“Tù hú! Tù hú! Chắc. Chắc… chắc!
Tiếng chim nghe quen thuộc. Chim báo rằng: Lúa tháng năm sắp chín,
mùa năm nay được. Một tiếng chim tù hú gọi mùa cũng đủ gợi nhớ về một miền quê
cho những ai đi xa. Quê hương kháng chiến đang vươn lên muôn màu muôn vẻ: Trống
rung trong đêm hội tòng quân, những dân công vai gánh vai gồng lên đường, một
vụ chiêm thắng lợi, tiếng trẻ học bài ê a cho năm học kết thúc tốt đẹp, tất cả
để cho tiền tuyến giành chiến thắng này qua chiến thắng khác, nào Lương Mai,
Phò Trạch, nào Xuân Bồ, từ Sen Bàng sang Ba Đồn…
Trường Sơn đã lùi xa về phía sau. Cây mua cây sim hai bên đường mỗi
bước một thưa dần và đến đây hầu như không còn nữa. Liêu dừng chân. Trải rộng
trước mắt anh là cả một cánh đồng lúa bắt đầu chín lấm tấm vàng. Bên kia cánh đồng,
sau lũy tre xanh thẳm, tháp chuông nhà thờ nhô lên cao, giống hệt một ngòi bút
khổng lồ đang phác vẽ vào nền trời những đám mây mùa hè và những cánh chim.
Tiếng chuông nhà thờ đổ hồi ngân nga…
Liêu là một cán bộ quân đội. Đầu đội mũ nan, chân đi dép cao-su.
Cái ba lô vải nằm gọn gàng sau vai. Bên nách đeo toòng teng một ruột tượng gạo
còn khoảng vài ba lon. Anh lại sải bước trên đường, băng qua cánh đồng. Những
con chiền chiện lách mình kiếm ăn trong lúa, nghe động người đi, vụt bay bổng
lên, gieo vào không trung tiếng hót lảnh lót, thanh cao… Liêu chiến đấu trong
một trung đoàn tình – nguyện – quân Việt Nam, hoạt động trên chiến trường Trung
Lào. Xa quê hương xa Tổ quốc đã hai năm, lẽ ra ngày trở lại này đối với Liêu
thật là vui… Nay Liêu về vì một chuyện không lấy gì làm hay, theo lệnh triệu
tập của Trung đoàn.
Cảnh vật đang vẽ lên trước mắt Liêu, ở mỗi góc trời quê là một bức
tranh tuyệt đẹp, một khúc dân ca thoảng vọng, tiếng đỗ quyên giục giã vào hè,
tất cả như cố tình đưa lại cho anh niềm vui, làm khuây khỏa, vơi đi trong anh
mọi buồn phiền.
Một làn gió thổi qua, uốn sóng trên đồng lúa. Gió thổi phồng thân
áo, thổi lật cả mũ nan của Liêu. Chừng như trong hơi gió đượm hương lúa, Liêu
còn bắt gặp một mùi thơm khang khác, vừa là lạ vừa trìu mến… Anh nhớ ra rồi,
đấy là hương hoa dẻ.
Chao ơi là nhớ! Liêu nhớ đến quê hương mình, cũng có cánh đồng lúa
chiêm, cũng có tháp chuông nhà thờ và tiếng chuông đồng vọng, còn có cả dòng
sông xanh uốn khúc, ôm ấp một thời thơ ấu của mình. Những buổi trưa hè anh cùng
trâu đầm mình dưới sông, cùng bè bạn vật nhau, giành cướp nhau từng bông hoa để
trước cổng đình. Rồi những đêm cho trâu ăn dưới trăng, ngồi trên lưng trâu thổi
sáo trúc véo von… Liêu những muốn gọi to lên tên các bạn: “Tuấn, Tín, Lựu,
Đào…!” Bây giờ chắc rằng ai nấy đã ấm tổ cả rồi.
Lác đác trước mặt Liêu có những đám ruộng lúa sớm đang gặt. Bà con
nông dân vừa gặt vừa ví hát. Liêu bỗng nhớ đến một thằng bạn cùng học một khóa
sĩ quan với Liêu. Tên hắn là Chung, vốn là một cậu học sinh nông thôn yêu thơ
và đầy mơ mộng. Ngày mãn khóa chia tay, Chung đã chép tặng vào sổ lưu niệm của
Liêu một bài thơ tự sáng tác. Như hợp tình hợp cảnh. Liêu cất giọng ngâm bài
thơ ấy của bạn, những mong nói lên tình cảm mình, những muốn cho lời thơ và
giọng ngâm của mình được bay cao trên cánh đồng, bay thật xa khắp đó đây, biết
đâu lại chẳng lọt vào tai một cô gái quê trong mùa gặt này:
“Khi nào mùa lúa chín
“Em sẽ đón anh về
“Cùng nhau ta gặt lúa
“Ví hát giữa đồng quê
“……………………..
“Rồi mùa, hai cha mẹ
“Bàn lễ cưới chúng mình
“Anh và em chẳng nói
“Đỏ mặt đứng làm thinh…”
Liêu mỉm cười và tự hỏi: “Bao giờ hạnh phúc ấy đến với mình?”
Chiều hôm đó Liêu về đến Phước Sơn. Đứng ngoài nhìn vào, làng chẳng
khác gì một rừng cọ im mát, yên tĩnh nằm bên bờ sông Gianh miền thượng nguồn.
Trong làng, người đi lại thưa thớt, có chờ hàng tiếng đồng hồ cũng chưa chắc đã
thấy bóng dáng bộ đội.
Đi qua một bãi dâu cao quá đầu người, Liêu nhìn thấy trên cây cọ có
một tấm biển quét vôi, chữ đen: “Trạm liên lạc 35”, dưới có mũi tên chỉ vào một
căn nhà lá nhỏ, lối vào nhà có trồng chè mãn hảo hai bên, trên thả tơ hồng leo
loắn xoắn vàng.
Liêu vào đứng giữa sân, trông trước ngó sau chẳng thấy một ai. Ánh
mặt trời chiều chiếu xô vào cửa, bóng cau ngã xuống sân gối cả vào thềm nhà.
Liêu trút một hơi thở khoan khoái, rồi bỏ ba lô, ngồi bệt xuống trước hiên nhà
nghỉ chân.
Đang lúc không ai để ý đến ai, từ phía ngoài cổng một người con gái
gánh một gánh cỏ đầy, chạy thẳng vào sân. Hai người đột ngột trông thấy nhau.
Liêu thì vội vàng đứng lên, người con gái thì đặt cỏ xuống, thẹn thùng sửa sang
lại tấm áo trên mình, tránh những sơ hở như cài lại khuy cổ áo…
Khoảnh khắc ngỡ ngàng trôi qua, cả hai đều đã trấn tĩnh nhanh
chóng. Rồi, người con gái lễ phép hỏi trước:
- Thưa anh! Anh hỏi thăm ai?
- Xin lỗi cô, trạm liên lạc của bộ đội đóng tại nhà này phải không.
Không nhịn nổi, cô gái đã phì cười, vội đưa tay che miệng, nghiêng
mặt sang bên để tránh thái độ bất nhã. Điều đó càng làm cho Liêu vô cùng khó
hiểu: “Mình có sơ suất gì chăng?”
Cô gái đã trở lại điềm đạm:
- Thưa anh, trạm liên lạc bộ đội ở cách đây tới ba nhà nữa.
Liêu khẽ cau mày:
- Tại sao mũi tên ở tấm biển kia lại chỉ vào đây?
- Chắc rằng họ cắm nhầm – cô gái mỉm cười – Anh chịu khó ra ngoài
đó, em chỉ cho.
Liêu nhìn kỹ cô gái một lượt và để ý thấy những bông hoa dẻ chín
vàng treo lủng lẳng trong vành nón cô gái. “Con cái nhà ai mà dễ thương lạ
lùng!” Liêu lại khoác ba-lô lên vai, theo cô gái ra cổng, lòng bâng khuâng…
Cô gái chỉ lối đi.
- Bỏ cổng này, anh đến cổng thứ ba, chỗ có gốc xoan to thì vào. Em
thấy bộ đội thường ra vào ở đấy.
Chừng như Liêu không để ý đến lời chỉ đường, đang mải nhìn vào vành
nón cô gái, rồi buột miệng hỏi:
- Ở đây, hoa trong vành nón ấy, gọi là hoa gì hở cô?
Cô gái đỏ mặt:
- Hoa dẻ, anh ạ!
- Quê tôi cũng gọi là hoa dẻ. Hoa dẻ thơm thật. Cô cho tôi xin vài
bông nào!
Cô gái thẹn, đôi bàn tay trắng nhỏ của cô run run, gỡ hoa dẻ từ
vành nón, trao cho Liêu, vừa chạm đến tay anh, cô đã ù té chạy. Liêu nhìn theo
cô gái chạy hút vào giữa hai hàng chè mạn hảo phủ tơ hồng, bồi hồi một niềm
vui.
Cô gái ấy tên là Hoa, con út bà Nhương, một người mẹ góa. Cô bước
vào đầu năm mười bảy tuổi, cũng vừa mới được kết nạp vào Đoàn thanh niên hồi
tháng hai. Hoa có người anh đầu đi bộ đội, chị gái đã lấy chồng, người anh sinh
gần cô hiện đang học ở trường thiếu sinh quân. Hoa là một cô gái khá nết na từ
công việc đồng áng, cửa nhà, đến công tác xã hội đều chăm chỉ siêng năng, bà
con, bầu bạn ai ai cũng mến.
Hoa lấp ló ở hiên nhà, chờ cho anh bộ đội đi khỏi rồi mới dám ra
lại, lấy cái biển chỉ đường nọ treo vào chỗ cũ của nó. Vừa móc biển lên gốc cọ,
cô vừa nói một mình:
- Thằng quỷ ấy cứ đùa dai mãi.
Trong lúc đó, Tân và Luyến, hai thanh niên trong xóm, nhiều lắm
cũng chỉ hơn Hoa một vài tuổi đang kéo nhau nấp vào sau một khóm cây dâm bụt.
Hoa không để ý thấy họ, móc xong tấm biển vào gốc cọ liền trở vào nhà.
Để Luyến ngồi lại chỗ bên khóm dâm bụt, một mình Tân rón rén đến
bên gốc cọ, gở tấm biển, đem treo lại chỗ cũ.
Vừa lúc Hoa ngoái lại thấy Tân đang treo biển:
- Thằng quỷ nhà trời! Sao mày quá lắm thế? Vừa có anh bộ đội nhầm
đấy!
Tân đưa nắm tay lến dứ dứ, đe dọa, vừa quát:
- Im đi con yêu! Để mặc người ta!
- Bộ đội chém cổ đi đấy!
Tân vẫn tiếp tục hành động:
- Bộ đội, trái lại, rất thương tao.
Hoa cau hai nét lông mày thanh nhỏ:
- Thương gì thứ mày?
Treo xong biển, Tân rời khỏi gốc cọ, làm bộ nhơn nhơn trước mặt
Hoa, một tay ấp lên ngực, hài hước:
- Bộ đội thương vì tao đã treo biển ở đây, báo cho họ biết rằng tại
nhà này có một bông hoa tuyệt đẹp.
Hoa rút đòn gánh cỏ đuổi Tân, Tân vừa chạy vừa reo cười, hoan hô,
cả người lẫn tiếng phút chốc hút vào trong xóm.
Luyến bấy giờ mới đứng lên bên khóm dâm bụt, thích chí cười tủm
tỉm. Cậu học sinh con nhà khá giả này vốn nhát, chỉ biết đi theo bạn để xem bạn
đùa. Cậu là con trai một của bà Thành, hiện học ở trường Phan Bội Châu. Luyến
sắp cưới Thìn, con gái ông Bản, cùng ở làng này. Nghe đâu đã ăn hỏi giữa hai
gia đình nhưng gần đây người ta xì xào rằng cô Thìn hình như không ưa tính nết
bà Thành, sợ không hợp, cậu Luyến thì lại cứ thích đi chơi với Tân, Tân không
theo học ở trường phổ thông, mà cùng học lớp bổ túc buổi trưa với Hoa. Hắn là
một thanh niên khỏe mạnh, nghịch ngợm, thường là một anh chàng đầu tiên trong
mọi trò đùa, giữa bạn bè như chuyện vừa rồi…
Có lớp trai gái mới lớn lên, vui vẻ, trẻ trung, nếu không, làng
Phước Sơn e sẽ chết lụi vì buồn ở nơi ngọn nguồn sông Gianh này.
Trung đoàn trưởng trạc tuổi ngoài bốn mươi. Tóc rễ tre đã ngả màu
tiêu muối. Ông có cặp lông mày rậm đen như hai vết mực xạ. Một hàm râu quai nón
luôn luôn được cạo nhẵn thành một màu phơn phớt xanh trên gương mặt luôn hồng
hào của ông. Ông vừa về nhận công tác ở trung đoàn này khoảng vài ba tuần lễ
nay.
Đang ngồi ở bàn làm việc đầy vẻ chăm chú, cây bút chì xanh đỏ trên
tay trung đoàn trưởng đang lướt qua lướt lại trên tấm bản đồ quân sự hổng ngừng
lại. Chừng như có một ý nghĩ đột ngột nẩy sinh, ngồi im một lúc, trung đoàn
trưởng quay sang, hỏi người cán bộ, chắc là sĩ quan tham mưu ở bàn làm việc gần
đấy:
- Anh có biết hôm qua là nước cờ gì không?
Anh cán bộ bị hỏi đột ngột chưa thể trả lời kịp:
- Đồng chí nói nước nào ạ?
- Nước “phào đất, xe mặt” ấy!
Anh cán bộ tham mưu lắc đầu:
- Thưa đồng chí, tôi chịu đấy, tôi chưa sạch nước cắn.
Trung đoàn trưởng gật gù:
- Đó là thế cờ “Thụy đế” một thế cờ vô cùng nguy hiểm.
Thì ra, trung đoàn trưởng đang cay cú với ván cờ tàn hôm qua. Ông
còn một xe đứng giữa mặt tường bên kia còn xe pháo. Hai bên sĩ tượng đều trọc,
ai cũng nghĩ rằng hòa, vậy mà ông đã thua một cách đau đớn. Đối thủ là một
chàng trai lạ mặt.
Song, cay cú chỉ là chốc lát trung đoàn trưởng lại tiếp tục công
việc nghiên cứu trên tấm bản đồ quân sự.
Buổi sáng ở làng Phước Sơn, nơi đóng quân của trung đoàn bộ trung
đoàn tình nguyện quân Việt Nam thật yên tĩnh, rất hợp cho công tác nghiên cứu,
công việc bàn giấy…
Bóng người con gái, con ông chủ nhà, từ nhà trong thoăn thoát đi
ra. Đến trước nơi làm việc của trung đoàn trưởng, cô gái đặt đĩa khoai luộc
trên mặt bàn kêu “soạt” xong chạy vội vào nhà thoát thân.
Trung đoàn trưởng ngước lên, hơi ngơ ngác. Ông nhìn thấy đĩa khoai
bốc hơi trước mắt, liền lườm theo bóng cô gái vừa mất hút vào nhà trong với đôi
mắt nhiều lòng trắng đầy khó chịu! Khó chịu hơn nữa là hai chị em cô gái nọ lại
còn đấm nhau, cấu véo nhau, cười như nắc nẻ trong nhà, trung đoàn trưởng lên
tiếng, mời một cô ra cho ông gặp.
Cô gái ban nãy là cô em. Bây giờ cô chị mới ra, bẽn lẽn, từng bước
đến ôm lấy cái cột nhà cạnh bàn làm việc của trung đoàn trưởng để nghe ông nói.
Trung đoàn trưởng, giọng nghiêm nghị:
- Tôi không quen ăn sáng. Lần sau các cô đừng làm thế nhé!
Cô gái lễ phép, tay mân mê cột nhà:
- Thưa ông, thầy em bảo, nhà có khoai mới, đem mời ông lót dạ cho
vui. Em em, nó… không biết thưa…
- Tôi không quen mà lại! – Giọng nói trung đoàn trưởng đã bực –
Việc nữa, các cô cũng nên bỏ lối cười đùa như vừa rồi đi ồn lắm, tôi không làm
việc được.
Cô ả chỉ biết đỏ đừ mặt, lại mân mê cái cột nhà.
Thấy vậy, ông chủ nhà lật đật chạy lên xin lỗi:
- Thưa ông, tôi tưởng quen vui như các anh bộ đội trước ở trong nhà
mới dám bảo các cháu mời anh xơi củ khoai, uống nước mới. Cũng chưa biết tính
nên đã quấy rầy ông… Ông xá lỗi cho…
Trung đoàn trưởng dịu xuống:
- Cụ nên hiểu cho, chúng tôi làm việc cứ phải có giờ, có giấc, giờ
nào việc nấy. Công việc của tôi là vô cùng bận, chẳng thể ngừng lại mà ăn khoai
giữa chừng được. Hơn nữa, các cô trong nhà ta cười đùa nhiều quá không hợp với
nơi bàn giấy cần nghiêm túc, yên tĩnh.
Ông chủ nhà hấp háy mắt, miệng lia lịa:
- Vâng… vâng… vâng ạ! Thôi thế… xin ông tha thứ cho các cháu.
Đoạn, ông chủ quay sang con gái:
- Con cất ngay khoai đi và bảo em bưng nước ra đây mời ông xơi. Từ
nay về sau chớ có được chọc ghẹo nhau nữa, nghe con! Con cái… thật quá…
Trung đoàn trưởng thanh minh:
- Tôi không phải khó tính, cũng chẳng là cầu kỳ. Bộ đội không sống
với dân thì sống với ai? Song, trong giờ làm việc cứ phải dứt khoát, còn giờ
nghỉ hoàn toàn tha hồ. Nếu cụ hay chơi cờ tướng, tôi sẵn sàng hầu. Cụ hiểu chứ
chúng tôi là người cán bộ làm việc mà nhom nhem, thì đội viên sẽ lại làm quá
hơn. Tiếc rằng, chưa có lúc nào rảnh mà trò chuyện với cụ một vài bận cho vui,
để biết tính nhau.
- Vâng… vâng… tôi cũng nghĩ thế đấy ạ.
Cụ chủ nhà đón lấy ấm nước trên tay con gái, rồi vội mời trung đoàn
trưởng uống.
Trung đoàn trưởng đành phải bưng bát nước uống để chủ nhà được vui
lòng.
- Chè ở đây thơm ngon, chẳng khác gì chè Phú Thọ - trung đoàn
trưởng trở nên vui vẻ - ngày trước tôi là anh nghiện chè xanh đấy cụ ạ, uống
nó, thức đêm mấy cũng được.
Thế là từ đấy, trung đoàn trưởng với cụ chủ nhà đã có sự thông cảm,
gần gũi. Còn hai cô gái con cụ chủ nhà thì cũng từ đấy chỉ còn biết nhìn trộm,
cười thầm – Họ càng buồn cười cho ông già bộ đội ấy.
Cụ chủ nhà đang rót nước tiếp cho trung đoàn trưởng ngoài sân, một
người đàn ông, quân phục chỉnh tề vào tới hiên nhà thì đứng nghiêm, rồi đưa tay
lên chào.
Trong nhà, trung đoàn trưởng ung dung bỏ bát nước đứng lên đáp lễ.
Chẳng qua là phản ứng dây chuyền, cụ chủ nhà lúc đó cũng đứng
nghiêm luôn, chòm râu rung rung.
Người đàn ông mới đến, sau khi chào:
- Báo cáo trung đoàn trưởng! Tôi đại đội trưởng Trần Chí Liêu, theo
lệnh gọi của ban chỉ huy xin có mặt.
Chính đó là đối thủ cờ tướng lạ mặt của trung đoàn trưởng hôm qua.
Anh ta mặc áo quần mầu tro, chân đi giầy cao cổ, mũ ca lô đội lệch cũng đồng mầu
áo quần.
Trung đoàn trưởng cho phép Liêu vào. Liêu ngồi ở ghế vế bên phải
bàn, mặt hướng vào trung đoàn trưởng. Cụ chủ nhà vội thu ấm chén, lặng lẽ rút
lui.
Từ khi được biết Liêu qua giấy tờ, trung đoàn trưởng đã hình dung
ra anh có một cặp mắt xếch rất bướng bỉnh, một hàm râu ngang ngạnh một gương
mặt già dặn, táo tợn. Nay, hoàn toàn trái ngược! Liêu trước mặt trung đoàn
trưởng là một thanh niên, gương mặt chưa hết nét ngây thơ của một cậu bé, râu
hoàn toàn chưa có trên mép chỉ là một lớp lông măng. Tuy vậy, chẳng đến nỗi thư
sinh, gặp Liêu lần đầu người ta dễ có cảm giác đó là một con cá miền bề, bởi
thân hình khỏe mạnh, làn da rám nắng. Mái tóc quăn, đan tóc xoăn thành những
vòng tròn dưới vành mũ ca lô, tạo nên cho gương mặt anh một nét đẹp khỏe khoắn.
Trung đoàn trưởng hỏi:
- Đồng chí Liêu năm nay bao nhiêu tuổi rồi nhỉ?
- Thưa trung đoàn trưởng, tôi hai mươi mốt tuổi.
Trung đoàn trưởng khẽ nhíu lông mày:
- Vậy, đồng chí làm đại đội trưởng từ bao giờ?
- Thưa… đầu năm 1951.
Trung đoàn trưởng lầm nhẩm tính, rồi lên tiếng khen:
- Triển vọng vô cùng! Đồng chí nên nhớ rằng, ngày xưa tôi đi lính
cho Pháp, quá “tam thập” rồi mà họ chỉ mới “nom-mê-ách-xi-đằng” thôi đấy – Thở
hắt ra một hơi rõ mạnh – Bây giờ, các anh đúng là mầm non tốt đẹp của thế hệ.
Đoạn trung đoàn trưởng như tiếc đời, nhìn ra xa xôi, khẽ lắc đầu,
chép miệng, nói một mình:
- Tuổi xanh không bao giờ trở lại!
Sau khoảnh khắc thả hồi ức về dĩ vãng, giọng nói trung đoàn trưởng
trở nên khô cứng.
- Chúng tôi bây giờ tiếc chẳng hết, chỉ biết khuyên các anh, phải
luôn luôn học hỏi, cầu tiến bộ, đừng có kiêu căng. Hẳn đồng chí đã biết chuyện
con rùa và con thỏ chạy thi – Vì quá kiêu căng tự mãn, chủ quan nên thỏ đã ngậm
đắng chịu thua rùa.
Liêu làm bộ khó hiểu:
- Thưa trung đoàn trưởng, đồng chí nói gì mà tôi chẳng hiểu gì cả.
Trung đoàn trưởng cười gằn:
- Đồng chí chưa hiểu thật ư? Tôi về nhận công tác ở trung đoàn này,
được biết đồng chí là một cán bộ bướng bỉnh nhất đơn vị - Chừng như trung đoàn
trưởng bắt đầu nổi nóng – Nguyên do chính là đồng chí quá tự kiêu, tự phụ, cũng
vì vậy nên đồng chí đã phạm vào kỷ luật vừa qua.
- Thưa trung đoàn trưởng, tôi đã phạm kỷ luật như thế nào ạ? – Liêu
tỏ thái độ cứng rắn.
Câu hỏi của Liêu đã làm cho trung đoàn trưởng bắt đầu “say men”.
Ông dằn từng tiếng:
- Ai ra lệnh cho đồng chí tác chiến ở cùng bản Thập?
- Thưa trung đoàn trưởng, lực lượng vũ trang gặp giặc lại không
đánh ư? Để cho nhân dân thiệt hại ư?
- Đánh, nhưng phải có tổ chức. Sinh ra cấp trên là để chỉ huy cấp
dưới. Tại sao tiểu đoàn chưa hạ lệnh mà đồng chí đã tác chiến?
Cuộc đối thoại giữa trung đoàn trưởng với Liêu mỗi lúc một căng như
lên dây đàn.
- Thưa trung đoàn trưởng, chờ được lệnh của tiểu đoàn thì giặc đã
đốt hết nhà dân. Hơn nữa, đứng về tinh thần chiến thuật mà nói, chống càn cần
phải tích cực, linh hoạt và cơ động. Do đó, trong hoàn cảnh giặc càn vào vùng
bản Thập, chúng tôi phải tổ chức chiến đấu.
- Cơ động, linh hoạt, không có nghĩa là tự động vô tổ chức. Đồng
chí phải thật khách quan mới thấy hết khuyết điểm của mình. Bản Thập là vùng cơ
sở còn non – Tiện đang có tấm bản đồ quân sự trên bàn, trung đội trưởng tìm
kiếm, đọc bản đồ giây lát, rồi cầm cây bút chì gõ gõ vào một điểm nào đó trên
bản đồ mà nói – Đây, rõ ràng bản Thập chưa nằm trong vành đai du kích, chỉ mới
có cơ sở chính trị, lực lượng bán vũ trang hoàn toàn chưa có. Bởi vậy, cấp trên
mới chưa cho chủ trương tác chiến trên địa bàn đó. Vừa qua, sau trận đánh mà
đồng chí tổ chức, kết quả tình hình cơ sở đã ra sao? Địch bắt đầu quây vào vùng
bản Thập khủng bố, đàn áp…
- Thưa đồng chí, muốn điều đó không xẩy ra, tốt hơn hết là gác
súng… Việc này, nếu bị thi hành kỷ luật, tôi sẽ khiếu nại lên trung ương – Liêu
nhìn thẳng vào gương mặt trung đoàn trưởng đỏ bừng bừng.
Hẳn rằng, trung đoàn trưởng cũng chẳng thích gì kéo dài cuộc đối
thoại kiểu này với Liêu. Giọng ông trầm xuống:
- Đồng chí có quyền khiếu nại. Bây giờ, tôi là trung đoàn trưởng,
chỉ thị cho đồng chí làm bản tường thuật sự việc đã xảy ra, tình hình quân sự,
chính trị của cơ sở trước trận đánh, trong trận đánh và sau trận đánh. Làm thật
tỉ mỉ các diễn biến hành động lẫn tư tưởng của đồng chí qua các sự việc. Nhớ có
đánh giá kết quả trận đánh, thắng lợi chỗ nào, thất bại chỗ nào, theo chủ quan
của đồng chí. Khoảng trong một tuần, đồng chí phải có bản kiểm điểm đó để chúng
tôi xét và đề đạt ý kiến lên Bộ tư lệnh quân khu.
- Xin phục tùng.
Liêu đứng lên, chỉnh đốn quân phục trên mình tí chút, rồi chào
trung đoàn trưởng ra về.
Trung đoàn trưởng vừa hút thuốc lá, vừa đi đi lại lại phía trước
bàn làm việc. Ông rút mùi soa trong túi quần thấm thấm mồ hôi trán, rồi cất
tiếng như thể hỏi một mình.
- Không hiểu ai đã đề bạt hạng nhãi con ấy lên làm đại đội trưởng,
trách gì nó bướng!
Câu nói chứng tỏ trung đoàn trưởng chưa hết nóng còn rất bực với
Liêu.
Người cán bộ ở bàn bên trả lời:
- Thưa trung đoàn trưởng, đồng chí Liêu chiến đấu rất anh dũng, đã
lập nhiều thành tích.
Lời nói lại của người cán bộ chừng như đã có tác động phần nào đến
suy nghĩ của trung đoàn trưởng về Liêu. Ông vẫn rít thuốc lá, ngẫm một lát, gật
gật đầu:
Những con ngựa hay hầu hết là bất kham.
Mấy hôm nay Liêu thấy lòng mình cứ vấn vương kể từ sau khi ngẫu
nhiên gặp cô gái nhỏ ở làng Phước Sơn này, anh còn được cô gái ấy trao tay
những bông hoa dẻ đầu mùa… Tên cô là Hoa. Tuy rằng Liêu còn nỗi buồn về công
tác, song mỗi lần nhớ tới hình ảnh ngưởi con gái ấy, lòng anh vợi buồn hẳn đi,
còn lâng lâng một niềm vui.
Vào buổi sáng, cô gái ấy thường đi gánh nước qua cửa nhà tạm trú,
điều đó càng làm cho Liêu thêm nặng lòng… Buổi sáng nay vắng vẻ, nhà tạm trú
chỉ còn lại mình Liêu, mấy anh em cán bộ khác đã đi nhận công tác cả rồi.
Liêu buồn tình, như ông cụ non, ngồi rung đùi, ngâm:
“Người đâu gặp gỡ làm chi
“Trăm năm biết có duyên gì hay không?
“Thà rằng chẳng biết cho xong
“Biết bao nhiêu lại bận lòng bấy nhiêu”…
Cô gái Phước Sơn ấy đã lại đi gánh nước, vẫn lối đi qua cửa nhà tạm
trú và hẳn rằng Liêu đã để ý thấy cô ta.
Đôi thúng lủng lẳng hai đầu, ra đến bờ sông. Hoa đặt gánh, kẹp lại
mái tóc, xắn cao ống quần.
Một làn gió mát nhẹ thổi dọc theo bờ sông, lừng thơm hương hoa dẻ.
Hoa chợt nhớ đến khóm cây hoa dẻ phía trên bến nước. Những bông hoa dẻ đã chín
vàng, cánh mong manh như lụa đang lơ lửng trước gió, đầy khêu gợi. Hoa liền đến
với khóm cây hoa dẻ, mon men trèo lên; nhoài người ra phía ngọn cây để hái hoa.
Bông hoa cùng bóng cây lồng xuống mặt nước sông Gianh trong xanh. Gió đưa,
những bông hoa dẻ càng lay động và thêm ngát hương, lúc ẩn lúc hiện sau cành lá
như đang chơi trò ú tim với Hoa.
Từ đâu thằng Tân đã lần ra kịp chân Hoa, hắn đứng ngay dưới gốc
khóm cây hoa dẻ mà lên tiếng:
- Con yêu! Ai cho mày hái trộm hoa của tao?
Hoa “a” lên một tiếng, giữ chặt cành cây vì giật mình trước sự lên
tiếng bất ngờ của Tân. Sau đó Hoa mới quay lại phía Tân:
- Ai bảo hoa của mày? Bờ sông này cũng của mày sao?
- Của tao tất cả!
Tân trả lời với giọng rất gàn. Và sau đó thì cậu ta leo luôn lên
khóm cây để giành cướp hoa dẻ với Hoa.
Hoa vùng vẫy, đạp chân không cho Tân lên.
- Thằng quỷ nhà trời! Làm bà ngã bây giờ! Để bà lấy, rồi bà cho một
bông.
- Không! Ông lấy tất!
Trong lúc này Liêu cũng đã rời nhà tạm trú ra sông để tắm, cốt tìm
cách gặp mặt, họa chăng bắt chuyện được với Hoa, càng vui. Liêu cũng đã dừng
bước từ xa đứng ngắm cảnh thằng Tân đang tranh cướp hoa dẻ với Hoa. Anh tiếc
cho tuổi trẻ của mình đã không được sống những phút hồn nhiên thoải mái như
thế, chỉ có lửa đạn chiến tranh.
Khóm cây hoa dẻ tuy xanh tốt, xum xuê, nhưng cành không chịu đựng
được sức nặng của hai con người thân cây đang bị oằn, sà gần xuống mặt nước.
Hoa lại la to lên.
- Tân ơi, làm ngã người ta bây giờ! Đây
chửi cho mà nghe!
Tân vẫn gàn:
- Ông đếch sợ. Thiên hạ chẳng ai chết
chửi cả.
Sợ Tân cướp hết hoa dẻ, Hoa nhoài người
ra mấy ngọn cây ngoài cùng, nơi những bông hoa dẻ vàng óng đang chờn vờn tựa
mấy cánh bướm. Và, cành cây quá yếu gục ngay xuống! Hoa cũng đã ngã lộn xuống
sông, không kịp kêu lên một tiếng! Mặt nước sông Gianh đang bình thản trôi về
xuôi bỗng dồi lên tung tóe như thể cả một chiếc bình pha lê rơi từ trên cao
xuống mặt đá!
Từ xa trông thấy, Liêu bỗng nhẹ hồn!
Hai mắt xoe tròn, mặt lạnh đi, khoảnh khắc Liêu chưa có phản ứng kịp.
Tân thì như một gã mất hồn, vừa tụt từ
trên khóm cây hoa dẻ xuống vừa la:
- Làng xóm ơi! Cứu! Cứu người chết
đuối! Hoa chết đuối!...
Liêu tức tốc chạy tới bờ sông Hoa đã
chìm nghỉm. Mặt sông chỉ còn lại những làn sóng tròn lan dãn ra xa. Không còn
kịp cởi áo quần ngoài, chẳng quản gì, nhảy bổ xuống sông. Liêu lặn hết nơi này
sang nơi khác tìm Hoa dưới đáy nước.
Nghe tiếng la kêu cứu của Tân, người
làng chạy bổ ra bờ sông, bộ đội đóng quân trong làng cũng có mặt. Cứ thế, kẻ
trước người sau nhảy ào xuống sông, ngụp, lặn để cứu người chết đuối.
Tuy nhiên, trên bờ, ngoài phụ nữ, trẻ
em, ông bà già cũng còn có một vài thanh niên ra vẻ thờ ơ, ra bờ sông như thể
để đi xem người kéo vó. Anh bí thư thanh niên xã cũng vừa tới. Thấy vậy, anh
điên tiết, xô nhào mấy cậu thanh niên kia xuống sông:
- Xuống! Xuống mà cứu người!
Bà con có vẻ đồng tình với bí thư thanh
niên, lên tiếng:
- Thanh niên xuống đi!
- Đi cứu người hay đi xem? Xuống đi!
Trong số mấy thanh niên bị anh bí thư
đoàn đẩy xuống sông có cậu Luyến, con trai bà Thành. Cậu đã bị ướt từ đầu đến
chân, đang ngoi ngóp bò lên bờ.
Ngụp lặn mãi đến kiệt sức, Liêu mới tìm
được Hoa và đem lên từ đáy sông. Hai đầu tóc vừa nhú lên mặt nước, lềnh bềnh
như một đôi sam thì đã bị nước cuốn trôi. Rõ ràng Liêu không còn đủ sức để đưa
Hoa vào bờ.
Tiếng kêu cứu lại nổi lên trên bến
sông:
- Kia rồi! Kia rồi!
- Đưa sào ra! Đưa sào ra!
- Thuyền! Thuyền!
Thuyền nhanh lên!
Mọi người trên bờ
cũng như dưới nước đang sôi lòng, sốt ruột, không chỉ lo cho Hoa mà còn lo cho
cả Liêu. Ai cũng thấy Liêu đã hoàn toàn kiệt sức, nếu không kịp tiếp sức cứu
vớt thì cả hai sẽ lại bị nước cuốn chìm.
Hay sao một chiếc
thuyền ba ván dưới dòng đã chèo thốc lên, vừa kịp dùng mái chèo đón được Liêu
và Hoa, đưa dần vào bờ.
Được đưa lên khỏi
mặt nước thì Liêu đã nằm bất tỉnh, bên cạnh là Hoa, thân hình mềm rười rượi tựa
con bún, tay vẫn nắm chặt một nắm vừa lá vừa hoa dẻ.
Giữa lúc các bác
sĩ, y tá thuộc quân y trung đoàn đã ra kịp và đang làm hô hấp nhân tạo, lo cứu
chữa cho Hoa và Liêu, thì bà Thành từ trong xóm chạy ra, làm ầm lên. Thân người
bà ta cứ nhún nhẩy tựa chim chìa vôi:
- Anh bí thư thanh
niên! Sao anh lại đẩy thằng Luyến nhà tôi xuống sông? Con tôi còn trẻ dại, nên
yếu, nhỡ ra nó chìm luôn thì sao? Anh muốn làm gì ai thì làm hả?
Anh bí thư thanh
niên, người ướt sũng, áo đã cởi vắt vai, xem ra lòng còn nóng hừng hực:
- Bạn bỏ chết đuối
không chịu xuống cứu! Bà về bảo với nó mở mắt cho to mà xem gương bộ đội kia
kìa!
Bà Thành càng to
tiếng:
- Thiếu gì kẻ đứng
nhìn trên bờ, riêng gì thằng Luyến!
Mọi người cười ầm
ĩ. Một ai đó nói lại:
- Chúng tôi là ông
già, bà lão, đàn bà con nít mới đành đứng trên bờ, ví sao được với sức trai
tráng con bà.
- Các người đứng về
một hùa. Phải, các người chẳng đáng để ví với con tôi đâu, các người nói phải,
chẳng đáng đâu, chẳng đáng đâu…!
Chừng như cũng
chẳng ai muốn đấu lời với bà Thành. Chỉ có anh bí thư thanh niên nóng tính toan
xông đến, làm gì bà Thành thì chưa rõ. Song, mấy cô nữ thanh niên đã giữ anh ta
lại, trong đó có Thìn.
Tuy gia đình đã
nhận lễ hỏi, nhưng gần đây, Thìn tỏ ra bực mình nhiều với bà Thành. Đi đâu với
ai, mỗi khi nói tới chuyện cưới xin giữa Luyến và Thìn là bà Thành nói như thể gia
đình, họ hàng bên Thìn so với gia thế bên bà Thành không được môn đăng hộ đối
mấy. Chẳng qua chiều con trai mà bà ấy phải hạ mình đến nhà Thìn ăn hỏi... Bởi
vậy, Thìn không còn biết nể bà, kính trọng bà nữa. Trong khi can ngăn anh bí
thư thanh niên, Thìn đã bực bội:
- Thây bà ấy! Chấp
gì cái giống cắn càn hở anh.
Bà Thành đã nghe
lọt tai câu Thìn nói. Thân mình bà ta đẫy đà như cái cối xay bỗng quay tròn đủ
bốn phương tám hướng, nói như gào cho ai nấy cũng nghe được:
- A… thì ra con
Thìn nữa! Mày nói ai thế hở Thìn? Mày, chả phải sắp sửa là con dâu tao sao?
Đúng là, giỏ nào quai ấy. Ít ra mày cũng hiểu được, mày sắp về làm dâu một gia
thế chứ…
Thìn cố nhịn, nhưng
không sao nhịn nổi vì câu nói về sau của bà Thành:
- Thôi bà ơi! Bà im
cho tôi nhờ. Gia thế bà là như vậy đấy. Chúng tôi là dân đen, không dám, không
dám làm con dâu nhà gia thế nữa đâu!
Bà Thành lại lớn
tiếng gọi con trai:
- Luyến ơi! Ra đây,
mày ra đây mà nghe vợ chưa rước của mày đang chửi tao đây này… Khi nào cũng một
con Thìn ngoan, hai con Thìn hiền… mày ra đây mà nghe Luyến ơi…! – Bà ta lại
quay lại với Thìn – Còn con Thìn, mày không còn biết nể tao nữa sao. Mày nỡ
muối mặt cha mẹ mày đến thế sao…?
- Nể gì bà! Tôi
không biết nể nang gì đối với hạng người lắm điều như bà.
Bà Thành lại gào to
hơn:
- Trời ơi! May
chưa, may chưa, may mà “chưa cưới nó về, mả tổ mới còn…” May chưa…may cho gia
đình nhà tôi chưa…!
Hoa và Liêu đã được
quân y cáng về trạm xá để tiếp tục hồi sức. Bà con hàng xóm cũng đã rút dần,
chẳng ai buồn đứng lại để mà nghe bà Thành gào thét nữa.
Đã hai tuần lễ trôi
qua, ngày giờ cứ dài đằng đẵng cho đến sáng chủ nhật hôm nay, xem như vừa qua
Liêu bị một trận ốm, giờ đã ngồi đánh cờ được với trung đoàn trưởng, sức khỏe
trở lại như trước. Phải nói rằng sau vụ Liêu cứu người chết đuối, trung đoàn
trưởng đã tỏ ra quý anh thật sự. Chính hôm đó ông cũng có mặt ở bờ sông, lúc mà
quân y đang cứu chữa cho cả Liêu và Hoa. Đứng trước hành động đẹp đẽ đó của cấp
dưới mình, trung đoàn trưởng đã phải thốt lên trước mặt mọi người: “Chiến sĩ
quân đội nhân dân là phải như thế!” Biết Liêu đã hoàn toàn khỏe mạnh, sáng chủ
nhật hôm nay, ông cho liên lạc xuống tận nhà tạm trú mời Liêu lên bằng được để
chơi cờ với ông, không phải để gỡ hòa, chính là biểu lộ thiện cảm của mình đối
với Liêu.
Liêu biết chơi cờ
tướng từ lúc bận quần chưa chặt giải rút. Bố Liêu là một ông đồ nho, hiếm hoi,
sinh Liêu vào năm ông đã tuổi sáu mươi. Ông đồ rất cưng con, từ lúc con còn
nhỏ, ông đã dạy chữ, dạy cho con đánh cờ.
Nhà nghèo, tấm liếp
không đủ che. Ông đồ quanh năm chỉ làm nghề dạy mấy đứa học trò trong xóm, kiêm
cả nghề viết thuê dẫu rất ít người có việc phải thuê ông viết. Mẹ của Liêu làm
nghề khâu mướn. Cứ thế, cha mẹ lần hồi nuôi con lớn lên trên đất Hương Trà,
cạnh con sông Bồ trong mát. Đến năm 1913 thì một bất hạnh không tưởng được đã
trút xuống đầu đứa trẻ, gặp phải cơn trời hơi gió, cả hai cha mẹ đều đã ra đi
cùng trong một tháng! Nước hồ trên khăn tang cha chưa kịp mềm thì Liêu đã chịu
nốt tang mẹ. Và, cũng từ đấy, cậu bước vào cuộc đời đi ở chăn trâu. Sang tháng
tám năm 1944, vì chủ nhà túng thiếu, gặp lúc đói kém, không nuôi nổi Liêu nữa,
cậu đành đi tiếp một bước ra thành phố. Từ giã nơi chôn rau cắt rốn của mình,
từ giã các ông bạn nón mê tơi rách, Liêu bước đi mà không hề biết đến tương lai
ra sao.
Hết thời Tây, sang
thời Nhật, cuộc đời cậu bé ấy vẫn đầu đường xó chợ nơi thành phố Huế với cung
cấm lộng lẫy, vàng son, với cuộc sống ăn chơi của các vua quan trên bến dưới
thuyền. Nay ở tiệm ăn, mai nằm cạnh bờ tường rào đồn Mang Cá, nào nhà “Xẹc”, căng
đá ban, nếu cứ trôi mãi dòng đời ấy thì chẳng bao lâu Liêu sẽ trở thành một gã
lưu manh, một tên côn đồ. May thay, cách mạng tháng Tám đã bùng lên, lật đổ cả
ngai vàng triều Nguyễn, thiêu đốt tất cả những gì thối nát, cứu vớt mọi cuộc
đời nô lệ lầm than… Hồi còn bé, Liêu có học được ít nhiều chữ quốc ngữ và chữ
nho, anh đã được vào chạy giấy cho Ủy ban cách mạng lâm thời. Đến tháng mười
một thì Liêu lại xin vào chăn ngựa cho quân giải phóng tại đồn Mang Cá.
Nhớ lại, hôm Liêu
trở về thăm làng, anh mặc bộ quân phục màu ô liu, chân đi giày da, đầu cũng mũ
ca-lô đội lệch như ai, ngồi gọn gàng trên lưng ngựa. Ngựa phóng như gió cuốn ra
khỏi thành phố, băng qua các làng mạc ven đô, vượt ngang cánh đồng chiêm quê
nhà và Liêu đã dừng ngựa trước sân đình mà gọi vang lên: “Tuấn ơi! Tín ơi! Lưu
ơi! Đào ơi! Tao đã về đây này…!” Bọn con trai, con gái trong làng, kéo nhau
chạy ra quây quanh Liêu mừng rỡ, chuyện này qua chuyện nọ, tíu ta tíu tít,
không biết mấy cho vừa. Đám con nít còn nói lắp, nói ngọng thì sờ mó, vuốt ve
vào mình Liêu, từ đôi giày, đến cái nịt da lên thấu mũ ca-lô. Mấy thằng bạn
trai ngang lứa chỉ thích xin Liêu phi ngựa một vòng. Chỉ có các cô bạn gái là
ưa trò chuyện nhất…
Năm tháng làm một
người chiến sĩ, Liêu đã sớm trưởng thành trên bước đường chiến đấu của mình.
Trung đoàn trưởng
đang mải gỡ nước pháo lồng ngoài hiên có người vào:
- Báo cáo đồng chí!
Có một bà già và một cô gái muốn được gặp đồng chí.
Trung đoàn trưởng
ngước nhìn ra cửa, nghe lại báo cáo lần nữa, rồi gật đầu:
- Được, mời họ vào
– Ông ta cũng không quên bảo Liêu rốn lại và giữ nguyên bàn cờ.
Bà Nhương dẫn cô
con gái là Hoa đến gặp ban chỉ huy trung đoàn để cảm ơn bộ đội. Trung đoàn
trưởng đứng lên, niềm nở đón tiếp hai mẹ con. Khi đã được mời ngồi vào ghế, bà
Nhương mở gói xách tay, đặt lên bàn hai nải chuối đẹp và một chục quả trứng,
nói lời lẽ hết sức chân thành, thưa chuyện với trung đoàn trưởng:
- Thưa cấp chỉ huy!
Hôm nay tôi đem cháu đến để cảm ơn cấp chỉ huy, cảm ơn đơn vị. Con tôi chết đi,
được bộ đội cứu sống, biết đền ơn gì cho vừa…
Trong lúc này, Hoa
đã trông thấy Liêu đứng tựa cột nhà phía sau trung đoàn trưởng. Và đôi mắt sáng
của Liêu thì cũng đang nhìn vào Hoa làm cho cô mắc cỡ phải nép vào bên cánh
cửa.
Bà Nhương vẫn đang
nói với trung đoàn trưởng:
-… Trước hết, xin
chào cấp chỉ huy. Sau nhờ cấp chỉ huy chuyển đến anh bộ đội đã cứu cháu, lời
biết ơn của gia đình tôi. Ơn trời bể đó, cháu nó xin ghi nhớ suốt đời.
Trung đoàn trưởng
nở nụ cười sung sướng. Ông lấy làm tự hào, đưa tay ngoái chỉ vào Liêu đang đứng
phía sau mình:
- Anh bộ đội ấy đây
mẹ này!
Liêu trở nên mất tự
nhiên. Không biết sẽ làm gì, nói gì, cử động ra sao sau sự giới thiệu đó của
trung đoàn trưởng. Tay chân cứ như thừa, anh sờ sờ túi để tìm thuốc lá hút.
Bà Nhương nhìn
Liêu, khẽ gật đầu.
- Chào anh.
Liêu cũng nghiêm
mình đáp lễ:
- Xin chào bà mẹ.
Trung đoàn trưởng
mời bà cụ xơi nước. Đoạn, nhân thể, ông ta phân tách bản chất tốt đẹp của quân
đội nhân dân cho bà Nhương nghe. Ông nói hay như đang đứng ở diễn đàn, giọng
nói khi ấm áp đầy tình cảm khi thì rất hùng hồn.
Trong lúc này, Hoa
và Liêu, hai người vẫn ở hai phía, chỉ có những ánh mắt giao nhau, bắt gặp
nhau, gương mặt đôi bên mỗi lúc một chín đỏ.
Trong nhà, hai cô
gái con ông chủ đã lại rúc rích cười, không dám cười to như nắc nẻ, ngài trung
đoàn trưởng quở trách như bữa trước. Họ lấp ló ở cửa buồng, hết nhìn Liêu sang
nhìn Hoa. Thái độ ấy càng làm cho Liêu và Hoa thêm ngượng ngùng, thẹn nóng cả
mặt.
Nếu là một người
ngoài bước vào, chưa rõ nội dung câu chuyện, dễ cho rằng đây là một đám ăn hỏi.
Sau khi nghe cấp
chỉ huy bộ đội giảng giải về “tình quân dân, tình cá nước” một cách đầy đủ, có
lúc thừa nữa, bà Nhương liền đứng lên, bước tới trước mặt Liêu. Bà đưa đôi bàn
tay già nhăn nheo da mồi cầm lấy bàn tay Liêu, giọng hết sức cảm động:
- Công ơn của anh
biết lấy gì đền đáp. Anh đã cải tử hoàn sinh cho cháu. Ơn ấy, cháu nó nguyện
sống để dạ, chết mang theo.
Liêu cũng chỉ biết
đỡ lấy đôi bàn tay bà Nhương, nhìn vào bà đang có những giọt nước mắt chảy
quanh. Mái tóc bà Nhương đã bạc, Liêu thấy mủi lòng, nhớ đến mẹ mình. Chẳng bao
giờ Liêu có thể được gặp lại mẹ mình nữa…!
Đứng ở phía cửa bên
này, Hoa cũng đang sống những giây phút hết sức bồi hồi. Tay cô cứ giữ chặt vạt
áo như cố nén nỗi rạo rực của con tim. Đôi mắt tròn của cô càng dương to nhìn
Liêu, như cốt để khắc sâu hình ảnh ân nhân của mình.
Những con chim gáy,
cứ như kẻ tiếc thời gian, gáy giục giã, có con vỗ mạnh đôi cánh, bay vút như
một mũi tên, bắn thẳng lên trời xanh… Nhưng, ở làng Phước Sơn này, buổi sáng
mùa hạ bao đời nay vẫn rất yên ả, gió thổi lất phất, khí trời dịu mát. Tiếng ve
buổi sáng nghe cũng trong không đến nỗi đục buồn.
Hoa đang ngồi dệt ở
khung cửa. Cô ngừng tay đưa thoi, nhìn qua cửa sổ ra lối đi. Trên hai bờ chè
mạn hảo có tơ hồng leo mấy con chim vành khuyên ríu rít tìm sâu cán mỏ tí tách.
Ở giàn bầu phía cuối sân những cánh bướm vàng nhởn nhơ, hút mật quanh hoa bầu.
Có tiếng sáo mồm ai
huýt, nghe rất gần và khá quen thuộc. Thì ra Tân đang đến với Hoa. Hắn đến lần
này ra chiều đứng đắn.
- Bà đi đâu hở Hoa?
– Tân hỏi thay lời chào.
- Hái dâu.
- Tằm ăn mấy rồi?
- Ăn lên – Hoa hỏi
lại – Tân không đi câu hả?
Chừng như không để
ý tới câu hỏi của Hoa, Tân đến dỡ tằm ở các nong ra xem, khen đẹp. Rồi hắn quay
lại, ngồi bịch xuống giường cạnh khung cửi:
- Nghe rồi… con
Thìn bỏ thằng Luyến rồi phải không Hoa?
Hoa tròn xoe mắt:
- Ai nói?
- Phong thanh nghe
thế, chẳng biết hư thực ra sao?
- Nó bỏ cũng đúng.
Thanh niên quèn, nhát như cáy, lại hay khoe chữ và khoe giàu.
Tân đứng lên gần
Hoa hơn:
- Hoa này!
- Gì hở Tân?
Tân thành thực:
- Hoa ạ, theo mình
thì cậu lấy quách anh bộ đội ấy đi.
Hoa làm bộ ngạc
nhiên:
- Nói gì vớ vẩn thế
Tân?
- Ồ…“vớ vẩn” là thế nào? Tớ nói thật
đấy chứ.
Hoa tự hỏi:
- À, anh ấy tên là gì, Tân nhỉ?
- Nghe người ta gọi là Liêu. Hoa chỉ
còn cách lấy anh ta mới đền hết ân nghĩa.
- Không phải yêu nhau, chỉ cần đền ân
trả nghĩa?
- Mình không nói thế, tất nhiên, trước
hết hai người phải có tình yêu, điều đó dễ thôi. Một mai đi chiến đấu, anh ta
sẽ bị thương, đó là dịp tốt cho Hoa báo đáp.
Hoa trừng mắt:
- Ăn nói độc miệng thế! Cậu mong cho bộ
đội bị thương hả?
- Chẳng ai dại mong
như thế. Song đi chiến đấu thì cũng khó mà nguyên vẹn, bởi vậy, người ta mới
nói hy sinh.
- Mỗi đứa mình đều
phải chịu ơn anh ấy. Cậu sẽ trả ơn bằng cách nào?
Tân ra vẻ nghĩ
ngợi, tay đập đập vào trán.
- Cũng thử một cách
bàn với cậu lấy anh ta. Đến cách thứ hai là sẽ đi bộ đội, làm lính như anh ta.
Sẵn cái vỏ bưởi
cạnh cửa sổ, Hoa nhặt ném bẹt vào má Tân. Tân sờ sờ má, mắt như bị méo hẳn đi.
Rồi cậu ta vớ ngay lấy mảnh vỏ bưởi nọ, giơ cao lên, ném lại Hoa. Hoa vội quay
mặt, nhắm cả hai mắt, chờ trả thù. Nhưng Tân đã không ném, chỉ cầm vỏ bưởi,
quẹt một cái vào má hồng của Hoa, rồi bỏ chạy, hết cả vẻ đứng đắn lúc mới tới.
Tân về rồi. Hoa
trút một hơi thở sung sướng, nghiêng mình xuống khung cửi, áp má lên khuôn tơ,
lòng lâng lâng. Có thể lúc này Hoa đang tự hỏi: “Mình yêu anh Liêu rồi chăng”.
Đôi hàng mi đen
khép lại, Hoa muốn để cho sức tưởng tượng của mình không bị ngoại cảm chi phối.
Hoa đang hình dung đôi cánh tay rắn chắc của Liêu xiết chặt lấy mình. Đôi cánh
tay ấy đã đem Hoa từ cái chết dưới đáy sông trở lại cuộc sống hôm nay. Bao giờ,
có bao giờ nữa không. Hoa được ở trong đôi cánh tay ấy, để rồi cô lại tỉ tê, kể
chuyện cho Liêu nghe những ngày nhớ mong thầm kín này…
*
* *
Vào những ngày này,
Liêu cũng đang có tâm trạng tương tự, xốn xang, nhớ Hoa thế nào ấy… Chiều nay
thờ thẫn Liêu lại một mình lần ra bến nước, ngồi mát bên khóm cây hoa dẻ, thả
hồn trên dòng sông Gianh. Vào mùa hạ, không bị mưa lũ ở thượng nguồn, nước sông
Gianh thường là trong xanh. Dòng nước cứ trôi triền miên. Gió chiều nhẹ lướt
trên mặt sông gợn sóng lăn tăn, róc rách xóa bờ. Cỏ cây lau lách đôi bờ cũng
theo gió mà rì rào, xào xạc. Thỉnh thoảng một vài quả sung rơi “bõm” xuống mặt
sông. Liêu nhặt nắm đất cạnh chỗ ngồi ném theo quả sung rụng vu vơ…
Bên kia sông là cả
một dãy núi đá răng cưa chập chùng như một trường thành xanh thầm kín đáo, hễ
có một tiếng vang có hàng chục tiếng vọng dội, lan lan.
Tiếng vang vào núi
đá còn có hồi âm, Liêu biết rằng mình đã yêu Hoa, yêu tha thiết, nhưng đâu có
gọi tên cô lên thì… vẫn chưa thể có được hồi âm. Một tình yêu chưa nói được mới
da diết làm sao!
Hoa cũng ra bến
nước với Liêu chăng? Không, đã hứa hẹn gì đâu! Hoa đi bến, đập sợi vải để đem
về hồ. Non tháng nay Hoa mới dám ra sông, nhìn thấy mặt nước cứ ngờm ngợp, sợ
nữa, đáy thâm hiểm, thẳm sâu… Chỉ một làn sóng nhỏ cũng đủ làm cô nhẹ người.
Trông thấy Hoa e
dè, đập vải hí hoáy bên tảng đá, một ý nghĩ nghịch ngợm nổi lên trong óc. Liêu
không còn giữ được nghiêm túc, lặng lẽ cởi áo quần ngoài, bí mật bò lên khóm
cây hoa dẻ. Rồi bất thần, Liêu nhảy ùm xuống sông, nước vung cao lên tận ngọn
cây!
Hoa vùng chạy lên
bờ, chẳng còn hồn vía, mặt nhợt nhạt, tay chân như rã rời, cố bíu lấy gốc xoan,
chưa biết có chuyện gì sẽ đến. Hai mắt dương to đầy sợ hãi nhìn xuống mặt nước
quái gở.
Trên mặt sông, một
con người lưng trần màu nâu như con cá kình rẽ nước bơi phăng phăng mái tóc
quăn, đen mượt, nhấp nhô, nhấp nhô. Hoa nhìn theo không chớp mắt. Giờ lâu, cô
đã nhận ra đấy là Liêu, thở phào, hoàn hồn. Đôi mắt Hoa vui trở lại chớp chớp,
đôi môi thắm dần và hé nở một nụ cười. Cô khẽ lắc đầu một cách yêu mến “Anh
Liêu… nghịch hơn quỷ!” Đôi lúm đồng tiền hằn mãi trên má, mà hai bàn tay không
rời khỏi gốc xoan.
Giữa sông, Liêu như
một con rái cá, hết bơi dọc lại bơi ngang, một mình vùng vẫy, ngụp lặn… Khoảng
mười lăm phút sau, Liêu mới bơi vào bờ, lúc này đôi cánh tay khoát nước hiền từ
như thuyền lúc ghé bến.
Hoa đứng lên, mặt
hớn hở như đang được đón một niềm vui. Một không khí thật dịu ngọt cho hai
người nên Liêu đã đánh liều lên tiếng trước:
- Cô Hoa ra bến làm
vải?
Chừng ấy thôi mà
khó khăn lắm mới có dịp, đủ cho Liêu can đảm để bắt chuyện với Hoa. Một câu
chào hỏi mà cả hai người đều cảm thấy sung sướng:
- Anh Liêu nghịch
quá, làm em mất hồn – Hoa trách yêu.
- Thế nhặt lại được
chưa?
Cả hai nhìn nhau,
miệng cười.
Hoa bắt đầu chủ
động hỏi chuyện:
- Anh Liêu quê ở
đâu mà bơi lặn giỏi thế?
- Xa lắm, ở tận
trong vùng địch tạm chiếm.
Hoa ngoái lại phía
sau bến, kiễng chân ngó lên đường. Bến nước vẫn vắng vẻ, và câu chuyện giữa hai
người lại tiếp tục.
- Vậy gia đình anh,
ông cụ bà cụ hiện ở đâu?
Liêu vừa kỳ cọ
quanh mình vừa trả lời, giọng buồn hẳn:
- Họ ở dưới đất cả
rồi.
Hoa chép miệng,
đứng lặng vì mấy câu trả lời cộc lốc của Liêu. Một nét buồn thoáng hiện trên
mặt cô. Hoa đã là một đứa bé lớn lên không biết mặt cha, song còn có mẹ, có anh
chị bao quanh còn có tổ ấm họ hàng, xóm làng… Còn anh Liêu, thương biết mấy,
một con người côi cút, cô đơn, không dưng. Hoa lại buộc buồn thương đó vào
mình.
Giọng Hoa nhẹ và
ấm:
- Anh Liêu, sao anh
không lại nhà em chơi cho vui. Mẹ em vẫn thường nhắc tới anh.
- Tôi ngại…
- Anh ngại gì?
- Người ta sẽ…
Đến đây câu chuyện
ngừng lại… Có thể có một điều gì khó nói, giữa lúc hai người vẫn đang muốn trò
chuyện mãi với nhau.
Trên sông, hai con
thuyền buồm căng gió, nối nhau rẽ nước một cách bình thản, không còn biết luyến
nhớ đến đôi bờ.
Liêu và Hoa đều
hướng ra sông nhìn theo hai cánh buồm trắng lướt theo gió sông hây hây. Liêu
bỗng buột miệng hỏi Hoa:
- Thuyền người ta
về đâu ấy nhỉ?
Hoa trả lời như có
sự đồng cảm với Liêu:
- Người ta xuôi về
hạ bạn đấy anh ạ.
Bỗng nhiên, chẳng
hiểu do đâu, tình cảm diễn biến ra sao mà Liêu nhảy xô ra, bơi đuổi theo thuyền
và bước đầu tiên trò chuyện giữa Liêu và Hoa đến đây coi như chấm lửng…
Nắng chói chang
chiếu vào gốc đa. Bóng đa đổ nghiêng nghiêng trùm lên sân đình một vùng im mát,
rộng lớn. Dưới bóng râm gốc đa, có một đôi trai gái đang lời qua tiếng lại.
Người con trai mặc
quần âu màu xanh thanh thiên, áo sơ mi màu gụ. Cô con gái mặc toàn bộ đồ nâu,
quần xắn gần tới đầu gối, một tay chống cái vỏ đập đất, tay kia khoác nón lá
hẳn là mới theo việc đồng áng về.
Lá đa khô rơi sột
soạt xuống sân đình.
Người con trai đó là Luyến. Cậu ta đang
tỏ ra đau khổ nói với Thìn, cô gái đang đứng trước mặt anh:
-…Tôi chỉ mong Thìn
thông cảm cho. Đây là mẹ tôi. Nếu… Thìn còn có thể thương tôi được nữa,
tôi xin cố sức dàn xếp gia đình ổn thỏa. Mẹ tôi phải biết chiều con.
Thìn nhếch mép, không ra cười. Nếu là
nụ cười thì cũng rất nhạt nhẽo:
- Anh nghĩ xem, còn mặt mũi nào nữa! Mẹ
anh thật… quá chừng! Nếu anh bí thư đoàn có nóng nảy hôm đó, chẳng qua trước
chuyện chết người… chẳng ai nói năng chê trách gì cả. Đằng này… mẹ anh…
- Tôi biết, mẹ tôi hoàn toàn sai. Song
Thìn, còn có tình cảm với tôi nữa không? Đó là điều tôi muốn biết.
Thìn cầm nón quạt cho mình, quạt cho cả
Luyến:
- Không chỉ vì câu chuyện xảy ra vừa
qua, tình cảm rạn nứt đã lâu rồi. Đôi ba lần tôi cũng đã có ý nói cho anh rõ.
Mẹ anh… - Thìn lắc đầu – Chuyện anh với tôi nay cả làng đều biết, như cái gương
đã vỡ, làm sao lành lại được. Anh còn có thể lấy được vợ khác. Tôi còn có thể
lấy được chồng khác. Việc gì chúng ta cứ phải đeo đuổi, dính líu thêm cho khổ
tâm.
Luyến cuốn tròn cuốn sách trên tay đập
vào ngực mình:
- Thìn cho tôi là người thế nào?
Thìn vẫn vừa quạt, vừa trả lời, khá
thẳng thắn:
- Thanh niên cần có
lòng can đảm. Anh thì quá trơn hèn. Khuyết điểm sờ sờ ra đấy, bạn bè bị nạn
không chịu cứu, anh không lấy điều đó làm buồn, lại còn giận dỗi xin ra Đoàn.
Vừa rồi, trước mặt tôi, anh công nhận mẹ anh sai, nhưng ở nhiều nơi khác, anh
cho rằng mẹ anh chửi bí thư Đoàn là đúng – Thìn ngừng tay quạt, nhìn thẳng vào
mặt Luyến – Còn đối với tôi, việc cư xử của anh là quá kém. Anh kể lể với bầu
bạn rằng nhà tôi đã nhận lễ lại của nhà anh rất nhiều. Nói ra thì quá buồn,
phải không anh? Những thứ ấy, cha tôi sẽ đền lại đầy đủ, đừng lo mất không! –
Thìn lắc đầu chán nản – Không thể nào hàn gắn lại được nữa đâu!
Luyến đã rơm rớm
nước mắt, nhìn Thìn, vẻ cầu xin:
- Đau khổ cho tôi
biết mấy. Công tôi đeo đẳng bấy lâu!
Tôi cũng vậy, tình
yêu đổ vỡ, ai mà chẳng buồn. Song cứ thế nhắm mắt mà lấy nhau cưới hỏi, đến khi
về ở với nhau, tôi e rằng, còn khổ hơn nhiều.
Thìn nhìn vào gương
mặt Luyến buồn xỉn, trán lấm tấm mồ hôi, lại thấy chạnh lòng. Cô cầm nón quạt
quạt thêm mấy lần, rồi với giọng dịu dàng:
- Gắng đừng buồn
anh Luyến nhé! Tôi về đây.
Cảnh như trêu
ngươi, trên mái đình lũ chim sẻ cắn nhau chí chóe. Có những con cay cú, cắn
chặt mỏ, bám chặt móng chân vào nhau, rơi từ trên mái đình xuống sân vẫn chưa
chịu thả nhau.
Luyến đứng nhìn
theo Thìn vác vồ đi khuất vào sau lối, đoạn anh mới buồn bã ra về, để lại gốc
đa với cái kẻng tà vẹt đường tàu treo lủng lẳng tựa một người chết thắt cổ.
*
* *
Bà Thành ngồi bệ vệ
trên ghế, miệng nhai trầu bỏm bỏm. Chừng như bà đang tính toán chuyện đời đen
bạc, thương con dang dở, trách người mỏng mồm…
Một đứa bé từ trong
nhà đi ra, phụng phịu nói với bà Thành:
- Mẹ ạ, anh ấy
không ăn. Anh bảo con đổ cho chó.
Bà Thành trừng mắt
quát đứa bé:
- Sao không ngồi
lại đấy mà quạt cho anh mày?
- Anh bảo đừng quạt
mà anh ngốt.
Bà Thành thở dài,
rồi xỏ chân, tha đôi guốc lẹp kẹp vào nhà trong, miệng vừa nhai trầu vừa lầm
bầm một điều gì đó.
Đứa bé nhìn theo,
chờ bà Thành khuất vào sau cửa, cằn nhằn một mình:
- Bắt người ta ngồi
quạt cả ngày, mệt bỏ xừ…!
Rồi hắn ù té chạy
về phía đình làng, nơi có tiếng trẻ reo hò nổi lên.
Bà Thành vén màn,
ngồi xuống bên giường. Bà vuốt vuốt lên ngực đứa con cưng:
- Con mệt lắm
không, Luyến?
Luyến không trả
lời, chỉ mở mắt nhìn mẹ giây lát, rồi quay mặt vào phía vách.
Nguyên do là thế
này: Sau khi bị Thìn cắt đứt tình yêu thật sự với mình, Luyến về nhà, suy nghĩ
nhiều, sinh ra mất ăn mất ngủ, sau đó thì đổ bệnh. Bệnh chẳng ra bệnh, cơm cháo
không ăn, chỉ có nằm li bì, đôi khi mê sảng cứ gọi tên Thìn. Người ta vẫn bảo
đó là bệnh tương tư. Chiều nay xem ra Luyến có tỉnh nhiều, bệnh đã thuyên giảm.
Bà Thành cầm quạt
vẫy nhè nhẹ. Ngoài màn, mấy con muỗi ngày cứ vo ve, bực bội. Bà Thành kiếm lời
an ủi con:
- Mẹ cứ tính, làm
trai như con, chẳng thiếu chi vợ. Con quên nó đi! Giữa làng Phước Sơn này, còn
nhiều nơi, đẹp có, hiền từ có, khôn ngoan có.
Luyến ngửa mặt nhìn
lên đỉnh màn, mấp máy đôi môi khô, chừng như muốn nói lại với mẹ một điều gì!
Bà Thành ngỡ rằng Luyến khát, đi lấy nước cho con uống.
Bà Thành tiếp tục
an ủi, động viên con:
- Việc gì mà con
phải buồn phiền! Giấy rách ta giữ lấy lề, đừng để thiên hạ cười chê.
Luyến lại mấp máy
đôi môi, vừa uống xong ngụm nước trên cậu đã thông cổ, nói được ra lời:
- Con khổ lắm, mẹ
ạ. Ruột gan cứ thế nào ấy… Mặt mũi nào con đi ra được nữa… Chúng bạn cười chê…
Gia đình bà Thành,
từ thời trước cách mạng vốn khá giả, cứ nhìn vào ngôi nhà gỗ gụ năm gian ngày
nay cũng đủ biết, chưa kể đến ba gian nhà ngang. Ông Thành mới mất cách đây dăm
năm, tuy thế nhà vẫn có của ăn của để, của chìm của nổi như các thầy tướng thầy
số vẫn nói: số bà Thành là người cầm đậu của. Vài ba mẫu đất ruộng, dăm bảy con
trâu bò, thứ thuê người làm, thứ cho người làm rẽ, ngoài ra bà Thành còn có vốn
cho vay lấy lãi. Ở nông thôn, có được cơ nghiệp như nhà bà Thành cũng gọi được
là nhà giàu. Không phải mới nổi lên, vốn có gốc từ thời ông cha, bởi vậy trong
mọi xử sự, nói năng, cách ăn ở của bà Thành, đều mang tính chất hai chữ “gia
thế”.
Bà Thành nói lại
với Luyến.
- Cứ xem nhà nó
không xứng đáng làm dâu nhà này. Con đã bỏ nó. Con sẽ lấy đứa gấp mười con
Thìn. Chỉ cần con vui vẻ, bằng lòng.
Bây giờ, Luyến mới
nhìn vào mặt mẹ, khẽ đưa bàn tay yếu ớt đặt lên bàn tay mẹ.
Bà Thành biết ý,
nói cho con rõ hơn:
- Mẹ sẽ hỏi cái Hoa
nhà bà Nhương cho con. Phải cái nhà đó hơi nghèo, nhưng con ấy thì ngoan, chịu
khó làm lụng, về nhà mình càng đỡ phải nuông chiều. Nếu con bằng lòng, mẹ chỉ
cần gặp bà Nhương vài lần là xong. Xem ra, không lấy con thì đòi được ai hơn?
Luyến vẫn nhìn mẹ,
như còn muốn mẹ nói thêm, lòng đang vơi dần khổ đau, vui dần với niềm vui mẹ
vừa nói ra…
- Con gắng ăn uống
chóng khỏe mà theo học. Cứ phải cầm cho được cái bằng Thành chung trong tay.
Mọi việc ổn thỏa, tháng chạp năm nay mẹ làm lễ cưới cho con. Còn con Thìn, quên
đi, quên hẳn đi, để cho nó theo bộ đội mà đàn đúm, cứ coi như đó là con đĩ…
Bà Thành cầm quạt
quạt cho con một lúc nữa rồi mới buông màn đi ra. Bà ra đứng chống nạnh trước
hiên nhà, nhìn quanh rồi lên tiếng gọi, chắc là gọi đứa bé em cậu Luyến lúc
nãy.
- Rớt ơi… Rớt! Rớt
ơi… Rớt!
Sân nhà bên cạnh,
đội trưởng văn công Đào Hữu Khôi đang say sưa điều khiển các diễn viên, trai
có, gái có, luyện tập một điệu múa mới. Bước chân nhịp nhàng, tiếng hát rộn
ràng… Có khá đông bộ đội và trẻ em trong xóm đến ngồi quanh sân, xem văn công
tập múa. Ngược lại, trung đoàn trưởng thì tỏ ra bực bội, tiếng hát vọng đến tựa
như cào vào tai ông ta:
Trung đoàn trưởng bỏ
bút, bỏ kính xuống bàn:
- Đã bảo rồi, chúng
nó cứ “đô xòn” bên tai thế này thì ai làm được việc chứ! – Ông gọi vọng xuống
nhà ngang, ở đó luôn luôn có người liên lạc túc trực để mỗi khi trung đoàn
trưởng cần tới – đồng chí nào dưới đó, qua gọi đội trưởng văn công sang đây cho
tôi.
Một tiếng “có” từ
nhà dưới vọng lên.
Người đàn ông ngồi
làm việc ở gian nhà phía bên kia, đối mặt với trung đoàn trưởng bỗng phì cười.
Ông hỏi đùa trung đoàn trưởng:
- Đồng chí trung
đoàn trưởng không ưa văn nghệ thì phải?
Mặt trung đoàn
trưởng còn nhiều nét khó chịu.
- Văn nghệ, thà
rằng thơ ca, hò vè, báo chí, còn thứ hát hỏng phèng la ấy, tôi chịu không thấu,
rất khổ tâm.
Người đàn ông vừa
đối thoại với trung đoàn trưởng là chính ủy của trung đoàn, mới đi công tác về.
Ông có vóc người gần như ngược hẳn so với trung đoàn trưởng, bé nhỏ, trắng
trẻo, như một cậu học trò. Vốn dĩ, ngày xưa ông là học trò của trường Quốc học
Vinh, tham gia hoạt động cách mạng từ những năm 1940 – 1941. Ông đã từng bị bọn
Pháp thống trị bắt và đem đi tù. Ông ra khỏi nhà tù đế quốc sau đảo chính Nhật
– Pháp (3 – 1915). Ra khỏi tù, ông lại tham gia hoạt động trong phong trào Việt
Minh. Cách mạng tháng Tám thành công, ông vào quân đội, làm cán bộ chính trị
cho tới nay.
Ngoài sân, theo
lệnh gọi của trung đoàn trưởng, đội trưởng văn công đã tới. Anh bước lên hiên
nhà, đứng nghiêm chào:
- Báo cáo trung
đoàn trưởng! Tôi, đội trưởng văn công có mặt – Anh ta đưa tay lên chào mà cái
mũ không còn trên đầu, đang nằm sau gáy, quai mũ vòng qua cổ.
Tác phong quân nhân
kiểu ấy càng làm cho trung đoàn trưởng bực mình thêm:
- Ồ…! Anh cởi quần
mà chào tôi đấy à?
Đội trưởng lúng
túng, sờ hết khuy quần, khuy áo. Anh sờ lung tung, sờ đến cái mũ còn nằm sau
gáy mới chợt hiểu ra câu phê bình của cấp trên. Miệng anh méo một bên, nửa buồn
cười, nửa không, chân tay vụng về.
Chính ủy một lần
nữa không nhịn được cười:
- Văn công có khác,
đóng kịch cả ngày.
Trung đoàn trưởng
dịu giọng:
- Tôi đã bảo anh,
dời văn công đi nơi khác, xuống cuối thôn, cứ hát, cứ gào mãi bên tai tôi, bảo
ai làm được việc!
- Xin đồng chí chịu
khó nghe cho một buổi nữa. Tối nay biểu diễn xong, mai chúng tôi chuyển ngay ạ.
Trung đoàn trưởng
hết ý kiến, cúi đầu làm việc.
Chính ủy miệng cười
vui vẻ, bảo đội trưởng văn công:
- Đồng chí nhớ tập
hát “rề mi” với nhé! Cứ “đô xòn” hoài, trung đội trưởng dễ chán tai.
Đội trưởng văn công
chào trung đoàn trưởng, chào chính ủy, miệng tủm tỉm ra về.
Được một lát thì
Liêu đến. Hôm nay Liêu được mời tới gặp mặt và làm việc với cả trung đoàn
trưởng lẫn chính ủy.
Lối ăn mặc gọn
gàng, nghiêm chỉnh cùng với tác phong lành mạnh, chững chạc của Liêu, ngay bước
đầu đã gây được cảm tình tốt đẹp đối với chính ủy.
Chính ủy mời Liêu
hút thuốc. Sau khi thăm hỏi dăm ba câu về sức khỏe, đời tư của Liêu, chính ủy
bắt đầu vào câu chuyện phân tích tình hình chung của mặt trận, những thiếu sót
chung mà bộ đội ta còn vấp váp, rồi dần dần đi vào khuyết điểm đã qua của Liêu
trên chiến trường, cũng như ý kiến kỷ luật của lãnh đạo trung đoàn đối với sai
phạm của anh…
Trong khi chính ủy
nói chuyện với Liêu, thỉnh thoảng cũng có một đôi lời góp ý của trung đoàn
trưởng, khá nhẹ nhàng “mưa phùn gió thoảng” không “đao to búa lớn” như hôm nào…
Liêu ngồi nghe lặng
im tựa khúc gỗ.
Chính ủy:
- … Phải nói rằng,
đồng chí đã làm bản kiểm điểm hết sức nghiêm túc. Mọi sự việc đã được phản ánh
trung thực tỉ mỉ. Qua bản kiểm điểm, chúng tôi đánh giá được phẩm chất và bước
tiến bộ vừa qua của bản thân đồng chí. Duy chỉ có một vấn đề, chúng tôi cho
rằng, theo bản tự kiểm điểm thì chưa sáng lắm, đó là động cơ tổ chức trận đánh.
Bây giờ Liêu mới
nói:
- Thưa đồng chí,
tôi không có một động cơ, một ý nghĩ nào khác ngoài: Đã là bộ đội phải đánh
giặc.
Chính ủy gật gật
đầu, rồi phân tích qua ý nghĩ của Liêu:
- Cái gì cũng có
mặt trái. Tròn như quả cầu, mặt trái là tâm điểm. Bộ đội là để đánh giặc, tôi
nhất trí. Có điều, trong cách suy xét, ta cứ một chiều, một mặt thì rất dễ gặp
phải sai lầm. Tôi ví dụ, bản chất thanh niên là luôn luôn ham chuộng cái mới,
ưa thích cái lạ, rất có lợi cho nhu cầu tiến bộ. Song nếu, cứ để cho mọi ham
thích đó phát triển tự do, không có hướng không có lãnh đạo thì sẽ đi tới đâu?
Liêu lại ngồi lặng
im.
Chính ủy nói tiếp:
- Tôi nói cụ thể về
trận đánh do đồng chí chủ trương. Rõ ràng trước mắt có những thắng lợi, giết
được mười tên lính, thu được dăm khẩu súng. Nhưng cái hại đã lớn hơn quá nhiều.
Cơ sở vừa được xây dựng, nhen nhóm, đã bị địch khủng bố trắng. Dân tình sợ hãi,
bị bắn giết, bắt bớ, nhà cửa bị giặc đốt, quay ra oán trách “do bộ đội đánh nên
Tây mới đem lính về khủng bố!” Dân bản Thập, thứ bỏ đi nơi khác ở, thứ không
dám tiếp xúc với cách mạng… Cái hại về sau trận đánh, chính đồng chí chưa lường
được, chưa thấy hết. Mặt trái các sự việc cần xét xem là như thế - Chính ủy vẫn
có lời động viên Liêu – tuổi trẻ, do ít suy xét nên vấp váp nhiều. Nhưng, tuổi
trẻ lại biết tiếp thu nhanh cái đúng, cái hay. Vỡ núi lấp sông cũng ở tuổi trẻ.
Đồng chí Liêu nên biết vận dụng ưu thế của tuổi trẻ vào đấu tranh với bản thân,
loại trừ cái bản năng, biết suy xét một cách chín chắn, thấu đáo mọi sự vật,
hẳn đồng chí còn tiến bộ rất xa…
Chính ủy đang đưa
dần buổi làm việc hôm nay với Liêu vào giai đoạn kết thúc. Ông mỉm cười hiền
lành hỏi:
- Đồng chí Liêu còn
ý kiến gì nữa không?
- Thưa… bao giờ tôi
được trở lại chiến trường.
- Việc này còn chờ
ý kiến của Quân khu. Đồng chí cứ yên tâm, cố gắng phát huy đấu tranh bản thân…
- Ăn rồi nằm, buồn
lắm, tôi muốn đề nghị lên ban chỉ huy một việc.
Chính ủy vui vẻ:
- Đồng chí cứ phát
biểu!
- Tôi thấy, thời
gian này, anh em cấp dưỡng ở đây vừa công tác lại vừa học tập chính trị quá vất
vả. Tôi muốn xin giúp anh nuôi một phần ăn rồi ngồi, tư tưởng càng rối rắm.
Chính ủy, với giọng
thoải mái:
- Được, điều đó ban
chỉ huy chúng tôi sẽ xét trả lời sau, trước mắt, đồng chí cứ yên tâm, nghỉ thêm
ít hôm nữa.
Liêu đứng lên,
không quên sửa lại quân phục trước khi chào ra về. Chính ủy còn tiễn chân Liêu
ra đến ngoài sân, bắt tay anh, vui vẻ dặn thêm:
- Yên tâm, nghỉ ít
hôm nữa nhé!
Trên đường về, một
ý nghĩ ngồ ngộ đến với Liêu “Đảng thật khéo chọn, ông tai to mặt lớn thì làm
trung đoàn trưởng, con người học trò nho nhã thì làm công tác chính trị, loại
mình… thì dùng vào việc “húc lô-cốt”.
Liêu ngang qua nơi
luyện tập của đội văn công, giữa sân đang vang lên bản đồng ca…
“Đồng lúa đã chín
rồi
“Ta mau mau đi gặt về…”
Nhà bà Nhương hôm nay khá đông vui, anh
con trai đầu đi bộ đội về chơi, con gái, con rể biết tin cũng ghé lại. Về cùng
người con trai còn có một ông khách, đó là Khang, một giáo viên trung học. Tuổi
thầy vào khoảng hai ba, hai tư, là một thanh niên mặt mày sáng sủa, da dẻ hồng
hào, nổi lên là một cặp mắt khá đa tình.
Thầy giáo đang ngồi giữa vòng vây gia
đình, bẻ hết ngón tay này qua ngón khác. Anh ta đang cố đưa hết những nét gì
thật duyên dáng lên gương mặt, tranh thủ tình cảm mọi người. Anh ta là bạn, từ
ngày được anh của Hoa giới thiệu về em gái mình. Khang đã có ít nhiều hình dung
về cô gái đáng yêu ấy! Đã có lần anh của Hoa hứa với Khang: “Mình sẽ vận động
được cô em cho cậu. Trong làng cũng có khá nhiều thanh niên tìm hiểu nó, song
gia đình mình chưa đồng ý ai”.
Giáo Khang vỗn là người giàu sức tưởng
tượng, nhiều mơ mộng. Anh ta từng có lúc mơ mộng nghĩ đến chuyện cùng Hoa “xây
nhà bên suối”. Hôm nay, anh mới được thật sự gặp mặt Hoa, quả là một cô gái
xinh đẹp, không khác mấy so với người trong mộng của Khang.
Khi bà Nhương hỏi tới chuyện vợ con,
thầy Khang mặt thêm đỏ, chỉ tủm tỉm không trả lời, vờ cúi mặt như soi mình vào
bát nước chè xanh – Kỳ thực đó cũng là câu trả lời của anh.
Người anh của Hoa nửa đùa nửa thật:
- Ấy, thầy Khang sẽ là em rể của con
đấy, mẹ ạ.
Cả nhà cười, vui vẻ, mặc sức ông giáo
càng làm duyên.
Anh trai của Hoa nói thêm:
- Con tính rồi, ta để thầy Khang trọ
lại trong nhà cho thêm vui, thầy về dạy ở trường mình đó. Đồng thời, thầy sẽ
dạy cho em Hoa nhà mình học hành luôn thể… Anh cười thoải mái – Một mai, thuận
gái thuận trai, thầy Khang thành con rể nhà này càng hay, phải không ạ…?
Mặt Khang càng thêm đỏ. Anh lại bẻ ngón
tay:
- Nếu không tiện ở đây thì con cũng sẽ
ghé lại với gia đình, thăm mẹ luôn. Chỗ anh Nhương với con, thân tình đã lâu,
cũng coi như ruột rà.
Bà chị gái từ trong bếp đưa ra một rá
lạc rang, câu chuyện giữa khách quý và chủ cứ thế mà nở rộ. Dụng ý của người
anh trai muốn để Hoa xây dựng với thầy giáo Khang đã rõ ràng. Và có lẽ, mọi
người trong gia đình cũng dễ bằng lòng. Thời buổi này, lấy ai sướng bằng giáo
viên, có gạo tháng, lại không phải đi bộ đội, đi dân công, chân lúc nào cũng xỏ
trong guốc.
Ở gian nhà trong, riêng Hoa, đang như
bị đá dằn lên ngực, có khi đến ngạt thở vì câu chuyện ngoài nhà mà cô đã nghe
lọt. Hoa ngồi với xa kéo sợi, mặt cúi gằm, ai không biết ngỡ rằng cô xấu hổ,
thẹn vì nhà có khách. Câu chuyện đang làm cho lòng Hoa rối bời.
Một điều mà chẳng ai nghĩ tới được, từ
đâu, Liêu xuất hiện trước ngõ nhà Hoa và đang đi vào giữa sân. Trên tay Liêu
cầm một cây mác dài cán, theo đề nghị của Liêu, ban chỉ huy trung đoàn đã bằng
lòng để anh giúp cấp dưỡng một thời gian. Anh đã dừng bước và lên tiếng hỏi:
- Mẹ ơ, nhà có chuối xanh bán không?
Bà Nhương trông thấy Liêu, hết sức mừng
rỡ:
- Anh Liêu ơi! Vào đây, vào đây đã nào!
Bà Nhương ra tận nơi, nắm tay Liêu dắt
vào nhà, nói cho mọi người hay:
- Anh bộ đội này đã cứu sống con Hoa
đây.
Mọi người mừng rỡ, hết anh ruột của
Hoa, đến người anh rể, đến thầy giáo Khang ân cần bắt tay Liêu.
Trong nhà, Hoa cũng đang nghiêng đầu
nhìn Liêu qua kẽ cửa, mặt cô hớn hở như chính mình đang được mặt mừng tay bắt
với Liêu.
Mọi người mời Liêu cùng ăn lạc cho vui.
Anh từ chối:
- Tôi vội lắm, phải lo mua cho được
thực phẩm gia khất gia đình, chủ nhật, hoặc một lúc khác, có điều kiện thì đến
chơi sau…
Từ trong nhà, Hoa
hỏi vọng ra:
- Anh mua chuối gì
hở anh Liêu?
- Chuối xanh để nấu
– Liêu trả lời.
- Nhà em có đấy.
- Được vài buồng
không?
- Được.
Bà Nhương vui vẻ:
- Phải đấy, cái Hoa
nó bán chuối cho anh, đỡ khỏi phải đi đâu cho xa.
Hoa mở cửa sau, gọi
Liêu ra vườn bán chuối.
Trong nhà, mọi
người vẫn vừa bóc lạc ăn, vừa trò chuyện rôm rả.
Ngoài vườn, Hoa dẫn
Liêu đến trước một khóm chuối xanh tốt. Cô chỉ cho anh một buồng chuối khá sai,
béo mập:
- Anh cao người,
chặt, em đỡ cho!
- Vững vàng không
đấy?
- Vững chứ!
Liêu giơ mác phóng
một nhát mạnh, buồng chuối đứt ngọt và nặng quá tuột ào xuống đất. Hoa đỡ không
nổi! Cả Hoa lẫn Liêu cùng cười.
Liêu đùa:
- “Gái mười bảy bẻ
gẫy sừng trâu”, khỏe thật!
Hoa cố bào chữa:
- Chẳng qua là bất
ngờ, em trượt tay. Anh cứ chặt buồng khác, em đỡ cho xem!
Gió lùa qua vườn
cây lá lao xao, nhất là đám lá chuối cứ vang vẫy, sột soạt, như hàng loạt những
bàn tay khổng lồ vỗ tay rô rỡn.
Họ đã chặt xong
buồng chuối thứ hai, Liêu vờ hỏi:
- Làm cách nào mà
đem về hết đây?
Hoa hăng hái:
- Anh vác một
buồng, em một buồng.
Lòng Liêu rộn vui:
- Phải đấy, nên
biết giúp đỡ bộ đội với chứ!
Chẳng hiểu, có phải
cố tình hay không. Liêu cứ ngước mắt nhìn mãi một điều gì cao trên ngọn tre.
Hoa càng ngước nhìn theo. Hóa ra ở đấy có hai con chim đang rỉa lông cho nhau.
Hoa cúi vội như người mắc lỡm, miệng tủm tỉm cười.
Liêu trước, Hoa
sau, họ vác chuối đi qua sân rất tự nhiên. Hoa nói với mẹ.
- Con vác giúp anh
Liêu buồng chuối đây, mẹ ạ.
Bà mẹ tỏ ra bằng
lòng:
- Ừ. Con vác giúp
anh ấy trăm lần cũng chưa đền hết ơn đâu.
Liêu cũng chào mọi
người trong nhà để ra về.
Riêng thầy Khang,
nhìn thấy Liêu và Hoa dập dìu kẻ trước người sau như vậy, không vừa lòng, hơi
đỏ mặt. Nhưng, thầy đã trấn tĩnh kịp tự khích lệ: “Nó chỉ là một anh lính cấp
dưỡng, chưa phải là đối tượng đáng sợ!”
*
* *
Chân núi thoai
thoải, chạy lan hàng cây số, là cả một triền cỏ, cánh đồng cỏ. Mùa hạ, cỏ ở đây
vẫn xanh tốt mượt như nhung. Mùa rồi, trên đồng cỏ này trâu bò đếm không xuể.
Bọn trẻ đánh trâu bò đến đây, thả ra trên đồng, mặc cho chúng kiếm ăn thoải
mái. Chúng nó không còn phải chăn dắt, cứ tụm năm tụm ba, con trai thì đánh
khăng, đánh đáo, con gái thì đánh chuyền, chơi ô ăn quan… Có bạn chăm học cứ đố
nhau làm toán, lớn theo lớn, bé theo bé.
Riêng Hoa, bây giờ
không còn thích ồn ào vui nhộn mấy, lẩn lánh đi lẻ, cốt tạo ra thời gian cho
mình suy tưởng, mong nhớ. Một mình Hoa, thả bò đi ăn rồi, ra ngồi khuất bên một
khóm sim tốt, cái nón để úp lên cây roi tre và cuộn dây thừng. Gió cuốn qua mái
núi. Trong gió, thoảng hương sim chín lẫn hương hoa dẻ cuối mùa. Gió thổi vi vu
qua khóm cây, thổi bạt cả mái tóc huyền của Hoa. Lòng Hoa, dần dần rộn lên nỗi
nhớ… Ngày giờ, thời gian Hoa được gần Liêu đã quá ít, quá ngắn, nhưng hình ảnh
của Liêu thì đã khắc vào tim Hoa khá sâu đậm. Một lời nói, một ánh mắt nhìn của
Liêu cũng đủ để cho Hoa nhớ… Hôm nào… chính anh Liêu đã nói lời thương yêu bên
tai Hoa, cánh tay ấm áp của anh đã choàng lên vai Hoa. Chỉ nhớ lại chừng đó
thôi trong buổi ban đầu của tình yêu cũng đủ cho Hoa cảm thấy sung sướng, hạnh
phúc, đỏ hồng gương mặt.
Tiếng chim đa đa
vọng trên đồng cỏ khắc khoải, buồn buồn.
Thoạt đầu Hoa còn
hững hờ hái mấy quả sim chín ngay cạnh chỗ, ngồi ăn một mình. Bấy giờ thì cô
hái lá sim và đang chăm chú dùng gai châm thêu chữ lên lá. Hết cái này qua cái
khác, lá nào cũng mang độc có hai chữ H.L. Đoạn, Hoa lại sung sướng ghép lá lại
thành một hàng ngang trước mặt, rồi ngồi ngắm nghía say sưa như mê man đọc một
bài thơ tình yêu…
Có một bọn con trai
nghịch ngợm, tháo mũi thúc trâu chọi nhau để xem cho khoái. Vừa xem trâu chọi
nhau chúng vừa hò vang: “Hò lê, hò lắc, mài sừng cho sắc bạng chắc cho đều… Hò
lê, hò lắc! Hò lê, hò lắc…!”
Mặc chúng nó, đã
nói bây giờ Hoa không thích đùa, không thích vui nữa! Gió lại thổi quá mạnh,
hàng lá trước mặt Hoa bỗng bật cánh, bay như một dàn bướm là đà trước gió. Đôi
mắt hây hây bồi hồi. Hoa nhìn theo những chiếc lá trong gió… “Không biết những
chiếc lá đó sẽ bay đến đâu…?”
Sáng nay Thìn cũng
đem bò đi ăn. Và, cô đang đi hết nơi này qua nơi khác tìm Hoa, cất tiếng gọi
lanh lảnh:
- Hoa ơi…! Ơi…
Hoa…!
Tiếng gọi nghe đã
gần. Hoa lên tiếng đáp lại:
- Đây này! Thìn ơi…
đây này…
Thìn đã đến với Hoa
bằng một câu trách móc:
- Ghê quá! Cô ả dạo
này cứ bỏ tôi đi ăn lẻ một mình!
- Đâu nào, mình
tưởng hôm nay Thìn không đưa bò đi ăn, chưa chi đã vội.,.
Thìn ngồi xuống sát
cạnh Hoa, tay choàng qua vai bạn. Hoa cũng vòng tay qua lưng Thìn. Hai người
cùng lắc mình, đung đưa như đang cùng nhau song ca.
Mãi một lúc lâu,
hết đung đưa, Thìn nhẹ giọng hỏi bạn:
- Hoa ơi, có điều
gì vui lắm phải không?
Hoa lấy giọng đỏng
đảnh:
- Ai nói?
Thìn vẻ nghiêm túc:
- Có người nói hẳn
hoi, Hoa ạ, mình chẳng ngoa đâu.
Mặt Hoa bỗng lắng
lại, nhìn Thìn:
- Có chuyện gì mà
Thìn nói như vậy?
- Tình bạn, mình
nói thật, gia đình anh ta chẳng tốt đẹp gì! Đấy, Hoa xem!
Hoa khẽ cau mày:
- Mà ai đã chứ?
- Hoa còn dấu Thìn
làm gì? Có người nói tận tai mình rồi. Mình chỉ biết nói thẳng với Hoa rằng:
Nếu xây dựng với anh ấy thì hạnh phúc chẳng ra sao!
Hoa có gì như uất
ức, níu lấy vai Thìn, hỏi dồn dập:
- Ai nói? Nói ai?
Vì sao? Ai nói?
Thìn tỏ vẻ không
vừa lòng với Hoa. Cô đang nhìn kỹ vào mọi chiếc lá sim trên mặt cỏ. Chiếc lá đã
sót lại sau trận gió thổi mạnh. Rồi Thìn nhặt chiếc lá đưa ngay lên trước mặt
Hoa vẻ giận dỗi, giọng hơi gắt:
- Vậy còn ai nữa!
Ai châm tên ai vào lá này?
Thìn nhìn thẳng mặt
Hoa như bắt được quả tang.
Hoa lấy lại chiếc
là ở tay Thìn, hai mắt rưng rưng. Thìn đẩy mạnh Hoa sang bên, đứng phắt lên và
bỏ đi, không hề ngoái lại, cho dù Hoa vươn theo, gọi:
- Thìn ơi! Thìn
ơi…!
Hoa đứng lên, nhìn
theo hướng Thìn đi xa trên nội cỏ, khổ tâm, bóp nát chiếc lá sim trong tay,
những muốn đuổi theo kịp chân Thìn…
Đang lúc, một đứa
bé khoảng mười tuổi, tay cầm bì thư đi thẳng một mạch đến bên Hoa. Thằng bé lên
tiếng:
- Chị Hoa! Em tìm
chị khắp nơi! Chị Hoa.
Hoa quay lại với
thằng bé, nhận ra em trai của Luyến.
Thằng bé bẽn lẽn:
- Anh Luyến sai em
tìm chị, đưa tận tay thư này cho chị.
Hoa lạnh lùng:
- Thư gì?
Thằng bé cúi mặt,
trả lời khẽ:
- Em không biết.
Hoa bóc thư xem
ngay. Xem xong thư, cô bực bội nói với đứa bé:
- Em về nói với anh
Luyến rằng, ai cũng như anh Luyến của em thì chị đã chết đuối mất xác rồi,
chẳng còn sống đến bây giờ để cho anh ấy gửi thư đâu!
Hoa đã vỡ lẽ, bây
giờ mới thông cảm với sự hiểu nhầm của Thìn. Hoa xé nhỏ lá thư, rồi bỏ chạy,
tìm theo Thìn, để lại thằng bé với những vụn giấy bay lả tả.
Thằng bé phồng má,
phụng phịu:
- Đã không nhận thì
thôi, lại còn xé thư, để cho người ta… không khéo lại ăn đòn…!
Một nỗi lo lắng bao trùm lấy thằng bé.
Nó cúi xuống nhặt các vụn giấy, thỉnh thoảng liếc nhìn theo hướng Hoa chạy, oán
trách.
Lúa đang thì con gái, xanh mơn mởn.
Sóng lúa dập dờn dưới làn gió thu dịu mát. Đàn chim én đưa thoi trên cánh đồng.
Sắc trời ngả về thu. Bầu trời cao xanh. Thỉnh thoảng mới có vài đám mây trắng
bạc trôi qua lững thững. Nắng thu choàng phủ lên cỏ cây, núi đồi một màu vàng
quả dành. Cánh rừng già phía tây càng xanh thẫm dưới nắng, làm nổi bật lên
những suối nước trắng xóa như những tấm lụa chảy từ mái núi cao xuống thung
lũng.
Thơ cổ vốn có câu: “Một chiếc lá ngô
đồng rụng, thiên hạ biết mùa thu…” Mùa thu 1952 đang đến. Mùa thu êm ấm của
những ai đang sống trong cảnh gia đình sum vầy và cũng là mùa thu nhớ mong của
nhiều đôi lứa đang xa nhau…
Trên con đường đồi từ phía rừng xanh đổ
ra, có tiếng người í ới gọi nhau và tiếng hát của phường hái củi. Một giọng hát
dân ca nghe véo von, nhưng lại mộc mạc, chân chất, khi nghe lỡ làng…!
“Đợi chờ em với…anh ơi.”
“Rồi mai sau lên ngược…xuống xuôi, em
chờ..”.
Ở con dốc đất đỏ, một mái nón nhô lên,
rồi hai. Thìn gánh củi chạy trước, Tân gánh củi chạy sau. Củi nặng vai, mồ hôi
ướt đầm đìa thân áo cả hai người. Lên tới đỉnh dốc thì họ đặt củi, nghỉ chân
bên mấy khóm cây ven đường.
Thìn lấy khăn mặt buộc đầu đòn gánh lau
mồ hôi. Mồ hôi lớp này đến lớp khác cứ túa ra.
Tân nhìn Thìn vẻ ái ngại:
- Hôm nay củi quá tươi, Thìn lại bó to,
nặng đấy! Mệt lắm không?
Thìn đã cầm lấy nón quạt:
- Mệt gì. Nhưng nghỉ chờ Hoa về một
thể. Thanh niên hạng các anh theo được tôi còn khướt.
Tân bĩu môi.
Thìn nguýt Tân một nguýt dài, rồi
nghiêng mình nằm xuống bên khóm sim, đầu gối lên tay mình, hai mắt thiu thiu.
Chờ mãi chẳng thấy bóng Hoa về, Tân
ngoái sang bên, đưa mắt nhìn Thìn một lượt từ đầu đến chân, rồi trở lại móc
túi, lấy thuốc lá cuốn hút.Vừa nhả khói thuốc hờ hững, Tân đưa mắt nhìn theo
con đường đất đỏ chạy lượn cánh cung qua các sườn đồi, rồi nhoài mình băng qua
cánh đồng, hút vào trong rừng cọ…Ở đó là xóm làng của Tân, của Thìn…bao thân
yêu, đầm ấm…
Thìn hé mắt nhìn Tân, thấy anh chàng
đang như một ông cụ, mặt đăm chiêu, tư lự, Thìn vờ thở dài rõ mạnh.
Tân quay lại với Thìn, để mắt vào gương
mặt hồng tươi, món tóc mai ướt mồ hôi như dính vào má, nom Thìn như một đứa trẻ
đang ngủ ngon trong nôi.
Tân muốn nói với Thìn một câu chuyện đã
được giữ kín từ lâu.Tân với Thìn từng sống gần gũi nhau thuở tấm bé. Anh cũng
đã biết yêu Thìn qua những tháng năm sinh hoạt đồng áng, lao động sản xuất,
cũng như bao ngày đi tối về sớm làm công tác xã hội… Trong khung cảnh chất phác
giản dị của quê hương, tình yêu của anh đối với Thìn, gần đây bỗng trở nên thôi
thúc, nhưng muốn phải bộc lộ, phải nói ra. Giờ đây, càng nhìn Thìn, lòng anh
càng rạo rực hơn bao giờ hết.
Đôi môi Thìn chúm chím, đẹp như một nụ
hồng sắp nở. Bao giờ, biết đến bao giờ, tự đôi môi nồng thắm ấy sẽ thì thầm với
Tân “Em yêu anh!” Bao giờ, và bao giờ, đôi môi ấy cùng áp chặt vào môi anh
trong hơi thở ngây ngất hương tình yêu…?
Tân vất mẩu thuốc lá trên tay, chuyền
lại gần Thìn. Đôi môi dày của anh ta run run, rồi lên tiếng gọi:
- Thìn ơi!
Mắt Thìn chỉ hé mở trong khoảnh khắc,
rồi nhắm lại ngay, không rõ đã kịp nhìn rõ Tân chưa.
- Thìn ơi! Tân mạnh dạn lên tiếng lần
nữa.
Lần này mắt Thìn mở nhìn Tân lâu hơn tí
chút. Đôi mắt sao mà cay nghiệt, không chịu mở lâu hơn nữa. Tân ngồi sát cạnh
Thìn. Có lẽ lúc này người ta sợ tiếng động nhất. Rồi, Tân đưa tay khẽ lay vai
Thìn.
Tức thì, Tân bị cho một phát vào tay. Và,
Thìn đã bật ngồi dậy với một câu hỏi:
- Anh đang làm gì thế?
Tân cúi mặt, ngượng ngùng đưa tay nhổ
cỏ, bối rối đến khó tả, nói với Thìn:
- Tôi…tôi định nói với…Thìn…một việc.
Thìn quay mặt đi nơi khác, cười thầm,
bảo Tân:
- Anh nói đi, dũng cảm mà nói đi! Tôi
nghe đây!
Mặt nóng bừng bừng như bị ai xát ớt
vào, hai tai Tân đã ù lên tựa người lặn lâu dưới đáy nước, nghe ran những tiếp
lộp độp.
Anh chàng Tân ngày thường nghịch ngợm,
láu lỉnh là vậy, giờ thì ấp a ấp úng. Hồi lâu anh ta mới đủ can đảm nhìn mặt
Thìn, song chẳng dám nhìn lâu:
-Tôi thấy…Thìn…dễ thông cảm.
- Gì nữa? _Giọng hỏi lại của Thìn vẫn
khô cứng.
- Tôi muốn…cùng Thìn …tìm hiểu.
Thìn bỗng cười phá lên.
Vừa xấu hổ, vừa bực mình, Tân quyết
định không nói năng gì nữa. Anh loay hoay đứng lên.
Thìn lại dịu dàng
kéo Tân ngồi xuống, giọng trở nên vui vẻ, thân mật:
- Tân, Thìn đùa
đấy! Cứ ngồi mà nói cho hết chuyện!
Tân, phần nào đã
bình tĩnh trở lại, nhìn Thìn với cái nhìn bán tín bán nghi.
- Giận Thìn lắm hở
Tân?
- Tôi thấy, Thìn đùa
hơi quá, tôi thì …nói thật.
Giọng Thìn không
còn đùa cợt nữa, trở nên ấm áp, gần gũi đối với Tân, làm cho Tân muốn nín thở
mà lắng nghe theo từng lời nói:
- Tân ạ, Thìn hiểu
Tân định nói gì, từ lâu rồi. Song, theo ý Thìn, hãy khoan, giữa chúng mình cứ tạm
xem là tình bạn. Chuyện vừa xảy ra chưa lâu, chắc Tân đã hiểu. Mặc dù giữa tôi
và Luyến đã hoàn toàn dứt khoát, nhưng cũng để chuyện nguôi dần đã. Chúng ta
còn sống với nhau lâu, vả chăng còn trẻ, chưa đi đâu mà vội… phải không Tân?
Tất cả những gì mà
Tân từng cảm thấy khó nói, vượt qua cả đỉnh Trường Sơn e rằng không khó bằng
lời tỏ tình ban đầu, bây giờ Tân không phải nói nữa! Có gì mà đo được nỗi vui
sướng của Tân trong lúc này. Thìn đã biết hết và mặc nhiên chấp nhận tình cảm
của Tân… Đôi vai lúc này đã sát vào nhau tưởng ánh sang cũng không qua lọt. Tân
đã nhận được hương tóc thơm thơm của Thìn qua hơi thở mình…
Tân ấp nhẹ bàn tay
xù xì lên bàn tay Thìn.
Một lần nữa bàn tay
Tân bị cảnh cáo!
Tân còn chẳng hiểu
ra sao, bực mình, giận dỗi đứng phắt dậy.
Có tiếng người cười
phá lên, rất dòn. Không phải tiếng cười của Thìn mà là tiếng cười của Hoa. Thì
ra Hoa trông thấy Tân và Thìn bên nhau, cô đặt củi từ xa, rồi bí mật đến nấp
kín sau lưng hai anh chị, đã khá lâu. Hoa đứng lên, miệng tươi rói, đến trước
hai người.
Tân mắng Hoa:
- Con yêu này, nguy
hiểm quá!
Hoa nghiêng đầu:
- Chúng mày vui
sướng, không cho tao cùng hưởng sao?
- Mày độc thế, nghe
hết chuyện rồi còn gì!
Hoa thản nhiên ngồi
xuống cạnh Thìn, làm bộ vênh mặt lên với Tân:
- Nghe chưa hết,
cũng chưa đủ! Đây còn thích nghe nữa.
Thìn vừa bá vai Hoa
vừa nói:
- Phải đấy, ngồi
lại đây đã nào, anh Tân, nói thêm chuyện nữa đi, cho Hoa cùng nghe với.
Tân ngồi xuống
không sát Thìn như trước.
- Anh Khang từng
nói cho nó nghe chán rồi.
Hoa nghiêm mặt lại:
- Tôi cấm cậu nói
thế! Nói thế không có lợi. Anh Khang với tôi chẳng có dính líu gì với nhau.
- Thế thì anh Liêu
bộ đội, được chứ?
Hoa vẫn hằm hằm nhìn Tân.
Đêm mùa thu xuống sớm. Lũ đom đóm lập
lòe lúc trời mới tối, giờ đã tản mác đâu hết. Con dế con giun vẫn ca bài ca
buồn phiền muôn thuở. Chỉ còn mấy con sóc đem nhau đi ăn trộm hồng, rúc rích
trên cành cây, đuổi nhau sột soạt qua tàu lá cọ. Lưng trời, thỉnh thoảng mới có
một tiếng vạc tác đêm.
Trong nhà bà Nhương vẫn còn có ánh đèn
lọt qua cửa sổ rọi ra sân, khuya khoắt.
Thầy Khang đang thức soạn bài giảng cho
ngày mai. Qua ánh sáng đèn, đôi má anh lúng láng như má con gái dậy thì. Cái
đồng hồ tay nằm bẹt trên cuốn sổ bìa xanh, kim ngắn đã chỉ mười hai giờ.
Động bước Hoa về, tiếng dế lặng rả
rích.
Hoa vào nhà.
Khang ngước lên với Hoa, niềm nở:
- Về rồi đấy em? Họp gì khuya thế?
Hoa dừng bước trước bàn làm việc của
Khang:
- Thầy chưa nghỉ ạ? Hôm nay đại diện Ủy
ban huyện về phổ biến chỉ thị mới.
- Vấn đề gì thế?
- Thanh niên thi đua tòng quân, phục vụ
tiền tuyến.
Mắt Khang không rời nhìn vào miệng Hoa.
Hoa hỏi tiếp:
- Thầy đã chấm bài cho em chưa?
Khang đang mải theo đuổi một ý nghĩ nào
đó, mãi sau mới sực nhớ trả lời Hoa, đúng ra là một câu hỏi lại:
- Hoa làm xong bài rồi?
- Vâng. Vở em để bên góc bàn đó. Thầy
chấm hộ em nhé.
Khang cứ ngồi như vậy, nhìn theo bóng
Hoa ra cửa sau rửa chân bên chái nước. Cho đến khi cô vào buồng lên giường đi
ngủ, anh mới lục vở để chấm bài cho Hoa.
Nét mặt Khang đang có gì hoan hỉ bỗng
lặng lại. Hai mắt dương to. Khang nhìn thấy trong vở bài tập của Hoa có một tấm
ảnh đàn ông cỡ bốn, sáu và một lá thư. Nhìn thật kỹ, Khang nhận ra, đấy là anh
cấp dưỡng bộ đội mua chuối xanh hôm nào, là người đã cứu Hoa khỏi chết đuối.
Rồi đôi bàn tay Khang run run mở lá thư gấp tư ra đọc:
“ Hoa thương yêu!
“ Ngày ấy ra đi, giữa đường tôi có về
một lá thư, em có bắt được không?Hôm nay đã có địa chỉ nhất định, tôi lại viết
tiếp thư này về Hoa. Những chuyện, hôm ra đi, cũng như trong lá thư trước anh
nói với em, em đã nghĩ thế nào rồi? Tôi đã yêu em và yêu tha thiết. Tôi là một
người không gia gia đình, không cha mẹ, quê quán thì có cũng như không, vào
quân đội khi còn là một thiếu niên cho đến ngày trưởng thành hôm nay, chỉ mới
biết có tình thương của đồng đội.
“Tôi thèm khát một gia đình êm ấm, có
nơi cho tôi đi sớm về khuya. Tôi muốn được coi mẹ là mẹ mình, gọi Hoa bằng em.
Tôi muốn gửi cho Hoa tình yêu nồng nàn, trong trắng của mình. Nếu em không có
gì phân vân, đòi hỏi ở tôi, biết thương tôi thật sự, chúng ta sẽ cùng nhau xây
dựng một hạnh phúc tốt đẹp. Em vui lòng chứ Hoa?
“Cuối thư anh xin chúc gia đình em vạn
an.
“Hãy chờ ngày hết chiến tranh, anh trở
lại:
“Tha thiết yêu em”
Lá thư ký tên: Trần Chí Liêu.
Người Khang đang như ở trạng thái ngộ
độc. Nóng chẳng ra nóng, rét không ra rét. Đọc xong thư, Khang cứ ngồi lặng hồi
lâu nhìn vào ngọn đèn.
Thế rồi, Khang đưa lá thư và cả tấm ảnh
châm vào ngọn đèn. Ngọn lửa cháy bùng lên. Tàn giấy cuốn tròn. Bàn tay Khang
hất nốt cả cuốn vở bài tập của Hoa xuống sàn nhà.
Anh thổi phụt nốt ngọn đèn, rồi ngồi
như một pho tượng đá trong đêm tối, giữa tiễng muỗi vo ve…
*
* *
Liêu đã nhận công tác sau khi chịu kỷ
luật phê bình trong cán bộ. Đơn vị của anh cũng đã nhận được lệnh trên rời mặt
trận, về vùng tự do Hà Tĩnh để học tập xây dựng. Liêu đang cùng đơn vị hành
quân đêm trên một con đường tỉnh lộ lởm chởm đá…
Trăng hết khuyết lại đến tròn, đêm nay
đã là rằm tháng tám_trung thu. Trăng sáng vằng vặc. Ánh trăng tuôn chảy khắp
hang cùng ngõ hẻm, như muốn phân phát niềm vui đến tận mọi nơi, mọi người. Sau
những rặng tre, ở mỗi xóm làng, dưới mái đình, trước sân trường đều đang vang
lên những tiếng trống ếch, nổi lên những cuộc vui chơi của các em thiếu nhi như
múa làn, rước đèn, ca múa, phá cỗ, ngắm trăng…
Một hồi còi rúc lên, đơn vị hành quân
đến giờ nghỉ chân. Hàng ngũ bỗng trở nên lộn xộn. Các chiến sĩ cứ tụm năm, tụm
ba, rít thuốc lào, hút thuốc lá, tẩm quất cho nhau, nói chuyện phiếm, cũng có
anh tranh thủ nằm vật bên vệ cỏ ngủ ít phút…\
Tiếng trò chuyện nổi lên đó đây:
- Nhớ nhà, nhớ quê quá chúng mày ạ!
- Ước gì nhỏ lại, vào xóm mà phá cỗ
trung thu.
- Nhỏ lại còn được các chị em bế trên
tay, bón bánh, bón kẹo vào tận miệng.
- Thơm nữa chứ!
Cùng trong một giờ nghỉ giải lao trên
đường hành quân, mỗi một chiến sĩ đều theo đuổi một ý nghĩ riêng vào đêm trung
thu này. Người nhớ tới con cái, không biết ở nhà mẹ nó có cày cấy đủ nuôi chúng
ăn học không? Người đã sắm được cái áo ấm cho cô em gái, mong có dịp công tác
qua nhà…
Một anh lính súng cối, vừa đặt súng xuống
nghỉ, đã lân la đến với đại đội trưởng trò chuyện, chia nhau điếu thuốc cuốn…
- Đồng chí ở nhà còn mấy em nhỏ nữa?
Anh ta hỏi Liêu.
- Mình không có qua một người anh em.
Thân thiết cũng chẳng còn ai. Mình chết đỡ phải báo tử.
Anh xách súng cối tâm sự:
- Tớ có một thằng em ngoan lắm, đồng
chí ạ. Nó làm liên lạc cho xã đội. Năm ngoái, chiến dịch Hà Nam - Ninh, tôi có
được gặp hắn vài phút. Đứng đã cao tới cổ tôi, một hai hắn cứ xin đi theo bộ
đội. Tôi khuyên hắn… - Anh ta cúi mặt, ngừng nói vì nghẹn ngào, xúc động …- Tôi
khuyên hắn, cố ở lại, nuôi lấy thầy u để cho tôi yên tâm đi bộ đội. Thế mà -
anh cắn môi - giặc giết hắn mất rồi! Tôi nghe tin chúng nó còn chặt đầu em tôi,
cắm cọc bêu ở đầu làng…!
- Dã man! Liêu thốt
lên.
Người lính với
giọng trở nên ân hận:
- Biết sự thế. Tôi
cho hắn cái áo…Tội nghiệp, hôm anh em gặp nhau, tôi thấy hắn rách lắm!
Gió thổi vè vè qua
những khóm dứa dại ven đường. Trên một cành gạo cao, có con chim lợn kêu đơn
độc trong đêm nghe rờn rợn…Ở nông thôn người ta vốn kỵ tiếng chim lợn, cho đó
là điềm gở.
Từ dưới hàng quân
có tin truyền loan báo: “Được nghỉ giải lao nửa giờ. Anh em có thể vào trong
xóm chơi, đón trung thu với các em một lúc cũng được.”
Nhiều anh em thích
thú kéo nhau vào ngay xóm nhỏ ven đường, nơi tiếng trống múa lân đang rung lên
từng chập từng chập, chắc rằng lân đang vái lạy gia chủ nào đó.
Đại đội trưởng Liêu
thì cùng với vài ba anh em ngồi quay lại ở một gò đất ven đường, hình như nơi
đó là một ụ chướng ngại đắp hồi mới có lệnh toàn quốc kháng chiến. Họ đem sáo
trúc ra thổi.
Anh chiến sĩ thổi
sáo hỏi Liêu:
- Đại đội trưởng
thích nghe bài gì nào?
- Bài gì cậu thích?
Một chiến sĩ khác
hóm hỉnh.
- Nên thổi tặng đại
đội trưởng bài “Em ơi, đợi anh về!”
Anh khác lên tiếng:
- Hay đấy, bài ấy
đang hợp tâm trạng đại đội trưởng.
Thế nào tiếng sáo trúc được cất cao,
bay xa, rồi lại như hạ dần xuống, trầm trầm, chan chứa tình cảm. Tiếng sáo trúc
của chiến sĩ có thể đang đưa tâm hồn của Liêu đi lang thang dưới trăng sáng
trung thu. Và, điều chắc chắn rằng, anh ta lại đang nghĩ, đang nhớ đến Hoa, cô
gái xinh đẹp ở làng Phước Sơn. Biết đâu, đêm nay cô gái ấy chẳng lại đang nhìn
trăng và đang thầm trách:“… Ở hai nơi đều nhìn thấy trăng, mà hai đứa lại không
nhìn thấy nhau!”.
Ở làng Phước Sơn, đêm nay, dẫu trăng có
sáng vằng vặc thì một sự thật đang như một bóng tối choàng phủ lên tâm hồn Hoa
- gia đình thầy giáo Khang dẫn lễ hỏi. Tại bộ bàn ghế ở gian giữa nhà, trước
bàn thờ, ngồi bên phải là bà Nhương và người con rể, bên trái là ông mối và mẹ
của Khang. Ở dãy ghế băng đặt phía sau là đám con trai, con gái chừng dăm
người, áo quần khá tươm, người bên họ nhà trai. Giữa bàn là hai mâm lễ hỏi, một
mâm gồm hai buồng cau, hai chai rượu, trầu, còn mâm kia chồng đầy bánh chưng.
Mọi người vừa hút thuốc, uống nước, kẻ ăn
trầu, ông mối có làm thêm chén “nước cay”, vừa trò chuyện rôm rả - Câu chuyện
của họ phần lớn xoay quanh các đề tài hôn nhân, rồi đạo đức trai gái… Họ còn
nói tới cả chuyện Luyến và Thìn.
Ông mối làm xong một hơi rượu “khà” một
tiếng đưa tay quẹt hàng ria mép, rồi cũng với giọng rượu khè nhè:
- Ông cha đã nói, “Cá không ăn muối cá
ươn, con cưỡng cha mẹ trăm đường con hư”. Cha mẹ kiếm nơi kiếm chốn cho chẳng
nghe, trai đường gái chợ, làm xấu xa cả họ hàng.
Bà Nhương tỏ ra ăn ý:
- Đến như cháu trong nhà, nếu mẹ mà
không kèm cặp thì cũng dễ bắt chước, học đòi bầu bạn. Các anh thì đi vắng, chị
đã lấy chồng, ở nhà có một mẹ, một con. Nó từng chết đi, may có bộ đội cứu
sống, công cha nghĩa mẹ chưa có gì đền đáp. Vô lẽ không nghe lời tôi, lời anh
nó được…
Người này câu nọ,kẻ nọ câu kia, chừng
như người ta cũng muốn trò chuyện to lên để cho trong nhà Hoa nghe thủng chuyện
đời, luân thường đạo lí…Hẳn rằng mọi người không đều không hay biết, Hoa đang
như bị vò xé đến nát ruột nát gan về lễ ăn hỏi cưỡng bức này.
Tình yêu chỉ mới chớm nở, thường là mặn
nồng, da diết, song, vì e lệ, Hoa chưa nói được với mẹ với anh. Thầy giáo Khang
thì liều lĩnh đeo đuổi ở thế mạnh của mình là đã chiếm được hoàn toàn tình cảm
của gia đình. Địa chỉ của Liêu gửi cho Hoa ngày nào đã bị Khang đốt cháy cùng
với lá thư và tấm ảnh Liêu. Biết làm sao đây, tính sao đây? Nếu chỉ có khóc thì
nước mắt cũng chẳng đủ để khóc cho tới ngày… Trong óc Hoa có khi bỗng lóe lên
tia chớp liều lĩnh sau những lúc suy nghĩ dồn tới đường cùng. Tin Liêu, từ sau
lá thư bị đốt, đến nay xem như biền biệt, hoàn cảnh chiến tranh, tin tức, thư
từ đâu dễ gì…
Khi nghe ngoài nhà người ta bàn tới
chuyện tháng chạp này sẽ tổ chức lễ cưới, Hoa lạnh buốt cả người như gặp phải
cơn gió độc, từ xương sống, đến chân tay cứ thế mà uốn lả, run run. Hoa bỗng xô
cửa sau, chạy ra khỏi nhà, như đang cố chạy thoát cái ngày tháng chạp ấy. Đôi
chân Hoa như không còn là của Hoa nữa, cứ đạp bừa lên ánh trăng, không biết sẽ
dẫn tới đâu nữa.
Như một kẻ mất hồn, Hoa đến với bến
nước, bờ sông. Nơi ngày nào tưởng đã đón cô ra đi, nơi chính cô đã được bọc
trong vòng tay Liêu để trở lại với cuộc sống… Cũng gốc xoan mà Hoa đang tựa
mình, ngày nào ở nơi đó, cô đứng ngắm nhìn theo Liêu bơi lội giữa sông như một
con rái cá…Tóc đã xỏa ra ba mái làm cho nét mặt Hoa qua ánh trăng thêm ảo não,
nước mắt giọt ngắn, giọt dài. Hoa ngửa mặt lên trời như để cầu van đằng thiêng
liêng, xin được rủ lòng thương…Không, Hoa đang thầm đối thoại với người yêu:
“Anh Liêu ơi! Sao anh không về? Anh có biết em đau khổ thế này không? Em hóa ra
người phụ bạc ư? Không, không bao giờ em biết phụ anh! Anh ở đâu, gửi thư về
gấp cho em! Về mà cứu lấy em lần nữa! Anh Liêu ơi! Em biết làm sao được
đây?...”
Từ ba tháng nay, theo ý định người anh
đầu của Hoa, thầy giáo Khang dạy học gần đấy, đã trọ lại trong nhà, sớm tối đi
về, còn kèm cặp cho Hoa học hành. Một lần, bà Nhương bị ốm, thầy giáo đã hết
lòng chăm lo thuốc thang…Cứ thế, tình cảm giữa gia đình Hoa với thầy giáo càng
đằm thắm, sâu sắc.
Còn Hoa, vì tình thương của mẹ, của các
anh chị, phần vì luân thường đạo lý, không dám cưỡng lời, đành nuốt khổ đau,
mong chờ ngày Liêu sớm trở lại. Hoa cũng không ngờ tới mọi việc đã được người
ta tính toán, đẩy nhanh đến ngày… Hoa hoàn toàn không chút mong chờ…
Trước mắt Hoa lúc này, dòng sông Gianh
trôi nghiêng nghiêng dưới trăng lạnh, lấp lánh như tráng bạc, sóng nước đang
triền miên nức nở với bờ Hoa nhìn xuốngsông, kỷ niệm đang từ mặt nước hiện hình
đến với Hoa. Vẫn trên tảng đá kia, Liêu vẫn ngồi đấy. Giữa sống hai con thuyền
buồm trắng nối nhau trôi xuôi về hạ bạn…Bỗng nhiên Liêu lao mình ra giữa sông,
bơi theo thuyền… Hoa vẫn tựa mình bên gốc xoan, như người trong cơn mê sảng,
ngỡ rằng, cô có thể thanh thản xuống sông thả mình trôi dạt, chìm đắm với kỷ
niệm đang kêu gọi.
Khang đi tìm Hoa, ra tới đây trông thấy
Hoa đứng bên gốc xoan bến sông trong đêm vắng vẻ, liền lên tiếng, giọng run
run, sợ hãi:
- Hoa! Hoa! Sao em lại ra đây?
Hoa như chưa ra khỏi cơn mê sảng, không
để ý, không hay biết gì đến Khang.
Khang chưa dám lại gần Hoa:
- Hoa? Sao em lại ra đây?
Bây giờ Hoa mới từ từ quay lại với
Khang, sắc mặt vẫn bơ phờ dưới ánh trăng.
- Thầy không biết ư?
Khang bước tới gần Hoa:
- Vì sao thế em?
Hoa nhìn thẳng vào mặt Khang:
- Vì thầy. Thầy làm tôi phải khổ đau
đến thế này đây!
Khang rất sợ chuyện không hay sẽ xảy
ra. Anh vẫn đang run:
- Có gì, em cứ nói thật cho anh biết.
Em hãy về nhà! Việc gì em phải ra đây?
Giọng nói của Hoa trở nên cứng rắn:
- Lá thư hôm trước tôi bỏ trong vở bài
tập cốt để thầy xem mà biết chuyện. Sao thầy lại đốt thư và ảnh của anh Liêu
đi?
- Anh không ngờ, nếu biết đến nông nỗi
này, anh chẳng đeo đẳng làm gì cho em khổ tâm, mà tình cảm của anh cũng bị tổn
thương.
Sau câu trả lời của Khang, lòng Hoa
phần nào bớt thất vọng. Cô nói với Khang đầy chân thành:
- Thầy hiểu cho, tôi đã yêu anh Liêu từ
lâu, khi mới gặp nhau, không phải sau khi anh ấy cứu sống tôi. Tôi không thể
quên anh ấy được. Thầy nên biết thông cảm cho tôi. Đời thầy còn thiếu gì nơi
xứng đáng.
Khang đứng lặng đã hết run, ra chiều
suy nghĩ.
Giọng Hoa trở nên ấm áp:
- Công lao thầy đi sớm về tối, từng
chăm sóc mẹ em lúc ốm yếu, em xin nhớ. Nhưng, đời em chỉ có một anh Liêu…
Khang cắn môi hồi lâu, đoạn ngước lên
với Hoa:
- Được, em cứ về đi! Tôi không để em
phải đau khổ.
Biết được tin ăn hỏi của thầy giáo
Khang không thành, bà Thành liền xăng xái đến với bà Nhương. Hai bà đang ngồi
ăn trầu với nhau.
Bà Thành nhoẻn miệng cười để lộ hàm
răng đen lánh sau đôi môi sơn dày một lớp trầu thuốc:
- Thế nào bác? Ngày vui của cháu Hoa
bao giờ thì bác lo liệu, để bà con chúng tôi còn lo dùm, người thúng nếp, kẻ
thúng gạo chứ?
Mỗi lần ai hỏi, ai nhắc tới chuyện… bà
Nhương cảm thấy như đang bị dao cứa vào ruột gan. Bà thở dài, buồn bã trả lời
bà Thành:
- Chuyện không thành, bác ạ. Cháu nhà
tôi hư lắm. Chẳng biết nó đã dại dột nghe ai…
Bà Thành làm bộ hiểu biết:
- Nó không dại đâu, có khi còn khôn hơn
cánh ta đó. Người đời vẫn thường ví: “Con gái mà lấy chồng xa, cũng bằng mẹ đẻ
con ra mà từ.” Nó nghĩ thế là đúng. Các anh nó đều đi xa. Chị gái cũng lấy
chồng cách xã. Bây giờ nó biết nghĩ đến tuổi già của bác, khi tắt lửa tối đèn…
Bà Nhương chưa biết nên nói lại với bà
Thành như thế nào thì vừa lúc Hoa từ trong nhà bưng ấm sánh nước ra. Cô hơi cúi
mình rót nước trước mặt hai bà.
Bà Thành nhìn Hoa với đôi mắt trìu mến,
rồi lên tiếng:
- Hoa!
- Dạ! Hoa ngửng mặt lên với bà Thành.
Bà Thành gật gù;
- Trâu đồng nào ta ăn cỏ đồng đó, phải
không cháu?
Hoa đỏ mặt, cố rót cho đầy hai bát nước
trên bàn rồi trở vào buồng.
Bà Nhương cứ ngồi nhìn hơi bốc trên hai
bát nước, lòng ngán ngẩm, chẳng còn muốn trò chuyện gì thêm với bà Thành.
Câu chuyện nhạt nhẽo và không đúng lúc
cũng đã phải kết thúc. Bà Thành không còn xăng xái như lúc đầu, đành chào bà
Nhương ra về. Sau đó, bà Nhương lại gọi Hoa ra, cố gạn con một lần nữa xem
chuyện vỡ lở là do đâu? Cứ mỗi lần nghĩ tới Khang, bà không tài nào cầm được
nước mắt. Chẳng biết mấy hôm nay Khang về huyện họp thật, hay lại ngượng ngùng
với xóm làng mà lánh đi nơi khác. Vắng Khang, bà thấy nhà trống trải hẳn, nhớ
anh, lòng bà càng thương anh…
Hoa dè dặt ra đứng cạnh mẹ.
Bà Nhương lấy giọng dịu dàng:
- Mẹ hỏi thật con nhé: Con có còn biết
thương mẹ, thương anh nữa không?
Hoa đứng cúi đầu, cạy cạy móng tay:
- Không thương mẹ, thương anh thì còn
thương ai.
- Đã vậy thì cũng nên biết nghe lời mẹ,
lời anh. Đừng nghe lời người ta, con ạ. Mẹ và anh con đã nhận lời, đã hứa với
người ta. Công lao thầy ấy đi sớm về hôm, đi thăng về trầm. Thầy Khang là người
có học thức. Cả làng, cả xã này có ai bằng thầy. Đã thương yêu nhau thì “tam tứ
núi cũng trèo”… ngại chi xa, đừng như lời bà Thành nói. Bây giờ, con làm như
thế, khác chi bôi tro, trát trấu lên mặt thầy ấy, lên cả mặt mẹ và anh con…!
Giọng Hoa run run:
- Con xin mẹ! Con
còn nhỏ! Đừng bắt con lấy chồng sớm!
- Người ta cũng chỉ
mới dẫn lễ hỏi. Năm nay chưa cưới thì năm sau. Miễn là mình đồng ý để người ta
yên tâm – bà Nhương khẽ lắc đầu- Làm sao cho bõ công phu người ta đi lại. Chẳng
lẽ mẹ phải chắp tay mà lạy van con sao?
Hoa càng lúng túng
trước lời lẽ mẹ đã có phần gay gắt:
- Con xin mẹ! Con
lạy mẹ!
- Hay con đã bị ai
quyến rũ, nói cho mẹ nghe tưởng?
Hoa biết câu chuyện
là do mình chưa nói ra được, bởi vậy tự chuốc lấy khổ đau… Có lẽ đã đến lúc,
không quẩn quanh được nữa rồi…Hoa lấy hết can đảm:
- Còn…anh Liêu, mẹ
ạ. - Mặt Hoa tái hẳn đi.
Bà Nhương dương to
mắt nhìn con:
- Anh Liêu nào? Anh
bộ đội cứu mày ấy à?
- Dạ - Tiếng dạ rất
khẽ.
- Nhưng…anh ta chưa
hề nói gì với gia đình, với mẹ.
- Anh ấy đã nói với
con rồi sao? Nói lúc nào?
Hoa cảm thấy đã
thuận lợi, dễ nói ra câu chuyện:
- Ngày anh ấy ra
đi…con có đưa chân. Ra đến ngoài làng anh ấy có nói là…anh thương con. Vừa rồi,
anh ấy có gửi thư về, thăm mẹ. Con cũng đã hứa chờ…
- Anh ấy viết gì
cho con? Thư đâu rồi, đọc mẹ nghe!
- Trong thư, anh ấy
cũng nói là thương con…và bảo con chờ. Thư con bỏ trong vở bài tập, thầy Khang
đã đốt mất. Cả tấm ảnh của anh nữa.
Bà Nhương hỏi lại
con:
- Tức là thầy Khang
cũng đã biết chuyện con với…
- Dạ, biết. Địa chỉ
của anh Liêu đã bị cháy theo thư.
Bà Nhương thở dài
rõ mạnh, vừa buồn bã, lại như vừa thanh toán được mọi thắc mắc, khó hiểu về
con. Bàn tay nhăn nheo của bà vuốt vuốt lên mái tóc hoa râm: “Thật không ngờ,
trách gì mà nó…!” Bà chép miệng, càng thấy thương Khang số phận hẩm hiu.
Hoa vẫn đứng cạnh
mẹ, cạy cạy móng tay, mặt đỏ dừ khi đã nói ra câu chuyện giữ kín bấy lâu nay
với mẹ, thỉnh thoảng liếc mắt nhìn trộm mẹ.
*
* *
Suốt mấy hôm liền,
bà Nhương không buồn ra khỏi nhà. Lòng dạ cứ bứt rứt quanh chuyện Hoa không
chịu lấy Khang. Bà vẫn thầm nghĩ thiên hạ sẽ nói “Con hư tại mẹ”. Và cơm vào
miệng, bà không biết ngon. Nghĩ đến chuyện đó lại nước mắt lưng tròng. Chòm xóm
sẽ nghĩ thế nào về mình? Chiều nay bà mới lững thững sang chơi nhà ông Bảng, bố
của Thìn, muốn tìm đến người mà bà cho là cùng cảnh ngộ.
Giữa sân, Thìn đang
đẩy chiếc xe ba bánh cho thằng em trai chập chững tập đi.
- Cha cháu có nhà
không Thìn? Bà Nhương lên tiếng trước.
- Bác lại chơi ạ -
Thìn mừng rỡ - Mời bác vào, cha cháu còn đan rổ sau nhà, thưa bác…
Đoạn, Thìn gọi to:
- Cha ơi! Bác Nhương
qua chơi.
Thìn bế hẳn thẳng
em lên tay, đón bà Nhương ỏn ẻn:
- Hoa có nhà không
bác? Lâu rồi bác không sang nhà cháu chơi.
Bà Nhương không trả
lời Thìn, chỉ giơ nắm tay sát vào mặt thằng cu con dứ dứ, hám đùa. Thằng cu con
đạp chân, vẫy tay cười sằng sặc.
Bà Nhương vừa vào
tới cửa, ông Bảng đã đem bình tích nước ra. Họ chào nhau niềm nở, ân cần.
Ăn trầu uống nước
với vài ba câu chuyện làm ăn qua loa, ông Bảng như đoán được tâm lý bà Nhương,
bắt vào hỏi chuyện Hoa và thầy Khang.
- Tôi nghe nói
chuyện của cháu và thầy Khang không thành, phải không bác?
Bà Nhương thở dài,
buồn rầu, chép miệng:
- “Con không nghe
mẹ nghe cha, mắm không ưa muối, ắt mắm hư”. Tôi cũng không hiểu sao cả. Nó cứ
nhất quyết không lấy thầy Khang. Cha mẹ kiếm nơi vừa nơi, chốn đáng chốn cho,
không nghe, bác nghĩ, quá không?
Ông Bảng ung dung
uống hết bát nước, nét mặt thanh thản, miệng thoáng một nụ cười:
- Chúng mắc phải
bệnh nhau đấy, bác ạ. Con Thìn nhà tôi cũng thế. Nhưng biết làm thế nào – Ông
Bảng rót thêm nước, mời bà Nhương, nói tiếp – Sinh con ai dễ sinh lòng, ngồi
nghĩ lại, cũng có phần đúng. Thời nào theo thứ đó, mình có ép buộc cũng không
xong. Mình già mình chết, vợ chồng là chuyện ăn đời ở kiếp của chúng nó.
Thìn bế em ngồi
hóng chuyện ở bậu cửa buồng. Nghe bố nói vậy, cô càng được thể:
- Bác ạ, thời nay
khác rồi, cha mẹ không thể bắt buộc, định đoạt việc hôn nhân của con cái được.
Yêu đương, vợ chồng là quyền tự do lựa chọn của các con. Không vì miếng trầu
tấm bánh mà làm khổ con.
Bà Nhương phật ý:
- Các con nói thế
sao đúng được. Công cha nghĩa mẹ mang nặng đẻ đau, nuôi con khôn lớn, những
mong con cái đẹp đôi vừa lứa. Kiếm được nơi đúng nơi, chốn vừa chốn, các con
không nghe. Chẳng những con hư, phận con khổ, mà cha mẹ họ hàng còn mang tai
mang tiếng nữa.
Ông Bảng tựa mình
vào cột nhà, thủng thẳng cất lời:
- Trước đây, tôi
cũng nghĩ giống bác, về sau thấy không được. Thiếu chi kẻ đã chọn chốn giàu
sang gả con vào cho con được nhờ. Ngờ đâu, con lại khổ hơn ai hết, cứ như làm
đầy tớ nhà người chứ không phải con dâu. Ý tôi, giờ thì mặc thây chúng nó chọn
lựa, miễn sao đừng có lấy cái đứa Việt gian phản động, sau chúng nó khỏi phàn
nàn cha mẹ.
Thằng cu con trên
tay Thìn “ọ ọe”, đòi bò xuống sàn nhà. Thìn “đét” khẽ vào cái đùi tròn của hắn:
- Ngồi yên nào:
Ngoan lắm! Để cho cha nói chuyện! Ngoan lắm, chị thương - Thìn còn vật ngửa
thằng cu con ra, hôn vào giữa bụng, làm hắn nhột cười ré lên.
Thằng cu con và
Thìn đã phá ngang, làm cho câu chuyện giữa bà Nhương và ông Bảng chuyển sang
hướng khác. Bà Nhương hỏi ông Bảng, giọng đùa!
- Đã đặt tên “Út”
chưa đấy, bác Bảng?
Ông Bảng cười rung
rung hàm râu.
- Không chắc đã là
“Út” bác ạ.
Thìn có vẻ hiểu
đời, giọng chững chạc;
- Cha cháu, tuổi
chưa đầy năm mươi, ít nhất cháu còn vẹo xương sườn bế thêm hai em nữa.
Bà Nhương, ông Bảng cùng cười.
Khang lặng lẽ từ ngoài vào. Từ hôm xảy
ra chuyện Hoa từ chối lễ hỏi, thầy giáo cố giữ một vẻ ngoài bình thường, song
nét buồn vẫn để lộ. Trong nhà, Hoa đang ngồi kéo sợi, thấy Khang, cô vẫn chào
hỏi tử tế:
- Thầy hôm nay về sớm!
Khang vào nhà, vừa thu xếp bút giấy
sách vở ở bàn vừa lên tiếng:
- Hoa ơi! Em lấy mọi đồ đạc trong nhà
ra cho tôi tí!
Hoa cảm thấy có chuyện khang khác. Cô
bỏ xa quay đứng lên. Trông thấy Khang bước lại mở cái màn vốn mắc thường xuyên
chỗ phản nằm. Hoa ngạc nhiên:
- Thầy mở màn để giặt sao?
Khang lạnh lung:
- Tôi soạn để đi! Nhờ Hoa lấy giúp cái
hòm trong nhà ra cho luôn thể!
- Thầy đi đâu thế?
- Tôi chuyển sang ở bên làng Thượng.
Hoa liền đến giữu lấy tay Khang không
cho gập màn:
- Thầy đi thật ư?
Một nỗi buồn bỗng dâng lên trong lòng
Hoa. Dẫu sao thì ngày tháng qua, giữa cô và Khang cũng đã có sự gần gũi nhất
định, tình cảm chừng nào đã trở thành thân thuộc…Giờ đây, không chỉ mỗi việc
Khang ra đi đột ngột, rõ ràng trong lòng anh còn có nỗi thất vọng, đắng cay.
Nhìn Khang lúi húi thu dọn đồ đạc, Hoa thấy mủi lòng…
Bây giờ Khang mới nhìn thẳng vào mặt
Hoa, giọng nói đầy hờn giận:
- Tôi còn ở đây mà làm gì nữa!
Hoa chân thành:
- Thầy ạ, ở lại chờ mẹ em về đã. Thầy ở
trong nhà đã mấy tháng nay, các anh thì đi vắng. Khi mẹ em ốm yếu, một tay thầy
giúp đỡ, thuốc thang…Thầy dạy cho em học… Thầy như người con trai trong nhà.
Giờ thầy ra đi đột ngột thế này…! Chắc rằng thầy giận em, giận gia đình em lắm
phải không? – Nước mắt rơm rớm trong đôi mắt đen của Hoa.
Chừng như thầy Khang cũng đang bị xúc
động, đôi gò má cứ rung rung, giọng hết cả hờn giận:
- Tôi không giận gia đình, và có lẽ,
cũng không thể giận được Hoa. Tất nhiên, tôi có đau khổ. Nhưng, còn ở lại đây,
tôi e rằng sẽ không có lợi. Hoa đã có…người yêu…Miệng đời cũng phức tạp lắm…
- Dẫu sao thì thầy cũng nên chờ mẹ em
về. Nhưng theo em thì dần dà rồi thầy hẵng đi. Dẫu rằng, chuyện giữa thầy với
em như vậy, nhưng cũng là người thân thuộc. Thầy đi đột ngột thế này, em không
đành lòng chút nào. Lại còn mẹ, còn anh Nhương nữa…
Khang thả mình ngồi bịch xuống phản.
Hoa vừa cắm cúi mắc lại màn, vừa nói:
- Em mong rằng giữa thầy và gia đình em
cứ ăn ở với nhau cho phải chăng, không được như trước thì cũng êm thấm, đừng
rồi điều này tiếng nọ mà thiên hạ cười…
Lời ăn tiếng nói của Hoa vẫn hết sức
đáng yêu…Tình cảm lại trỗi dậy trong Khang. Anh bèn đứng lên, mặt nóng ran,đối
mặt với Hoa, hai mắt lóe lên ngững tia hy vọng.
- Hoa!
Hoa lùi hẳn lại, tựa lưng vào tấm liếp,
hai tay giữ chặt vai hai thanh nẹp liếp, mắt dương to nhìn thẳng mắt thầy Khang
vừa như sợ, vừa nghi ngại, đề phòng.
Khang lấy sức mạnh:
- Hoa! Em có thể thương anh được nữa
không?
Mặt Hoa đang tái dần và bắt đầu xuất
hiện những nét bối rối. Rõ ràng cô đã nghe thủng câu hỏi vừa rồi của Khang.
Song, không hiểu sao, cô phải hỏi lại.
- Thầy nói gì cơ ạ?
Những tia hy vọng lóe lên trong mắt
Khang vừa rồi đã lụi đi mau lẹ, ánh mắt anh giờ đâylà những tia nài nỉ, van
lơn:
- Em có thể rộng lòng mà nghĩ đến anh
được không? Hãy quên dần anh Liêu đi! Hoa… hãy thương lấy anh…!
Hoa vẫn nhìn thẳng vào Khang với cái
nhìn chân thực, khẽ lắc đầu:
- Em mong thầy quên
em đi! Em đã yêu anh Liêu. Em đợi anh ấy về!
Khang nói như chỉ
để mình nghe:
- Kháng chiến còn
trường kỳ.
Thoáng có nét đau
đớn trên mặt Hoa:
- Nhất định anh ấy
sẽ về. Em vẫn đợi_ dù lâu…
Thất vọng hoàn
toàn, vẻ mặt Khang trở nên khờ khạo. Anh lại ngồi xuống phản. Tâm trạng Khang
như đang rơi vào trạng thái bất định. Anh đưa mắt nhìn quanh căn nhà mình từng
ở, từng chăm chút, từ tấm ảnh cụ Hồ có cái khung gỗ treo ở gian nhà giữa, đến
các khẩu hiệu bằng giấy màu. Cái mắc áo, cái giá sách kia cũng tay anh đóng.
Khang muốn nói lời chia tay với các vật vô tri đó chăng? Hay lại cũng đang
trách tất cả đều quá vô tình…
Trong lúc Khang đang
gieo tâm trạng mình vào nỗi vô cực, ngược lại lòng Hoa thấy bồi hồi, thương
cảm.
Ngoài sân, những
chiếc lá mận vội lìa cành khi đông sang, để chờ đón mùa xuân, hoa trắng đua nở.
Lá rơi lả tả trên sân, trong gió heo may lành lạnh.
Nước mắt chảy trượt
trên má Hoa. Hoa sực tỉnh bối rối, lau khô nước mắt. Và, cô lên tiếng:
- Chết chửa! Em
chưa nấu cơm để thầy xơi. Mẹ em sắp về rồi đấy. Thầy nghỉ em vào thổi cơm.
Khang đưa mắt nhìn theo Hoa vào bếp,
một cái nhìn không có biểu hiện tâm trạng. Đầu óc anh hãy còn mông lung…
Đầu tháng chạp. Nắng cuối đông lóe lên
chói chang, cố xua đuổi cảnh mưa dầm gió bấc, để đón bầu trời ấm áp mùa xuân -
Xuân thứ bảy của cuộc kháng chiến trường kỳ. Nắng sấy khô những con đường lầy
đất đỏ cho từng cặp, từng cặp vợ chồng, thường là tay xách cái gói bằng khăn
trùm đầu, trong có trầu cau rượu và dăm quả cam chín vàng về lễ Tết bên quê
ngoại…
Có nắng lên, các cụ già đem phơi lại
tấm áo dài đen cái khăn xếp bằng the hoặc lượt. Các bà mẹ, các chị đứng tuổi
phong lên dây phơi những cặp áo cưới đủ màu sắc, nào màu hồng, màu lục mà bồi
hồi nhớ lại cái ngày người ta đốt pháo đưa đón mình về nhà chồng… Tuổi thơ lộng
lẫy trôi về với ký ức họ. Hẳn rằng mỗi người sẽ mỉm một nụ cười nhớ tới đêm tân
hôn “kỳ quặc”. Và dĩ nhiên, cũng có người, mắt ngấn lệ, nhìn vào vết ố trên áo
cưới mà lòng se se một nỗi mừng về hạnh phúc.
Làng Phước Sơn, còn tới vài mươi hôm
nữa mới đến Tết mà không khí đã có vẻ tưng bừng. Ngoài vườn, nhà nào nhà nấy,
cam chín vàng, quýt chín đỏ, quả sai cành trĩu nặng. Nắng sớm mai óng ánh chiếu
qua vòm lá vào từng vườn hàng ngàn tia ngang dọc như đan hoa. Một luống cải
xanh, một cành mai hoa vàng đều chờ Tết đến.
Nhà Thìn. Ngoài sân, bên một gốc mít,
Tân đang bổ củi để nấu bánh chưng. Mùa đông hanh lạnh mà Tân đã phải cởi hết
áo, phơi cái lưng trơn láng mồ hôi, vật lộn với đống củi. Trong nhà, Thìn ngồi
lau lá dong miệng đang khe khẽ hát: “Các anh đi…ngày ấy…đã lâu rồi…Xóm làng
tôi…còn nhớ mãi.” Không phải họ đã chuẩn bị nấu bánh chưng Tết sớm đến thế. Họ
nấu bánh chưng cho lễ thành hôn của họ.
Khi biết được chuyện Thìn đã yêu Tân,
hai bên cha mẹ liền nhất trí với nhau theo câu tục ngữ “hỏi vợ thì cưới liền
tay, chớ để lâu ngày lắm kẻ dèm pha!”. Thế là nhà Tân dẫn lễ hỏi, ngay sau khi
nhà ông Bảng trả lễ cho bà Thành và, họ đã chọn được ngày lành tháng tốt để
thành hôn cho Thìn và Tân.
Mẹ Thìn quảy gánh đi chợ mua sắm thức
nấu dọn cỗ. Mấy đứa em vừa khóc, vừa lẽo đẽo chạy theo mẹ ra chợ. Trên cái phản
gỗ gần chỗ Thìn ngồi lau lá dong, chỉ còn thằng cu út đang lấy mấy củ riềng đỏ
như sơn làm đồ chơi. Nhỡ cắn vào riềng cay, chú bé nhăn mặt lại.
Vườn bên kia, Hoa đang đánh luống đất
trồng rau. Mấy con chim xập xòe đuôi dài, sà cả vào luống đất Hoa đang làm để
nhặt giun nhặt dế, cứ như để nó đùa làm vui với Hoa.
Thấy Tân đang bổ củi bên sân nhà Thìn,
Hoa chống cuốc, cất tiếng lanh lảnh:
- Tân ơi, làm rể đắc lực thật. Bổ củi
khỏe vào. Thìn đâu rồi. Thìn ơi, không ra mà xem, lưng anh rể bổ củi mà thẳng
thế kia kìa! Cúi xuống tí nữa!
Tân chống búa, đứng thẳng lưng lên,
hướng sang bên vườn với Hoa vừa lên tiếng, những dòng mồ hôi chảy ngoằn nghèo
trên má, trên mình trần, Tân giơ nắm tay di Hoa qua bờ cây:
- Im ngay! Tớ làm thế nào mặc tớ! Muốn
ăn đấm sao?
Cảnh thanh bình của làng Phước Sơn bỗng
bị vỡ vụn ra theo tiếng kẻng sắt đường tàu đang rung lên từng hồi, từng hồi
rùng rợn - Kẻng báo động máy bay!
Trên chiến trường, quân đội xâm lược
pháp lâm vào thế bị động. Lực lượng kháng chiến Việt Nam đã lớn mạnh, đủ sức để
mở những chiến dịch lớn, tiêu diệt từng mảng sinh lực địch, giải phóng nhiều
vùng đất đai. Bởi vậy, muốn vươn lên phá thế bị động, thực dân Pháp đã đề ra
chiến dịch ném bom, đánh phá hậu phương của cuộc kháng chiến. Vùng Tuyên Hóa,
chiến khu, đất tự do Quảng Bình đang bị không quân Pháp oanh tạc đêm cũng như
ngày với đủ các loại máy bay: Hen-cát, Spit-phay, Kinh-cô-bra, B26… Chúng đánh
phá theo tuyến đường tỉnh lộ số 2 từ Quảng Trạch lên, dọc theo sông Gianh, một
hướng từ ngoài Hà Tĩnh vào, theo đường 12 và tuyến đường sắt…
Bom đạn, chiến tranh đã ập đến làng
Phước Sơn yên ả?
Máy bay địch như một đàn quái vật quần
đảo, gầm rú. Tiếng gầm rú của máy bay địch tưởng đen tỏa bầu trời.
Dân Phước Sơn nháo nhác!
Ba máy bay địch cắm đuôi nhau lao
xuống, mỗi chiếc thả hai quả bom na-pan. Sáu quả bom từ dưới cánh máy bay lắc
lư, lắc lư rơi xuống, là những chiếc gầu trút lửa đốt cháy làng Phước Sơn.
Trút xong đợt bom na-pan, máy bay địch
lại thay nhau ném bom nổ, bắn ca-nô bô-pho và quét đại liêu vô bồi xuống vùng
dân cư này. Lửa cháy rừng rực, tiếng bom nổ long tai nhức óc…Đứng ngoài xa nhìn
tới, người dân vùng lân cận xót đau, thương người Phước Sơn, thương cả làng
đang bị chà nát bằng bom đạn địch.
Còn dân Phước Sơn thì sao? Trẻ con như
chết khiếp không hé nổi một tiếng khóc! Tiếng khóc la thảm thiết sợ hãi giành
cho người lớn giữa lửa khói và tan tác, chết chóc.
Nhà Thìn, nhà Hoa cũng đang bốc cháy!
Ở trong hầm cạnh một góc vườn, Thìn
bỗng hét lớn:
- Anh Tân ơi! Còn
em Chung! Em Chung!
Thằng cu Út em Thìn
đang nằm trong nhà cháy, giãy dụa, khóc không ra tiếng trên phản. Khi máy bay
ập đến, Thìn hốt hoảng vùng chạy, đã quên bẵng mất đứa em đang chơi gần đấy.
Mặt Thìn chẳng còn
hột máu! Cô nhảy bật lên khỏi hầm để xông vào nhà cứu em.
Tân kéo giật Thìn
trở lại.
Lửa vẫn cháy rừng
rực, hung hãn. Tiếng tre nứa bị cháy, nổ lốp đốp như pháo chuyền. Tàn lửa vây
quanh đứa bé mỗi lúc một dày đặc.
Trên trời máy bay
địch vẫn quần đảo, uy hiếp, chừng như chúng muốn cả làng Phước Sơn bị cháy
trụi, không cho người ngóc đầu lên cứu chữa.
Sau khi kéo Thìn
ngả lại hầm, Tân xông thẳng vào cồn lửa đặc quánh để cứu em Thìn. Khi Thìn vùng
dậy kịp thì bóng Tân đã hút vào trong lửa. Thìn nhìn theo Tân hốt hoảng, như
thể cô sắp lao lên cùng với Tân.
- Tân! Tân! _ Thìn
thất thanh gọi theo.
Và, mỗi khoảnh khắc
lúc này đến với Thìn sao dài đằng đặc, cứ như lửa đã bén cháy vào gan ruột của
cô, Tân ra sao sau màn lửa kia?
Tân từ trong màn
lửa hung hãn chui ra. Anh đã ôm được đứa bé trên tay.
Thìn vội xông lên
đón ngay, đón lấy em từ đôi cánh tay nóng ran như hai thanh củi cháy của Tân.
Thì bỗng, Tân lảo đảo!
Đợt oanh tạc cuối
cùng của máy bay đã trút một tràng đạn trọng liên làm Tân bị thương vào cánh
tay. Vừa từ trong lửa khói thoát ra, lại bị thương vì máy bay bắn, Tân lảo đảo
rồi ngã vật trên mặt đất cạnh hầm, miệng lẩm bẩm những điều gì đó không thành
tiếng, hẳn là lời nguyền rủa quân giết người.
Thìn vô cùng lúng
túng, đứa em trên tay đã lả đi như ngọn rau héo. Cô gọi, cô gào:
- Hoa ơi! Hoa ơi!
Sang đây, Hoa ơi!
Biết là có chuyện
nguy hiểm khi nghe tiếng Thìn gọi, ở hầm vườn bên kia, Hoa đã băng sang với
Thìn.
Trao vội đứa em
trên tay cho Hoa, không còn kịp khóc nữa, Thìn cởi ngay áo quấn chặt lấy vết
thương trên tay Tân, mong cầm máu. Máu đỏ quạch cả một vùng trên mặt đất. Đôi
bàn tay Thìn đẫm máu lóng ngóng mãi với vết thương.
Tốp máy bay cút
thẳng sau khi bọn giết người nhìn thấy rất rõ làng Phước Sơn đã bị phủ kín bởi
ngọn lửa đỏ rực và bầu khói hung hung đen.
Làng Phước Sơn đang
được mọi lực lượng như thanh niên, du kích, ai còn sức, già, trẻ, gái, trai đều
xông vào cứu chữa, dập tắt lửa.
Ông Bảng từ đâu
cũng đã chạy ngay về. Ông cứ như một người mất hồn, ngồi cạnh Tân mà chẳng nghĩ
gì đến nhà mình đang cháy. Thìn đã băng tạm được vết thương cho Tân và cũng chỉ
còn biết ngồi lặng thinh bên cạnh Tân như cha. Hoa bế thằng cu Út, em trai Thìn
trên tay cũng cùng tâm trạng…
Lúc này mới kịp có
những giọt nước mắt đau đớn, thương xót từ trong mắt Thìn ứa ra…Mắt ông Bảng,
mắt Hoa cũng đều ngấn lệ.
Làng Phước Sơn vẫn đang cháy!
Bóng đêm mỗi lúc một nặng nề. Gió bắc
từng trận từng trận đuổi mưa bay. Mưa rơi dày như dệt màn.
Nhà ga Lộc Yên lạnh lẽo nằm bên đường
sắt. Ga dựng lên bằng những thân ray, những đoạn luồng cây nứa, khúc tre, mái
lợp lá cọ. Mỗi khi một trận gió hút qua, mái cọ muốn chồm lên, run lật bật, lật
bật. Trông trước, ngó sau, nhà ga chỉ vẻn vẹn bằng cái điếm gác. Nhưng chính
nơi nhà ga nhỏ bé ấy đã ủ ấp một sức sống mãnh liệt của những người thợ từng
quyết rời bỏ quê hương êm ấm để ra đi kháng chiến lâu dài. Nhà ga ấy cũng từng
chứng kiến hàng nghìn, hàng nghìn cuộc chia tay của các chiến sĩ, giã biệt đồng
bào, giã biệt hậu phương ra tiền tuyến.
Chắc hẳn, hình thù của nhà ga nhỏ bé ấy
cũng đã làm in sâu vào ký ức của mỗi người đã hơn một lần đặt chân tới đây. Có
thể họ còn có cả những kỷ niệm đối với một o Oanh, o Phước nào đó, nhà ở gần
ga…
Liêu khoác vải dầu, đội mũ lá, đứng
cạnh bức tường đồ của nhà ga cũ. Mưa phùn như đánh như quất vào mặt, vào hai
bàn tay. Trước mặt Liêu là đám hành khách, cũng lắm hạng người, nằm ngổn ngang
trên bao gạo, trên cũ nâu, trên phốt-phát, bên gạch vụn và các đống tre nứa…
Đêm chờ goòng vẫn yên ắng. Đây là nhà
xe lửa, sau toàn quốc kháng chiến, đường sắt bị phá hoại triệt để, nay cần cho
vận chuyển, con đường goòng đã được thành lập. Hành khách, hàng hóa, trên đường
từ Thanh Luyện ở Hà Tỉnh, đến Đò Vàng của Quảng Bình đều được vận chuyển bằng
các toa goòng chạy theo tuyến đường sắt cũ đã được ghép lại. Trong nhà ga,
thỉnh thoảng có tiếng chuôn điện thoại leng keng và sau đó là giọng nói khàn
khàn ngái ngủ của cán bộ nhà ga.
Trong không gian âm u, vời vợi của đêm
mùa đông, bỗng nhiên một giọng hát nữ trong trẻo thoáng rót vào tai Liêu:
“Người chiến sĩ dầm gió rét mưa bay
Đắm mình trong khói
súng
Chiến trường áo
mong manh
Căm thù nuôi ấm
thân
Quyết lấy máu pha
tô sắc cờ… ”
Không phải từ đâu
xa vẳng tới, đó là tiếng hát của cô gái đang ngồi cạnh Liêu. Giọng cô gái trầm
bỗng thánh thót:
“Em về xa vắng,
thầm lo cho cánh chim bay…
Chiều nghe vầng lá
xiết, em run ngỡ tiếng
Ngỡ tiếng bước chân
anh về… “ (1)
Một hơi thở mạnh
hắt ra từ lồng ngực rộn ràng của Liêu. Tiếng hát bỗng im bặt. Hai người đưa mắt
nhìn qua đêm tối, không một tiếng nói. Kỳ thực hai người dường như đã nhận ra
nhau. Họ đã gặp nhau đâu đã một lần rồi, chưa lấy gì làm lâu, trong chuyến đò
dọc từ Đức Thọ lên đây.
Trong đò, ngẫu
nhiên Liêu gặp lại một người bạn cũ từ hồi hai đứa còn là những chú bé liên lạc
của Vệ quốc đoàn. Câu chuyện gặp gỡ của hai người đã làm xúc động cô gái nhỏ
ngồi cùng khoang đò. Cô gái buộc phải thốt lên: “Thì ra các anh là bạn cũ của
nhau?”
Liêu tươi cười,
quay sang cô gái, san sẻ niềm vui bằng một câu thơ mà anh rất thích “Lũ chúng
tôi, bọn người tứ xứ. Gặp nhau từ hồi chưa biết chữ, quen nhau từ thuở “một
hai”… (2) cũng từ đó, cô gái đã có sự chú ý đặc biệt tới Liêu, “người con trai
chiến sĩ”.
_________________________________
(1) bài hát “Quay
tơ” của Tử Phác.
(2) Bài “Nhớ” thơ –
Hồng Nguyên.
Trong nhà ga lại
vang lên tiếng chuông điện thoại và một giọng nói khàn khàn ngái ngủ:
- A-lô! Lộc Yên
đây!
- Đầu dây số bốn
sắp vào.
- A-lô! Được bao nhiêu
người? Vâng… vâng, Lộc Yên sẽ cho lên bốn mươi người…
Cô gái đã vương
mình đứng lên và bắt đầu trò truyện với Liêu:
- Chờ lâu quá anh
nhỉ! Goòng chậm thật!
- Vâng, không gì
sốt ruột bằng chờ tàu chờ xe.
- Anh vào ga nào?
- Đỏ vàng
- Tôi cũng vậy
Liêu như cố nhìn
thật kỹ cô gái trong đêm và hỏi:
- Cô đi buôn hở?
- Không. Em đi học
về.
- Cô học trường
nào?
- Phan Đình Phùng,
ở Đức Thọ. Em cũng có người anh đi bộ đội như anh. Đã lâu lắm rồi không có tin
tức – Cô gái bỗng chẹp miệng, nói một mình “tội nghiệp”.
Từ đấy, hai người
lại đứng lặng bên nhau, mỗi người nghĩ những gì cũng chẳng hay, cho đến khi ông
trưởng ga cầm loa gọi hành khách chuẩn bị lên goòng.
Nhà ga bỗng bật lên
ồn ào như vỡ chợ.
Chiếc đèn gương màu
đỏ dược lắc qua lắc lại trên đường tàu, lệnh cho đoàn goòng dừng bánh. Đoàn
goòng đỗ trên sân ga ngắn ngủi, chỉ bốn toa. Hành khách đang tíu tít lên xuống,
lời chào hỏi chen lẫn lời tiễn biệt, cùng với các thứ tiếng ồn ào í ới khác…
Đêm sân ga vui trong khoảnh khắc, tấp nập, rộn rịp.
Đang là mùa chiến
dịch, đường goòng đã trở thành một trong những tuyến giao thông quan trọng từ
hậu phương Nghệ Tĩnh vào tiền tuyến Bình Trị Thiên và Trung Lào, do đó mỗi đoàn
goòng đều đầy ắp những lương thực, thực phẩm tiếp vận cho Mặt trận. Liêu chọn toa
goòng cuối cùng leo lên, đặt mình trên những bao gạo đầu óc mải suy tính chuyện
ngày mai. Liêu cũng đang trên đường đi chiến dịch. Vì có việc cần ở trung đoàn,
anh đi sau đơn vị một ngày. Và, đêm đã quá khuya, nhịp goòng lắc la, lắc lư đã
ru Liêu ngủ lúc nào không hay.
Bên trái, chạy song
song với đường sắt là con đường 12, đường chiến lược. Ánh đèn xe đạp thồ nối
nhau kéo thành một vệt dài, cũng có đoạn ngoằn nghèo tựa con rắn. Đứng xa nhìn
vào quang cảnh đó dễ có cảm giác ta sắp đến với một thị trấn nào đó. Đám dân
công bộ thì vừa gánh nặng vừa hét hò nghe thật vui. Các đơn vị bộ đội cũng đang
hành quân trên đường, tạo nên một khí thế sôi động trong lòng đêm.
Liêu chợt tỉnh giấc
giữa đêm khuya trong toa goòng tối om. Mãi một lúc anh mới nhận ra có cái gì
nằng nặng trên ngực, âm ấm bên má mình. Lại còn có mùi hương rất lạ, chừng như
Liêu chưa bao giờ được gần: mát mát, nồng nồng, say say…
Và, không lâu, Liêu
đã hiểu ra: Hương tóc và hơi thở của người con gái, cô nữ sinh từng gặp anh
trong chuyến đò dọc và đã trò chuyện với anh chốc lát ở sân ga Lộc Yên. Chẳng
hiểu cô gái lên goòng và ở sát bên Liêu tự lúc nào? Cảnh lên xuống tàu trong
đêm đen như mực nên khó nhận ra được nhau. Rõ ràng giờ đây cô gái đang trong
giấc nòng, cánh tay mềm đang choàng qua ngực Liêu. Và cứ thế, theo nhịp goòng
lắc la lắc lư cuốn trên đường sắt, đôi môi ấm của cô gái đang như áp vào má
Liêu những chiếc hôn nồng cháy.
Người Liêu bỗng
nóng ran. Rồi chẳng hiểu Liêu nghĩ gì, anh nhẹ nâng cánh tay cô gái ra khỏi
ngực mình, rồi ngồi dậy, lấy thuốc, đánh diêm, châm lửa hút. Qua ánh lửa diêm,
Liêu liếc nhìn gương mặt xinh xắn của cô nữ sinh trong giấc nồng. Anh bỗng liên
tưởng đến Hoa, đôi mắt to và đen… Đôi mắt ấy như đang sáng lên trong đêm, thăm
thẳm mong nhớ, chờ ngày Liêu trở lại.
Đoàn goòng vẫn
giương đôi mắt sáng quắc, chạy vun vút trong đêm, như một con thú rừng ngang
tàng chốn sơn lâm không hề biết sợ hãi. Làng mạc, núi đồi hai bên như cuống
quít kéo nhau chạy giật lùi, muốn tránh xa đoàn goòng. Đường sắt bị bánh goòng
nuốt dần, nuốt dần như đồi trục xa cán nuốt bông.
Mưa gió và cành cây quét ràn rạt vào
hai bên thành goòng.
Đường đi ngập bùn thấu đầu gối, đặc
sệt, quyện lấy chân hơn cả bột hồ, Liêu cố sức, vội vã như một người đi xa lâu
ngày nay trở lại thăm quê. Mùa đông kéo dài lê thê. Hai bên đường, số lớn cây
trút hết lá, giơ những cành nhánh khẳng khiu, mấy gốc xoan, gốc bàng, chẳng
khác chi những bộ xương người đói. Mấy con trâu rét gió, náu mình dưới gốc cây,
ngửng đầu, đưa mắt đờ đẫn nhìn theo khách lạ.
Đã một năm rưỡi trôi qua, từ ngày Liêu
gặp Hoa và ngỏ lời yêu đương, hò hẹn. Mặt trời lên rồi lặn, trăng hết khuyết
lại đến tròn, thời gian trôi đi hết sức vô tư. Cho tới chiều nay, dòng sông
Gianh quen thuộc và thơ mộng đã hiện lên trước mắt Liêu, sóng nước bao xao xuyến.
Bên bến, con đò ngang đang cắm sào đợi khách trong mưa bay. Vẫn là cô lái đò
năm ngoái năm xưa. Trông cô đã có phần chững chạc, có lẽ đã có chồng con rồi.
Liêu bước lên đò. Mái chèo khuấy nước,
con đò nhẹ nhàng lướt sang ngang. Mưa giòng giòng như rây bột trên mặt sông.
Dòng sông trong mưa càng rộng ra, bóng con đò càng trở nên cô đơn. Bến đò này
năm trước từng chứng kiến cuộc đưa tiễn kín đáo giữa Hoa và Liêu và cùng ngày
ấy lòng hai người thầm giữ một lời hẹn ước.
Mũi đò vừa chồm lên bãi cát. Liêu quên
cả gửi lời chào cô lái đò, biến vội vào ngàn dâu, dâu màu đông cũng xơ xác. Cô
lái đò đứng nhìn theo anh bộ đội vừa lạ lạ vừa quen quen, “không biết anh ấy về
nhà ai?”
Làng Phước Sơn chẳng còn nguyên vẹn
nữa! Trước mắt Liêu là một bãi hoang, không, một bãi chiến trường thì đúng hơn.
Rặng cọ xanh tốt xưa kia giờ chỉ còn trơ lại những thân cây nghiêng ngửa, xạm
đen, lá khô giơ ra như hàng loạt bàn tay xương xẩu kêu trời. Nhà cửa đổ nát,
chỉ còn là những túp lều che tạm nắng mưa. Vườn tược, mặt đất, nham nhở toàn hố
bom đầy ứ nước đọng. Liêu cứ ngỡ ngàng như người mới tới đây lần đầu, cố quan
sát, tìm dấu vết, phương hướng để xác định đâu là nhà của Hoa. Mãi lâu sau, cố
nhớ lại từng cảnh từng vật. Liêu mới tìm được hai bờ chè mạn hảo, giờ đã lộn
góc lên trên, chết khô cùng với cây cối khác. Nếp nhà xinh xắn nay chỉ còn lại
cái nền, cỏ dại mọc um tùm. Một chiếc chum vỡ nằm bên gốc cây cụt ngang thân.
Giữa sân là một hố bom như cái vựa, nước đọng xanh len lét.
Liêu cắn răng, chực trào nước mắt, như
người bị chết đứng trong cảnh hoàng hôn. Liêu có có cảm giác như những trái bom
địch đã ném vào làng mạc quê hương mình, bom rơi chính vào nhà mình. “Mẹ già và
người yêu mình hiện ở đâu?” Đứng đã lâu, đi suốt ngày, nước mưa đang thấm lạnh
vào người. Bất giác Liêu rùng mình.
Anh lẩn thẩn đi quanh khu vườn hoang
nhà Hoa. Anh gặp một thanh niên trong làng, chào hỏi, bắt tay thân mật.
- Gia đình bà Nhương còn ở lại làng
không anh?
- Nhà bà ấy tản cư sang bên Thượng rồi.
- Ở với ai bên đó?
- Người con rể.
Cậu thanh niên ấy chính là Luyến, con
trai bà Thành.
Luyến nhìn Liêu kỹ hơn:
- Anh… là anh Liêu?
- Anh biết tôi?
- Hồi năm ngoái, anh cứu cô Hoa chết
đuối chứ gì?
Nhắc tới Hoa, Liêu những muốn hỏi dồn
dập, song sợ ngượng, sợ xấu hổ, đành mong anh thanh niên nọ tự kể chuyện về Hoa
cho mình hay. Liêu đứng im, chỉ “vâng” khẽ một tiếng.
Luyến nói tiếp:
- Chóng thật, mới đấy mà đã gần có con
rồi.
Đến nước này thì Liêu không nén nỗi
lòng nữa:
- Ai gần có con? – Liên cau mày.
Luyến giọng bình thản:
- Cô Hoa chứ ai!
- Hoa đã lấy ai?
- Cô ấy lấy ông giáo cấp hai, hồi trước
dạy học ở trong nhà
Liêu không còn giữ được bình tĩnh nữa.
Mặt anh như dại hẳn, khờ khạo, thậm chí anh còn không cần biết mình đang đứng
trước mặt một người trong làng. Ruột gan như uống phải thuốc độc, cay đắng và
xốn xang khó tả. Anh cắn chặt vành môi, đứng lặng như vậy một lúc lâu. Hoàng
hôn trút xuống quanh Liêu lúc một dày.
Liêu thở dài rõ mạnh, đưa mắt nhìn tại
mảnh vườn hoang nhà Hoa lần cuối rồi đau đớn ra đi, ra đi đầu không ngoảnh lại.
Luyến mỉm cười, nhìn theo bóng Liêu
nhòa vào hoàng hôn.
Liêu trở lại bến đò. Đò đã về bên kia
sông, anh phải cất tiếng gọi. Tiếng gọi đò lạnh lẽo vọng sang sông, buồn bã dội
vào vách núi đá.
Đêm hôm ấy. Liêu ngủ lại ở nhà một bà
cụ thuộc làng khác. Gọi là nhà, đó cũng chỉ là một túp lều lá nhỏ.
Bà chủ nhà sống một mình. Vóc người bà
gầy nhỏ, hơi hơi giống bà Nhương, mẹ của Hoa, càng làm cho buồn thương trong
lòng Liêu khó khuây…
Trời đã khuya, Liêu vẫn còn thức, ngồi
bên bếp lửa với bà cụ, nghe rủ rỉ kể chuyện suốt một đời người nghèo khổ, cơ
cực…
Ngọn lửa cháy leo heo, ánh lửa chập
chờn lay, làm cho cái bóng cũng như thân hình gầy yếu của bà cụ chao đảo trước
vách liếp. Liêu lắng nghe chuyện, thỉnh thoảng hắt ra một hơi thở dài đồng cảm.
Cũng có một phút, tâm tư tình cảm của Liêu phân tán ra khỏi câu chuyện cuộc đời
bà cụ. Như thể đang khơi lại một quãng đời nào đó của mình, hình ảnh dòng sông
Bồ ngập lụt, con trâu nhà chủ sẩy chân bị nước cuốn đi, một mình Liêu vật lộn
với sông nước để dắt trâu, lái trâu ghé vào được một bờ tre đầy rắn rết…
Cuối cùng, bà cụ muốn gửi lời nhờ Liêu:
- Mẹ có một đứa con gái, năm đói bốn
lăm, theo cha ngược lên Lào, đến nay biệt tích. Bao giờ, con đánh lèn mạn
ngược, nhớ đến mẹ thi gắng giành thời giờ hỏi thăm, kiếm tìm giúp mẹ, đem nó về
được thì không gì bằng…
Bà mẹ sụt sùi:
- Tội nghiệp! Bây giờ chắc nó đang sống
cô đơn trên đất khách quê người… - Bà cụ nâng vạt áo lên lau nước mắt – Tên nó
là Gái.
- Liêu ngồi lặng, thầm nghĩ: “Giá như
không phải đời lính nay đây mai đó, đi mãi, đi mãi, không biết bao giờ thì mình
có thể ở lại đây, nhận bà cụ làm mẹ, hôm sớm có chút tổ ấm, có tình nghĩa mẹ
con…”.
Đồng hồ trên tay Liêu chỉ một giờ.
Tiếng gà trong xóm
gáy canh. Bà cụ bảo Liêu đi ngủ để lấy sức ngày mai lên đường. Bà dặn lại Liêu:
- Tên mẹ là Cư, con
nhớ đừng quên. Bao giờ độc lập, con cứ về đây với mẹ, miễn là không khinh mẹ
nghèo.
Liêu vâng lời bà
cụ, lên giường đi nằm.
Bà cụ còn lom khom
gạt một mồi than hồng đầy xuống dưới gầm giường cho Liêu, đoạn đi lấy cái nong
che vào cửa phên rách nát, chắn sương gió bên ngoài ùa vào.
Liêu đã ngủ ngon trong khi bà cụ vẫn
trầm ngâm ngồi bên bếp. Tuổi già thường mất ngủ. Bếp lửa vẫn bắt cháy, khó bùng
to lên, song cũng không lụi tàn vì bà cụ còn ngồi cạnh bếp. Bóng đôi bàn tay
già khẳng khiu hơ bên lửa bếp in lên làm gương mặt bà thêm tối tăm, đôi mắt sâu
như hai lỗ giếng chứa đầy khổ đau của một kiếp người chưa có một ngày mát mặt.
Bà ngước lên nhìn về phía giường Liêu ngủ, thấy chưa đành tâm một điều gì đó,
lại cời thêm than hồng ở bếp cho vào nồi sưởi cho Liêu, rồi đi che lại cửa cho
thêm kín gió…
Ngày hôm sau, Liêu cắm đầu đi miết chỉ
nghỉ trưa lại bên một gốc cây ven đường, mở nắm cơm bà cụ gói cho, có ít dưa
chua, ăn xong lại lên đường, đến chiều thì tới Phong Nha, một làng ven chân núi
Trường Sơn và gặp đơn vị tại đó. Theo kế hoạch tiến quân vào Đông - Xuân của
trên, đơn vị của Liêu đã băng Trường Sơn được một ngày, đêm nay đang trú quân
bên một con khe giữa rừng. Chiến sĩ ngủ ngon dưới mái lán lợp vải bạt, vải
nhựa, hoặc lá chuối rừng sau một ngày hành quân đường rừng, trèo đèo, lội suối
mệt nhọc, vất vả.
Đêm nặng nề đè xuống khe rừng, lũng
núi. Đó đây mỗi lần đều được đốt một đống lửa to ở ngoài cửa vừa chống thú rừng
vừa xua tan khí lạnh. Xa xa vọng đến tiếng mang lác, báo gầm, muốn nói cho con
người hay rằng. Đêm ở rừng còn nhiều bí hiểm.
Ngoài hai người trực gác đầu và cuối
địa điểm đóng quân, đêm nay chỉ có một mình Liêu trằn trọc không sao nhắm mắt
ngủ được, tình cảm đang bị dày vò. Đã mấy lần anh nằm, lẩm nhẩm đếm từ một trở
đi, ước đến con số hàng vạn hàng vạn mà vẫn không chợp mắt được một lúc. Liêu
cũng cần ngủ để lấy sức cho chặng đường dài theo chiến dịch. Song, óc nghĩ như
vậy mà lòng lại dằn vặt hướng khác. Anh bèn rơi khỏi trấn thủ tới ngồi bên bếp
lửa. Chỉ còn có ngọn lửa leo heo cháy bò ra quanh mấy gốc củi, đủ rọi một làn
ánh sáng mỏng vào khuôn mặt phờ phạc, trầm ngâm của Liêu. Một làn gió hút theo
khe núi làm ngọn lửa lay động rung cái bóng của Liêu in lên mấy bức màn màu cỏ
úa phía sau, màn cũng đang gieo gió phập phồng trông chẳng khác gì những tấm
mạng nhện khổng lồ.
Bất giác Liêu thở dài… Anh vẫn đang
nghĩ tới Hoa. “Vô lẽ một người con gái nết na, dễ thương như vậy lại là kẻ bạc
tình” Liêu nhìn vào những vò củi nổ lách tách, ngỡ bàn tay ai đang búng cho tàn
lửa bay lên đẹp tựa bụi vàng. Phải chăng lúc này Liêu đang yêu, càng da diết
với “kẻ bạc tình” ấy hơn bao giờ hết. Tối hôm kia, khi Liêu vừa theo kịp đơn vị
ở Phong Nha, chừng như thấy anh có vẻ buồn, chính trị viên Xuân có hỏi chuyện.
Liêu cũng đã tâm sự sơ sơ với Xuân về mảnh tình riêng của mình. Chính trị viên
chẳng những không thông cảm mà còn ném ra một câu: “Ôi dào…con gái ngày nay,
thay tình yêu như thay áo lót đừng dại mà thủy chung với nó, ông ạ… “Liêu đã
buồn lại thêm bực “đúng là một gã thối mồm”. Dẫu sao Liêu cũng không thể nghĩ
xấu về Hoa được”. Hẳn rằng cô ta đã lấy chồng bởi vậy mới không hề thư từ gì
cho mình từ đấy. Song… có thể do thế này, bởi thế nọ, cảnh đời thiếu gì cảnh éo
le…”
Liêu đưa mắt nhìn lên những ngọn núi
thuộc đỉnh Trường Sơn đen ngòm, cao ngất, từ bi, đứng trong đêm dài thăm thẳm.
Thỉnh thoảng, tiếng một con chim từ quy vọng lại, buồn đến xé ruột! Con suối
lây buồn cũng đang năng nỉ, tỉ tê. Chỉ có mấy con rái cá là không biết buồn,
cũng không ngủ, bơi lội bì bà bì bõm suốt đêm. “Tình yêu, mình vội dính vào làm
gì để cho con người ta phải điên đảo thế này!”
Liêu ném cả điếu thuốc chưa cháy hết
nửa trên tay vào bếp, tự trách mình: “Người đã lấy chồng rồi mình còn ngồi mà
nghĩ ngợi vớ vẩn!” Liêu đưa tay cởi than, nhóm lại củi cho bếp lửa cháy bùng
lên.
Một trận gió lùa từ đâu tới, khí núi
cũng lùa theo lạnh buốt người. Lá rừng trút theo gió ào ào. Mưa ngàn ập đổ đến.
Mưa như bưng nước mà trút. Giấc ngủ của các chiến sĩ đành phải bỏ dở. Họ vùng
cả dậy, xếp vội chăn màn, ngồi ôm súng, tựa lưng vào nhau, lắng theo những giọt
nước dột từ mái lán, chảy róc rách vào cổ áo. Giữa lúc này, các chiến sĩ lại
thấy rất cần đến tiếng cười reo, hò hát để chống đỡ, trấn áp cảnh gian khổ đang
đến. Còn Liêu, anh đã dẹp ngay được mọi suy nghĩ tản mạn, vội khoác áo vải bạt,
tay cầm đèn bin đi qua từng chiến sĩ, xem xét tình hình bảo quản vũ khí và cơm
gạo của đơn vị.
Mưa vẫn trút nước. Những thân cây già
cỗi đổ ầm ầm. Đá vỡ tứ tung trên đỉnh núi. Nếu ai chưa sống quen với núi rừng
gặp cảnh này hẳn sẽ cảm thấy con người chỉ bé nhỏ mong manh như bọt nước trước
thiên nhiên. Chỉ cần một cành cây khô rơi xuống cũng đủ đập nát, giết chết con
người. Mưa càng lâu càng lo nước suối đã nhanh chóng dềnh lên ngập mấy cấp đá.
Liêu có hay được rằng cũng trong lúc
mưa bão này bên kia núi, Hoa đang sống như anh giữa các đoàn dân công, dễ
thường còn thiếu thốn nhiều lần hơn so với bộ đội, chỉ có áo tơi, nón lá thi
gan với trời đất, đâu có quần áo, chiếu chăn đủ ấm.
Hoa và Thìn, hai cô gái trong đoàn dân
công Tuyên Hóa đang xung phong đứng giữa mưa, lấy tơi của mình căng ra che chở,
bảo vệ bếp lửa, chờ hết mưa là anh chị em có lửa vào sưởi ngay, sáng ngày mai
khỏi vất vả nhóm bếp. Mưa ào ào gội lên đầu hai cô gái, nước theo tóc chảy
thành dòng xuống lưng như suối. Thế mà, qua mưa gió, họ vẫn trò chuyện được với
nhau.
Hoa ghé sát tai Thìn nói rõ to:
- Giá mà, Tân không bị thương ở tay thì
cũng đi phục vụ chuyến này với bọn mình, Thìn nhỉ!
Thìn cũng hỏi thật
to vào tai Hoa:
- Cả hai vợ chồng
cùng một khóa dân công?
- Ừ nhỉ.
Họ cười với nhau
giữa mưa đêm.
Sau đó, chừng cảm
thông được với tâm tư bạn, Thìn kiếm lời động viên Hoa:
- Chúng tôi đành
chịu vậy. Còn chị - Thìn đổi giọng – chuyến này thế nào cũng gặp được anh Liêu.
Chà, anh chị cùng gặp nhau tại mặt trận mới đẹp, làm sao! Tha hồ mà tâm sự nhé.
Giá được “tuyên bố lý do” tại mặt trận mới thích, chẳng ai bằng.
Hoa sung sướng:
- Biết đâu đấy…
Các đơn vị trong
tiểu đoàn đã được nghiên cứu kế hoạch tác chiến trên sa bàn, sau khi đoàn cán
bộ đi điều tra thực địa lần cuối cùng trở về. Không khí trận chiến đấu mở màn
thật tưng bừng, háo hức. Đơn vị nào cũng mong lập công đầu trong trận đầu. Từ
cán bộ đến chiến sĩ đều hạ quyết tâm riêng, đạt được thành tích chiến đấu cao
nhất trong chiến dịch Đông – Xuân này.
Trong cuộc họp cán
bộ toàn tiểu đoàn từ trung đội trưởng trở lên, sau khi trực tiếp giao nhiệm vụ
tác chiến cụ thể cho từng đơn vị một, tiểu đoàn trưởng đã thông báo một quyết
định của ban chỉ huy trung đoàn, làm mọi người sửng sốt:
“Vì trận chiến đấu
mở màn chiến dịch là quan trọng, để đảm bào thắng lợi đầu tiên, xét tư tưởng
hiện thời của cán bộ các đơn vị, ban chỉ huy đoàn quyết định:
- Đại đổi trưởng
đại đội 3, tiểu đoàn I, Trần Chí Liêu, tạm thời nghỉ công tác, ổn định tư
tưởng.
- Đồng chí Nguyễn
Mẹo, đại đội phó đại đội 3, thay quyền đại đội trưởng, chỉ huy đơn vị trong
trận chiến đấu này.
- Tiểu đoàn I, đại
đội 3, các đổng chí trên, chiếu quyết định thi hành, kể từ khi nhận được lệnh.
Mặt trận ngày…
Thay mặt ban chỉ
huy trung đoàn
Trung đoàn trưởng
ký.
…………………………………………. ”
Cuộc họp cán bộ
giải tán trong không khí khẩn trương để chuẩn bị cho giờ nổ súng. Mọi người ra
về lòng rộn ràng. Chỉ riêng Liêu, thả từng bước nặng nề lững thững về đơn vị.
Tư tưởng tình cảm của anh đang đứng trước một sụp đổ ghê gớm. Lý do cấp trên
đình chỉ công tác của anh trong trận chiến đấu đã rõ. Nhưng cái điều chưa rõ
thì cũng khó ai giải đáp được. Liêu vẫn chỉ huy đơn vị chiến đấu? Về tới lán,
Liêu xót xa nằm vật xuống sạp. Chính trị viên Xuân, cùng một số cán bộ trung
đội đã đến với Liêu, động viên an ủi anh vài ba câu, có lẽ để lấy lệ, vì họ
thừa biết, nỗi buồn đau đó đối với Liêu quả thật là lớn.
Khoảng mười giờ
đêm.
Hầu hết các chiến
sĩ đã ngủ ngon sau khi chuẩn bị chu đáo cho bản thân cũng như đơn vị. Còn lại
mấy anh đang loay hoay gói buộc bộc phá. Họ vừa làm, vừa rì rầm trò chuyện:
- Vui như tết các
cậu nhỉ!
- Phải rồi, chúng
mình đang gói bánh chưng đây
- Gói bánh chưng để
“mừng tuổi” quan Tây.
Ngọn nến cà-boong
thắp sáng, rọi thẳng vào những gương mặt đẫm mồ hôi của các chiến sĩ, nước da
vàng ệu vì thuốc pháo.
Một cậu trương mắt
tò mò:
- Đố chúng mày
biết, tại sao ngày mai đại đội trưởng không đi chiến đấu?
- Nghe nói anh Liêu
ốm.
Một cậu nhọn mồm
nói nhỏ, giọng tham mưu con:
- Đại đội trưởng
đang buồn vì thất tình, tin mật đấy, do đó mà không được chỉ huy đơn vị chiến
đấu!
Anh chiến sĩ có đôi
mắt thu, từ nãy đến giờ lúi húi gói bộc phá, giờ chắc ngứa tai, “xì” một tiếng
rồi nói to lên:
- Thất tình thì đã
sao? Chính tớ còn nhớ người yêu đây này! Chiến đấu là một lẽ khác. Ngày mai tớ
đánh bộc phá cho các cậu xem!
- Tội nghiệp cho
anh Liêu! Anh ấy đánh giặc giỏi đáo để.
Liêu đang ngồi
trong lán nhìn ra. Hẳn rằng anh không nghe lọt những lời bàn tán to nhỏ của các
chiến sĩ. Nhưng trong lòng anh đang rung lên vì xúc động, tình cảm và trách
nhiệm có gì lẫn lộn: “Biết đâu rồi ngày mai, trong sớ những chiến sĩ đánh bộc
phá ấy lại chẳng có người thôi nhìn thấy anh mãi mãi…!”. Liêu đứng lên, bước
đến bên họ xem xét, trao dổi với họ về cách thức gói bộc phá, sao cho tốt hơn,
sử dụng trong chiến đấu thuận tiện hơn.
Cùng lúc này, ở một
góc lán, bên ngọn đèn làm bằng lọ pê-ni-xi-lin, đại đội phó Mẹo đang miệt mài
đọc tài liệu “Chiến đấu ban đêm”. Mẹo là một trung đội trưởng chiến đấu rất can
đảm, lúc nào cũng thích mở đợt phá khẩu, đánh ở mũi chủ công. Sau chỉnh quân
chính trị, anh được đề bạt lên đại đội phó. Tuy thế, Mẹo còn có những nhược
điểm như xử lý tình huống đôi khi còn chậm và hay liều.
Liêu đã lại lần đến
với Mẹo. Anh trao đổi thêm với Mẹo một số kinh nghiệm chiến đấu, nhất là kinh
nghiệm đánh địch ở trận địa có công sự dã chiến vốn là sở trường tác chiến của
Liêu.
Tên tướng Na-va,
tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp toàn Đông Dương, đang thiết kế trên chiến
trường Trung Lào này một hành lang phòng thủ Trung Đông Dương, lấy con đường 12
làm trục. Mục tiêu đợt đầu của chiến dịch là đánh gãy nát hành lang phòng thủ
của địch. Đại đội của Liêu có nhiệm vụ tấn công tiêu diệt một căn cứ ngoại vi
của tập đoàn cứ điểm này.
Thời tiết Trung Lào
đi vào mùa khô, ban ngày nắng chang chang, như đổ lửa kéo dài hàng mấy tháng
liền không một giọt mưa. Lá rừng trút xuống mặt đất một lớp dày, khô như rang,
chỉ cần một tàn lửa cũng đủ gây cháy hàng chục cây số rừng. Đêm đến thì lại
hoàn toàn mát, nằm ngủ hơi lạnh đủ đắp một tấm chăn mỏng… Liêu đã quá quen với
thời tiết ở đây, còn rất thích nữa là đằng khác. Đêm nay, dẫu rằng trời cũng
rất mát, song Liêu vẫn không sao ngủ được.
Ngoài rừng những
con chồn, con cáo đi ăn nửa đêm đuổi nhau chạy lạc xạc trên lá khô. Đêm về
khuya.
Ba giờ sáng, một
trời đầy sao. Những ngôi sao băng như thể đua nhau rụng, vạch lên nền trời
những đường sáng cong cong cần câu. Sao rơi vào cõi vô tận.
Đơn vị bắt đầu xuất
kích.
Tiếng súng đạn lách
cách. Lời dặn dò, nhắc nhở thì thào.
Liêu đi theo đơn vị
ra khỏi một bìa rừng thì dừng bước. Chẳng mấy chốc mà đoàn quân đã mất hút trên
cánh đồng cỏ ngập sương. Liêu vẫn đứng tại chỗ, mặc cho sương thấm áo, lạnh vào
tận ngực.
Bốn giờ rưỡi sáng.
Gà rừng gáy le le đó đây. Chim cun cút rúc từng hồi ngoài bìa rừng trên nội cỏ.
Tiếng súng chiến
dịch đã nổ!
Góc trời phía Tây
trước mặt Liêu bỗng dậy lên giông bão sấm chớp! Cuộc chiến đấu sẽ rất ác liệt
mở màn từ đấy.
Liêu cứ một mình
đứng ở bìa rừng từ lúc đơn vị xuất kích tới giờ, nhìn về hướng trận đánh, chớp
lửa rực sáng cả một vùng, tiếng súng lớn, súng bé rền vang… Hình ảnh cuộc chiến
đấu như thể Liêu đang được tận mắt chứng kiến, trong khốc liệt có những phút
giây thật rực rỡ, huy hoàng… Các chiến sĩ bộc phá đang nối nhau xông lên dưới
ánh sáng hỏa pháo và làn đạn giặc để mở đột phá khẩu… Liêu vịn vào một cành cây
lạnh ngạnh đầy gai, bóp chặt cành cây trong lòng bàn tay mà không biết đau.
Tiếng súng đôi bên
cứ kéo dài, lúc cuộn lên dữ dội, khi thưa thớt, cũng có những phút im bặt như
thể không xảy ra trận đánh, và sau đó lại rộ lên, khốc liệt hơn. Nghe tiếng
súng cứ tiếp tục vọng vào tai, Liêu cảm thấy sốt ruột, lo lắng cho trận đánh mở
màn của đơn vị.
Chân trời phía đông
rạng sáng. Mặt trời đỏ rực như sắt mới ra khỏi lò, đã vươn lên khỏi rặng núi
phía sau lưng Liêu. Tia nắng chiếu thẳng vào khu rừng anh đang đứng. Lá cây
rừng phơi sương óng ánh dưới ánh mai.
Và, những tốp máy
bay chiến đấu của địch, đã hớt hãi bay đến hòng cứu viện. Chúng nhào lộn, trút
bom, trút đạn xuống trận địa! Liêu càng cảm thấy chính ruột gan mình cũng đang
bị lửa đốt “Không hiểu tình hình ra sao mà gay go đến thế?”
Máy bay thôi không
bắn phá.
Tiếng súng ở trận
đánh hoàn toàn tắt ngấm.
Liêu xem đồng hồ
trên tay, đã tám giờ rưỡi.
Lác đác trên cánh
đồng cỏ úa vàng dưới nắng, Liêu nhìn thấy những chiếc tải thương. Anh chạy ngay
ra đón chiếc cáng đầu tiên, chưa tới nơi đã lên tiếng hỏi:
- Thế nào rồi các
đồng chí?
Anh lính tải
thương, mồ hôi trán ròng ròng dưới vành mũ nan, miệng cười rất tươi gương mặt
mệt nhọc:
- Thắng oanh liệt
lắm, đồng chí ạ. Đánh xong mới biết địch vừa được tăng cường, gần một đại đội ở
điểm ta đánh, không phải một trung đội như phương án.
Liêu lật tấn vải dù
xanh, xem ai nằm trên cáng, vết thương nặng nhẹ ra sao? Một khuôn mặt máu me bê
bết dưới lớp băng trắng đan ngang dọc, Liêu nhận ra đôi mắt thau của Quân, bộc
phá viên. Quân bị thương không chỉ ở đầu mà còn cả ở hai chân. Tuy vậy, anh còn
rất tỉnh, đang mấp máy đôi môi dày bầm máu, nói:
- Em đã đánh đúng
như lời anh dặn.
Liêu xúc động:
- Quân thấy trong
người thế nào?
- Em mệt lắm.
Người lính cáng
thương chợt nhớ một điều hết sức quan trọng luống cuống:
- Anh Liêu! Anh
Liêu! Anh có thư anh Xuân gửi về. Chỉ có thương binh về đây thôi. Đơn vị phải
tập kết nơi khác để nhận lệnh gấp. Thư trong túi em đây, anh lấy hộ. Có lẽ anh
phải đến đơn vị tập kết gấp đấy.
Dân công nằm la
liệt hai bên chiến lược dưới bóng rừng im mát. Mùa khô ở vùng đồng bằng Trung
Lào, trú quân chẳng cần làm lều lán, chỉ cần bẻ lá cây trải lên mặt đất là được
một chỗ nằm. Rừng toàn một loại cây săng lẻ và rải rác có ít nhiều cây dẻ đỏ.
Mặt rừng bằng phẳng ít gồ ghề, mùa khô được trải dày một đệm lá khô. Trong rừng
đứng cách xa hàng cây số vẫn có thể thấy được người di chuyền, đi lại, rất
thuận lợi cho việc trú quân.
Đội trưởng dân công
xã Phước Sơn, đứng cao trên một ụ mối, rúc một hồi còi, làm cho mọi người dẫu
là đang ngủ cũng phải ngóc đầu dậy nghe tuyên bố:
-… Mặt trận của ta
thắng lợi to, hiện đang phát triển nhanh chóng. Quân địch rút chạy liên tiếp.
Bộ đội càng tiến xa, tiếng sâu để đánh giặc, càng đòi hỏi sức vận chuyển tiếp
tế của dân công. Bởi vậy, chúng ta, mọi người đều phải chuẩn bị một tinh thần
hết sức bền bỉ để phục vụ chiến dịch, đảm bảo việc tiếp tế cho tiền tuyến không
bị gián đoạn, mặc cho chiến dịch phát triển đến đâu…
Anh đội trưởng chưa
nói hết lời thì đã có người phản ứng:
- Muốn phát triển
đến đâu thì phát, hết hạn bốn tháng là đây về.
Một ông già lên
tiếng đáp lại:
- Công việc Nhà
nước, công việc Kháng chiến mà các người cứ coi như đi phu ngày trước. Bộ đội
đánh đến đâu ta đi tới đó, chẳng kể kỳ hạn gì hết.
Các cô gái thì
chẳng cần tranh luận, chỉ có hát để nói lên tấm lòng, nói lên suy nghĩ của
mình:
“Em đi dân công
chiến trường, phục vụ chưa xong
Em còn đi mãi lập
công chuyến này
Ngày qua, ngày mặc
qua ngày
Em còn đi mãi có
người thay em mới về…”
Hoa và Thìn như
hình với bóng, chị em chẳng muốn rời nhau nửa bước. Cả hai ngồi đua nước bên bờ
suối, hát theo ai đó bà hát “Em còn đi mãi” gần chỗ hai người ngồi đun nước là
một nhịp cầu gỗ mới bắc tạm trong chiến dịch. Thấy có bóng người đi vội qua
cầu, Thìn ngước mặt ngó lên, vừa lúc nhận ra Bình, Thìn lên tiếng ngay:
- Bình ơi! Đi đâu
vội thế? Đứng lại đã nào!
Bình là cậu thanh
niên cùng làng, cùng lứa tuổi với Tân. Ở nhà, Bình vốn là chàng trai chẳng có
gì xuất sắc, hơi cù lần nên cũng ít ai để ý.
Thìn cùng kéo Hoa
chạy lên đường gặp Bình. Hôm nay trong cậu ấy khá chững chạc, lưng cũng thắt
nịt da, đeo bao đạn, lựu đạn như ai. Bất ngờ được gặp bạn, Bình mừng rỡ, rút
khăn bông lau vội bộ mặt lốm đốm tàn nhang và trứng cá, lấy giọng văn vẻ:
- Đúng là quả đất
quay tròn, không ngờ được gặp các bạn ở đây?
- Khỏe chứ Bình?
- Có bị sốt rét
không?
- Chỉ lo cho các cô
thôi.
- Cậu ở đơn vị nào?
- Đi đâu mà có vẻ
vội thế?
Bình hơi ưỡn ngực,
kiêu hãnh:
- Phải tức tốc hành
quân cho kịp bộ đội vào chiếm lĩnh thành phố.
- Ồ… sướng thật.
- Oai thật!
Bình sực nhớ:
- Chết chưa! Suýt
nữa quên! Hoa đã gặp anh Liêu chưa?
- Anh ấy ở đâu mà
gặp?
- Thế thì nhanh
lên! Mình vừa gặp anh ấy ở đơn vị bộ đội trú quân cách đây vài cây số.
Hoa không kịp chia
tay Bình, cầm tay kéo Thìn chạy về phía anh bộ đội dân công.
Bình nhìn theo bạn,
thích thú sung sướng, thấy mình đã làm được một công việc có nghĩa lý đối với
bạn, anh hấp háy đôi mắt. Đoạn, Bình tỏ ra khoan khoái, rút bình toong bên lưng
ra, cái bình toong Mỹ, chiến lợi phẩm vừa nhặt được, ngửa cổ tu một hơi nước,
quẹt mồm và đi thẳng.
Hoa đang ngượng
ngùng xin phép đội trưởng đội dân công:
- Anh cho tui đi
gặp anh Liêu một tí.
- Ở đâu? - Đội
trưởng hỏi lại.
- Cách đây vài cây
số.
Đội trường lắc đầu
ngay:
- Không được. Ở mặt
trận không có ái tình, tình ái gì cả.
Hẳn không ai lạ gì anh
bí thư đoàn ngày trước, tính vừa cục vừa khô khan.
Hoa nói như van:
- Tôi cần gặp anh
Liêu, chỉ một tí thôi! Anh thông cảm cho! Tôi chẳng dám đi lâu đâu.
- Tôi hỏi, cô đi
phục vụ hay đi kiếm chồng?
Đôi nét lông mày
nhỏ cau lại, Thìn nói với đội trưởng:
- Anh cho Hoa đi là
đúng. Có thế chị em mới phấn khởi. Tôi nghĩ rất hợp tình hợp lý.
Đội trưởng xua tay:
- Không tình không
lý gì ở đây cả. Tiền tuyến là trên hết.
Hoa không nhịn được:
- Sao anh ác thế! Tàn nhẫn vừa vừa chứ!
Nhiệm vụ tôi làm tròn là được.
Thìn cố thương lượng với đội trưởng:
- Anh cứ để Hoa đi! Nếu cô ấy về chậm,
tôi sẽ gánh phần hàng của Hoa. Nhưng, gần đây thôi mà, lo gì chậm.
Đôi môi thâm xì của đội trưởng bĩu một cái:
- Tôi xin các cô!
Thế rồi đội trưởng bỏ đi, tỏ ra dứt
khoát trong giải quyết công việc, cứng rắn về tư tưởng, lập trường.
Hoa nhìn theo đội trưởng nghẹn cổ, nước
mắt rơm rớm. Và chừng như không chịu thấu sự máy móc nguyên tắc của đội trưởng,
cô phùng má rồi nói to:
- Không cho cũng đi! – Với Thìn – chẳng
cần lão ấy mình đi đã Thìn ạ. Nói rồi, Hoa bỏ chạy theo hướng lúc nãy Bình đi
tới.
Thìn nhìn theo Hoa chạy, tóc bay trong
gió như mớ liễu, chân không bén đất, tưởng như cây cối hai bên đường cũng vội
vàng rẽ đường cho cô chạy. Ngày thường mỗi lần qua suối là Hoa phải dò dẫm từng
bước, giờ cô cứ ào ào băng qua. Mổ hôi ròng ròng trên trán, ướt đẫm cả thân áo,
gặp đoàn dân công từ dưới lên, Hoa hỏi ngay:
Các ông ơi, cho tôi hỏi, có đơn vị bộ
đội nào trú gần đây không ạ?
Gánh nặng, chẳng ai buồn trả lời. Hoa hỏi
to lên lần nữa.
- Có đơn vị bộ đội
nào ở gần đây không các ông?
Một thanh niên
ngửng mặt, thấy cô gái xinh xinh, gắng cười, trả lời:
- Bí mật!
Hoa nổi cáu:
Bí mật cái gì? Làm
Việt gian thì ai cho đi dân công! Có việc cần tới mới hỏi chứ.
Một ông cụ giọng
mệt nhọc:
- Không có đơn vị
nào nữa, cháu ạ.
Hoa thất vọng, đứng
đờ người ra, cho đến khi đoàn công dân nọ đi khỏi rồi mới lê bước trở lại.
Chẳng rõ, Bình đã
gặp Liêu ở đâu, hiện tại đang có một đơn vị bộ đội trú quân sâu trong rừng mà
Hoa không để ý thấy nên đã chạy qua. Giờ trở lại, cố mới nhìn thấy khói bếp và
thấp thoáng bóng người. Hy vọng tràn đầy, lòng rộn hẳn lên, Hoa rẽ vào nơi trú
quân của bộ đội.
Tại địa điểm trú
quân này, xem ra bộ đội cũng ít, trước sau chỉ thấy có mấy người ốm và một anh
y tá Hoa hỏi ngay:
- Thưa anh… Còn anh
Liêu ở đây không ạ?
Người y tá hỏi lại:
- Anh Liêu cấp dưỡng phải không cô?
Hoa mừng rỡ đến bối rối:
- Vâng, anh Liêu cấp dưỡng.
- Vậy thì anh ấy còn nấu ăn sau suối.
- Ra lối nào ạ?
- Cô cứ đi thẳng đường ấy mà ra.
Lòng bồi hồi khôn tả xiết, chưa ra tới
nơi, chỉ mới thoáng thấy bóng người bên bếp. Hoa đã lên tiếng gọi.
- Anh Liêu ơi! Anh Liêu!
- Ai đấy? Ai đấy? – Tiếng trả lời
Khi Hoa đã đến trước anh cấp dưỡng nọ,
thì cả hai người đều chẳng ai nhận ra ai. Anh cấp dưỡng đành nở một nụ cười
dưới hàng ria cá trê trước nét mặt hết sức sượng sùng, lúng túng của Hoa.
- Tôi cũng là Liêu. Nhưng có lẽ không
phải là Liêu của cô, mà là con của tôi.
Hoa không còn nói năng được một câu, đờ
người ra đứng nhìn làn khói bạc uốn éo trên mái bếp kiều Hoàng cầm.
Thấy vậy, anh lính cấp dưỡng già nọ như
hiểu chuyện, thông cảm với Hoa, vội đi múc một ca nước lả đưa đến.
- Cô em uống nước đi! Chắc lại nhầm rồi
đấy!
Hoa như giận dỗi,
không nói thêm một lời nào, quay ngoắt trở lại, để anh cấp dưỡng đứng nhìn theo
chạnh lòng.
Chiến dịch Đông –
Xuân đã nổ súng và thắng lợi giòn giã. Quân ta đánh Ba-na Phào, đánh trận địa
pháo binh địch trên cánh đồng Khăm-he, đánh tan tiểu đoàn 27 B.T.A. Hành lang
phòng thủ Trung Đông – Dương của Na-va đã bị đánh gãy xương sống, quan quân tan
rã từng mảng, chạy tơi bời. Khắp vùng rừng núi này ở đâu cũng bắt được tù binh
Pháp.
Sau khi tiêu diệt
xong một vị trí địch ở ngoại vi hành lang, Liêu đã được lệnh trở lại chỉ huy
đơn vị, truy kích địch theo dường 12 vào tận Thà Khẹt.
Quân địch đã rút chạy
nốt khỏi thành phố Thà Khẹt. Đơn vị của Liêu lại nhận được lệnh ở lại Thà khẹt
làm nhiệm vụ tiếp quản thành phố.
Thà Khẹt là thị xã
của tỉnh Khăm-muộn thuộc Trung Lào. Thành phố nhỏ nhắn, xinh xắn nằm sát ngay
bờ sông Mê Kông, đối diện với bên kia là thành phố Na-Thon của Thái Lan. Ngay
từ túc mới bước vào làm công tác tiếp quản, Liêu cũng như các chiến sĩ của anh
đã tỏ ra rất có cảm tình với thành phố có vẻ đẹp thơ mộng này. Ngót tháng trời,
họ được sống với thành phố, đi dưới bóng mát khu vườn Bản Tày, ăn quả dưa đầu
mùa ở bãi Đon-Pưới, nghe quen tiếng trống thu không chùa Bản Nứa, tiếng chuông
đón bình minh của nhà thờ lớn và nhất là sự đùm bọc yêu thương của nhân dân
trong thành phố mà đơn vị đón nhận từ buổi đầu. Thế mà, giờ đây họ sắp sửa phải
xa rời thành phố thơ mộng xinh xắn này.
Để đối phó với tình
hình quân sự xấu đi một cách nghiêm trọng trong ở vùng này. Tướng Na- va đã
điều hẳn hai binh đoàn cơ động GM1 – GM2 từ đồng bằng Bắc Bộ sang tăng viện cho
chiến trường Trung Lào, cố chiếm lại Thà Khẹt.
Chủ trương của quân
ta trong chiến dịch này là tiêu diệt một phần sinh lực địch, thu hút và chôn
chân một bộ phận của chúng tại chiến trường này tạo điều kiện thuận lợi cho
quân ta tiêu diệt hoàn toàn địch trên chiến trường Điện Biên Phủ. Chúng ta
không chiếm giữ thành phố Thà-Khẹt. Liêu vừa nhận được bức thư điện khẩn của bộ
chỉ huy mặt trận cách đây một tiếng đồng hồ. Bộ chỉ huy lệnh cho đơn vị rút
khỏi thành phố, song không thể rút lui âm thầm, mà phải đánh một trận tốt,
thắng lợi, để giữ vững tinh thần lạc quan cho phong trào quần chúng, nhân dân.
Liêu vừa báo cáo
tình hình với ông Xiêng Hằng, Chủ tịch ban quân quản thành phố rồi trở về đơn
vị, chuẩn bị cho trận đánh tới. Những con đường thành phố buổi chiều đang được
nắng nhuộm đỏ. Quân địch rút chạy để lại cảnh bừa bộn không sao tả hết, đồ đạc,
vật dụng đủ thứ ngổn ngang, áo quần, giấy tờ rải cùng đường phố. Mấy con chó
không chủ, lè dài lưỡi, thất thểu kiếm ăn dọc theo các vỉa hè.
Tình hình quân sự
đang căng lên từng giờ. 12 tiểu đoàn quân ứng chiến của địch theo đường 13 tiến
đến Thà–Khẹt, mũi đi đầu chỉ còn cách thành phố 7 ki-lô-mét. Các cơ quan quân
quản, hậu cần đã rút khỏi thành phố. Nhân dân cũng đã được tản cư gấp khỏi cùng
chiến sự sắp xảy đến. Bởi vậy chiều nay, không khí trong thành phố Thà-Khẹt
không còn vui vẻ như những ngày chuẩn bị Nô-en vừa qua. Bao trùm lên thành phố
là không khí lửa đạn sắp bùng nổ. Trên trời, máy bay bà già dò thám, máy bay
chiến đấu của địch bay liệng không ngớt. Giữa sông Mê Kông, địch đã đem đến hai
tàu chiến sẵn sàng nổ súng vào thành phố. Máy bay của không quân Thái Lan cũng
diễn võ dương oai, có lúc như rà sát mặt sông.
Về đến đơn vị, sau
khi hội ý hội báo ban chỉ huy đại đội xong, Liêu triệu tập một cuộc họp cán bộ
cấp tốc để phổ biến kế hoạch tác chiến và hạ quyết tâm thực hiện lệnh trên: Phải
đánh một trận tốt, thắng lợi trước khi rút lui…
11 giờ đêm, kế
hoạch tác chiến, công tác chuẩn bị đâu đã vào đấy. Liêu ra lệnh cho đơn vị ngủ
để giữ sức.
Xong, một mình Liêu
lững thững đi ra phía bờ sông.
Trước giông bão sắp
đến, người đại đội trưởng trẻ tuổi ấy vẫn giữ được phong thái bình tĩnh. Liêu
ngồi xuống một tảng đá bên bờ sông cạnh một gốc gỗ dầu cao vút. Vừa hút thuốc
lá một cách khoan khoái. Liêu như vừa thả hồn theo sông nước Mê-Kông. Gió sông
hiu hiu se lạnh. Nhưng nước sông thì chảy rất xiết. Nhìn dòng nước xiết. Liêu
lại nhớ đến mối hận của nhân dân Lào đối với thực dân Pháp. Sau khi nhân dân
Lào giành được chính quyền tháng 10-1945, bọn thực dân Pháp trở lại xâm lược
Lào lần thứ hai. Chính ở thành phố Thà-Khẹt này, bọn xâm lượt đã tàn sát đẫm
máu nhân dân Lào. Giữa lúc chợ Thà-Khẹt đông người, chúng cho máy bay dội bom
vào giữa chợ. Khi lính bộ tấn công vào, nhân dân thành phố chống cự không nổi
đành vượt sông Thà-Khẹt tản cư sang Thái Lan. Một lần nữa quân đội Pháp lại cho
máy bay dội bom, bắn phá các tàu thuyền nhân dân tản cư! Hơn thế nữa, chiếm
được thành phố, quân Pháp bắt cả người lớn, trẻ em nhét vào bao tải vứt xuống
sông Mê Kông! Chúng đã giết chết hàng ngàn dân Lào và Việt Kiều tại khúc sông
này.
Liêu nhìn mãi, nhìn
mãi dòng sông như muốn nói với những linh hồn chết rằng đơn vị anh sẽ trả thù
cho họ một ngày gần đây.
Điếu thuốc cháy lập
lòe trên tay Liêu.
Bỗng động có tiếng
người phía bên kia đường. Liêu lắng nghe, hình như là tiếng cãi cọ của một nam
và một nữ. Anh lên tiếng:
- Ai đấy?
Nghe rõ tiếng Liêu,
hai người kia đem nhau đến. Liêu nhận ra một chiến sĩ của anh và một cô gái, có
lẽ là Việt Kiều.
Anh chiến sĩ:
- Báo cáo anh Liêu!
Thành phố còn sót lại cô gái này không chịu đi tản cư.
Liêu đứng lên, hỏi
cô gái:
- Giặc sắp đến, sao
cô không đi tản cư.
- Thưa – cô gái lễ
phép, nhưng rắn rỏi – Tôi trước nấu cơm cho tự vệ thành, nay bắt tôi tản cư,
tủi thân lắm. Mong các anh cho tôi ở lại chiến đấu.
Thấy Liêu vẫn chăm
chăm nhìn mình, cô trở nên cứng cỏi:
- Thưa ông… nếu
cần, tôi cũng đánh được giặc.
Liêu vẫn chưa nói
gì, cũng nhìn cô gái kỹ hơn. Trong ánh trăng hạ tuần, đôi mắt cô gái nom trong
suốt, thoáng đôi nét ngơ ngác, cứ như cặp mắt một con nai non.
Đôi mắt cô gái
không còn nhìn Liêu nữa, mà đang nhìn xuống sông. Rồi đôi môi nhỏ của cô run
run, nói với Liêu mà cứ như nói một mình.
- Năm bốn sáu, cha
mẹ tôi bị giặc Pháp giết ở đây.
Câu nói của cô gái
có sức truyền cảm, làm Liêu không thể thờ ơ, dửng dưng được với cô. Bây giờ
Liêu mới nhìn thấy quả lựu đạn mỏ vịt trên tay cô gái. Liêu bắt đầu hỏi cặn kẻ
về lai lịch của cô gái. Và, câu chuyện giữa hai người dần đã trở thành tâm sự!
- Tôi hỏi thực quê
quán cô ở đâu?
- Quảng Bình.
- Huyện nào?
- Em không nhớ.
- Gia đình cô lên
đây bao giờ?
- Năm đói bốn nhăm,
em theo cha lên đây.
- Vậy sau khi ông
cụ mất, cô ở với ai?
- Làm con nuôi một
nhà Việt Kiều cũ ở đây – Cô gái cuối mặt, hạ giọng – nói là con nuôi, khổ cũng
như đứa ở.
- Thế mẹ cô?
- Mẹ ở lại dưới
Việt. Em không biết còn hay mất.
Câu chuyện cô gái
kể ra đã đến quá gần với lời dặn của bà mẹ nghèo tên là Cư đã chăm sóc anh ngủ
trọ một đêm trên đường đi trận. “bà cụ bảo tên cô con gái là gì nhỉ?” – Liêu cố
nhớ, rồi hỏi:
- Vậy tên cô?
Cô gái cuối mặt có
phần bẻn lẻn:
- Gái.
- Vậy có phải mẹ cô
tên là Cư không?
- Sao ông biết? –
Cô gái ngạc nhiên.
- Thôi đúng rồi!
Vậy thì bà cụ mẹ cô còn sống.
Hai bàn tay cô gái
bóp lấy nhau:
- Ông biết mẹ em?
Giọng Liêu ôn tồn,
ấm áp:
- Trước hết, đề
nghị cô gọi tôi bằng anh, xưng ông nghe thế nào ấy.
Có lẽ mặt cô gái
đang đỏ hồng trong đêm. Cô cuối mặt mỉm cười.
- Trên đường ra
trận, tình cờ, tôi có ngủ trọ lại trong nhà bà cụ một đêm. Cụ ở huyện Tuyên
Hóa, xã dưới Phước Sơn. Cụ kể rằng cụ có một cô con gái theo cha sang Lào năm
bốn lăm, cho đến nay không có tin tức. Biết tôi sang chiến đấu bên này, cụ có
nhờ tôi tìm kiếm cô giúp cụ. Tên cô là Gái, đúng rồi!
Anh chiến sĩ ban
nãy vẫn đứng đây, nghe được một câu chuyện tình cờ hết sức lý thú.
Sung sướng, nước
mắt cô gái ứa ra, qua ánh sáng trăng lấp lánh, trong rất rõ
Anh chiến sĩ lên
tiếng:
- Như thế thì… đề
nghị anh Liêu, cho cô Gái ở lại với đại đội ta luôn.
Liêu đáp giọng thân
tình:
- Thôi dược. Cứ hãy
ngồi xuống đây đã, tôi nói chuyện về bà cụ cho cô nghe.
Liêu ngồi lại vào
tảng đá.
Cô gái dè dặt, xếp
gối ngồi xuống trước mặt Liêu.
Còn anh chiến sĩ,
vẫn cầm súng như người đứng gác. Liêu rút thuốc lá, trao cho người chiến sĩ một
điếu, thuốc lá thơm hẳn hoi, bà con Việt Kiều tặng anh sáng nay.
Một vệt ánh sáng
đèn pha từ tàu thủy quân địch đậu giữa sông quét qua trên đầu ba người.
Mặt trời vừa mới
nhú lên khỏi cánh rừng phía đông, máy bay trinh sát địch đã liệng vè vè trên
bầu trời Thà-Khẹt.
Đơn vị bố trí đón
đánh địch ở hướng Đông Nam thành phố, đường 13 đổ vào. Còn con đường dọc theo
bờ sông xuống làng Xiêng Vang thì do đơn vị tự vệ thành phố đảm nhiệm. Từ ngày
vào chiếm lĩnh thành phố, đơn vị của Liêu đã nhanh chóng tổ chức được hai trung
đội. Tự vệ thành, giờ đây đang phối hợp tác chiến với đơn vị của Liêu. Trong
các công sự, chiến sĩ ta đều đã sẵn sàng chờ giặc đến rồi nổ súng. Nhưng giặc
chưa đến, những giây phút chờ nổ súng thật căng thẳng, nên mỗi chiến sĩ đều tự
tìm ra một cách giải trí. Có mấy người nhặt những hòn sỏi nhỏ, thi nhau búng
đúng một tiêu. Anh thì ngồi rít thuốc lá lắng theo tiếng hét ban mai của một
con họa mi từ cánh rừng vọng lại. Có người cần cù tiếp tục sửa sang lại công
sự. Tuy, người chiến sỉ nhỏ bé nhất đại đội thì đang lấy đất nặn hình người, đủ
các loại, Tây, Nhật có cả…
Thời gian đã đi qua
rõ nhanh. Mặt trời trèo lên khỏi dãy rừng phía đông được chừng cây nứa. Lá ngụy
trang trên các cộng sự đã được thay thứ khác cho tươi.
Một chiến sĩ nào đó
lầu bầu chửi:
- Tiên nhân chúng
nó, mỏi cả mắt chờ, không chịu dẫn xác tới. Đánh nhau vào buổi chiều thì có mà
ăn cám!
Chín giờ sáng.
Liêu nâng ống nhòm
quan sát tình hình địch phía trước. Mũi tấn công chủ yếu của địch theo hướng
đường 13 đã dừng lại ở phía nghĩa địa cây số 3. Trước đôi kính ống nhòm, rõ mồn
một những xe cộ, lính tráng địch đi lại. Động cơ các xe rú lên như người phát
suyễn lúc sắp chết. Lại còn có những âm thanh là lạ, lệch kệch, lồng cồng, tựa
hồ tiếng đóng nắp quan tài. Xem ra, Liêu còn sốt ruột chờ địch tới hơn cả chiến
sĩ mình.
Men theo giao thông
hào, có bóng một cô gái mặc áo màu sim chín đang đi tới, Chiến sĩ ta đùa theo
cô gái.
- A… con thỏ nâu!
- Con thỏ nâu tha
mồi cho anh em!
Gái đã được Liêu
đồng ý cho ở lại cùng đơn vị, đảm nhiệm công việc giúp “anh nuôi”. Cô đang tiếp
tế cho các chiến sĩ, vui vẻ phát tận tay từng người nước uống, thuốc lá. Liêu
là người tiếp nhận cuối cùng.
Cầm lấy bao thuốc
“Mô-li-a” trên tay Gái, Liêu ngạc nhiên:
- Lấy đâu ra thứ
này?
- Thiếu gì, người
ta vứt đầy ở các hiệu. Tội gì mình không lượm.
Liêu lắc đầu.
- Cô bé này hoạt
động dữ quá.
Gái đứng bên Liêu
cười bẽn lẽn, sung sướng như một đứa nhỏ, lần đầu biết nấu cơm được mẹ khen.
Một chiến sĩ gần
đấy:
- Cô tiếp tế ơi,
giá trưa nay mỗi người được vài ngụm cà phê thì khoái quá!
- Dễ thôi, anh ạ! –
Đoạn Gái chia tay Liêu – Em về đây – Gái trùm tấm khăn dù xanh lên đầu.
Liêu nói với theo
cô:
- Khéo không bẩn
mất áo mới!
Cô ngoái lại lườm
Liêu, đôi mắt trong suốt tựa mắt nai non nguýt Liêu một nguýt dài… Liêu dặn
thêm!
- Nhắc các anh cẩn
thận, đề phòng khói nấu nướng. Địch phát hiện được thì cứ ngửa nồi mà hứng đạn!
Bóng Gái lom khom
men theo giao thông hào. Cô đi tới đâu thì chiến sĩ cười nói, vui đùa tới đó.
- Bắt lấy!
- Bắt lấy con thỏ,
anh em ơi!
Giọng Gái nũng nịu:
- Đừng, đừng, để
thỏ tha mồi cho chứ!
Mặt trời đứng thẳng
đỉnh đầu. Các chiến sĩ vẫn sinh hoạt giải trí ở trận địa, cởi cả áo, phơi lưng
trần ngồi đánh tú lơ khơ, anh thì chép bài hát, chép thơ, người lấy ảnh người
yêu ra ngắm, thì thầm lời gì đó, anh nọ đem lá thư vợ đã nhàu nát ra đọc… Cậu Tuy,
người nhỏ bé thôi không nặn đất nữa, đang bắt tay vào sửa đôi giày đang đi sao
cho vừa chân. Đây là đôi giày thứ mười bảy của cậu, kể từ ngày vào chiếm lĩnh
thành phố tới nay. Có ngày cậu ta thay giày đến năm lần. Đôi giày nào cũng mõm
“đơ-cu-lơ”.(1)
Thỉnh thoảng một
loạt đại bác 108 ly của địch từ ngoài dội vào thành phố, “kiểu bắn thăm dò”.
Giữa trưa trên bầu trời giảm bớt tiếng máy bay.
Và, đêm đã trùng
xuống. Trăng hạ tuần chưa mọc. Trời tối om, sâu thẳm.
Vòng ngoài thành
phố, phía địch, pháo súng được nối nhau đều đặn bắn lên, tỏa ra ánh sáng xanh.
Ánh sáng rọi sang cả trận địa quân ta, thấp thoáng thấy gương mặt của các chiến
sĩ đều giống nhau. Ở đây, đơn vị đang sinh hoạt văn nghệ, dẫu rằng mặt trận,
không khí có phần căng thẳng.
Mọi người đang cố
nài Gái hát. Chỉ cần nghe giọng hát con gái, không câu nệ hay, dở. Anh em yêu
cầu dữ quá. Gái đành bẽn lẽn đứng lên, hát bài “Thanh niên hành khúc”. Bài hát
này cô được thanh niên Việt Kiều tập cho sau ngày cách mạng Lào thành công. Bài
hát lại tắt ngấm trong lòng cô từ sáu, bảy năm nay, giờ mới lại được hát lại.
Gái hát không đúng điệu lắm, các chiến sĩ vẫn vỗ nhịp và hát hòa theo…
Buổi liên hoan
không được phép kéo dài, mặc dầu các tiết mục cỏn tỏ ra khá phong phú, vì đơn
vị cần nghỉ sớm… Cuộc vui được chấm dứt, đại đội trưởng Liêu đã đứng lên nhắc
nhở anh em:
- … Rất đông anh em
cứ sốt ruột, thắc mắc tại sao địch lại chưa vào thành phố. Chúng nó xảo quyệt
lắm. Thời gian lặng lẽ thế này đang chứa đầy nguy hiểm cho ta! Chúng ta đang
tiến hành chiến thuật kéo dài thật lớn vòng vây, để cuối cùng cất vó ta thật
gọn. Nhưng tất nhiên ta không dại, cứ phải tìm cách giành lấy chủ động. Ban chỉ
huy đã có kế hoạch. Yêu cầu anh em, xong đây, về xem xét lại mọi chuẩn bị cá
nhân, vũ khí, súng đạn thật tốt, sẵn sàng. Tôi hứa, sáng mai sẽ gọi được kẻ
địch vào đây, chỉ cần chúng ta bình tĩnh để nện cho chúng những đòn trí mạng.
Tiếng nổ nổi lên từ
lòng thành phố. Viên quan năm chỉ huy binh đoàn ngóc đầu khỏi cái chăn tú nghe
ngóng. Giường cao su dưới thân hình nặng nề của hắn, phát ra những tiếng kêu,
na ná như tiếng con lợn ụt át ủn ỉn… Khi quan viên năm ra khỏi liều bạt, nhìn
về phía thành phố cũng là lúc ngọn lửa trong thành phố bốc cao làm sáng rộng cả
một góc trời.
Viên quan tư - tham
mưu trưởng binh đoàn cũng vừa tới. Hắn muốn kịp đứng nghiêm, chào, thì tên quan
năm đã hất hàm hỏi:
- Ông cho tôi biết,
lửa gì trong thành phố vậy?
Quan tư tham mưu
trưởng:
- Chắc rằng Việt
Minh rút khỏi thành phố, đang đốt phá kho tàng.
Viên quan năm vẻ
cay cú!
- Tham mưu trưởng
quả thông minh: Giá ông thông minh sớm hơn nữa thì chúng ta đã hốt gọn chúng
trong thành phố. Bây giờ mà ông còn “chắc rằng…“ – giọng nghiêm khắc – Trinh
sát ông bố trí ra sao mà không biết địch rút lui?
Thân hình tên quan
tư cao lêu đêu như đang run.
- Thưa ông… vòng
vây đã kín.
Viên quan năm đanh
giọng lại:
- Cấp tốc cho tiểu
đoàn X chốt ngay eo núi cây số 9 trên đường 12. Còn các mũi khác, phải chịu
trách nhiệm khép thật kín vòng vây của mình. Điện cho ca-nô tuần tiễu thường
xuyên trên sông Mê Kông!
Quân địch lại lồng
lên trong đêm! Pháo sáng, cái này chưa lụi cái khác đã bay lên tỏa sáng, tưởng
soi rõ được cả lốt chân người quanh thành phố. Động cơ xe đi chạy lại chuyển
quân rú như sói mất mồi. Dưới sông, đèn pha như ca-no quét ngang, quét dọc kỹ
như người cầm đuôi soi ếch. Cả một lực lượng địch hoạt động sôi lên cho tới
sáng.
Gà rừng gáy xào xạc
ở mấy cánh rừng phía đông thành phố. Bình minh đang rạng dần. Một ngày nữa đầy
căng thẳng đang đến giữa hai lực lượng đối địch không cân sức – một bên là 12
tiêu đoàn quân viễn chinh Pháp, một bên là đại đội quân tình nguyện Việt Nam do
Liêu chỉ huy và hai trung đội tự vệ thành Thà-khẹt mới đươc thành lập chưa chẵn
tháng.
Đúng như kế hoạch
Liêu đã vạch, đêm qua anh vờ làm một động tác đốt kho tàng, cốt để đánh lừa, dụ
kẻ địch vào thành phố, chủ động nổ súng đánh chúng.
Và, rõ ràng quân
địch đã mắc lừa, sáng ra, cà phê xong xuôi, chúng cho một đại đội ung dung tiến
vào thành phố, yên trí rằng quân ta đã rút hết trong đêm qua. Đơn vị địch tiến
vào thành phố trông khá oai, cũng “Cờ-roa đờ ghe”(1) “Coóc-đông đon-nơ”(2) chói
sáng từ vai xuống ngực. Mấy viên sĩ quan hành quân như diễu binh chỉ thiếu có
kèn trống quân nhạc…
Sau khi hỏa lực
vòng cầu dồn dập bắn thị uy, cánh quân địch vào thành phố đã vượt qua nghĩa
địa, tiến vào theo mối đường 13.
Chúng đã hoàn toàn
lọt vào trận địa quân ta.
_________________________________
(1) (2) Huân chương
và lòng danh dự của quân đội Pháp
Hai khẩu súng máy
đặt chính diện bất ngờ khai hỏa! Như bị đập một đòn bất ngờ vào trán, cánh quân
địch khựng lại tại chỗ. Gần một tiểu đội địch chết ngay từ loạt đạn đầu.
Tiếp đó là trận địa
mìn! Mìn nối nhau nổ long óc, cả một trung đội giặc đi đầu bị tung lên, tan
tác.
Lưới lửa của ta
đang chéo cánh sẻ, đè đầu hai trung đội đi sau xuống tại chỗ đê cho súng cối cứ
thế mà xả vào lưng chúng tới tấp như chày giã gạo nhịp ba, nhịp bốn…
Liêu dã biết dùng
đến chiến thuật địa hỏa lực để tiêu diệt sinh lực địch hết sức có hiệu quả,
nhất là trong tình huống địch bất ngờ vì quá chủ quan. Cả một đại đội địch bị
chặn lại giữa lưới hỏa lực, cứ láo nháo như cua đồng trong cối. Những thằng bị
thương nặng nằm tại chỗ kêu cha, la trời, có đứa lầm bầm đọc kinh cầu nguyện.
Chỉ còn khúc đùi, chưa đầy hai tiểu đội địch thoát khỏi trận địa hỏa lực, vất
cả súng ống tháo chạy bán sống bán chết!
Hẳn rằng, bị mắc
mưu quân ta, những viên chỉ huy Pháp đang lồng lên và đang cấp tốc, vội vàng
tính chuyện trả đũa.
Trên trời, máy bay
như chực sẵn ập đến nhào lộn, oanh tạc, mở màn cho một trận tấn công thật sự.
Lửa na-pan đỏ rựng, khói đen ngòm, mùi khét lọt phủ lên một góc phố phía đông,
kế đó là bom nổ. Hết máy bay oanh tạc đến máy bay hàng loạt, bốn “bát-tơ-ri”
cùng dội vào một lúc, cơ hồ thành phố muốn nát vụn. Trong làn mưa đạn đại bác,
tháp chuông nhà thờ lớn như một gã say cứ lảo đảo, lảo đảo…
Bom đạn địch trút
xuống trận địa quân ta thật dữ dằn, có những chiến sĩ bị đất vùi chôn sống.
Khẩu đội đại liên bố trí phía trái trận địa bị một quả đại bác, cả ba đồng chí
hy sinh. Công sự, chiến hào nhiều quãng bị sập, sạt lở. Các chiến sĩ vẫn cắn
răng, đứng vững ở vị trí của mình trong khói đạn mịt mù, chờ bộ binh chúng đến.
Tàu thủy của chúng giữa sông Mê-kông cũng đang nã đại bác vào phía sau trận địa
quân ta.
Sau gần một tiếng
đồng hồ dùng máy bay và đại bác đánh hủy trận địa, tưởng rằng đã diệt sạch quân
ta bằng hỏa lực phi pháo, bọn chỉ huy Pháp mở một mũi tấn công bằng một tiểu
đoàn bộ binh vào phía đông nam thành phố.
Thế là, một trận
chiến đấu hết sức quyết liệt đang diễn ra, giữa một tiểu đoàn bộ binh tiến công
của quân Pháp với một đại đội quân ta trong cộng sự dã chiến. Súng nổ như xay
lúa, không còn phân biệt nổi tiếng súng ta, tiếng súng địch.
Trong khi trận ác
chiến đang diễn ra ở góc phố phía đông nam này thì máy bay và pháo binh địch
vẫn tiếp tục oanh tạc vùng ngoại vi thành phố, không phải để chặn viện mà cốt
đón đường rút lui của quân ta.
Nắng mỗi lúc một
gay gắt, hun bỏng thêm trận chiến vốn đã rất nóng.
Súng máy bắn dữ quá
đã đỏ cả nòng. Khẩu đại liên số 2 đang hoạt động đắc lực, bỗng nhiên bị tắt
tịt.
Liêu đứng vượt
chiến hào, thét hỏi:
- Vỹ! Súng tắc rồi
sao?
Một giọng trả lời
đau xót:
- Anh Vỹ đã hy
sinh! Súng bị toác nòng!
Liêu ra lệnh:
- Vọng! Đem ngay
khẩu trung liên số bốn sang vị trí đại liên, bắn gãy sườn chúng nó! Nhanh lên!
Trận chiến đấu đang
rộ lên tới đỉnh cao khốc liệt, bỗng trở lại yên tĩnh một cách đột ngột. Bị tổn
thất khá nặng nề, địch dừng lại để củng cố đội hình và tổ chức đợt chiến đấu
mới.
Đơn vị của Liêu có
hai khẩu đại liên hoàn toàn không sử dụng được, trung liên cũng đã hết đạn. Vũ
khí đơn vị còn lại chỉ có súng trưởng, tiểu liên, lựu đạn và lưỡi lê. Liêu ra
lệnh cho anh em tranh thủ thời gian ngưng bắn sửa sang lại công sự, lau chùi vũ
khí.
Bây giờ nước uống
mới chính là bức thiết. Vừa qua, còn một ít nước, thứ lo tưới nòng súng, thứ lo
cho thương binh, cổ họng các chiến sĩ khan như sắp nổ, nước bọt ráo sạch, chỉ
còn là chất nhờn đắng khói súng trong miệng mọi người.
Phía gần cuối trận
địa, đại đội trưởng Liêu đang cật vấn một chiến sĩ.
- Đồng chí ngửa hai
bàn tay ra tôi xem. Nước gì đấy?
Chiến sĩ cuối mặt
nói không thành lời.
- Uống nước tiểu
hả?
Chiến sĩ trả lời
khẽ:
- Báo cáo… khát
quá.
- Tôi cũng đang khát.
Nhưng gắng chịu, sắp có nước tiếp tế rồi. Uống bậy bạ như vậy, không nên.
Đằng sau trận địa,
bỗng ồn ào hẳn lên! Thì ra Gái đã đem nước tiếp tế cho anh em – không chỉ là
nước, còn có cả thuốc lá nữa. Nước và thuốc đang được chuyền tay đến từng người
qua từng ngóc ngách công sự.
Gái lóp ngóp bò đến
bên Liêu, đem thuốc, nước lại còn nhí nhảnh đút vào túi anh một gói kẹo.
- Lẽ ra, em tiếp tế
sớm hơn. Chỉ tại… chúng nó bắn rát quá, nước lại sôi lên – Gái khoe với Liêu.
Liêu khen, động
viên:
- Em giỏi lắm. Thấy
bóng em là cả đơn vị mừng.
Anh lính liên lạc
của đại đội gọi sang.
- Cô Gái ơi! Hát
một bài cho vui nào!
- Chờ tối liên
hoan, giờ còn phải đánh nhau chứ.
Gái cười tạm biệt
Liêu, đôi mắt nai non nhìn anh âu yếm, rồi ôm mấy cái túi vải và mấy bình toong
nước bò lên phía trước.
Khói thuốc lá loằn
ngoằn trên các công sự, cộng với mùi nắng khét và thuốc súng phả ra, nồng nồng,
gây gây.
Bất thần một loạt
pháo địch trút tới trận địa. Mọi người giật mình nghĩ tới Gái! Họ đứng bật cả
dậy trong công sự nhìn ra hướng Gái vừa bò lên tiếp tế. Trong chiến đấu, một
loại đạn pháo nổ như vậy có gì đâu mà ai cũng để ý. Riêng ở đây, loạt đạn đã nổ
vào chỗ đứa em gái vô cùng đáng yêu của đơn vị vừa bò tới. Mắt ai cũng như đều
rách ra, nhìn vào mấy cồn khói bụi hung đỏ.
Liêu thét gọi:
- Gái! Gái ơi! Trở lui! Trở
lui ngay!
Không có tiếng trả lời!
Liêu bật nhảy ra khỏi chiến hào, lao
mình vào đám khói bụi và phục ngay xuống bên cạnh Gái! Gái đã bị đạn nằm ấp
mình lên túi thuốc lá và mấy bình toong nước. Máu từ ngực cô đang tuôn ra lênh
láng.
Liêu bế xốc Gái lên tay, chạy băng trở
lại chiến hào phía sau giữa những loạt pháo địch bắn tiếp ầm ầm, khói bụi mù
mịt. Bê được Gái về chiến hào phía sau đôi cánh tay và ngực Liêu cũng đã bê bết
máu của Gái.
Gái đã hoàn toàn tắc thở. Liêu nhìn vào
khuôn mặt Gái, không còn tươi sáng nữa, nhợt nhạt. Và, đôi mắt đẹp, ngây thơ,
trong suốt như mắt con nai non giờ đã mất thần sắc. Tay Liêu run run, vuốt mắt
cho Gái. Đôi mắt nai non đã vĩnh viễn nhắm lại.
Trong chiến hào, trong các cộng sự,
chiến sĩ truyền cho nhau tin Gái đã hy sinh. Hoàn cảnh không cho phép họ đến
ngay với Gái được, chỉ biết ngồi lặng trong chiến hào, lòng hướng về Gái, thầm
gửi những lời nhắc nhở “trả thù cho Gái!”.
Trên trận địa, nắng
vẫn như thiêu đốt.
Trước khi rút lui
khỏi thành phố, Liêu ra lệnh phá hủy hết kho tàng súng đạn, lương thực còn lại,
không để cho địch một giọt dầu, một viên đạn, hạt gạo. Vậy mà, trong hoàn cảnh
nước sôi lửa bỏng đó lại xảy ra một chuyện khá rắc rối giữa bộ đội với hai
thanh niên xung phong gác kho. Đã mấy lần Liêu cử bộ đội đến thương lượng với
hai thanh niên gác kho nọ, lấy chìa khóa để chuẩn bị đốt kho song họ không chịu
nghe Liêu phải thân hành đến.
Hai thanh niên bận
quần áo nâu, súng tiểu liên Tuyn đeo bên nách. Có một anh tên là Bình. Họ đang
hì hục làm cộng sự trước nhà kho. Đây là kho tập trung lớn nhất thành phố.
Liêu xồng xộc đi
tới. Theo anh còn có bốn chiến sĩ. Liêu hỏi to:
- Ai gác kho đây?
Hai thanh niên cùng
ngây người lên, trả lời:
- Chúng tôi! Các
anh cần gì?
Liêu:
- Tôi là đại đội
trưởng đơn vị chiếm lĩnh. Đêm nay bộ đội rút khỏi thành phố. Tôi hạ lệnh cho
các anh nộp chìa khóa để bố trí hủy kho.
Bình, anh thanh
niên làng Phước Sơn hôm nào gặp Hoa và Thìn trên đường vào thành phố, giờ hắn
thừa biết người đầy hách dịch đang đứng trước mặt mình là Liêu. Chẳng cần phải
làm quen, cầu thân, anh phanh khuy áo để lộ cái bụng tròn, loáng mồ hôi trong
ánh hỏa Pháo dịch từ ngoại vi rọi vào.
- Rút lui, đó là
công việc các anh – Bình cứng rắn – Còn chúng tôi có nhiệm vụ bảo vệ kho tàng
đến cùng. Chưa có lệnh cấp trên của tôi, chúng tôi chưa để các anh đốt kho.
- Ủy ban tiếp quản
thành phố đã rút lui từ tối hôm kia. Nay, quyền chỉ huy cao nhất các lực lượng
trong thành phố này là tôi. Tôi ra lệnh, các anh có nghe không?
Câu trả lời của
Bình có vẻ né tránh:
- Chúng tôi chiến
đấu đến cùng, nếu địch tấn công vào đây.
- Ối dào! Hai mống
các anh liệu chống nổi hai tiểu đoàn địch hả? – Liêu lật đồng hồ trên tay, xem
– Còn ba mươi phút nữa là tiến hành kế hoạch, các anh có tuân lệnh không? Trả
lời nhanh!
Bình vênh bộ mặt
tàn nhang:
- Không tuân lệnh,
trong hoàn cảnh này, tôi có thể bắn bỏ.
Trước câu nói đầy
quyết liệt ấy, hai thanh niên bắt đầu nao núng. Liêu chộp tay, khóa chặt cổ áo
Bình lại.
- Buông tôi ra!
Buông tôi ra! – Bình lúng túng.
Liêu buông Bình,
vừa ra lệnh cho chiến sĩ mình:
- Các đồng chí trói
cổ hai tên phản bội này lại, lấy chìa khóa chuẩn bị đốt kho, không thể trì hoãn
được!
Bộ đội rút dây
thừng bên lưng ra.
Liêu chỉ thị thêm:
- Trói vào gốc
phượng kia cho chúng chờ giặc tới mà chống cự giặc.
Hai chàng thanh
niên liếc mắt trao đổi với nhau, run run trước thái độ kiên quyết của Liêu.
Cuối cùng, đành xin tha tội trói, nộp chìa khóa kho và xin được đi theo bộ đội.
Hai thanh niên cùng
mấy anh bộ đội chuyển một ít sữa, bánh quy ra ngoài, chuẩn bị lương thực cho bộ
đội rút khỏi thành phố. Khoảng nửa giờ sau, kho tàng tất cả sẽ ra tro.
*
* *
Đại đội của Liêu
cùng với anh em tự vệ thành đã tập trung đầy đủ, chờ lệnh cuối cùng rút khỏi
thành phố. Buổi sáng, địch tổ chức hai đợt tiến công, thất bại ôm đầu máu quay
tại chỗ. Chúng biết rằng đã bị lừa nên càng căm quyết bủa quân, thắt chặt vòng
vây. “cất vó” trọn cả lực lượng Việt Minh và Pa-Thét Lào trong thành phố
Thà-khẹt. Từ chiều tới giờ chỉ có máy bay do thám và thỉnh thoảng pháo binh bắn
phá vu vơ vào những điểm mà chúng nghĩ là có quân chiến, đóng của ta như đồn
khố xanh, trường tiểu học, đồn khố đỏ cũ…
Tổ trinh sát đi
chưa về. Hai con đường rút lui của đơn vị đã chuẩn bị, nay bị địch chơi lại với
lực lượng mạnh. Chỉ một còn một tia hy vọng yếu ớt vào con đường dự bị. Không
riêng gì cán bộ, mọi người trong đơn vị đều tỏ ra sốt ruột, lo lắng, sợ địch đã
bu nốt con đường dự bị. Trong khi chờ bộ trinh sát về. Liêu vẫn phải ra lệnh
cho anh em tranh thủ ngủ để lấy sức sau hai ngày hai đêm vô cùng căng thẳng.
Một con gà trống
sống sót đâu đó, nhớ chừng, cất tiếng gáy “Coóc… cò… co… coọc!” Tức thì có
tiếng phản ứng của chiến sĩ:
- Bắn con gà chết
tiệt đó ngay đi!
- Chưa gì đã gáy
sáng!
Liêu giật mình, xem
đồng hồ tay, mới một giờ rưỡi. Còn ba tiếng đồng hồ nữa coi như hết đêm. Ngày
mai sẽ xảy ra những gì đây, nếu như đơn vị chưa ra khỏi thành phố trong đêm
nay?
Tổ trinh sát đã trở
lại và báo tin đáng buồn là con đường rút lui thứ ba cũng đã bị địch chốt nốt!
Biết hành động thế
nào đây? Ở lại thành phố chiến đấu với viên đạn cuối cùng sao? Có những ý nghĩ
mong chờ giải vây thoáng đến trong óc cán bộ, chiến sĩ. Đơn vị đã tỉnh ngủ tất
cả. Ngủ ngồi nên chẳng có ai ngủ ngon giấc được.
Liêu phải nhắc lại
với đơn vị:
- Đơn vị hoàn thành
nhiệm vụ mà cấp trên từng giao: “Trước khi rút lui phải tổ chức được một trận
đánh tốt, thắng lợi…“. Bây giờ, ta không có lý do gì để ở lại đây, phải phá
vòng vây mà ra.
Mọi người cố nhìn
xuyên vào màn đêm để đọc được trong mắt đại đội trưởng nhưng hy vọng, những suy
nghĩ minh mẫn…
Liêu đã bàn với
chính trị viên Xuân họp ngay cán bộ, hội ý, hội báo, vạch kế hoạch phá vây
địch. Cuộc họp thoạt đầu có vẻ bí, về sau tất cả đều nhất trí với đề xuất của
Liêu: Lợi dụng sơ hở của địch, đóng bè chuối, ngụy trang cỏ rác lên trên, cử
từng tổ ba người, bám lấy bè, cho trôi theo dọc bờ sông mà ra khỏi vòng vây
địch.
Cả đơn vị hết buồn
ngủ, ai nấy tỉnh như sáo, từng tổ ba người một, nhanh chóng đi chặc chuối trong
thành phố để chuẩn bị bè.
Mặc cho đèn pha
địch trên hai tàu thủy liên tiếp như cầm chổi quét ngang mặt sông, chiếc bè đầu
tiên đã được hạ thủy êm nhẹ. Tổ đi đầu có đại đội phó Mẹo. Anh phải đi trước để
tổ chức đón đơn vị tập kết phía dưới bản Tây chừng ba ki-lô-mét.
Liêu tiễn anh em
xuống sát mép nước, bắt tay từng người. Anh hôn vào má rám của Mẹo lạnh như
đồng, thì thầm vào tai:
- Nhớ chọn địa điểm
tập kết thuận lợi. Phải nắm chắc tình hình quanh vùng nhé.
- Anh cứ tin vào
tôi.
Sau đó chừng mười
lăm phút, tình hình vẫn yên tĩnh. Các chuyến bè khác bắt đầu rời bến Thà-khet
trôi xuôi. Kim đồng hồ dạ quang trên tay Liêu chậm chạp nhích từng giây một,
đầy căng thẳng. Cho dù đèn pha pháo sáng của địch vẫn rọi, quét liên tục, dòng
sông Mê-kông vẫn tỏ ra hiền lành, kín đáo, trải rộng lòng ấm áp, đôn hậu đưa
các chiến sĩ ra khỏi vòng vây.
Đã đến lúc Liêu lên
đường. Anh bắt tay ba đồng chí ở lại đi sau cùng.
- Bây giờ là ba giờ
đúng. Khoảng ba mươi phút nữa các đồng chí bắt đầu tiến hành đốt kho, xong cứ
xuống bè trôi xuôi theo kế hoạch, nhớ bám sát bè mà cho bè trôi. Chúng tôi sẽ
đến đón các đồng chí ngay sát bờ sông.
Ba hàm răng trắng,
toát ra cười với Liêu. Họ bóp chặt bàn tay đại đội trưởng thay cho lời hứa
thắng lợi.
Liêu ngoái lại nhìn
thành phố một lần cuối cùng, giã từ mà không hẹn ngày gặp lại. Những hàng cây
đứng đặc theo bờ sông Mê-kông vẫn im lìm. Cảnh trở nên buồn. Liêu thấy lòng đau
thắt lại… khi nghĩ đến Gái. Anh cắn môi đến chảy máu trong đêm: “Gái ơi! Thế là
anh không đem được em về nhà với mẹ. Và, anh cũng chẳng thể ở lại đây với em…
lâu hơn được” – Liêu trào nước mắt – Còn các đồng chí! Tôi biết nói sao đây?
Các đồng chí đã ngã xuống đất này vì nghĩa lớn! Nhưng còn phần mộ… các đồng
chí… sẽ có ngày, có ngày chúng tôi đem các đồng chí về trong lòng tổ quốc… “.
Hình ảnh các đồng chí lần lượt hiện lên trước mắt Liêu với tấm gương hy sinh
của từng người, Tuất, Châu, Thoan, ném lựu đạn không ngừng vào đầu giặc, Vỹ ổm
khẩu đại Liên toác nòng mà chết. Rồi Gái, đôi mắt trong và thơ ngây như mắt con
nai non bây giờ đã hoàn thoàn nhắm nghiền lại dưới lòng đất quê người…
Ba giờ rưỡi sáng,
vị trí giặc lạnh tanh như xác chết. Sột soạt gió thổi qua các lều vải, mui xe,
kéo lê những tờ giấy lộn trên mặt đất.
Thằng lính gác ngáp
dài, buồn nản nhìn ra chung quanh. Sương đêm đã thấm lạnh vào vai hắn. Hắn cảm
thấy lạnh đến ghê người khi đưa mắt ra xa, nhìn vào đám mộ chôn bọn mới chết
sáng nay, lỏm chỏm những cây thánh giá đóng bằng gỗ bom đạn. Hắn rùng mình, khi
nghĩ tới ngày rồi cũng sẽ lĩnh được một cây thập tự như vậy để về nơi an nghỉ
cuối cùng trên mảnh đất xa lạ này!
Viên quan năm chỉ
huy phải có lẽ sẽ phải giật mình về tiếng nổ kho đạn cháy trong thành phố. Và,
hẳn rằng đêm nay cho dù tiếng nổ có dữ dội đến mấy, ngọn lửa cháy kho tàng có
bốc cao bằng hai bằng ba tháp nước thành phố, bằng hai bằng ba tháp chuông nhà
thờ lớn thì hắn cũng không thèm chui ra khỏi cái chăn lính. Hắn chỉ cười gằn
một mình mà rằng:
- Hừ… chúng mày
đừng hòng lừa nổi ông lần nữa. Đồ con nít!
Hắn yên trí cho
rằng quân ta lại bố trí lừa hắn như đêm trước. Ngày mai, ngày mai, ông sẽ cho
chúng mày biết đòn của quân cơ động!
Phía ngoài vòng
vây, bên bờ sông Mê-kông mạn dưới thành phố Thà-khẹt, Liêu đã đón tổ rút lui
sau cùng lên khỏi mặt nước. Anh đang hôn lên má từng người một cách đầy xúc
động. Các chiến sĩ bóp chặt lấy tay người chỉ huy trẻ tuổi của mình, cảm phục.
Tiếng gà rừng bắt
đầu le te gáy báo hiệu trời sắp sáng.
Chiến tranh tàn
khốc chấm dứt.
Mẹ con Hoa đã đem
nhau trở về làng cũ. Làng Phước Sơn bắt đầu lấy lại màu xanh. Từ những thân cọ
cháy sém, những chồi non, lá non đã xòe tán, lá che bóng mát. Lá chuối mơn mởn
phơi dưới nắng… Các hố bom đều đã được san lấp, biến thành đất trồng trọt,
luống khoai, vườn rau. Tuy nhà cửa chưa ai kịp xây dựng khang trang, mái lá bên
nhau san sát mọc lên nhưng cuộc sống xóm làng đã bắt đầu ấm áp…
Ngày tháng thoi
đưa… Chính trên mảnh đất này, năm xưa Hoa đã tiễn đưa Liêu ra đi…
Liêu khoác ba-lô
trên vai đi trước, Hoa theo sau cách dăm ba bước. Họ theo con đường đi ra bãi
dâu phía đầu làng. Liêu đi chậm hẳn lại và đã dừng bước, ngoái lại với Hoa.
Hoa đỏ mặt, cúi
xuống, xé vụn chiếc lá dâu trên tay.
Liêu ngại ngùng
bước tới gần Hoa hơn. Hoa lùi vào dưới khóm dâu ven đường. Chưa bao giờ Liêu
mang trong mình một cảm giác khó tả như bây giờ, tưởng rằng bất đồ có thể bỏ
chạy ngay trước mặt Hoa mà không dám ngoảnh lại. Mặt nóng ran, các thớ thịt, cơ
mặt đang run lên. Anh bước lại sát vào Hoa, nói không thành lời: “Hoa ơi, tôi
thương Hoa… Em ở lại, tôi đi… Em chờ anh nhé…!”. Liêu khi xưng anh, khi xưng
tôi, lúng túng, lẫn lộn… Cánh tay Liêu đặt nhẹ lên vai Hoa. Lòng Hoa càng bổi
hổi, bồi hồi, không sao tả xiết, mặt càng chín đỏ. Cô đứng trong cánh tay Liêu
khoảng khắc mà cứ nhu đã trải qua hàng giờ, giọng lý nhí “Anh đi mạnh khỏe… Em
chờ…”. Hình như lúc đó Liêu có thơm một lần lên tóc Hoa thì phải… Liêu đi khuất
sau rặng dâu rồi Hoa mới ngước mặt lên nhìn theo, người cứ lâng lâng như một
thứ phân tử hương có thể theo gió mà bay theo hướng Liêu…
Sáng nay Hoa đang
ngồi dệt bên khung cửi, lúc thơ thẩn ngừng tay, ôn lại kỷ niệm, nhớ đến tình
yêu, khi thúc vội con thoi trên khuôn vải mỏng cho ngày tháng cứ thế mà trôi
qua để Liêu chóng trở lại. Chỉ một tiếng cười, một câu chào hỏi của ai trước
ngõ cũng gợi cho Hoa nghĩ đến giờ phút bỏ con thoi mà chạy ra đón Liêu - Vẫn
anh Liêu ngày nào vào nhầm nhà, có đôi mắt ngời sáng, có mái tóc xoắn thành
từng vòng tròn, một hàm răng trắng đều đặn. Lúc bấy giờ Liêu có còn xin Hoa một
bông hoa dẻ nữa không? Hoa sẽ tặng Liêu cả một mùa hoa dẻ. Đã mấy mùa hoa dẻ
trôi qua, tin Liêu vẫn biền biệt.
Hoa đâu có biết
trên sân bóng rổ an dưỡng đường chiều nay, Liêu đang cùng đồng đội, trai có,
gái có, thảy là quân nhân về đây nghỉ ngơi sau khi chữa xong vết thương, chữa
lành bệnh tật, họ rèn luyện sức khỏe để trở lại đơn vị. Họ đang mê mải chuyền
bóng trong nắng chiều.
Chơi xong mấy hiệp
bóng rổ, nhường lại cho anh em khác Liêu vắt áo lên vai đi ra khỏi sân.
Một nữ quân nhân
bước tới trước Liêu, hớn hở:
- Xin lỗi, anh còn
nhớ tôi không?
Liêu dừng bước, bị
hỏi quá đột ngột, hơi ngớ người.
Người vừa hỏi, đang
đứng trước mặt anh có vẻ vừa thân tình vừa “khiêu khích” là một cô gái, mái tóc
tết thành hai đuôi sam dày, trên gương mặt tròn, sáng sủa nổi bật lên đôi mắt
bồ câu, hàm răng đều đặn, trắng màu hoa cau.
Người nữ quân nhân
nói tiếp:
- Tôi hỏi anh thế
này, kể cũng hơi đột ngột, có thể là… khiếm nhã nữa phải không anh?
Liêu lưỡng lự:
- Xin lỗi đồng chí…
tôi nhớ mặt mà… quên tên.
- Thì nào, chúng ta
đã giới thiệu tên cho nhau đâu – Cô gái nhoẻn miệng cười với Liêu, làm anh bớt
vẻ ngỡ ngàng, ngượng ngùng, cũng cười theo.
Cô gái nhắc lại:
- Hồi ấy chúng ta
gặp nhau trong một chuyến đò. Hình như anh lên đường ra trận. Thế rồi đêm đó
chúng ta lại cùng đứng chờ tàu ở ga Lộc Yên và cùng đi trong một toa goòng chở
gạo. Anh nhớ ra rồi chứ?
Liêu vui mừng:
- À… ra thế, tôi
nhớ, tôi nhớ… Một cô nữ sinh. Chà chà… cô thật chóng nhớn.
- Anh bắt tôi cứ
phải bé mãi sao?
Âu cũng là chuyện
thông thường, những lần gặp lại nhau, người ta rất dễ trở nên thân quen. Thế
rồi chẳng ai phải mời ai, rủ ai, Liêu và người nữ quân nhân đi bên nhau, ngược
lên ngọn đồi phía sau doanh trại, ôn lại những gì đã xảy ra, đã trải qua từ khi
gặp nhau trên một chặng đường.
Người nữ quân nhân:
- Hồi ấy, tôi vẫn
tiếp tục học. Nhiều khi động lòng cũng muốn đi phục vụ tiền tuyến, song tuổi
đời còn quá non. Sau hòa bình lập lại, tôi mới được tuyển lựa vào văn công.
Cũng từ đấy, tôi có niềm say mê nghệ thuật. Hiện giờ, hơi yếu tim, tôi được về
đây an dưỡng.
Liêu hơi tếu:
- Tôi lại khác, hết
súng đạn thì gõ mõ phất cờ…
- Là thế nào?
- Luyện tập ở thao
trường, chiến sĩ mà không hiểu sao? Vết thương đau trở lại, phải đi mổ, lấy đạn
ra. Giờ mới về đây an dưỡng.
Ánh nắng chiều quét
màu vàng nhạt lên các mái tôn, tường vôi doanh trại, thời tiết đã có phần dịu
mát, nhưng khung cảnh vẫn có phần chật chội đối với tình cảm con người. Xa hơn
là thành phố Quảng Yên nho nhỏ, xinh xinh nằm bên bờ sông Bạch Đằng. Trên sông,
những cánh buồm căng gió đang lướt sóng. Dãy núi đá ven biển xanh thẳm lại
trong làn sương lam… Cảnh bên ngoài doanh trại đang vẽ nên một vẻ đẹp phóng
túng và thơ mộng.
Hai người ngồi bệt
xuống cỏ. Mấy khóm mua cạnh đấy tím sẫm màu hoa trong nắng chiều. Họ thả tầm
nhìn cũng như thả rộng tâm hồn ra với phong cảnh phía trước. Nhà thờ xứ Yên Trì
nằm trên ngọn đồi khom khom lưng rùa, nhà cửa, làng mạc bao quanh như đang
chung vai gánh đỡ một sức nặng ngự trị… Cảnh vật ở đây, như đã được một bàn tay
nghệ thuật sắp xếp, bài trí, đường nét, màu sắc vừa riêng biệt lại vừa hài hòa…
Hai người ngồi lặng
yên bên nhau khá lâu, chừng như đang bị xúc động trước vẻ đẹp của thiên nhiên.
Bỗng cô gái sực
nhớ:
- Chết chửa! Chúng
ta cũng nên có sự giới thiệu chứ! Tôi tên là Hiền. Còn anh?
- Liêu
- Gia đình anh Liêu ở đâu?
- Tôi là kẻ không gia đình. Thực ra là
có. Cha mẹ tôi mất đã lâu, tôi lại ra đi khỏi quê nhà quá sớm theo cách mạng,
cũng xem như không có gia đình.
Hiền hắt ra hơi thở nhè nhẹ, muốn nói
lên niềm đồng cảm với cảnh đời cô đơn của Liêu. Hiền cất tiếng cũng rất khẽ,
như thể nói một mình:
- … Chỉ biết sống với tình đồng đội,
đồng chí…
Hai người cùng lúc
ngước lên trời. Đàn giang đang sải cánh ngang bầu trời.
Mắt vẫn nhìn đuổi
theo bóng giang, vừa bẻ những ngón tay tháp bút. Hiền vừa chuyện trò:
- Trong kháng
chiến, tôi còn là học sinh… Có những đêm nằm khó ngủ, lắng tai nghe theo tiếng
chó cắn, cứ nghĩ đến các anh đang trên đường hành quân, mưa gió, rét mướt…
Thương các anh… Có nhiều đêm, mẹ tôi bảo đốt lửa để đón các anh qua làng nghỉ
lại…
Câu chuyện giữa
Hiền và Liêu đang đi dần vào chiều sâu tình cảm thì tiếng kẻng cơm chiều đã
vọng lên, cắt đứt câu chuyện tâm tình buổi đầu của họ. Họ đem nhau xuống đồi
khi mặt trời đã khuất sau dãy núi Yên Tử, để lại phía chân trời một hình rẻ
quạt hồng hồng, vàng vàng, nguy nga…
Lần đầu gặp Hiền
trên goòng, Liêu liên tưởng đến Hoa, chẳng hiểu lần này gặp lại Hiền nơi này
Liêu có còn tình cảm để nhớ tới Hoa, cô gái nhỏ ở làng Phước Sơn đang chờ ngày
anh về chăng?
Chiều nào cũng như
chiều nào, đứng trên lô cốt ở một góc đồi cao mà nhìn xuống toàn bộ sân chơi
khu an dưỡng, nom chẳng khác gì những ngày hội thể dục thể thao. Các sân bóng
chuyền, bóng rổ sôi động và thu hút khá đông khán giả. Các môn xà đơn, xà kép,
nhảy cao, nhảy dài hoạt động như các guồng máy tự động, các cô gái còn thêm môn
nhảy dây, đủ các trò chơi nam nữ. Ấy là chưa tính đến những người thích bơi lội
đem nhau ra bờ sông Bạch Đằng. Cũng có những người muốn cùng nhau đi bách bộ,
hiểu nhau bằng một vài tâm sự. Tất cả đang gội nắng chiều và tắm gió biển…
Hiền hiện đang có
mặt ở một đám nhảy dây. Cô đang ở trong vòng dây quay tít, hệt như một con chim
vành khuyên lộn trong cái chuồng hình bầu dục. Khi sợi dây quay tít nhất, chân
Hiền không còn tiếp đất, cũng là lúc Liêu đứng ngoài thích chí thốt lên khen:
- Hay quá! Đẹp lắm!
Nghe lọt tiếng
Liêu, mặc cho dây quất vào chân, vào cổ, Hiền đứng phắt lại. Cô đưa tay gạt vội
mồ hôi trán, niềm nở tươi cười với Liêu.
- Anh Liêu! Anh tới
đây đã lâu chưa?
- Cứ nhẩy tiếp đi
Hiền, trông đẹp mắt lắm!
Hiền lắc đầu:
- Phải giữ lời hứa
chứ.
Các cô gái chung
quanh lên tiếng ngay:
- Thôi, xin mời bạn
Hiền ra ngoài mà nói chuyện để chị em còn tiếp tục nhảy! Nào, đến lượt ai nào?
– Vòng dây bắt đầu quay tít như những guồng tơ.
Hiền và Liêu đã bên
nhau về câu lạc bộ. Hiền vừa đi vừa rút mùi soa lau mặt, xong lau đến đôi cánh
tay trần mũm mĩm trắng trẻo, mồ hôi đã dán vạt áo mỏng vào da làm nổi lên thân
hình đầy đặn, khỏe mạnh.
Liêu cắp nách một
cặp vợt bóng bàn. Tay khác tung tung quả bóng bàn. Anh hỏi Hiền:
-Trông Hiền khỏe
thế, sắp ra đơn vị chưa đây?
- Vừa rồi tôi đã có
ý kiến xin ra. Song chị em trong tổ bình là chưa được, phải tháng sau. Cứ phải
cố làm ra bộ khỏe mà xin ra, ở đây lâu sốt ruột lắm.
- Tôi cũng cảm thấy
thế, nghỉ ngơi lâu sợ bị lạc hậu. Nhưng nếu mà người chưa được khỏe thì cũng
không nên.
- Tôi nhớ công tác
nghệ thuật quá! Có lẽ suốt đời tôi sẽ sống chết với nghề múa.
- Có lẽ Hiền mê múa
cũng như tôi nghiện rau muống chẻ.
Hiền huých nhẹ
khuỷu tay sang Liêu, cả hai cùng cười. Nắng chiều đẩy bóng hai người so le lẽo
đẽo đi theo họ như để nghe lỏm chuyện vui. Họ đến chỗ chơi bóng bàn ở câu lạc
bộ. Mấy bàn bóng đều đầy ắp người, nhờ có Hiền là gái nên các ông anh cũng nể,
nhường cho cô và Liêu chơi vài hiệp.
Sau mấy phút khởi
động, ăn ý, Liêu bắt đầu ném bóng.
Liêu vẫn quen chơi
với phong thái đàng hoàng chững chạc, nhất là chơi với nữ giới, đường bóng của
anh tỏ ra rất hiền, bóng đi dài… Ngược lại, Hiền rất nhanh nhẹn, di chuyển sinh
động và chuyên chơi bóng ngắn, bỏ nhỏ nhiều quả rất hiểm.
Trận đấu giữa Hiền
và Liêu bỗng trở nên hấp dẫn đối với khán giả chung quanh.
Hiệp đầu Liêu thua.
Khán giả đã tỏ ra
khuyến khích Hiền, động viên Hiền khá rôm rả. Cũng có người nghĩ bụng: “Chẳng
qua thằng cha ấy “nịnh đầm” thả đấy thôi. Đường bóng nó đi đẹp lắm!”.
Sang hiệp hai, Liêu
thay đường bóng.
Hiền hoàn toàn bị
động, chống đỡ với đường bóng của Liêu thật quá vất vả. Anh không còn đánh bóng
dài như hiệp một nữa. Quả bóng nào qua lưới sang bàn Hiền cũng xoáy, có lắm quả
xoáy trệch hẳn cả hướng đón… Rồi vào lúc bất ngờ nhất, Liêu “tiu” những quả “cháy
bàn”.
Hiệp hai, Hiền
thua.
Đang chơi vào hiệp
ba, Hiền dừng hẳn lại, chẳng để ý đến những giọt mồ hôi trán, đôi mắt bồ câu
nhìn thẳng vào Liêu:
- Anh chơi bóng bàn
lâu chưa?
- Tôi biết chơi năm
lên chín, lên mười.
- Hồi còn là học
sinh tiểu học?
Liêu cười:
- Tôi chưa hề biết
sân nhà trường nhám hay trơn. Toàn là chữ học mót. Chơi bóng cũng học mót,
vào cái thời sống cù bất cù bơ ở thành Huế, chuyên đi nhặt bóng thuê cho người
lớn.
Hiền chống ra-két.
- Hình như thể thao, môn gì anh cũng có
thể giỏi.
Liêu lắc đầu:
- Môn gì cũng biết thì đúng hơn. Tôi
như con ngan ấy, bơi cũng bơi được, đi bộ cũng đi được, lặn cũng lặn được, bay
cũng bay được, song chẳng có môn nào giỏi cả.
Mọi người chung quanh cũng phải phá lên
cười vì câu trả lời rất hóm của Liêu.
- Cũng ít người biết chơi nhiều môn như
anh nói.
Bên ngoài có người lên tiếng:
- Đề nghị chơi nốt cho hết “xéc” để anh
em khác chơi.
- Cần trò chuyện, xin mời ra ngoài!
Liêu và Hiền sực nhớ, xin lỗi mọi
người, không quên cảm ơn và cũng thôi chơi bóng bàn. Họ vừa ra khỏi bàn bóng
vừa cầm ra-két quạt quạt vào ngực. Hai người lại ra ngồi ở chỗ cũ, ngọn đồi
phía sau doanh trại. Ở đây gió nồm từ biển thổi vào không bị khuất.
Hai người đã ngồi xuống bên nhau, lặng
im, như cố tình tận hưởng ngọn gió mát lành quạt vào lồng ngực.
Liêu liếc mắt sang Hiền. Đôi mắt bồ câu
đang dán vào khung trời cao rộng, khi như rõi theo một cánh chim chiều lạc đàn,
khi như đăm đắm nhìn về một vì sao mới lóe sáng… Đôi mắt thật mơ mộng.
Mãi lâu sau Hiền mới quay sang Liêu:
- Tối thứ bảy, được phép ra khỏi doanh
trại, ta đi xem anh Liêu nhé!
- Xi-nê hay văn công?
Hiền khẽ lắc đầu.
- Không phải màn
bạc và cũng chẳng phải sân khấu. Ta ra sông, xem trăng lên. Tối thứ bảy đúng
tuần trăng. Có gì đẹp bằng lúc trăng lên hở anh!
Mặt trăng hiền từ lên cao dần từ cửa
sông, tỏa ánh sáng dịu dàng, ngọt ngào cho thế gian. Mặt sông lăn tăn sóng gợn,
đón nhận ánh trăng như được tráng kim… Trăng lên dần, khoan thai - Vạn vật như
nín thin, sợ rằng động đậy có làm trăng rụng mất. Thiên nhiên chìm đắm, mơ
màng.
Lúc này đây, Liêu và Hiền đang bên nhau
ngồi ngắm cảnh trăng lên bên bờ sông Bạch Đằng, thì ở nơi xa kia, làng Phước
Sơn, một miền quê đã trở lại yên ả sau chiến tranh, những bánh xa quay tơ, xe
chỉ cũng đang cần mẫn quay tròn theo đôi tay dẻo mềm của các cô gái… Hoa, Thìn,
cùng các chị em vẫn có thói quen xem nhau cùng kéo sợi vào những đêm trăng
sáng. Vừa làm việc, vừa hát ví, âu cũng là một nét sinh hoạt văn hóa của thôn
làng. Bỗng trăng rọi qua vườn cây đan hoa lên tà áo nhiều màu của các cô gái…
Cách mảnh sân kéo sợi của các cô đội
vài ba khoảnh vườn, có một tốp thanh niên ngồi gốc mít, tay cầm quạt mo cau phe
phẩy, cất giọng ví:
- “Nói rằng, trăng sáng, sao thưa…
“Công anh nay đón mai chờ…
“Nên chăng em cũng nói, đừng làm ngơ,
cực lòng…”
Các cô gái kéo sợi đáp lại ngay:
“Thuở xuân xanh, anh không gắn bó
“Hỏi bây giờ, em có chồng rồi
anh mới đón ngõ trao thư
“Thôi thôi nhân ngãi chi giờ
“Em có chồng rồi như đạo… bùa trừ dán
tay…”
Câu hát giọng hò đêm nay của các cô gái
phải chăng cũng là tình cảm thủy chung của họ khi đã nhận lời với ai, ít ra thì
cũng là tâm trạng của Hoa trong ngày tháng chờ mong da diết này…
Bên bờ sông Bạch Đằng, trăng rọi tỏ vào
hai gương mặt Hiền và Liêu. Liêu liếc nhìn Hiền, không rõ đang có những suy
nghĩ gì sau vừng trán nhỏ dưới lớp tóc con mềm mại rủ xuống?...
- Đôi mắt bồ câu của Hiền với hai hàng
mi dài sẫm lại trên gò má, đang đăm đắm nhìn về đâu?
Rồi đột nhiên, đôi môi mọng của Hiền hé
cười:
- Sao người ta hay thề nguyền với nhau
dưới trăng anh Liêu nhỉ?
Liêu lúng túng:
- Tôi… cũng không hiểu. Núi có thể đổ,
sông có thể thay dòng, còn trăng, hết vơi lại đầy, chẳng bao giờ cạn… có lẽ là
vì thế.
- Vậy, anh Liêu từng thề với ai chưa?
Liêu nhìn ra xa về phía trước, cả một
khung trời sâu thẳm. Đầy núi đá chạy từ Bãi Cháy về nhấp nhô, nhấp nhô, kéo dài
tựa một con tàu khổng lồ chạy không ngừng qua bao nhiêu thế kỷ. Cây hải đăng ở
cửa biển vẫn lập lòe tắt đỏ…
Liêu trả lời hơi lấp lửng:
- Tôi chưa thề với ai, mà cũng chưa ai
thề với tôi.
Hiền ngồi làm thinh.
Liêu cảm thấy mình như vừa nói dối nên
phải tâm sự cho bạn hiểu thêm mình:
- Trước đây vài ba năm, tôi có yêu một
cô gái ở làng Phước Sơn tên là Hoa. Mối tình đầu ấy khá đẹp và tôi tưởng sẽ bền
vững. Nhưng không ngờ, lần ra trận tôi ghé lại Phước Sơn để thăm Hoa, chính là
lần mà tôi gặp Hiền trên goòng đó thì làng không còn nữa, bom đạn đã phá nát,
gia đình cô ấy cũng đã dời đi nơi khác.
Hiền rõi theo câu chuyện khá chặt chẽ,
lên tiếng ngay:
- Rồi anh ngại không đi tìm.
- Điều đáng ngại là chỗ này, nói là đau
khổ mới đúng, tôi đã gặp được một người làng, họ cho hay tin cô ấy đã lấy
chồng, sắp có con…!
Liêu hắt một hơi dài, lòng bỗng bồn
chồn cứ như chuyện vừa xảy ra.
Hiền hỏi:
- Do đó, anh không dám tìm đến gia đình
cô ấy nữa chứ gì?
Liêu gượng cười.
- Đến làm gì nữa. Khéo không lại vớ
được mấy cán chổi của chồng cô ấy.
Hiền kêu lên:
- Anh quá lắm! Nói năng tàn nhẫn cả với
mình!- Hiền trở lại mạch câu chuyện, giọng có vẻ khích kháy – Hèn chi… tôi nhớ,
dạo đó anh kiêu căng, cao đạo hình như để giữ thủy chung với cô ấy…
Liêu chua chát:
- Có chuyện thủy chung thật sao, Hiền?
- Sao lại không! Nhưng thôi, đừng buồn
nữa. Chẳng qua vì hoàn cảnh. Chiến tranh, ai biết thế nào mà đợi, mà chờ anh…
Hiền cúi xuống, bứt một nụ hoa cỏ đưa
lên ngắm qua ánh trăng, rồi như thế cô chỉ trò chuyện với Hoa.
- Còn tôi, cũng như anh, trước đây đã
đem lòng yêu một người, là chiến sĩ khá đẹp trai…
Liêu trở lại nhìn Hiền trong khi Hiền
vẫn nhìn vào nụ hoa cỏ, trò chuyện:
- … Tôi cũng chỉ gặp anh ấy mới một
lần, thậm chí chưa biết tên nhau, cho tới nay…
Liêu:
- Như thế đã là tình yêu?
- Vâng… là một tình yêu đơn phương… chỉ
là yêu trộm, nhớ thầm, mình biết lấy mình.
- Vậy bây giờ, anh ấy đang ở đâu?
- Gần đây, đã được gặp lại nhau. Song…
trước mặt tôi, anh ta vẫn cứ làm thinh…
Liêu càng nhìn rõ kỹ gương mặt Hiền,
như cố đọc trong đôi mắt bồ câu đầy mơ mộng ấy cái điều bán tín bán nghi vừa
nảy sinh trong lòng mình.
Hiền lại lên tiếng:
- Anh Liêu, kể tiếp chuyện về anh nữa
đi, từ đấy anh mang mãi “vết thương lòng” chưa được ai băng bó? - Hiền tựa hẳn
mình vao Liêu, đầu như nghiêng vào vai Liêu…
Liêu nóng ran, một sự thôi thúc đối với
anh. Liêu lên tiếng:
- Hiền!
- Anh nói đi!
Liêu đánh bạo:
- Hiền có thể giúp tôi…
- Băng bó lại “vết thương lòng” - Hiền
tiếp. Và, sau đó giọng trở nên bâng quơ - Tiếc rằng, anh nói với tôi điều đó
hơi muộn… tôi đã. - Một cảm giác kỳ lạ dâng lên trong tâm hồn Hiền, lâng lâng…
Liêu thở dài, buột miệng:
- Tôi lại vẫn là người không may mắn.
Hiền gần ở tư thế ngồi ngả hẳn vào
Liêu, nhẹ đưa tay lên, mân mê ở ngực áo Liêu, cài lại cái khuy, vuốt cho ngay
ngắn cái nắp túi áo… Cô ngước nhìn lên thấy rất rõ nét mặt anh đang buồn. Dưới
mái tóc quăn rủ xuống trán, đôi mắt sáng của Liêu giờ trở nên sâu thẳm và đang
nhìn và tận đâu đâu ấy, vô định… Hiền choàng cả hai tay mà ôm lấy khổ vai rộng
của Liêu thầm nói: “Con người rừng” của em ơi, sao anh thật thà đến thế?”.
Bỗng một anh bộ đội từ bến đò đi lên,
băng qua bãi dâu, dáng vội vã đi vào làng. Thìn và Hoa đang cắt cỏ ở mé gò cao.
Vừa lúc Thìn ngừng tay, trông thấy bóng anh bộ đội nọ, liền nhìn theo, gọi to:
- Hoa ơi! Ai giống anh Liêu về kia kìa!
Hoa đứng lên, đưa tay che nắng nhìn về
hướng tay Thìn trỏ:
- Đâu, đâu nào?
- Kia, quá bãi dâu, sát bìa làng ấy…
Hoa nao nao trong lòng, chớp chớp mắt,
bán tín bán nghi nhìn theo bóng anh bộ đội, cũng cao cao, mảnh khảnh tựa Liêu,
đi hút vào làng.
Cùng lúc Hoa và Thìn quay lại nhìn
nhau. Hoa đỏ mặt, cảm thấy xấu hổ. Thìn tự quẹt tay vào má mình, có ý nói với
Hoa:
- Thẹn này! Thẹn này!
Hai người trở lại cắt cỏ. Có thể Thìn
không còn nghĩ gì thêm về anh bộ đội đi vội vào làng ấy! Còn Hoa, lòng dạ càng
xốn xang, tay cắt cỏ, mắt cứ chốc chốc lại nhìn về phía làng như thể nhìn thấu
anh bộ đội bước chân vào ngõ nhà ai.
Hoa bỗng ngừng tay,
gọi to lên:
- Thìn ơi, mình bị
đứt tay, có gì băng được không?
Thìn bỏ liềm, chạy
ngay tới, xé chiếc khăn mùi soa buộc tóc rịt chặt ngón tay Hoa đang chảy máu:
- Tôi biết mà, hồn
vía để cả vào anh bộ đội kia rồi…
Hoa đưa tay phải
đấm đấm mấy cái vào vai Thìn:
- Này! Này!
- Thôi cô ạ - Thìn
vừa băng tay cho Hoa, vừa đùa – Nhanh lên, về mà bóc bánh người đi phép. Nhớ
cất phần mình với nhé.
Không cần phải dấu
bạn phút giây sốt ruột của mình, cỏ chưa đầy gánh, Hoa đã vội vàng:
- Thìn ơi! Đầy cỏ
chưa? Về đi thôi!
Thìn thông cảm:
- Hoa về trước, cẩn
thận không hai chân lại vấp nhau đấy!
Thìn đứng lên, nhìn
theo Hoa gánh cỏ lóc xóc chạy trên đường về làng.
Hoa đặt cỏ xuống
sân, bước vội vào nhà, đảo mắt nhìn quanh, hỏi mẹ:
- Mẹ ơi, có anh bộ
đội người làng mình về phải không?
Tiếng bà mẹ từ
trong nhà vọng ra:
- Thằng Bình chứ
ai! Nó về phép. Nó hẹn sẽ lại chơi ngay có chuyện gì đó nói với mày ấy!
Hoa vứt nón vào bên
góc nhà, ngồi phịch xuống giường, vẻ mặt bơ phờ, mồ hôi tứa ra trên trán chẳng
buồn quạt.
- Người ta về đông
về tây, sao chẳng thấy anh Liêu về? – Hoa nói một mình.
Bà Nhương từ nhà
trong đi ra, thương con, chép miệng:
- Lời nói đổ xuống
sông, xuống bến, không hiểu nó có còn không?
Hoa tái mặt:
- Sao mẹ nói gở
thế! Anh Liêu không chết! Nhất định anh ấy sẽ về nay mai…
Bà Nhương đứng tựa
cột, thở dài:
- Mẹ cũng tin như
thế.
Ngoài sân, Bình đã
đến đúng hẹn, chững chạc trong bộ quần áo bộ đội, túi quần dắt cái khăn mặt
bông trắng tinh, ra chiều lịch sự.
Hoa hớn hở ra sân
đón Bình, giật cái mũ lưới trên tay đội vào đầu mình, học đòi làm bộ đội.
Bình cười:
- Xin cô, thích
lính lắm sao! Tôi thì bở hơi tai rồi.
- Không thích mà
yêu lính?
Bà Nhương đón ở
cửa, vuốt từ mái tóc hoe đỏ đến cái gân áo bộ đội trên mình Bình, khen:
- Dạo này cháu tao
lớn lên nhiều, ngấm cơm cụ Hồ có khác.
Hoa hỏi:
- Bình ơi! Trông
mình có thay đổi gì không?
- Vẫn là cái Hoa
năm nào, lấy chồng vững rồi đó!
Bình ngồi vào phản,
nhìn quanh nhà. Hoa ngồi xuống cạnh Bình, quạt cho Bình bằng quạt lá cọ, lòng
đắn đo. Không biết nên nói chuyện gì đây? Có nên nói đến tin tức anh Liêu chưa?
Có thể cậu ấy biết!
Vừa lúc, bà Nhương
hỏi:
- Dạo nào bảo là
cháu đi thanh niên xung phong sao bây giờ lại là bộ đội, mũ sao đàng hoàng?
- Chuyện rắc rối
lắm ạ, để rồi cháu kể bác nghe sau – Bình sực nhớ - Hoa, lần ở mặt trận có tìm
được anh Liêu không?
- Không phải, là
một ông già cấp dưỡng khác cũng tên là Liêu.
Bình gãi gãi đầu:
- Chán quá. Mình
trông thấy anh ta rõ ràng. Chắc là đã đi rồi hoặc Hoa nhầm đơn vị - Bình bưng
bát nước bà Nhương mời, tu một hơi, nói tiếp - chuyện là thế này: Cháu đang làm
nhiệm vụ giữ kho ở Thà - khẹt, khi địch tấn công chiếm lại, bộ đội bảo đốt kho
để rút lui, cháu không nghe. Sau đó cháu thấy anh Liêu đến. Anh ta không biết
cháu. Anh ta ra lệnh nộp chìa khóa để bộ đội chuẩn bị đốt kho, cháu cũng không
nghe. Thế là anh ta hạ lệnh cho bộ đội trói cháu lại bên gốc cây để tiến hành
công việc. Sợ quá, cháu phải chịu thua và xin đi theo bộ đội luôn.
Hoa vui thích câu
chuyện, hỏi:
- Anh Liêu cấp
dưỡng mà cũng ra lệnh cho bộ đội à? Bình bịa rồi!
- Nói phét thì mình
chết. Dạo này anh ấy tiến bộ lắm, lại đại đội trưởng hẳn hoi.
Đôi mắt đen của Hoa
chớp chớp:
- Giỏi nhỉ. Đại đội
rồi?
Bà mẹ hỏi:
- Thế bây giờ anh
Liêu ở đâu? Sao cháu về mà không rủ anh ấy về cho bác luôn.
- Đánh nhau mãi,
gần hòa bình thì anh ấy bị thương, phải nằm viện mặt trận. Cháu được bổ sung về
đơn vị khác, chưa kịp trò chuyện được gì với anh ấy. Anh ấy đánh giặc giỏi, cả
trung đoàn đều khen. Trận Thà-khẹt nhờ anh ta, cả đại đội đã ra khỏi vòng vây
của mười hai tiểu đoàn địch.
- Khiếp! – Hoa lo
lắng - vậy anh Liêu bị thương có nặng không?
- Nặng. Nhưng nghe
tin nay đã bình thường rồi, đang nghỉ ở đoàn an dưỡng, vừa mổ lại vết thương
lấy đạn ra.
Hoa buồn nghĩ đến
Liêu:
- Trách gì mà không
thấy về. Hòa bình rồi chứ phải đâu… tội nghiệp!
Mọi người lắng lại
một lúc.
Bình cúi xuống nhìn
đôi chân mình đang đung đưa, đế giầy vải cọ vào nhau, phát ra tiếng kêu “cót
két”, bỗng Bình ngước lên hỏi một câu làm Hoa và bà Nhương đến điếng cả người:
- Hoa cũng chưa có
đám nào?
- Chờ anh Liêu, chứ
còn đám nào nữa!
Hoa tỏ ra vô cùng
lúng túng trước câu hỏi của Bình, làm cứng mà trả lời vậy thôi. Nhưng, chính
câu trả lời của Hoa lại đã làm Bình bối rối. Anh ta như định nói ra một điều gì
thật là khó nói…
Nhưng rồi cuối
cùng, thương bạn, Bình cứ phải nói thật với bạn cái điều mình vừa nghe được.
- Cháu nghe tin,
chưa thật đích xác, hình như anh Liêu đã yêu một cô văn công ở đoàn an dưỡng
rồi.
Hoa tái mặt:
- Thật không Bình?
Bà Nhương gượng nhẹ
hơn:
- Cháu nghe ai nói,
lâu chưa?
- Cũng mới thôi ạ.
Đơn vị cháu có người an dưỡng ở chỗ anh Liêu mới về, vui mồm ngồi kể chuyện o
văn công xinh đẹp nào đó lại bật ra chuyện anh Liêu, cũng chỉ là tình cờ.
Hoa không còn giữ
được bình tĩnh nữa, toàn thân run lên bần bật. Định mở miệng nói điều gì đó, cô
lại bật khóc:
- Anh Liêu!
Không kìm nổi xúc
động, đau khổ. Hoa bỏ Bình ngồi lại với mẹ, chạy vào trong nhà, nằm ấp mặt
xuống giường, nấc lên từng chặp, cứ như đứa trẻ bị đòn oan.
Bà Nhương cũng chỉ
biết ngồi lặng, lắc đầu, thở dài…
Bình nói thêm với
bà Nhương:
- Cháu sẽ bàn với
Hoa, gửi thư ngay cho anh Liêu xem hư thực ra sao?
Những nếp nhăn trên
gương mặt già nua của bà Nhương như càng dày thêm, có điều gì cay đắng thì
phải.
- Bác cũng không
hiểu thế nào nữa. Một, hai, nó cứ nói là chờ đợi anh ấy. Bây giờ… theo bác,
cháu nên vào nói với nó, hãy bình tĩnh… khuyên nó một lời. Bác thương nó quá…
Bà Nhương cũng trào nước mắt ra.
Bình vào nhà trong,
dè dặt đến đứng cạnh giường Hoa đang nằm nức nở. Anh giữ cho giọng nói của mình
không lây buồn:
- Hoa ạ, tôi biết
địa chỉ anh Liêu. Anh ta đang ở đoàn 90 an dưỡng ở Quảng Yên, Hoa hãy thật bình
tĩnh mà biên ngay cho anh ấy một lá thư…
Hoa càng nấc lên:
- Bình ơi! Lẽ nào
lại như vậy… Bình có tin như thế không? Anh ấy từng… bảo tôi chờ… Tôi vẫn chờ
anh ấy về… lẽ nào..? Sao có chuyện như thế được? Bình nghe ai nói? Không!
Bình lúng túng:
- Cũng chỉ là tình
cờ… tôi biết tin đó…
Hoa như muốn nói to
lên:
- Tôi không tin như
vậy! Anh Liêu…! Em vẫn đang chờ anh…!
Câu chuyện khổ đau
của Hoa đã có một số người trong làng biết. Và kẻ thính tai nhất lại là bà
Thành. Vào ngày hôm sau, bà Thành đã lân la sang chơi nhà bà Nhương, trong khi
Hoa không còn nghĩ gì đến ăn uống, nằm lì trong nhà khóc sưng cả mắt, không dám
bước ra khỏi cửa.
Nghe bà Thành tìm
cách hỏi han mãi, bà Nhương đành trả lời:
- Cũng chỉ mới nghe
thằng Bình về phép nói, hình như anh Liêu mà con Hoa từng hẹn chờ đợi, giờ đã
tìm hiểu một chị văn công rồi.
Bà Thành chép
miệng, làm bộ thương cảm:
- Người thiên hạ,
người tứ xứ là thế đó, “thân anh như con chuồn chuồn, nơi mô vui thì đậu, nơi
mô buồn thì bay”. Vui mồm thì họ hứa yêu thương. Đi ra thiếu chi nơi hơn mình…
Bà Nhương sầu muộn:
- Cha mẹ không ép
được con, nên tôi đã thuận cho nó chờ anh Liêu. Tôi nghĩ rằng, anh ấy đã cứu
sống nó, lại có ý định xây dựng với nó. Con Hoa thì cũng tỏ ra thương yêu anh
ấy. Lứa đôi như thế là đẹp, tình nên tình, nghĩa nên nghĩa. Ai ngờ, chuyện cứ
như mía có sâu giữa đốt!
Bà Thành nong hai
bàn tay vào tà áo, rồi bước vào nhà trong, ngồi xuống cạnh giường, tìm lời an
ủi Hoa:
- Thôi cháu ạ, con
không nghe mẹ nghe cha là thế đó. Nhưng chuyện đã rồi có khỏe than mấy thì anh
ta cũng chẳng biết mà trở lại. Không lấy được họ, mình cũng chẳng ế!
Hoa vẫn nằm quay
mặt vào vách. Tóc rối xõa trên gối.
Bà Thành nhẹ đưa
tay vuốt vuốt mái tóc rối của Hoa: - Bán buồn mua vui, cháu ạ. Không lấy chồng
xa, ta lấy chồng gần, càng vui cửa vui nhà, tắt lửa tối đèn có mẹ có con, có
chị em làng xóm…
Bà Thành định tranh
thủ lúc Hoa đau khổ, có thể dễ yếu lòng “tấn công” thêm một lần nữa, mong kéo
Hoa gần lại với Luyến, con cưng của bà. Thấy đôi vai Hoa như đang rung rung,
kìm dần tiếng khóc, bà Thành đắc ý, hy vọng:
- Kể ra cũng tủi
thân… Công lao cháu mấy năm trời chờ đợi... Anh ta thật là giả
dối, bạc bẽo… Nhưng chẳng cần, cháu ạ. Mình có danh dự của mình. Con trai làng
này thiếu chi đứa vừa đôi phải lứa cháu. Thằng Luyến nhà bà sắp về nghỉ đấy. Nó
cũng đang hy vọng ở cháu…
Nghe bà Thành tìm lời “an ủi” mà cứ như
cầm dao bầu chọc vào ruột, không chịu thấu nữa, Hoa liền ngồi phắt dậy, nét mặt
trở nên giận dữ:
- Tôi cấm bà nói xấu anh Liêu. Bà không
có quyền nói gì về anh ấy! Bà thôi kiểu nói năng ấy đi, xin bà để cho tôi được
yên thân!
Bà Thành cụt hứng, nhếch mép cười một
nụ cười nhạt hơn nước ốc. Bà lại nong đôi bàn tay vào thân áo, lê đôi guốc lẹp
kẹp đi ra khỏi chỗ Hoa ngồi…
Tại an dưỡng đường.
Đêm nay trời dông nên ít ai ra chơi bên
ngoài, nhóm chơi tổ tôm, nhóm đánh tú-lơ-khơ, cờ tướng, đập quân chí chát, cũng
có nhiều người nằm dài đọc sách, phụ nữ thì đan lát khâu vá, có nhiều cô cay cú
với “Át-rô”, “K cơ”…
Ở câu lạc bộ, có một số chị em đang tập
hát, chuẩn bị tiết mục cho liên hoan văn nghệ. Ngọn đèn trên trần nhà đang
chiếu sáng vào ngót chục gương mặt những cô gái tươi trẻ với những đôi mắt lim
dim, những miệng hát tươi tắn. Cô gái ôm đàn ghi-ta, đứng bên phải tốp ca, có
hai giải tóc đuôi sam chạy dài xuống ngực là Hiền. Đôi bàn tay mềm mại của cô
lựa phía dây đồng rung lên những âm thanh trầm bổng ấm áp, đệm cho chị em hát
“Ca-tơ-ri-na gửi người chiến sĩ biên thùy”, một bài dân ca tình tứ của nước
bạn. Tiếng đàn giọng hát tỏa ấm gian phòng.
Bỗng có tiếng gõ cửa. Tiếng gõ cửa nghe
mạnh, khẩn cấp. Hát xong rồi mới có một người lên tiếng:
- Vào!
Cánh cửa hé mở. Một thanh niên xuất
hiện. Thoáng thấy đầu tóc quăn, Hiền thừa biết là ai, mỉm cười.
Liêu lên tiếng:
- Xin lỗi các đồng chí, cho tôi gặp cô
Hiền.
- Hiền ra đi! – Ai đó lên tiếng.
Hiền trao đàn lại cho người khác, đỏ
tai, hơi ngượng ngùng, đi ra với Liêu. Ra tới sân, Hiền âu yếm phê bình:
- Lần sau anh nên biết ý tứ, kín đáo
một tí. Công khai kiểu này, người ta cười em…
- Vì có việc cần gặp Hiền ngay!
Hiền hiểu được trong lời nói và thái độ
của Liêu có điều gì đó không bình thường, hỏi:
- Gặp nhau bao lâu?
- Có thể lâu.
- Vậy… để em vào… bảo với các chị em
nghỉ tập.
- Được, tôi chờ đây.
Đêm nay không có trăng, chưa lên thì
đúng hơn, còn sao thì hầu hết bị mây che khuất. Cả bầu trời mây gợn vảy tê tê,
man mát…
Hiền ở câu lạc bộ đã trở lại và đang
cùng Liêu đếm bước trong bóng đêm xám xịt mầu chì. Hiền đi sát Liêu chốc chốc
lại nhìn ngước lên mặt anh, cô đọc sớm được điều có vẻ không lành vừa đến với
Liêu… còn có thể cả với Hiền. Bước chân hai người nặng nề đi trong gió. Gió
cuốn bụi quất vào tường, của doanh trại nghe ràn rạt. Ánh đèn đóng từng ô vuông
màu vàng dãy dài trên tường doanh trại. Ánh đèn các ô cửa vọt ra cứ như lia,
như quét, cản giữ bước chân của hai người.
Liêu và Hiền lặng lẽ đem nhau lên ngọn
đồi phía sau doanh trại và cùng ngồi vào chỗ cũ mà họ vẫn quen ngồi trò chuyện.
Giờ đây, họ đang ngồi bên nhau, không còn bồi hồi, bâng khuâng nữa mà trong
lồng ngực mỗi người như có chứa một thứ gì giống như chất nổ, chất cháy, đến là
khó thở.
Cây hải đăng vẫn thủy chung với tàu
thuyền bên bờ, lập lòe khi tắt khi đỏ… Dòng sông Bạch Đằng trở nên vắng lặng.
Dãy núi đá trầm mặc soi bóng xuống sông. Chỉ có chân trời phía tây sau lưng họ
là đang có sấm chớp liên hồi.
Như thể không chịu đựng được nữa cảnh
im lặng nặng nề, Hiền phải lên tiếng hỏi:
- Chắc có chuyện chẳng lành, phải không
anh?
Liêu cúi mặt, chưa trả lời được.
Trời bỗng dưng tắt gió. Khí hậu trở nên
đột ngột oi bức. Có thể gió đổi chiều và cũng có thể giông sắp cuốn đến nơi
đây.
Liêu trao cho Hiền một tờ giấy và đưa
tiếp cây đèn pin đem theo. Hiền run run hai bàn tay đón nhận những thứ Liêu
trao cho, biết rằng đang tiếp nhận một chuyện gở, một điều bất hạnh. “Cầu
Chúa”.
Tờ giấy Liêu vừa trao cho Hiền chính là
lá thư mà anh vừa nhận được sáng nay – thư của Hoa. Khi cầm lá thư, đọc thấy
tên người gửi, Liêu mừng quýnh lên xé vội thư. Lá thư ngắn ngủi đã làm cho tình
cảm Liêu quay cuồng đảo lộn… đầu óc căng lên một cách đột ngột. Liêu có cảm
giác như đứng trước một vùng gió xoáy.
Vừa nhận được thư. Liêu đứng ngay tại
thềm nhà đọc luôn. Chừng như bây giờ anh chỉ đủ sức bước vào đến ván nằm để vật
mình xuống trong bải hoải, rã rời. Bữa trưa và cơm vào miệng mà như ăn trấu, ăn
cát. Thường lệ, buổi chiều, Liêu có thể ra chơi thể thao, đi dạo với bạn bè,
với Hiền. Chiều nay, một mình anh bỏ ra khỏi doanh trại đến ngồi ở quán cà phê.
Và có lẽ, cà phê vẫn rất dễ chịu hơn bất cứ một tiếp xúc, trò chuyện nào đối
với Liêu lúc này. Đến tối, cho dù đã được Hiền báo trước là cô bận tập hát Liêu
vẫn quyết định tìm gặp Hiền.
Lá thư và ánh sáng ngọn đèn pin trên
tay Hiền cứ run lẩy bẩy như giông đang đổ đến. Những dòng chữ mực tím đậm nét
cũng đang run theo ánh đèn:
Anh Liêu,
Gần ba năm nay, bây giờ em mới có địa
chỉ mà viết thư cho anh. Địa chỉ Bình, người làng em về phép cho biết, không rõ
ràng, chắc chắn mấy, nhưng em cứ gửi, may ra thư đến được tay anh.
Anh ơi! Nghe nói anh có người yêu mới
rồi phải không? Quên em rồi hở anh? Anh nói, anh thương em, hãy chờ anh về, em
vẫn nhớ và chờ đợi anh. Hay là, hồi trước yêu em, anh còn là một cấp dưỡng, bây
giờ anh tiến bộ, thành trung đội, đại đội, nên đã quên em… yêu người khác có
học thức hơn… Đằng đẵng ba năm chờ đợi anh, riêng mình em chịu đau khổ… Em
không biết có tin được lời Bình nói không…”
Đọc đến đây, nước mắt Hiền chảy trượt
qua má nhỏ xuống lá thư. Vốn là cô gái đa sầu đa cảm. Hiền không sao cầm nổi
nước mắt. Hẳn rằng, lá thư trên tay Hiền thấm hai hàng nước mắt.
Hiền đọc tiếp:
“Thư em viết lộn xộn… Yêu anh trong
kháng chiến trường kỳ, không biết đến bao giờ anh trở lại, người bộ đội sống
rày chết mai, vậy mà em chẳng hề nghĩ đến, chỉ một lòng chờ đợi anh. Chẳng lẽ
bây giờ anh nỡ phụ em? Đừng bỏ em. Em tin rằng anh vẫn thương em như trước… em
cũng vậy.
Nhận được thư này, trả lời ngay cho em.
Chờ thư anh từng ngày, từng giờ.
Quảng Bình ngày…
Em của anh:
Phan Thị Hoa”
Đọc xong thư, Hiền tắt đèn, cắn môi,
ngồi lặng, nhận biết được lòng mình đang tê dần, tê dần, nghe tiếng tim mình
đau đau, thổn thức. Vẫn cầm lá thư và cây đèn trên tay. Hiền cúi đầu, chưa nói
được với Liêu một lời nào.
Liêu cũng vậy, cúi đầu như kẻ đứng trước
vành móng ngựa chờ lời phán xét.
Thời gian chậm chạp, nặng nề trôi…
Chớp lóe sáng. Một tiếng nổ xé trời. Cả
Hiền lẫn Liêu đều giật mình. Vẫn chưa ai nói được với ai một lời nào. Tiếng sấm
rền từ góc trời phía tây dội đến tưng tức, nghe như phát ra từ một sự đổ vỡ nào
đó.
Thế rồi, Liêu ngước lên, nhìn ra xa
xôi, nói giọng thú tội:
- Tôi không ngờ… Hoa vẫn chờ… Thì ra ai
đó đã nói sai… để tôi phải…
Trong khi đó, Hiền bó gối, gục đầu vào
đôi cánh tay mình, hình như không kìm nổi nữa, đôi vai tròn của cô đang rung
lên cùng với những tiếc nấc.
Liêu lúng túng, bối rối:
- Hiền! Tôi xin Hiền, đừng nên…
Bây giờ Hiền mới ngước lên với Liêu,
giọng đầy nước mắt:
- Em khóc cho người con gái… ba năm
trời chờ anh… khóc cho cả… mối tình đầu của em…
- Hiền! Tôi không phải Sở Khánh…! Sự
tình ra sao tôi đã kể cho Hiền nghe.
Hiền lắc đầu:
- Đàn ông các anh…
- Tôi thề…
Hiền nhìn thẳng mặt Liêu:
- Anh lại thề chung thủy suốt đời với
tôi…?
Liêu lấy làm cay đắng:
- Không, tôi thề rằng, không bao giờ
tôi biết lừa dối ai…
Đã dần qua phút xúc động, Hiền bình
tĩnh hơn trong từng lời:
- Vậy… bây giờ anh nghĩ sao, nói cho
Hiền hay.
Bóng đêm lúc một dày đặc, nặng nề như
một cái chảo khổng lồ úp chụp xuống mặt đất. Chớp từ phía sau rọi tới càng làm
cho gương mặt Liêu cũng như Hiền nặng trĩu u ám! Mới ngày nào, cũng trên ngọn
đồi này, ở chỗ ngồi quen thuộc này, hai người từng trao đổi tâm tư, để dẫn đến
tình yêu ở buổi chờ trăng lên. Tưởng rằng mối tình của họ sẽ đẹp mãi cảnh trăng
nước. Hẳn rằng, chưa bao giờ, dầu chỉ trong khoảnh khắc, họ nghĩ sẽ có bão táp
đến với tình yêu.
Trước Hiền bây giờ, sao Liêu có tâm
trạng như mình là đứa em nhỏ vụng về đã nhỡ làm một việc sai, chờ những lời quở
trách nghiêm khắc của chị.
- Anh Liêu… khi thổ lộ tình yêu… có thể
khó nói.. Nhưng bay giờ… anh là người đàn ông…
Hai phút, ba phút, kim đồng hồ chậm
chạp quay tròn trên tay Liêu. Hiền lấy mùi soa thấm nước mắt. Đoạn cô nhìn vào
mặt Liêu… Qua ánh chớp nhìn không rõ ràng lắm, chừng như cũng có nước mắt đọng
ở khóe mắt Liêu. Hiền thấy chạnh lòng, thương Liêu, đưa khăn lên, thấm nước mắt
cho Liêu.
Liêu hơi giật mình: “Sao mình yếu đuối
đến thế!”. Liêu bỗng ngồi ngay người lên, choàng cánh tay rắn rỏi qua vai Hiền,
lay mạnh:
- Hiền!
- Dạ.
- Anh nói thế này với em, mà chính lòng
anh cũng vô cùng day dứt. Em có thể tha thứ cho anh được không? Anh biết, không
phải chỉ mới những ngày gần đây mà em đã thầm yêu anh từ hồi hai đứa chưa biết
tên nhau… Nhưng, anh đã nói lời yêu thương trước với Hoa, Hoa cũng đã yêu anh,
chờ anh, đọc thư Hoa hẳn em đã biết. Anh không thể bỏ Hoa được. Anh biết anh có
tội nhiều với em… - Đã lại có gì ngập ngừng trong Liêu – chính anh cũng phải
chịu khổ đau…
Hiền lại ứa nước mắt:
- Anh nói tiếp đi, em nghe đây!
- Anh tin rằng… em sẽ có nghị lực… của
người quân nhân… Còn Hoa… người con gái nông thôn… đã nhiều năm, chờ đợi anh…
Hiền vẫn đang khóc trong cánh tay Liêu.
Cô nhìn như soi gương vào mắt Liêu. Cô đưa tay nhẹ vuốt lên mái tóc rễ tre rối
bời của Liêu. Chừng như cô rất thương Liêu, không muốn để anh bị dày vò nhiều…
Tình yêu thật là khó xử! “Anh nói đúng, em sẽ có nghị lực của người quân nhân.
Nhưng, anh thương… ai mà không đau lòng trước mất mát, đổ vỡ…”.
Hiền cố lấy hết bình tĩnh, cứng rắn để
nói, nhưng không được, tiếng khóc đã lại đi trước. Cô áp mặt vào ngực Liêu mà
nấc lên từng hồi. Đôi cánh tay mềm mại thường ngày uốn éo trước mắt Liêu, ném
quả bóng vào rổ cũng đẹp, giờ như xiết chặt lấy mình Liêu không muốn rời.
Liêu chỉ biết vuốt nhẹ mái tóc Hiền.
Tiếng nói của Hiền đang cố chẹn tiếng
khóc:
- …Thôi… anh Liêu…! Anh xin phép mà về
với Hoa… Em… sẽ ráng chịu… một mình nhận lấy khổ đau…
Thật sự bây giờ nước mắt Liêu mới nhỏ
giọt, nhỏ giọt nóng hổi xuống má Hiền… Vừa thương vừa cảm phục đối với Hiền… Cũng
không rõ, hai người còn ngồi lại bên nhau cho đến bao giờ. Kẻng ngủ chừng như
đã vang lên trên doanh trại từ lâu, đèn điện nơi tỉnh lẻ này cũng đã tắt.
Thế rồi, sau đấy mươi hôm, vào một buổi
mai, trên bến Vân Đồn, nắng sớm chan hòa đó đây, không gian được nhuộm một màu
hồng phơn phớt, gió từ biển xa đưa vào lồng ngực từng con người một cảm giác
mát ngọt, sông Bạch Đằng mở rộng lòng cho hàng trăm cánh buồm chạy vát gió ra
khơi, kết hợp nghỉ phép và nhận công tác ở đơn vị, Liêu được về thăm Hoa. Anh đang
siết chặt tay bạn bè, nói lời giã biệt. Dưới bến sông chuyến tàu thủy Hồng Gai
- Hải Phòng máy vẫn nổ rền, cất tiếng còi thúc giục.
Chờ tạm biệt với bạn bè xong, Hiền trao
ba lô cho Liêu.
Khoác ba lô vào vai, hai bàn tay Liêu
nắm chặt lấy đôi bàn tay nhỏ mềm của Hiền, không nói nên lời.
Hiền cắn môi, muốn kìm nước mắt lại
từng giây nghẹn ngào…!
Cầu tàu đã hết người lên xuống. Đau khổ
trào lên tiếng nói, giọng Hiền run run:
- Anh về… hạnh phúc tốt đẹp!
Liêu cố lấy giọng rắn rỏi:
- Chúc Hiền vui mạnh. Tình bạn chúng ta
bền vững.
Liêu bước xuống tàu. Con tàu lại tu còi
vang vang, nhổ neo, quay mũi, rẽ sóng về Hải Phòng để lại bến Vân Đồn vắng
lặng. Liêu ngoái lại với bến. Trên bến người đứng lại sau cùng là Hiền, người
bạn gái quý giá của Liêu đang vẫy chiếc khăn ướt nước mắt giã biệt anh…
Thuyền bè hai bên sông như đang chạy
lùi lại sau con tàu. Trên mặt nước, những chiếc phao dẫn đường đỏ đỏ, trắng
trắng quay mình trên mặt nước, hớn hở chào khách trên tàu.
Liêu ngồi trong tàu, hình dung giờ phút
về đến làng Phước Sơn: Hoa đang ngồi dệt, vứt cả con thoi, vùng chạy ra đón anh
giữa đôi bờ chè mạn hảo xanh tốt. Đôi mắt đen dương to, chảy dòng nước mắt yêu
thương và hờn dỗi. Anh dang rộng vòng tay đón Hoa. Hoa áp má vào ngực anh, nghe
tiếng tim anh đập rộn ràng, lúc bây giờ anh sẽ nói: “Hoa, anh có lỗi nhiều với
em!”. Hoa ngước mặt lên nhìn anh, lắc đầu, vành môi thắm run run xúc động:
“Không! Anh về với em đây rồi, về với Hoa, với làng Phước Sơn, về với mùa hoa
dẻ nồng nồng, say say hương thôn dã…”.
Con tàu rẽ sóng trên sông. Sóng đưa
nhau chạy dài vào bờ.
(Viết xong tại Quảng Bình tháng 4 –
1957)