XIN CHÀO VÀ CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ ĐẾN VỚI BLOGSPOT.COM CỦA LUU VAN CHUONG

Thứ Tư, 23 tháng 3, 2022

Lời tiên tri định mệnh của bà Vanga về nước Nga đã trở thành sự thật?

 

           Theo ấn phẩm Fakti của Bulgaria, một dự đoán khác của nhà tiên tri nổi tiếng Baba Vanga đã trở thành sự thật, hứa hẹn rằng năm 2022 cả thế giới sẽ đối mặt với căng thẳng, và tháng 2 với tháng 12 sẽ là những tháng tồi tệ nhất.

Cụ thể, tình hình chính trị sẽ leo thang, một số liên minh và thỏa thuận sẽ sụp đổ, nhưng những liên minh mới sẽ được thành lập. Nga, UkraineBelarus sẽ phải thực hiện một số thỏa hiệp, nhưng sẽ vì lợi ích của người dân của họ.

          Những chuyên gia giải thích những lời tiên tri cho rằng, bà Vanga đã chỉ ra một ngày định mệnh - 22/02/2022. Vào ngày 22/02/2022 Quốc hội Nga đã nhất trí phê chuẩn văn kiện công nhận Cộng hòa Nhân dân Luhansk và Donetsk. Như vậy, lời giải mã hồi cuối năm ngoái hóa ra lại là một dự báo chính xác hơn dự báo của các chính khách thế giới.

         Lời tiên tri định mệnh của bà Vanga về nước Nga đã trở thành sự thật?

Tuy nhiên, bà Vanga khẳng định: “sẽ không có chiến tranh thế giới”.

Đồng thời, nhà tiên tri Vanga cũng dự đoán một cuộc tấn công nhằm vào Tổng thống Nga trong năm nay. Do đó, nhà lãnh đạo Nga sẽ không thể “ngồi yên” cho đến hết năm 2022.

Trước đó, các nhà nghiên cứu về những lời tiên tri của bà Vanga cho rằng, bà đã đưa ra 6 lời tiên tri đáng sợ cho năm 2022. Dù thế giới vừa trải qua một năm 2021 đầy thách thức, những dự báo của bà Vanga cho năm 2022 có vẻ còn u ám hơn.

Thế giới sẽ phải đối mặt với một đại dịch khác, một đại dịch khác xuất hiện, lần này được phát hiện ở Siberia, do một loại virus đông lạnh gây ra, được phát tán do biến đổi khí hậu.

         Nhiều thành phố sẽ bị ảnh hưởng bởi tình trạng thiếu nước sạch, dẫn đến những hậu quả chính trị khi các quốc gia buộc phải tìm các giải pháp thay thế.

Nhà tiên tri mù Vanga cũng dự đoán về sự tiếp quản của thực tế ảo, khi con người dành nhiều thời gian hơn bao giờ hết cho màn hình máy tính, các thiết bị điện tử. Người ngoài hành tinh sẽ xâm nhập Trái đất bằng cách gửi tới một tiểu hành tinh để tìm kiếm sự sống trên Trái đất với mục đích không mấy thân thiện.

Bên cạnh đó, những lời tiên tri khác của bà Vanga dành cho năm 2022 gồm có: “Nạn đói xảy ra ở Ấn Độ, nơi nắng nóng lên tới 50 độ C khiến châu chấu tấn công mùa màng; nhiều trận động đất và sóng thần sẽ xảy ra ở Australia và các khu vực châu Á”.

        Bà Baba Vanga sinh ngày 31/1/1911 tại Strumica nhưng sinh sống ở nhiều quốc gia khác nhau. Đầu tiên bà sống ở đế quốc Ottoman, sau đó chuyển tới vương quốc Bulgaria, Nam Tư và cuối cùng là Cộng hòa Madedonia.

Bà bị mù từ năm 12 tuổi, song bà được coi là có khả năng tiên tri. Bà được cho là đã dự đoán đúng sự trỗi dậy của tổ chức Nhà nước Hồi giáo tự xưng (IS), vụ tấn công khủng bố 11/9/2001 ở Mỹ, sự kiện Anh rời Liên minh châu Âu (Brexit) và vụ đắm tàu ngầm Kursk của Nga hồi năm 2000. Những lời tiên tri của bà được đánh giá là đúng đến 85%.

         Ngày 11/8/1996, nhà ngoại cảm nổi tiếng thế giới Vangelia Pandeva Dimitrova - tên thường gọi Baba Vanga - qua đời trong một bệnh viện ở thủ đô Sofia của Bulgaria vì bệnh ung thư. Trước khi qua đời, bà Vanga đã đưa ra hàng loạt dự đoán về thế giới trong nhiều thế kỷ tới.

         Nhà tiên tri mù cũng dự đoán rằng vào năm 2046, con người sẽ đạt tuổi thọ trên 100 nhờ công nghệ cấy ghép nội tạng; năm 2100, màn đêm sẽ biến mất và mặt trời nhân tạo sẽ chiếu sáng phần bên kia của Trái đất.

Thanh Bình (lược dịch)

https://infonet.vietnamnet.vn/the-gioi/loi-tien-tri-dinh-menh-cua-ba-vanga-ve-nuoc-nga-da-tro-thanh-su-that-405705.html

NHÌN LẠI LỊCH SỬ BÁCH VIỆT VÀ QUÁ TRÌNH HÁN HÓA BÁCH VIỆT

 TRAO ĐỔI VỚI ÔNG TRẦN GIA NINH

          Sau khi đăng trên tạp chí Tia Sáng, bài viết của TSKH Trần Gia Ninh được công luận chú ý, nhiều tờ báo và trang mạng đăng lại. Những cuộc tọa đàm về bài báo được tổ chức. Trong tọa đàm tại Cà phê Trung Nguyên tối thứ Bảy 24.9, tôi có được mời dự và phát biểu. Do còn thắc mắc, một số bạn bè yêu cầu tôi nói đầy đủ hơn.

          Trong bài này xin được trình bày những ý sau.

TS Trần Gia Ninh có công sưu tầm những tài liệu mới từ cổ thư khiến cho bài viết có những chi tiết khác với những gì đã biết từ trước nên có thể lôi cuốn được một số người. Tuy vậy, tài liệu mà ông đưa ra chỉ được gom lại từ những sách mang tính sử ký chung mà không phải sách chuyên khảo về Bách Việt nên không phản ánh được toàn diện cách nhìn từ cổ thư.

Thảo luận với tác giả, tôi thấy cần xác định rõ những vấn đề:

1. Bách Việt: một trăm nước Việt hay một trăm tộc Việt?

Ông Trần Gia Ninh viết:

          - Bởi vì xưa có đến hàng trăm tộc Việt, cho nên sử sách gọi chung là Bách Việt 百越 hoặc 百粤. Trong lịch sử Trung Hoa, toàn bộ vùng đất Giang Nam (tên gọi vùng Nam Sông Dương Tử), rộng bảy tám ngàn dặm từ Giao Chỉ đến Cối Kê, từ trước thời Tần Hán đều là nơi cư ngụ của các tộc Bách Việt.

          - Hai nước Ngô - Việt là những tộc Bách Việt được ghi chép rất sớm trong sử sách.

          Trong khi, theo chỗ tôi biết thì có hai cuốn sách chuyên khảo về Bách Việt. Đó là Bách Việt tiên hiền chí của Âu Đại Nhậm đời Minh và Bách Việt nguyên lưu dữ văn hóa (của La Hương Lâm - Trung Hoa tùng thư, Đài Loan thư điếm, 1955).

          Theo La Hương Lâm, thuật ngữ Bách Việt xuất hiện lần đầu tiên trong sách Lã Thị Xuân Thu, thiên Thị Quân: “Phía nam Dương Hán, trong khoảng Bách Việt, những đất Tệ Kha, Chư Phu, Dư My, các nước Phộc Lâu, Dương Xuất, Hoan Đâu, phần nhiều không có vua.” Cuốn sách này nói tới đất và nước mà không đề cập sắc tộc.

          Trong Bách Việt tiên hiền chí, Âu Đại Nhậm viết: “Cháu sáu đời của Câu Tiễn là Vô Cương cất quân đánh Sở, bị vua Sở Hùng Thích đánh bại. Vô Cương bỏ Lang Gia, đi đến ở Đông Vũ. Nước Việt tan. Các con của Vô Cương định cư ở duyên hải Giang Nam, chia nhau kẻ làm quân trưởng, người làm vương, tất cả đều thần phục Sở, gọi là Bách Việt. Châu Dương từ đấy bị phân chia. Cối Kê lấy các sao phương Nam là sao Thuần, sao Vỹ để định cương giới, đất Cối Kê thuộc vào Nam Hải. Khi Tần diệt Sở, vương Tiễn cai trị Dương Việt, chia cắt thành ba quận Nam Hải, Quế Lâm và Tượng. Con cháu Úy Đà thần phục nhà Hán. Họ Triệu cai trị cả ba quận ấy, lại kiêm thêm các quận Hợp Phố, Thương Ngô, Uất Lâm, Giao Chỉ, Cửu Chân, Châu Nhai, tổng cộng là chín quận. Nay vùng Nam Việt, bắc giáp Cô Tư đến tận Cối Kê là đất của Việt vậy. Phía đông, Vô Chư đóng đô ở Đông Trị đến Chương Tuyền là Mân Việt. Đông Hải vương là Diêu, đóng đô ở Vĩnh Gia là Âu Việt. Lãnh thổ xưa của Dịch Hu Tống, chạy dài từ sông Tương, sông Ly về phía nam là Tây Việt. Các đất Tang Ca, Tây Hạ, Ung, Dung, Tùy, Kiến là Lạc Việt vậy.”

Như vậy, ngay trong thư tịch Trung Hoa đã có hai quan niệm khác nhau. Một số coi Bách Việt là trăm nhà nước. Số khác lại coi Bách Việt là trăm tộc Việt. Hai quan niệm này đưa tới cách lý giải hoàn toàn khác nhau về Bách Việt. Công việc của nhà nghiên cứu là phải phân định đúng sai của hai quan niệm trên để định hướng nghiên cứu của mình. Trong trường hợp này phải nhờ tới những tư liệu khác.

          Tài liệu khảo cổ học cho thấy, chủ nhân các văn hóa ở Nam Dương Tử như Tiên Nhân Động, Giang Tây 25.000 năm trước, Hà Mẫu Độ 7.000 năm trước rồi Lương Chử 5.300 năm trước, đều là người Lạc Việt. Khảo sát di cốt người Lương Chử, học giả Trung Quốc cho rằng: “Tại di chỉ Lương Chử khai quật được di cốt người, xác nhận bằng kỹ thuật gen, cho thấy người Lương Chử là hậu duệ của người Lạc Việt.” Trong khi đó, Liangzhu culture từ Wikipedia, the free encyclopedia viết: “Một phân tích năm 2007 của DNA phục hồi từ người vẫn còn ở địa điểm khảo cổ của người tiền sử trên sông Dương Tử cho thấy tần số cao của Haplogroup O1 (Y-DNA) trong văn hóa Lương Chử, liên kết chúng với dân cư văn hóa Austronesian và Tai-Kadai.”

          Như vậy, tài liệu khảo cổ học tại nhiều di chỉ vùng Giang Nam cho thấy, dân cư nơi đây là người Lạc Việt. Di truyền học phát hiện tần số cao của Haplogroup O1 (Y-DNA) trong văn hóa Lương Chử cũng xác nhận người Lạc Việt là chủ nhân của vùng đất này.

          Kết quả của những khảo cứu này phù hợp với bản đồ dân cư Đông Á từng được nhân chủng học khẳng định: từ 2000 năm TCN, đại bộ phận dân cư Đông Á thuộc chủng Mongoloid phương Nam. Người Hán chiếm 93% dân số Trung Quốc là người Mongoloid phương Nam.

          Xác định chủng người là công việc của khoa học tự nhiên, của Nhân học. Do vậy, muốn biết dân cư Bách Việt là ai thì nên tìm trong các tài liệu về Nhân học. Cổ thư Trung Hoa với những thuật ngữ dân gian như người Lê, Tam Miêu, Bách Việt… không có giá trị khoa học.

          Từ đó có thể khẳng định, Bách Việt không phải là trăm tộc Việt mà là những tiểu quốc khác nhau của chủng người Lạc Việt

Chính là do lầm lẫn biến trăm nước Việt thành trăm giống Việt khiến tác giả lạc đường.

          2. Bách Việt có phải là cội nguồn của chủng tộc Việt?

          Cổ thư Trung Hoa viết rằng thế kỷ XI TCN, một dòng của vua Vũ nhà Hạ vượt Dương Tử xuống vùng Chiết Giang, xăm mình, cắt tóc, lập ấp sống với người bản địa rồi trở thành thủ lĩnh, đứng ra lập nước Việt. Tới thời Chu, được phong ở đất Cối Kê để lo phụng thờ vua Vũ. Do vị trí quá xa Trung Nguyên nên tiểu quốc Việt không thu hút nhiều sự quan tâm của nhà Chu và các nước chư hầu lớn. Chỉ đến khoảng 496 - 465 TCN khi Việt Vương Câu Tiễn tiêu diệt nước Ngô, triều Chu phải công nhận nước Việt là bá chủ Trung Nguyên. Vào năm 334 TCN, nước Sở tiêu diệt nước Việt. Những thủ lĩnh vùng của người Việt đứng lên lập những quốc gia riêng, được gọi là Bách Việt. Từ những dòng này của cổ thư, các học giả về sau cho rằng, người Việt là hậu duệ của Hạ Vũ. Do vậy Bách Việt là nguồn cội của tộc Việt. Các sử gia Việt Nam cũng theo thuyết này. Quan niệm như vậy còn truyền tới hôm nay.

         Tuy nhiên, có thực tế là, từ xa xưa, trước cả thời Hoàng Đế, những sắc dân Cửu Lê, Tam Miêu… là những chi nhánh của người Lạc Việt đã sống đông đúc ở cả Bắc và Nam Dương Tử.

          Nếu thực sự có con cháu vua Thiếu Khang nhà Hạ vào vùng đất của người Cửu Lê sống rồi làm vua thì cũng chỉ hoàng tộc mới là con cháu Hạ Vũ. Ta biết, Vũ là người Việt, có thể thuộc nhóm Tày-Thái, được vua Thuấn truyền hiền, lập ra nhà Hạ ở Trung Nguyên.

          Nay, nhờ di truyền học khảo sát ADN dân cư Đông Á, ta biết rằng, người Lạc Việt được sinh ra ở Việt Nam rồi 40.000 năm trước đi lên khai phá Hoa lục. Kết hợp với những phát hiện khảo cổ ở Giả Hồ, Hà Mẫu Độ, Lương Chử… cho thấy dân cư Nam Dương Tử là người Lạc Việt. Do vậy, dân cư nước Việt của vua Câu Tiễn cũng là con cháu người Lạc Việt từ Việt Nam đi lên. Thêm nữa, do Bách Việt xuất hiện quá muộn nên không thể là biểu trưng của trăm con trong bọc trứng của Mẹ Âu cơ gần 3000 năm trước. Ý tưởng như vậy chỉ hoàn toàn là gán ghép, áp đặt.

          Từ đó đưa tới kết luận: người Bách Việt không phải là cội nguồn của dân tộc Việt mà là hậu duệ của người Lạc Việt từ Việt Nam di cư lên trong các thời kỳ khác nhau. Bách Việt là đại gia đình các nhà nước người Việt được thư tịch Trung Hoa ghi nhận từ cuối thời Chiến Quốc tới Tần Hán. Trong đó Lạc Việt là đất tổ của người Việt.

Không phải như ông Trần Gia Ninh nghĩ, Lạc và Việt là hai giống người mà đó là danh xưng chỉ người Indonesian sinh ra trên đất Việt. Do là nơi phát tích của người Lạc Việt nên sử đặt tên đất là Lạc Việt.

          3. Nước Sở là gì?

          Nước Sở là thực thể lớn, có vai trò quan trọng trong lịch sử Trung Quốc. Do vậy, nếu không xác định được Sở là Hoa Hạ hay Việt thì mọi nghiên cứu về Trung Hoa sẽ chỉ là ăn ốc nói mò, việc của những ông thầy mù sờ voi!

         Mặc dù dẫn: “Sách Sử Ký - thiên Sở Thế gia viết rằng người Sở là dân Man (Sở Man), vua Sở nhận mình là dân Man Di. Man là chữ người Hoa Hạ gọi dân miền Nam không phải là Trung Hoa. Những khai quật khảo cổ ở vùng Kinh Sở gần đây cũng cho thấy rằng thực ra cư dân tối cổ ở vùng Kinh Sở có nguồn gốc Tam Miêu, một dân tộc thuộc nhóm Bách Việt” nhưng do không am tường lịch sử Trung Quốc, tác giả vẫn viết: “Đến đây cần nói rõ, Sở là gốc Hoa Hạ (sau này gọi là Hán) hay là Bách Việt, hiện còn nhiều tranh cãi.”

Sự thực về người Sở và nước Sở như sau.

          Người Lạc Việt muộn nhất từ 7.000 năm trước đã làm nên văn hóa trồng kê và lúa Ngưỡng Thiều ở cao nguyên Hoàng Thổ và đồng bằng Trong Nguồn (Trung Nguyên hiện nay). Khoảng 2879 TCN, đây là giang sơn của Đế Lai trong truyền thuyết về nước Xích Quỷ. Năm 2698 TCN, họ Hiên Viên dẫn đầu dân du mục Mông Cổ đánh vào Trác Lộc, chiếm một phần vùng đất này, lập nhà nước Hoàng Đế. Tại vùng chưa bị chiếm, người Lạc Việt vẫn kiên cường kháng chiến. Đọc Thượng Thư, thấy nhiều lần vua Nghiêu rồi Thuấn phải “phạt Tam Miêu”, “dẹp Tam Miêu,” “đầy Tam Miêu...” Đặc biệt cuốn Kỳ môn độn giáp đại toàn thư có câu; “Tích nhật Hoàng Đế chiến Si Vưu, Trác Lộc kinh kim vị nhược hưu” (Ngày trước Hoàng Đế đánh Si Vưu, trận Trác Lộc tới nay còn chưa dứt). Điều này cho thấy cuộc kháng chiến dai dẳng của người Việt bản địa chống lại vương triều Hoàng Đế liên tục từ sau trận Trác Lộc. Bẵng thời gian dài, sử Trung Hoa không nói tới những tiểu quốc hay bộ tộc người Lạc Việt này. Tới đời Thương thì những dân này xuất hiện dưới tên nước Dương Việt, chiếm lĩnh một phần Hà Nam, Hà Bắc tới Sơn Đông và Nam Dương Tử. Nước này sau liên minh với Chu đánh Thương. Thời Xuân Thu hình thành nước Sở (1030 TCN - 202 TCN), cương vực ngoài Hoa Hạ, án ngữ khoảng giữa Hoài Hà và Dương Tử. Nước Sở () vốn đọc theo tiếng Việt cổ là Trù là Trầu, một biểu trưng của dân Lạc Việt. Cuối thời Chiến Quốc, Sở thôn tính Việt, xưng bá, ngang ngửa với nhà Chu. Khi nhà Tần diệt lục quốc thì nhà Chu bị diệt vong, chính quyền về tay nhà Tần, một nhánh của Lạc Việt. Diệt Tần, Lưu Bang lập nhà Hán, một triều đình của người Việt nước Sở. Nhưng do uy danh của Hoa Hạ trong quá khứ nên các vương triều người Việt cũng tự nhận là Hoa Hạ! Việc Khuất Nguyên khóc tổ Cao Dương Hoa Hạ là sự mù lòa về lịch sử, là sự bỏ mồ cha khóc đống mối, trong xu hướng tôn sùng Hoa Hạ của người Việt thời đó. Giống như người Hán sau này. Câu mở đầu sách Toàn thư viết: “Từ Hoàng Đế dựng muôn nước…” cũng là sai lầm kiểu đó. Người Sở là dân Lạc Việt gốc, không liên quan gì về máu huyết với Hoa Hạ cả!

          4. Hai nước Ngô - Việt phải chăng là những tộc Bách Việt?

Ông Trần Gia Ninh viết: “Hai nước Ngô - Việt là những tộc Bách Việt được ghi chép rất sớm trong sử sách?” Có đúng vậy không? Muốn hiểu điều này, phải trở lại với nền văn hóa gốc của đất Giang Nam: văn hóa Lương Chử. Sau 80 năm khai quật và khảo cứu, năm 2016, các học giả Trung Quốc khẳng định, nhà nước Lương Chử của người Lạc Việt được hình thành từ 3.300 năm TCN.

          Khoảng năm 2.300 TCN, do nước biển dâng, kinh đô Lương Chử bị nhấn chìm, nhà nước Lương Chử tan rã. Một phần dân cư tản mát đi nơi khác. Những người ở lại, do môi trường thay đổi, gặp rất nhiều khăn, nên buộc phải chật vật để sinh tồn. Nhưng vài trăm năm sau, nước rút, môi trường tốt trở lại, dân cư tập trung đông hơn, tạo nên văn hóa Mã Kiều. Khảo cổ học xác nhận Mã Kiều là văn hóa rớt của Lương Chử, từ đồ gốm tới ngọc đều thua sút so với Lương Chử. Trên giang sơn Lương Chử (thực tế là Xích Quỷ, xin trình bày vào dịp khác) xưa, những nhà nước mới được hình thành là Ngô, Việt rồi Sở. Thực chất, đó là những quốc gia khác nhau của người Lạc Việt bởi lẽ từ thời kỳ Lương chử, Nam Dương tử duy nhất chỉ người Lạc Việt sinh sống.

          Đúng là khoảng 400 năm TCN, do loạn Chiến Quốc, nhiều triệu người từ duyên hải phía Đông Trung Quốc di tản sang Triều Tiên, Nhật Bản và vùng đất phương Nam là Việt Nam. Nhưng nói rằng họ mang tiếng Ngô xuống Việt Nam là hoàn toàn sai. Sự thực là, bắt đầu khoảng 40.000 năm trước, người lạc Việt từ Thanh-Nghệ-Tĩnh đi lên Quảng Đông, Phúc Kiến, định cư lại thành dân vùng này. Tiếp đó, người từ đây tỏa ra khắp Trung Hoa, mang tiếng Việt vùng Quảng Đông, Phúc Kiến tới nơi cư trú mới, tạo thành tám phương ngữ Trung Hoa. Về Việt Nam, người Ngô trở lại mái nhà xưa, họ học lại từ đồng bào mình tiếng Việt chuẩn mà vào thời Chu Khổng Tử gọi là Nhã ngữ!

Theo kinh nghiệm của tôi, những tư liệu của các đại học danh tiếng phương Tây về lịch sử phương Đông như Eric Henry không đáng tin vì chúng quá cũ, chỉ là sự sao chép cả cái sai của cổ thư lẫn Viễn Đông Bác cổ. Tôi chỉ tham khảo từ họ những công bố di truyền và phát hiện khảo cổ mới!

Bài viết của ông Trần Gia Ninh chủ yếu dựa vào cổ thư Trung Hoa. Nhưng như ta biết, cổ thư chỉ xuất hiện vào thời Tần Hán. Do lẽ đó nên dù có tới nhị thập tứ sử, người Trung Quốc cũng chưa biết tổ tiên dòng giống mình là ai? Tiếng nói Trung Quốc là tiếng gì? Chữ viết Trung Quốc do đâu mà có? Vì vậy, hy vọng từ cổ thư Trung Hoa tìm ra lịch sử Việt Nam chỉ là việc leo cây tìm cá!

          Lịch sử, văn hóa là hoạt động xã hội của con người. Một khi không xác định đúng về con người chủ nhân tạo ra văn hóa lịch sử đang bàn, mọi nghiên cứu trở thành vô bổ. Jared Diamond, nhà nhân học nổi tiếng người Mỹ có câu nói đáng suy ngẫm: “Nay không còn là lúc chơi với những khúc xương và những hòn đá nữa. Tất cả những gì thuộc về con người mà chưa được di truyền học xác nhận, đều không đáng tin cậy.” Ý kiến này cho thấy, hệ quy chiếu của khảo cổ học bằng việc khảo sát những di cốt, những hòn đá, hoa văn trên gốm… không còn đáng tin cậy. Trong khi nguồn tư liệu duy nhất của TSKH Trần Gia Ninh lại quá xưa cũ, chỉ xào xáo lại cổ thư! Đó là lối làm sử mà tôi từng đề cập trong bài Lịch sử phương Đông và nền sử học không ADN.

          Kết luận

          Trong các sách và bài viết của mình, tôi đã trình bày có ba lý do cốt lõi để người Việt không bị đồng hóa trong quá khứ:

Về mặt di truyền học:

          Là tổ tiên của người Trung Hoa nên người Việt có chỉ số đa dạng di truyền cao. Độ đa dạng di truyền chỉ có thể chuyển từ cao xuống thấp. Khi sinh ra con, cha mẹ san sẻ một phần “độ đậm đặc nòi giống” của mình cho đứa trẻ nên dòng huyết thống càng xa càng nhạt. Trong khi đó, con cháu không bao giờ lội ngược dòng trở lại “độ đậm đặc nòi giống” như cha ông. Có thể ví, dân tộc Việt Nam là một biển nước mặn mà mỗi người Hán xuống Việt Nam là một thùng nước lợ. Những thùng nước lợ hòa vào biển mặn không những không thể làm biển nhạt đi mà, cái thùng nước lợ bị biến mất!

Về tiếng nói:

          Việt Nam là nơi phát tích của dân cư Trung Hoa nên tiếng Việt là ngôn ngữ gốc với những đặc điểm: vốn từ phong phú, giọng nói sáng rõ và nhất là được nói theo trật tự chính trước phụ sau. Người từ Trung Hoa trở về Việt Nam – nói chính xác là trở về đất tổ - mang về ngôn ngữ bị pha trộn, biến dạng và nhất là cách nói ngược. Cố nhiên, người Việt không thích thú thứ tiếng nói như vậy để mà học!

         Về hoàn cảnh lịch sử:

          Lịch sử đã tạo ra ở Việt Nam cộng đồng làng xã vô cùng vững chắc, hữu hiệu chống lại sự xâm nhập từ bên ngoài. Người Hán hầu như không có cơ hội nhập tịch làng Việt Nam. Họ chỉ có thể tới sống nơi kẻ chợ, hành nghề làm thuê hay buôn bán và được gọi bằng danh xưng: thằng Ngô, chú Khách. Mặt khác, dù âm mưu đồng hóa là kiên trì và thâm độc nhưng do sức phản kháng kiên cường của người Việt, nên nhiều viên quan buộc phải ngó lơ những yêu cầu khắt khe của triều đình, cốt sao thu được thuế và giữ được ổn định. Một đặc điểm khác là, do bên trong Trung Quốc luôn xảy ra bạo loạn, đảo chính nên sự thống trị nhiều khi bị buông lỏng. Những lúc như vậy, tinh thần Việt được phục hưng. Một điều nữa phải nói là may mắn: suốt trong nhiều thế kỷ người Hán nói tiếng Việt rồi để lại Đường âm, một thành tựu tuyệt vời về ngữ âm.

          Nhưng ngay sau đó, nước ta giành lại quyền tự chủ, thoát khỏi ách đô hộ. Ta dùng Đường âm như một quốc bảo làm quốc ngữ mãi tới sau này. Trong khi đó, Trung Quốc luôn loạn lạc, các tộc người phương Bắc xâm chiếm, thống trị khiến tiếng nói biến đổi theo. Đường âm bị mai một. Do là nước độc lập, chúng ta không buộc phải học những thứ quan thoại của phương Bắc. Vì vậy giữ được tiếng nói của mình.

          Tuy nhiên, có thực tế là: dù tàn bạo bao nhiêu thì các nhà nước Trung Hoa cổ cũng không thể dã man như nhà nước Trung Hoa hiện đại. Suốt trong lịch sử, đến cuối đời Thanh, người Giang Nam vẫn giữ tiếng nói riêng. Nhưng chỉ không đầy 10 năm (1949-1958) hầu hết dân Giang Nam đã nói tiếng phổ thông. Tiếng nói địa phương bị cấm. Những buổi phát thanh tiếng Quảng Đông ngày càng giảm thời lượng rồi mất hẳn.

          Nếu nay chúng ta bị chiếm thì chắc chắn, bằng sức mạnh tàn bạo và những phương tiện hiện đại, sự đồng hóa xảy ra nhanh chóng!

-----------------

Hà Văn Thuý 

 

Nhìn lại lịch sử Bách Việt và quá trình Hán hóa Bách Việt

  - Trần Gia Ninh

           Khi đọc những câu hỏi “Vì sao đã thống trị Việt Nam hơn ngàn năm mà cuối cùng Trung Quốc vẫn không thể đồng hóa Việt Nam?”. Hoặc “Người Việt Nam (tộc người Kinh) vì sao mà khó đồng hóa như vây?(1), nhiều người nghĩ chắc là ý kiến của những anh chàng người Việt nặng đầu óc dân tộc chủ nghĩa. Nhưng thật bất ngờ, những câu hỏi này và tương tự như vậy hiện là những chủ đề nóng của các diễn đàn tranh luận trên mạng Internet của người Trung Hoa, bằng tiếng Trung chứ không phải của người Việt.

Tượng Thừa tướng Nam Việt Lữ Gia ở Linh Tiên Đạo Quán, Hoài Đức, HN.

          Họ đã chất vấn nhau, đại loại thế này: Hơn một nghìn năm, trước khi nhà Tống lên ngôi, Giao Châu là thuộc Trung Hoa, dù chị em họ Trưng có nổi dậy cũng chỉ mấy năm là dẹp yên. Thế mà vì sao từ đời Tống trở đi các triều đại Trung Hoa không thể thu phục nổi Việt Nam. Hơn nữa, dân tộc Việt Nam, người Kinh ấy, từ đâu mà ra, hình thành từ lúc nào? Người Hán chúng ta từ cổ xưa đã có sức đồng hóa cực mạnh. Số dân tộc đã bị Hán tộc đồng hóa không đếm xuể. Tại sao chừng ấy năm đô hộ vậy mà không đồng hóa nổi Việt Nam… Nếu An Nam là thuộc Trung Quốc từ thời đó, liệu bây giờ quần đảo Nam Sa (VN gọi là Trường Sa) có thành vấn đề không? Việt Nam có còn chiếm được nhiều đảo ở Nam Sa như bây giờ không?

         Là người Việt Nam, chắc ai cũng muốn chính mình tìm câu trả lời cho những câu hỏi thú vị đó. Chúng ta từng nghe nói rằng, từ xa xưa một dải giang sơn mênh mông từ Nam sông Dương Tử trở về Nam là nơi các tộc dân Việt sinh sống và phát triển nền văn minh lúa nước rực rỡ. Thế rồi ngày nay, hầu hết đều trở thành lãnh thổ và giang sơn của người Hán, dùng Hán ngữ và văn hóa Hán. Quá trình đó người ta quen gọi là Hán hóa. Vì vậy nhìn lại lịch sử Bách Việt và quá trình Hán hóa Bách Việt, và quá trình Hán hóa Bách Việt, là một cách ôn cố tri tân hữu ích. Đáng tiếc là thời xa xưa đó lịch sử chủ yếu ghi chép lại bằng Hán ngữ cổ ở Trung Hoa, không dễ tiếp cận với đa số hiện nay. Vì lẽ đó người viết bài này cố gắng tóm tắt những gì mà sử sách cổ còn ghi lại, kết hợp với những tài liệu khoa học đã công bố của một số học giả uy tín trên thế giới, ngõ hầu cung cấp một vài thông tin hữu ích, nhiều chiều, kể cả còn đang tranh cãi.

Bách Việt là ai và ở đâu?

         Vào thời thượng cổ, từ đời nhà Thương 商朝 (khoảng 1600-1046 TCN), trong văn tự thì chỉ có một chữ Việt (nghĩa là cái rìu), cũng là tên chung cho tộc người ở phía Nam không phải là người Trung Hoa, do tộc người này sử dụng rìu (Việt) làm công cụ. Về sau, vào thời Xuân Thu Chiến quốc 春秋 戰國 (722-221 TCN) bắt đầu trong văn tự có hai chữ Việt là , đều chỉ bộ tộc Việt, dùng như nhau (Sách cổ viết là 越粵互通-Việt Việt Hỗ Thông), ta hay gọi là Việt bộ tẩu (đi, chạy) và Việt là Việt bộ mễ -(lúa)2.

Trong Hán ngữ cận, hiện đại, hai chữ Việt này (có thể từ sau đời Minh) thì dùng có phân biệt rõ ràng. Chữ Việt bộ tẩu là ghi tên tộc Việt của nước Việt có lãnh thổ ở vùng Bắc Triết Giang, ngày nay là vùng Thượng Hải, Ninh Ba, Thiệu Hưng (Cối Kê 會稽 xưa). Một loại ca kịch cổ ở vùng này vẫn còn tên là Việt Kịch 越剧. Chữ Việt bộ tẩu này cũng là tên của tộc Nam Việt (Triệu Đà) Âu Việt và Lạc Việt (Việt Nam ngày nay), Mân Việt (Phúc Kiến), Điền Việt (Vân Nam, Quảng Tây)… Chữ Việt bộ mễ ngày nay dùng ghi tên cư dân vùng Quảng Đông, Hồng Kong, Ma Cao… những cư dân này sử dụng ngôn ngữ gọi là tiếng Quảng Đông (Cantonese). (Ai đến Quảng Châu đều thấy biển xe ô tô đều bắt đầu bằng chữ là vì vậy).

         Bởi vì xưa có đến hàng trăm tộc Việt, cho nên sử sách gọi chung là Bách Việt 百越 hoặc 百粤. Tên gọi Bách Việt xuất hiện trong văn sách lần đầu tiên trong bộ Lã thị Xuân Thu 吕氏春秋 của Lã Bất Vi 呂不韋 (291–235 TCN) thời nhà Tần.

          Trong lịch sử Trung Hoa, toàn bộ vùng đất Giang Nam (tên gọi vùng Nam Sông Dương Tử), rộng bảy tám ngàn dặm từ Giao Chỉ đến Cối Kê, từ trước thời Tần Hán đều là nơi cư ngụ của các tộc Bách Việt.

         Thời nhà Hạ gọi là Vu Việt 于越, đời Thương gọi là Man Việt 蛮越 hoặc Nam Việt 南越, đời Chu gọi là Dương Việt 扬越, Kinh Việt 荆越, từ thời Chiến quốc gọi là Bách Việt百越.

         Sách Lộ Sử của La Bí (1131 - 1189) người đời Tống viết3: Việt thường, Lạc Việt, Âu Việt, Âu ngai, Thả âu, Tây âu, Cung nhân, Mục thâm, Tồi phu, Cầm nhân, Thương ngô, Việt khu, Quế quốc, Tổn tử, Sản lí (Tây Song Bản Nạp), Hải quý, Cửu khuẩn, Kê dư, Bắc đái, Phó cú,  Khu ngô (Cú ngô)…, gọi là Bách Việt.

Hán Hóa Bách Việt - Giai đoạn từ thượng cổ đến trước thời Tần-Hán

          Gọi Hán hóa chỉ là để cho tiện thôi, thực ra không đúng, vì lúc này làm gì đã có nhà Hán. Hai nước Ngô - Việt là những tộc Bách Việt được ghi chép rất sớm trong sử sách. Nước Ngô 吴国,còn gọi là Cú Ngô 句吴, Công Ngô 工吴,攻吾… lập quốc vào thời Chu Vũ Vương (thế kỷ 12 TCN), kinh đô ở Tô Châu 苏州 ngày nay, từ thủy tổ là Ngô Thái Bá 吳太伯 truyền đến Phù Sai夫差 thì bị diệt vong bởi nước Việt (473 TCN). Thực ra ghi chép sớm nhất trong sử sách là Vu Việt 于越, tiền thân của nước Việt thời Chiến quốc. Nước Việt đã tồn tại muộn nhất cũng từ thời nhà Thương, không tham gia vào sự kiện Vũ Vương Phạt Trụ (1046 TCN), nhưng sử có ghi là khá lâu trước đó đã làm tân khách của Chu Thành Vương 周成王(1132 - 1083 TCN). Nước Việt đã có một văn hóa dân tộc đặc sắc, gọi là Văn hóa Mã Kiều 馬橋文化, mà các chứng tích đã tìm thấy khi khai quật di chỉ Thái Hồ 太湖地區. Nước Việt định đô ở Cối Kê 會稽 (Thiệu Hưng ngày nay) truyền đến đời Câu Tiễn句踐 (496 - 464 TCN) thì bành trướng lên phía Bắc, năm 473 TCN sau khi diệt nước Ngô, mở rộng bờ cõi Bắc chiếm Giang Tô 江蘇, Nam đoạt Mân Đài 閩台 (tức Phúc Kiến ngày nay), Đông giáp  Đông Hải 東海, Tây đến Hoàn Nam 皖南 (phía Nam An Huy ngày nay), hùng cứ một cõi Đông Nam. Đến năm 306 TCN, nước Sở 楚國 nhân nước Việt, triều vua Vô Cương, nội loạn, bèn liên kết với nước Tề 齊國 tiến chiếm nước Việt, đổi thành quận Giang Đông, nước Việt tuyệt diệt và bị Sở hóa từ đó. Những sự kiện này được ghi chép tỉ mỉ trong bộ sử Ngô Việt Xuân Thu 吳越春秋 do Triệu Diệp 赵晔 thời Đông Hán soạn (~năm 25). Các nhà khoa học thế giới ngày nay cũng đã phục dựng đầy đủ lịch sử này, ví dụ xem Eric Henry4.

         Đến đây cần nói rõ, Sở là gốc Hoa Hạ (sau này gọi là Hán) hay là Bách Việt, hiện còn nhiều tranh cãi. Dân Hoa Hạ (chính là tộc Hán sau này) nhận mình là con cháu của Tam Hoàng, Ngũ Đế. Tam Hoàng thì rất thần tiên, mơ hồ, Ngũ Đế có vẻ cụ thể hơn. Theo Sử Ký của Tư Mã Thiên5 thì đó là năm chi: Hoàng Đế (黃帝), Chuyên Húc (顓頊), Đế Cốc (帝嚳), Đế Nghiêu (帝堯), Đế Thuấn (帝舜). Dân nước Sở tự nhận thuộc chi Chuyên Húc, họ Cao Dương 高阳 tức là tộc Hoa Hạ (Hán). Đất nước Sở nằm ở đoạn giữa sông Trường Giang, vùng Nam Bắc Hồ Động Đình, quen gọi là vùng Kinh Sở (Hồ Bắc - Hồ Nam của Trung Hoa ngày nay). Vùng Kinh Sở nằm chồng lấn phía Nam lưu vực sông Hoài sông Vị của dân Trung Nguyên Hoa Hạ. Đó là vùng đất đầu tiên mà một chi của dân Hoa Hạ (chi Chuyên Húc) thiên di xuống. Nhà thơ Khuất Nguyên (340 - 278 TCN) người nước Sở, mở đầu bài thơ Ly Tao đã viết6: Bá Dung nhớ cha ta thuở nọ, /Vốn dòng vua về họ Cao Dương (Nhượng Tống dịch thơ). Trước khi con cháu Cao Dương nam thiên đến đây, dân bản địa là tộc nào? Nước Sở lập quốc vào cuối đời Thương đầu đời Chu (1042 TCN). Sách Sử Ký - thiên Sở Thế gia viết rằng người Sở là dân Man (Sở Man), vua Sở nhận mình là dân Man Di7. Man là chữ người Hoa Hạ gọi dân miền Nam không phải là Trung Hoa. Những khai quật khảo cổ ở vùng Kinh Sở gần đây cũng cho thấy rằng thực ra cư dân tối cổ ở vùng Kinh Sở có nguồn gốc Tam Miêu, một dân tộc thuộc nhóm Bách Việt. Đây có thể là nhóm Âu Việt ở phía Tây nên còn gọi là tộc Tây Âu, để phân biệt với Đông Âu là tộc Âu Việt phía Đông, tức vùng Mân - Đài (Phúc Kiến). Tộc Tây Âu, theo các nhà dân tộc học, có thể là tổ tiên các tộc H’mông, Lào, Miến, Thái… hiện nay, ít nhiều cũng có cùng huyết thống người Việt Nam cổ. Như vậy là quá trình Trung Hoa hóa dân Man (Miêu tộc bản địa) đã bắt đầu từ cuối Thương đầu đời Chu rồi. Có thể tạm gọi đó là đợt đồng hóa thứ nhất.

         Sự Trung Hoa hóa theo thế lực nước Sở, bành trướng đến Trùng Khánh, Quý Châu, về sau sang tiếp phía Đông, trở thành một trong thất hùng thời Chiến quốc. Đặc biệt là quý tộc Sở cổ đều có họ Hùng ( - con gấu), vua Sở là Hùng Vương, phải chăng có liên hệ gì đó đến Hùng Vương ở Việt Nam, chỉ khác chữ Hán viết - hùng mạnh, (trong sử Trung Hoa cổ không tìm thấy ghi Hùng Vương này, có lẽ đây là do các nhà Nho Việt Nam viết lại sau này!). Tóm lại đến thời Khuất Nguyên, rồi sau đó là lúc Sở diệt Việt phía Đông, thì Sở đã hoàn toàn biến thành dân Trung Hoa, và quá trình Trung Hoa hóa Ngô - Việt là quá trình đồng hóa thứ hai, tiến hành thông qua nước Sở.

          Các nhà khoa học Nhật, Mỹ, đã có nhiều phát hiện, chứng minh nền văn minh Ngô Việt sau khi nước Việt bị diệt và Trung Hoa hóa (đúng hơn là Sở hóa), đã theo dòng người Ngô Việt chạy ra biển sang Nhật Bản (tiếng Nhật Bản đọc Hán tự theo kiểu nước Ngô, nên gọi là ごおん-Go On- Ngô âm 呉音). Nền văn minh đó chủ yếu theo bộ phận tinh hoa của dân Ngô Việt chạy xuống phía Nam hợp lưu cùng Việt bản địa, thành ra văn minh Việt kéo từ Lĩnh Nam (phía Nam dãy Ngũ Lĩnh - tức Bắc Lưỡng Quảng ngày nay) đến Giao Chỉ. Theo phát hiện của Jerry Norman và Tsu-lin Mei (Washington University và Cornell University) thì nhiều từ cổ của tộc Việt nước Ngô Việt hiện vẫn thông dụng trong tiếng Việt ngày nay, ví dụ các từ: chết; chó, đồng (trong đồng cốt), sông, khái (hổ), ngà (trong ngà voi), con (trong con cái), ruồi, đằm (trong đằm ướt), sam (con sam), biết; bọt , bèo…8 Điều này chứng tỏ rằng dân Lạc Việt ít nhiều có cùng huyết thống với dân Ngô Việt xưa. (Xem bản đồ).

Hán hóa Bách Việt- Giai đoạn sau thời Tần-Hán

          Cho đến trước khi Tần Thủy Hoàng diệt được sáu nước, dẹp bỏ nhà Chu, thống nhất Trung Hoa (221 TCN) thì dân Hoa Hạ (Hán tộc) chỉ chiếm lãnh và đồng hóa được dải đất từ Hoàng Hà xuống đến Ngũ Lĩnh9, còn từ Ngũ Lĩnh trở về Nam (Lưỡng Quảng, Giao Chỉ, Hải Nam... gọi tắt là Lĩnh Nam) thuộc về Âu Việt (gọi chung Tây Âu và Đông Âu) và Lạc Việt. Từ Kinh Sở trở về Tây, Tây Nam (Vân Nam) vẫn còn thuộc về Điền Việt, Tây Âu, Đại Lý…

         Vùng Bách Việt phía Tây Nam này (Vân Nam) thì mãi đến thế kỷ 12 còn độc lập, dù người Hán có tiến hành nhiều cuộc chiến tranh xâm chiếm lẻ tẻ. Chỉ sau khi Mông Cổ chiếm Đại Lý (1253), Vân Nam, rồi sau đó chiếm nốt Trung Hoa, lập ra nhà Nguyên, thì Vân Nam mới nhập vào Trung Hoa. Năm 1381, Minh Thái Tổ mới bình định xong Vân Nam và cuộc Hán hóa hoàn tất rất nhanh. Ngày nay hơn 61% cư dân Vân Nam là người Hán.

         Vùng Lĩnh Nam chiếm làm đất Trung Hoa từ thời Tần - Hán, nhưng quá trình Hán hóa thì khá khó khăn và cho đến nay vẫn chưa xong hết (!). Cổ sử Trung Hoa chép thì Lĩnh Nam có nhiều bộ tộc Việt lập quốc như Tây Âu, Lạc Việt… có nước Dạ Lang (nhưng không thấy chép Văn Lang!). Âu và Lạc10 là một tộc Việt hay là hai tộc Việt khác nhau, cho đến tận ngày nay vẫn còn tranh cãi. Sách “Hoài Nam Tử” (139 TCN) thì chỉ viết có Tây Âu11 không có nói đến Lạc chỗ nào cả. Sách “Sử Ký” (94 TCN) muộn hơn một ít thì cũng có viết Âu, không tìm thấy chữ Lạc đứng riêng một mình, mà luôn luôn chỉ có chép Âu Lạc liền nhau12. Tuy nhiên trong Lã thị Xuân Thu (291–235 TCN) sớm nhất thì có chép” Việt Lạc-越骆”13. Việt Lạc rất có thể chính là nước Lạc Việt trong sử sách sau này, Việt Lạc là ghi âm trực tiếp từ ngôn ngữ người Việt, theo ngữ pháp Việt, còn sau này ghi Lạc Việt là ghi chép qua thông dịch sang Hán Ngữ, theo ngữ pháp Hán.

          Luận theo sử sách chép, có thể thời tiền Tần thì Âu và Lạc là hai chi Việt khác nhau. Thời kỳ chiến đấu chống lại Tần thì có thể hai chi Việt này liên minh lại với nhau thành một khối Âu Lạc. Lúc đó trung tâm là ở Nam Trung Hoa, vùng Vũ Minh Mã đầu (Nam Ninh - Quảng Tây ngày nay). Chỉ sau khi Hán Vũ Đế bình Nam Việt của Triệu Đà thì hai chi này mới lại phân chia ra, và trung tâm di về vùng quanh Hà Nội ngày nay.

          Đồng thời với nước Lạc Việt có nước Tây Âu hay Âu Việt mà người đứng đầu trong sử chép là Thục Phán. Tuy nhiên Âu Việt lập quốc lúc nào và Thục Phán từ đâu ra thì sử sách không ghi rõ. Rất nhiều ý kiến cho rằng Thục Phán là hậu duệ của vương triều nước Thục. Quả thực sử có chép một quốc gia tên là Thục Quốc, ở Tây Nam Trung Hoa ngày nay. Thường Cừ (347người đời Tấn viết trong Sách “Hoa Dương Quốc Chí”14: “Nước Thục Đông giáp nước Ba, Nam giáp Việt, Bắc phân giới với nước Tần, Tây tựa Nga Ba”. Vị trí địa lý như vậy nên cư dân ở đây bao gồm người Khương, người Việt, người Hoa Hạ. Dòng họ Khai Minh làm vua nước Thục, truyền được 12 đời, đến năm 316 TCN đời Chu Thận Vương thì bị nhà Tần diệt15, hậu duệ chạy về phương Nam. Sử chép đến đây thì đứt đoạn, không nói gì tiếp. Cho nên về sau nói Thục Phán là hậu duệ Khai Minh thị, cha Thục Phán là Khai Minh Chế chiếm lưu vực Diệp Du Thủy (tức thượng nguồn sông Hồng)16, xưng là An Tri Vương vua nước Tây Âu, sau truyền ngôi cho con là Phán, cũng chỉ là một giả thuyết, chép lại theo truyền thuyết của tộc dân Đại Y17.

          Lúc này cũng là thời kỳ theo truyền thuyết là có nước Văn Lang ở phía trung và hạ lưu sông Hồng (trong cổ sử Trung Hoa không có tên nước Văn Lang, chỉ có tên một nước là Dạ Lang, liệu có liên quan đến Văn Lang không?), do dòng họ Hùng làm vua. Việc Thục Phán là hậu duệ nước Thục, cũng như nước Văn Lang có vua Hùng trị vì 18 đời trong sử An Nam là ghi lại theo truyền thuyết. Tuy nhiên Thục Vương Tử tên Phán, Hùng Vương vua Lạc Việt, Thục diệt Hùng Vương chiếm lãnh thổ, xưng là An Dương Vương thì có ghi trong sử cổ Trung Hoa từ đầu Công nguyên.

          Theo quyển “Việt sử lược”18, của tác giả không rõ tên, có lẽ là người Việt Nam khắc in ở Trung Hoa vào quãng cuối Nguyên đầu đời Minh (~1360), có viết về nước Văn Lang, vua là Đối Vương 碓王, sau bị Thục Phán đánh đuổi, Phán xưng là An Dương Vương.

          Sách cổ “Thủy kinh chú” dẫn lại lời ghi trong “Giao châu ngoại vực ký” rằng19 “… Thục Vương Tử dẫn binh tướng ba vạn đánh lại Lạc Vương 雒王, Lạc hầu 雒侯, thu phục các Lạc Tướng. Rồi đó Thục Vương Tử xưng là An Dương Vương”. Sách “Cựu Đường thư” dẫn lại “Nam Việt chí” chép20 “Đất Giao Chỉ vô cùng màu mỡ, xưa có vua xưng là Hùng Vương 雄王, có Lạc hầu phò tá. Thục Vương Tử dẫn quân tướng ba vạn tiến đánh, diệt được Hùng Vương. Thục xưng làm An Dương Vương, cai trị Giao Chỉ”. Như vậy thì sử sách có ba tên gọi cho vua nước Lạc Việt: Lạc Vương, Hùng Vương, Đối Vương. Có nhiều ý kiến cho rằng ba tên gọi này là một, chính là Lạc Vương, các tên khác do về sau sao chép nhầm chữ Lạc của Hán ngữ mà thành21. Dầu sao thì cũng có hai lý giải về truyền thuyết danh xưng Hùng Vương, một là dòng dõi họ Hùng Vương nước Sở, hai là Lạc Vương vua của dân Lạc Việt. Dù tên tuổi đúng sai thế nào, thì Hùng Vương không chỉ thuần túy là truyền thuyết của Việt Nam, mà cũng có ghi trong cổ sử Trung Hoa. Nhân vật Thục Phán tuy nguồn cội chưa xác định, nhưng cũng có thật, đánh chiếm Lạc Việt lập nên nước Âu Lạc xưng là An Dương Vương cũng là có thật, có ghi trong chính sử không chỉ của Việt Nam22.

          Tần diệt Sở, rồi đánh chiếm Lĩnh Nam, Đô Úy Triệu Đà được Tần cắt cử quản lĩnh Quế Lâm, Tượng Quận. Nhân khi nơi nơi nổi lên chống Tần, năm 204 TCN Triệu Đà bèn chiếm Lĩnh Nam lập nước Nam Việt, đóng đô ở Phiên Ngung (Quảng Châu) và đánh chiếm Âu Lạc. Sách “Giao Châu ngoại vực ký” chép: “Nam Việt Vương Úy Đà cử binh đánh An Dương Vương. An Dương Vương có thần nhân Cao Thông phù tá, chế ra nỏ thần cho An Dương Vương, một phát giết được ba trăm mạng”23. Sách “Thái Bình Ngự Lãm” dẫn “Nhật Nam truyện” còn chép phóng đại hơn, nỏ một phát giết ba vạn người và còn kể tỉ mỉ chuyện tình Mỵ Châu Trọng Thủy, chuyện mất nỏ thần, dẫn đến An Dương Vương thất bại24. Nước Âu Lạc từ đó nhập vào nước Nam Việt25. Triệu Đà lập nước Nam Việt năm 203 TCN, giữ độc lập với nhà Hán được 92 năm, truyền 5 đời vua, đến đời Triệu Kiến Đức và thừa tướng Lữ Gia26 thì mất nước vào tay Hán Vũ Đế năm 111 TCN. Một dải Lĩnh Nam và Đông Hải bị Hán chiếm và Hán hóa kéo dài hơn ngàn năm, ngoại trừ Lạc Việt, còn lại hoàn toàn trở thành Hán. Lạc Việt, sau hơn 1000 năm nô lệ và Hán hóa, vẫn giữ được bản sắc và nền văn minh Việt, cuối cùng thì giành được độc lập và trở thành Đại Cồ Việt, Đại Việt, Nam Việt và Việt Nam đến tận ngày nay. Đó là một trường hợp duy nhất mà Trung Hoa không thể Hán hóa được.

Vì sao Đại Việt không bị Hán hóa?

          Đồng hóa dân tộc (national assimilation) gồm: 1 - Đồng hóa tự nhiên: đây là một xu hướng tự nhiên trong tiến trình lịch sử loài người. 2 - Đồng hóa cưỡng chế: sự cưỡng bức một dân tộc bị trị chấp nhận ngôn ngữ, chữ viết, phong tục, tập quán của dân tộc thống trị; đây là một tội ác.27 Người Hán đã thực hiện cả hai biện pháp đồng hóa này hơn một ngàn năm mà Đại Việt vẫn không bị đồng hóa, người Trung Hoa ngày nay tìm mọi lý lẽ để biện minh nhưng chính họ cũng không thấy thuyết phục lắm. Chẳng hạn:

          * Việt Nam ở xa Trung Nguyên, núi sông cách trở không tiện đồng hóa. Phản bác lại: Tại sao Vân Nam cũng xa, núi sông cách trở hơn nhiều mà chỉ trong mấy trăm năm đã bị đồng hóa hoàn toàn.

          * Việt Nam ở phương Nam, nóng ẩm, người Hán không ở được. Thế tại sao Hải Nam cũng như vậy mà lại ở được, đồng hóa xong rồi.

          * Tại vì số lượng người Hán di dân xuống Việt Nam ít. Thực ra, không có bằng chứng nào là ít hơn Hải Nam, Vân Nam cả. Chỉ riêng số quan lại cai trị và số quân chiếm đóng trong hơn một ngàn năm, cũng không ít hơn số dân bản địa. Chỉ có thể hiểu người Hán ở đây đã bị Việt hóa. Cũng có ý kiến cực đoan bênh vực, nói rằng thực ra đã Hán hóa dân Việt rồi nhưng từ sau năm 1945, Việt Nam đã thanh lọc lại hết!

          Cũng có một số kiến giải của người Trung Hoa bình thường ngày nay, xem ra cũng ít nhiều có lý, ví như:

          * Người Kinh có ba nguồn gốc: Người Lạc Việt, Người Thục, Người Hán. Do vậy người Kinh hấp thụ được tinh hoa của ba chủng tộc nên trở thành một tộc người ưu tú.

         * Người Hán ở Việt Nam kể cả các tầng lớp cai trị không đồng hóa được người Kinh, trái lại bị đồng hóa ngược trở thành người Việt. Người Kinh là một tộc người có năng lực đồng hóa mạnh, bằng nếu không nói là còn hơn người Hán. Hãy xem họ mở rộng về phía Nam thì rõ.

          Nhưng đó chỉ là những lý do bề ngoài mà những người bình thường có thể nhận thấy được. Thực ra, theo các nhà chuyên môn, đồng hóa dân tộc là một vấn đề khoa học lớn, rất nhạy cảm và vẫn chưa có được một lý thuyết nào đứng vững cả, vì vậy tạm thời không bàn đến lý luận trong bài này. Thông thường đồng hóa dân tộc là một sự tổng hòa gồm:

          * Đồng hóa chủng tộc, thường được thực hiện bằng một cuộc chinh phục và kẻ chinh phục hoặc diệt chủng dân bị chinh phục, hoặc xua đuổi dân bị chinh phục để thay thế bằng cư dân của phía chinh phục, hoặc pha loãng huyết thống.

          * Đồng hóa về văn hóa, tín ngưỡng.

          * Đồng hóa về tổ chức cộng đồng, xã hội.

(Về vấn đề Văn Hóa, Ngôn Ngữ, Tín Ngưỡng, đều là những yếu tố bảo tồn dân tộc Việt, xin dành cho bài sau).

Sự đồng hóa dân tộc sẽ khó được thực hiện.

          1. Nếu một dân tộc có sức sống sinh học và xã hội mãnh liệt thì sự đồng hóa chủng tộc khó thành công, ví dụ điển hình là dân tộc Do Thái.

          2. Đồng hóa về văn hóa, tín ngưỡng phụ thuộc vào trình độ văn minh của dân tộc. Một dân tộc mạnh về chinh chiến, có thể chiến thắng trong cuộc chinh phục, nhưng nếu trình độ văn minh thấp hơn thì sẽ bị kẻ bại trận đồng hóa, điển hình như tộc Hung Nô, Nữ Chân, Mãn Châu… đều chiến thắng người Hán nhưng lại bị Hán hóa.

          3. Khi một cộng đồng dân tộc có tổ chức tốt, cố kết các thành viên bền chặt, thì dân tộc đó rất khó bị đồng hóa.

          Nhìn lại thì thấy người Việt (người Kinh) có đủ cả ba yếu tố 1,2,3: Người Kinh hiện nay là nơi tập hợp các thành phần ưu tú nhất của Bách Việt, bởi lẽ khi Bách Việt bị Hán hóa, các thành phần ưu tú, tinh hoa trong xã hội Việt là mục tiêu tàn sát của người Hán, do đó các thành phần này phải tháo chạy, và nơi dung nạp họ là mảnh đất cuối trời Bách Việt, tức Việt Nam ngày nay. Hãy xem thí dụ về ngôn ngữ Ngô Việt còn lưu lại trong tiếng Việt (như đã nói ở trên), đó là một bằng chứng cho sự dịch chuyển của người Ngô-Việt xuống đây. Vì vậy tộc người Kinh có sức sống mãnh liệt.

          Tinh hoa của văn minh Bách Việt được cô đọng lại ở người Kinh, chắc chắn không kém nền văn minh Hoa Hạ. Người Việt dù không có văn tự riêng (hay có mà bị xóa sạch sau ngàn năm nô lệ) nhưng vẫn phát triển và bảo tồn được ngôn ngữ dân tộc, dù phải mượn Hán Ngữ để ghi chép, thì thật là một kỳ tích, chẳng kém gì người Do Thái vẫn giữ được tiếng Do Thái dù bị diệt chủng và xua đuổi hai ngàn năm.

          Tổ chức xã hội của tộc Việt, điển hình là làng xã đã cố kết cộng đồng rất chặt. Tổ chức nhà nước cũng có rất sớm, từ thời Chiến quốc, do đó rất khó phá vỡ, nó tồn tại dấu tích sau khi khi đã độc lập. Hãy nhớ đến Hội Nghị Diên Hồng thời Trần để thấy tinh thần của tổ chức xã hội gắn kết người dân với triều đình chặt chẽ đến mức nào. Ngay cả một vương triều thất thế, bị truy đuổi như Triều Mạc, cũng không bán rẻ đất nước cho ngoại bang. Năm 1594, Mạc Ngọc Liễn chiếm giữ Vạn Ninh, trước khi chết để di chúc cho Mạc Kính Cung: “Nay vận khí nhà Mạc đã hết, họ Lê lại phục hưng, đó là số trời, dân ta vô tội mà để phải mắc nợ binh đao, sao lại nỡ thế… Lại chớ nên mời người Minh vào trong nước ta mà để dân ta phải lầm than đau khổ, đó cũng là tội lớn không gì nặng bằng”28.

          Quân Minh đầu TK 15 cũng khó mà có thể chiếm được Đại Việt làm quận huyện nếu không có những nhóm quý tộc như nhóm Mạc Thúy, vì quyền lợi riêng bán rẻ dân tộc cho người Minh. Nên biết Mạc Thúy là hậu duệ của danh nhân Mạc Đĩnh Chi, một đại thần nhà Trần... Nhà Thanh không thể chiếm Thăng Long nếu không có vua quan bán nước Lê Chiêu Thống, tiếc thay y lại là dòng dõi của anh hùng dân tộc Lê Lợi…

          Than ôi! truyền thống thì hào hùng rực rỡ, tổ tiên phải đổ bao mồ hôi, xương máu mới có, nhưng bán rẻ nó đi thì thật dễ dàng. May sao tự ngàn xưa số những kẻ bán rẻ dân tộc như vậy là vô cùng nhỏ trong cộng đồng người Việt.1

CHÚ DẪN

          1为什么经历了一千多年的统治,中国始终不能同化越南?“Vì sao đã thống trị Việt Nam hơn ngàn năm mà cuối cùng Trung Quốc vẫn không thể đồng hóa Việt Nam?”. http://bbs.tianya.cn/post-no05-226522-1.shtml

          越南人(京族)为何难以同化 “ Người Việt Nam (tộc người Kinh) vì sao mà khó đồng hóa như vây?”  http://lt.cjdby.net/thread-1440161-1-1.html

          2 Có học giả Việt đương thời theo tự dạng vội suy đoán rằng viết như vậy có lẽ chỉ tộc người vác rìu đi (chạy) săn và tộc  người trồng lúa trong ruộng. Chứng tỏ thời bấy giờ tộc Việt thuộc văn minh săn bắn và trồng trọt. Có lẽ không phải đơn giản như vậy. Khảo sát lịch sử văn tự thì thấy rằng Việt và Việt  âm đọc  giống nhau, “Sử ký” viết là , “Hán thư” viết là . Âm đọc là từ âm đọc của chữ Vu , người cổ đọc . Vu viết theo lối chữ triện , hài thanh là chữ vũ -mưa, viết lên trên thành . Trong “Hán Thư” còn tồn nhiều chữ cổ, nên chữ Việt đều cải viết thành, sau theo lối chữ lệ , chữ khải mới viết thành ra , tức biến hóa hình chữ vũ đặt trên chữ Vu.

           3 “路史罗泌 (1131—1189) 宋朝 : 越裳, 雒越, 瓯越瓯皑,  且瓯, 西瓯, 供人, 目深, 摧夫, 禽人, 苍梧, 越区, 桂国, 损子, 产里(西双版纳), 海癸, 九菌, 稽余, 北带,仆句, 区吴(句吳), 是谓百越。

          #4 http://www.sino-platonic.org/complete/spp176_history_of_yue.html

 The Submerged History of Yuè. By Eric Henry, University of North Carolina

          5 史記-司馬遷 (145 – 86 TCN)

          6屈原在《离骚: 帝高阳之苗裔兮,朕皇考曰伯庸- Ðế Cao Dương chi miêu duệ hề, Trẫm hoàng khảo viết Bá Dung.

          7《史记.楚世家》记载: “封熊绎于楚蛮- phong Hùng Dịch ư Sở Man “, “ 熊渠曰: 我蛮夷也不与中国之号谥- Hùng Cừ nói: Ta là dân man di, không cùng hiệu, thụy của Trung quốc. Hùng Dịch (~1006 TCN) là vua lập ra nước Sở, Hùng Cừ (~877 TCN) là vua Sở về sau. Sở Man là tên nhà Thương, Chu gọi dân Kinh Sở bản địa, Man tức là Man Việt, tên tộc Việt thời nhà Thương.

          8 Jerry Norman and Tsu-lin Mei, Monumenta Serica, Vol. 32 (1976), pp.274-301, Published by: Taylor & Francis, Ltd.

          9 五岭 Ngũ Lĩnh-dãy núi phía Nam Trung Hoa chạy qua biên giới các tỉnh Quảng Tây, Hồ Nam, Giang Tây, Quảng Đông, có năm đỉnh cao (Ngũ lĩnh) là 越城 (Việt Thành)、都庞 (Đô Lung), 萌渚 (Manh Chử), 骑田 (Kỵ Điền), 大庾(Đại Dữu).

          10 Chữ Lạc có nhiều cách viết, đều đọc là Lạc. Hai chữ  , thường dùng như nhau để chép Lạc Việt trong sách cổ. Tiếng Bắc Kinh đọc là Luo, Quảng Đông đọc lok, Đời Đường đọc lak. Nhiều học giả cho rằng nguồn gốc chữ Lạc là do người Hán ghi âm chữ Lúa, Ló của người Việt, người Mường mà ra. Người Việt là tộc người có nền văn minh lúa nước.

11《淮南子·人间训:(秦皇)又以卒凿渠而通粮道,以与越人战,杀西呕君译吁宋。Hoài Nam Tử. Nhân gia huấn: (Tần Hoàng) cho quân đào kênh thông đường vận lương, rồi đánh người Việt, giết được vua Tây Âu là Dịch Hu Tống”.

12《史记·南越列传》赵佗上呈汉文帝的谢罪书且南方卑湿,蛮夷中间,其东闽越千人众号称王,其西瓯骆裸国亦称王。” Triệu Đà dâng thư tạ tội với Hán Văn Đế: “ đất phương Nam thấp, ẩm ướt. Trong các tộc man di ở đây, (chỉ dám) xưng vương phía Đông với dân Đông Âu vài ngàn khẩu, phía Tây với nước Âu Lạc khỏa thân (ý nói  đóng khố cởi trần).

13《吕氏春秋·孝行览·本味篇》:和之美者:阳朴之姜,招摇之桂,越骆之菌。高诱注:越骆,国名。菌,竹笋。  Lã thị Xuân Thu-Hiếu hạnh lãm, bản vị thiên:” Những thứ hoàn mỹ  là gừng Dương Phác, quế Chiêu Diêu, Khuẩn (Măng) Việt Lạc” Cao Dụ chú giải:” Việt Lạc là tên nước, Khuẩn là măng tre”.

14 常璩(347)华阳国志-(卷三蜀志): Thường Cừ, “Hoa Dương Quốc Chí” (quyển3-ThụcChí): “历夏、商、周,武王伐纣,蜀与焉。其地东接于巴,南接于越,北与秦分,西奄峨嶓。” Trải qua Hạ, Thương, Chu,Vũ Vương phạt Trụ, cùng có nước Thục. Nước đó đông giáp nước Ba, nam giáp nước Việt, bắc phân giới với Tần, Tây dựa Nga Ba” (vì vậy cư dân ở đây có thể là người Khương, Hoa Hạ và Việt-TGN).

#15“华阳国志·蜀志:周慎王五年秋,秦大夫张仪、司马错、都尉墨等从石牛道伐蜀,蜀王自于葭萌拒之,败绩。王遁走,至武阳为秦军所害,其相、傅及太子退至逢乡,死于白鹿山。开明氏遂亡,凡王蜀十二世 ““Hoa Dương Quốc Chí, thiên Thục Chí”: “Mùa thu đời Chu Thận Vương thứ năm, các Đại Phu nhà Tần là Trương Nghi, Tư Mã Thác, Đô úy Mặc v.v theo đường Thạch Ngưu tiến phạt Thục. Thục Vương thân cùng Gia Mạnh cự địch, bị thất bại. Vương tháo chạy đến Vũ Dương thì bị quân Tần hại, Thái tử thoái lui về và chết tại núi Bạch Lộc. Dòng họ Khai Minh, truyền được 12 đời, đến đây bị diệt”. Vũ Dương nay là huyện Bành Sơn,Tứ Xuyên.

16 叶榆水

17岱依人

18《越史略》卷一载:周庄王时嘉宁部有异人焉,能以幻术服诸部落,自称碓王,都于文郎,号文郎国。以淳质为俗,结绳为政,传十八世,皆称碓王。越勾践尝遣使来谕,碓王拒之。周末为蜀王子泮所逐而代之。泮筑城于越裳,号安阳王,竟不与周通。” .: Việt sử lược: “thời chu Trang Vương, ở Gia Ninh bộ có người tài, dùng xảo thuật thu phục được các bộ lạc, tự xưng là Đối Vương, đô ở Văn Lang, nước là Văn Lang. Tục lệ thuần hậu, chính sự nghiêm chỉnh, truyền 18 đời, đều xưng là Đối Vương. Việt Vương Câu Tiễn đã từng đến dụ, Vương đều từ chối. Vào cuối đời nhà Chu bị Thục Vương Tử tên là Phán đánh đuổi,  thay thế trị vì. Phán xây thành Việt Thường, hiệu là An Dương Vương, tuyệt giao với nhà Chu”.

19《水经·叶榆水注》中注引《交州外域记》云:交趾昔未有郡县之时,土地有雒田,其田从潮水上,民垦食其田,因名为雒民。设雒王、雒侯主诸郡县。??后蜀王子将兵三万来讨雒王、雒侯,服诸雒将。蜀王子因称为安阳王。Sách “Thủy Kinh.Diệp Du Thủy chú”, dẫn theo “Giao Châu Ngoại Vực Ký” viết rằng: Giao Chỉ thời chưa có quận huyện, đất đai thì có Lạc điền, nước ruộng lên xuống theo triều, dân làm ruộng sinh sống, nên gọi là Lạc dân. Thiết đặt Lạc Vương, Lạc hầu cai quản các quận huyện. ?? về sau Thục vương tử xua quân tướng ba van đánh Lạc Vương, Lạc Hầu, thu phục các Lạc Tướng. Thục vương tử xưng là An Dương Vương.

20《旧唐书·地理志》则引《南越志》云:交趾之地,最为膏腴,旧有君长曰雄王,其佐曰雄侯。后蜀王将兵三万讨雄王,灭之。蜀以其子为安阳王,治交趾。Sách “Cựu Đường Thư” dẫn lại “Nam Việt Chí” viết rằng: Đất Giao Chỉ rất mầu mỡ, xưa có vua gọi là Hùng Vương, phò tá là các Hùng Hầu. Về sau ba van quân tướng của Thục vương đánh bại Hùng Vương. Con của Thục Vương xưng là An Dương Vương, cai trị Giao Chỉ.

21 So sánh các sách thì “Giao Châu ngoại vực ký” là cổ nhất, ít nhất là trước đời Ngụy Tấn (TK3), “Nam Việt Chí” soạn sau thời Bắc Ngụy, còn “Việt sử lược” có lẽ soạn thời Hồng Vũ (~1358) nhà Minh sau này. Quân Vương của nước Lạc Việt theo  sách cổ  nhất (“Giao châu ngoại vực ký”) ghi là Lạc Vương 雒王, sách về sau (Việt sử lược, Nam Việt chí) thì ghi là Đối Vương 碓王, Hùng Vương 雄王. Một số học giả Trung Hoa và Quốc tế ngờ rằng ba chữ , , (bộ thủ “chuy “) nguyên chỉ là chữ (Lạc) do mấy trăm năm sau sao chép nhầm phần các chữ ghép (chữ các thành chữ thạch hay chữ quăng ) mà ra. Tuy nhiên nhiều học giả Viêt Nam không nhất trí, vì cho rằng các nhà Nho Việt Nam ngày xưa đều rất uyên thâm, khó mà lầm lẫn được. Ai cũng có lý cả!

22 Các sách của Việt Nam có nói đến Hùng Vương, An Dương Vương cổ nhất như Lĩnh Nam Chích Quái 嶺南摭怪, Việt Điện U Linh Tập 粵甸幽靈集 hay Đại Việt sử ký toàn thư 大越史記全書  thì cũng soạn vào thời Trần, muộn hơn nhiều so với các sách của Trung Hoa như Giao Châu Ngoại Vực Ký 交州外域记, Thái Bình Ngự Lãm 太平御览. Cho nên các sự tích và tên tuổi như Hùng Vương, An Dương Vương… chắc là chép lại từ sách Trung Hoa, vì Việt lúc đó không có chữ viết… Tất nhiên, cũng không loại trừ có những ý kiến khác.

23《交州外域记: “南越王尉佗举众攻安阳王。安阳王有神人皋通,下辅佐,为安阳王治神弩一张,一发杀三百人”: Nam Việt Vương Úy Đà cử binh đánh An Dương Vương. An Dương Vương có thần nhân Cao Thông xuống phù tá, chế ra nỏ thần cho An Dương Vương, một phát giết được ba trăm mạng”.

24《太平御览》卷348:《日南傳》曰:一發萬人死,三發殺三萬人。佗退,遣太子始降安陽。安陽不知通神人,遇無道理,通去。始有姿容端美,安陽王女眉珠悅其貌而通之。始與珠入庫盜鋸截神弩,亡歸報佗。佗出其非意。安陽王弩折兵挫,浮海奔竄: “Thái Bình Ngự Lãm, quyển 348 dẫn “Nhật Nam Truyện” viết:.. một phát giết vạn người, ba phát giết ba vạn người. Đà lui, sai thái tử Thủy hàng An Dương. An Dương không biết Thông là thần nhân, thấy (vua) không hiểu đạo lý, Cao Thông bèn bỏ đi. Thủy có tư dung đoan mỹ, con gái An Dương Vương là Mỵ Châu vì thích y đẹp mà xiêu lòng. Thủy sai Châu vào kho cưa đứt nỏ thần rồi về nước báo tin. Đà liền xuất kỳ bất ý (tiến đánh). An Dương Vương nỏ gãy binh tan, trốn chạy ra biển. (Thái Bình Ngự Lãm là sách soạn vào thời Bắc Tống (977 -984), trích dẫn “Nhật Nam Truyện” thì chắc là còn cũ hơn. “Nhật Nam Truyện” hình như đã thất truyền, chỉ thấy trích dẫn lại ở sách này-TGN).

25 Người viết bài này đã đến thăm và khảo sát khá kỹ Bảo Tàng Nam Việt Vương ở Quảng Châu. Bảo tàng xây trên khu lăng mộ của Triệu Mô, vua kế vị Triệu Đà (Thủy chết sớm, Mô là con Thủy thay). Ngôi mộ được phát hiện năm 1983, hầu như còn nguyên vẹn, đồ tạo tác rất kỳ vĩ, tinh xảo chứng tỏ trình độ văn minh của người Việt lúc đó khá cao, nếu không nói là hơn hẳn người Hán. Xem bảo tàng thấy các cổ vật trưng bày như thạp đồng, trống đồng, vũ khí… giống in và còn phong phú hơn nhiều so với Bảo Tàng Lịch Sử quốc gia Việt Nam giai đoạn lịch sử đó.

#26 Lữ Gia, Thừa tướng nắm quyền hành của nước Nam Việt, chống lại nhà Hán,  thua trận bị chém chết. Lữ Gia và người ở Quận Cửu Chân (Thanh Hóa ngày nay), lăng mộ và đền thờ hiện còn ở Ân Thi, Hưng Yên

27Nguyễn Hải Hoành: Tại sao Việt Nam không bị đồng hóa sau 1.000 năm Bắc thuộc? - http://nghiencuuquocte.org/2015/09/07/viet-nam-khong-bi-dong-hoa-1000-nam-bac-thuoc/#sthash.0FZriY2F.dpuf.

28 Đại Việt sử ký toàn thư - NXB VHTT năm 2000, tập 3, trang 294.

* Người viết bài này xin bày tỏ lời cảm ơn nhà Hán học, dịch giả Trần Đình Hiến về những thảo luận, góp ý quý giá cho phần dịch các đoạn trích trong các sách sử cổ viết bằng văn ngôn trên đây.