vắng mặt, chấp thuận phân chia xứ Palestine thành hai quốc gia độc lập, một dành cho 1.1 triệu người Ả Rập, phần kia là của 650,000 người Do Thái. Dù cho miền đất ấn định nhỏ hơn so với diện tích đề nghị bởi Cơ Quan Do Thái (the Jewish Agency) nhưng quyết định của Liên Hiệp Quốc đã là bước đầu công nhận một quốc gia mới, một nơi trú ngụ dành cho các nạn nhân sống sót từ các trại tử thần của Hitler. Còn đối với người Ả Rập, đây là một xúc phạm lớn, một việc cắt xén đất đai thuộc chủ quyền của họ từ lâu đời. Tại thành phố Jerusalem, các toán du kích Ả Rập đã đặt chất nổ nơi chợ búa, cắt các đường dây liên lạc, bao vây các khu định cư. Vào tháng 12 năm 1947, xứ Palestine đang đứng trước cảnh nội chiến trong khi lực lượng Anh không tìm cách can thiệp vì họ đang chờ thời hạn rút lui.

         Trước các tấn công phá hoại của người Ả Rập, người Do Thái đã chống trả với các loại súng trường, họ đã không bị mất một tấc đất nhỏ vì hai lý do: đoàn kết và biết tổ chức. Các nước Ả Rập bao quanh xứ Palestine Do Thái tuy lớn hơn, đông người hơn và cùng có một lòng thù ghét dân Do Thái, nhưng họ đã gặp thất bại vì thiếu một lãnh tụ cứng rắn và cũng do họ đã đánh giá quá thấp quốc gia Do Thái nhỏ bé và non trẻ.

          Vào mùa xuân năm 1948, tổ chức Haganah đã kiểm soát được tất cả các thành phố nằm trong phạm vi đề nghị bởi Liên Hiệp Quốc, bao gồm cả hải cảng quan trọng Haifa, thành phố gồm toàn người Ả Rập Jaffa, thành phố Safad gần biên giới Syria và Thành Phố Mới Jerusalem. Khi những toán quân Do Thái tiến đến, hàng trăm ngàn người Ả Rập đã bỏ cháy tán loạn bằng mọi phương tiện có được. Những người tị nạn này đã hoảng sợ khi các nhóm khủng bố Do Thái có tên là Irgun và Stern đã tàn sát 254 thường dân Ả Rập tại làng Deir Yassin vào ngày 10-4-1948. Vào năm 1949, nửa triệu người Ả Rập hay ba phần tư dân số ban đầu, đã bỏ xứ Palestine chạy qua các quốc gia láng giềng.

         Ngăn chặn người Ả Rập là một mặt, mặt khác đối với người Do Thái tại Palestine là phải kiếm ra tiền để mua võ khí. Đầu năm 1948, Cơ Quan Do Thái đã cử bà Golda Meir qua Hoa Kỳ trong một tháng và trong chuyến đi này, bà Golda Meir đã quyên được 50 triệu mỹ kim từ các người Mỹ gốc Do Thái. Sau đó võ khí đã mua được của nửa tá các nước ở châu Âu, gồm súng trường, súng liên thánh, bazookas, máy bay và cả oanh tạc cơ của Đức Quốc Xã trên đó huy hiệu chữ Vạn được sơn đi và thay bằng ngôi sao David.

         Buổi trưa ngày 14-5-1948, ngay trước khi ông David Ben-Gurion tuyên bố Độc Lập cho xứ Palestine Do Thái, thì tại hải cảng Haifa cách thành phố Tel Avis 50 dặm về phía bắc, vị Cao Ủy người Anh cuối cùng quản trị miền Đất Thánh là Sir Alan Cunningham, đã chào lá cờ Anh lần cuối cùng rồi bước lên thuyền máy để ra một tuần dương hạm đang chờ đợi ngoài khơi. Buổi lễ đơn giản này đã chấm dứt quyền cai trị của người Anh tại xứ Palestine sau 31 năm, khi vào tháng 12 năm 1917, quân đội Anh đã tiến vào thành phố Jerusalem, giành quyền kiểm soát từ tay người Thổ Nhĩ Kỳ.

         Cũng ngay sau Lễ Tuyên Bố Độc Lập của nước Do Thái, các đoàn quân Ả Rập theo mọi hướng, đang tiến vào miền Đất Thánh. Tại phía nam, hai đoàn quân Ai Cập, mỗi đoàn gồm 5,000 lính chiến, chia làm hai hướng tấn công Tel Avis và Jerusalem. Tại phía đông, đoàn quân Ả Rập Transjordan gồm 10,000 quân sẵn sàng vượt qua sông Jordan để chiếm miền trung tâm Palestine, vây Thành Phố Mới Jerusalem, còn từ mạn bắc là các đạo quân của Lebanon, Syria và Iraq sắp càn quét xứ Galilée, phá tan hải cảng Haifa để hướng về Tel Avis. Như vậy trong một tuần lễ, quốc gia non trẻ Do Thái sẽ bị dẹp tan trong một tàn sát kiểu “Mông Cổ”. Các nhà lãnh đạo Ả Rập vào lúc này gồm cả Vua Ai Cập Farouk và Vua Abdullah của xứ Transjordan đã an tâm trước 21,500 quân đang dàn trên các trận tuyến, trong khi quân đội Do Thái chỉ có 10,000 súng trường, mỗi khẩu chỉ được trang bị 50 viên đạn, 3,600 súng máy và 4 đội pháo binh cổ lỗ.

        Đêm hôm 14 rạng ngày 15 tháng 5, đoàn quân Ai Cập vượt qua biên giới vào sa mạc Negev, tiến đánh một khu định cư Do Thái nhỏ có tên là Nirim. Tại nơi này, hỏa lực chống cự chỉ có 17 súng trường, 1 tiểu liên và 4 súng máy. Quân đội Ai Cập đã bắn đạn pháo binh, dùng xe bọc sắt tấn công sát hàng rào kẽm gai nhưng bên trong, các người định cư Do Thái chỉ khai hỏa khi thấy địch quân đã nằm trong tầm đạn. Sau nhiều lần tấn công không thành, đoàn quân Ai Cập đành bỏ qua làng Nirim, để tiến về thành phố Tel Avis và Jerusalem.

         Cách chống cự tại Nirim đã là kiểu mẫu cho các mặt trận ở cả phía nam lẫn phía bắc vì sự gan dạ của dân quân Do Thái đã làm cho các sĩ quan nhút nhát người Ai Cập không thể chiến thắng. Hơn nữa, đoàn quân này cũng như các đoàn quân Ả Rập khác đã thiếu tinh thần chiến đấu vì các nhà lãnh đạo của họ đã bỏ túi các món tiền dùng để mua võ khí, quân trang và thực phẩm cho quân đội.

         Tại mặt trận Jerusalem, đoàn quân thiện chiến Transjordan đã tiến tới Thành Phố Mới vào ngày 19-5 và chiếm Thành Phố Cổ ngày 28-5. 100,000 người Do Thái sống trong thành phố Jerusalem mới đang bị bao vây và đang đứng trước cảnh hết thực phẩm. Nhưng sáng ngày 11-6-1948, các đoàn quân xa Do Thái đã lập được các đường lộ mới, tiến vào thành phố, Jerusalem được giải tỏa.

          Cuộc chiến tại xứ Palestine đã gây ra các tranh luận tại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc và sau khi Jerusalem thoát hiểm, các nước Ả Rập đều đồng ý về đề nghị ngưng bắn một tháng của Bá Tước Folke Bernadotte, người Thụy Điển, trong khi đó các võ khí mới đã được nhập cảng vào xứ Do Thái và các đạo quân Do Thái mới cũng được thành lập từ những người tị nạn mới bước lên bờ.

          Sau cuộc ngưng chiến vào ngày 8-7-1948, các đội quân Ả Rập đã thấy rằng họ đang đứng trước kẻ thù mỗi ngày một cải tiến. Lực lượng quân sự Do Thái đã đánh thắng các đạo quân của Syria, Lebanon và Iraq, rồi tại phía nam quân Ai Cập cũng đã bỏ chạy.

          Nước Do Thái đã sống còn sau Ngày Tuyên Bố Độc Lập, nhưng giá phải trả cho Lễ Độc Lập này là 6.000 người Do Thái hay một phần trăm dân số đã bị thiệt mạng. Số tử vong của phía Ả Rập còn cao hơn nhiều.

          Nền Độc Lập của Quốc Gia Do Thái còn bị đe dọa cho tới khi quân đội Do Thái đánh thắng ba trận chiến lớn sau này. Các người Do Thái không quê hương kể từ năm 1948, đã trở về sống trên mảnh đất mà tổ tiên của họ đã phải rời đi sau nhiều thế kỷ.

Nguồn: https://nghiencuulichsu.com/2013/01/21/thanh-lap-nuoc-do-thai/