XIN CHÀO VÀ CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ ĐẾN VỚI BLOGSPOT.COM CỦA LUU VAN CHUONG

Thứ Hai, 18 tháng 12, 2017

Chính sách ngu dân trong lịch sử Trung Quốc

Tác giả Li Zhongqin
Lâm Duyên dịch



Chỉ cần thể chế toàn trị còn tồn tại, trên dưới cùng ngu là không thể tránh khỏi. Chỉ có xây dựng được cơ chế ràng buộc quyền lực hiệu quả, nhân dân có đủ tự do ngôn luận, mới có thể hy vọng đánh bật gốc quy luật “trên dưới cùng ngu”.


Từng có tổng kết cho rằng lịch sử Trung Quốc có “mười định luật lớn”, bao gồm: đũa ngà voi, thỏ chết chó hầm, bao vây xu nịnh, dè chừng kẻ thù, kéo kết bè đảng, Hoàng Tôn, xử trảm năm đời, quyền lớn hiếp chủ, da lông, chính quyền từ báng súng [1]; những định luật này không sai, nhưng tôi cảm thấy chưa đủ, ít nhất cần thêm vào một định luật: “Định luật trên dưới cùng ngu”.
Cái gọi là “Định luật trên dưới cùng ngu”, là chỉ trong xã hội chuyên chế, kẻ thống trị thực hành chính sách ngu dân; có “chính sách ngu dân” tất sẽ xuất hiện “đối sách ngu quân” trong triều đình và dân chúng. Đây gọi là “trên dưới cùng ngu”. Hệ quả của “trên dưới cùng ngu” là trên có hôn quân, dưới có ngu dân, xấu thắng tốt thua, luân lý hao mất, xã hội đen tối, giả dối lên ngôi, hủ bại lạc hậu, hèn hạ bạc nhược.

“Chính sách ngu dân” của kẻ thống trị tự cho mình thông minh
Có hiện tượng kỳ quái trong lịch sử [TQ], đó là có một số phần tử trí thức không cầm quyền, không phải thành viên lớp hạt nhân chuyên chế, nhưng lại nhiệt thành bỏ hết tinh lực giúp kẻ thống trị bày vẽ mưu kế. Từ khá sớm, vị chuyên gia đã vô tư dâng hiến tuyệt chiêu “chính sách ngu dân” phải kể là Lão Tử Lý Đam. Ông ấy nói: “Ngày trước, kẻ khéo hành đạo thì không cho dân sáng suốt, phải làm cho họ ngu muội. Khó trị được dân khi họ có nhiều trí tuệ” [2], “Trí tuệ của thánh nhân [là làm cho dân]: Lòng rỗng, bụng no, chí hèn, xương cứng, làm cho dân không biết không ham” [3]. Khổng Tử thánh nhân cũng theo chủ trương này, ông ấy nói: “Muốn sai bảo dân, không để cho họ hiểu biết” [4]. Hậu thế “vì nể người hiền”, cho rằng lời của Lão Tử và Khổng Tử cần có cách giải thích khác, ví như giải thích “trí, 智” mà Lão Tử nói có nghĩa là “xảo trá”, còn “ngu, 愚” là “chất phác”; làm mới lại lời của Khổng Tử… kỳ thực chỉ là trò chơi chữ mà thôi.

Theo quan điểm của Lão Tử, khó quản dân khi dân hiểu biết. Nhà chính trị cao minh không nên để cho dân có hiểu biết, cần làm cho dân ngu xuẩn. Nếu mọi người dân đều đần độn, nhận thức kém và không có dục vọng, như vậy thiên hạ sẽ ổn định.

Lý luận thường lạc hậu so với thực tiễn. Thực tế, từ khi Lão Tử còn chưa ra đời, các vua nhà Tây Chu đã biết thực hiện “chính sách ngu dân”. Nhiều người quá quen câu chuyện Chu Lệ Vương (890 Tr.CN – 828 Tr.CN) “dẹp lời bài báng”. Khi đó, để ngăn chặn dân chúng tranh luận việc triều chính, Chu Lệ Vương thực hiện chính sách chính trị hà khắc, nhân dân không còn bất cứ tự do ngôn luận nào, đến cả việc chào hỏi khi gặp nhau trên đường cũng không dám, chỉ có thể dùng ánh mắt ra hiệu. Khi mọi người im lặng, Chu Lệ Vương tự cho rằng thiên hạ ổn định, dương dương tự đắc khoe khoang với đại thần Thiệu Công. Nhưng không bao lâu sau thì xảy ra bạo loạn khắp nước, Chu Lệ Vương bị lưu đày.

Khổng Tử, ông trùm của chính sách ngu dân

Trong lịch sử Trung Quốc, vị hoàng đế chính thức đẩy mạnh chính sách ngu dân là Tần Thủy Hoàng (259 Tr.CN – 210 Tr.CN) với chính sách tàn bạo “diệt trăm nhà”. Về sau, các hoàng đế và triều đại đều xem chính sách ngu dân là phép màu của sức mạnh chính trị. Có ba cách thực hiện chính sách này:
Một là áp chế dư luận, phong tỏa thông tin, đàn áp văn nhân, thiêu hủy sách vở. Như Tần Thủy Hoàng và Lý Tư “đốt sách chôn nho” chính là cách phong tỏa thông tin, kiềm chế tư tưởng, biến mọi người thành người điếc, người mù; chúng còn đẩy mạnh chính trị KB [5], tước đoạt quyền tự do ngôn luận của nhân dân, biến mọi người thành như người câm. Nhân dân có mắt không được thấy, có tai không được nghe, có miệng không dám nói, biến thành người mù, điếc, câm, như thế kẻ độc tài có thể tùy tiện tự tung tự tác. Tù ngục tắm máu chữ nghĩa trong lịch sử Trung Quốc càng ngày càng tàn khốc, như phong trào kiểm duyệt thư tịch phạm húy trên quy mô rộng của triều đình nhà Thanh là một dẫn chứng kinh điển của “chính sách ngu dân”.

Hai là gạt bỏ trăm nhà, độc tôn Nho gia; cấm cản hết thảy tự do tư tưởng, ngôn luận. Ngoài bạo lực khủng bố, kẻ thống trị còn tìm đến thứ lý luận có lợi mà vô hại đối với kẻ thống trị chuyên chế, xem đó là tư tưởng chỉ đạo để thuần hóa nhân dân. Đề xuất chủ ý này là một bậc thầy và chuyên gia, tên là Đổng Trọng Thư (179 Tr.CN – 104 Tr.CN). Ông ta chủ trương dùng học thuyết Nho gia làm tư tưởng cầm quyền nhằm “giáo hóa” nhân dân. Trong sớ dâng Hán Võ Đế (156 Tr.CN – 87 Tr.CN), ông ấy ghi: “Kẻ không học Lục nghệ (Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Xuân, Thu), tư tưởng của Khổng Tử, phải cắt đường thăng tiến, chớ nên tuyển chọn” (Chư bất tại lục nghệ chi khoa Khổng Tử chi thuật giả, tất tuyệt kỳ đạo, vật sử tính tiến). Từ đây, Hán Võ Đế “loại bỏ trăm nhà, độc tôn Nho gia”. Tư tưởng này gây ra nền chính trị tàn bạo, làm cho người Trung Quốc bị mất năng lực sáng tạo và tư duy độc lập về các phương diện văn hóa và khoa học, sau này xã hội Trung Quốc không còn xuất hiện trường hợp như “trăm nhà đua tiếng” nữa.

Ba là tự thần thánh hóa bản thân, mượn danh lừa đời, đặt chuyện hoang đường, tô vẽ cảnh thái bình. Những kẻ độc tài muốn chứng minh bản thân “phụng mệnh Trời”, “duy ngã độc tôn”, “Trời trao anh minh”, “Trời trao năng lực phi phàm”, tự tạo dựng thần thoại dối trá, nào là khi Thái hậu mang thai “giao long quấn lấy”, “mơ Mặt trời nhập thai”; nào là khi Hoàng đế chào đời “gian phòng tỏa hào quang”, “ngoài sân mây tía”… chứng minh Hoàng đế khác người phàm, là “con Trời”, là thánh nhân siêu phàm, được thần thánh trao ngôi báu, có quyền ban quan tước, “khắp gầm trời đâu cũng là đất của vua, người sống trên đó đều là thần dân của vua”. Phàm những lời vua nói đều là lời vàng ngọc, một câu trên cả vạn câu; phàm việc vua làm toàn là vĩ đại anh minh, mãi mãi không có sai lầm. Đồng thời, những kẻ thống trị còn không ngừng tạo dựng những tấm gương giả tạo, bài học giả tạo cho toàn dân học tập, dùng lời hoang đường mê hoặc dân chúng, dùng lời suông trị nước, tô vẽ cảnh thái bình, lừa mình lừa người.

Tóm lại, tinh túy của “chính sách ngu dân” là nhờ vào che giấu, lừa lọc và khủng bố, biến nhân dân thành khờ khạo và ngớ ngẩn. Như thế, kẻ thống trị được hiện thân như vị anh hùng vĩ đại, nhằm củng cố quyền thống trị chuyên chế.

“Đối sách ngu quân” làm kẻ độc tài thành đần độn
Tục ngữ có câu: “Trên có chính sách, dưới có đối sách.” Ở trên thực hiện “chính sách ngu dân”, ở dưới tự nhiên có “đối sách ngu quân”.

Lỗ Tấn (1881 – 1936) tiên sinh từng kể câu chuyện “Vẹt xanh mỏ đỏ”, tổng kết rằng: “Vì hoàng đế và đại thần có ‘chính sách ngu dân’, bách tính cũng tự có ‘đối sách ngu quân’.” Nói phương pháp mà bách tính lừa hoàng đế là “chính sách” thì không chuẩn xác. Câu chuyện “Vẹt xanh mỏ đỏ” chưa hẳn có thật, nhưng lại phản ánh trí tuệ mà bách tính dùng để lừa gạt hoàng đế, một câu chuyện rất điển hình.

Lỗ Tấn, ảnh chụp gần cuối đời.

Trong sách “Hàn Phi Tử” cũng ghi chép lại câu chuyện ngu quân. Tề Tuyên Vương (trị vì 342 Tr.CN-323 Tr.CN) rất thích bắn cung, có thể kéo được cây cung tam thạch. Những kẻ xu nịnh bên cạnh Tề Tuyên Vương khi kéo thử đều giả bộ gắng hết sức nhưng không thể kéo nổi, nói rằng cây cung này có đến cửu thạch. Tề Tuyên Vương nghe thế thì đắc ý, tưởng rằng bản thân là đại lực sĩ, “thứ chưa đến tam thạch, nhưng cả đời tưởng rằng mình có sức kéo cung cửu thạch.” [6]

Loại “ngu quân” tâng bốc này rất phổ biến. Đặc biệt là khi biết cấp trên có hứng thú, sở trường đối với một vấn đề nào đó, cấp dưới sẽ tìm mọi cách dùng nó vào mục đích nịnh hót. Vậy là cái tôi của kẻ độc tài càng lúc càng được bay bổng, dần dần không còn năng lực phán đoán và tư duy chính xác, ngày càng ngu muội. Như câu chuyện thiếu nhi “Áo mới của Hoàng đế” có kể, rõ ràng Hoàng đế đang cởi truồng, nhưng vì những lời xu nịnh của các đại thần mà tưởng rằng mình đang mặc bộ đồ đẹp nhất thế gian. Thậm chí, khi kẻ độc tài nói lời vô nghĩa, kẻ xu nịnh cũng nói rằng “lời vàng thước ngọc”, “nhận định sáng suốt”, cùng tổ chức học theo triệt để, toàn diện. Khắp cả nước đều nhất loạt lấy làm gương để học tập. Thôn lừa xã, xã lừa huyện, cứ thế bên dưới lừa bên trên, lừa lên đến cung điện. Loại hôn quân này chỉ thích được tâng bốc, tưởng đâu thế là vô hại, thực tế nó như thuốc độc mãn tính, làm cho cấp trên ngày càng ngu đần, cởi chuồng chạy khắp nơi đến chết vẫn không nhận ra.

Một cách “ngu quân” nữa là che giấu, lừa dối. Hoàng đế Càn Long (1711 – 1799) có thể xem là vị vua thông minh trong các triều đại, một lần ông ấy hỏi đại học sĩ Uông Do Đội (1692-1758): “Trời chưa sáng mà ông đã thượng triều, đã dùng bữa ở nhà chưa?” Uông Do Đội đáp: “Nhà thần nghèo, bữa sáng chỉ dùng bốn trứng gà.” Càn Long giật mình, nói: “Một trứng gà giá 12 lượng bạc, bốn trứng là 40 lượng. Trẫm không dám xa xỉ như thế, sao khanh có thể nói nhà mình nghèo?” Uông Do Đội bị dọa chỉ biết nói úp mở, ậm ờ cho qua. Nhưng câu chuyện không phải duy nhất. Vốn là mỗi ngày Hoàng đế Quang Tự (1871 – 1908) ăn bốn trứng gà, trong sổ ở ngự thiện phòng ghi lại chi phí là 34 lạng bạc, như vậy giá mỗi trứng gà hơn 8 lạng bạc. Một lần ông ta hỏi thầy dạy mình là Ông Đồng Hòa (翁同龢, 1830 – 1904): “Thứ quý giá này thầy đã dùng chưa?” Ông Đồng Hòa nghe hỏi thì biết thái giám giở trò, nhưng nghĩ nếu nói thật thì đắc tội với các thái giám, bèn đáp: “Thứ quý này, khi thờ cúng vào ngày lễ lớn thì thần thỉnh thoảng mới dùng một chút, bình thường không dùng đến.” Có lẽ các Hoàng đế triều Thanh đều cho rằng trứng gà là đồ ăn quý giá!

Trường hợp nhiều hơn là cấp dưới buộc phải lừa cấp trên, không dám nói sự thật cho cấp trên. Thích nghe lời ngọt là thiên tính của con người. Đặc biệt là kẻ độc tài, ngày ngày bị bọn xu nịnh vây quanh, luôn tưởng rằng mình thông minh biết nhiều, anh minh uy phong. Quen nghe lời xu nịnh, họ không còn nghe được lời không vừa ý nhưng chân thật. Dẫn chứng có vô số trong lịch sử. Vì mọi người đều học cách ngoan ngoãn nghe lời, cấp trên thích nghe gì thì nói vậy. Đây gọi là “bị ép ngu quân”. Như Tần Nhị Thế (229 Tr.CN – 207 Tr.CN) rơi vào nghiện ngập trụy lạc, bị Thừa tướng Triệu Cao (258 Tr.CN – 207 Tr.CN) giấu giếm thông tin. Tần Nhị Thế lờ mờ biết nghĩa quân nổi dậy nhiều như ong, thiên hạ đại loạn, nhưng khi hỏi Triệu Cao, Triệu Cao chỉ thưa: “Chẳng qua là vài tên giặc cỏ, không làm nên trò trống gì.” Bỏ mặc Tần Nhị Thế an tâm hưởng lạc trong cung điện. Cho đến khi Triệu Cao phái con rể vào cung giết Tần Nhị Thế, lúc này Tần Nhị Thế mới vỡ ra, liền trách mắng tên thái giám bên cạnh: “Tại sao ngươi không sớm nói cho ta sự thật?” Thái giám nói: “Tiện nhân không dám nói. Nếu nói sự thật thì sớm đã bị ngài giết chết rồi, sao có thể sống đến giờ?” Câu chuyện về Tùy Dạng Đế cũng có thể xem là điển hình. Ông ta thích nghe lời ngon ngọt, vì thế quần thần chỉ dám báo chuyện vui không dám báo chuyện buồn. Có cung nữ báo lại rằng, bên ngoài có người tạo phản. Tùy Dạng Đế lại cho rằng cô cung nữ có mưu đồ mê hoặc làm loạn, bèn mang giết đi. Vậy là không còn ai dám nói lời thật trước mặt ông ta. Khi thiên hạ đại loạn, ông ta bị khốn trong cung Dương Châu, nhưng vẫn không ai dám nói thật cho ông ta. Điều lạ là, bên ngoài cung, các tướng lĩnh ngự lâm quân cứ điềm nhiên mở hội bàn việc phản loạn mà không phải lo lắng có ai vào cung mật báo; trong cung, các cung nữ đều biết tình thế bên ngoài đã đến mức không thể dẹp nổi, nhưng không một ai dám nói sự thật cho Tùy Dạng Đế. Vậy là chỉ còn mình ông ta chìm trong u mê.

Trên dưới làm nhau cùng ngu
Trong lịch sử, bất kể “chính sách ngu dân” hay “đối sách ngu quân” đều có được “thành công” nhất định. Loại “thành công” này quả là nỗi đau xót của nước, nỗi xót xa của dân.

Lỗ Tấn tiên sinh từng nói: “Xảy ra ngu dân là hệ quả của chính sách ngu dân.” “Chính sách ngu dân” sinh ra ra hàng loạt dân ngu, họ không thể biết được sự thật, trong tình trạng thông tin không có ứng đối, ngày ngày chỉ nghe được những lời dối trá, lời nói dối lặp đi lặp lại mãi được xem thành sự thật. Sự xuất hiện của vô số dân ngu, ở mức độ nhất định giúp gia cố quyền lực của kẻ thống trị độc tài, nhưng đồng thời lại làm cho toàn xã hội bao phủ trong không khí giả dối, bạo ngược, ngu muội, bạo lực, dễ tạo thành thảm họa mang tính toàn quốc.

Cuối đời nhà Thanh, do ảnh hưởng của chính sách bài ngoại mù quáng của triều đình nhà Thanh, các dân ngu thành lập Nghĩa Hòa Đoàn, mê tín vào công phu Trung Quốc, cho là vũ khí [nước ngoài] không làm gì được, rêu rao giúp Thanh diệt ngoại bang, ngăn chặn văn minh bên ngoài. Điều này cũng tương tự cảnh người dân Iraq thề bảo vệ Saddam Hussein, quyết chiến đến cùng với quân Anh và Mỹ. Từ Hy Thái Hậu (1835 – 1908) cũng bị dân ngu lừa gạt, cứ thế tin theo, ngang tàng tuyên chiến với 11 nước mạnh nhất thế giới, mong ngóng Nghĩa Hòa Đoàn diệt ngoại bang, trừ đại nạn. Nhưng rồi chỉ cần tám nước liên kết tổ chức đội quân có 20.000 người, đổ bộ lên từ Thiên Tân, không bao lâu đã đánh đến Bắc Kinh, Từ Hy Thái Hậu và Hoàng đế Quang Tự phải tháo chạy. Đây gọi là “quốc nạn Canh Tý” nhục nhã trong lịch sử Trung Quốc. Quân nhà Thanh cùng hàng trăm ngàn người của Nghĩa Hòa Đoàn đầy hào hùng oai khí nhưng hoàn toàn bất lực, câu chuyện không khác gì cảnh cuộc chiến ở Iraq khi liên quân Anh Mỹ tiến thẳng vào Baghdad.

Từ Hy Thái Hậu chạy thoát thân sang phương Tây mới hiểu rằng đã bị Nghĩa Hòa Đoàn làm cho u mê; khi Saddam bị lính Mỹ lôi ra khỏi hầm, có lẽ mới nhận ra bản thân đã bị người dân của ông ta làm cho mụ mị.

Nhưng khi kẻ độc tài nắm đại quyền trong tay, chỉ vui thích khi hắn thực hiện “chính sách ngu dân” thành công, không nhận ra được rằng chính bản thân cũng bị nhân dân làm cho ngu muội. Trên chỉ thích ca ngợi thái bình, thích lời “khen ngợi” rỗng tuếch, “lòng người như một”, thế là bên dưới cứ thế mà theo, tạo cảnh bình an giả tạo, báo cáo thành tích giả dối. Cấp trên nghĩ ra một chủ ý vụng về, cấp dưới hoan hô sáng suốt như thần thánh, chuyện gì cũng chỉ biết tán đồng.

Tháng Giêng năm 610, Tùy Dạng Đế (569 – 618) không màng đến hoàn cảnh, vì muốn chứng tỏ đất nước hùng cường nên bất ngờ đưa ra ý tưởng kỳ lạ, cho mở hội rầm rộ tại Lạc Dương: Biểu diễn tạp kỹ (xiếc, nhào lộn) long trọng, “thâu đêm suốt sáng, khắp nơi đèn đuốc rực sáng đến tận cuối tháng, tốn kém kinh phí vô kể.” Nhiều nhà buôn các nước Tây Vực cảm thấy kỳ lạ, ở Lạc Dương họ dùng bữa không tốn tiền, nơi ở được miễn phí. Các ông chủ khách điếm thì tự hào nói với người nước ngoài: “Trung Quốc giàu có, tiệc rượu có gì đáng bàn.” Người nước ngoài khi thấy cảnh lụa là quấn quanh những cây đại thụ trên đường phố Lạc Dương, trong khi bên đường có nhiều dân nghèo khổ, họ bèn hỏi thị dân Lạc Dương: “Trung Quốc còn có người nghèo, áo mặc rách rưới, sao có thể dùng thứ này quấn cho cây?” Người được hỏi ngượng ngùng không thể trả lời. Tùy Dạng Đế vốn muốn làm công trình này để thể hiện hình ảnh thời đại rực rỡ, “khắp nơi hướng về”, không ngờ lại thành trò hề, để lại trò cười cho hậu thế.

Nhà văn Václav Havel, là cựu Tổng thống Cộng hòa Séc (Czech Republic – DCVOnline), khi bàn về thời hậu toàn trị [7] đã chỉ ra, trò ngụy trang, biểu diễn và trang trí màu mè, giả tạo là đặc điểm cốt lõi của xã hội toàn trị. Cuộc sống trong thời đại toàn trị là sống trong không khí giả dối, mọi người muốn sống phải giả dối, phải chấp nhận làm bạn với giả dối.

Thực tế, ở thời hậu toàn trị, chế độ chuyên chế làm toàn xã hội cùng ngu, từ trên xuống dưới, dối trá trở thành dầu bôi trơn duy trì hoạt động của xã hội toàn trị. Kẻ thống trị độc tài xa rời dối trá thì không thể duy trì được quyền lực; quốc dân không dối trá thì khó bề tồn tại. Trên dưới cùng ngu làm xã hội Trung Quốc chìm trong bể che giấu và lừa bịp, không thể tự thoát khỏi.

Khác biệt giữa thời toàn trị và hậu toàn trị là, trong thời toàn trị, “chính sách ngu dân” của kẻ độc tài tạo ra hàng loạt dân ngu, còn “đối sách ngu quân” của các thần dân lại làm cho kẻ độc tài sống trong u tối, trở thành hôn quân. Trên dưới cùng ngu, không ai được thức tỉnh. Còn ở thời hậu toàn trị, đa số mọi người đã nhận thức rõ chiêu trò vụng về của “chính sách ngu dân”, nhưng bề ngoài vẫn giả dạng tin theo, giả điếc giả câm, lòng thì vui mừng khi thấy nó thất bại; trong lòng kẻ độc tài cũng hiểu rõ “đối sách ngu quân” của dân chúng, nhưng cũng giả bộ tin theo.

Phải nhấn mạnh, trên dưới cùng ngu không chỉ là hoàng đế làm ngu dân, dân chúng làm ngu hoàng đế, mà là theo tầng bậc từng cấp mắt xích, hình thành sợi xích với vô số mắt cùng làm ngu nhau. Mỗi cá nhân đều là một mắt xích của sợi xích, tức kẻ lừa người cũng bị người lừa.

Dù sao, một xã hội mà trên dưới cùng ngu không phải một xã hội khỏe mạnh, càng không thể là xã hội hài hòa. Chỉ cần thể chế toàn trị còn tồn tại, trên dưới cùng ngu là không thể tránh khỏi. Chỉ có xây dựng được cơ chế ràng buộc quyền lực hiệu quả, nhân dân có đủ tự do ngôn luận, mới có thể hy vọng đánh bật gốc quy luật “trên dưới cùng ngu”.

Nguồn: “李忠琴:中国历史上的愚民政策”

hx.cnd.org, 26.09.2017

Chú thích:

[1] Định luật đũa ngà voi (Tượng nha khoái, 象牙筷): Chỉ kẻ lên cầm quyền bắt đầu sa đọa, phung phí, trác táng… Câu chuyện kinh điển: vua Trụ tại vị không bao lâu thì lệnh cho làm cho họ đôi đũa ngà voi. Hiền thần Cơ Tử thấy thế lo lắng nói, “đũa ngà voi không thể đi cùng đồ sành sứ, phải đi cùng chén tê giác, ly bạch ngọc. Ly ngọc không thể chứa lương thực rau dại, chỉ để dùng sơn hào hải vị. Dùng sơn hào hải vị không thể mặc đồ sơ sài, ở nhà tranh, phải mặc gấm vóc, đi kiệu hoa, ở nhà lầu. Trong nước không thỏa mãn được, phải ra ngoài tìm kiếm báu vật quý hiếm. Thần lo thay cho người.”

* Định luật thỏ chết chó hầm (thỏ tử cẩu phanh, 兔死狗烹): Sau khi tận tâm cống hiến hết sức lực cho kẻ thống trị thì bị kẻ thống trị giết bỏ. Câu chuyện kinh điển: Việt Vương Câu Tiễn vì báo thù rửa hận, nằm gai nếm mật, tinh thần thật phi thường. Nhưng phẩm cách của Việt Vương Câu Tiễn rất tệ. Trong tình hình gian khổ tột cùng đã có hai công thần giúp ông ta, nhưng sau khi thành đại nghiệp thì một người bị giết chết, một người phải tháo chạy thoát thân

* Định luật bao vây [xu nịnh] (bao vi, 包 围): Một người đứng đầu (vua chúa…) luôn có vài người bao vây xung quanh nịnh hót, hệ quả là làm cho người này ngày càng ngu đần, có xu thế biến thành gần như con rối. Đây là định luật bao vây, diễn ra thường xuyên trong lịch sử Trung Quốc. Câu chuyện kinh điển: Trong “Xuất sư biểu”, Gia Cát Lượng đã luận về hưng vong của thiên hạ, “thân cận bề tôi tài đức, tránh xa tiểu nhân, thời Tiên Hán hưng thịnh nhờ thế; thân tiểu nhân, xa bề tôi tài đức, thời Hậu Hán bại suy vì vậy.” Tuy gian thần và tiểu nhân bị người người khinh bỉ, nhưng chúng lại chiếm giữ vị thế quan trọng trong lịch sử Trung Quốc, quyết định hưng vong của một triều đại

* Định luật dè chừng kẻ thù (thù giới, 敌戒): Nghĩa là bản thân chỉ mạnh mẽ hơn nhờ lòng cảnh giác, tranh đấu với kẻ thù

* Định luật bè đảng (bằng đảng, 朋党): Tình trạng kéo kết bè phái làm sụp đổ triều đại

* Định Luật Hoàng Tôn(黄宗): Dựa vào tổng kết của nhà tư tưởng triều Thanh là Hoàng Tông Hy (黄宗羲, 1610-1695), theo đó, trong lịch sử Trung Quốc, vấn đề cải cách thuế khóa diễn ra liên miên, nhưng qua mỗi lần cải cách, sau khi người nông dân được hưởng mức thuế hạ thấp một thời gian thì lại chịu một mức khác cao hơn lúc trước cải cách

* Định luật xử trảm năm đời (五世而斩): Công danh sự nghiệp của một người có ảnh hưởng đến nhiều đời sau (7).

* Định luật quyền lớn hiếp chủ: Lịch sử Trung Quốc hàng ngàn năm luôn có khởi đầu và kết thúc theo kiểu “quyền lớn hiếp chủ” làm suy sụp triều đại: con Sở Thành Vương (楚成王, ?-626 TCN) ép Sở Thành Vương tự sát; công tử Quang của nước Ngô phái thích khách Chuyên Chư (专诸, ? – 515 Tr.CN) hành thích Ngô vương Liêu thành công và lên ngôi vương, tức Ngô vương Hạp Lư; thời Tây Hán có Vương Mãng soán ngôi, thời Tấn có loạt bát vương, do tám vị vương họ Tư Mã thuộc hoàng tộc nhà Tây Tấn gây ra từ năm 291 tới năm 306, làm nhà Tây Tấn suy yếu và khởi nguồn của loạn Ngũ Hồ Thập lục quốc của các tộc người tại Trung Nguyên dẫn đến sụp đổ nhà Tây Tấn; thời Tam Quốc có Tào Tháo… Triều Thanh (cuối thời Phong kiến Trung Quốc), Viên Thế Khải lộng quyền, đánh dấu hồi kết của vương triều này

* Định luật da lông (皮毛): từ sau khi Tần Thủy Hoàng “đốt sách chôn nho”, giới trí thức Trung Quốc biến thành “lông”, chỉ còn làm phụ họa cho người chủ/lãnh đạo (da), họ không còn tư tưởng độc lập, đánh mất chính mình

* Chính quyền từ báng súng: Chỉ Trung Quốc không có dân chủ, lịch sử Trung Quốc thường chỉ dựa vào đấu tranh vũ trang để giành chính quyền (10).

[2] Nguyên văn: Cổ chi thiện vi đạo giả, phi dĩ minh dân, tương dĩ ngu chi. Dân chi nan trị, dĩ kỳ trí đa (古之善为道者,非以明民,将以愚之。民之难治,以其智多).

[3] Nguyên văn: Thị dĩ thánh nhân chi trí, hư kỳ tâm, thực kỳ phúc, nhược kỳ trí, cường kỳ cốt, thường sử dân vô tri vô dục (是以圣人之智,虚其心,实其腹,弱其智,强其骨,常使民无知无欲).

[4] Nguyên văn: Dân khả sử do chi, bất khả sử tri chi (民可使由之,不可使知之).

[5] Mật vụ KGB của Liên Xô cũ?

[6] Thạch (石): Cách tính độ nặng khi kéo cây cung của thời cổ đại Trung Quốc, một thạch cần sức kéo 60 cân.

[7] Hậu chủ nghĩa toàn trị là giai đoạn mà động lực ban đầu của chủ nghĩa toàn trị đã suy kiệt. Kẻ nắm quyền lực đã không còn tính tôn nghiêm và sức sáng tạo mà những thế hệ quyền lực trước từng có. Tuy vậy, về đại thể thì thể chế vẫn vận hành nguyên trạng, do quán tính hoặc tính trơ ỳ

Nguồn bài đăng : dcvonline.net

Mục đích chính của DCVOnline, với trách nhiệm truyền thông độc lập, là cổ xúy dân chủ, nhân quyền và phát triển bền vững cho Việt Nam.”

Đã đăng trên Văn Việt.

Thứ Sáu, 15 tháng 12, 2017

Cổ khí hậu từ trầm tích hồ sơ

Vào tháng 3 năm 2016
Nhóm của chúng tôi 7 (tức là ba giáo sư và một sinh viên tốt nghiệp từ Đại học Quốc gia Việt Nam Hà Nội, ba từ Indiana, cụ thể là Anrdt, Minh và Jan đang xin Đại học Bremen) dành ba ngày làm việc vất vả trong và xung quanh Pleiku ở cao nguyên trung tâm của Việt Nam. GS Dương Thuỳ Nguyễn 's nhiệt tình và khăng khăng đã làm cho nó có thể để vượt qua kháng lặp đi lặp lại từ chính quyền địa phương, người đã nghi ngờ về sự tham gia của người nước ngoài trong công việc liên quan đến việc cung cấp nước ngọt quý giá của Pleiku. Quan trọng không kém, kết nối cựu cố vấn Dương của GS Phương Hòa Tạ của tuyệt vời để một số quan chức trong khu vực (một phần sinh viên cũ của mình) cung cấp hỗ trợ quan trọng. Cuối cùng chúng tôi đã phá vỡ lớp băng và được cấp giấy phép nghiên cứu. Ở khắp mọi nơi chúng tôi đi, chúng tôi có kèm theo một quan chức địa phương thân thiện để đảm bảo hoạt động trơn tru.
bản đồ độ sâu và địa điểm lấy mẫu và bẫy đặt trên Tháng Ba 2016 hồ T'Nưng hồ miệng núi lửa (maar) (Pleiku, Gia Lai) - Biển Hồ.
Bản chất nhạy cảm của các hồ maar (Biển Hồ - hồ T'Nưng - Đôi mắt Pleiku - mắt Pleiku hay ngọc trai Pleiku của) cấp nước Pleiku của cấm chèo thuyền tin nhất. Chỉ có một đội trưởng được phép hoạt động thuyền riêng của mình. Ông được trả bởi các nhà chức trách để thỉnh thoảng phục hồi các cơ quan của người bị chết đuối. Chúng tôi thuê thuyền của mình với một phi hành đoàn của 2. Chỉ khi nào chúng ta xuất hiện chủ sở hữu yêu cầu $ 2000 tiền thuê. Ông đã từ chối giải thích rõ ràng một thẻ giá trước đó. May mắn Giáo sư Dương và Phương đã có thể mặc cả ông xuống một chút.
phần trên cùng của một lõi trầm tích từ một hồ nước.
Có ba hồ maar kết nối với nhau (Biển Hồ) khoảng 10 km về phía bắc Pleiku. Độ sâu nước tối đa là khoảng 25 m trong maar sâu nhất. Các maar thứ hai là sâu khoảng 22 m, và một phần ba thậm chí còn nông. Các MAARS có nhiệt độ nước hơi khác nhau. Chúng tôi đã có thể chạy lát cắt khác nhau với một echolot. GS Hương Vân Nguyễn đã sử dụng kỹ năng máy tính đồ họa của mình để thiết lập một bản đồ độ sâu colorized sơ bộ của cả ba hồ. Có một thermocline mạnh. nước sâu hơn là oxy cạn kiệt. echolot “cá cụ tìm” của chúng tôi đã không chỉ ra bất kỳ cá gần phía dưới. Các trầm tích là một, SAPROPEL đen cực kỳ hữu cơ giàu không có dấu vết của hydrogen sulfide. Khi nóng lên của trầm tích, một số bong bóng khí metan nhỏ exsolved. Jan sử dụng camera GoPro đi xem phim dưới nước trong coring. Các SAPROPEL cực kỳ nước giàu vẫn rất khó khăn để lõi với một catcher lõi truyền thống xuống độ sâu trầm tích của hơn 5 m. Nó chỉ đơn giản chảy trở lại ra khỏi catcher lõi khi bạn cố gắng để khôi phục lại một lõi. Chúng tôi ước tính hàm lượng nước tại 5 m đến 70%. Rất tệ! Những trầm tích maar rất khoáng đói. Khoan lỗ bên trong phần trên của liner lõi giúp một chút, nhưng vẫn còn chúng tôi không thể phục hồi một lõi dài hơn 0,5 m.
Đến sớm ...
Jan và Hương với một phao “hoàn hảo” được thiết kế cho một cái bẫy trầm tích.
Quan trọng nhất, có một mat vi khuẩn bao gồm các giao diện trầm tích / nước. Chúng tôi không thể nhìn thấy laminations dưới mat qua plexiglass vì trầm tích bôi quá nhiều trong suốt chuyến du lịch của mình lên và xuống lót cốt lõi. Các trầm tích được cách quá bở rời để cấu trúc chịu bất kỳ phương tiện giao thông. Chúng tôi đang lưu trữ lõi ngắn của chúng tôi thẳng đứng trong ngôi nhà của một ngư dân địa phương trong vài tháng tới. Với sự giúp đỡ của các ngư dân cùng và con trai ông, chúng tôi đặt một cái bẫy trầm tích với 3 khoang bộ sưu tập trên một neo đậu chung. Chúng tôi được đào tạo ngư dân để phục vụ cái bẫy và thu thập mẫu cho chúng ta trong một nhịp điệu 3 tháng.

Mực nước của MAARS nối liền với nhau dao động bởi một vài mét tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của mùa mưa.
Các vành miệng núi lửa xung quanh thỉnh thoảng bị cháy rừng. Chúng tôi thấy rất nhiều than và nhà máy bị cháy vẫn còn khi đi bộ xung quanh MAARS. Jan và Anrdt đang dùng một mẫu trầm tích từ một catcher lõi (được lưu trữ bên trong một ca. 8 mm rơm đường kính nhựa) với chúng tôi để Indiana, nơi chúng tôi có kế hoạch để sử dụng một asher plasma để xem liệu có bất kỳ nhịp điệu trong nội dung vô cơ trong màu đen trầm tích. Chúng tôi cũng có thể thử sử dụng tẩm epoxy và kính hiển vi. Dương cũng có một rơm ngắn từ catcher lõi tương tự và sẽ làm một số công việc khoáng vật so với một hồ sơ bazan phong hoá rằng cô lấy mẫu dọc theo một con dốc miệng núi lửa.
Trong những ngày còn lại chúng tôi đang có kế hoạch để đặt nền móng cho một đề nghị nghiên cứu Việt Nam (chính thức dẫn đầu bởi Giáo sư Hương) để thu hút vốn cho lặp lại coring và củng cố những nỗ lực Việt Nam đối với nghiên cứu maar paleoclimatic.
Làm việc ở đây là không phải không có rủi ro. Thuyền thuê là không thực sự an toàn. Khi làm một 'đá neo' từ bờ lên đoạn đường nối ọp ẹp của thuyền, Jan trượt, ngã, và cắt cằm trên kim loại sắc nhọn. Dương hỏi nơi một bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ đã có sẵn. Jan đã được đưa đến một bệnh viện quân đội Việt địa phương (mở cửa cho công chúng) và đã nhận được 6 mũi khâu chuyên gia với chi phí rất hợp lý chỉ 35 $ (bao gồm cả thuốc). Buổi tối cùng Anrdt đột nhiên cảm thấy vô cùng bệnh với đau bụng. Rõ ràng tối đã không đồng ý với hệ tiêu hóa của mình. Ông đã không đau đớn như vậy trong hơn 30 năm! May mắn thay, sau một vài tiếng đồng hồ đau đớn tất cả đã trở thành bình thường trở lại và Anrdt đã có một giấc ngủ ngon.
Bùn coring từ một hồ nước
Một lõi trầm tích đã được thu hồi từ một hồ nước.
Vào tháng 1 năm 2017
Chúng tôi có lõi trầm tích maar gần Pleiku, Việt Nam. Thiết kế mới “tự trị thiết bị cặn coring với một catcher lõi vận hành bằng khí” của chúng tôi làm việc tốt trong ca. 20 m maar sâu hồ. Một thiết kế thay thế bằng một bộ mở rộng của thanh kim loại đẩy một thiết bị coring vào lớp trầm tích mềm cũng cho thấy lời hứa. Chúng tôi có một nửa tá lõi trầm tích có khoảng 50 đến 70 cm chiều dài. Chúng tôi rất lạc quan rằng sự kết hợp của cả hai phương pháp coring sẽ mang lại vài mét của trầm tích từ các hồ maar khi chúng tôi sẽ quay trở lại thời gian tới.


Lần này đã có một lớp trầm tích khác nhau trên bề mặt đó là mịn và màu nâu đỏ trong màu sắc, rất giống với đất sét đã được rửa vào hồ trong mùa mưa gần đây. Bây giờ chúng ta đang ở cuối đuôi của mùa mưa. Chúng tôi đã chứng kiến ​​những rãnh sâu mà gần đây đã bị mai một cùng điểm của dòng theo mùa dọc theo chu vi của hồ maar. Jan thường triển khai GoPro dưới nước-camera trong coring. Chúng tôi chưa bao giờ thấy bất kỳ cá, mặc dù chúng ta đã thấy ngư dân sở thích với cực đánh cá đánh bắt một số loài cá từ vùng nước nông. Các lõi trầm tích thường có nước khá rõ ràng trên các trầm tích, vì vậy chúng tôi rất có thể quan sát các giao diện trầm tích / nước. Chúng tôi chưa bao giờ thấy bất cứ điều gì di chuyển trong nước và trong trầm tích. Không sâu, không có tuyến trùng.

Khi GoPro hậu duệ, đã có ánh sáng dồi dào có sẵn trong một thời gian cho đến khi có một sự chuyển tiếp nhanh chóng vào bóng tối trước khi nhấn bề mặt trầm tích. Arndt giải thích điều này như là một lớp nepheloid sâu mà đã không có đủ thời gian để giải quyết ra. Ngược lại, tháng 3 năm 2016 chúng ta đã có thể nhìn thấy bề mặt trầm tích với GoPro rất tốt trong thời gian coring. Tháng ba là cũng vào mùa khô khi chưa có bất kỳ ý nghĩa đối với một số thời gian. Ngoài ra, Mực nước tháng trong hồ maar là đáng kể dưới mức nước hiện hành.

Jan cũng đã có thể mất một vài lõi ngắn từ MAARS 'khô' trong khu vực, mà đang thực sự đầm lầy vào lúc này. Một maar đã có một, rất cứng, lớp tối xi măng giống như ở độ sâu chưa đầy một mét dưới lớp trầm tích mềm. Chúng tôi nghi ngờ đây là một lớp tephra diagenetically hardenend. Dương Nguyễn có một mẫu và sẽ tìm hiểu cách sử dụng các thành phần khoáng vật. Một lớp tephra nên có hàm lượng TOC rất thấp. Jan không thể xuyên thủng lớp. Trong một maar đầm lầy ông bị tấn công bởi đỉa và tặng rất nhiều máu. Chuyến đi lấy mẫu tiếp theo của chúng tôi để Pleiku sẽ cần phải cải thiện phục hồi cốt lõi của chúng tôi từ hồ maar khô. Có lẽ chúng ta thực sự cần thiết bị vibracoring.

Tất cả các lõi hiện nay tại Hà Nội trong bóng tối ở nhiệt độ phòng trong lót cốt lõi của họ.
13
Trầm tích thu thập trong vài tuần trong bẫy trầm tích.
16
bã khô từ nội dung của một cái bẫy thuộc về hồ trầm tích.

pubblications liên quan
  • Nguyễn-Văn, Hướng, Dương Nguyễn-Thùy, Jan P. Schimmelmann, Bernd Zolitschka, Thân Tạ-Văn, Nguyệt Nguyễn-Ánh, Phương Tạ Hòa, Dương Nguyễn-Thùy, Thắng Lê-Quyết, Quỳnh Nhi Phạm-Nữ, Vũ Huỳnh-Kim and Arndt Schimmelmann (2017) Exploring the paleoenvironmental potential of laminated maar sediment in central Vietnam: An archive of regional paleo-flooding? PAGES Zaragoza 2017 5th Open Science Meeting ”Global challenges for our common future – a paleoscience perspective”, 9-13 May, 2017, Zaragoza, Spain, Session #16: Multidisciplinary reconstruction of paleofloods, p. 325 in abstract book http://pastglobalchanges.org/osm2017/downloads/osm-abstract-book-zaragoza-2017.pdf.[Abstract PDF] [Poster JPEG]


Một tấm áp phích tại TRANG Zaragoza 2017 Hội nghị Khoa học mở 5 “Thách thức toàn cầu cho tương lai chung của chúng ta - một viễn cảnh paleoscience”, 09-ngày 13 tháng 5, 2017, Zaragoza
Khám phá tiềm năng paleoenvironmental trầm tích maar ép ở miền trung Việt Nam: Một kho lưu trữ của khu vực Paleo-lũ lụt?
Giới thiệu
toàn cầu ấm lên làm tăng độ ẩm không khí và có khả năng sẽ ảnh hưởng đến hệ thống gió mùa và tác động của bão ở Việt Nam. Thuộc về hồ trầm tích từ Biển Hồ hồ maar ở miền Trung Việt Nam là một kho lưu trữ lâu năm của sự xói mòn từ một lưu vực nhỏ mà đã được giới hạn ở phần bên trong của miệng núi lửa cho đến khi hai con đập được xây dựng trong 1978-1983 là thành lập một hồ chứa nước ngọt bổ sung trong Đông Bắc từ nơi nước lũ đục và giàu dinh dưỡng thường xuyên vào hồ maar.
Lịch sử địa phương kết tủa và thống kê
Có sẵn hồ sơ công cụ ngắn từ Pleiku chỉ ra một mô hình theo mùa gió mùa mưa với đỉnh điểm vào tháng Tám, cũng như biến trình mạnh gây thỉnh thoảng lũ lụt và hạn hán.
Coring sơ bộ của các trầm tích
lõi trầm tích thăm dò ngắn được lấy ra từ các bộ phận sâu và nông cạn. Một mat vi khuẩn đã được 'quăn lên' trên bề mặt trầm tích tháng 3 năm 2016 (trên cùng bên phải). Các trầm tích trên cùng trong tháng một năm 2017 là một lớp đất sét lũ màu nâu đỏ rất hợp với các trầm tích bị xói mòn tươi tại sill lan toả ở góc NE của maar (phía dưới bên phải). Lõi trầm tích và môi trường sinh vật đáy ở phần sâu của maar không đưa ra dấu hiệu cho bioturbation.
Post-đập trỗi dậy của mức hồ và trồng rừng
Hình ảnh từ những năm 1960 cho thấy tiếp xúc với ruộng bậc thang ở mực nước thấp trong SE phần nông của maar (ví dụ, xe tải quân đội Mỹ, 1967). Mực nước tăng một vài mét sau khi xây dựng các đập ca. 1980. Tái trồng rừng và bảo vệ cải thiện vành của maar sau năm 1990.
lõi ngắn đề nghị nhiều lớp bùn đất
Các biệt topmost 2017 lớp lũ đất sét có một ranh giới thấp sắc nét. Kaolinit, goethite, và groutite là những sản phẩm phong phong phú của đá núi lửa. Thành phần nhỏ là hydrozincit, witherite, và plagiocla. Canxi cacbonat là hiếm hoặc không có. Khoảng thời gian với trầm tích thô có thể liên quan đến lũ lụt năm, ví dụ, năm 2009 cơn bão nhiệt đới 'Ketsana' và 1996 lũ lụt ở miền Trung Việt Nam. 210 Pb và  137Cs lứa tuổi là cần thiết để kiểm tra giả thuyết của chúng tôi.
Mảnh bom thép tại ~ 13 cm chiều sâu có thể hẹn hò với chiến tranh Việt Nam trong năm 1970. Sự suy giảm tương đối mạnh trong sự phong phú của tảo cát tại ~ 18 cm chiều sâu có thể xuất phát từ pha loãng bằng khoáng chất trong xói mòn tăng cường.
Phần trên cùng của một laminae khô và ngoại biên thái lát tài liệu cốt lõi mà đang bị tổn hại một phần do xáo trộn gần lót cốt lõi. Lớp đất sét 2017 có một màu sắc riêng biệt và ranh giới sắc nét trong một lưu trữ anoxically, top lõi ướt.
Dữ liệu sơ bộ phấn hoa ở độ phân giải 2-cm cho thấy một sự gia tăng thông phấn hoa (màu tím) trong trầm tích trên do trồng rừng. Sự xuất hiện của phấn hoa cà phê (màu đỏ) gần bề mặt đồng ý với sự lây lan gần đây của các đồn điền cà phê gần đó.
Kết luận
tài liệu lưu trữ trầm tích ở trung tâm MAARS của Việt Nam có khả năng mở rộng từ Anthropocene sâu vào Pleistocen. Maar hồ với nước đáy suboxic có thể cung cấp được bảo quản tốt và độ phân giải cao nhiều lớp trầm tích với thông tin paleoenvironmental, trong đó có một kỷ lục của các lớp lũ. Một số trầm tích có thể được varved. Các ảnh hưởng anthropogenically vài thập kỷ cuối cùng của lịch sử hồ có thể cung cấp bằng chứng-of-concept khi giải thích lớp lũ trước đó của thành phần tương tự. Tương tự như vậy, những nỗ lực tái trồng rừng gần đây xung quanh rim maar miệng núi lửa của đưa ra một trường hợp thử nghiệm để đánh giá phản ứng phấn hoa trầm tích để thay đổi môi trường nhanh chóng. Ngoài Biển hồ Hồ Maar, khu vực này cung cấp nhiều MAARS khác với hồ sơ trầm tích giá trị tiềm năng.
Nguồn: 

http://eosvnu.net/projects/paleoclimate

                                         Biển Hồ Pleiku


Trên cao nguyên cách mặt biển gần ngàn mét, vậy mà có được cái Hồ như thế, quả là ông trời có mắt, Pleiku không có Biển Hồ thì trống vắng biết chừng nào. Bởi vậy ta có thể nói Biển Hồ là Mắt cao nguyên, là bà Mẹ dịu dàng từ ái mở rộng vòng tay ôm tất cả những đứa con nóng bức vào lòng.
Với tôi: Tình và cảnh Biển Hồ ( Hồ Tơ Nưng ) tựa như trái cam để trong lòng bàn tay. Muốn nói gì viết gì mà chẳng được, dễ như ăn ớt. Ấy vậy mà hơn ba mươi năm, bây giờ mới viết về Biển Hồ. Tôi sinh trưởng xóm Trại Mộ, nhà cách bờ Biển Hồ khoảng cây số. Tuổi thơ, thơ thẩn rong chơi quanh Hồ nên thuộc lòng từng chỗ: Chỗ này là nhà nghỉ mát của ông chủ Tây, chỗ kia là nhà bà Nâng, người đàn bà không biết chữ, chỉ biết bán cá Biển Hồ, vậy mà làm chấn động tâm hồn của người dân quanh Biển Hồ một thuở . Chỗ nọ là thuyền đắm học sinh chết, tôi thuộc lòng vị trí của từng hòn đá lớn đá nhỏ nằm quanh Hồ, mỗi khi Hồ cạn nước ( Hồ có khi đầy khi vơi tùy theo mùa mưa nắng) .
Tâm lý con người  hay coi thường cái gì có trong nắm tay, tầm tay, khi vuột mất rồi mới hối hận, mới nuối tiếc, mới thấy nó quý giá, mới thấy nó đẹp. Phong cảnh Biển Hồ đối với cư dân quanh vùng thì chẳng có gì đáng nói, đáng bàn, bởi họ đã nhìn thấy hằng ngày,lờn cảm xúc, với lại họ nhìn bằng đôi mắt thường, nên khi thấy cái gì thì chỉ thấy một cái, nhìn núi thì thấy núi, nhìn mây thì thấy mây, nhìn nước thì thấy nước, nhìn thông thì thấy thông, cái thấy tách bạch ra từng món như vậy nên không thấy Biển Hồ đẹp. Phải nhìn Biển Hồ trong tổng thể vừa nêu( núi,mây, thông,nước)  mới thấy Biển Hồ đẹp.   Đẹp với những người đã từng có những kỷ niệm với Biển Hồ, bây giờ ly hương xa xứ, trong cõi nhớ của họ Biển Hồ đẹp như một bức tranh, như một cõi tiên mà văn nghệ sĩ đã mô tả. Nhưng Biển Hồ đẹp nhất vẫn là đẹp trong những bài viết của giới văn nghệ sĩ, tâm hồn họ quá nhạy cảm,quá bao la nhìn cảnh vật như một cái máy thu hình nên bao quát tất cả hình ảnh, âm thanh, cọng với lời văn điêu luyện trong sáng thơ mộng, thêm một chút tưởng tượng nữa nên Biển Hồ càng thêm thơ mộng, trữ tình, huyền thoại, tràn ngập tiếng chim đủ loại, tràn ngập hoa, tràn ngập cá, cá lội nhởn nhơ từng đàn, vựa cá cung cấp cho cả tỉnh, hoa sen hoa súng trên nở trên mặt hồ….khiến cho ban biên tập Bách khoa toàn thư mở Wikipedia phải e dè nói rằng những tin nầy chưa được kiểm chứng (http://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%93_T%27N%C6%B0ng).
Biển Hồ năm nào cũng có người chết, có năm chết nhiều có năm chết ít, có năm 6 cháu học sinh học lớp 12, nghỉ ôn thi rủ nhau chơi Biển Hồ và cùng chết một lúc vì thuyền lật. Năm 2007 chùa chúng tôi có thiết lập đàn tràng vớt vong siêu độ cho những người chết tại Biển Hồ: Xin đăng tải lại bài văn khấn nguyện khi cúng rước vong về chùa.

LỜI KHẤN NGUYỆN THỈNH LINH CHẾT NƯỚC Ở BIỂN HỒ NƯỚC
Kính thưa liệt vị hương linh !
Chúng tôi Tỳ Kheo Thích Giác Tâm thay mặt cho 03 gia đình Phật tử :
PHƯƠNG XUÂN TÙNG - LÊ VĂN SANG - LÝ THỊ THUỲ TRANG  cùng người thân của liệt vị và tất cả quý phật tử xa gần góp công góp sức kiến lập đàn tràng ngày 10 - 11 tháng 04 âm lịch, Đinh Hợi - 2007 tại chùa Bửu Minh, xin có vài lời thưa đến liệt vị .
Quý liệt vị đâu có muốn mình chìm đắm và nằm nơi biển cả, nhưng rồi nghiệp lực dắt lôi, các vị đã bơ vơ đói lạnh suốt những tháng năm dài trong lòng biển cả.
-Trong các vị có người vì vợ vì con phải mưu sinh trên biển cả, gió to thuyền lật các vị đã không còn hiện hữu ở cõi đời.
-Trong các vị có người khổ đau chồng chất, oan khuất không giải bày được, hoặc bất đắc chí trên đường công danh sự nghiệp, hoặc bị phụ tình đã tìm đến biển cả để tự huỷ mình .
-Trong các vị có người còn rất trẻ, là những nhân tố tốt đẹp cho tương lai của gia đình và đất nước, trong ngày vui, trong đêm vui có những hoan lạc bất ngờ đã tìm đến biển để vui với biển. Biển vốn bao dung nhưng vẫn có những cơn thịnh nộ bất ngờ, thế là các vị lại bị kéo lôi vào lòng biển cả, dang dở con đường công danh sự nghiệp .
-Trong các vị có những người chỉ biết sợ lửa, luôn tránh xa lửa, bởi vì tánh lửa luôn nóng, luôn Dương. Nhưng lại rất thích gần nước, không sợ nước, bởi vì tánh nước vốn lạnh, vốn Am , mát dịu dễ gần gũi, các vị đã buông thả dễ duôi coi thường nên sẩy bước sa chân chìm đắm .
Chúng tôi đã đánh mất các vị, luôn nghĩ đến các vị từ những ngày các vị chìm đắm, nhưng maĩ đến hôm nay, nhờ Tâm Bồ Đề của 03 gia đình Phật tử : Phương Xuân Tùng-Lê văn Sang-Lý thị Thuỳ Trang trợ duyên cho chúng tôi, chúng tôi mới thiết lập đàn tràng được để cầu siêu cho liệt quý vị.
Hôm nay là ngày mồng 10 tháng 04 âm lịch, chúng tôi là những người con Phật với tấm lòng thành sắm sửa hương hoa phẩm vật trần thiết bên bờ hồ mà những ngày trước đây quý liệt vị đến để bỏ thân mạng mình. Nương vào pháp phật cung kính thỉnh hương linh của quý liệt về tại đàn tràng chùa Bửu Minh, thôn 01 Xã Nghĩa Hưng, huyện Chưpăh Tỉnh Gia Lai mà thính pháp nghe kinh, tham dự hội vô giá, thọ hưởng cam lồ pháp vị. Trượng thừa công đức mà siêu thăng chuyển hoá vào cảnh giới cực lạc của Đức Phât A Di Đà đời đời an vui không còn đau khổ .
NAM MÔ TIẾP DẪN ĐẠO SƯ A DI ĐÀ PHẬT

(Niệm Phật tiếp dẫn chư hương linh chết nước về tại đàn tràng chùa Bửu Minh)

Tôi vừa cỡi xe HonDa đi thăm Biển Hồ về để viết, Biển Hồ mà tôi thấy, tôi quan sát khác nhiều lắm so với các bài viết về Biển Hồ đăng ở các trang mạng. Biển Hồ của tôi dễ thương nhất là không khí, không khí trong lành. Hơi nước của 230 hecta mặt Hồ bốc lên, cùng với rừng thông trồng quanh Hồ ta cảm nghe như đây là trời Đà Lạt. Trái đất mỗi ngày mỗi nóng lên, thời tiết khí hậu của Pleiku-Gia Lai hiện nay so sánh với  vài chục năm về trước khác nhiều, nóng lắm. Cái mát của Biển Hồ toả ra khiến cho tâm hồn của cư dân Pleiku dịu đi rất nhiều . Trái đất  nóng hừng hực, cuộc sống của con người thời nay cũng nóng theo, ăn uống sinh hoạt toàn đồ nóng, ( Dương ) nên dương thái quá. Hơn lúc nào hết, con người muốn trở về với thiên nhiên, với mát dịu, nhu nhuyễn, thanh lương ( Âm ) Khách thập phương đến với Biển Hồ hóng mát, nghỉ chân, thư giản, là muốn tìm lại thế quân bình nội tại. Trên cao nguyên cách mặt biển gần ngàn mét, vậy mà có được cái Hồ như thế, quả là ông trời có mắt, Pleiku không có Biển Hồ thì trống vắng biết chừng nào. Bởi vậy ta có thể nói Biển Hồ là Mắt cao nguyên, là bà Mẹ dịu dàng từ ái mở rộng vòng tay ôm tất cả những đứa con nóng bức vào lòng.

Biển Hồ trong ký ức của tôi
bienhopleiku-internet_600
Biển Hồ( Nguồn: internet)
 Nhắc lại lần nữa: Tôi sinh và lớn lên tại xã Biển Hồ. Trước năm 1975, bà con thành phố Pleiku ( hồi đó là Thị Xã ) gọi khu vực Biển Hồ ( Hồ Tơ Nưng) là Biển Hồ nước. Gọi khu vực nhà máy chè Biển Hồ, chùa Bửu Minh là Biển Hồ Trà. Biển Hồ Trà và Biển Hồ nước liền kề nhau, tuổi thơ tôi, ngoài giờ học luôn tha thẩn chơi quanh Biển Hồ, Biển Hồ của tuổi thơ tôi rất đẹp, bờ Hồ thoai thoải có nhiều loại đá hình dáng khác nhau , nằm rải rác đó đây, ta có thể ngồi trên những tảng đá đó chụp hình. Xung quanh bờ hồ có rất nhiều cây trâm, trâm trâu, trâm sẻ, tuổi thơ của chúng tôi không thích gì hơn là thích trâm. Rồi đến khi làm đoàn sinh GĐPT thì thỉnh thoảng lại cắm trại ở Biển Hồ. Có nhiều kỷ niệm không thể nào quên được. Nhắc đến Biển Hồ là tôi nhớ đến một người đàn bà trên 50 và dưới 60 tuổi tên Nâng, không biết chữ, không ai biết tên họ bà, chỉ biết bà từ Quy Nhơn lên Biển Hồ lập nghiệp( từ thời còn chủ Pháp, khoảng năm 1943-1944) bà cùng hai người con trai làm một căn nhà tạm ở cạnh bờ hồ, dưới tán một cây Da. Hai người con trai làm nghề biển đánh cá, phần bà đem cá đi bán. Hồi đó chỉ mỗi mẹ con bà đánh cá bắt cá ở Biển Hồ, cá nhiều vô số kể, cá lóc cá chép và nhiều nhất là cá bà rãi, cá bà rãi nhỏ, dài khoảng 2-4 cm màu trắng bạc, lúc nhỏ mẹ tôi có mua kho tiêu, không có loại cá  nào ngon bằng ! Bây giờ thì giống cá này đã không còn nữa. Anh con trai đầu tên Bê,anh con thứ tên Xê, anh Bê ngoài cái tài đánh cá anh đi săn rất giỏi, anh vô rừng, vô núi nhìn dấu vết trong cỏ biết con gì vừa đi qua và lần theo dấu, nếu cọp thì né tránh, còn nai, chồn, thỏ , heo rừng thì truy đuổi đến cùng, và không con vật nào thoát được tay anh. Chỉ buôn bán cá mà bà Nâng nổi tiếng mới lạ, dân trong vùng gọi bà bằng bà, tỏ vẻ kính trọng. Kính trọng vì tính hào phóng của bà, mua một ký bán ký mốt ký hai, xe Lam ba bánh chở cá của bà qua thị xã bán, tiền xe 10 đồng bà trả 15 đồng,vân vân. Bên cạnh bờ Hồ có một nhân vật thứ hai được kính trọng đó là ông Lâm Phan, hoa kiều. Ông làm giám đốc đồn điền Trà Biển Hồ  (từ năm 1964 -1975) có đức tin nơi Đạo Phật và giúp đỡ chùa Bửu Minh  nhiều mặt. Ông rất thương công nhân và quản lý đồn điền Trà như ngưòi cùng một giòng tộc làm chung, sống chung với nhau, bà con xã Biển Hồ và công nhân hái trà gọi ông là ông chủ (bởi họ nghĩ họ là tôi tớ) tất cả xưng hô với ông bằng  ông chủ và xưng con. Bà Nâng bắt được con cá nào ngon thì đem biếu tặng ông, ông cũng rất quý bà. Thỉnh thoảng kẹt tiền bà có mượn ông, có khi mượn vàng nữa. Lúc trả, trả rất xộp, mượn một trả hai, trả và nói rất khéo nên ông Lâm Phan nhận. Tính hào phóng chơi đẹp của bà đã lan ra rất xa, bà được nhiều người ngưỡng mộ. Luôn cho bà mượn tiền, mượn vàng mỗi khi bà cần. Năm cưới vợ cho anh Bê bà đi về Quy Nhơn rước dâu bằng máy bay, cả làng Biển Hồ tôn vinh bà như một đại gia chơi sang ẩn mặt, cứ nói nhỏ với nhau bà này có của kín.
 Một năm nọ bà đi thăm từng người quen, những người đã từng cho bà mượn vàng, thăm ông Lâm Phan và hỏi mượn vàng ( số vàng rất lớn) ai ai cũng cho bà mượn, bởi tin chắc rằng khi bà trả mình sẽ có lãi lớn, cho bà mượn với tâm trạng hoan hỷ hả hê vô cùng.
Đùng một cái, một hôm ba mẹ con biến mất, để lại cái chòi tranh bên cạnh cây Da, sóng vỗ nhấp nhô dưới chân chòi, không ai biết ba mẹ con bà đi đâu. Hồi ức lại chuyện này không phải để nói xấu bà, con cháu bà hiện nay kẻ còn người mất như thế nào, ở đâu, ở nơi nào trên trái đất, thành đạt hay khổ sở? Khi tình cờ đọc những dòng này xin đừng trách tôi, tôi chỉ thuật lại những gì mà bà con làng Biển Hồ kể lại, về một người đàn bà làm cá bán cá mà nổi tiếng. Phúc đức tại mẫu, tôi sợ đời con bà cháu bà không sung sướng, bởi vì bà,  đã không để lại âm đức cho con cháu mình.
Tôi viết bài này để tái hiện một chân dung. Ngàn năm trước con người vẫn thế, ngàn năm sau con người vẫn thế. Bị lừa đẹp,nhưng không biết kiện tụng với ai, âm thầm dấu chồng dấu vợ, cười cười nói nói mỗi khi ai hỏi:” có cho tiền bà Nâng mượn không, không có đâu chị ơi, tôi biết bả quá mà, ai dại gì” Đức Phật ơi ! Không ai dại hết chỉ tại con ma tham nó xúi dục thôi.

Pleiku, tháng 2, năm canh dần
Thích Giác Tâm

MUA BÁN VÀ SÁP NHẬP QUÁ TRỚN LÀ TRÒ CHƠI NGU NGỐC DẪN ĐẾN MẤT THỊ TRƯỜNG NỘI ĐỊA

Phương Thơ-Tạp chí Kinh tế-Tài chính-Chứng khoán
                                                                             Thứ Tư, 13 tháng 12, 2017
MUA BÁN VÀ SÁP NHẬP QUÁ TRỚN LÀ TRÒ CHƠI NGU NGỐC DẪN ĐẾN MẤT THỊ TRƯỜNG NỘI ĐỊA
Đây là bài cũ đã nhiều năm rồi, và nó vẫn còn nguyên giá trị cảnh báo cho VN, khi quốc gia này đang điên cuồng "cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước", thực tế là nhà nước này đang bán mọi thứ, còn tư nhân thì "bán thương hiệu chỉ vì vài nắm đô la".
Như tôi đã phân tích khá lâu về hoạt động M&A đi quá trớn tại VN. Ta nên nhớ dân số Việt Nam đang là dân số rất trẻ, hiện nay sự đổ bộ ồ ạt tham gia của các doanh nghiệp nước ngoài thâu tóm các thương hiệu tiêu dùng của VN, điều đó cũng có nghĩa thị trường tiêu dùng trong nước của các doanh nghiệp VN đang đối mặt thách thức nghiêm trọng và "đánh mất chủ quyền trong thời bình".
Hậu quả nhãn tiền trước mắt là chính phủ VN mất đi nguồn thu thuế, và mất kiểm soát giá cả, khi mất đi thứ này thì nhà nước sẽ tăng thuế vào thứ thiết yếu của người dân, như điện nước, xăng dầu, phí giao thông đường bộ, thuế thu nhập cá nhân,...để bù vào nguồn thu thuế thiếu hụt cho ngân sách cũng như trả nợ nước ngoài.
Những thập kỷ trước, VN có những tên tuổi đình đám như thương hiệu: Kem đánh răng Dạ Lan, P/S, hay thương hiệu nước giải khát Tribeco từng nổi danh, còn có hương hiệu điện tử Viettronic, bia Huda Huế,... tất cả mọi thứ đã bán mình cho những tập đoàn mà mãnh ngoại quốc chiếm lĩnh thị trường tiêu dùng VN với cái giá rẻ mạt,...hậu quả dẫn đến doanh nghiệp tư nhân VN mất ý chí sáng tạo. Nếu như thương hiệu VN bán được 10 đồng thì doanh nghiệp nước ngoài chiếm linh thị phần sẽ thu về triệu đồng, nhà nước thất thu ngàn đồng tiền thuế,...
Nếu như hương hiệu điện tử Viettroniccòn tồn tại nếu nó được nuông chiều nâng đỡ tín dụng như các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản và được hỗ trợ của chính phủ VN thì bây giờ VN có lẽ đã có một thương hiệu điện tử, viễn thông "có phẩm chất", hoặc dã tạo ra được những sản phẩm điện thoại, ti vi thông minh giá rẻ chất lượng không kém gì nhãn hiệu non trẻ như: Xiaomi, LeTV, Coolpad, Huawei,...mà TQ đang chiếm lĩnh thị trường VN.
Điều tồi tệ là chính phủ VN có thể chi ra hàng chục hay hàng trăm triệu USD cho đám dư luận viên, tuyên truyền viên gọi là "bút chiến trên mạng" dốt nát tuyên truyền gây hiệu ứng ngược, thay vì học tập như Hàn Quốc, Đài Loan, TQ, kể cả Nhật,...khi chính phủ các nước này thấy ra tiềm năng một doanh nghiệp sẽ có ảnh hưởng đến thị trường và hỗ trợ kịp lúc như miễn thuế, khuyến khích sáng tạo, "bơm thêm tiền hùn mang tính biểu tượng", để khuyến khích tinh thần sáng tạo thì ở VN nó bị bỏ rơi. Điều này nó giải thích phần nào tại VN không có một nhãn hiệu nào ra trò cả, dù quốc gia này có nhiều người giỏi chạy ra nước ngoài, nhất là chạy sang Mỹ có đầu óc sáng tạo nhiều nhất về khoa học.
Hiện nay, tại VN các hoạt động M&A gần đây bắt đầu rộ lên. Thị trường này đang ở trong giai đoạn khó khăn, và nhiều doanh nghiệp VN vì ham tiền mà bán đi các thương hiệu đang được định giá rất thấp, nếu không muốn nói là rẻ mạt. Những tập đoàn đa quốc gia Âu châu, Mỹ, Nhật, lẫn những công ty cò con đến từ Thailand đã nhân cơ hội này nhảy vào thị trường VN thôn tính các doanh nghiệp VN. Và có vẻ như tại VN, người ta bán mọi thứ khi thấy tiền là hoa mắt. Tất nhiên, ta không bàn đến những thương vụ M&A có lợi các tập đoàn đa quốc gia trên thế giới, mà chỉ nhắc đến cái nguy hiểm khi các thương vụ M&A đi quá trớn mất kiểm soát.
Năm xưa tôi có phân tích trò bịp bợm của "Siêu dự án lọc hóa dầu 27 tỷ USD sắp khởi động tại VN" của Tập đoàn dầu khí Thái Lan (PTT) khi muốn thâu tóm hay liên doanh với VN về các dự án lọc dầu vĩ cuồng, thay vì những dự án này chỉ có đại công ty nhà nước Aramco của Saudi Arabia là dầu lớn nhất thế giới sản xuất mới đủ năng lực thực hiện nó, hay các đại công ty Mỹ, Anh, Hà Lan như: Exxon Mobil (Dow Jones: XOM), Chevron (Dow Jones: CVX), ConocoPhillips (NYSE: COP), BP plc (NYSE: BP), Royal Dutch Shell (RDS.A), BP plc (NYSE: BP),...mới đủ tiềm lực tài chính và công nghệ khi bỏ ra 27 tỷ USD chứ không phải 27 tỷ Baht Thailand. Đó là bởi vì khi phân tích tiềm lực tài chính và giá chứng khoán công ty PTT này của Thailand, đó là công ty vốn ít nợ nhiều, giá cổ phiếu bong bóng.
Điều phũ phàng là dự án này bị im lặng khi giá dầu sụt giảm, giá cổ phiếu công ty PTT này rất ít bị biến dạng về vốn hóa, nó một mớ bong bóng chỉ giỏi múa mép lừa được mớ "giáo sư tiến sĩ kinh tế giấy" thiếu kinh nghiệm tại VN. Công ty PTT này đã từng bị Morgan Stanley (NYSE: MS) loại ra nhiều dự án lọc dầu tại Á châu, và từng bị Aramco của Saudi Arabia đuổi cổ khỏi Nam Mỹ vì thiếu kinh nghiệm.
Thật bất hạnh, hành vi mua bán sáp nhập này rất ít chuyên gia kinh tế ở VN chưa hiểu rõ, trò chơi M&A yếu tim này, nếu VN không tỉnh táo sẽ đánh mất mọi thứ về chủ quyền thương hiệu. Công thức đơn giản đưa đến sự mất chủ quyền thương hiệu vào tay các công ty nước ngoài kiểm soát một số thị phần hoặc toàn phần thị trường của doanh nghiệp VN đã gầy dựng và sẽ đánh mất luôn thị trường nội địa, dẫn đến chính phủ mất luôn nguồn thu thuế cho ngân sách.
Hãy nhớ rằng, nếu việc mua bán sáp nhập, khi có quá nhiều doanh nghiệp của VN trở thành kẻ bị thâu tóm bởi các tập đoàn đa quốc gia nắm giữ áp đảo về sở hữu thương hiệu hay cổ phần. Điều đó có nghĩa là vì lý do nào đó nền kinh tế VN tăng trưởng trì trệ chậm lại, và chính phủ cần tung ra các biện pháp để chặn đà suy giảm và kích thích kinh tế. Cụ thể, các biện pháp tín dụng là hạ lãi suất và bơm tiền cho vay, hoặc ngân sách là tăng chi hay đặc biệt là giảm thuế.
Khi ấy, kích cầu chỉ là biện pháp nuôi béo các đại gia công ty nước ngoài được hưởng lợi và phí tổn của biện pháp đó thì người khác phải gánh qua nạn bội chi ngân sách, hoặc đóng thuế, hay lạm phát lại là người dân, chứ doanh nghiệp của VN không được hưởng ưu đãi nào cả, vì có còn thương hiệu nào đâu mà được hưởng kích cầu. Đó là bài học khi các doanh nghiệp VN đang lạc quan tếu khi bị doanh nghiệp nước ngoài thâu tóm quá nhiều qua các thương vụ M&A này mà người ta còn "khoe thành tích".
Đây là công thức đơn giản đưa nền kinh tế lao xuống vực nhanh hơn khi vì lý do nào đó nền kinh tế cần dựa vào tiêu dùng nội địa để nâng đỡ cho thiếu hụt xuất khẩu bên ngoài gặp khó khăn. Bài học đắt giá như trường hợp Venezuela, khi quốc gia này chẳng có bất cứ thương hiệu nào ngoài dầu khí. Việc chính quyền của Tổng thống Nicolás Maduro, tại Venezuela khi kích cầu nội địa thì chả tìm thấy một doanh nghiệp nào trong nước, và hoàn toàn bị chi phối bởi nước ngoài, nên mọi biện pháp kích cầu đều vô tác dụng. Các quốc gia khác có thành tích vỡ nợ cũng vậy, họ bán hết mọi thứ thương hiệu, và sau này trả giá đắt là không tránh khỏi.
Tại Mỹ, hay Canada, Nhật,...và các nước tiên tiến khác các doanh nghiệp có liên quan đến tiêu dùng có chi phối đến cuộc sống hàng ngày của người tiêu dùng trong nước, thì các chính phủ đều hạn chế tối đa các công ty nước ngoài nhảy vào qua các thương vụ M&A này. Ở VN thì đang làm ngược lại !
(*) VN hiện nay đang điên cuồng bán mọi thứ, cái gì có giá bằng USD là bán không còn thứ gì thì thật đáng ngại. Kết quả đất nước này người lao động sẽ làm thuế ngay chính đất nước họ.
Phuong Thơ-Tạp Chí Kinh tế, Tài chính, Chứng khoán vào lúc 20:42

Thứ Năm, 14 tháng 12, 2017

CHÂN DUNG "KẺ XÂM LƯỢC"




(Copy 03/08/2017anle20)
                                                                 Tướng MacArthur.
                                                                  Bùi Đức Thịnh 

MacArthur đến Nhật vơi đôi bàn tay đẫm máu người Nhật. Khi MacArthur rời Nhật về Mỹ, từ nơi dinh phủ ông ở đến Sân bay Atsugi có hàng triệu người Nhật đứng hai bên đường đưa tiễn. Đoàn xe hộ tống đi qua những hàng nước mắt cùng tiếng hô vang dậy của người dân Nhật: Đại nguyên soái! MacArthur được người Nhật vinh danh là 1 trong 12 danh nhân nước Nhật mọi thời đại.
Bị đánh bom nguyên tử, vì sao người Nhật lại cúi đầu kính trọng tướng Mỹ?
Năm 1942 tướng MacArthur dẫn đại quân tấn công Nhật Bản, từ Melbourne đánh thẳng đến Tokyo, hai tay nhuộm máu người Nhật Bản. Vì thế người Nhật hận ông thấu xương.
Chiều ngày 30/8/1945, tướng quân MacArthur ra khỏi máy bay và đặt chân lên đất Nhật, cho dù ông không mặc quân phục và không mang theo vũ khí gì, cũng không có người tổ chức duyệt binh, nhưng thời khắc đó với 70 triệu người Nhật Bản là thời khắc kinh hoàng mà họ không thể quên, trong tâm trí mọi người chỉ còn nghĩ được hai chữ “mất nước”.
Nhưng tướng MacArthur mang quân đến hòa bình, chính nghĩa, khoan dung và dân chủ.
Nền kinh tế Nhật Bản sau chiến tranh rơi vào suy sụp, đến bữa trưa của Nghị viên Quốc hội cũng phải ăn cơm trộn khoai lang, cái đói bao phủ khắp nơi. Lúc này tướng MacArthur gây áp lực khiến chính phủ Mỹ phải hỗ trợ Nhật Bản, thế là 3,5 triệu tấn lương thực và 2 tỷ Mỹ kim tức tốc được gửi đến Nhật. Ông không chỉ giữ lại chính quyền Nhật Bản mà còn đặc xá cho Thiên hoàng, thậm chí còn quan tâm đến số phận của từng người lính bình thường của Nhật Bản, giúp họ tìm con đường sống.
Theo sau ông, 400 nghìn lính Mỹ đã dùng thiện ý và tinh thần hy sinh để chinh phục người Nhật Bản. Khi đó các con hẻm trong thành phố của Nhật rất chật hẹp, một người Nhật bình thường và một người lính Mỹ to lớn nếu gặp nhau cũng khó để đi qua, vì thế thường thì người lính Mỹ sẽ nép vào một bên cho người Nhật đi trước. Người Nhật không thể không băn khoăn tự hỏi, nếu mình là kẻ chiến thắng thì có làm được như thế không?
Sau khi tướng MacArthur đến Nhật Bản, ông lập tức ra lệnh thả tội phạm chính trị, trong đó có rất nhiều Đảng viên Cộng sản, bị chính phủ Nhật bắt giam trong thời gian dài.
Ngày 25/8/1945, quân chiếm đóng của Mỹ cho phép phụ nữ Nhật thiết lập tổ chức của mình; tháng 9 cho công bố Dự luật về vai trò trong bầu cử của phụ nữ Nhật Bản; đây là lần đầu tiên trong lịch sử Nhật Bản, phụ nữ được quyền bầu cử và ứng cử.
Lúc này tại Tokyo có cô kỹ nữ được chọn làm Nghị viên thành phố, nhiều thị dân cảm thấy khó chấp nhận. Nhưng tướng MacArthur nói, mọi người chọn cô ấy để cô ấy phục vụ mọi người, đừng vì cô ấy là kỹ nữ mà kỳ thị bỏ qua. Khi đó mọi người chợt hiểu người được chọn trong bầu cử dân chủ phải là người thay mặt để vì mình làm việc, thế là sau khi hiểu ý nghĩa vấn đề họ đã quyết định chọn bầu cô kỹ nữ kia. Kết quả sau khi trở thành Nghị viên, cô đã không phụ lòng mọi người, làm được rất nhiều việc có ý nghĩa.
Vào ngày 11/10/1945, tướng MacArthur tuyên bố bỏ lệnh cấm báo chí, Nhật Bản được tự do thông tin và tự do ngôn luận.
Ngày 22/12/1945, ban hành “Luật Công hội”, giai cấp công nhân thực sự có tổ chức của mình. Ngày 1/9/1947, ban hành “Luật lao động”, quy định tiêu chuẩn tiền lương thấp nhất và thời gian làm việc nhiều nhất.
Ngày 3/2/1946, tướng MacArthur chỉ thị cho Tổng bộ Liên minh khởi thảo Hiến pháp Nhật Bản. Chính phủ Mỹ truyền đạt nguyên tắc chế định Hiến pháp cho tướng MacArthur là: Chính phủ Nhật Bản phải do toàn thể cử tri trao quyền và phải chịu trách nhiệm trước toàn thể cử tri. Ngày 3/5, quân liên minh giao ra Bản dự thảo Hiến pháp. Ngày 7/10, Quốc hội Nhật Bản thông qua Hiến pháp. Ngày 3/11, Thiên hoàng cho ban hành Tân Hiến pháp.
Đây là Hiến pháp do kẻ chiếm lĩnh chiếu theo giá trị quan phương Tây áp đặt cho kẻ bị chiếm lĩnh, nhưng lại là bản Hiến pháp đem lại phúc lợi cho nhân dân quốc gia bị chiếm lĩnh. Bản Hiến pháp nhấn mạnh quyền lợi công dân cơ bản của người Nhật Bản, xem những quyền lợi này là “quyền lợi trời cho mà không ai có quyền tước đoạt”. Những quyền này bao gồm: quyền bầu cử, lập hội và tự do xuất bản; không có sự tham gia của luật sư thì không được định tội; bảo đảm quyền cư trú an toàn cho dân, cấm kiểm tra và tước đoạt vô cớ.
Ngày 21/10/1946, Quốc hội đã thông qua “Luật Cải cách ruộng đất”. Chính phủ Nhật Bản mua lại đất đai dư thừa của giới địa chủ, sau đó bán đất lại cho nông dân không có ruộng. Với những nông dân không có tiền mua đất, chính phủ cho vay thế chấp. Tất cả diễn ra không đổ một giọt máu, một mạng người, những người nông dân ai nấy đều có được một phần đất cho mình.
Ngày 31/3/1947, ban hành “Luật Giáo dục”. Theo đó mục tiêu hàng đầu của giáo dục là “tôn trọng sự tôn nghiêm của cá nhân, bồi dưỡng cho mọi người có lòng nhiệt huyết vì chân lý và hòa bình”. Trường học của Nhật Bản không còn nằm trong kiểm soát của chính phủ mà là do Ủy ban Giáo dục do dân chúng bầu ra quản lý. Việc chọn lựa nhà giáo, sách học và bố trí chương trình hoàn toàn do người dân tự chủ quyết định.
Năm 1952, quân chiếm đóng Mỹ trả chính quyền về cho chính phủ Nhật Bản. Sau 7 năm chiếm đóng, người Mỹ cải cách triệt để con đường phát triển của Nhật Bản, chủ quyền quốc gia từ trong tay kẻ chuyên chế trao lại cho người dân Nhật Bản, những tiền đề tiến bộ đầu tiên này giúp người Nhật bước vào con đường thênh thang.
Hơn 10 năm sau, Nhật Bản trở thành cường quốc kinh tế thứ hai thế giới, quốc gia phồn vinh, nhân dân giàu có, xã hội ổn định. Có thể nói thêm một câu, quân chiếm đóng của Mỹ không chi một đồng tiền thuế nào của người dân Nhật Bản, chi phí của họ là lấy từ tiền thuế của người Mỹ.
Trong thời gian chiếm đóng Nhật Bản, rất nhiều người Nhật đã viết thư gửi cho tướng MacArthur yêu cầu biếu tặng đất đai của họ. Nhiều phụ nữ can đảm viết thư đề nghị được hiến thân cho tướng MacArthur, nhiều người còn viết “xin hãy cho tôi được sinh con cho ngài.”
Sáng ngày 16/4/1951, Tổng thống Harry Truman phế bỏ chức Tư lệnh quân chiếm đóng và buộc tướng MacArthur phải về nước, sự kiện này chỉ thông báo cho một số quan chức cấp cao người Nhật biết. Nhưng khi ông ngồi lên ô tô thì mới phát hiện, từ nơi dinh phủ ông ở đến Sân bay Atsugi có hàng triệu người Nhật Bản đứng hai bên đường đưa tiễn. Đoàn xe hộ tống đi qua những hàng nước mắt cùng tiếng hô vang dậy của người dân Nhật Bản: Đại nguyên soái!
Người dân Tokyo đứng chật kín hai bên đường, ai nấy rơi nước mắt, họ như hoàn toàn quên chuyện tướng MacArthur là kẻ chiếm đóng đã đánh bại quân đội quốc gia mình. Thiên hoàng đích thân đến sứ quán đưa tiễn MacArthur, tướng MacArthur cũng xúc động rơi nước mắt, nắm chặt hai tay của Thiên hoàng Hirohito.
Khi đưa tiễn, Thủ tướng Yoshida của Nhật nói: “Tướng quân MacArthur đã cứu chúng tôi ra khỏi nỗi sợ hãi, lo lắng và hỗn loạn của thất bại để đưa chúng tôi vào con đường mới do ông xây dựng, chính Ngài đã gieo trồng hạt giống dân chủ trên đất nước chúng tôi để chúng tôi bước trên con đường hòa bình, tình cảm ly biệt mà nhân dân chúng tôi dành cho Ngài không lời nào có thể diễn tả được.”
Uy lực quả bom nguyên tử của Mỹ tàn phá thành phố và nền kinh tế của Nhật Bản, nhưng về phương diện tinh thần, nước Mỹ đã hoàn toàn chinh phục được người Nhật Bản.

Nhớ chuyện xưa cách năm Mỹ trả chính quyền về cho Nhật Bản đúng 100 năm


Năm 1853, ở Nhật Bản thời Mạc Phủ, 4 tàu chiến Mỹ của Đô đốc Perry lù lù tiến vào cửa biển Uraga mà không hề báo trước. Họ bắn một loạt đại bác lên trời thị uy, rồi đòi gặp chính quyền. Yêu sách của họ là Nhật Bản phải mở cảng biển cho tàu Mỹ đến giao thương.

Trong lịch sử Nhật Bản, sự kiện này là điểm khởi đầu của công cuộc duy tân tự cường theo chủ trương "thoát Á", "Tây học" để hiện đại hoá nước Nhật.

4 chiếc tàu chiến Mỹ và loạt đại bác của chúng đã làm cho người Nhật bừng tỉnh, ngỡ ngàng trước mức độ phát triển của phương Tây và sự lạc hậu, hèn kém của nước Nhật sau 250 năm bài ngoại, gần như chỉ giao thương với người Trung Quốc. Sự ngỡ ngàng của người Nhật trước những thành tựu phát triển của Mỹ và châu Âu còn kéo dài hàng chục năm sau sự kiện đó.

Năm 25 tuổi, ở cảng Yakohama, nhà khai sáng Fukuzawa Yukichi lúc bấy giờ nhìn thấy những con tàu biển của Tây đồ sộ, chạy bằng máy hơi nước. Ông ngợp. Tiếp xúc với Tây, Fukuzawa thất vọng, vì: "Họ không hiểu. Nghe họ nói, tôi cũng không hiểu. Nhìn vào hàng chữ trên các bảng quảng cáo, các tờ cáo thị, tôi không đọc được".

Không chịu được, người Nhật quyết Tây học. Trong cuốn sách "Nhật Bản duy tân 30 năm" xuất bản năm 1936 tại Sài Gòn, cụ Đào Trinh Nhất mô tả cuộc duy tân của người Nhật: "Từ nhỏ đến lớn, từ trong ra ngoài, từ trên xuống dưới, nào là chính trị, giáo dục, nào là văn hoá, võ bị, nào là công thương, lý tài [ngân hàng], nào là cơ khí, nghệ thuật, cho đến những chuyện y phục tầm thường, tập quán lặt vặt, chẳng sót một vấn đề nào hay phương diện nào mà không hoá xưa theo nay, đổi cũ ra mới".

Người Nhật duy tân theo Tây mà rầm rộ cứ như đi trẩy hội, quyết xoá bỏ những thói hư tật xấu, văn hoá hủ bại có nguồn gốc nghìn năm mà không thèm tiếc nuối. Chỉ với 30 năm duy tân thời Minh Trị, Nhật Bản trở thành cường quốc, đuổi kịp, thậm chí còn vượt nhiều nước châu Âu và Mỹ trên một số lĩnh vực công nghiệp.

Rồi cụ Đào Trinh Nhất than: "Người [Việt] mình học theo đạo Nho chữ Hán, chỉ trừ ra đọc âm là khác một chút thôi, còn thì bao nhiêu chế độ văn vật của Tàu bày đặt thế nào, mình đều rước lấy và phỏng theo giống y như thế ấy. Từ áo mão phép tắc chốn triều đình, lễ nghĩa luật lệ giữa dân gian, cho đến mọi việc từ chương, khoa cử, tang lễ, phẩm hàm... nhất thiết chuyện gì mình cũng in khuôn, ráp kiểu của Tàu, không sai một mảy. Trải mấy ngàn năm, hễ Tàu vẽ vời thay đổi cái gì, ta đều bắt chước đúng y cái đó, làm như theo đuôi dính gót người Tàu, không khác gì hình với bóng. Khổ nhất là cúi đầu nhắm mắt mà bắt chước cả cái học vấn luân lý của bọn Tống Nho và rước lấy cái độc hại mê mộng khoa cử, khiến cho dân khí hèn yếu, quốc vận suy vi, rồi thì thầy sao trò vậy, dính chùm với nhau một lũ hư hèn chìm đắm như ngày nay. Cao Ly [Triều Tiên] cũng thế, vì họ cũng bắt chước Tàu một cách "chụp hình" như ta". Cụ Đào kêu trời với các thói phong thuỷ, vàng mã, bói toán, cúng sao và các kiểu mê tín dị đoan của người Tàu du nhập vào Việt Nam, mà người Nhật quyết không theo.

Sự phát triển vượt trội của châu Âu và Mỹ là ở các lĩnh vực khoa học - kỹ thuật, thể hiện qua phát minh, sáng chế, sản xuất công nghiệp, khai khoáng và chế biến. "Tây học" của Nhật Bản thành công rực rỡ ở tất cả những lĩnh vực này.

Việt Nam cũng từng có nhiều cơ hội "Tây học" với người Pháp, người Mỹ, người Nga, nhưng không thu được nhiều kết quả. Đến hiện nay, tất cả những lĩnh vực vừa kể của Việt Nam đều rất yếu, chủ yếu mới ở trình độ lắp ráp, vận hành, sửa chữa máy móc của thiên hạ, chưa phát minh, chế tạo được mặt hàng công nghiệp gì đáng kể, trong khi Nhật Bản đã làm chủ công nghệ vũ khí, máy bay, tàu biển, máy móc công nghiệp và giao thông từ đầu thế kỷ 20, chỉ sau có mấy chục năm Tây học. Việt Nam chưa từng có cuộc duy tân Tây học nào đáng kể và cho đến tận bây giờ, xét trên nhiều phương diện, nước ta giống Tàu nhiều hơn là giống Tây, nhất là về văn hoá, hủ tục. Mà có giống Tàu thì theo tôi cũng chỉ giống được Tàu xưa, không giống được Trung Quốc với nền khoa học và sản xuất công nghiệp phát triển thời nay. Bởi vì sau khi Nhật Bản, Hàn Quốc Tây học thành công, chính Trung Quốc cũng đã Tây học mạnh mẽ và gặt được nhiều thành tựu. Người ta chú trọng nghệ tinh, thực nghiệp, còn Việt Nam thì vẫn nặng nề tư tưởng học để làm quan, "mê mộng khoa cử độc hại".
Thực sự, để phát triển mạnh, Việt Nam rất cần một sự bừng tỉnh, cần một phong trào Tây học giống cuộc duy tân 150 năm trước đây của Nhật Bản. Theo tôi, có thể bắt đầu từ việc quy định tiếng Anh là ngoại ngữ bắt buộc ở mọi cấp học từ phổ thông đến đại học, bởi tiếng Anh mà kém thì khó lòng "Tây học" cho tốt được.
Bạn có thể xem bài viết gốc tại: http://vnexpress.net/tin-tuc/goc-nhin/neu-khong-bung-tinh-3369665.html