XIN CHÀO VÀ CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ ĐẾN VỚI BLOGSPOT.COM CỦA LUU VAN CHUONG

Thứ Ba, 25 tháng 11, 2025

TẦN CỐI ÔM HẬN VÌ MỘT QUẢ LỰU

Video cho người lười đọc: https://youtu.be/k4EtCA5AlJQ
Tần Cối là một gian thần khét tiếng thời Nam Tống, đồng thời cũng là một kẻ bủn xỉn, tham lam và độc địa. Sự phát tích của Tần Cối bắt nguồn từ một phong tục thời Tống, gọi là bảng hạ tróc tế tức là bắt rể dưới bảng vàng. Ban đầu, Tần Cối chỉ là một anh học trò nghèo, từng làm thầy đồ dạy tư thục ở quê nhà. Không cam tâm sống cảnh nghèo hèn, Tần Cối quyết định đến kinh thành dự khoa cử.
Năm Chính Hòa thứ 5 (năm 1115), Tần Cối đỗ Tiến sĩ. Khi yết bảng, hắn bị Tể tướng Vương Khuê bắt làm cháu rể, hứa gả cháu gái và của hồi môn tới 20 vạn quan tiền. Lúc bấy giờ, tổng thu nhập một năm của nhà Tống chỉ khoảng một triệu quan, thế là Tần Cối một bước lên mây, cưới được bạch phú mỹ và bước vào tầng lớp thượng lưu.
Khi làm Tể tướng, Tần Cối nắm giữ quyền hành lâu năm, lộng hành tác oai tác quái. Ai muốn thăng quan phát tài đều phải biết điều đút lót, tâng bốc hắn. Quan lại ở kinh thành chỉ cần dâng lễ vật hậu hĩnh và ca tụng công đức của hắn là lập tức được giữ chức vụ cao, thậm chí có người chỉ một hai năm đã từng chức quan kinh thành bình thường leo lên đến hàng Phó Tể tướng. Vì phúc lợi của quan kinh thành cao, các quan ở địa phương ra sức tìm cách điều về kinh, còn quan tại kinh thì rất kỵ bị điều ra ngoại tỉnh.
Có một người chuyên kể chuyện cười tên là Vương Trọng Tuân, thường diễn độc thoại trong giới quyền quý. Có lần tại phủ Tần Cối, các quan chờ được tiếp kiến ngồi chật phòng. Thấy mọi người chán chờ, Vương Trọng Tuân đứng dậy nói: Tướng công chưa ra, để tôi kể một chuyện cho mọi người tỉnh táo. Mọi người biết anh ta hài hước, giỏi kể chuyện cười, nên đều vểnh tai nghe.
Vương Trọng Tuân hắng giọng kể: Ngày xưa có một viên quan đi tiếp khách, ở nhà lại có khách đến chơi. Người giữ cửa thưa: Chủ nhân của tôi “bất tại”.
Người khách đột nhiên nổi giận: Ngươi chửi ai đấy? Chỉ có người chết mới gọi là Bất tại! Ta với đại nhân nhà ngươi là bạn thân thiết, tin không khi hắn về ta sẽ mách lão?
Người giữ cửa vội vàng xin lỗi: Tiểu nhân không biết quy củ, vậy ngài bảo nên trả lời thế nào?
Người khách bày cách: Ngươi hãy nói đại nhân của nhà ngươi Xuất khứ.
Không ngờ người giữ cửa mặt ủ mày ê nói: Nhưng đại nhân nhà tôi thà chết còn hơn nghe thấy hai chữ Xuất khứ đó!
Dưới sự thao túng của Tần Cối, các quan coi việc bị điều ra ngoại tỉnh còn đáng sợ hơn cái chết, đến mức Xuất khứ cũng trở thành từ nhạy cảm nơi công sở.
Tần Cối không chỉ bóc lột tiền bạc của quan lại trong triều, mà còn nhắm vào các đại gia ở thành Lâm An. Tay chân của Tần Cối là Tào Vĩnh giữ chức Phủ doãn Lâm An, quan đứng đầu thành Lâm An. Một hôm, Tần Cối bày tiệc lớn khoản đãi các quan. Theo sự xúi giục của Tần Cối, Tào Vĩnh chạy đến báo cáo rằng dân chúng phản ánh trên thị trường đang thiếu tiền mặt lưu thông, hàng hóa tồn đọng không bán được, mỗi ngày đều có tiểu thương cãi vã.
Tần Cối lập tức cho triệu tập quan lại từ Văn Tư viện, cơ quan phụ trách đúc đồ vật và tiền tệ bằng vàng bạc. Viên quan Văn Tư viện nghe Tể tướng triệu kiến, không dám chậm trễ, vội vã chạy đến chờ lệnh.
Tần Cối nói với viên quan đó: Vừa nhận thánh chỉ cải cách tiền tệ, các ngươi hãy theo mẫu tiền kẽm kiểu cũ mà đúc một chuỗi tiền mới để ta dâng lên Hoàng thượng xem xét. Từ nay về sau sẽ bãi bỏ hoàn toàn tiền đồng đang lưu hành. Và yêu cầu ngày hôm sau phải đúc xong mẫu cho hắn xem. Quan Văn Tư viện không dám trái lệnh, chạy về lập tức tập hợp thợ nhanh chóng thiết kế mẫu tiền mới suốt đêm.
Sau khi yến tiệc kết thúc, các đại gia ở Lâm An đã nhận được tin, nghe nói sắp bãi bỏ tiền cũ, vội vàng đem số tiền chôn giấu trong hầm ra mua gạo vải. Kết quả là giá cả tăng vọt, tiền tệ trên thị trường lập tức dồi dào. Còn Tần Cối và đồng bọn thì bán tống hàng hóa đã tích trữ sẵn từ trước để kiếm lời lớn. Đến khi mẫu tiền mới được dâng lên Tần Cối, chuyện tiền mới đó không còn ai nhắc tới nữa.
Trong xã hội cổ đại thông tin bế tắc, Tần Cối rất thấu hiểu sức mạnh lan truyền của tin vặt. Hắn cố ý chọn dịp yến tiệc để triệu kiến quan lại, thông qua mệnh lệnh hành chính bán công khai để tạo ra cảm giác chân thực về một chính sách sắp được ban hành. Loại thông tin được phát ra từ kênh bán chính thức này thường có độ tin cậy cao hơn cả công văn chính thức, tạo ra hiệu ứng tương tự như thông tin nội bộ trên thị trường tài chính hiện đại.
Nơi Tần Cối làm việc gọi là Chính sự đường Tả Thừa tướng các, trong sân trồng một cây lựu. Mỗi năm khi cây ra quả, Tần Cối đi dạo trong sân đều lặng lẽ đếm quả dưới gốc cây, đến khi lựu chín thì hái hết không sót một quả mang về nhà.
Năm đó, Chính sự đường Tả Thừa tướng các thay người canh gác mới. Khi lựu sắp chín, Tần Cối phát hiện thấy mất một quả. Trong lòng hậm hực, nhưng hắn không lên tiếng. Nhân viên ở Tả Thừa tướng các đều biết số lựu này là của Tần Cối, nhiều năm nay không ai dám hái trộm, vậy chỉ có tên lính canh mới đến không biết quy củ mới dám hái trộm.
Mất một quả lựu, Tần Cối không nói gì. Hôm đó, khi định ra ngoài, hắn đi đến gốc cây lựu và bảo tên lính canh mới: Cho ngươi chặt cây lựu này đi.
Tên lính canh sửng sốt, không kìm được mà thốt lên: Quả nó kết đẹp thế này, lại to lại ngọt, hạt chắc mẩy, ăn rất ngon, chặt đi thì tiếc lắm.
Tần Cối quay đầu nhìn chằm chằm vào hắn, độc địa nói: Hóa ra là ngươi ăn trộm lựu của ta!
Tên lính canh sợ hãi lập tức quỳ xuống nhận tội. Tần Cối phạt hắn một tháng lương để bồi thường cho quả lựu, sự việc mới kết thúc.
Trong câu chuyện về quả lựu, Tần Cối thông qua việc quan sát sự thay đổi số lượng quả đã phát hiện có kẻ ăn trộm. Nhưng hắn không hành động ngay, mà giăng bẫy, giả vờ muốn chặt cây. Khi tên lính canh vì tiếc cây lựu mà can ngăn, Tần Cối lập tức khẳng định chính hắn là kẻ ăn trộm.
Điểm mấu chốt ở đây là Tần Cối đã lợi dụng phản ứng tâm lý của tên lính canh. Trong vô thức, vì quan tâm đến cây lựu mà hắn ta đã tự lộ ra hành vi của mình, cho thấy sự thấu hiểu và khả năng thao túng nhân tính sâu sắc của Tần Cối. Cái bẫy Tần Cối giăng ra qua cây lựu đã thể hiện rõ sự tinh xảo và độc ác trong thủ đoạn quyền mưu của hắn, đó cũng chính là chỗ đáng sợ của một gian thần.
Nội dung trên được cải biên từ Thinh sử của Nhạc Kha, cháu của Nhạc Phi thời Nam Tống.

Thứ Sáu, 21 tháng 11, 2025

BA THẬP KỶ TRÌ TRỆ CỦA NHẬT BẢN


Thuyết Âm Mưu Từ Bên Ngoài

Năm 1985, năm nước lớn ký Hiệp định Plaza để cân bằng lại thương mại toàn cầu. Đồng yên Nhật tăng giá gấp đôi chỉ trong hơn một năm. Nhiều người nghĩ đây là âm mưu của Mỹ để làm hại Nhật. Nhưng điều kỳ lạ xảy ra: sau cú sốc ban đầu, kinh tế Nhật lại bùng nổ mạnh mẽ từ 1987 đến 1989. Vậy thì vấn đề ở đâu?

Vấn đề nằm ở cách Nhật Bản phản ứng. Chính phủ Nhật hoảng sợ đồng yên mạnh sẽ giết chết ngành xuất khẩu, nên đã làm một việc điên rồ: cắt lãi suất xuống rất thấp và giữ ở mức đó suốt hơn hai năm. Hãy tưởng tượng bạn đột nhiên có thể vay tiền gần như không tốn lãi - bạn sẽ làm gì? Dĩ nhiên là đi vay và đầu tư. Và đó chính xác là điều mọi người Nhật đã làm, tạo ra một cơn sốt đầu cơ khủng khiếp.

Vậy nên, không phải Mỹ phá hoại Nhật. Chính Nhật Bản đã tự bắn vào chân mình bằng chính sách tiền tệ sai lầm và cách xử lý khủng hoảng tồi tệ sau đó.

Nền Tảng Của Thành Công Và Thất Bại

Để hiểu tại sao Nhật sụp đổ thảm hại, phải hiểu họ đã thành công như thế nào. Từ những năm 1950 đến 1980, Nhật Bản tạo ra "kỳ tích kinh tế" - tăng trưởng điên cuồng và trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới. Nhưng chính mô hình này chứa đựng hạt giống của thất bại.

Hệ thống Keiretsu - Khi gia đình lớn trở thành trở ngại. Tưởng tượng các tập đoàn khổng lồ như Mitsubishi, Mitsui hay Sumitomo - chúng không phải là những công ty đơn lẻ mà là cả một "gia đình" gồm hàng trăm công ty nhỏ hơn. Họ nắm cổ phần của nhau, có ngân hàng riêng cho nhau vay tiền rẻ, và làm ăn với nhau suốt đời. Trong thời hoàng kim, đây là lợi thế lớn: họ bảo vệ nhau, lên kế hoạch dài hạn, chia sẻ công nghệ.

Nhưng khi khủng hoảng ập đến, cái "gia đình" này trở thành xiềng xích. Khi một công ty yếu, cả "gia đình" phải cứu nó dù biết nó đã hết thuốc chữa. Khi cần phải thay đổi nhanh, họ phải bàn bạc với cả trăm thành viên. Khi cần phá sản công ty kém, không ai muốn làm vì đó là "anh em" của mình. Cái lợi thế ngày xưa trở thành gánh nặng khủng khiếp.

Phụ thuộc vào xuất khẩu - Khi thị trường trong nước bị bỏ quên. Nhật xây dựng cả nền kinh tế quanh việc bán hàng ra nước ngoài. Họ làm điều này quá giỏi đến mức quên mất phát triển thị trường trong nước. Người Nhật tiết kiệm nhiều, tiêu ít. Các ngành phục vụ trong nước yếu kém. Điều tệ hơn: Nhật phải nhập khẩu gần 100% năng lượng - dầu, khí đốt, than. Khi giá năng lượng tăng, toàn bộ nền kinh tế rung chuyển.

Văn hóa cải tiến nhỏ, sợ đột phá lớn. Nhật nổi tiếng với "kaizen" - cải tiến liên tục từng bước nhỏ. Điều này tuyệt vời cho sản xuất ô tô và điện tử. Nhưng trong thời đại internet và công nghệ số, bạn cần đột phá lớn, thử nghiệm nhanh, và chấp nhận thất bại. Văn hóa Nhật lại coi thất bại là ô nhục suốt đời. Quyết định phải có sự đồng thuận của mọi người, nên rất chậm. Kết quả: Nhật không có công ty công nghệ lớn nào giống Google, Amazon hay Facebook.

Cơn Điên Bong Bóng

Sau khi BOJ cắt lãi suất xuống rất thấp và giữ nguyên suốt hơn hai năm, một điều kỳ diệu xảy ra: tiền trở nên rẻ đến mức mọi người đều muốn vay để đầu cơ. Giá cổ phiếu tăng điên cuồng, giá đất tăng điên cuồng hơn nữa.

Hệ thống keiretsu khiến mọi thứ tệ hơn. Công ty A nắm cổ phần công ty B, công ty B nắm cổ phần công ty C, và công ty C lại nắm cổ phần công ty A. Khi giá cổ phiếu tăng, giá trị tài sản của tất cả các công ty đều tăng. Ngân hàng trong "gia đình" thấy tài sản tăng nên cho vay nhiều hơn. Công ty lấy tiền vay để mua thêm cổ phiếu. Giá lại tăng. Vòng lặp điên rồ này cứ tiếp diễn.

Các công ty phát hiện ra kiếm tiền từ đầu cơ dễ hơn nhiều so với sản xuất. Tại sao phải cực nhọc làm ra sản phẩm khi chỉ cần mua bán cổ phiếu và bất động sản là đã giàu? Một số công ty có tỷ lệ giá so với lợi nhuận lên tới hàng trăm lần - điều hoàn toàn phi lý. Cả nước tin rằng giá đất Nhật "không bao giờ giảm". Người ta nói vùng đất nhỏ xíu quanh Hoàng cung Tokyo đắt hơn toàn bộ bất động sản California.

Rồi năm 1990, BOJ tỉnh ngộ và bắt đầu tăng lãi suất gấp đôi trong một năm. Bong bóng vỡ tung. Chỉ số chứng khoán Nikkei rơi từ gần 39.000 xuống còn 15.000 trong hai năm. Giá đất Tokyo cuối cùng chỉ còn 1% so với đỉnh. Hàng nghìn nghìn tỷ đô la bốc hơi.

Sai Lầm Chết Người: Nuôi "Xác Sống" Thay Vì Thanh Lý Nhanh

Đây là lúc mọi chuyện trở nên tồi tệ thực sự. Khi bong bóng vỡ, hàng loạt ngân hàng và công ty nợ chồng chất. Điều bình thường các nước khác làm là: cho phá sản nhanh, thanh lý sạch, để những người khỏe mạnh hơn thay thế. Nhưng Nhật không làm vậy.

Thay vào đó, các ngân hàng che giấu nợ xấu bằng cách cho vay tiền mới để công ty trả nợ cũ. Họ gia hạn nợ mãi mãi. Họ không ghi nhận là nợ xấu trong sổ sách. Tại sao? Vì nếu thừa nhận sự thật, ngân hàng sẽ bị phá sản. Họ cũng hy vọng giá tài sản sẽ phục hồi. Và trong văn hóa keiretsu, bạn không thể để "anh em" của mình chết được.

Hậu quả là thảm khốc. Trong suốt hơn mười năm, hệ thống ngân hàng Nhật không kiếm được lợi nhuận. Đến giữa những năm 1990, hơn một phần tư doanh nghiệp Nhật trở thành "zombie" - công ty không đủ lợi nhuận để trả lãi vay, chỉ sống nhờ ngân hàng liên tục cho vay mới.

Những công ty zombie này gây hại kinh khủng. Chúng bán phá giá vì được trợ cấp lãi suất, khiến các công ty khỏe mạnh không cạnh tranh được. Các doanh nghiệp khởi nghiệp không thể phát triển vì zombie chiếm hết thị trường. Vốn và lao động bị đóng băng trong các công ty kém hiệu quả. Không có áp lực cạnh tranh nên không ai cải tiến. Ngân hàng yếu không dám cho vay dự án mới. Cả hệ thống bị tê liệt.

Trong khi đó, Nhật cũng bỏ lỡ cuộc cách mạng công nghệ thông tin. Trong khi Mỹ và châu Âu đầu tư mạnh vào máy tính, internet, phần mềm từ giữa những năm 1990, Nhật vẫn dành 80% ngân sách công nghệ để duy trì các hệ thống cũ. Một số cơ quan chính phủ Nhật vẫn yêu cầu sử dụng đĩa mềm cho đến tận gần đây.

Chính trị cũng trở ngại. Đảng cầm quyền từ 1955, tạo ổn định nhưng cũng trì trệ. Các cải cách quan trọng đều bị hoãn: mở cửa thị trường lao động, cắt giảm trợ cấp nông nghiệp, cho phép nhập cư nhiều hơn, phá vỡ các tập đoàn cứng nhắc. Văn hóa đồng thuận khiến mọi quyết định đều chậm. Chính phủ sợ thất nghiệp và bất ổn xã hội hơn là lo về hiệu quả kinh tế.

BOJ in tiền và giữ lãi suất gần bằng 0 suốt nhiều thập kỷ. Nhưng thay vì tạo tăng trưởng, chính sách này chỉ giúp zombie tiếp tục sống. Tiền rẻ nhưng không ai muốn vay để đầu tư vì tương lai quá bi quan và không có cơ hội sinh lời.

Nguyên Nhân Quyết Định: Người Già Nhiều, Trẻ Em Ít

Nhưng ngay cả khi Nhật Bản bắt đầu dọn dẹp các công ty zombie từ đầu những năm 2000, nền kinh tế vẫn không phục hồi. Tại sao? Bởi vì có một yếu tố khác đang âm thầm nghiền nát mọi nỗ lực: dân số già đi quá nhanh.

Đây là điểm then chốt mà nhiều người không nhận ra. Mọi vấn đề khác - bong bóng, zombie, thiếu công nghệ, cải cách chậm - đều có thể sửa được trong 10-20 năm nếu có quyết tâm. Nhưng già hóa dân số thì không. Nó cần ít nhất 30-50 năm để đảo ngược, và không có quốc gia nào làm được điều này thành công.

Hãy nghĩ đơn giản thế này: Hiện tại, cứ 100 người đang làm việc ở Nhật thì phải nuôi 49 người già. Đến năm 2050, con số này sẽ là 79 người già trên 100 người lao động. Tưởng tượng gánh nặng đó. Số trẻ em sinh ra mỗi năm ở Nhật giảm liên tục. Năm 2024, chỉ có khoảng 686 nghìn em bé chào đời - thấp nhất kể từ năm 1899. Nếu xu hướng này tiếp tục, Nhật Bản sẽ mất 30% dân số trong 40 năm tới.

Già hóa dân số không chỉ là thiếu người lao động. Nó tạo ra một vòng xoắn ốc tàn phá toàn diện. Người già tiêu dùng ít hơn người trẻ rất nhiều, nên nhu cầu hàng hóa giảm và doanh nghiệp không muốn mở rộng. Chi phí y tế và hưu trí tăng vọt, hút sạch ngân sách nhà nước, không còn tiền để đầu tư vào cơ sở hạ tầng hay giáo dục. Thị trường trong nước co lại, khiến cả nhà đầu tư trong và ngoài nước đều né tránh Nhật Bản. Doanh nghiệp khởi nghiệp không có chỗ để phát triển. Người già tiết kiệm nhiều nhưng không vay, tạo ra dư thừa tiền nhưng lại thiếu cơ hội đầu tư sinh lời. Xã hội già thì bảo thủ, ngại thay đổi, ít sáng tạo. Tâm lý bi quan lan tỏa cả sang thế hệ trẻ.

Chính phủ Nhật đã chi rất nhiều tiền để khuyến khích sinh con: trợ cấp sinh đẻ, hỗ trợ chăm sóc trẻ, nghỉ thai sản có lương. Nhưng kết quả gần như bằng không. Tại sao? Vì chi phí nuôi con, giá nhà và chi phí giáo dục quá cao. Thu nhập không tăng trong 30 năm. Văn hóa làm việc quá tải, nhiều người chết vì làm việc quá sức. Cân bằng công việc và gia đình rất tệ. Áp lực xã hội phải là "mẹ hoàn hảo" khổng lồ. Kết hôn muộn và ít hơn. Tỷ lệ độc thân tăng cao. Người trẻ bi quan về tương lai và không muốn con cái phải chịu khổ như mình.

Điểm quan trọng nhất: Nhật Bản đã bắt đầu dọn dẹp các công ty zombie từ đầu những năm 2000. Hệ thống ngân hàng đã lành mạnh hơn nhiều vào giữa những năm 2000. Nhưng tăng trưởng kinh tế vẫn không bật lại. Tại sao? Bởi vì dân số già làm cho tiêu dùng yếu, đầu tư giảm và động lực đổi mới biến mất. Ngay cả khi đã dọn dẹp zombie, thị trường trong nước vẫn tiếp tục co lại do già hóa, khiến doanh nghiệp không có lý do gì để đầu tư và mở rộng. 

Vòng Luẩn Quẩn Không Lối Thoát

Tất cả các nguyên nhân này không tồn tại độc lập mà tương tác và làm tệ hơn lẫn nhau. Bong bóng vỡ làm ngân hàng ngập nợ xấu. Ngân hàng che giấu bằng cách cho vay mới trả nợ cũ. Zombie banks cho vay zombie firms. Nguồn lực bị đóng băng trong các doanh nghiệp kém. Năng suất đình trệ vì không có đổi mới. Tăng trưởng yếu dẫn đến thu nhập thấp. Dân số càng già thêm, tiêu dùng càng giảm, chi y tế càng tăng. Thị trường co lại. Doanh nghiệp không đầu tư. Lãi suất giảm xuống âm. Chính sách tiền tệ mất tác dụng. Ngân sách cạn kiệt vì chi hưu trí và y tế. Không đủ tiền cho cải cách. Tiếp tục phải nuôi zombie. Rồi quay lại vòng lặp. Mỗi vòng lặp làm tình hình tệ hơn, tạo ra những vết sẹo không thể xóa.

So với các nước khác: Mỹ sau khủng hoảng 2008 thanh lý ngân hàng nhanh, dân số còn trẻ, và phục hồi chỉ sau 5-6 năm. Châu Âu sau khủng hoảng nợ 2010 tuy chậm hơn nhưng vẫn có cơ chế thanh lý, có nhập cư để bù đắp già hóa, phục hồi không đồng đều nhưng không trì trệ 30 năm. Còn Nhật Bản nuôi zombie suốt 15-20 năm, già hóa nhanh nhất lịch sử mà hầu như không có nhập cư, hệ thống keiretsu cứng nhắc không thay đổi được, và văn hóa sợ thất bại khiến mọi cải cách đều khó khăn. Kết quả: trì trệ hơn 30 năm và vẫn chưa thấy hồi kết.

Tại sao Nhật không thể thoát ra? Vì sự kết hợp chết người của bốn yếu tố: thời điểm tồi tệ (bong bóng vỡ đúng lúc dân số bắt đầu già nhanh), phản ứng sai lầm (nuôi zombie thay vì thanh lý nhanh), cấu trúc cứng nhắc (chính trị, văn hóa và hệ thống keiretsu cản trở mọi cải cách), và nhân khẩu học (già hóa ngăn chặn mọi nỗ lực phục hồi).

Vậy Nhật Bản có cơ hội nào không? Rất khó, nhưng không hoàn toàn vô vọng. Một số điều đã quá muộn: không thể đảo ngược già hóa trong một hai thập kỷ, đã mất cả một thế hệ người trẻ lớn lên trong bi quan và thiếu động lực đổi mới, tụt hậu công nghệ số rất khó bù đắp.

Nhưng vẫn có vài điều có thể làm: Thứ nhất, tự động hóa và trí tuệ nhân tạo ở mức tối đa. Robot và AI có thể bù đắp phần nào sự thiếu hụt lao động và tăng năng suất. May mắn là Nhật vốn có thế mạnh về robot công nghiệp. Thứ hai, cải cách nhập cư một cách triệt để. Hiện tại chỉ có khoảng 2% dân số Nhật là người nước ngoài. Nếu mở cửa rộng rãi hơn, sẽ có thêm lực lượng lao động trẻ. Đây là giải pháp nhanh nhất, nhưng gặp kháng cự văn hóa rất lớn. Thứ ba, thanh lý những zombie còn sót lại để giải phóng nguồn lực cho các doanh nghiệp mới. Thứ tư, cải cách thị trường lao động bằng cách phá bỏ hệ thống việc làm suốt đời, tăng tính linh hoạt và khuyến khích khởi nghiệp. Thứ năm, tăng tỷ lệ phụ nữ tham gia lao động vì hiện tại chỉ có 53% phụ nữ làm việc so với 75% nam giới.

Triển vọng thực tế: GDP Nhật có thể sẽ tiếp tục tăng trưởng rất chậm, khoảng 0-1% mỗi năm. Chất lượng sống có thể duy trì được nhờ tự động hóa. Nhưng rất khó để Nhật trở lại là "cường quốc kinh tế" như thập niên 1980. Già hóa dân số sẽ là thách thức an ninh quốc gia lớn nhất của thế kỷ 21, không chỉ cho Nhật Bản mà cho cả thế giới.

Nguồn Nghiên cứu Lịch Sử


Thứ Bảy, 15 tháng 11, 2025

Huyền Thoại Danh Tướng Phạm Ngũ Lão

Phạm Ngũ Lão sinh năm 1255 tại làng Phù Ủng, huyện Đường Hào, Hải Dương (nay thuộc huyện Ân Thi, Hưng Yên), trong một gia đình nông dân nghèo.
Ngay từ nhỏ, ông đã nổi tiếng là người có chí khí khác thường, ham đọc sách và rèn luyện võ nghệ. Tương truyền, khi người trong làng đỗ Tiến sĩ mở tiệc mừng, Ngũ Lão không đến vì cho rằng: "Chí làm trai phải lập công danh rạng rỡ non sông mà con chưa lập được bằng người, đi mừng người ta nhục lắm."
Cơ duyên của ông với binh nghiệp bắt đầu một cách ly kỳ. Một lần, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn (Quốc công Tiết chế) đi tập trận qua làng Phù Ủng. Phạm Ngũ Lão đang ngồi đan sọt bên đường, mải nghĩ một câu trong binh thư nên không hề hay biết quan quân kéo đến. Lính tráng phải dùng giáo đâm vào đùi ông để dẹp đường, máu chảy nhưng ông vẫn điềm nhiên.
Trần Hưng Đạo thấy vậy vô cùng ngạc nhiên, dừng kiệu hỏi chuyện. Qua đối đáp, nhận thấy Ngũ Lão là người có tài năng và chí lớn, Hưng Đạo Vương đã cho ông ngồi cùng kiệu đưa về kinh đô, thu nhận làm môn khách, rồi tiến cử lên triều đình.
Phạm Ngũ Lão được Hưng Đạo Vương gả con gái cho. Điều này rất hiếm xảy ra trong vương triều Trần. Để làm được điều đó Trần Quốc Tuấn đã phải giáng con gái Anh Nguyên xuống làm con nuôi.
Phạm Ngũ Lão trở thành con rể của Trần Hưng Đạo và là một trong những tướng lĩnh chủ chốt, có công lớn trong cả hai cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông lần thứ hai (1285) và lần thứ ba (1288).
Năm 1285, ông cùng với Trần Quang Khải tiến đánh các vị trí chiến lược như Chương Dương, Hàm Tử, góp phần đập tan đội binh thuyền giặc và giành lại Thăng Long.
Năm 1288, ông chỉ huy 3 vạn quân phục kích, chặn đường rút lui của quân Nguyên ở Vạn Kiếp, chém được hai phó tướng giặc là Lý Quán và Lý Hằng.
Sau các cuộc kháng chiến, ông được triều đình tin tưởng giao trọng trách trấn giữ biên cương. Ông nhiều lần dẫn quân đi trừng phạt sự xâm lược, quấy nhiễu của Ai Lao (năm 1294, 1297, 1301) và Nam chinh đánh Chiêm Thành (năm 1312, 1318). Trận đánh nào ông cũng giành chiến thắng, nên được mệnh danh là vị tướng bách chiến bách thắng.
Ông nổi tiếng là người nghiêm minh, liêm khiết, không tham lam của cải (các vật phẩm tước được của giặc đều sung vào kho quân). Ông còn là một nhà thơ, với bài thơ "Thuật hoài" (Tỏ lòng) thể hiện khí phách làm trai và chí lập công danh lớn lao, nổi tiếng cho đến ngày nay:
Hoành sóc giang sơn kham bách chiến,
Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu.
Nam nhi vị liễu công danh trái,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu.
Tạm dịch:
Múa giáo non sông trải mấy thu.
Ba quân như hổ, khí nuốt trôi Ngưu Đẩu
Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu.
• Năm 1320, Thượng tướng quân Phạm Ngũ Lão qua đời tại Thăng Long, hưởng thọ 66 tuổi. Vua Trần Minh Tông thương tiếc, nghỉ chầu đến 5 ngày, một ân điển đặc biệt mà ngay cả quý tộc họ Trần cũng hiếm ai có được, thể hiện sự kính trọng tột bậc của triều đình đối với công lao của ông.
Phạm Ngũ Lão, từ một chàng nông dân đan sọt đã trở thành một trong "Tứ trụ đại tướng" của nhà Trần (cùng với Trần Quốc Tuấn, Trần Nhật Duật, Trần Khánh Dư), mãi mãi là một huyền thoại lớn trong lịch sử Việt Nam.

TƯ BẢN THÂN HỮU VÀ HÔN NHÂN CẬN HUYẾT.


GÁI GOÁ NHIẾP CHÍNH TRIỀU ĐÌNH, NGOẠI THÍCH QUYỀN KHUYNH THIÊN HẠ. NHÂN QUẢ CỦA TƯ BẢN THÂN HỮU VÀ HÔN NHÂN CẬN HUYẾT.

Quyền lực giữ bền nhờ chính tâm,
Minh quang soi tỏ những sai lầm.
Khi sân sau hóa thành tiền sảnh,
Liêm chính rời đi giữa cõi trần.
Thân hữu kết vòng như cận huyết,
Quyền mang dị dạng bởi thân quen.
Cửa quan mở lối cho phe cánh,
Thể chế hao mòn tự thuở lên.
Chức trọng không vì người có đức,
Danh đề đâu bởi kẻ tài năng.
Chỗ ngồi để trống cho hiền sĩ,
Mà kẻ thân quen bước cợt nhăng.
Khổng Tử từng khuyên nên biết mộc,
Chỗ cong chỗ thẳng phải xem tường.
Dân quý – xã tắc còn đứng vững,
Quân vương khinh nhẹ để dân thương.
Nước chảy lệch dòng do sân hậu,
Lợi quyền nghiêng ngả bởi thân nhà.
Cán bộ thành nô cho kẻ chống,
Công tâm lùi bước ngậm buốt xa.
Hôn nhân cận huyết sinh suy giống,
Chính trị thân quen mục thể tàn.
Một mạch quyền uy thành lệch lạc,
Tổ chức mỏi mòn bởi cánh gian.
Tuyển chọn đảo chiều theo “tiền – hậu”,
Trí tuệ lùi thầm giữa quắt queo.
Cong gốc trồng nên cây méo mãi,
Thế hệ nối đời vẫn oằn theo.
Đạo đức công vụ dần tha hóa,
Lợi nhóm chen vào chiếm chốn công.
Cán bộ quên dân – quên nghĩa nước,
Tín lòng công chúng rớt không trông.
Phản biện nghẹn lời trong cửa hẹp,
Người ngay lặng lẽ né bon chen.
Bộ máy tù đọng như ao nước,
Không gió chuyển mình rêu bám lên.
Tư duy tiểu nông còn quấn quýt,
Một người làm chức cả họ vui.
Tình nghĩa lấn nguyên tắc pháp lý,
Từ đó mầm sai trái đâm chồi.
Kiểm soát quyền uy còn lỏng lẻo,
Cửa khép nghe vang tiếng của nhà.
Bổ nhiệm thiếu nhìn từ độc lập,
Cửa thân thay cửa phép sa đà.
Tập thể nhiều nơi quen thỏa hiệp,
Im lặng bao che nén bất bình.
Nể mặt cấp trên – dung cấp dưới,
Kỷ cương rạn vỡ giữa vô hình.
Văn hóa làng quê mang bóng cũ,
“Máu đào – nước lã” nhập cửa quan.
Trọng nghĩa hơn lý thành thói tật,
Niềm tin cá thể lấn tiêu toàn.
Ơn nghĩa quân thần thời cổ trỗi,
Dễ hóa thân quen giữa chốn thời.
Ân tình không ánh soi pháp lý,
Biến thành bao che dưới tiếng mời.
Muốn trị thân quen – cần thể chế,
Khuôn pháp đi kèm với tấm lòng.
Nghĩa tình đặt giữa khuôn liêm chính,
Mới giữ công tâm chẳng đục dòng.
Minh bạch quy trình trong bổ nhiệm,
Không cho ai nắm quyền sinh – diệt.
Giám sát nhân dân làm gương sáng,
Thể chế trong lành bền mạch viết.
Cạnh tranh công bằng trong tuyển dụng,
Dựa thực tài – phẩm chất – công lao.
Đúng chỗ – đúng người như chọn gỗ,
Cột nhà ngay thẳng chẳng xiêu cào.
Người đứng đầu phải mang trách nhiệm,
Sân sau phát hiện – chịu tội liền.
Miễn nhiệm kịp thời như cắt ung,
Giữ cho thân thể vẫn an nhiên.
Bồi dưỡng đạo đức nơi công vụ,
Cán bộ vì dân chẳng ngại gian.
Phục vụ nước nhà quên tư lợi,
Một lòng thanh sạch giữa nhân gian.
Chính trị thân quen như giống bệnh,
Cận huyết luân hồi hóa quái thai.
Sức sống thể chế dần tan rã,
Niềm tin dân chúng lỡ một phai.
Muốn trị tận nguồn cần quyết liệt,
Thanh lọc môi trường chốn chính quyền.
Khôi phục liêm minh và chính nghĩa,
Cho dân vững dạ giữa bình yên.
Bộ máy vì dân – do dân lập,
Mạch máu trong lành giữ thịnh hưng.
Khi kẻ ngay chẳng sợ người dối,
Quốc gia bền vững đến muôn từng.

Thứ Năm, 13 tháng 11, 2025

ĐỊA CHÍ HUYỆN NHƯ XUÂN TỈNH THANH HOÁ


LỜI NÓI ĐẦU

Huyện Như Xuân là một trong những huyện miền núi nằm ở phía tây nam tỉnh Thanh Hóa, vùng đất giao thoa giữa Bắc Trung Bộ và Tây Bắc Nghệ An, có lịch sử lâu đời, giàu truyền thống văn hóa và tinh thần cách mạng kiên cường. Trong dòng chảy phát triển chung của tỉnh Thanh Hóa, Như Xuân giữ vai trò là cửa ngõ kết nối các vùng miền, là địa bàn trọng điểm trong chiến lược phát triển kinh tế rừng, nông – lâm nghiệp bền vững và du lịch sinh thái.
Cuốn Địa chí huyện Như Xuân được biên soạn nhằm mục đích hệ thống hóa, giới thiệu một cách toàn diện, có cơ sở khoa học về điều kiện tự nhiên, lịch sử hình thành, đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội và những thành tựu phát triển của huyện qua các thời kỳ.
Tài liệu này vừa mang ý nghĩa khoa học, vừa có giá trị thực tiễn cao, phục vụ công tác nghiên cứu, giảng dạy, tuyên truyền, và định hướng phát triển lâu dài của địa phương.
Quá trình biên soạn được thực hiện trên cơ sở thu thập, xử lý nhiều nguồn tư liệu tin cậy: tư liệu lưu trữ, thống kê của các cơ quan chuyên môn, tư liệu dân gian, cùng với ý kiến đóng góp của các nhà nghiên cứu, cán bộ lão thành và nhân dân địa phương.
Nhóm biên soạn đã nỗ lực bảo đảm tính khách quan, khoa học và trung thực của nội dung; song khó tránh khỏi thiếu sót, kính mong nhận được sự góp ý của độc giả và các nhà khoa học để công trình được hoàn thiện hơn.
Như Xuân, năm 2025
Ban Biên soạn
PHẦN I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HUYỆN NHƯ XUÂN
1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
Huyện Như Xuân nằm ở phía tây nam tỉnh Thanh Hóa, cách trung tâm thành phố Thanh Hóa khoảng 90 km.
Phía bắc giáp huyện Như Thanh, phía đông giáp huyện Tĩnh Gia (nay là thị xã Nghi Sơn), phía tây giáp huyện Tân Kỳ (tỉnh Nghệ An), phía nam giáp huyện Như Thanh và Quỳ Hợp (Nghệ An).
Trung tâm hành chính của huyện đặt tại thị trấn Bãi Trành – nơi giao nhau của quốc lộ 45 và quốc lộ 217B, là trục giao thông huyết mạch nối Thanh Hóa với miền Tây Nghệ An.
Diện tích tự nhiên toàn huyện khoảng 95.000 ha, trong đó đất lâm nghiệp chiếm trên 70%.
Địa hình chủ yếu là đồi núi thấp xen kẽ thung lũng nhỏ, độ cao trung bình 200–300 m so với mực nước biển.
Khí hậu thuộc vùng nhiệt đới gió mùa, có hai mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau.
Sông suối dày đặc, trong đó sông Chu và các phụ lưu như sông Âm, sông Con đóng vai trò quan trọng trong điều tiết nguồn nước, phục vụ sản xuất và sinh hoạt.
Nhờ có địa hình đa dạng và khí hậu ôn hòa, Như Xuân có tiềm năng lớn về phát triển nông – lâm nghiệp, thủy điện vừa và nhỏ, cùng du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, khám phá văn hóa bản địa.
2. Lịch sử hình thành và phát triển hành chính
Theo các tư liệu lịch sử, vùng đất Như Xuân xưa thuộc miền Thường Xuân – Quan Hóa, nằm trong không gian cư trú của người Thái cổ và người Mường.
Tên gọi Như Xuân xuất hiện trong tài liệu hành chính từ cuối thế kỷ XIX, thời nhà Nguyễn, khi vùng này thuộc phủ Quỳ Châu (Nghệ An), sau được sáp nhập về Thanh Hóa.
Năm 1945, sau Cách mạng Tháng Tám, chính quyền cách mạng được thành lập ở hầu hết các xã, mở đầu thời kỳ mới của vùng đất Như Xuân.
Năm 1953, chính phủ quyết định thành lập huyện Như Xuân trên cơ sở tách một phần đất phía tây huyện Như Thanh.
Sau năm 1975, huyện nhiều lần điều chỉnh địa giới hành chính, có thời kỳ nhập vào Như Thanh (1977–1996), đến năm 1997 được tái lập huyện Như Xuân với 17 xã và 1 thị trấn.
Trải qua quá trình phát triển, Như Xuân từng bước chuyển mình từ huyện miền núi đặc biệt khó khăn thành vùng kinh tế đang phát triển năng động của miền Tây Thanh Hóa.
3. Dân cư và thành phần dân tộc
Như Xuân là vùng đất đa dân tộc, trong đó người Thái, Mường, Kinh và Dao là bốn cộng đồng chính.
Người Thái chiếm tỷ lệ cao nhất, sinh sống tập trung tại các xã Thanh Hòa, Thanh Quân, Cát Vân, Cát Tân, Bãi Trành; người Mường ở các xã Thanh Lâm, Thanh Phong; người Dao rải rác ở vùng cao; người Kinh tập trung tại trung tâm thị trấn và các trục giao thông chính.
Các dân tộc cùng sinh sống hòa thuận, đoàn kết, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống. Những điệu khặp Thái, hát ví Mường, lễ hội Kin Chiêng Boọc Mạy và các phong tục lễ tết cổ truyền vẫn được duy trì, tạo nên sắc thái văn hóa đặc trưng cho vùng đất Như Xuân.
4. Đặc điểm kinh tế – xã hội khái quát
Trong những năm gần đây, kinh tế huyện Như Xuân có bước phát triển rõ rệt.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt trên 9%/năm, thu nhập bình quân đầu người đạt trên 45 triệu đồng/năm (2024).
Nông – lâm nghiệp vẫn là ngành chủ lực, song cơ cấu kinh tế đang chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp – dịch vụ.
Các mô hình trồng rừng kinh tế, trồng cam, mía, keo, luồng, cùng chăn nuôi đại gia súc đã đem lại nguồn thu ổn định cho người dân.
Hệ thống giáo dục, y tế, văn hóa – thông tin, giao thông, điện – nước, viễn thông được đầu tư đồng bộ; 100% xã có đường ô tô đến trung tâm, 90% hộ dân được sử dụng điện lưới quốc gia.
Huyện đã đạt 12/19 tiêu chí nông thôn mới, phấn đấu đến năm 2030 cơ bản hoàn thành xây dựng huyện nông thôn mới.
5. Tiềm năng và định hướng phát triển
Như Xuân sở hữu nhiều tiềm năng đặc biệt:
• Rừng và đất rừng rộng lớn, thích hợp phát triển kinh tế lâm nghiệp, trồng cây công nghiệp ngắn ngày, cây dược liệu.
• Hồ Sông Mực, suối cá Cẩm Lương – Bến En – Cát Vân tạo điều kiện phát triển du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, kết nối tuyến du lịch miền Tây Thanh Hóa.
• Cụm công nghiệp Bãi Trành và cửa ngõ giao thông nối Thanh Hóa – Nghệ An mở ra cơ hội thu hút đầu tư, hình thành trung tâm chế biến lâm sản và logistics vùng Tây Nam Thanh Hóa.
Định hướng phát triển đến năm 2035:
Xây dựng Như Xuân trở thành trung tâm kinh tế – văn hóa – dịch vụ miền Tây Thanh Hóa, phát triển bền vững dựa trên ba trụ cột:
(1) Kinh tế rừng xanh,
(2) Du lịch sinh thái – văn hóa bản địa,
(3) Công nghiệp chế biến và năng lượng sạch.
PHẦN II: DÂN CƯ – VĂN HÓA – XÃ HỘI
1. Thành phần dân tộc và đời sống cộng đồng
Huyện Như Xuân là một địa bàn miền núi có cơ cấu dân cư đa dạng, bao gồm bốn dân tộc chính: Thái, Mường, Kinh và Dao.
Theo số liệu thống kê năm 2024, toàn huyện có hơn 80 nghìn người, trong đó dân tộc Thái chiếm khoảng 45%, dân tộc Mường chiếm 25%, người Kinh 28%, còn lại là người Dao và một số dân tộc khác.
Người Thái sinh sống lâu đời ở vùng thung lũng dọc các con suối lớn như suối Chu, suối Âm, suối Con, hình thành những bản làng cổ như bản Đồn, bản Mạy, bản Tân Hòa… Họ nổi tiếng với truyền thống cần cù, khéo léo, gắn bó mật thiết với thiên nhiên qua các nghề nông nghiệp, dệt thổ cẩm, đan lát.
Người Mường cư trú rải rác ở các xã vùng trung du, giữ gìn được nhiều nét văn hóa đặc trưng trong tiếng nói, trang phục, nhà sàn, cùng những khúc hát ví, hát đúm mang đậm bản sắc dân gian.
Người Dao di cư từ vùng cao Tây Bắc về đây từ thế kỷ XIX, hiện sinh sống chủ yếu ở xã Cát Tân và Thanh Quân, nổi bật với tập tục cúng cấp sắc, trang phục thêu chỉ đỏ, tín ngưỡng dân gian phong phú.
Người Kinh chủ yếu định cư tại thị trấn Bãi Trành và dọc các tuyến giao thông, đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, giáo dục, dịch vụ và hành chính của huyện.
Sự hòa quyện giữa các dân tộc tạo nên một cộng đồng đoàn kết, tương trợ, cùng nhau gìn giữ bản sắc và phát huy truyền thống tốt đẹp trong công cuộc xây dựng quê hương Như Xuân hôm nay.
2. Truyền thống lịch sử – cách mạng
Như Xuân là vùng đất có bề dày truyền thống cách mạng.
Ngay từ đầu thế kỷ XX, nhiều phong trào yêu nước đã lan tỏa tới đây, đặc biệt là trong giai đoạn vận động Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Nhân dân các dân tộc trong huyện đã tham gia tích cực vào phong trào khởi nghĩa, giành chính quyền về tay nhân dân.
Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, hàng nghìn người con Như Xuân đã lên đường ra mặt trận; hàng trăm người đã anh dũng hy sinh cho độc lập, tự do của Tổ quốc.
Huyện được Nhà nước phong tặng Danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, nhiều tập thể, cá nhân được tặng thưởng huân, huy chương cao quý.
Ngày nay, tinh thần cách mạng ấy tiếp tục được phát huy trong công cuộc đổi mới và hội nhập. Như Xuân luôn là một trong những địa phương đi đầu trong phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, “Xây dựng nông thôn mới”, và bảo tồn giá trị truyền thống dân tộc.
3. Văn hóa vật thể và phi vật thể
Văn hóa Như Xuân là sự kết tinh của nhiều lớp trầm tích lịch sử và văn hóa dân tộc.
Trên địa bàn huyện hiện có hàng chục di tích lịch sử – văn hóa, trong đó nhiều di tích đã được công nhận cấp tỉnh như:
• Đền Chín Gian (xã Cát Vân) – nơi thờ các vị thần núi và tổ tiên người Thái, gắn với lễ hội Kin Chiêng Boọc Mạy nổi tiếng.
• Đền Mưng (xã Thanh Hòa) – di tích tâm linh cổ của đồng bào Mường – Thái.
• Đồi Cọ Bãi Trành – di tích cách mạng gắn liền với hoạt động của cán bộ kháng chiến trong thời kỳ chống Pháp.
Bên cạnh di sản vật thể, Như Xuân còn lưu giữ kho tàng văn hóa phi vật thể đặc sắc.
Nổi bật nhất là hát khặp Thái, múa sạp, lễ hội Xăng Khan, Kin Chiêng Boọc Mạy, tục cúng bản – cúng mường, nghi lễ cầu mùa, cùng hệ thống truyện kể dân gian, mo Mường, tục ngữ, ca dao giàu giá trị nhân văn.
Những yếu tố này không chỉ là bản sắc tinh thần mà còn là nền tảng phát triển du lịch văn hóa cộng đồng – hướng đi bền vững trong tương lai của huyện.
4. Giáo dục, y tế và đời sống xã hội
Sau năm 1986, đặc biệt từ khi tái lập huyện (1997), sự nghiệp giáo dục – y tế – văn hóa của Như Xuân có nhiều bước tiến rõ rệt.
Toàn huyện hiện có 37 trường học các cấp, trong đó nhiều trường đạt chuẩn quốc gia.
Phong trào khuyến học, khuyến tài được đẩy mạnh, góp phần nâng cao dân trí và đào tạo nguồn nhân lực tại chỗ.
Hệ thống y tế cơ sở được củng cố: Bệnh viện Đa khoa huyện Như Xuân, Trung tâm Y tế dự phòng và 18 trạm y tế xã, thị trấn đáp ứng cơ bản nhu cầu chăm sóc sức khỏe nhân dân.
Công tác dân số – kế hoạch hóa gia đình, tiêm chủng mở rộng và phòng chống dịch bệnh được triển khai hiệu quả.
Đời sống nhân dân từng bước được cải thiện; tỷ lệ hộ nghèo giảm còn dưới 10% (năm 2024).
Phong trào văn hóa – thể thao phát triển sâu rộng, với hàng trăm câu lạc bộ văn nghệ dân gian, đội bóng, đội chèo thuyền, hội người cao tuổi, đoàn thanh niên.
Các lễ hội truyền thống được phục dựng và tổ chức định kỳ, góp phần gắn kết cộng đồng và quảng bá hình ảnh Như Xuân – miền đất “văn hóa rừng xanh”.
5. Tín ngưỡng và tôn giáo
Như Xuân là vùng đất có tín ngưỡng dân gian phong phú, gắn bó chặt chẽ với đời sống tâm linh của đồng bào các dân tộc.
Người Thái thờ thần núi, thần sông, thờ tổ tiên trong nhà sàn, tổ chức lễ cúng bản, cúng mường, lễ xuống đồng vào đầu năm.
Người Mường duy trì tục thờ Mẹ Lúa, thần Đá, thần Rừng, cùng các nghi thức “mo Mường” độc đáo.
Phật giáo hiện diện tại một số chùa mới xây dựng như chùa Bãi Trành, song quy mô còn nhỏ, chủ yếu mang tính tín ngưỡng sinh hoạt cộng đồng.
Các tôn giáo khác như Thiên Chúa giáo, Tin Lành có mặt nhưng ít tín đồ, hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, góp phần ổn định đời sống tinh thần cho nhân dân.
Nhìn chung, tín ngưỡng – tôn giáo ở Như Xuân hòa hợp, không xung đột, là yếu tố tinh thần gắn kết cộng đồng các dân tộc.
6. Đời sống mới ở miền Tây Thanh Hóa
Những năm gần đây, với chính sách ưu tiên phát triển vùng đặc biệt khó khăn, Như Xuân đã có nhiều đổi thay.
Điện, đường, trường, trạm được đầu tư; nhà sàn truyền thống được cải tạo khang trang; người dân biết kết hợp văn hóa cổ truyền với lối sống hiện đại.
Nhiều hộ dân mạnh dạn ứng dụng khoa học kỹ thuật, tham gia hợp tác xã, phát triển sản phẩm OCOP như mật ong rừng, măng khô, thổ cẩm, rượu cần, dược liệu quý.
Đời sống tinh thần phong phú, niềm tin vào tương lai được củng cố.
Như Xuân hôm nay là hình ảnh một miền quê đang chuyển mình mạnh mẽ, vừa giữ được hồn cốt văn hóa dân tộc, vừa bước vào nhịp sống phát triển mới của tỉnh Thanh Hóa hiện đại.
PHẦN III: KINH TẾ HUYỆN NHƯ XUÂN
1. Tổng quan nền kinh tế
Như Xuân là huyện miền núi phía Tây Nam của tỉnh Thanh Hóa, với đặc điểm địa hình đồi núi xen thung lũng, đất đai rộng, nguồn nước dồi dào, tài nguyên rừng phong phú.
Trong nhiều năm qua, kinh tế huyện có sự chuyển biến tích cực, cơ cấu kinh tế từng bước dịch chuyển theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp – dịch vụ, giảm dần tỷ trọng nông – lâm nghiệp thuần túy.
Năm 2024, tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) toàn huyện ước đạt 10,8%, thu nhập bình quân đầu người đạt 58 triệu đồng/năm, gấp hơn 2 lần so với năm 2015.
Cơ cấu kinh tế chia theo ngành như sau:
• Nông – lâm – thủy sản: 38%
• Công nghiệp – xây dựng: 32%
• Dịch vụ – thương mại: 30%
Như Xuân đang từng bước chuyển mình từ huyện thuần nông sang trung tâm kinh tế động lực vùng Tây Nam Thanh Hóa, với các lĩnh vực chủ lực là nông – lâm nghiệp công nghệ cao, chế biến lâm sản, năng lượng tái tạo và du lịch sinh thái cộng đồng.
2. Nông – Lâm – Ngư nghiệp
a. Nông nghiệp
Nông nghiệp vẫn giữ vai trò nền tảng trong cơ cấu kinh tế của huyện.
Toàn huyện có hơn 12.000 ha đất canh tác, trong đó diện tích lúa chiếm khoảng 3.200 ha, ngô 2.800 ha, sắn 1.500 ha, còn lại là cây rau màu và cây công nghiệp ngắn ngày.
Nhiều mô hình chuyển đổi cơ cấu cây trồng đã mang lại hiệu quả kinh tế rõ rệt, như:
• Mô hình trồng lúa chất lượng cao tại các xã Xuân Bình, Hóa Quỳ;
• Mô hình trồng cây dược liệu (ba kích, đinh lăng, sa nhân) ở Cát Tân, Thanh Hòa;
• Mô hình trồng cây ăn quả (cam, bưởi, chuối, na) theo tiêu chuẩn VietGAP tại Thanh Quân, Thanh Phong, Tân Bình.
Chăn nuôi phát triển theo hướng tập trung, an toàn sinh học, với tổng đàn gia súc hơn 50.000 con, gia cầm trên 600.000 con.
Các trang trại nuôi bò lai, lợn siêu nạc, gà thả đồi được hình thành, góp phần tạo việc làm ổn định cho người dân nông thôn.
b. Lâm nghiệp
Rừng là nguồn tài nguyên quý giá của Như Xuân.
Diện tích đất có rừng của huyện đạt trên 52.000 ha, chiếm hơn 80% diện tích tự nhiên, trong đó rừng tự nhiên 25.000 ha, rừng trồng 27.000 ha.
Công tác khoanh nuôi, trồng mới và bảo vệ rừng được thực hiện nghiêm túc, gắn với chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng.
Các mô hình rừng sản xuất kết hợp kinh tế hộ gia đình được nhân rộng, đặc biệt là trồng keo, lát, luồng và xoan.
Công nghiệp chế biến lâm sản phát triển mạnh với các cơ sở tại xã Thanh Hòa, Xuân Bình, Bãi Trành, cung cấp hàng nghìn mét khối gỗ nguyên liệu mỗi năm cho thị trường trong và ngoài tỉnh.
Ngoài ra, rừng còn mang lại nguồn thu đáng kể từ mật ong rừng, măng khô, song mây, dược liệu tự nhiên, tạo sinh kế bền vững cho đồng bào dân tộc.
c. Thủy sản
Mặc dù không có sông lớn, nhưng Như Xuân có nhiều suối, hồ tự nhiên và nhân tạo như hồ Cửa Đạt, hồ Bãi Thượng, hồ Hón Mũ, thích hợp cho phát triển thủy sản nước ngọt.
Toàn huyện có hơn 400 ha mặt nước nuôi trồng thủy sản, chủ yếu là cá rô phi, cá trắm, cá chép, cá diêu hồng.
Một số mô hình nuôi cá lồng trên hồ Cửa Đạt đang được khuyến khích, mang lại giá trị kinh tế cao, góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động vùng lòng hồ.
3. Công nghiệp – Tiểu thủ công nghiệp – Xây dựng
Những năm gần đây, công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp ở Như Xuân có bước phát triển mạnh mẽ.
Huyện đã hình thành Cụm công nghiệp Bãi Trành với diện tích 75 ha, thu hút nhiều doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến gỗ, may mặc, cơ khí nhỏ.
Ngoài ra, nhiều cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp truyền thống như dệt thổ cẩm, làm mây tre, chế biến thực phẩm khô, rượu cần, mật ong rừng được khôi phục và phát triển theo hướng hàng hóa.
Ngành xây dựng cơ bản phát triển ổn định, tập trung vào hạ tầng giao thông, trường học, trạm y tế, và nhà ở dân dụng.
Các công trình trọng điểm như đường nối Quốc lộ 45 – đường Hồ Chí Minh, cầu Bãi Thượng, Trung tâm hành chính huyện đã góp phần thay đổi diện mạo đô thị và nông thôn Như Xuân.
4. Thương mại – Dịch vụ – Du lịch
Hệ thống thương mại của huyện phát triển đồng bộ, với chợ trung tâm Bãi Trành và hơn 30 chợ nông thôn hoạt động sôi động.
Nhiều siêu thị mini, cửa hàng tiện lợi, đại lý xăng dầu, điểm giao dịch ngân hàng đã xuất hiện tại trung tâm các xã, đáp ứng nhu cầu dân sinh và sản xuất.
Dịch vụ vận tải, tài chính, bưu chính – viễn thông được mở rộng; mạng lưới 4G và cáp quang phủ hầu hết các thôn bản.
Sự phát triển dịch vụ góp phần hình thành chuỗi liên kết nông sản – tiêu thụ sản phẩm – du lịch cộng đồng.
Du lịch sinh thái và văn hóa cộng đồng
Như Xuân được thiên nhiên ưu đãi với rừng, suối, thác và bản làng truyền thống, là địa bàn tiềm năng để phát triển du lịch sinh thái – trải nghiệm văn hóa dân tộc.
Các điểm du lịch nổi bật gồm:
• Khu du lịch hồ Cửa Đạt, kết hợp tham quan – nghỉ dưỡng – thể thao nước;
• Đền Chín Gian (Cát Vân) và lễ hội Kin Chiêng Boọc Mạy, thu hút hàng nghìn du khách mỗi năm;
• Các bản du lịch cộng đồng người Thái, Mường tại Thanh Hòa, Xuân Bình, Tân Hòa.
Huyện đang triển khai Đề án phát triển du lịch cộng đồng giai đoạn 2025–2030, hướng đến việc đưa Như Xuân trở thành điểm đến đặc sắc của vùng Tây Thanh Hóa.
5. Hạ tầng kinh tế và giao thông
Mạng lưới giao thông huyện Như Xuân ngày càng hoàn thiện, với các tuyến huyết mạch:
• Đường Hồ Chí Minh chạy qua trung tâm huyện;
• Quốc lộ 45, Tỉnh lộ 505, 514, 517, kết nối các xã và vùng lân cận;
• Các tuyến đường liên xã, liên thôn được bê tông hóa đạt trên 92%.
Hệ thống điện lưới quốc gia, nước sạch, mạng viễn thông, trạm BTS, internet tốc độ cao đã phủ rộng toàn huyện.
Hạ tầng thủy lợi gồm 126 hồ, đập, trạm bơm, đảm bảo nước tưới cho hơn 80% diện tích canh tác.
Khu vực thị trấn Bãi Trành đã hình thành trung tâm hành chính – thương mại – dịch vụ của huyện, tạo động lực phát triển kinh tế vùng lân cận.
6. Chương trình xây dựng nông thôn mới
Từ năm 2011 đến nay, chương trình xây dựng nông thôn mới đạt nhiều kết quả nổi bật.
Đến năm 2024, toàn huyện có 9/14 xã đạt chuẩn nông thôn mới, 3 xã đạt chuẩn nâng cao, không còn xã đặc biệt khó khăn.
Tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân 2–3%/năm; hạ tầng cơ sở, trường học, trạm y tế, nhà văn hóa thôn được đầu tư đồng bộ.
Người dân hăng hái đóng góp đất, công lao động, tiền của để cùng Nhà nước xây dựng quê hương “xanh – sạch – đẹp – an toàn”.
7. Định hướng phát triển kinh tế đến năm 2030
Như Xuân đặt mục tiêu đến năm 2030 đạt chuẩn huyện nông thôn mới nâng cao, GRDP bình quân đầu người đạt 90 triệu đồng/năm, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng:
• Nông – Lâm nghiệp: còn 25%
• Công nghiệp – Xây dựng: 40%
• Dịch vụ – Du lịch: 35%
Huyện tập trung vào các mũi nhọn phát triển kinh tế:
• Phát triển nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp công nghệ cao;
• Mở rộng cụm công nghiệp Bãi Trành, hình thành cụm công nghiệp Thanh Hòa;
• Đầu tư hạ tầng du lịch sinh thái hồ Cửa Đạt và du lịch cộng đồng bản Thái – Mường;
• Chuyển đổi số toàn diện trong quản lý và sản xuất;
• Thu hút đầu tư tư nhân và liên kết vùng Tây Thanh Hóa – Nghệ An.
Mục tiêu lâu dài là xây dựng Như Xuân trở thành trung tâm kinh tế – văn hóa – du lịch phía Tây Nam Thanh Hóa, phát triển bền vững trên nền tảng “xanh, bản sắc và hội nhập”
PHẦN IV: TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN VÀ MÔI TRƯỜNG
1. Tài nguyên đất
Huyện Như Xuân có diện tích tự nhiên hơn 94.000 ha, trong đó đất nông nghiệp chiếm khoảng 12.500 ha, đất lâm nghiệp hơn 52.000 ha, đất ở và đất chuyên dùng khoảng 8.000 ha, còn lại là đất chưa sử dụng và mặt nước.
Địa hình chủ yếu là đồi núi thấp xen thung lũng, độ dốc trung bình 15–25°, phân bố dọc theo dãy Trường Sơn Bắc.
Theo kết quả điều tra địa chất – thổ nhưỡng, Như Xuân có ba nhóm đất chính:
• Đất feralit đỏ vàng trên đá phiến sét và đá biến chất, chiếm trên 60% diện tích, thích hợp trồng cây công nghiệp dài ngày (chè, cà phê, keo, lát, cao su).
• Đất phù sa và đất dốc tụ ở thung lũng, ven suối, thuận lợi cho trồng lúa nước, rau màu, cây ăn quả.
• Đất xám bạc màu và đất cát pha, phân bố rải rác ở vùng núi cao, chủ yếu dùng trồng rừng hoặc chăn thả gia súc.
Nhìn chung, quỹ đất của huyện còn khá lớn và tiềm năng phát triển nông – lâm nghiệp, song cần có chiến lược sử dụng hợp lý, gắn với quy hoạch bảo vệ môi trường và phòng chống xói mòn, thoái hóa đất.
2. Tài nguyên rừng
Rừng là tài nguyên đặc biệt quan trọng của Như Xuân, không chỉ cung cấp gỗ, lâm sản và dược liệu mà còn giữ vai trò điều hòa khí hậu, bảo vệ nguồn nước, chống xói mòn, lũ quét.
Toàn huyện có trên 52.000 ha đất có rừng, trong đó:
• Rừng tự nhiên: khoảng 25.000 ha, tập trung ở các xã Thanh Quân, Thanh Hòa, Hóa Quỳ, Cát Tân;
• Rừng trồng sản xuất: hơn 27.000 ha, chủ yếu là keo lai, luồng, lát hoa, xoan, mỡ;
• Độ che phủ rừng: đạt gần 80%, cao nhất trong các huyện miền Tây Thanh Hóa.
Ngoài giá trị kinh tế, rừng Như Xuân còn có ý nghĩa sinh thái lớn. Nhiều khu vực rừng thuộc vành đai bảo vệ hồ Cửa Đạt, nơi sinh sống của nhiều loài động – thực vật quý hiếm như: voọc xám, khỉ vàng, chồn hương, lim xanh, pơ mu, lát hoa, dổi, trám…
Huyện đang triển khai chương trình trồng rừng gỗ lớn, trồng rừng đa tầng, bảo tồn rừng đầu nguồn, đồng thời đẩy mạnh chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng (PFES) giúp người dân có thu nhập ổn định từ việc bảo vệ rừng.
3. Tài nguyên khoáng sản
Như Xuân có nguồn khoáng sản đa dạng nhưng quy mô nhỏ, chủ yếu là khoáng sản vật liệu xây dựng và khoáng chất công nghiệp.
Theo kết quả khảo sát của Sở Tài nguyên và Môi trường Thanh Hóa, trên địa bàn huyện có:
• Đá vôi, đá granit, đá xây dựng ở khu vực xã Xuân Bình, Thanh Hòa;
• Cát, sỏi lòng suối ở suối Âm, suối Con, được khai thác có kiểm soát phục vụ nhu cầu xây dựng trong huyện;
• Kaolin, đất sét, quặng sắt ở quy mô nhỏ tại xã Thanh Quân và Cát Tân;
• Một số điểm có tiềm năng nước khoáng nóng ở khu vực Hóa Quỳ – Thanh Phong, bước đầu được đánh giá có giá trị khai thác du lịch – y tế.
Chính quyền huyện quản lý chặt chẽ hoạt động khai thác khoáng sản, ngăn chặn tình trạng khai thác trái phép, bảo vệ cảnh quan và môi trường sinh thái.
4. Tài nguyên nước
Huyện Như Xuân có hệ thống sông, suối khá phong phú, nằm trong lưu vực của sông Chu và sông Hiếu.
Các con suối lớn gồm: suối Âm, suối Con, suối Hón Mũ, suối Tôm, suối Rọc Mạy, vừa cung cấp nguồn nước tưới tiêu, vừa tạo cảnh quan sinh thái.
Trên địa bàn huyện có nhiều hồ chứa và đập thủy lợi lớn, đáng kể nhất là:
• Hồ Cửa Đạt – công trình trọng điểm quốc gia, dung tích hơn 1,45 tỷ m³ nước, điều tiết nước tưới cho gần 90.000 ha đất nông nghiệp vùng hạ lưu;
• Hồ Bãi Thượng, hồ Hón Mũ, hồ Đồng Rằm, cùng hàng trăm hồ nhỏ khác phân bố khắp các xã.
Nguồn nước ngầm ở Như Xuân tương đối dồi dào, có thể khai thác cho sinh hoạt và sản xuất, nhưng cần quản lý bền vững để tránh cạn kiệt hoặc ô nhiễm.
Hệ thống nước sạch nông thôn được mở rộng, với hơn 85% hộ dân được sử dụng nước hợp vệ sinh (năm 2024).
5. Tài nguyên sinh vật
Sự đa dạng sinh học của Như Xuân được thể hiện rõ qua hệ sinh thái rừng tự nhiên, suối, hồ và vùng đồi núi thấp.
Các loài thực vật phong phú gồm: lim xanh, lát hoa, dổi, trám, gụ, chò chỉ, cùng nhiều loài tre nứa, song mây, dược liệu quý (ba kích, sa nhân, hà thủ ô, xuyên khung, đinh lăng rừng).
Hệ động vật có mặt của hơn 180 loài, trong đó có một số loài quý hiếm như: voọc xám, cu li nhỏ, gà lôi lam, khướu đá, sóc đen, cầy hương.
Một phần diện tích rừng huyện giáp ranh Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hu và Pù Luông, là vùng đệm sinh thái quan trọng của hệ rừng Trường Sơn Bắc.
Chính quyền huyện phối hợp với các tổ chức bảo tồn thiên nhiên để ngăn chặn săn bắt động vật hoang dã, khôi phục rừng nguyên sinh và bảo tồn cây thuốc dân tộc – nguồn gen quý của miền Tây Thanh Hóa.
6. Tài nguyên du lịch – cảnh quan tự nhiên
Thiên nhiên ưu đãi cho Như Xuân nhiều cảnh quan đẹp, giàu tiềm năng du lịch sinh thái:
• Hồ Cửa Đạt – mặt nước mênh mông, non nước hữu tình, thích hợp du thuyền, câu cá, nghỉ dưỡng.
• Thác Bảy Tầng, thác Hón Mũ, thác Róc Mạy – điểm đến hấp dẫn cho du khách ưa khám phá.
• Đồi cọ Bãi Trành, rừng keo Thanh Hòa, các bản Thái – Mường truyền thống – tạo nên bức tranh hài hòa giữa con người và thiên nhiên.
Kết hợp cùng văn hóa bản địa (ẩm thực, múa sạp, hát khặp, rượu cần), Như Xuân đang được quy hoạch trở thành trung tâm du lịch sinh thái – văn hóa vùng Tây Nam tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn 2025–2035.
7. Môi trường và công tác bảo vệ môi trường
Như Xuân là huyện miền núi, ít khu công nghiệp lớn, nên môi trường nhìn chung còn trong lành, song vẫn tiềm ẩn nguy cơ ô nhiễm cục bộ từ sinh hoạt, nông nghiệp và chế biến lâm sản.
Công tác quản lý môi trường được triển khai trên ba hướng chính:
1. Tuyên truyền – giáo dục cộng đồng về phân loại rác, bảo vệ nguồn nước, không đốt rừng, không xả thải bừa bãi.
2. Kiểm soát chất thải rắn, nước thải sinh hoạt và sản xuất, xây dựng các bãi rác tập trung ở thị trấn Bãi Trành và cụm công nghiệp.
3. Tăng cường trồng cây xanh, phủ xanh đất trống đồi núi trọc, phát động phong trào “Ngày Chủ nhật xanh”, “Thôn bản sạch đẹp”.
Huyện cũng chú trọng ứng phó với biến đổi khí hậu: phòng chống lũ quét, sạt lở đất, hạn hán, bảo đảm an toàn cho khu dân cư vùng lòng hồ Cửa Đạt.
Tỷ lệ thu gom rác thải sinh hoạt toàn huyện hiện đạt trên 80%, là một trong những huyện miền núi có tỉ lệ cao của tỉnh.
8. Định hướng bảo vệ và khai thác bền vững tài nguyên
Để phát triển kinh tế – xã hội bền vững, Như Xuân đặt mục tiêu đến năm 2035:
• Giữ vững độ che phủ rừng trên 80%;
• 100% cơ sở sản xuất có báo cáo đánh giá tác động môi trường;
• 95% hộ dân nông thôn sử dụng nước sạch, hợp vệ sinh;
• Phát triển du lịch xanh – kinh tế rừng – năng lượng sạch làm trụ cột kinh tế mới.
Đồng thời, huyện đẩy mạnh chuyển đổi số trong quản lý tài nguyên, ứng dụng công nghệ GIS, định vị vệ tinh trong quản lý rừng, đất đai, môi trường.
Mục tiêu hướng tới là: khai thác tài nguyên đi đôi với bảo tồn sinh thái, để Như Xuân phát triển lâu dài, hài hòa giữa con người và thiên nhiên.
Dưới đây là phần cuối cùng — Phần V: Hướng phát triển tương lai — của bản thảo “Địa chí huyện Như Xuân” được trình bày theo chuẩn sách in (theo phong cách Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, có thể dùng trực tiếp để biên tập thành sách in hoặc hồ sơ địa chí cấp huyện).
PHẦN V. HƯỚNG PHÁT TRIỂN TƯƠNG LAI
1. Định hướng phát triển kinh tế – xã hội đến năm 2030, tầm nhìn 2045
1.1. Mục tiêu tổng quát
Trong giai đoạn tới, huyện Như Xuân phấn đấu trở thành huyện phát triển khá của khu vực miền núi phía Tây Nam Thanh Hóa, là trung tâm kinh tế – xã hội của vùng trung chuyển giữa Thanh Hóa và Nghệ An. Mục tiêu là xây dựng Như Xuân trở thành huyện nông thôn mới nâng cao vào năm 2030, có cơ cấu kinh tế hợp lý, đời sống nhân dân được cải thiện toàn diện, bản sắc văn hóa dân tộc được gìn giữ, môi trường sinh thái được bảo vệ.
1.2. Định hướng phát triển ngành – lĩnh vực
a) Nông – lâm nghiệp bền vững
• Tiếp tục chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng hàng hóa, nâng cao giá trị kinh tế rừng.
• Phát triển rừng sản xuất, rừng phòng hộ và mô hình kinh tế lâm nghiệp kết hợp du lịch sinh thái.
• Đẩy mạnh các mô hình nông nghiệp công nghệ cao: trồng cam, bưởi, rau an toàn, chăn nuôi bò sinh sản và gà bản địa.
• Khuyến khích các hợp tác xã kiểu mới, hình thành chuỗi giá trị sản phẩm đặc trưng như mật ong rừng, tinh dầu quế, sản phẩm OCOP.
b) Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp
• Hoàn thiện hạ tầng Cụm công nghiệp Bãi Trành, thu hút doanh nghiệp chế biến gỗ, may mặc, vật liệu xây dựng.
• Khuyến khích phát triển công nghiệp chế biến nông – lâm sản và năng lượng tái tạo.
• Tạo điều kiện cho các làng nghề thủ công truyền thống phục hồi và phát triển: đan lát, mộc mỹ nghệ, chế biến lâm sản phụ.
c) Thương mại – dịch vụ – du lịch
• Mở rộng mạng lưới chợ trung tâm, cửa hàng tiện ích và dịch vụ vận tải liên huyện.
• Khai thác tiềm năng du lịch sinh thái hồ Sông Mực, bản Mạ, bản Vịn, bản Ké, gắn với du lịch văn hóa các dân tộc Thái, Mường.
• Xây dựng tuyến du lịch liên kết: Như Xuân – Bến En – Cẩm Thủy – Pù Luông – Nghệ An, đưa Như Xuân trở thành điểm dừng du lịch sinh thái miền Tây Thanh Hóa.
2. Phát triển văn hóa – xã hội và nguồn nhân lực
2.1. Giáo dục và đào tạo
• Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông; mở rộng đào tạo nghề gắn với nhu cầu lao động địa phương.
• Đầu tư trường đạt chuẩn quốc gia, khuyến khích học sinh dân tộc thiểu số theo học các ngành kỹ thuật – công nghệ.
2.2. Y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân
• Hoàn thiện hệ thống y tế cơ sở, bảo đảm 100% xã có trạm y tế đạt chuẩn.
• Tăng cường tuyên truyền phòng chống dịch bệnh, chăm sóc sức khỏe bà mẹ – trẻ em, nâng cao tuổi thọ bình quân.
2.3. Văn hóa – thể thao – thông tin
• Gìn giữ và phát huy giá trị văn hóa dân tộc Thái, Mường, Kinh, Dao.
• Duy trì và phục dựng lễ hội Xăng Khan, lễ hội Kin Chiêng Boóc Mạy, hội Làng Cống, xây dựng các câu lạc bộ dân ca, dân vũ truyền thống.
• Đầu tư trung tâm văn hóa – thể thao cấp huyện, mở rộng phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”.
3. Quản lý tài nguyên – môi trường và phát triển bền vững
• Tăng cường bảo vệ rừng đầu nguồn, ngăn chặn khai thác gỗ, khoáng sản trái phép.
• Phát triển các mô hình kinh tế sinh thái, du lịch xanh gắn với bảo tồn thiên nhiên.
• Thực hiện nghiêm quy hoạch sử dụng đất, bảo vệ môi trường nước hồ Sông Mực, suối Mơ và hệ thống khe suối.
• Đẩy mạnh tuyên truyền phân loại rác tại nguồn, xây dựng môi trường “Xanh – Sạch – Đẹp” tại các bản làng.
4. Xây dựng hệ thống chính trị và quốc phòng – an ninh vững mạnh
• Củng cố tổ chức Đảng, chính quyền các cấp vững mạnh, hoạt động hiệu quả.
• Xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số kế cận.
• Giữ vững quốc phòng – an ninh, đảm bảo an toàn khu vực giáp ranh Nghệ An.
• Phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, xây dựng khối thống nhất trong cộng đồng.
5. Tầm nhìn đến năm 2045
Đến năm 2045, huyện Như Xuân phấn đấu trở thành huyện miền núi phát triển bền vững, sinh thái – bản sắc – thịnh vượng, nơi:
• Rừng được bảo tồn, kinh tế xanh chiếm tỷ trọng lớn.
• Văn hóa dân tộc được gìn giữ và lan tỏa.
• Con người Như Xuân sống ấm no, hạnh phúc, tự hào về quê hương.
Như Xuân sẽ là “vùng xanh” của tỉnh Thanh Hóa, nơi hội tụ hài hòa giữa thiên nhiên, văn hóa và con người – một hình mẫu phát triển bền vững của miền núi phía Tây Bắc Trung Bộ.
KẾT LUẬN
“Địa chí huyện Như Xuân” là công trình tổng hợp, không chỉ ghi lại tiến trình lịch sử, văn hóa và con người, mà còn mở ra tầm nhìn phát triển trong thời kỳ mới. Từ miền đất rừng núi xưa kia còn nhiều gian khó, Như Xuân hôm nay đang từng bước khẳng định vị thế mới – một vùng quê giàu tiềm năng, đậm bản sắc, hướng tới tương lai xanh – bền vững – thịnh vượng.