XIN CHÀO VÀ CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ ĐẾN VỚI BLOGSPOT.COM CỦA LUU VAN CHUONG

Thứ Bảy, 28 tháng 10, 2023

Khái quát về Đạo Cao Đài



Giáo sư Lê Quang Sách

(Cao Đài giáo Hải ngoại, 2007)

CHƯƠNG I: Ý NGHĨA của HAI CHỮ CAO ĐÀI

Giống với hầu hết mọi từ ngữ, hai chữ Cao Đài vừa tượng trưng cho một thực tại vừa bao hàm khái niệm. Tuy thế, hơn hẳn các từ ngữ khác, hai tiếng Cao Đài chứa đựng một nội dung thiêng liêng vì đó là danh xưng của một tôn giáo hiện có hơn bốn triệu tín đồ trên địa cầu và hàng ngàn thánh thất, tịnh thất ở trong nước Việt Nam cùng trên khắp thế giới tại những đô thị lớn có người Việt hải ngoại cư ngụ. Giáo thuyết của tôn giáo này được trình bày giản dị mà sáng sủa trong các văn bản Việt ngữ và Pháp ngữ, Anh ngữ, Đức ngữ, v.v. 

Vậy Cao Đài là gì? Cao là ở trên cao, cũng có nghĩa là tài giỏi. Đài là cái đài, cái tháp.

Trước tiên, Cao Đài có nghĩa là một cái đài cao đặt ở cõi thiêng liêng, nơi Đấng Thượng đế Chí tôn ngự mỗi khi Ngài chủ trì Đại hội Thiên cung.

Thứ đến, Cao Đài mang ý nghĩa tối thượng, trọng đại hơn mọi sự vì đó là danh xưng của chính Ngọc hoàng Thượng đế, Đấng Chí tôn. Ngài là Thầy, là Đấng Tạo hóa cõi vũ trụ, trong đó chúng ta cùng với muôn loài muôn vật đang sống. Ngài là Đấng Tạo dựng các vị giáo chủ, cũng là vị hiền phụ của chư Thần, Thánh, Tiên, Phật khắp Càn khôn Vũ trụ.

Sau cùng, Cao Đài còn là tên gọi được Đấng Chí tôn đặt cho một tôn giáo do chính Ngài đích thân thành lập và trực tiếp ban thánh ý mọi mặt, đó là: Cao Đài Đại đạo Tam kỳ Phổ độ.

CHƯƠNG II: LƯỢC SỬ ĐẠO CAO ĐÀI

Lịch sử xuất hiện của đạo Cao Đài gắn liền với tên tuổi của Đức Ngô Văn Chiêu, người về sau được cung kính gọi là Ngài Ngô Minh Chiêu (1878-1932).

Ngài có xuất xứ từ một dòng dõi quan lại ở Huế, đến đời thân phụ là ông Ngô Văn Xuân thì đã suy nên chuyển tới cư ngụ tại khu Hòa Hưng (Sài Gòn), sau đó ông kết hôn với bà Lâm Thị Quý, còn có tên gọi là Lâm Thị Tiền; Đức Ngô Văn Chiêu là con trai duy nhất của ông bà. Ngài ra đời trong quãng thời gian song thân chạy loạn lên tạm cư ở Bình Tây, Chợ Lớn. Học xong trường Chasseloup Laubat, Ngài vào làm công chức tại Dinh Thượng thư Nam Kỳ [tức Nha Giám đốc Nội vụ (Direction de L’Intérieur) thời Pháp thuộc; nay là tòa nhà trụ sở Sở Thông tin-Truyền thống và Sở Công Thương, địa chỉ số 59-61 Lý Tự Trọng, quận Nhất, TP HCM, ngay góc đường Đồng Khởi]. Trong thời gian làm việc, Ngài nổi tiếng là người cực kỳ liêm khiết; tính nết trầm tĩnh thanh cao khác hẳn những kẻ mê danh tham lợi, vì vậy Ngài rất được người đời mến phục.

Vào thập niên 1910, trong thời gian Đức Ngô Văn Chiêu chuyển về làm việc tại Tòa Hành chánh tỉnh Tân An, ở đó chớm nở phong trào cầu cơ thỉnh Tiên. Sốt sắng hưởng ứng phong trào đó, Ngài thường chung tay với các thân hữu, cùng nhau xây đàn cầu cơ để cầu xin các bài thuốc chữa bệnh. Năm 1920, trong một lần cầu cơ, Ngài được một vị Tiên Ông nhập cơ, tự xưng là Tiên Ông.

Tới tháng 10 năm 1920, sau tám tháng làm việc tại nhiệm sở mới là Tòa Hành chánh tỉnh Hà Tiên, Ngài Ngô Văn Chiêu thuyên chuyển ra đảo Phú Quốc làm quận trưởng suốt bốn năm liền. Trong thời gian này, Ngài thường lên núi Đơn Dương cầu cơ thỉnh Tiên. Có một vị Tiên Ông giáng cơ yêu cầu Ngài rằng nếu chịu ăn chay, bắt đầu và liên tục suốt mười ngày, rồi tiếp đó, trường trai suốt ba năm, thì vị ấy sẽ thu nhận Ngài làm đệ tử.

Theo lời kể lại trong cuốn Lược Sử Đạo Cao Đài của Hội thánh Truyền giáo Cao Đài in năm 1956 tại Đà Nẵng thì:

“Ngài [Đức Ngô Minh Chiêu] bắt đầu trường trai học đạo kể từ ngày 8.2.1921 và Ngài được Tiên Ông chỉ giáo về tâm pháp bí truyền và dạy lo tu luyện để chờ tới ngày khai đạo.

“Trong thời gian tu luyện Ngài đã chứng ngộ được nhiều điều huyền diệu thiêng liêng kỳ lạ. Một chiều nọ, trong khi đang đi dọc theo ven biển trong trầm tư mặc tưởng, Ngài bỗng thấy xuất hiện ở chốn xa xa cảnh giới bồng lai rất thanh tịnh trang nghiêm và đẹp đẽ.

“Cũng trong năm 1921 (Canh Thân) ấy, một hôm, trong khi Ngài đang ngồi trầm tư mặc niệm tại nhà mình, bỗng nhiên có một ‘Con Mắt’ sáng ngời muôn vạn ánh hào quang từ xa hiện đến chói lọi trước mắt Ngài, mỗi lúc một gần, rồi dần dần biến mất.

“Sau đó trong một đàn cơ dạy đạo, Tiên Ông ấy mới xưng rõ ràng danh hiệu của mình là Ngọc hoàng Thượng đế, tá danh Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ tát Ma-ha-tát giáng trần chuyển khai Đại đạo kỳ ba [Tam kỳ] và dạy Ngài vẽ một Thánh Nhãn [còn gọi là Thiên Nhãn] y như Ngài đã được thấy, để thờ làm biểu hiệu của nền Tân Chánh giáo.

“Thế là Đức Ngô Minh Chiêu đã trở nên vị môn đồ đầu tiên của Đức Thượng Đế; Ngài thụ lãnh sứ mạng gieo truyền nền đạo mới tại thế gian.

“Ngày 30.7.1924, Ngài thuyên chuyển về làm việc tại Sài Gòn. Cuối năm 1925 (Ất Sửu) Ngài gia tâm gieo truyền mối đạo mới; trước hết Ngài phổ độ các ông Vương Quan Kỳ, Nguyễn Văn Hoài, Võ Văn Sang, Đoàn Văn Bản và nhiều vị khác nữa nhập đạo.

“Từ đây trên đường tu tiến do Thiêng liêng dạy bảo, Đức Ngô Minh Chiêu đã được ấn chứng rất nhiều về tâm pháp bí truyền Đại Đạo; Ngài đã xuất thần hóa độ những bậc đại căn và nhập cơ dạy đạo nhiều nơi trong một lúc.”

oOo

          Khoảng thời gian đó phong trào xây đàn cầu cơ cũng nở rộ khắp Sài Gòn, Chợ Lớn và Gia Định. Có một nhóm người khác, do sự thúc đẩy của Đấng Thiêng liêng, thường tụ họp nhau xây bàn thỉnh các hương linh để được có thêm nhiều hiểu biết về thế giới vô hình. Nhóm này gồm bốn vị công chức làm việc tại Sài Gòn, trong đó có Ngài Phạm Công Tắc; các Ngài thường xây bàn tại nhà của Ngài Cao Hoài Sang ở phố Hàng Dừa, gần chợ Thái Bình, và được nhiều Đấng vô hình giáng bàn để tạo đức tin. Sau đó, có một Đấng vô hình tá danh là A Ă Â giáng bàn, yêu cầu các Ngài gọi là Thầy, và Đấng ấy thu nhận bốn Ngài làm đồ đệ. Tới đêm lễ Giáng sinh (Nô-en) năm 1925, Đấng A Ă Â xưng rõ danh hiệu là:

      “NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ viết CAO ĐÀI giáo đạo Nam Phương.”

và có dạy rằng:

      “Muôn kiếp có Ta nắm chủ quyền,

      Vui lòng tu niệm hưởng ân thiêng

      Đạo mầu rưới khắp nơi trần thế,

      Ngàn tuổi muôn tên giữ trọn bền.

“Đêm nay phải vui mừng, vì là ngày Ta giáng trần dạy đạo bên Thái Tây, Ta rất vui lòng đặng thấy chư đệ tử kính mến Ta như vậy. Nơi nầy sẽ đầy ơn Ta, Ta sẽ làm cho thấy huyền diệu đặng kính mến Ta hơn nữa.”    

          Tới ngày 18 tháng Giêng năm 1926, Đức Chí tôn dạy Ngài Cao Quỳnh Cư và Ngài Phạm Công Tắc  đem Ngọc cơ tới nhà Ngài Cựu Hội đồng Thượng nghị viện Đông Dương Lê Văn Trung để đích thân Thầy độ Ngài Trung. Sau đêm ấy, nhóm phò cơ này có được bảy vị. Đó là các Ngài Cao Hoài Sang; Ngài Phạm Công Tắc; Ngài Cao Quỳnh Cư; Ngài Lê Văn Trung; Ngài Nguyễn Trung Hậu; và Ngài Trương Hữu Đức.

          Lúc đó, nhóm này hoàn toàn chưa biết tới nhóm của Ngài Ngô Văn Chiêu, vì vậy họ chưa từng liên lạc hay tiếp xúc với Ngài Chiêu.

oOo

         Ngang đây, tưởng cũng nên dừng lại một chút để nói tới tiền bối Lê Văn Trung, người sẽ là Quyền Giáo tông tại thế của Đạo Cao Đài suốt một quảng thời gian bốn năm sau ngày khai đạo.

Ra đời ở Chợ Lớn năm 1876, Ngài Lê Văn Trung là con của một quả phụ từ năm mới 30 tuổi mà đã giữ tiết trọn đời thờ chồng. Ngài có dung mạo đẹp đẽ, vóc người cân đối, tính tình hòa nhã mà cương quyết. Ngài ăn ở rất có hiếu với mẹ hiền, cư xử tốt đẹp với bà con anh em, và đặc biệt, rất quí chuộng Nho học.

Năm 1894, sau khi tốt nghiệp trường Chasseloup Laubat, Ngài vào làm Thư ký tại Dinh Thống đốc Nam kỳ. Tới năm 1906, Ngài từ chức để ra ứng cử vào Hội đồng Quản hạt Nam kỳ. Ngài được dân chúng bầu làm đại diện cho các tỉnh Sài Gòn, Gia Định, Chợ Lớn, Gò Công và Tây Ninh suốt hai khóa liên tiếp kéo dài tám năm.

Trong địa vị đại diện dân cử, Ngài Lê Văn Trung là người cương trực, dám đấu tranh nghị trường với người Pháp tới độ tự ý từ chức, rồi sau được dân chúng bầu lại. Ngài bênh vực quyền lợi của dân chúng, làm nhiều công tác văn hóa xã hội, trong đó đặc biệt có việc khởi xướng, cổ vũ và quyên góp tiền bạc xây dựng trường Nữ Trung học đầu tiên của Sài Gòn, về sau đổi tên là trường Gia Long, hiện nay là trường THPT Nguyễn Thị Minh Khai, tọa lạc tại số 275 đường Điện Biên Phủ, Quân 3, TP HCM.

Ngài Lê Văn Trung được chính phủ Pháp tặng Bảo quốc Huân chương Đệ Ngũ đẳng. Tới năm 1914, Pháp cử Ngài lên làm Nghị viên Hội đồng Soái phủ Đông Dương, thường được gọi là Hội đồng Thượng nghị viện Đông Dương.

          Từ năm 1920, việc kinh doanh của Ngài Lê Văn Trung lâm hoàn cảnh khó khan, thua thiệt, rồi hoàn toàn bế tắc. Vào thời điểm giao tiếp với nhóm Ngài Phạm Công Tắc, mà như đã nói, trước đó hai bên chưa hề quen nhau, Ngài Lê Văn Trung đang sống trong tình cảnh phiền muộn chán nản, đâm ra hút thuốc phiện. Rồi cả hai con mắt của Ngài bị suy yếu, chỉ thấy lờ mờ; sau khi được Đức Chí tôn độ, Ngài bắt đầu ăn chay, bỏ hút thuốc phiện và dần dần, đôi mắt được phục hồi, thị lực sáng trở lại.

oOo

          Tới ngày 22 tháng Giêng năm 1926, Đức Chí tôn dạy quí Ngài trong nhóm Ngài Cao Quỳnh Cư phải đến hội họp chung với nhóm Ngài Ngô Văn Chiêu để lo việc khai mở đạo. Đức Chí tôn còn dạy thêm rằng mọi việc đều phải khởi xuất từ Ngài Ngô Văn Chiêu, vì Ngài ấy là Anh Cả. Lần đó, cả hai nhóm tập trung được 12 vị.

Tại đàn cơ nơi nhà Ngài Lê Văn Trung, đúng vào giờ Tý ngày mùng 1 tháng Giêng năm Bính Dần (theo dương lịch là 13.2.1926), Đức Chí tôn ban lời Thánh giáo đầu tiên cho Ngài Ngô Văn Chiêu, căn dặn rằng (1) phải giữ lời hứa truyền Đạo cứu độ chúng sinh; (2) làm chủ giềng mối Đạo; và (3) dìu dắt các môn đệ. Ngọc hoàng Thượng đế còn truyền cho những vị khác phải hiệp nhau truyền đạo để cứu độ người đời, và chuẩn bị cho thời điểm khai đạo. Đêm Mùng Một ấy trở thành là ngày Khai cơ Phổ độ của Cao Đài Giáo.

Tới đêm mùng 8 rạng ngày mùng 9 tháng Giêng năm Bính Dần, Lễ Vía Đức Chí tôn được tổ chức tại nhà của Ngài Vương Quan Kỳ. Trước sự hiện diện đầy đủ của các môn đệ, Đức Chí tôn giáng cơ dạy Đạo và ban cho một bài thơ bốn câu trong đó bao gồm đầy đủ tên của cả 12 vị. Theo Thánh ngôn Hợp tuyển, trang 19, bài thơ đó như sau:

Câu 1: Chiêu Kỳ Trung độ dẫn Hoài sanh,

Câu 2: Bản đạo khai Sang Quí Giảng thành.

Câu 3: Hậu Ðức Tắc Cư Thiên Ðịa cảnh,

Câu 4: Huờn Minh Mân đáo thủ đài danh.

(Mười hai chữ in hoa lớn trong ba câu trên là tên của mười hai

người môn đệ trước hết của Ðức Ngọc hoàng Thượng đế.

Còn ba chữ in hoa nghiêng nhỏ trong câu chót là tên của ba đồng tử hầu đàn).

      (Tên đầy đủ của các vị theo thứ tự trong bài thơ này là:

1/ Ngô Văn Chiêu (1878-1932);

2/ Vương Quan Kỳ (1880 – 1940 );

3/ Lê Văn Trung (1876-1934);

4/ Nguyễn Văn Hoài (?-?);

5/ Đoàn Văn Bản ((1876-1941);

6/ Cao Hoài Sang (1900-1971),

7/ Lý Trọng Quí (?-?);

8/ Lê Văn Giảng (1876-1941),

9/ Nguyễn Trung Hậu (1892-1961);

10/ Trương Hữu Đức (1890-1976)

11/ Phạm Công Tắc (1980-1959);

12/ Cao Quỳnh Cư (1887- 1929).

          Từ hôm đó, nhờ sự hoạt động nhiệt thành của quí Ngài môn đồ đầu tiên, Đạo càng ngày càng bành trướng. Rồi lần lượt các Ngài Nguyễn Ngọc Tương (1881-1951); Ngài Lê Bá Trang (1879-1936); Ngài Nguyễn Ngọc Thơ (1873-1950), v.v. được phổ độ, phân công nhau đi truyền đạo ở các tỉnh và thành lập những cơ sở đầu tiên cho một công cuộc phổ độ rộng lớn. Số tín đồ theo Đạo càng ngày càng đông, thành lập nhiều thánh thất rải rác khắp nhiều tỉnh.

          Đến ngày 12 tháng 3 năm Bính Dần (theo dương lịch là 23.4.1926) Đức Chí tôn ân ban cho Ngài Lê Văn Trung là Thượng Đầu sư, Thánh danh Thượng Trung Nhật.

        Tới ngày 23 tháng 8 năm Bính Dần (tức 29.9.1926), vâng thánh ý của Đức Chí tôn, Ngài Lê Văn Trung hiệp cùng quí vị chức sắc Thiên phong cùng chư Đạo hữu gồm 28 vị cầm quyền Đạo và 247 đạo hữu, thảo TỜ KHAI ĐẠO dâng lên Đức Chí tôn xem xét trước, rồi để gởi cho chính phủ Pháp.

          Ngày mùng Một tháng 8 năm Bính Dần (nhằm 7.10.1926), Ngài Lê Văn Trung đích thân mang Tờ Khai đạo đến gởi cho Thống đốc Nam kỳ Le Fol, và được ông ấy vui vẻ chấp nhận. Trên thực tế, Tờ Khai Đạo không phải là tờ đơn xin phép thành lập mà là một bản tuyên bố chính thức thông báo việc thành lập Đạo Cao Đài. Thống đốc Nam kỳ lúc ấy khôn khéo tiếp nhận văn kiện đó nhưng không bao giờ ký giấy phép cho Đạo Cao Đài hoạt động cũng như không hề cam kết công nhận chính thức đạo Cao Đài.

          Rồi Ngày Trọng đại đã tới. Hôm ấy là ngày Rằm tháng 10 năm Bính Dần (tức 19.11.1926) nhằm ngày Hạ nguyên, Ngài Lê Văn Trung hiệp với Ngài Phạm Công Tắc cùng quí vị chức sắc Thiên phong của Đạo, vâng lệnh Đức Chí tôn mượn chùa Thiền Lâm ở Gò Kén Tây Ninh làm thánh thất tạm để tổ chức Đại lễ Khai đạo Cao Đài. Tham dự buổi lễ trọng thể ấy có đầy đủ sự hiện diện của quan chức các cấp chính quyền Pháp thời đó và đại diện các tôn giáo khác.

          Tới đầu năm Đinh Mão (1927), Ngài Ngô Văn Chiêu, môn đồ đầu tiên của Đức Chí tôn và từng là Đức Giáo tông dự bị, nói cho mọi người biết rằng Ngài đã làm xong nhiệm vụ trong Cơ Phổ độ. Từ nay, Ngài sẽ đảm trách một sứ mạng quan trọng khác, đó là lập Cơ Tuyển mộ Chiếu Minh Tam thanh Vô vi, gọi tắt là Chiếu Minh Vô vi. Ngài đổi chữ lót trong tên của mình thành chữ Minh; từ đây gọi Ngài là Đức Ngô Minh Chiêu, chuyên lo tu đan, tịnh luyện. Cùng theo phái Vô vi của Ngài Chiêu, có ba Ngài Võ Văn Sang, Nguyễn Văn Hoài và Lý Trọng Quí; nhưng về phương diện tín ngưỡng, Ngài Chiêu vẫn tôn thờ Đức Ngọc hoàng Thượng đế.

          Sau sự kiện vừa kể, Đức Chí tôn phải chuyển pháp, giao chức Giáo tông qua cho Đức Lý Thái Bạch Nhất trấn Oai nghiêm kiêm nhiệm. Trong Đạo Nghị định thứ nhì ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Đức Lý Giáo tông ban cho Đầu sư Thượng Trung Nhựt (Ngài Lê Văn Trung) cầm Quyền Giáo tông tại thế để điều hành cơ Đạo hữu hình, còn nhiệm vụ Giáo tông vô vi vẫn do Đức Lý Giáo tông nắm giữ. Kể từ đó. đạo Cao Đài chỉ có một Giáo tông vô vi là Đức Lý Thái Bạch, và tại thế thì có Quyền Giáo tông.

         Tới năm 1931, khởi công xây dựng Tòa thánh Tây Ninh tại xã Long Thành Bắc, huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh, cách thị xã Tây Ninh khoảng năm cây số, về hướng Đông Nam. Nguyên Thiền Lâm tự ở Gò Kén Tây Ninh là nơi đặt thánh thất tạm, bị Hòa thượng trú trì là sư Giác Hải (Như Nhãn/1864-1938) đòi lại vì đang lúc dao động đức tin và chịu áp lực của người Pháp.

          Việc xây dựng Tòa thánh Tây Ninh kéo dài ngày vì đó là một công trình độc đáo, nguy nga và kỳ diệu, tổng hợp kiến trúc của các tôn giáo lớn trên thế giới. Theo tài liệu để lại thì mô hình và đồ hình bên trong cũng như bên ngoài các cơ sở của Tòa thánh được mô phỏng (thiết kế) theo cõi thiên đình và được lấy kiểu mẫu qua đàn cơ. Việc xây cất bị gián đoạn trong thời Thế chiến Hai (1939-1945); mãi tới 18 năm sau, vào Giêng năm Ất Mùi (1955), mới hoàn thành và làm Đại lễ Khánh thành.

CHƯƠNG III: GIÁO THUYẾT CỦA ĐẠO CAO ĐÀI

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ

Cao Đài Đại đạo khẳng định rằng đạo Cao Đài là do chính Đức Thượng đế, Đấng Chí tôn, đích thân sáng lập và làm giáo chủ. Giáo lý vi diệu của đạo Cao Đài là do chính Đức Thượng đế trực tiếp truyền dạy qua sự thường xuyên tiếp xúc bằng đàn cơ giữa Ngài và quí vị chức sắc thượng phẩm trong Đạo.

          Đại là vĩ đại, lớn rộng; Đạo là con đường. Cao Đài Đại đạo là con đường tốt đẹp và rộng rãi, dẫn dắt con người học hỏi, lập công quả và tu tập, nhằm mục đích đi thẳng tới chân lý – một chân lý hằng hữu và bất biến – đó là Thượng đế. Bằng quá trình tu luyện theo đạo Cao Đài, tín đồ tuần tự đạt tới năm nấc thang tiến hóa, qua các phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật, để cuối cùng, đạt đến sự hiệp nhất vào Đấng Cao Đài, tức là Ngọc hoàng Thượng Đế, Đấng Chí tôn.

          Phổ nghĩa là phổ quát, rộng lớn, phô bày ra cho hết thảy mọi người ở khắp mọi nơi. Độ nghĩa là cứu độ, cứu giúp. Do đó, Cao Đài Đại Đạo muốn phổ độ chúng sinh thì phải mở ra mối Đạo lớn cho người đời tu hành.

          Cao Đài Đại Đạo Tam kỳ Phổ độ có nghĩa là cứu độ, cứu giúp chúng sinh trong thời kỳ hiện nay, tức là thời kỳ cuối trong ba nguyên (còn phát âm là ngươn) của loài người.

Theo quyển Pháp Chánh Truyền, ba nguyên (nguơn) đó là:

Thượng nguyên hay là Nguyên Thượng đức, cũng là Nguyên Tạo hóa. Trong nguyên này, Đấng Chí tôn gầy dựng Càn k

hôn Vũ trụ. Thời thái cổ, loài người tính tình hồn nhiên, mộc mạc lương thiện, sống theo đạo trời mà hòa hợp thân thiết yêu thương nhau. Con người hấp thụ khí thiên nhiên nên tâm hồn thanh thoát, thể xác an nhàn, vui say mùi đạo, tiếp nhân xử thế cực kỳ đạo đức.

Trung nguyên hay là Nguyên Thượng lực, cũng là Nguyên Tranh đấu. Trong nguyên này loài người thâm nhiễm nhiều thói hư tật xấu, lòng người bất nhất, nên càng ngày càng xa khuất điểm thiên lương, sống bức hiếp lẫn nhau, sinh ra chiến tranh, chèn ép và bóc lột nhau. Người đời không còn kể gì tới tình đồng loại đồng chủng đồng bào mà chỉ một lòng một dạ trông cậy vào sức lực để tranh đấu với nhau.

Hạ nguyên hay Đời Mạt kiếp, là Nguyên Điêu tàn, cũng là Nguyên Tái tạo. Trong nguyên này, cuộc đấu tranh giữa người đời chuyển qua mãnh liệt, tàn khốc, hiểm độc phi thường. Càng tranh đấu càng tiến hóa, càng ác liệt, đưa tới điêu tàn hủy diệt. Nhưng đặc biệt là hễ loạn thì phải tới trị, vong thì tất phải hưng, nên nguyên tiêu diệt này tất nhiên sẽ chuyển thành nguyên bảo tồn; lúc ấy đạo đức được phục hưng, để sắp sửa tái tạo trở lại như thời thái cổ. Vậy loài người sắp bước qua đệ tam kỳ này là thời kỳ qui nhất thống, đại luân hồi của Trời Đất. Ngày nay loài người đã trải qua đúng con số do Đấng Tạo hóa đã định là mười hai vạn chín ngàn sáu trăm năm (129,600 năm), nên đã tới thời kỳ tạo thiên lập địa một lần nữa.

Đối chiếu với tam nguyên kể trên, kể từ khi có loài người đến nay, Đấng Thượng đế đã mở ra ba thời kỳ phổ độ chúng sinh:

          Nhất kỳ Phổ độ: vào thời thái cổ của loài người, các tôn giáo như Đạo Phật với Đức Nhiên Đăng Cổ Phật; Đạo Tiên với Đức Thái Thượng Đạo tổ; Đạo Bà-La-Môn; Đạo Do Thái với Mô-se; Đạo Nho với Phục Hy, v.v. Phổ độ Nhất kỳ này do Đức Nhiên Đăng Cổ Phật chủ trì Liên Trì Hội.

Nhị Kỳ Phổ độ: vào thời thượng cổ của loài người, có các tôn giáo như Phật Giáo với Đức Phật Thích Ca; Lão Giáo với Đức Lão Tử; Nho Giáo với Đức Khổng Tử; Thiên Chúa Giáo với Đức Giê-su Kitô, v.v. Phổ độ Nhị kỳ này do Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chủ trì Linh Sơn Hội.

Tam kỳ Phổ độ: vào thời kỳ hiện nay có Đại Đạo Tam kỳ Phổ độ, một tôn giáo đặc biệt vì lần này do Đấng Thượng đế đích thân khai đạo, làm giáo chủ và trực tiếp dạy bảo để cứu vớt hết thảy loài người trên trái đất này trước khi xảy ra cuộc Tận thế chuyển lập đời Thánh đức. Phổ độ Tam kỳ này do Đức Phật Di Lạc Vương chủ trì Long Hoa Hội.

Như thế Đại Đạo Tam kỳ Phổ độ tuy xuất hiện khởi đầu tại Việt Nam nhưng không là một tôn giáo có tính cách bản địa và bị giới hạn trong biên giới của một nước, vì Đạo này nhằm phổ độ hết thảy chúng sinh và sẽ phổ biến rộng rãi ra khắp vũ trụ, nơi loài người chúng ta đang sống.

CÁC PHƯƠNG DIỆN GIÁO LÝ

Với sự chỉ dạy trực tiếp của Đấng Chí tôn, đạo Cao Đài đặt căn bản giáo lý của tôn giáo mình trên nguồn cội của giáo lý và triết lý của các tôn giáo lớn là Nho, Phật và Lão, gọi là Tam giáo Đồng nguyên (ba tôn giáo có chung một gốc), để đưa năm nhánh trở lại làm một, gọi là Ngũ chi Phục nhất. Ngũ Chi này gồm : Nhân đạo (Khổng Giáo); Thần đạo (Khương Thái Công, thờ phụng chư thần); Thánh đạo (Thiên Chúa giáo); Tiên đạo (Lão giáo); và Phật đạo (Phật giáo).

Giáo lý đạo Cao Đài được Đức Thượng đế Chí tôn trực tiếp giảng dạy bằng đàn cơ nên bao gồm và đầy đủ mọi phương diện của một nền Đại Đạo chân chính như:

Thể pháp và Bí pháp, tức là Đại Đạo công truyền và Đại Đạo tâm truyền;

Nhân đạo và Thiên đạo, Luật Tiến hóa;

Phụng sự Nhân sinh;

Đại Ân xá Đệ tam kỳ;

Tam giáo Qui nguyên, Ngũ chi Phục nhất, Nho tông chuyển thể, v.v.;

Vũ trụ quan và Nhân sinh quan.

Hết thảy các phương diện ấy kết thành một bộ giáo lý có tính vi diệu và khoa học; nó đòi hỏi người trình bày và người học hỏi đều phải có nhiều cơ duyên, công phu và đều phải có thời gian nghiên cứu, thôi chiêm nghiệm và trình giải. Ở đây, chúng tôi chỉ dám đường đột trình bày đôi nét giản dị về vũ trụ quan và nhân sinh quan của đạo Cao Đài.

III. VŨ TRỤ QUAN

Những trình bày sơ lược dưới đây chỉ giới hạn vào một vũ trụ thôi, đó là nơi chúng ta đang sống, vì bên ngoài vũ trụ này còn có rất nhiều vũ trụ khác nữa, đang biến chuyển không ngừng trong không gian bao la, mênh mông vô cùng vô tận.

Vũ trụ hiện hữu của chúng ta có sinh có tử rồi tái sinh trở lại. Vũ trụ có khởi đầu và mức khởi đầu đó chính là Đức Ngọc hoàng Thượng đế, tức là Thái cực. Khí Hư vô sinh ra Ngọc hoàng Thượng đế và chính Đấng Ngọc hoàng Thượng đế ấy tạo hóa ra Càn khôn Vũ trụ cùng vạn vật hiện hữu. Trong không gian bao la, mênh mông vô cùng vô tận đó, có nhiều vũ trụ được hình thành; vũ trụ của Ngọc hoàng Thượng đế chỉ là một phần tử, và nó cũng đang trên đường tiến hóa mãi cho đến vô tận vô biên.

Vũ trụ này có hai phần: 1. Phần Vô hình không trông thấy được nhưng nó điều khiển toàn bộ phần Hữu hình trông thấy được; 2. Phần Hữu hình gồm 3.000 thế giới, 72 quả địa cầu mà quả địa cầu chúng ta đang sống là địa cầu số 68.

Phần Vô hình gồm 36 tầng trời, 4 bộ châu lớn ở không-không trên thượng tầng không khí. Trong tầng trời Hư vô thiên, có Ngọc Hư cung, là nơi họp triều đình của Đức Chí tôn để điều hành hết thảy sinh hoạt của Càn khôn Vũ trụ. Quí vị Thần Thánh Tiên Phật họp Đại hội tại Ngọc Hư cung để lập Thiên điều cai quản Càn khôn Vũ trụ.

NHÂN SINH QUAN

Con người sống trong Vũ trụ ấy là một tiểu Thượng đế, được Đức Ngọc hoàng Thượng đế cho xuống trần để nương theo xác phàm mà học hỏi cho tiến hóa.

Đạo Cao Đài công nhận rằng thủy tổ loài người là các Hóa nhân do loài vượn cao cấp (vượn-người) tiến hóa mà thành, rồi dần dần sinh nở phát triển ra đông đúc. Sau đó, Thượng đế mới cho một số Nguyên nhân đầu thai xuống trần qua ngả các nữ Hóa nhân sinh ra, nhằm mục đích khai hóa các Hóa nhân, để chăm lo học hỏi và tiến hóa.

Con người sống dưới trần gian có ba thể: 1) Thể xác (hữu hình); 2) Linh hồn (vô hình); và 3) Chơn thần (bán hữu hình) làm trung gian cho Thể xác và Linh hồn.

Con người sống trên cõi thiêng liêng (vô hình) thì chỉ có hai thể: 1) Linh hồn; và 2) Chân (chơn) thần (xác thân thiêng liêng).

Khi chết, Thể xác con người hư nát, trở về với đất, còn Linh hồn và Chân thần thì sẽ bay lên cõi thiêng liêng, ở đó, trình diện với hai Đấng Phụ Mẫu là Đức Chí tôn và Phật Mẫu. Căn cứ vào phúc đức và tội tình đã gây ra nơi cõi thế, Linh hồn và Chân thần sẽ được Đức Chí tôn xét khen thưởng hay bắt đi đầu thai kiếp khác để trở lại trần gian sống mà trả dần nghiệp quả.

Chừng nào Linh hồn và Chân thần thực hiện được những việc hoàn toàn tốt đẹp (viên mãn) nơi cõi trần, xứng đáng là một tiểu Thượng đế thì khi trở về cõi Thiêng liêng, Đức Chí tôn sẽ khen thưởng xứng đáng và được hội hiệp cùng Đức Chí tôn.

 

Như thế, con người có một đời sống kéo dài tới vô tận : a) sống đời sống trên cõi thiêng liêng kia để an hưởng và suy nghiệm; và b) sống đời sống dưới cõi trần này để học hỏi, lập công quả, tu luyện để được tiến hóa một cách nhanh chóng.

CON ĐƯỜNG HỌC HỎI VÀ TU TẬP

Con người sống trong thời kỳ Hạ nguyên này cần khẩn trương tu tập hơn bao giờ hết để chuẩn bị cho công cuộc tái tạo tức là trở lại thời kỳ Thượng nguyên Thánh đức thái cổ. Tu có nghĩa là sửa chữa bản thân cho đúng với giềng mối đạo. Muốn và để biết đường tu thì phải học hỏi cho am hiểu. Muốn sự am hiểu ấy lắng sâu, áp dụng cho bản thân thì phải tự luyện tập khắp mọi nơi và suốt mọi lúc.

Như đã trình bày ở trên, về phương diện giáo lý, đạo Cao Đài là một tổng hợp đặt căn bản trên “Tam giáo Đồng nguyên, Ngũ chi Phục nhất”, đặc biệt phối hợp với Thánh giáo bao gồm những thông điệp được linh truyền trực tiếp qua cơ bút, phần lớn là những bài văn thơ (lục bát, thất ngôn tứ tuyệt, thất ngôn bát cú, song thất lục bát, v.v.) bao hàm ý nghĩa sâu xa và vi diệu.

Về mặt thực hành, đạo Cao Đài rút tĩa ít hoặc nhiều trong số những qui định tu tập, tiếp nhân xử thế của Phật giáo (như Giới luật Ăn chay, Ngũ giới cấm, Thiền định); của Lão giáo (như luyện Tam bảo: Tinh, Khí, Thần); của Nho Giáo (như Tam cương, Ngũ thường, Tam tòng, Tứ đức); của Thiên Chúa giáo (như tôn thờ Thượng đế, phẩm trật chức sắc và hệ thống tổ chức giáo hội các cấp.)

Để làm cho phù hợp với mọi trình độ dân trí và mức độ tin tưởng, giáo lý của đạo Cao Đài tổng kết những chánh niệm của các tôn giáo, làm thành Năm nguyên tắc chung (theo nhận xét của học giả Toan Ánh (1916-2009) trong cuốn Tín ngưỡng Việt Nam, quyển Thượng):

Về luân lý: Mọi người phải giữ đúng bổn phận đối với bản thân, với gia đình, với xã hội như một hình thức nới rộng của gia đình, và sau cùng, đối với toàn thể loài người như một đại gia đình của con người.

Về triết lý: Con người nên từ bỏ danh vọng, tiền tài và không nên sống xa hoa. Tóm lại, con người nên tự mình vượt thoát khỏi những ham muốn vật chất để tìm kiếm sự thanh thản tâm hồn và thanh khiết linh hồn.

Về thờ phụng: Cn người phải tôn thờ Đức Ngọc hoàng Thượng đế, Đấng Chí tôn, người cha hiền của tất cả, đồng thời phải thờ kính Thần, Thánh, Tiên, Phật vì chư vị ấy họp thành một hệ thống thiêng liêng mầu nhiệm. Con người có thể thờ cúng tổ tiên, nhưng không được cúng mặn và không được dùng vàng mã.

Về tâm linh: Đạo Cao Đài xác nhận sự tin tưởng vào tính cách tồn tại vĩnh viễn của linh hồn con người. Linh hồn ấy có thể biến chuyển và chịu sự luân hồi tùy vào nghiệp quả các hành động của mình lúc sinh thời, cho tới khi toàn hảo và nhập làm một vào Đấng Chí tôn.

Về thông linh: Con người phải tu tập, đạt tới sự tịnh tâm để khám phá chân lý, làm sáng tỏ và củng cố Chân thần cùng thông linh với nguyên khí của vũ trụ, cũng là của Đức Ngọc hoàng Thượng đế.

ĂN CHAY

Đạo Cao Đài đòi buộc tín đồ phải ăn chay. Tín đồ ăn chay được chia làm hai hạng : 1) Hạ thừa; và 2) Thượng thừa.

 

Hạng Hạ thừa gồm tín đồ mới nhập môn. Sáu tháng đầu ăn chay mỗi tháng sáu ngày; kể từ tháng thứ bảy trở đi, ăn chay mỗi tháng mười ngày.

Hạng Thượng thừa thì ăn chay suốt (thường trực), gọi là trường trai.

VII. GIỮ NGŨ GIỚI

Việc ăn chay và giữ giới giúp cho người tín đồ (1) thanh lọc bản thể, tinh khiết tinh thần, luyện tập Bi Trí Dũng, để góp phần tránh quả báo luân hồi; và (2) đặc biệt, kiềm chế Thất tình (bảy tình cảm: mừng; giận; thương; ghét; buồn; vui; và muốn) và Lục dục (sáu ham muốn: nhìn thấy sắc đẹp; nghe âm thanh êm tai; ngữi mùi thơm dễ chị; món ăn ngon miệng; xác thân sung sướng; và ý nghĩ được thỏa mãn).

Người ăn chay, nhất là ăn chay trường, thì tương đối có thể dễ dàng giữ Ngũ giới vì:

Ăn chay thì tránh được sát sinh trong sự ăn uống. Đã không nỡ giết hại sinh vật để ăn thì cũng không nỡ giết sinh linh cho thỏa ý thích của mình. (Giới thứ nhất: Bất sát sinh);

Hễ không ăn thịt thì cũng dễ cử rượu, vì rượu thịt lúc nào cũng đi đôi với nhau như bóng với hình. (Giới thứ hai: Bất tửu nhục);

Không ăn thịt và uống rượu thì lòng dục lắng xuống, nên không nghĩ tới việc tà dâm, phá hoại nền nếp gia đình của người khác. (Giới thứ ba: Bất tà dâm);

Nhờ ăn chay mà lòng tham lam vật chất ít có cơ hội nảy nở. Đã tu thì dễ diệt được lòng tham muốn của cải tiền tài vì khi chết, linh hồn không thể mang theo của cải vật chất mà chỉ có thể đem theo công đức mình đã làm và tội lỗi mình đã phạm. Do đó, việc trộm cướp hay gian lận tài vật ít khi xảy ra. (Giới thứ tư: Bất du đạo);

Nhờ ăn chay mà tâm hồn dễ trở nên thanh cao, tránh được việc nói dối lường gạt người, gây đau khổ cho người mà đem lợi lộc về cho mình. (Giới thứ năm : Bất vọng ngữ).

VIII. GIỮ ĐẠO LÝ LUÂN THƯỜNG

Người tín đồ đạo Cao Đài còn phải gìn giữ và vun đắp các giá trị rút tỉa từ Nho giáo. Đó là:

Tam cương: Ba giềng mối Vua tôi, Cha con và Vợ chồng;

Ngũ thường: Năm tính hằng có là Nhân (Nhơn), Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.

Tam tòng: Dành cho phụ nữ gồm 1) lúc còn ở nhà thì vâng lời cha mẹ; 2) lấy chồng thì phải thuận thảo với chồng; và 3) chẳng may chồng qua đời sớm thì phải hết lòng chăm sóc dạy dỗ con cái.

Tứ đức: Bốn đức hạnh của phụ nữ, gồm 1) công; 2) dung; 3) ngôn; và 4) hạnh.

GIỮ TỨ ĐẠI ĐIỀU QUI

Gồm Bốn điều luật lớn, đòi buộc người tín đồ phải tuân theo trong cuộc sống hằng ngày.

Phải tuân lời theo dạy của đấng bậc bề trên. Không hổ thẹn khi nghe lời góp ý, sửa sai của kẻ thứ bậc thấp hơn mình. Dùng lễ nghĩa sống hòa mình, hòa thuận với mọi người. Nều mình lỡ có lầm lỗi thì phải ăn năn và chịu thiệt thòi.

Chớ khoe tài, đừng cao ngạo, phải quên mình để giúp cho việc của người khác được có kết quả. Giúp người khác tu tập, sống đúng với Đạo, đừng bao giờ nhớ tới cừu hận riêng của mình; chớ trù ếm, vùi lấp người hiền đức, có năng lực.

Bạc tiền xuất nhập rõ ràng, chính xác; đừng vay mượn rồi không chịu trả. Đừng bao giờ xem thường hoặc khinh dễ người trên lẫn kẻ dưới; nếu mình là người trên thì phải giữ lễ trong khi dạy kẻ dưới. Nếu mình là kẻ dưới thì phải khiêm tốn và cung kính khi can gián người trên.

Đối xử với ai thì dù trước mặt hay sau lưng họ, lúc nào cũng phải có thái độ trước sau như một, đừng có trước thì kính trọng, sau thì khinh khi người ta.

Tóm lại, trong việc cư xử với người và đời đều phải lấy lòng khiêm nhượng và cung kính làm đầu. Tinh thần của lễ là kính. Nếu đã kính người thì luôn luôn hết lòng kính và tin, dù có mặt người đó hay không cũng vậy. Đừng thấy giàu sang mà quí trọng, chẳng nên thấy nghèo khó mà khinh thường. Nên dùng lời nói nhỏ nhẹ mà khuyên bạn hữu làm điều thiện. Phải hết lòng tôn trọng và tuân giữ phép nước và luật đạo. Đó là phương pháp tự mình tu sửa bản thân và lập công đức vậy.

LUYỆN TAM BỬU, THIỀN ĐỊNH, v.v.

Đậy là phương pháp luyện Tinh, Khí, Thần và Tọa thiền cùng nhiều Bí pháp khác dành cho hạng Thượng thừa.

Luyện Tam Bảo (Bửu) tức là luyện Tam hoa tụ đỉnh. Tam hoa, cũng gọi là Tam Bảo, gồm (1) Tinh; (2) Khí; và (3) Thần, ba cái tốt đẹp của con người. Tinh là chất tinh túy của xác thân; Khí là khí chất bổ dưỡng theo máu, luân lưu nuôi dưỡng cơ thể; Thần là trí não, sự sáng suốt hiểu biết.

Tam hoa tụ đỉnh là luyện cho Tinh Khí Thần hiệp nhất, tụ lại nơi đỉnh đầu, gọi là Nê Hoàn cung. Muốn được như vậy, hành giả trước hết phải bảo Tinh, dưỡng Khí, tồn Thần; kế đó, phải luyện Tinh hóa Khí, luyện Khí hiệp Thần, luyện Thần hoàn (hườn) Hư. Tới khi Tam Bảo hiệp nhất nơi Nê Hoàn cung, thì mới tạo được Chân (chơn) thần huyền diệu, xuất nhập thể xác qua cửa Nê Hoàn cung mà vân du giao tiếp với quí vị ở cõi thiêng liêng.

Thiền định, còn gọi là Thuyền định, nghĩa là đặt mình trong trạng thái tĩnh lặng, để được giải thoát hoàn toàn và giác ngộ viên mãn.

Hành giả (người theo thiền định) khi sinh hoạt bất cứ việc gì thì cũng giữ cho con tâm của mình chú ý, hồn nhiên và an tịnh. Nếu Tọa thiền thì ngồi theo tư thế kiết già – còn gọi là tư thế hoa sen – thở bụng, rất sâu rất nhẹ và đều, tay giữ Thiền ấn, và giữ cho lòng được trống không – tâm vô niệm – đó cũng là chánh niệm. Đức Đông Phương Lão tổ giáng cơ định nghĩa rằng:”Vô niệm là gì? Vô niệm đây là không niệm những gì ưu tư phiền não, buồn giận ghét ưa theo cơ quan ngũ tặc, mà phải bế lại thâu (thu) vào bên trong, độc hành chánh niệm… Chánh niệm là gì? Cái vô niệm chẳng phải là không cho chánh niệm, mà là không cho tà niệm… Chỗ gọi là tà niệm là dục niệm. Cho nên vô niệm là tâm không nhiễm trước, không tà không dục”.

CHƯƠNG IV: NGHI LỄ VÀ THỜ PHỤNG

So với các tôn giáo khác, nghi lễ và cách thức thờ phụng của đạo Cao Đài thuộc loại giản dị nhất, tuy thế, vẫn đạt tới mức thành tâm và trang trọng nhất. Tín đồ chỉ cần hằng ngày cầu nguyện ở trong riêng của mình nhà mình (tư gia) hay ở thánh thất của cộng đoàn.

 

Theo nguyên tắc, tín đồ không được xây bàn, cầu cơ và cầu đồng, để tránh sự lợi dụng thần quyền của những kẻ dựa vào cơ bút, đồng bóng. Không có phép xưng tội như bên Thiên Chúa giáo. Số lượng chức sắc chỉ vừa đủ để giảng đạo, để khuyên nhủ tín đồ sống đúng với luật Đạo được qui định cụ thể trong giáo lý.

Hình ảnh thờ phụng tượng trưng cho Ngọc hoàng Thượng đế Đấng Chí tôn là Thiên Nhãn.

Tại thánh thất, việc thiết lập bàn thờ thì tùy vào khung cảnh của thánh thất và của chi phái mình, nhưng trên cao, ở nơi trang trọng nhất, vẫn phải là hình Thiên Nhãn.

Tại tư gia, bàn thờ cũng bày biện tùy theo chi phái và hoàn cảnh gia đình. Nhưng phải có đủ các khí cụ thờ phụng để khi hành lễ thì thắp nến, thắp hương, và trang trọng hơn thì đốt trầm.

Hằng ngày, tín đồ đạo Cao Đài hành lễ bốn lần, gọi là cúng tứ thời, vào : 1/ giờ Tí – 24 giờ nửa đêm; 2/ giờ Mẹo (6 giờ sáng); 3/ giờ Ngọ (12 giờ trưa); và 4/ giờ Dậu (6 giờ chiều). Việc hành lễ hằng ngày cũng là phương pháp hàm dưỡng tâm tính cho bản thân mình và toàn cả gia đình. Thân nhân của tín hữu Cao Đài còn tụ họp để kinh nguyện trong các dịp thờ phụng tổ tiên, lễ lạc của gia đình và giỗ húy nhật.

Mỗi tháng hai ngày. (1) Ngày Mùng một đầu tháng (sóc) và (2) ngày Rằm trăng tròn (vọng), các tín hữu phải tề tựu tới thánh thất để làm lễ, dưới sự chủ lễ của một chức sắc. Ngoài ra còn có những ngày đại lễ, cũng như những dịp hôn phối, lễ nhập đạo của dâu rễ hoặc con cái.

Lễ vật dâng cúng trong những buổi hành lễ rất đơn sơ, chủ yếu là hoa, rượu và trà, tượng trưng cho Tinh, Khí và Thần. Sáng sớm và buổi chiều cúng dâng nước trà, trưa và đêm thì dâng rượu lễ chưng cất bằng trái nho. Những ngày sóc và vọng hay đại lễ, kỵ giỗ, thì có thêm phần cúng lễ bằng hoa quả.

Trong lúc thờ phụng các tín hữu đọc kinh hoặc hát thánh ca theo trong sách đã soạn sẵn cho từng dịp lễ. Về nhạc lễ, các thể điệu được dùng trong đạo Cao Đài phần nhiều rất giống bài bản thường dùng trong lễ nhạc dân gian miền nam Việt Nam với bát âm và các nhạc cụ dân tộc như trống, chiêng, mõ, đàn, kèn, tiêu, thiều,v.v.

CHƯƠNG IV: TỔ CHỨC CỦA ĐẠO CAO ĐÀI      

Một cách tổng quát, đạo Cao Đài được tổ chức rất chặt chẽ với những sinh hoạt và quản lý rất có tính nội bộ – có phần giống với hệ thống tổ chức và phẩm trật tăng lữ của giáo hội Công giáo La Mã – với một Tòa thánh ở trung ương và ba ngành giống như tam quyền phân lập (lập pháp, hành pháp và tư pháp), cùng các cơ sở tôn giáo hàng dọc (hạ tầng cơ sở) ở cấp tỉnh, thành phố, thị trấn, làng xã, tương ứng với các cấp chính quyền trong một nước; từ trên xuống dưới, nếu đầy đủ thì có năm cấp. Ở hạ tầng cơ sở thì có Tỉnh đạo (hoặc Châu đạo), xuống tới Họ đạo (ở quận hoặc xã tùy vào số lượng phát triển tín đồ) Cao Đài, có các chức việc gọi là Ban Trị sự; còn việc tế tự tại thánh thất của Họ đạo (cũng có khi gọi theo lối dân giã là “chùa”) thì thường là một vị Lễ sinh cử xướng, do từ bên trên phong và cử xuống.

Đạo Cao Đài có các tu viện, được gọi là tịnh thất, dành cho những tín đồ muốn đến ở nội trú mà thường trực tu luyện ngày đêm.

Ngoài tầng lớp tín đồ, đạo Cao Đài có giới tăng lữ – không phân biệt nam nữ – bao gồm những vị Thiên phong từ phẩm trật Giáo hữu (để dễ hiểu, có thể so sánh với chức thánh Linh mục, Mục sư của Thiên Chúa giáo hay Tì kheo của Phật giáo) trở lên; cũng có chi phái gồm cả chức Lễ sinh vào giới tăng lữ.

Sách Lược sử Đạo Cao Đài của Hội thánh Truyền giáo Cao Đài có mô tả một cách chi tiết hệ thống tổ chức của Giáo hội, các cơ quan dành cho tăng lữ và dành cho quần chúng tín đồ với những danh xưng, chức năng và thẩm quyền tương ứng như dưới đây.

Để giáo hóa nhân sinh và quảng bá. rao truyền chân đạo, đạo Cao Đài thể theo ba yếu tố cấu tạo càn khôn sự vật là Lý, Khí, Hình hay Tinh, Khí, Thần, mà tổ chức Giáo Hội gồm có ba đài:  

      – Bát quái đài; 

      – Cửu trùng đài;

      – Hiệp thiên đài.

Bát quái đài (Octogonal Divine Palace), hay là Vô vi đài, tượng trưng cho hồn của Đạo. Bát quái đài do Đức Thượng đế Chí tôn thống ngự, chưởng quản toàn thể Phật, Thánh, Tiên, Thần và nắm quyền siêu rỗi toàn linh.

Cửu trùng đài (Palace of Nine Degrees of the Episcopal Hierachy), hay Hữu hình đài, tượng trưng cho xác của Đạo, hồn phải dựa vào xác để vận dụng cơ năng sinh hoạt hầu được tiến hóa. Bát quái đài cũng vậy, cần có Cửu trùng đài để làm cơ sở giáo hóa phổ độ chúng sinh. Cửu trùng đài có công năng mở đường giải thoát cho nhân sinh để thành Tiên tác Phật. Cửu trùng đài do Giáo tông (Pope) chưởng quản, tùng quyền điều độ lập pháp của Bát quái đài. Dưới Giáo tông có các cấp như:

      3 vị Chưởng pháp (Legis-Cardinal; Censor Cardinal)

      3 vị Đầu sư (Cardinal)

      36 vị Phối sư (Archbishop)

      72 vị Giáo sư (Bishop)

      3.000 Giáo hữu (Priest)

Lễ sinh (không giới hạn số lượ‹ng) (Student-Priest)

Chức việc (Chánh, Phó Trị sự và Thông sự)

Nhân sinh tín đồ.

Từ Giáo tông đến tín đồ gồm có chín phẩm, gọi chung là Hội thánh Cửu trùng Đài. Chức sắc Cửu trùng đài gồm: — Ba chức Thiên phong là 1/ Lễ sinh [để dễ hiểu, cương vị như chức Phó tế của Thiên Chúa giáo); 2/ Giáo hữu (cương vị như chức Linh mục, Mục sư, Tì kheo]; và 3/ Giáo sư (cương vị như chức Giám Mục của TCG]. — Ba chức Đại Thiên phong là 1/ Phối sư [cương vị như chức Tổng Giám mục của TCG); 2/ Đầu sư (cương vị như chức Hồng y của TCG]; và 3/ Giáo tông ‘tại thế’ (cương vị như chức Giáo Hoàng của TCG).

Chức sắc Đại Thiên phong hành sự tại Tòa thánh Trung ương.

Các chức sắc Thiên phong đi hành đạo khắp nơi, hoặc giữ các cơ quan hành sự trong Đạo.

Chức sắc Cửu trùng đài có 3 phái: 1) Thái; 2) Thượng; và 3) Ngọc. Cả ba được phân công phụ trách các cơ quan của Hội thánh để nâng đỡ tín đồ về các phương diện: a) nhân đức; b) nhân sinh; và c) nhân trí. Ba chữ Thái (Phật giáo), Ngọc (Khổng giáo), Thượng (Lão giáo) đứng trước tên thế gian của một tín đồ cộng với chữ Thanh làm thành thánh danh (tên thánh) của đạo hữu; cho thấy tôn giáo gốc của người đó trước ngày gia nhập đạo Cao Đài. Thí dụ Thái Hữu Thanh, Ngọc Quân Thanh, Thượng Huệ Thanh.

Hiệp thiên đài (Palace of Meeting Between God and Mankind; Temple of the Divine Alliance) là cơ quan bán hữu hình, làm trung gian giữa Bát quái đài và Cửu trùng đài, làm môi giới giữa vô vi và hữu hình. Hiệp thiên đài là nơi Giáo tông đến thông công cùng Đức Thượng đế và Chư Phật, Thánh, Tiên để điều độ đúng đường cơ phổ độ và siêu rỗi toàn linh.

Bát quái đài ban pháp lập đạo. Cửu trùng đài cầm pháp hành đạo. Hiệp thiên đài bảo pháp hộ đạo và cũng là cơ quan chuyên trách việc đàn cơ hiệp với Đấng Chí tôn trong tinh thần ‘Thiên Nhân hiệp nhất’.

Hiệp thiên đài đặt dưới quyền chưởng quản của Đức Hộ pháp (The Maintainer of the rules and laws; The Chief of Temple of Divine Alliance).

Dưới Đức Hộ pháp có 2 vị Thượng phẩm (Chief of the Sacerdotal Body) và Thượng sinh (Chief of All the Lessen Order of the Religion) cùng 12 Thời quân (Cardinal), phân ra ba chi 1) Thế (Life); 2) Pháp (Laws); và 3) Đạo (Religion).

Ngoài ra, trong hoạt động của Đạo, các quyết định hệ trọng đều do các hội cộng đồng quyết nghị, theo thứ tự từ dưới lên trên.

Hội Nhân sinh (The Popular Council) : gồm từ hàng Lễ sinh xuống đến tín đồ nam nữ.

Hội thánh (Sacerdotal Council, Assembly of Saints) : gồm từ Giáo hữu đến Phối sư

Thượng hội (The Superior Council) : gồm các chức sắc từ Chánh Phối sư trở lên.

Đại hội Vạn linh (The General Assembly of All the Souls) : gồm chung các Hội Nhân sinh, Hội thánh và Thượng hội, tức là toàn thể Giáo hội quyết định và cầu Đức Chí tôn phê chuẩn, theo lẽ Nhân ý hiệp cùng Thiên ý, tức là ‘Thiên Nhân hiệp nhất’. Vậy nên đạo Cao Đài không có tính cách thần quyền tuyệt đối.

Về giới luật tu hành, toàn thể giáo đồ đạo Cao Đài được chia thành bốn hạng:

Chức sắc Cửu trùng đài từ Lễ sinh trở lên, tất cả phải phế đời [bỏ việc đời qua một bên] hành đạo, trường trai thủ giới.

Chức sắc Hiệp thiên đài phải trường trai tuyệt dục giữ thân tâm thanh tịnh để chấp cơ tiếp xúc Thiêng liêng giáo hóa nhân sinh.

Tín đồ nam nữ giữ ngũ giới cấm, tứ đại điều qui, thiết Thiên bàn thờ tại nhà, lễ bái mỗi ngày bốn buổi (Tý, Ngọ, Mẹo [Mão], Dậu).

Hạng tối thượng nhất thừa không phân biệt chức sắc hay giáo đồ, hành đạo lâu năm, công viên quả mãn, ly gia cắt ái, được vào tịnh thất (hay thánh tịnh) tu luyện theo Thiên Đạo để siêu phàm nhập Thánh.

Như những gì được trình bày ở trên, đạo Cao Đài được tổ chức có qui củ, theo một qui mô chặt chẽ, rộng lớn, để có đủ khả năng và công dụng truyền bá chân (chơn) đạo khắp hoàn vũ (địa cầu).

CHƯƠNG V: THỜI KỲ MỞ MANG VÀ PHÂN CHIA CHI PHÁI

Theo cuốn Lược Sử Đạo Cao Đài đã dẫn thì

“Đạo càng ngày càng bành trướng, nhơn sinh tín ngưỡng càng thêm đông, thì sự mở rộng pháp môn để thêm nhiều phương tiện độ dẫn nhơn sinh tùy theo căn cơ trình độ mỗi người là việc tất nhiên. Do đó, đạo phân chia ra nhiều chi phái, mỗi chi phái tích cực hoạt động theo đường lối mình và đã đem mối đạo truyền rộng khắp các nơi.

“Sau khi đạo đã công khai tổ chức xong, Đức Ngô Minh Chiêu nhường cơ Phổ độ cho Ngài Đầu sư Thượng Trung Nhựt [Lê Văn Trung] để trở về Cần Thơ chuyên lo việc tịnh luyện, truyền dạy khoa nội giáo bí truyền, để đạt cơ siêu phàm nhập Thánh. Về sau Ngài qui liễu, môn đệ của Ngài lập thành phái đạo Chiếu Minh.”

Sự phân chia ngày càng nhiều, chính có phụ có. Để giúp tín đồ Cao Đài hiểu biết nhau hơn, chúng tôi có thể tạm thời liệt kê như sau :

Chiếu Minh: cũng gọi là Chiếu Minh Tam Thanh, do tiền bối Ngô Minh Chiêu thành lập, sau khi Ngài tách rời khỏi cơ Phổ độ về ở Cần Thơ ngày 24.04.1926. Về sau gọi là Chiếu Minh Vô vi vì chủ trương tu đơn (đan) và phân thành Chiếu Minh Long Châu, Cao Đài Thượng đế Hội giáo hay là Chiếu Minh đàn. (Việc trần thiết Thiên bàn của phái Chiếu Minh khác với bên Phổ độ; trên thờ Thiên Nhãn, dưới có tam bửu nhang đèn, thêm hình ngài Ngô). Về sau, phái Chiếu Minh cũng chia thành nhiều chi như: Khăn Trắng, Khăn Đen, Long Châu.

Minh Chơn Lý (1931-1935): đặt tại Cầu Vỹ (Định Tường) do tiền bối Nguyễn Văn Ca (Ngài Thái Ca Thanh) thành lập. Phái này hoạt động với sự cộng tác của phái Cầu Kho của tiền bối Trần Đạo Quang gồm quí vị chức sắc và đạo hữu hai miền Tiền Giang, Trung Giang và Hậu Giang như quí vị Lê Kim Tỵ, Nguyễn Văn Tòng, Nguyễn Văn Thiệu, v…v..

Phái Minh Chơn Lý theo đuổi ba mục đích : 1) chấn chỉnh nền đạo; 2) lo phổ độ người vào cửa đạo; và 3) ra kinh sách khuyến thiện như kinh Tu chơn thiệp quyết; Chánh giáo thánh truyền; Chánh tà yếu lý; Giác mê khải ngộ. Các bài kinh nhật tụng bằng chữ quốc ngữ như Kinh xưng tụng Thầy, Mẹ, Tam giáo.

Phái này ban đầu hoạt động rất qui mô, nhưng về sau thu hẹp dần nên sự phát triển rất hạn chế.

Tiên Thiên: do Ngài Giáo hữu Thượng Chính Thanh thành lập năm 1931, trụ sở trung ương tại Sóc Sải (Bến Tre). Trước ngày khai đạo, tiền bối đã theo học Đạo tại Toà thánh Tây Ninh. Sau tiền bối lập đồng tử riêng để cầu cơ nên rời khỏi Thánh địa Tây Ninh. Tiền bối về quê nhà làng Phước Mỹ Tây, quận Cái Bè (Định Tường) lập ra phái Tiên Thiên. Tiền bối hành đạo theo lối riêng của mình.

Vào khoảng hai năm 1932 và 1933 có một số chức sắc Minh Chơn Lý [chân lý] thích nghe thiên cơ nên gia nhập vào phái Tiên Thiên như quí vị Lê Kim Tỵ, Nguyễn Văn Tòng, v…v. Phái này lập Thất thập nhị tịnh và ấn tống nhiều kinh sách như Tiếng trống giác mê; Minh giáo thánh truyền; Thi văn diệu lý; Ngọc minh kinh; Diệu minh kinh; Bát bộ chơn kinh; Thánh đức chơn kinh, v.v..

Cơ bút phái Tiên Thiên phong cho tiền bối Thượng Chính Thanh làm Ngọc Chưởng pháp và chỉ định Vĩnh Nguyên Tự làm hội quán Hiệp thiên đài dưới quyền chưởng quản của tiền bối Ngọc Lịch Nguyệt (1890-1947).

Phái Tiên Thiên có một sắc thái riêng biệt, hoạt động rất rộng do nhiều chức sắc tài ba lỗi lạc, nên đã tạo tác được gần đủ 72 thánh tịnh, và sau cùng là xây dựng được một cơ sở có tầm mức quan trọng, lãnh sứ mạng đem Đạo về miền Trung thành công. Phái này chỉ phục sức toàn màu trắng.

4. Minh Chơn Đạo hay Cộng đồng Hội giáo: Đặt tại Giồng Bướm, quận Phước Long (Bạc Liêu), tên gọi là Toà thánh Ngọc Minh hay là Toà thánh Hậu Giang. Phái này do ba vị Đại Thiên phong của phái Minh Chơn Lý chủ trì là chư vị tiền bối Trần Đạo Quang, Cao Triều Phát, Nguyễn Văn Thiệu. Tiền bối Phát thụ phong Thái Chưởng Pháp. Sau Toà thánh Tây Ninh, phái Minh Chơn Lý, Ban Chỉnh Đạo, phái Tiên Thiên, phái Minh Chơn Đạo có một số thánh thất và nhiều đạo hữu rải rác khắp các tỉnh miền Hậu Giang. Phái này hành y theo Tân Luật và Pháp Chánh Truyền, lo việc phổ độ nhân sinh. Nhưng về sau, chuyển hướng, thờ Trái tim và Thập ngũ linh đăng.

Ban Chỉnh Đạo: Được thành lập vào năm Giáp Tuất (1934) do Ngài Đầu sư Ngọc Tương Thanh (Nguyễn Ngọc Tương), trụ sở trung ương tại Bến Tre. Ngài Đầu sư Ngọc Tương Thanh là vị Giáo phẩm đã rời Tòa thánh Tây Ninh sau cùng, khi sự hàn gắn nội bộ bị rạn nứt, không thể cứu vãn được nữa. Ngài về An Hội thuộc Châu Thành tỉnh Bến Tre, cùng với hai vị tiền bối Thiên phong là Lê Bá Trang và Nguyễn Văn Lai, lập ra Ban Chỉnh Đạo với tâm nguyện là lấy hậu thuẫn nhân sinh để chính đốn lại công việc của nền Đạo, nhưng ngược lại, lại đưa tới việc trở thành một Hội thánh biệt lập. Về sau gọi là Hội thánh Bến Tre mà tiền bối Nguyễn Ngọc Tương là Giáo tông. Tiền bối Lê Bá Trang được thăng lên chức Chưởng pháp.

Sau Toà thánh Tây Ninh, phái Bến Tre có tới mấy trăm thánh thất cùng mấy trăm ngàn tín hữu. Phái này hành đạo theo Tân Luật, Pháp Chánh Truyền và Thánh ngôn Hợp tuyển như buổi ban sơ. Tiền bối Tương nhập tịnh năm 1942  và qui vị năm 1951.

Bạch Y Liên đoàn: Do Ngài Đầu sư Ngọc Tài Thanh (Nguyễn Bửu Tài) thành lập năm Bính Tý (1936), trụ sở tại Rạch Giá.

Cầu Kho : thành lập năm 1930. Ban đầu chỉ có tên là tiểu Thánh thất Cầu Kho (Sài Gòn). Nơi đây từng là nơi sinh hoạt sớm nhất của các vị chức sắc tiền bối khi còn là nhà tư của cụ Đốc học Đoàn Văn Bản ở miệt Cầu Kho. Thánh thất này có chủ trương trung lập, dung hòa mọi chi phái, nhưng sau khi các phái đã thành hình và có sự hoạt động riêng rồi thì nơi đây lại cũng mặc nhiên trở thành một phái.

Thánh thất Cầu Kho nay đổi tên là Nam Thành Thánh thất, ở đường Nguyễn Cư Trinh, Sài Gòn. Đây là trung tâm tu học, thuyết pháp ra sách, báo chí, phổ độ nhân sinh.

Lãnh đạo phái này có quí vị tiền bối Đoàn Văn Bản, Vương Quan Kỳ, Võ Văn Tường, Trần Quang Minh, Huỳnh Trung Tuất, Nguyễn Phát Trước (tự Tư Mắc). Về sau thêm quí vị tiền bối Lương Văn Bồi, Phan Trường Mạnh, Trần Văn Quế, Nguyễn Văn Phùng….

Một số quí vị Thời quân Hiệp thiên đài ở Toà thánh Tây Ninh cũng từng đến đây hội đàm Đạo sự như quí tiền bối Nguyễn Bảo Pháp, Lê Bảo Thế, v.v.

Tây Ninh: Tòa thánh Tây Ninh chính là Tổ đình Trung ương của Đạo Cao Đài, không mang sắc thái của một phái. Nhưng vì đang lúc trong cơ phát triển, nội bộ Tòa thánh đã có sự bất đồng về chủ trương; về sau càng ngày càng rạn nứt nghiêm trọng. Cuối cùng các vị Đại Thiên phong chức sắc cao cấp lần lựợt ra đi để thành lập phái riêng hầu mong chấn chỉnh lại Tòa thánh, nhưng rồi rốt cuộc Tòa thánh cũng mặc nhiên thành một phái.

Hội thánh Truyền giáo Cao Đài: Được chính thức thành lập vào ngày 01.02 Bính Thân (1956), là hậu thân của Quyền Hội thánh Trung kỳ vốn được thành lập vào ngày 15.07 Kỷ Mão (1939). Đây là một giáo sở tiêu biểu cho sự phát triển rầm rộ không ngừng của nền Đại Đạo, đã do hầu hết các chi phái đạo ở miền Nam chung tay góp sức làm nên. Do đó, Hội thánh Truyền giáo Cao Đài tự thân không phải là một chi phái đối diện với các chi phái miền Nam, mà trái lại, Hội thánh Truyền giáo Cao Đài là hiện thân sự hòa hiệp của mọi chi phái Đạo, đúng như bản chất cố hữu mà Thánh giáo đã minh họa là “chung sức rán vun nền đạo đức”.

Sau đó, cơ Đạo miền Trung đã lần lượt hình thành qua các giai đoạn thời gian dưới sự hướng dẫn của Đấng Thiêng liêng, và nơi đây có một phương châm sinh hoạt thuần nhất, đó là giữ vai trò trung lập ”Không chi phái, không địa phương, chỉ một lòng phụng sự Đạo Trời”. Tuy nhiên, với phương châm ấy rồi cũng có một sắc thái đặc biệt của nó, cho nên cuối cùng Hội thánh Truyền giáo Cao Đài tại Đà Nẵng cũng đứng riêng thành một phái để chờ ngày hội hiệp với toàn thể. Hội thánh Truyền giáo Cao Đài đã trải qua ba giai đoạn phát triển để có được sự hiện hiện như ngày nay, đều đã được điều độ trên cơ sở Pháp Chánh truyền, Tân Luật và Thánh ngôn Hợp tuyển.

Thông Thiên Đài: do quí vị tiền bối Nguyễn Văn Nhã (bác sĩ), Lê Quang Hộ (đốc phủ) và Quách Văn Nghĩa (Đại điền chủ) lập nên. Ngoài ba vị ấy, còn có chín vị khác như tiền bối Huê Chương (tiền bối Thân), Nguyên Ngọc (tiền bối Đức), Cẩm Đình, Quảng Vân ..v…v.

Phái Thông Thiên Đài có liên lạc với Tòa thánh Tây Ninh nhưng không chịu qui về Toà thánh. Thánh thất phái này đặt tại Đông Sơn, tổng Hoà Đồng thượng (tỉnh Gò Công).

Liên Hoà Tông Phái: hay Liên Hoà Tổng hội đặt tại Thánh thất Cầu Kho (Sài Gòn) do tiền bối Nguyễn Phan Long và tiền bối Trần Văn Quế lập nên năm 1935. Vì nhận thấy sự chia rẻ chi phái làm tổn thương quá nhiều uy tín của nền Đạo nên phái này lập ra để liên hoà.

Trung Hoà Học Phái: hay Nữ Trung hoà (Trong sách Histoire et Philosophie du Caodaisme của Gabriel Gobron ghi lầm là hai phái) do quí tiền bối Phan Trường Manh, Trương Kế An tổ chức có tính cách thanh niên. Chú trọng vào sự học tập, hành đạo hơn là một chi phái có nhiệm vụ hành chính và phổ độ. Tiền bối An thụ phong Bảo Y Quân (1972)

Trung Hoà Học Phái đặt tại Thánh thất Minh Đức (Kiên Giang) do bà Nữ Đầu Sư Ngọc Nhiên Hương Chưởng quản. Hiện nay đặt tại Sài Gòn.

Tây Tông Vô Cực: do tiền bối Nguyễn Bửu Tài lập nên, trụ sở đặt tại thánh tịnh Tây tông Vô Cực cung ở làng Chẹt Sây (Kiến Hoà).

Phái này cũng như phái Tiên Thiên gồm các bậc chân tu, trường trai, tuyệt dục, ly gia cắt ái, chuyên luyện kim đan theo lối cổ. Sở dĩ gọi là Tây Tông nhằm đối lại với phái Đông Tông của tiền bối Ngô Minh Chiêu từ Phú Quốc dời về Sài Gòn (phía đông Nam phần).

Tuyệt Cốc: do hai tiền bối Nhuận và Ruộng (Nguyễn Ngọc Điền) trước làm công quả tại Toà thánh Tây Ninh, sau đó tách riêng với một số người xuống tóc, mặc áo dài tuyệt cốc (không ăn ngũ cốc) rồi cùng nhau vào đại điện của Đền (Tòa) thánh (Tây Ninh) lên ngồi trên bảy cái ngai trước Bát quái đài (gồm 1 ngai Giáo tông, 3 ngai Chưởng pháp và 3 ngai Đầu sư) (theo Hoài Nhân, Bốn mươi năm lịch sử đạo Cao Đài [1926-2966] Biên Hoà 1966). Chi phái này chưa có chức sắc, thánh thất, hành đạo và truyền đạo.

oOo

        Thực tế, ngày nay con số thánh thất tự trị lập nên rất nhiều; lắm nơi lớn mạnh, trong khi 14 chi phái vừa kể thì có một số hầu như chẳng còn dấu vết gì. Ngoài 14 phái trên, còn có các phái đáng kể thểm là :

Bạch Y Chơn Lý: Do quí vị tiền bối Nguyễn Văn Tòng, Tô Bửu Tài lập thành thánh thất tại Mông Thọ (Kiên Giang) gọi là Hội thánh Bạch Y chuyên lo phổ độ chúng sinh, củng cố nội bộ theo Tân luật, Pháp Chánh truyền, nhưng chỉ vận toàn đồ trắng.

Tam Kỳ Nguyên Bản: được thành lập bởi Ngũ vị Thiên sư của phái Minh Chơn Lý tách ra làm thành một nhóm gồm quí vị tiền bối Nguyễn Văn Kiên, Nguyễn Văn Phấn và nhiều vị nữa. Phái này đã đi đến chỗ siêu hình siêu tướng về cách thờ phụng, trên Thiên bàn không có hình tượng dấu hiệu gì cả. Thánh thất đặt tại Tiên An với lối kiến trúc đặc biệt, số lượng tín đồ ít.

Toà Thánh Nhị Giang: đặt tại Châu Đốc (An Giang). Toà Thánh này thi hành theo Tân Luật và Pháp Chánh truyền, và cũng có Hội thánh lưỡng đài.

Toà Thánh Tiền Giang: đặt tại thánh tịnh Minh Kiến Đài thuộc làng Hạnh Thông Tây, quận Gò Vấp (Gia Định).

CHƯƠNG VI: VIỆC HIỆP NHẤT CÁC CHI PHÁI

Vào khoảng các năm 1945-1946 quí vị tiền bối Nguyễn Hữu Đắc, Lê Kim Tỵ thành lập cơ quan Cao Đài Hiệp nhất để qui hiệp các chi phái. Về sau, Cựu Quốc trưởng Phan Khắc Sửu (1893-1979) thành lập Cao Đài Thống nhất cũng để qui tụ các chi phái, nhưng việc vẫn không thành.

Vào 15 tháng 6 năm Giáp Thìn (1964) một cuộc đại hội của Đại diện Hội Thánh các chi phái đạo Cao Đài tại Tam giáo điện Minh Tân (Sài Gòn) gồm có Đại diện của bảy Hội Thánh và Đại diện của chín tổ chức (cơ quan) Đạo, mục đích là tìm phương pháp qui hiệp thống nhất các chi phái Cao Đài về Toà thánh Tây Ninh. Đại hội giao cho tiền bối Phan Khắc Sửu chủ toạ phiên họp.

Đại hội quyết định thành lập ban vận động lấy hiệu là Tổng hợp Chi phái Cao Đài, tạm thời uỷ quyền cho tiền bối Trần Văn Quế (1902-1980) phụ trách việc tiếp xúc với các Hội thánh.

Đại hội Tổng hợp Chi phái Cao Đài họp ngày 16 tháng 7 năm Giáp Thìn (tức 23.8.1964) tại thánh thất Nam Thành gồm có bảy đại diện các Hội thánh. Sau khi bàn thảo, thành lập Ban Chấp hành Lâm thời với danh hiệu  Ban Vận động Tổng hợp Chi phái Cao Đài. Vị Tổng Thư ký là tiền bối Trần Văn Quế (Tiền bối Trần Văn Quế thụ phẩm Giáo sư tại Toà thánh vào năm 1948 và có chân trong Khảo Cứu vụ, đại diện Hội thánh Truyền giáo). Những chức vụ khác chia cho các chi phái sau đây: Hội thánh Nhị Giang, Toà thánh Tây Ninh, Bạch Y Liên đoàn, Cộng đồng Hội giáo, v.v. Về sau tiền bối Trần Văn Quế có hướng dẫn phái đoàn về Toà thánh Tây Ninh để thống nhất nhưng bất thành, vì còn có một số ý kiến chưa tương hợp.

oOo

          Như thế, tuy phân thành nhiều chi phái nhưng nói chung, việc tổ chức, thờ phụng và kinh sách vẫn tương đối không khác nhau nhiều. Cơ bản, các chi phái đều tôn trọng Thánh ngôn Hợp tuyển, Tân Luật và Pháp Chánh truyền.

Tác giả Huệ Minh đã trình bày thực trạng ấy với lòng thiết tha, cảm khái và những cái nhìn lạc quan như sau, trong bài “ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ: SÁNG KHAI – HÌNH THÀNH – PHÁT TRIỂN”, đăng ở báo Sống Đạo số 6, Xuân Quí Mùi 2003, tr. 60-61, như sau:

“Sự hình thành chi phái quá sức trầm trọng như kể trên, nhất định trong chúng ta không ai mong muốn cả. Tuy nhiên nếu tĩnh tâm mà phán xét thì trong sự phân chi phái ấy đã có một tác dụng lớn lao mà kết quả là cơ phát triển nền Đạo rất khả quan. Tác dụng này chỉ được phát sinh trong một thời gian tương đối ngắn, nhưng thành quả thì rất to lớn ngoạn mục. Thành quả này đối với con người, dù cá nhân ấy có tài trí đến bao nhiêu cũng khó đạt được.

“Ngoài ra, phái chi trong đạo Cao Đài tuy đã phơi bày một sự thực không kém phần chua chát, một tình huống quyết liệt đau buồn, thế mà trong đó hầu hết mọi người tín hữu Cao Đài của mọi chi phái tuyệt đối không có ý tỵ hiềm nhau, không có đối nghịch, hoặc hơn thế nữa, họ còn quí mến nhau và tỏ ra vui mừng vồn vã khi có dịp hội diện nhau.

“Một đặc điểm cao quí nhất trong các chi phái Cao Đài là vẫn thờ một Thầy là Thượng đế Chí tôn, vẫn thờ một Thánh tượng Thiên Nhãn, vẫn tụng một bài Chí tôn Bữu cáo như nhau và luôn luôn cầu nguyện cho nhau đến ngày triệt tiêu hết mọi hàng rào chi phái, thậm chí những hàng Chức sắc, Chức việc và Đạo tâm nam nữ đã tự ý tạo điều kiện cho nhau để được sinh hoạt chung dưới các hội trường thánh thất của nhau trong tinh thần cảm thông sâu sắc.

“Những sự thật đó khiến cho mọi người chúng ta tưởng chừng như đạo Cao Đài chưa bao giờ phân chia chi phái. Có lẽ hiện tượng đó là chân thật tự đáy lòng mọi người, nó là những ước mơ có thể trở thành thực sự trong một tương lai gần đây. Đó là niềm tin chính đáng mặc dù không kêu gọi thống nhất, nhưng vẫn có cơ sở đúng đắn, cho nên Đức Chí tôn dạy rằng:

            “Bửu tòa thơ thới trổ thêm hoa

            Mấy nhánh rồi sau cũng một nhà.

“Tóm lại, cơ phát triển của đạo Cao Đài đương diễn tiến không ngừng bằng nhiều cách, bằng nhiều yếu tố, nhiều nhịp độ khác nhau mà chúng ta với một khả năng hữu hạn của con người không thể nào nhìn thấy được, đó là điều hiển nhiên rất mầu nhiệm.”

NGUỒN BÀI ĐĂNG

 

Thứ Sáu, 27 tháng 10, 2023

Quân Minh chuẩn bị xâm lăng Đại Việt 1406: Lịch Sử Việt Nam Thời Tự Chủ- Bài 55

Quân Minh chuẩn bị xâm lăng: Kế hoạch tổng quát.

Hồ Bạch Thảo

Minh Thái Tông xua quân xâm lăng, với dã tâm vĩnh viễn đặt nước ta dưới ách cai trị; nên cử rất nhiều quan lại, như bọn Tham chính Vương Bình đi kèm với đoàn quân Chu Năng; liệu tính chiếm cứ được chỗ nào thì sẵn sàng cai trị chỗ đó:

“Ngày 18 tháng 7 năm Vĩnh Lạc thứ 4 [1/8/1406]. Sai bọn Tham chính Phúc Kiến Vương Bình theo Thành quốc công Chu Năng đến An Nam làm việc. Từ nay, phàm những nhân tài có thể đảm nhiệm được chức vụ được lần lượt sai đi.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 1, trang 230 ) 

Với nhu cầu đòi hỏi nhiều nhân lực, nhà Vua ra lệnh các quan văn võ có tội, cho phép đi theo đoàn viễn chinh để lập công chuộc tội:

“Ngày 12 tháng 5 năm Vĩnh Lạc thứ 4 [29/5/1406]. Ðô chỉ huy Từ Chính Hà Nam có tội, bị biếm trích tòng chinh An Nam để lập công chuộc tội.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 1, trang 221)

“Ngày 13 tháng 5 năm Vĩnh Lạc thứ 4 [ 30/5/ 1406 ]. Phục chức Tả Tham chính Trử Ngẩu, Tả Tham chính Tô Cung thuộc ty Bố chánh Giao Chỉ.Trước đây hai người phạm tội; Ngẩu bị giáng xuống Tả Tham nghị, Cung giáng làm Viên Ngoại lang bộ Hộ. Nay dùng binh tại An Nam, cần cung cấp nhiều quân nhu, Quảng Tây tâu rằng bọn Ngẩu lo việc này, nên cho trở lại chức cũ.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 1, trang 221)

Kẻ đào thoát nhà Hồ, như Bùi Bá Kỳ, được ban áo mũ, theo đại quân trở về nước:

“Ngày 18 tháng 5 năm Vĩnh Lạc thứ 4 [4/6/1406]. Ban cho Bùi Bá Kỳ người An Nam mũ và dây đai. Mệnh theo đại quân Nam chinh.” ( Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 1, trang 222)

Nhắm mua chuộc người nước ta trong bước đầu cai trị, Minh Thái Tông ra lệnh không giết những người ra hàng, và tha những tù nhân bị nhà Hồ bắt:

“Ngày 25 tháng 7 năm Vĩnh Lạc thứ 4 [8/8/1406]. Sắc dụ quan Tổng binh chinh phạt An Nam Thành quốc công Chu Năng 

 ‘ Sau khi quân khắc phục An Nam, phàm những người trong nước trước đó bị giặc họ Lê bắt đều được thả cho về.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 1, trang 230)

“Ngày 16 tháng 9 năm Vĩnh Lạc thứ 4 [27/10/1406]. Sắc dụ bọn Chinh thảo An Nam quan Tổng binh Thành quốc công Chu Năng rằng việc trong quân đã có sắc dụ dự liệu đầy đủ, các ngươi nên cân nhắc kỹ mà thi hành. Khi lâm địch, nếu bọn chúng cầm quân chống cự thì giết không tha; nếu đầu hàng, xin qui phục cùng trốn tránh thì đừng giết, thể theo lòng thương người của ta.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 1, trang 235)

Ngày 2 tháng 7 nhuần năm Vĩnh Lạc thứ 4 [15/8/1406] Minh Thái Tông ban sắc dụ cho Thành quốc công Chu Năng, về cách xử trí đối với thư tịch, bản đồ tịch thu tại An Nam, như sau:

“Sắc dụ chinh thảo An Nam quan Tổng binh Thành quốc công Chu Năng:

‘Quân vào An Nam đánh chiếm các quận ấp, phàm tịch thu được thư tịch, bản đồ, đều không được hủy.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 1, trang 231)

Về việc tịch thu sách, một số nhà nghiên cứu trong nước, dùng sử liệu từ sách Việt Kiệu Thư [越峤书] của Lý Văn Phượng thời Gia Tĩnh triều Minh, trưng một sắc dụ khác cho là của Minh Thành Tổ [tức Minh Thái Tông được suy tôn là Thành Tổ thời Gia Tĩnh] đề ngày 8 tháng 7 nhuần năm Vĩnh Lạc thứ 4 [21/8/1406], nguyên văn như sau:

。除 。外 。如 。片 。其 .

(Khi quân vào, trừ các kinh sách Thích, Đạo thì không hủy; ngoài ra mọi thư tịch văn tự cho đến những câu nhà quê, sách dạy trẻ, như loại văn “Thượng đại nhân, Khâu ất dĩ” (1); thì một tờ giấy, một chữ đều hủy. Trong nước có bia do Trung Quốc lập thì lưu giữ, nhưng do An Nam lập thì hủy hoại, một chữ cũng không giữ.).

Hai sử liệu nêu trên, nội dung tương phản với nhau, bởi vậy nhà nghiên cứu cần dùng phương pháp khoa học để chứng minh sử liệu nào đáng tin cậy hơn. Phương pháp chúng tôi sử dụng, trước tiên đánh giá nguồn sử liệu, theo mẫu tự A,B,C,D; kế đến cân nhắc giá trị của sử liệu theo số thứ tự 1,2,3,4.

Về đánh giá nguồn sử liệu; hãy xét đến sử liệu thứ nhất, xuất xứ từ Minh Thực Lục, sách này được biên soạn bởi những nguồn tài liệu sau đây : 

Khởi Cư Chú ( ) tức nhật ký ghi lại việc làm cùng lúc nghỉ ngơi của nhà vua. Truyền thống này bắt nguồn từ thời nhà Chu [-1100-221], do quan Tả sử chép lời, Hữu sử chép việc; nhiệm vụ ghi lại lời nói và việc làm của nhà vua trong triều.

Nhật lịch ( ) ghi chép sự việc hàng ngày theo trình tự thời gian.

Các văn kiện chính thức được thu thập từ chiếu dụ của Vua; cùng tấu, biểu của các quan và các nước chư hầu.

Sau khi vị Vua đương nhiệm mất, Sử quan có nhiệm vụ tổng hợp tài liệu để hoàn thành Thực Lục cho đời Vua này; việc làm được giám sát bởi quan Trung Thư tỉnh và Ngự sử. Bộ sử lúc làm xong chỉ chép thành hai bản; một bản dành cho Vua, để trong nội cung ; bản thứ hai dành cho các quan Đại thần cất tại nội các, dùng để tham khảo. Qua những điều đã trình bày, khẳng định Minh Thực Lục là chánh sử, độ tin cậy cao, đáng xếp vào loại A.

Nguồn cung cấp cho sử liệu thứ hai là Việt Kiệu Thư; trang mạng Bách Khoa của Trung Quốc [baike.com] giới thiệu sách này và thân thế tác giả Lý Văn Phượng như sau:

《越峤书》明李文凤撰。文凤字廷仪,宜山人。嘉靖壬辰进士,官至云南按察司佥事。是书皆记安南事迹,朱彝尊《曝书亭集》有《越峤书跋》,称为有伦有要,於彼国山川、郡邑、风俗、制度、物产,以及书诏、制敕、移文、表奏之属,无不备载。而建置兴废之故,亦皆编次详明。然大致以黎崱《安南志略》为蓝本,益以洪武至嘉靖事耳。

(Sách Việt Kiệu Thư do Lý Văn Phượng đời Minh soạn. Văn Phượng tự là Đình Nghi, người đất Nghi Sơn, đậu Tiến sĩ năm Nhâm Thìn đời Gia Tĩnh [1532], làm quan đến chức Án sát ty thiêm sự tỉnh Vân Nam. Sách này đều chép sự tích về An Nam. Chu Di Tôn trong sách Bao Thư Đình Tập có ghi lời bạt sách Việt Kiệu Thư;cho rằng sách có trình tự, chép điều quan yếu về sông núi, quận ấp, phong tục, chế độ, sản vật; cùng chiếu thư, chế sắc, di văn, biểu tấu các loại đều ghi đầy đủ; còn nguyên nhân kiến trí hưng phê cũng biên rành rẽ. Tuy nhiên phần lớn sách dùng An Nam Chí Lược của Lê Trắc làm lam bản [bản gốc làm căn cứ]; cộng thêm sự việc từ thời Hồng Vũ [Minh Thái Tổ] đến thời Gia Tĩnh [Minh Thế Tổ].)

Qua những lời giới thiệu sách, thấy rằng Việt Kiệu Thư là dã sử do tư nhân làm ra, tư liệu thu thập từ dân chúng, chứ không phải từ Khởi Cư Chú, Nhật Lịch, là nguồn phát xuất ra sắc dụ; tác giả sống cách xa lúc xãy ra sự việc, đến khoảng 130 năm. Với những yếu tố này, đáng đánh giá nguồn sử liệu của tư liệu trong sách Việt Kiệu Thư vào loại B.

Công việc thứ hai là tìm hiểu giá trị của sử liệu. Sắc dụ trong Minh Thực Lục  ra lệnh “tịch thu được thư tịch, bản đồ, đều không được hủy”; xin nêu lên một vài bằng cứ chứng minh một số tư liệu xưa, chưa hủy:

– Trong sắc dụ thành lập các phủ, huyện vào ngày 1 tháng 6 năm Vĩnh Lạc thứ 5 [5/7/1407], nhà Minh đã dựa vào địa lý chí An Nam thời Trần Hồ, đổi 38 địa danh hàm ý độc lập tự chủ, như phủ Long Hưng đổi thành Trấn Man; ngoài ra vẫn giữ nguyên tên 15 phủ và hàng trăm huỷện. Làm được việc này, họ phài có tư liệu về địa lý chí thời Trần Hồ trong tay; đó là bằng cứ thư tịch không hủy. Chính Học giả Đào Duy Anh đã tham khảo tư liệu này để soạn địa lý chí thời Trần Hồ trong sách Đất Nước Việt Nam Qua Các Đời.

-Lại cần phải nói thêm, bộ Việt Sử Lược [越史略] hoàn thành tại nước ta vào cuối đời Trần vẫn được Tứ Khố Toàn Thư Trung Quốc lưu giữ. Thực tế tại trong nước, các bia đá thời Lý, Trần còn lưu lại không ít. 

Những bằng chứng đã trình bày, có thể xếp giá trị sử liệu về ” thư tịch, bản đồ, đều không được hủy” vào loại 1.

Với những bằng chứng nêu trên, đương nhiên phủ nhận sứ liệu “mọi thư tịch văn tự cho đến những câu nhà quê, sách dạy trẻ, như loại văn “Thượng đại nhân, Khâu ất dĩ”; thì một tờ giấy, một chữ đều hủy.” ghi trong Việt Kiệu Thư là không có cơ sở. 

Đáng buồn cho Lý Văn Phượng, một khoa bảng triều Minh, nhưng không hiểu rõ lịch sử về triều đại này. Về mặt tàn ác, Minh Thái Tông vượt cả Tần Thủy Hoàng; về việc giết người, nhà Tần chỉ mới tru di đến 7 họ; riêng Minh Thái Tông chiếm kỷ lục tru di đến 10 họ; trang mạng wikipedia.org/wiki/族誅 chép như sau:

史上唯一一次诛十族的记载发生于中国明朝。明成祖朱棣誅方孝孺十族事件:燕王朱棣發動靖難之變,奪其侄子明惠帝的天子寶座,入主金陵。朱棣登基,命忠於皇室的方孝孺起草即位詔書。方孝孺不但寧死不從,更予以辱罵,於詔書上寫上「燕賊篡位」四字。朱棣怒以誅九族威嚇之。方孝孺卻訕笑似地說:「便十族奈我何!」朱棣便把其門生朋友歸入第十族,連同原來九族一併誅殺。最終共誅殺八百七十三人,

(Lịch sử Trung Quốc chỉ ghi 1 lần tru di thập tộc [giết 10 họ]; sự việc xãy ra dưới triều Minh; đó là sự kiện Minh Thành Tổ Chu Lệ tru di 10 họ Phương Hiếu Nhụ. Bấy giờ Yên vương Chu Lệ phát động binh biến đoạt ngôi Vua của cháu là Huệ Đế, vào làm chủ Kim Lăng. Khi Chu Lệ giữ ngai vàng, bèn sai trung thần Phương Hiếu Nhụ soạn chiếu thư lên ngôi. Phương Hiếu Nhụ không những chịu chết không tuân, lại còn nhục mạ bằng cách viết lên chiếu thư 4 chữ “Giặc Yên soán ngôi”. Chu Lệ giận, doạ tru di 9 họ; Phương Hiếu Nhụ bèn cười ngạo rằng:

‘Giết 10 họ cũng chẳng ăn nhằm gì!’

Chu Lệ bèn nghĩ ra cách, lấy bạn bè cuả học trò làm họ thứ 10; cộng thêm nguyên lai 9 họ; đều đem ra giết. Tổng kết tru giết 873 người.) 

Một ông Vua hiếu sát như vậy, một khi ra lệnh, trên dưới đều phải răm rắp tuân theo. Ngay cả Tổng binh Trương Phụ, người chiếm công đầu trong chiến tranh An Nam; nhận lệnh Thái Tông, 4 lần lặn lội từ hai nước Hoa, Việt; đi về đường xa xôi vạn dặm, mà không dám có một lời than thở. Thế mà trong Việt Kiệu Thư sắc chỉ đề ngày 10 tháng 5 năm Vĩnh Lạc thứ 5 (15 – 6 – 1407), lại có hiện tượng “Nay nghe trong quân tìm được văn tự, mà không ra lệnh quân lính đốt hủy” ( ). Rồi nhà Vua lại ôn tồn bảo phải hủy đi “Các ngươi ngày nay nên làm như sắc dụ trước; lệnh trong quân tại xứ đó nếu bắt gặp thư tịch văn tự thì lập tức hủy, không được lưu giữ ” ( 。號 便 ).

Thử hỏi Minh Thái Tông nỗi tiếng độc tài, có lẽ nào năm Vĩnh Lạc thứ 4 [1406] ra lệnh hủy sách,mà đến năm thứ 5 [1407] kẻ dưới quyền vẫn chưa chịu hủy? Sau khi biết không chịu hủy, lại để yên, không trừng phạt tru di 10 họ như đã làm, thì lại càng lạ hơn!

Qua phân tích, thấy được giá trị sử liệu về việc đốt sách ghi trong Việt Kiệu Thư chỉ nên xếp vào loại 3 thôi. Tổng kết nguồn tư liệu trong Minh Thực Lục được đánh giá A1, tư liệu trong Việt Kiệu Thư chỉ đánh giá B3; nhà nghiên cứu chỉ biết dựa vào khoa học mà chọn lựa!

Cũng cần nói thêm, việc tịch thu, giữ kín thư tịch văn hóa nước ta, là điều thâm hiểm muôn đời. Đòi hỏi các nhà nghiên cứu yêu nước, cần rà soát các thư viện, viện bảo tàng khắp thế giới, lần lượt tìm tòi cho ra; vì không chỉ thư tịch dấu tại Trung Quốc, trong thời Bát quốc liên quân vào chiếm Bắc Kinh, cũng đã mang một số lượng không nhỏ ra nước ngoài. 

Trở lại vấn đề, cuộc hành quân xâm lăng An Nam, Minh Thái Tông đã hoạch định sẵn nhật kỳ; thượng tuần tháng 10 vào biên giới, thượng tuần tháng 11 tổng tấn công phía bắc sông Hồng. Nhắm hoàn thành kế hoạch, Thái Tông ân cần dặn dò Tây bình hầu Mộc Thạnh luôn luôn giữ hòa khí với chủ tướng, báo cáo rõ ràng để tránh hiểu lầm:

“Ngày 6 tháng 7 năm Vĩnh Lạc thứ 4[20/7/1406]. Sắc dụ Phó Tướng quân chinh thảo An Nam Tây Bình hầu Mộc Thạnh:

‘Cổ nhân dạy rằng quân thắng nhờ nội bộ hòa, bởi vậy quân môn được gọi là hòa môn. Ngươi giữ chức Phó Tổng Chỉ huy, tùy cơ nghi, xét tình thế, không trở ngại thì có quyền điều động. Nếu quan Tổng binh mưu tính từ xa, vô tình gây trở ngại cho cánh quân của ngươi, hoặc giả bọn ngươi đang giao tranh với giặc, hay đường sá tắc nghẽn thế không đến được, thì phải báo cáo rõ ràng, không được cố tình vi phạm để đến nỗi tổn thương hòa khí. Tướng soái bất hòa là con đường dẫn đến thất bại, ngươi nên cẩn thận!” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 1, trang 227)

Về phía chủ tướng Thành quốc công Chu Năng, Thái Tông dặn phải hết sức cẩn thận, lúc chưa phối hợp được với đạo quân Vân Nam: chớ mắc mưu, thọc sâu nguy hiểm; hoặc nghe lời dụ dỗ nạp cống, rồi lơ là bị địch đánh úp:

“ Ngày 10 tháng 7 năm Vĩnh Lạc thứ 4 [24/7/1406].Dụ  bọn chinh thảo An Nam  quan Tổng binh bọn Thành quốc công Chu Năng rằng:

‘ Nay quân của ngươi từ Quảng Tây, cùng với quân của Tả Tướng quân Mộc Thạnh từ Vân Nam vào đánh, hai quân cần phải hợp lực để bình định cho xong. Nếu giặc thừa lúc hai đạo quân chưa gộp lại được, tìm cách ngăn trở bằng cách dùng lợi nhỏ để dụ, quân ta tự thị dõng mạnh lại tham, để quân đơn độc thọc sâu, đó là con đường nguy hiểm! Hoặc bọn giặc làm bộ qui phục xin nạp khoản (2) để làm giải đãi lòng quân; nhưng bí mật đặt mưu riêng như đánh úp, cậy hiểm đặt quân mai phục; nhắm vào chổ ta không liệu tính được; hoặc bỏ thuốc độc vào thực phẩm nước uống đợi lúc quân ta đói khát. Mưu giặc quỉ quyệt ngàn phương vạn lối, không thể không cẩn thận. Tuy nói rằng quân Vương giả điếu dân phạt tội hành động chính đáng; nhưng đừng như Tống Tương công [đời Đông Chu] tự cho mình là nhân nghĩa, nước khác không thể dùng chước lạ mà đánh được, rốt cuộc bị bại vong. Bọn các ngươi hãy thận trọng, tùy cơ ứng biến, chọn điều lợi mà làm, ta không xen vào để ngăn cản. Sắc cho Tả Tướng quân Tây bình hầu Mộc Thạnh cùng biết.” (Minh Thực Lục quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 1, trang 227)

Thái Tông lại căn dặn Tây bình hầu Mộc Thạnh tìm cách liên lạc với đạo quân Quảng Tây, để tiến cùng nhịp độ; lúc chưa phối hợp được với lực lượng bạn, quân cô cần tránh giao tranh:            

“Ngày 16 tháng 7 năm Vĩnh Lạc thứ 4 [30/7/1406]

Sắc dụ chinh thảo An Nam Tả Phó Tướng quân Tây bình hầu Mộc Thạnh rằng:

‘Ngày hôm nay đạo quân của Tổng binh Thành quốc công Chu Năng đã khởi hành; định vào thượng tuần tháng mười từ Bằng Tường (3) Quảng Tây tiến quân vào ải Pha Lủy (4) , Kê Lăng; thượng tuần tháng 11 vượt sông Phú Lương [Hồng Hà]. Xem bản đồ tình hình giặc, quân ngươi gần với Tây Đô (5) của giặc hơn, sợ thừa cơ thuận tiện chúng đánh quân ngươi trước, nên phải liệu khi quân của Thành quốc công gần, mới tiến theo nhịp độ nhanh chậm, yểm trợ lẫn nhau, hoặc do đường khác đến ngay phía bắc sông Phú Lương, rồi hai quân gộp lại cũng là một cách; nhưng phải tiên liệu hành trình, ước tính kỳ hẹn rồi báo trước cho Thành quốc công hay. Nếu gặp chổ hiểm yếu, giặc dùng khinh binh khiêu chiến, thì cứ án binh bất động; trường hợp quân ta bất đắc dĩ phải đối địch với binh lực lớn của giặc, thì phải cảnh giác cẩn thận, nhắm bảo toàn lực lượng.” (Minh Thực Lục quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 1, trang 229)

Trái với các cuộc chiến tranh xâm lược từ thời Minh trở về trước, quân Trung Quốc có khuynh hướng dồn nỗ lực tại Bắc Ninh, vượt sông, đánh kinh thành Thăng Long. Lần này Minh Thái Tông chủ trương đem quân nhỏ đánh nhử tại Gia Lâm, dùng nỗ lực chính tập trung 2 đạo quân Quảng Tây, Vân Nam đánh dứt điểm thành Đa Bang tại tỉnh Sơn Tây:

“Ngày 1 tháng 8 năm Vĩnh Lạc thứ 4 [12/9/1406]. Sắc dụ chinh thảo An Nam  bọn quan Tổng Binh Thành quốc công Chu Năng:

“An Nam là chốn cùng tịch nơi góc biển, xưa là quận huyện của Trung Quốc; từ đời Ngũ Quí trở về sau Trung Quốc lắm việc nên không chế ngự được. Đến đời Tống, Nguyên, chúng thường bội nghịch; đã dùng binh thôn tính, nhưng không thành công. Nay giặc họ Lê nghịch mệnh; Trẫm ra lệnh các ngươi mang binh thảo phạt, hãy định ngày thành công. Sở dĩ Tống, Nguyên trước kia vô công vì tướng kiêu, lính lười, tham của, hiếu sắc; các ngươi phải lấy đó làm răn.

Sông Phú Lương [Hồng Hà] gần thành Đông Đô của giặc, chúng ắt phải cố thủ; quân ta vào sâu lòng địch khó có thể dùng lối đánh dằng dai; nếu đến Gia Lâm (6) muốn vượt sông cần có đủ thuyền bè, lại phải giao tranh suốt ngày không khỏi mệt quân lính. Chi bằng lúc đại binh chưa tới, cho kỵ binh du kích đột kích Gia Lâm, đối ngạn với giặc; bắt đầu có thể dùng khoảng 100 tên, trong ngày tăng lên đến hàng ngàn, đêm đốt lửa bắn pháo chế ngự và lừa giặc. Còn đại quân hướng về thượng lưu sông Phú Lương, chọn nơi nước cạn cùng với quân Tây bình hầu Mộc Thạnh họp lại cùng vượt sông, nhắm yếu tố bất ngờ nên dễ thành công. Ý Trẫm như vậy, nhưng từ xa xôi khó tính toán chính xác; các ngươi cần tự mình lập mưu, vì từ xưa đến nay kẻ dùng binh giỏi, đều nhân nhược điểm của địch mà chế thắng.” (Minh Thực Lục quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 1, trang 232)

Sử Việt Nam, Toàn Thư chép vào tháng 6 năm Khải Đại thứ 4 [16/6-14/7/1406], nhà Hồ ra lệnh cho dân tại phía bắc sông Hồng, thực hiện vườn không nhà trống, chuẩn bị di cư sang phía nam sông, khi quân Minh đến:

“Khi quân Minh mới vào cõi, ra lệnh cho nhân dân đều phá bỏ hết lúa má; các xứ Lạng Châu, Vũ Ninh, Bắc Giang, Gia Lâm, Tam Đái, đều nghiêm chỉnh làm vườn không nhà trống. Quân Minh rút đi, nhân dân lại phục nghiệp như cũ” Toàn Thư, Chính biên, quyển 8.

Kế đó vào tháng sau, Vua nhà Hồ ra lệnh đóng cọc gỗ phòng thủ tại phía nam sông Hồng và vùng Lạng Sơn đến hạ lưu sông Thương:

“Mùa thu, tháng 7 [15/7-13/8/1406], Hán Thương ra lệnh cho các lộ đóng cọc gỗ ở bờ phía nam sông Cái, từ thành Đa Bang đến Lỗ Giang và từ Lạng Châu đến Trú Giang (7) để làm kế phòng thủ. Hán Thương hạ lệnh cho dân Tam Đái và Bắc Giang tích trữ lương thực, vượt sông sang làm nhà cửa ở chỗ đất hoang, chuẩn bị di cư đến đó.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 8.

Chú thích:

1. Theo trang mạng Bách Khoa [baike.com] giải thích Thượng đại nhân, Khâu Ất Dĩ ghi trong bộ bài giải trí, có các quân, mỗi quân có hình vẽ, biểu tượng như sau: “上大人,丘乙己,化三千,七十贤,八九子,佳作美,尔小生,可知礼” (Thượng đại nhân, Khâu Ất Dĩ, hoá tam thiên, thất thập hiền, bát cửu tử, giai tác mỹ, nhĩ tiểu sinh, khả tri lễ).

2. Trò chơi này ý chỉ: Khổng Tử thưa cha Thượng đại nhân, con là Khâu Ất Dĩ, dạy được 3000 học trò, trong đó có 72 người hiền, có 8, 9 trẻ (chỉ thập triết) , đều là tốt; các ngươi trẻ nhỏ, có thể biết lễ nghĩa.

Nạp khoản: nước nhỏ nạp cống cho nước lớn để xin qui phục gọi là nạp khoản.

3. Bằng Tường: nay thuộc huyện Bằng Tường, tỉnh Quảng Tây, gần sát ải Nam Quan.

4. Pha Lủy: tức ải Nam Quan.

5. Tây Đô: tại Thanh Hóa.

6. Gia Lâm: Thời Trần Hồ, Gia Lâm là một huyện thuộc lộ Bắc Giang, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh.

7. Trú Giang: Toàn Thư chú thích rằng có lẽ thuộc hạ lưu sông Thương.


NGUỒN BÀI ĐĂNG