Thứ Năm, 30 tháng 3, 2023
CÓ GÌ MỚI VÀ LẠ TRONG NĂM QUÝ MÃO 2023....BẠN CÓ BIẾT ?
Thứ Sáu, 24 tháng 3, 2023
CÂU CHUYỆN LỊCH SỬ: CÓ LẼ BẠN CHƯA BIẾT?
Có đến
90% khả năng là bạn chưa biết gì về câu chuyện lịch sử này. Bởi vì...những bậc
trí thức, học giả, những nhà nghiên cứu và giảng dạy lịch sử ở VN cũng không
biết khi trả lời câu hỏi:
"Trước
thế kỷ 20, cuộc xâm lược cuối cùng của Trung Quốc vào Việt Nam là cuộc xâm lược
nào? Trong sự kiện ấy, ai là tổng chỉ huy của quân đội Trung Quốc? Ai là người
đánh bại đội quân xâm lược đó?
Hầu hết
người được hỏi đều trả lời: Đó là cuộc xâm lược của Mãn Thanh thời Hoàng đế Càn
Long vào năm 1789, chỉ huy đội quân xâm lược là Tôn Sỹ Nghị, người đánh bại đội
quân xâm lược đó là Hoàng đế Quang Trung.
Chỉ có
một học giả duy nhất trả lời đúng: Cuộc xâm lược cuối cùng là vào thế kỷ 19,
thời Từ Hy thái hậu của Mãn Thanh, chỉ huy đội quân xâm lược là Phùng Tử Tài,
còn người đánh bại cuộc xâm lược đó của Trung Quốc là… thực dân Pháp.
Tại sao
hầu hết những người am tường sách vở ở Việt Nam mà tôi có dịp được hỏi lại hoàn
toàn không nhớ gì về cuộc xâm lược trong thế kỷ 19 này của Trung Quốc?
Vì nó
hoàn toàn bị xoá khỏi lịch sử. Nó không được dạy trong chương trình sử ở cả bậc
đại học lẫn trung học.
Cuối thế
kỷ 19, Việt Nam đối diện với hai siêu cường, Pháp và Mãn Thanh, một bên đến từ
phương Tây, mang theo nền văn minh của chủ nghĩa tư bản, một bên là thiên triều
ngàn năm vẫn đang chìm đắm trong ảo giác mình là trung tâm của thế giới.
Ngay sau
khi Pháp lấy Nam Kỳ, Mãn Thanh cũng lập kế hoạch đánh chiếm miền Bắc.
Mãn
Thanh quyết tâm đánh chiếm Bắc Kỳ vì Việt Nam đã suy yếu, và nhằm bảo vệ mô
hình thiên triều - chư hầu ngàn năm. Pháp thì quyết lấy nốt phần còn lại. Hai
bên tất yếu bước vào một cuộc đụng đầu lịch sử, dần dần đi đến chỗ đánh nhau ác
liệt ngay trên lãnh thổ Việt Nam, qua một loạt trận đánh như Sơn Tây, Bắc Ninh,
Hưng Hóa, Tuyên Quang năm 1883.
Mãn
Thanh đã quyết tâm đến mức dốc tổng lực đánh bại Pháp trên đất liền, chiếm toàn
bộ vùng trung du phía Bắc, áp sát khu vực đồng bằng sông Hồng. Thủ tướng Pháp
phải từ chức. Nhưng quân Pháp lật ngược thế cờ bằng cách mở ra chiến trường
trên biển, đánh chiếm đảo Đài Loan và huỷ diệt Bắc Dương hạm đội của Mãn Thanh
ở Phúc Châu.
Mãn
Thanh ban đầu thấy chỉ khả thi khi đặt mục tiêu giữ lại vùng Bắc Kỳ, nhưng khi
phải ký vào Hiệp ước Thiên Tân 1885, Mãn Thanh buộc chấp nhận mất toàn bộ chư
hầu Việt Nam.
Hiệp ước
Thiên Tân 1885 giữa Pháp và Mãn Thanh đã tạo ra một bước ngoặt lịch sử cho cả
Mãn Thanh và Việt Nam.
Nếu như
việc phải nhượng địa Hong Kong cho nước Anh chỉ khiến Mãn Thanh thức tỉnh về
khả năng kỹ thuật của phương Tây nhưng vẫn giữ vững niềm tin vào hệ thống thiên
triều - chư hầu, thì đến khi mất chư hầu Việt Nam vào tay Pháp, ý thức hệ và
cấu trúc thiên triều - chư hầu của họ bị đánh tận gốc rễ.
Việc Mãn
Thanh không thể giữ Việt Nam trong cấu trúc thiên triều - chư hầu đã khiến Nhật
Bản, lúc này đã trở thành một cường quốc, quyết định giành lấy một chư hầu khác
của Mãn Thanh là Triều Tiên. Mãn Thanh tiếp tục mất Triều Tiên trong cuộc chiến
Nhật Thanh 10 năm sau đó.
Từ đó,
việc cấu trúc và ý thức hệ thiên triều - chư hầu bị sụp đổ toàn diện trong thế
kỷ 19 trở thành một trong những nội dung chủ yếu của ý niệm “thế kỷ ô nhục”
trong chủ nghĩa dân tộc Trung Hoa hiện đại.
Còn ở
Việt Nam, do cuộc chiến Pháp - Thanh ảnh hưởng quá lớn đến số phận Việt Nam,
nên dù xoá cuộc chiến này khỏi sách giáo khoa sử cho học sinh phổ thông, ngày
nay, các sử gia ở Hà Nội vẫn phải dạy học sinh về một số điều liên quan đến
cuộc chiến ấy: đội quân Cờ Đen của tướng Mãn Thanh là Lưu Vĩnh Phúc và Hiệp ước
Thiên Tân 1885.
Đó là sự
kiện không thể không dạy. Quân đội Lưu Vĩnh Phúc của Mãn Thanh đã lập hai chiến
công là giết hai chỉ huy của Pháp trong hai trận ở Cầu Giấy, còn Hiệp ước Pháp
- Thanh 1885 thì mở ra trang sử mới của Việt Nam.
Nhưng,
nói về Lưu Vĩnh Phúc và Hiệp ước Pháp - Thanh mà lại không nói gì về cuộc chiến
tranh quyết định quyền kiểm soát Việt Nam của hai nước Pháp - Thanh này, các sử
gia của chúng ta đã cho học sinh phổ thông học một bức tranh lịch sử cận đại
theo kiểu… Pháp xâm lược Việt Nam, rồi đột nhiên Mãn Thanh xuất hiện ký một
hiệp ước quyết định số phận chúng ta.
Lưu Vĩnh
Phúc vốn là quân Thái Bình Thiên Quốc, bị triều đình Mãn Thanh đánh bại, chạy
sang Việt Nam làm thổ phỉ, gây ra vô số tội ác cho dân chúng. Triều đình Huế
không thể đánh dẹp, phải nhờ Mãn Thanh đánh giúp. Nhưng khi triều đình Mãn
Thanh cử quân đội vào Việt Nam để đụng đầu với Pháp, quân đội triều đình Mãn
Thanh đã thâu nạp luôn đội quân thổ phỉ Lưu Vĩnh Phúc, ban cho phẩm hàm triều
đình, thay vì tiêu diệt nó.
Sách
giáo khoa sử lớp 7 hiện nay ở Việt Nam dùng khái niệm “quân ta” để gọi Lưu Vĩnh
Phúc. Lối giáo dục này bắt đầu từ hơn 70 năm trước, khi sử gia Trần Văn Giàu và
Trần Huy Liệu ở Hà Nội bắt đầu xây dựng bức tranh “lịch sử cận đại”. Lưu Vĩnh
Phúc có tờ Hịch kêu gọi binh lính của mình đánh Pháp, trong đó, đoạn đầu tiên,
ông nói rõ mục đích của cuộc chiến: "Việt Nam là chư hầu của Mãn Thanh,
nay Pháp sang chiếm mất chư hầu của ta, ta và Pháp là kẻ thù không đội trời
chung".
Sử gia
Trần Văn Giàu làm gì khi trích dẫn bài Hịch này vào bộ sử “Bắc kỳ kháng Pháp”?
Ông cắt bỏ đoạn mở đầu thể hiện rõ ý thức hệ và mục đích chiến tranh của họ Lưu
đó đi. Nhờ thế, sử gia họ Trần dễ dàng gắn huân chương “tình hữu nghị chiến đấu
của hai dân tộc Việt Trung” cho Lưu Vĩnh Phúc.
Xoá bỏ
cuộc xâm lược của Mãn Thanh và cuộc chiến Pháp-Thanh vào thế kỷ 19, các sử gia
miền Bắc xây dựng thế kỷ 19 theo mô hình phân đôi: một bên là thực dân Pháp xâm
lược, nhà Nguyễn hèn nhát hàng giặc, một bên là “dân tộc” anh hùng kháng chiến
chống ngoại xâm.
Trên cái
nền bức tranh phân đôi con người làm hai tuyến, bên trái là “xâm lược phương
Tây” và bên phải là “nhân dân anh hùng”, người ta lần lượt điêu khắc các nhân
vật lịch sử sao cho "ăn khớp" với bức tranh ấy: Alexandre de Rhodes
dĩ nhiên thuộc bên trái bức tranh, phong trào văn thân (vốn không có ý niệm về
lòng ái quốc mà chỉ chống người theo đạo Thiên chúa để bảo vệ hệ thống phong
kiến nơi họ có thể tìm thấy vị trí xã hội của mình) được xếp vào bên phải.
Vẽ bức
tranh thế kỷ 19 theo cách ấy, các sử gia của Viện Sử học ở Hà Nội từ thập niên
1950 dễ dàng tiếp tục vẽ bức tranh của giai đoạn tiếp theo như cách chúng ta
thấy trong các giáo trình “Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam” ngày nay: “nhân dân”
tuy anh hùng nhưng không có đường lối đấu tranh đúng đắn, liên tục thất bại cho
đến khi Đảng Cộng sản ra đời, mang về Việt Nam vũ khí tối tân là con đường cách
mạng vô sản. Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân vật trung tâm của bức tranh. Lịch
sử quốc gia thế kỷ 20 được đồng nhất với lịch sử Đảng.
Cách học
ấy bắt đầu từ giữa thập niên 1950, đến nay đã kéo dài khoảng 4 thế hệ.
Trần
Trọng Kim, người cha của sử học hiện đại Việt Nam, 1883-1953
Cuộc
chiến Pháp -Thanh và sự thất bại của Việt Nam khi bị kẹt giữa hai siêu cường ấy
đã được sử gia hiện đại đầu tiên của Việt Nam, Trần Trọng Kim, phân tích kỹ
lưỡng trong “Việt Nam sử lược”, bộ sách giáo khoa lịch sử đầu tiên của nước
Việt Nam, xuất bản vào 1919-1920. Cuốn sách này đã bị cấm ở miền Bắc sau 1954
và toàn quốc sau 1975. Nếu chấp nhận phục hồi ký ức về cuộc xâm lược của Mãn
Thanh và cuộc chiến Pháp-Thanh thế kỷ 19, chúng ta sẽ phải chấp nhận bức tranh
thế kỷ ấy như người cha của nền sử học Việt Nam đã khắc họa một cách khách
quan: Đó là thế kỷ mà Việt Nam bị mắc kẹt vào hai gọng kìm Pháp-Thanh, bị giằng
xé giữa hai mô hình “chư hầu của thiên triều phương Bắc” và “thuộc địa của thực
dân phương Tây”, bị buộc phải lựa chọn giữa hai con đường “Tây phương hoá” hay
“tiếp tục nằm trong vòng ảnh hưởng của vùng văn hoá chữ Hán”.
Điều đó
có nghĩa là bức tranh lịch sử từ đầu thế kỷ 20 cũng cần được vẽ lại toàn bộ.
Trong bức tranh này, vị trí của các lực lựợng chính trị, các phong trào xã hội,
các vấn đề thuộc phạm vi tinh thần như lịch sử tư tưởng, văn hoá, văn học nghệ
thuật… cũng sẽ được tái định vị một cách căn bản.
Năm
1987, sử gia Nhật Bản Tsuboi Yoshiharu xuất bản “Nước Đại Nam đối diện với Pháp
và Trung Hoa”, phân tích thế kỷ 19, trọng tâm là thời Tự Đức, như là thời đại
Việt Nam mắc kẹt giữa hai siêu cường. Cuốn sách được các học giả Nguyễn Đình
Đầu, Bùi Trân Phượng, Tăng Văn Hỷ, Vũ Văn Kính dịch ra tiếng Việt và Trần Văn
Giàu là người viết lời giới thiệu. Trần Văn Giàu đã đánh giá cách tiếp cận của
Tsuboi là “mới mẻ” mà “quên” mất rằng, cách hiểu ấy về thế kỷ 19 đã ra đời ngay
từ đầu thế kỷ 20, trước sử gia Nhật Bản ấy đến bảy thập niên, trong “Việt Nam
sử lược”, cuốn sách mà chính các sử gia kiêm chính trị gia ở Hà Nội đã cấm đoán
từ thập niên 1950 để độc quyền một cách kể chuyện lịch sử duy nhất.
Nhận
thức về lịch sử (trả lời câu hỏi “chúng ta đến đây từ đâu và như thế nào?”) và
lựa chọn chính trị (trả lời câu hỏi “chúng ta làm gì bây giờ?”) chỉ là hai mặt
của một tờ giấy. Hiểu theo cách đó, như ta thấy qua câu chuyện phản đối đặt tên
đường cho Alexandre de Rhodes nói trên, những lựa chọn của người Việt Nam hôm
nay vẫn chìm đắm trong một màn sương mù của tư duy được đình hình từ giữa thế
kỷ trước bởi Ban nghiên cứu Văn Sử Địa.
Lãng
quên bài học thất bại khi đối diện yêu cầu lịch sử phải lựa chọn giữa Pháp -
Thanh với tư cách là hai mô hình, hai thế giới, Việt Nam ngày nay tiếp tục đối
diện câu hỏi ấy một lần nữa.
(Nguồn:
Khôi Nguyễn, Đại học Oregon).
Dung
Tran
KieuHuong
Nguồn copy Hà Nội Tri Thức - Connaissance De Hanoï - Knowledge Of Hanoi
SỰ DỐI TRÁ NGỌT NGÀO...HAY LÀ SỰ CHI PHỐI CỦA THUYẾT ƯU SINH
Chủ Nhật, 19 tháng 3, 2023
LỊCH SỬ XÃ VĨNH HƯNG, HUYỆN VĨNH LỘC, TỈNH THANH HOÁ
Vĩnh Hưng là một xã miền núi miền quê
có bề dày lịch sử văn hóa và giàu truyền thống yêu nước. Di chỉ khảo cổ học
Làng Còng đã nói lên vùng đất này cách đây hơn 6.500 năm đã có con người đến
đây sinh sống. Những tên làng, thôn, xóm. Làng Còng, Cù Đông. Mĩ Chí, Nhân Sơn,
Bái Thôn...Dù đã thay đổi qua nhiều tên khác nhau nhưng vẫn mang đậm dấu ấn,
gắn bó với mỗi con người nơi đây một nắng hai sương cần cù, siêng năng vật lộn
với mảnh đất Sống chung với lũ Để tồn tại vươn lên.
Những di
tích: Đê Bà Chúa, đền Cao Sơn, chùa Linh Quang đều lưu truyền mãi với hậu thế,
truyền thuyết và huyền Thoại.
Dưới
thời pháp thuộc, nhân dân Vĩnh Hưng đã sớm giác ngộ tư tưởng yêu nước, cách
mạng, giải phóng dân tộc. Từ những năm 1930 đã nhen nhóm tổ chức cách mạng;
Trong phong trào chiến khu Ngọc Trạo (1939 - 1941) nhân dân Vĩnh Hưng đã có
nhiều hoạt động giúp đỡ, che chở cho các chiến sỹ hoạt động.
Từ khi
Đảng bộ Vĩnh Hưng được thành lập (1953) đến nay, dưới sự lảnh đạo của Ban Chấp
hành Đảng bộ,nhân dân Vĩnh Hưng đã đi theo ngọn cờ của Đảng, chung sức chung
lòng vượt qua mọi khó khăn thử thách, đóng góp sức người, sức của cho cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc.
I. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên:
Vĩnh
Hưng là một xã miền núi năm ở phía đông bắc của huyện Vĩnh Lộc có mã số quốc
gia 271307, nằm cách huyện lỵ Vĩnh Lộc 5 km về phía đông Bắc, cách thành phố
Thanh Hóa 50 km. Xã Vĩnh Hưng có vị trí phía Bắc giáp huyện Thạch Thành, phía
Tây giáp xã Vĩnh Phúc, Vĩnh Long, phía Đông giáp huyện Thạch Thành, phía Nam
giáp xã Vĩnh Hòa. Diện tích tự nhiên xã Vĩnh Hưng, tính đến thời điểm tháng 10
năm 2012 là 1.672,95 ha. Trong đó đất nông nghiệp có 1.178,36 ha, Là một xã
miền núi nhưng địa hình là đồi thấp diện tích đất sản xuất nông nghiệp phần lớn
lại là vũng trũng nên gặp rất nhiều khó khăn. Trên địa bàn xã có dòng sông Bưởi
chạy qua dài hơn 3km là phụ du của sông Mã. Sông bưởi hẹp, uốn khúc nhiều đoạn,
vì vậy mùa mưa lũ hằng năm, khi nước thượng nguồn đổ về nhiều làm giảm tốc độ
thoát nước của dòng chảy gây ra ngập lụt cục bộ. Sông Bưởi là nguồn nước cơ bản
cung cấp nước tươi phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt của nhân dân trong xã.
Với vị
trí địa lý và điều kiện tự nhiên, đất đai, sông ngòi, đồi núi, khí hậu.. đã tạo
điều kiện thuận lợi trong phát triển kinh tế xã hội ở Vĩnh Hưng.
II. Các di tích lịch sử văn hóa của xã.
Vĩnh
Hưng là vùng đất cổ lâu đời. Tất cả các làng từ xưa đều có đình, chùa, nghè,
phủ lăng, đền, bia thờ khổng tử....Tiếc rằng những năm chiến tranh và thời gian
bao cấp đã bị phá hủy chỉ còn là phế tích. Hiện nay trong xã còn lại 2 di tích:
Đền thờ Cao Hiển và Hoàng Bà, di tích chùa Linh Quang.
Chùa Linh Quang
Về chùa
Linh Quang hay còn gọi là Chùa Còng. Vào thời vua Lý Thánh Tông (1054 - 1072)
đã cùng hoàng hậu đến đây cầu tự và cũng đã đến đây lễ tạ. Nói về sự kiện này,
thần phả còn giữ được ở chùa Ling Quang do Bùi Xuân Vĩ cán bộ Hán Nôm Thư viện
Khoa học tỉnh Thanh Hóa dịch thuật đã viết như sau:
Thời
Lý Thánh Tông lam vua chuyên lấy đức hóa dân, lòng nhân đạo đó như trời biển,
trí tuệ đó như thần thánh, đời khen là vua hiền tài đức độ. Lúc đó vua cùng
hoàng hậu tên húy là Quang Thục (Sinh ngày 11 tháng giêng năm giáp Thìn) lấy
nhau mà chưa có con nên vua cung hoàng hậu năm thang thường đi tuần du các nơi,
cảnh núi linh thiêng để cầu nguyện thần thánh. Vua đã cùng hoàng hậu đến địa
giới Khu Cương trang phúc lâm, huyện Vĩnh Phúc, phủ Thiệu Thiên, trấn Thanh Hóa
(Tức Làng Còng ngày nay) thấy vùng đất đó có núi bao bọc, sông giao nhau một thắng
cảnh đẹp, anh linh có một ngôi đền thiêng viết chữ Tối linh từ nghĩa là đền
linh thiêng nhất. Vua lý Thánh Tông cùng hoàng hậu làm lễ cầu đảo và cùng qua
chùa Linh quang thắp hương được Phật Quan Âm báo điềm tốt...
Về đền thờ Cao Hiển Hoàng Bà.
Đây là loại
di tích lịch sử văn hóa Nơi lưu niệm danh nhân và sự kiện cao Hiển Cao Sơn
Đại Vương một thừa tướng đã cùng nhân dân lập trang trại,khai hoang lập ấp và
chống ngoại xâm (Giặc Đông Dy). Cũng tại khu cương trang Phúc Lâm, nơi có cảnh
đẹp, có nhiều đền miếu linh thiêng nơi mà Hoàng Hậu nhà Lý đã cùng vua Lý Thánh
Tông đến đây thăm và chiêm ngưỡng, cũng là nơi an nghỉ của bà Hoàng Hậu nơi lưu
giữ kỷ niệm vua Lý Thánh Tông (1054 - 1072)
III. Nhân dân Vĩnh Hưng đến với cách mạng.
Những
năm 1925 - 1930, thực dân Pháp không những nắm giữ mọi ngành kinh tế quan trọng
mà chúng còn tăng cường khai thác sức người, sức của ở Việt Nam để bù đắp sự
thiệt hại sau chiến tranh và làm giàu cho chúng.
Ngày 03
tháng 02 năm 1930 Đảng Cộng sản Việt Namđược thành lập. Sự kiện trọng đại này
mở ra giai đoạn mới của cách mạng ViệtNamnói chung và các đại phương trong cả
nước nói riêng. Ngày 29 tháng 7 năm 1930 tỉnh Đảng bộ Thanh Hóa được thành lập.
Ngày 16 tháng 4 năm 1934 chi bộ Đảng ghép gồm Vĩnh Lộc và Thạch Thành được
thành lập tại chùa Xuân Áng (xã Vĩnh Long).
Dưới sự
lãnh đạo của Đảng, những năm 1935- 1939, phong trào đấu tranh Cách mạng diễn ra
ở nhiều nơi của huyện Vĩnh Lộc.
Ở làng
Cù Đông xã Vĩnh Hưng những năm 1934 - 1935 đã xuất hiện mầm mống cộng sản. Bấy
giờ làng Cù Đông có ông Phạm Quang Hồng Tức Phạm Văn Tằm đã được đồng chí Trịnh
Quang Đản giác ngộ cách mạng và thường xuyên lui tới nhà ông Phạm Quang Hồng để
giúp đỡ và gửi cho ông Phạm Quang Hồng nhiều loại báo cách mạng đó là: Hà thành
thời báo, Dân nghèo, Dân cày, Công hội và nông hội đỏ.., Mùa đông năm 1938 do
cuộc đấu tranh gay gắt xảy ra trong việc thu thuế, kết quả lý trưởng làng cù
đông bị đánh đòn, 2 hội viên của hội Tương tế ái hữu là ông Phạm Văn Thuật, Lê
Xuân Phương bị chính quyền thực dân bắt giam 2 tháng còn ông Quỷnh ông Hỷ bị
truy nã. Khoảng giữa năm 1941, do việc bố trí cuộc họp giữa các chiến sỹ cách
mạng ở làng Cù Đông bị lộ, hai đồng chí là Phạm Văn Thuật và Phạm Quang Hồng bị
chính quyền tay sai bắt giam 2 năm tại nhà lao Thanh Hóa.
IV. Nhân dân Vĩnh Hưng tham gia kháng chiến
kiến quốc thắng lợi và trong công cuộc xây dựng, đổi mới đất nước.
Dưới sự
lãnh đạo của Đảng, cùng với cả huyện, cả tỉnh, nhân dân Vĩnh Hưng dã dũng cảm
vùng dậy đánh đổ đế quốc thực dân phong kiến góp phần thắng lợi trong cuộc cách
mạng tháng 8 năm 1945.
Trong
kháng chiến chống thực dân Pháp, nhân dân Vĩnh Hưng đã thực hiện tốt khẩu hiệu kháng
chiến kiến quốc. Dưới sự lãnh đạo của chi bộ Đảng, nhân dân Vĩnh Hưng tích cực
tăng gia sản xuất, xây dựng hậu phương vững mạnh, chi viện cho tiền tuyến, tòng
quân giết giặc, đi dân công tải lương tiếp đạn, hết lòng giúp đỡ các đơn vị bộ
đội, thương binh, đồng bào tản cư về ở tại địa phương.
Hòa bình
lập lại ở miền Bắc, nhân dân Vĩnh Hưng thực hiện chủ trương của Đảng, tiến hành
cải cách ruộng đất thắng lợi, thành lập tổ đổi công, xây dựng hợp tác xã bậc
thấp, hợp tác xã bậc cao, đưa quê hương Vĩnh Hưng tiến dần lên chủ nghĩa xã
hội.
Trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Đảng bộ lãnh đạo nhân dân vừa thi đua lao
động sản xuất, vừa sẵn sàng chiến đấu, đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa xã
hội; quốc phòng an ninh; xây dựng hệ thống chính trị, chi viện cao nhất sức
người, sức của cho tiền tuyến, góp phần vào công cuộc giải phóng Miền Nam,
thống nhất đất nước.
Trong
các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp,đế quốc Mỹ và bảo vệ tổ quốc của dân
tộc. Vĩnh Hưng đã có 679 người lên đường tham gia chiến đấu và 1.379 người tham
gia phục vụ chiến đấu trên khắp các chiến trường. Hiện nay trong toàn xã có 5
được truy tặng danh hiệu Mẹ Việt Nam anh hùng", số liệt sỹ là 82, số
thương binh và bệnh binh là 76, số người bị nhiễm chất độc da cam điôxin là 6
đồng chí.
Sau đại
thắng mùa xuân năm 1975, cả nước ta bước vào kỷ nguyên độc lập, thống nhất và
quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Nhân dân Vĩnh Hưng cùng cả nước đi vào khắc
phục hậu quả nặng nề của chiến tranh và chung sức chung lòng xây dựng lại quê
hương đất nước đàng hoàng hơn, to đẹp hơn.
Hơn 30
năm đổi mới, dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc các nhiệm kỳ, được
sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Huyện ủy VĨnh Lộc, Đảng bộ và nhân dân Vĩnh
Hưng đã nỗ lực phấn đấu vươn lên, đoàn kết, tự lực, tự cường, cần cù, sáng tạo
trong lao động sản xuất. Chính vì thế trên bước đường đổi mới, Vĩnh Hưng đã đạt
được những thành tựu to lớn đáng phấn khởi; kinh tế - văn hóa có bước phát
triển khá, quốc phòng an ninh được giữ vững, chính trị xã hội ổn định, đời sống
nhân dân được nâng lên rõ rệt.
Tốc độ
tăng trưởng kinh tế năm sau cao hơn năm trước, tốc độ tăng trưởng bình quân
hằng năm là 13%. Năm 2010, tổng thu nhập của cả xã là 53 tỷ 600 triệu đồng,
bình quân thu nhập đầu người trong năm là 10 triệu đồng. Năm 2018, tổng thu
nhập của cả xã là 214 tỷ 992 triệu đồng, bình quân thu nhập đầu người trong năm
36 triệu đồng.
Xã đã
căn bản hoàn thành các mục tiêu xây dựng cơ bản gồm điện, đường, trường học,
trạm y tế, hội trường công sở, các nhà văn hóa thôn.
Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa đạt kết quả tốt. 12/12 làng, cơ quan văn hóa, đến nay đã có 7 làng và 4 cơ quan đạt danh hiệu làng, cơ quan văn hóa cấp huyện, xã Vĩnh Hưng đạt chuẩn quốc gia về Y tế giai đoạn 2.
Trong
quá trình hơn 60 năm xây dựng và phát triển, dưới sự lãnh đạo của huyện ủy Vĩnh
Lộc, Đảng bộ xã Vĩnh Hưng ngày càng phát triển không ngừng. Đảng bộ Vĩnh Hưng
luôn đạt danh hiệu Đảng bộ trong sạch vững mạnh. Tổ chức chính quyền, Mặt trận
tổ quốc và các đoàn thể hàng năm đều đạt danh hiệu vững mạnh và vững mạnh xuất
sắc.
Bước vào
thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
và nông dân, nhân dân Vĩnh Hưng dưới sự lãnh đạo của Đảng đang phát huy những
thành tựu đã đạt được, nhận rõ khó khăn và thuận lợi quyết tâm hoàn thành tốt
các nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới.
Trải qua
hàng ngàn năm lịch sử, kể từ thuở khai phá đất hoang lập trại, rồi lập nên xóm,
nên làng, các thế hệ người dân nơi đây và cả những người dân nơi khác đến đã bỏ
bao nhiêu mồ hôi, công sức và trí tuệ để có được một xã Vĩnh Hưng tốt lành và
trù phú như tên gọi của mảnh đất này.
Những
giá trị truyền thống tốt đẹp của quê hương sẽ được thế hệ hôm nay và mai sau
trân trọng, giữ gìn và phát huy trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
Cùng với
nhân dân cả nước, Đảng bộ và nhân dân Vĩnh Hưng đang quyết tâm, thực hiện thắng
lợi sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa quê hương đất nước, vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Nguồn tư liệu: Lịch sử xã Vĩnh Hưng;
HƯ VÔ
Rồi một ngày định mệnh
Ta rời bỏ thế gian
Xác thân ta nguội lạnh
Bên nghi ngút khói nhang
Người ghét ta phấn khởi
Nhảy múa để ăn mừng ,
Người thương ta suy sụp
Mắt hai hàng rưng rưng.
Ngày ta về huyệt mộ
Kẻ ghét ta mỉm cười
Người thương ta đau khổ
Như sụp đổ đất trời.
Vài tháng sau, dưới mộ
Giòi bọ đục xác thân
Xưa ta yêu quí nó
Giờ chỉ là thức ăn.
Vài năm sau, rất chóng
Thịt da ta rữa tan
Nấm mồ ta hiu hắt
Mưa gió xối hoang tàn
Người ghét ta thi thoảng
Vẫn nhắc đến tên ta
Trong những lần tụ họp
Cà kê bên rượu, trà
Người thương ta vẫn nhớ
Thi thoảng vẫn khóc thầm
Khi hình ta bất chợt
Hiện về trong xa xăm.
Mười năm sau mộ sập
Khó phân biệt đầu-chân
Người thân thi thoảng đến
Khói hương thưa thớt dần.
Người ghét ta quên hẳn
Về khuôn mặt của ta
Tên ta thi thoảng nhớ
Oán thù xưa phai nhoà.
Người thân ta mang máng
Về khuôn mặt của ta
Nước mắt không còn rớt
Ta chết lâu rồi mà.
Vài chục năm sau nữa
Nấm mộ ta phẳng lì
Nằm lẫn trong cỏ dại
Bên lối người ta đi.
Người ghét ta đã lú
Bởi họ đã quá già
Người yêu thương ta nhất
Cũng lìa trần như ta.
Vậy là theo năm tháng
Ta trở thành hư vô
Những gì ta để lại
Là nhúm xương dưới mồ.
Những hư danh ta có
Nay trở thành hư không
Nhưng gì ta kiếm được
Nay kẻ khác đang dùng.
Đắng cay khi chợt ngộ
Ta giành giật cả đời
Đến khi về huyệt mộ
Cũng trả lại đất trời.
Những hư danh huyễn tưởng
Những vật chất xô bồ
Đến khi ta nhắm mắt
Đều trở thành hư vô
Những gì ta có được
Là những thứ cho đi
Những gì ta cố giữ
Lại chẳng mang được gì.
Bần hàn hay phú quý
Đói khổ hay sang giàu
Trăm năm sau rồi cũng
Nhúm xương tàn như nhau.
Giá như ta lúc sống
Ngộ được chân lý này
Thì giờ đây đã chẳng
Ngậm ngùi pha chua cay…!
Sưu Tầm – Khuyết Danh
Thứ Bảy, 18 tháng 3, 2023
Lịch sử hình thành thôn làng và phát triển xã Vĩnh Hòa, Vĩnh Lộc, Thanh Hó
Vĩnh Hòa
là một xã nằm phía đông Bắc của huyện Vĩnh Lộc, cách trung tâm huyện khoảng 6
km, với diện tích tự nhiên là 1488,51 ha tiếp giáp với các xã như sau:
- Phía
Đông giáp Vĩnh Hùng
- Phía
Tây giáp xã Vĩnh Khang
- Phía
Nam giáp Huyện Yên Định
- Phía
Bắc giáp xã Vĩnh Phúc và Vĩnh Hưng
1. Diện tích tự nhiên, dân số.
Tổng
diện tích tự nhiên của xã: 1.488,51 ha.
- Nhân
khẩu cả xã có 6.437 nhân khẩu và 1.716 hộ, Cơ cấu dân số trên 10 thôn.
- Cơ cấu
kinh tế:
Cơ cấu
kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ
trọng công nghiệp, dịch vụ cụ thể là: Nông nghiệp 42%; XD-CN-TTCN 29%, dịch vụ
thương mại 29%.
2. Hành chính
Toàn xã
có 10 thôn trong đó có 1 thôn là công giáo toàn tòng
Xã Vĩnh
Hòa gồm có 10 thôn, làng:
Quang
Biểu 1
Quang
Biểu 2
Nghĩa Kỹ
1
Nghĩa kỳ
2
Giang
Đông
Pháp Ngỡ
Bỗng
Phồn
Hữu Chấp
Lợi Chấp
Nhật
Quang
Đặc sản:
Nem chua nướng, bánh răng bừa, bánh mật...
Di tích
và thắng cảnh: Chùa Vĩnh Nghiêm (làng Quang Biểu 1), Đền Trịnh Khả (thôn Giang
Đông), Sông Mã, sông Bưởi...
Vĩnh Hoà, một xã thuần nông, là một
đơn vị hành chính thuộc huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa, xã có một bề dày lịch
sử hàng nghìn năm, đã trãi qua nhiều vương triều phong kiến Việt Nam, là một xã
trung du bán sơn địa. Một vùng quê với truyền thống yêu nước, tinh thần bất
khuất chống giặc ngoại xâm, cần cù siêng năng trong lao động sản xuất, giản di
trong sinh hoạt, đoàn kết đồng lòng trong xây dựng quê hương đất nước.
Cách trung tâm huyện Vĩnh Lộc gần 7 km
về phía Đông Nam, xã Vĩnh Hoà một đơn vị hành chính thuộc huyện Vĩnh Lộc tỉnh
Thanh Hoá, cách thành phố Thanh Hoá 44 km về phía Tây. Tổng diện tích tự nhiên
toàn xã là 1.488,5 ha. Phía Tây giáp xã Vĩnh Thành, Phía Đông giáp làng Sóc Sơn
xã Vĩnh Hùng, Phía Bắc giáp xã Vĩnh Hưng, Phía Nam giáp xã Định Hải và xã Định
Liên của huyện Yên Định. Tổng dân số tính đến tháng 12 năm 2017 là 7511 nhân
khẩu, sinh sống trong 11 thôn, trong xã có 01 thôn công giáo toàn tòng với gần
700 nhân khẩu.
Dựa vào
các điều kiện thuận lợi như toàn bộ phía tây xã là hợp lưu sông Mã, sông Bưởi
hàng năm đã bôi đắp một lượng phù sa màu mỡ hàng 100m3. Thành phần và cấu tạo
địa lý đất đai xã Vĩnh Hoà được xác định nhiều thành phần mà qua phân tích thổ
nhưỡng của ngành khoa học có từ đất hạng một đến hạng 5, có sông, núi, có đồng
cao, đồng sâu, đồng chiêm có bãi bồi phù sa ven sông ...
Mặc dù đã có dấu vết cư dân sinh
sống cách đây hàng ngàn năm nhưng mãi đến cuối triều đại nhà Trần đầu Hồ
(Khoảng năm 1360 - 1401) mới có tên địa danh xã Vĩnh Hoà đến ngày nay đã thay
đổi các làng xã trang ấp của “4 tổng” hợp lại đó là:
Làng
Chấp: (Tức Hữu Chấp) và làng Mới (tức làng Lợi Chấp) Thuộc tổng xã Nam Cai tổng
Hồ Nam.
Làng
Công (tức Phụng Công, thuộc tổng Cao Mật)
Làng
Nhật (Tức Nhật Quang) Thuộc tổng Bỉm Bút. Bốn làng trên sau cách mạng 8/1945
được huyện đặt tên là xã Cộng Hoà, chủ tịch uỷ ban lâm thời của xã Cộng Hoà là
ông Lê Văn Hinh người làng Lợi Chấp.
Còn tổng
Sóc Sơn gồm có 7 làng:
Làng Bỉm
(Tức làng Quang Biểu)
Làng
Phúc Tường (tức Nghĩa Kỳ)
Làng Boi
(Tức làng Giang đông)
Làng Ngỡ
(Tức Pháp Ngỡ)
Làng Sóc
Sơn.
Làng Cù
(Tức làng Cù Đông)
Làng
Toán Nghệ.
Về niên
đại hình thành tổng Sóc Sơn có khoảng cuối thế kỷ thứ X (năm 940 - 975) và đã
trải qua 5 vương triều phong kiến Việt Nam, đó là cuối Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần,
Hậu Lê.
Như vậy,
xã Vĩnh Hoà trước cách mạng tháng 8/1945 thuộc tổng Sóc Sơn, là một trong sáu
tổng của Huyện Vĩnh Lộc; Gồm tổng Cao Mật, Tổng Hồ Nam, Tổng Bỉnh Bút, tổng
Bồng Thượng, Tổng Thanh Xá và Tổng Sóc Sơn.
Chủ tịch
uỷ ban lâm thời xã Vĩnh Hoà là Ông: Trịnh Bá Huệ người làng Quang Biểu.
Sau
thắng lợi tổng khởi nghĩa 19/8/1945 do đặc điểm tình hình và địa hình dân cư,
Huyện Quyết định sát nhập 2 xã từ ngày 12/12/1947 với tên gọi là xã Vĩnh Hoà
cho đến ngày nay. Người chủ tịch uỷ ban xã đầu tiên là Ông: Trịnh Bá Huệ.
Đồng
thời với công tác tổ chức nhân sự thì tổ chức hành chính cũng được tiến hành
điều chỉnh sắp xếp lại các làng xã nhằm mục đích tạo điều kiện hợp lý trong
hoạt động và điều hành công việc.
Sau cách
mạng 1945, xã Vĩnh Hoà mới nhận về 5 làng thuộc các tổng khác là:
Làng Hữu
Chấp huộc tổng Hồ Nam về Vĩnh Hoà.
Làng Lợi
Chấp thuộc tổng Hồ Nam về Vĩnh Hoà
Làng
Phụng Công thuộc Cao Mật về Vĩnh Hoà.
Làng
Nhật Quang thuộc Bỉnh Bút về Vĩnh Hoà.
Làng
Đồng Mực thuộc tổng Vân Lung về Vĩnh Hoà.
* Chuyển
5 làng về các xã khác là: Làng Cù Đông chuyển về xã Vĩnh Phúc, Làng Toán Nghệ
chuyển về Vĩnh Hùng, Làng Sóc Sơn chuyển về Vĩnh Hùng, Làng Phụng Công chuyển
về Vĩnh Thành (1967), Làng Đồng Mực chuyển về Vĩnh Hùng;
3. Thôn làng và lịch sử hoạt động cách mạng
Xã Vĩnh Hoà
hiện nay có 8 làng sau: Làng Quang Biểu, Làng Nghĩa Kỳ, Làng Giang Đông, Làng
Pháp Ngỡ, Làng Hữu Chấp, Làng Lợi Chấp, Làng Nhật Quang, Làng Bỗng Phồn.
Xã Vĩnh Hoà là một địa điểm của người
dân từ nhiều miền quê hội tụ, nhiều làng xóm có nguồn gốc lâu đời từ trên dưới
2 nghìn năm thuộc văn hoá Đông Sơn.
Trải qua hàng ngàn năm hình thành,
xây dựng và phát triển, với bao nhiêu biến cố thăng trầm của đất nước và vùng
quê người dân Vĩnh Hoà đã cần cù trong lao động sản xuất, đoàn kết chung sức
chung lòng để chống chọi với thiên nhiên.
Vĩnh Hoà cũng là vùng đất màu mỡ nên
đã tụ hội được nhiều cư dân mới, họ đã mang những kinh nghiệm sống, nếp văn hoá
truyền thống của các địa phương, nhiều phong tục tập quán mới được bổ sung làm
nên nét riêng cho xã Vĩnh Hoà.
Và cũng từ đó đã sản sinh ra những
con người hào kiệt của đất nước như: Thái uý Bình quân Quốc sự Trịnh Khả (mùa
đông 1416 là một trong 18 người tham gia hội thề Lũng Nhai của Lê Lợi, năm 1928
kháng Minh Thành công Lê Lợi lên ngôi Hoàng Đế ông đã trở thành công thần khai
quốc của Nhà Hậu Lê) người Kim Bôi (Tức Giang Đông); Năm 1884, vua Hàm nghi hạ
chiều cần vương đánh Pháp thì Vĩnh Hoà cũng đóng góp cho nghĩa quân những người
tài giỏi, mưu trí dũng lược, chỉ huy nghĩa binh cùng Tống Duy Tân chiến đấu
chống giặc tại Ba đình (Nga Sơn) và núi Hùng Lĩnh (Vĩnh Lộc).
Noi gương các bậc tiền bối, trước khi
có Đảng cộng sản ra đời 3/2/1930 lãnh đạo cách mạng Việt Nam thì Vĩnh Hoà đã có
một loạt nhân tố tích cực, được giác ngộ chủ nghĩa yêu nước, tham gia tích cực
các đoàn thể, các phong trào cách mạng dưới nhiều hình thức công khai và bán
công khai. Tiêu biểu nhất là đồng chí Trịnh Huy Quang người làng Nghĩa Kỳ đã
tham gia tổ chức cách mạng đầu tiên ở xã Vĩnh Hoà, huyện Vĩnh Lộc và một số
huyện trong tỉnh.
Từ cuối
năm 1926 tại tỉnh Thanh Hoá đã có 2 tổ chức cách mạng là “Hội Việt Nam thanh
niên cách mạng đồng chí hội ” và “Đảng tân việt” đồng chí Quang đã tham gia
tích cực và sau đó đã trở thành Bí thư tỉnh uỷ Thanh Hoá .
Năm 1927
đồng chí Trịnh Huy Quang đã lãnh đạo một số đồng chí khác rải truyền đơn dọc
các tuyến đường trưởng tiểu học Pháp – Việt đã gây ảnh hưởng rất lớn đối với
quần chúng nhân dân, đồng thời gây thanh thế cho tổ chức cách mạng.
Giữa năm
1928, cơ sở của hội Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội được xây dựng ở
nhiều làng trong xã như Nghĩa Kỳ, Quang Biểu, Hữu chấp.
Cuối năm
1929 thì đồng chí Trịnh Huy Quang bị mật thám bắt và bị giam tù tại nhà tù Buôn
Ma Thuật. Sau nhiều đợt tra tấn tàn ác không khai thác được gì ở người cộng sản
này buộc địch phải trả tự do sau hơn 4 năm trong tù đế quốc (Đồng chí Quang bị
tù từ tháng 8/1929 đến 11/1933).
Ra tù
đồng chí đã liên lạc với tổ chức và tiếp tục hoạt động ở khu vực huyện Vĩnh
Lộc, Cẩm thuỷ.
Cùng với tổ chức Hội Việt Nam cách
mạng thanh niên thì tổ chức “Đảng Tân Việt” cũng phát triển nhanh chóng trong
các làng Hữu Chấp, Lợi Chấp, Quang Biểu, Nghĩa Kỳ … thu hút đông đảo tầng lớp thanh
niên tham gia dưới sự dìu dắt hướng dẫn của đồng chí hoạt động tại làng Sóc Sơn
(lúc đó là tổng Sóc Sơn có cả Vĩnh Hoà ngày nay). Với danh nghĩa là đi vỡ hoang
sản xuất nhưng thực tế đấy là khu vực huấn luyện quân sự, chính trị còn tăng
gia sản xuất là để tự túc.
Ngoài 2
tổ chức trên thì “Hội tiên long Ái Quốc” cũng hoạt động ráo riết không chỉ
riêng Vĩnh Hoà mà còn rộng khắp các huyện trong tỉnh. Song, do điều kiện địch
đàn áp, lùng bắt … nên hội tiên long ái Quốc chỉ tồn tại được một thời gian
ngắn (khoảng hơn 1 năm) thì tan rã trong xã Vĩnh Hoà cũng có một số bị bắt
nhưng qua tra tấn đánh đập đều giữ vững được khí tiết cách mạng;
Thời kỳ
từ 1931 đến 1936 cách tổ chức cách mạng hoạt động trên quy mô rộng lớn tác dụng
của các phong trào yêu nước mỗi ngày mộ lên cao nhất là phong trào xô viết Nghệ
Tĩnh đã có ảnh hưởng sâu sắc đến các địa phương trong tỉnh, trong huyện nói
chung và Vĩnh Hoà nói riêng. Nhiều cơ sở cách mạng được xây dựng ở các làng mà
xã Vĩnh Hoà có các làng tiêu biểu như Lợi Chấp, Hữu Chấp, Phúc Tường, Quang Biểu.
Sau ngày Đảng cộng sản ra đời thì ảnh
hưởng của Đảng đã đi vào đời sống của người dân, quần chúng được tuyên truyền,
giác ngộ cách mạng, càng thấm thía cuộc đời lầm than, nỗi nhục của người dân bị
áp bức bóc lột của đế quốc phong kiến. Nhân dân có lòng tin Đảng, đi theo cách
mạng, làm cách mạng.
Trước
các cao trào đấu tranh và hoạt động cách mạng của quần chúng nhân dân, địch
điên cuồng lồng lộn khủng bố, đàn áp các lực lượng cách mạng bước vào thời kỳ
vô cùng khó khăn, xã Vĩnh Hoà cũng trong bế tắc đó. Song, các đoàn thể quần
chúng vẫn bí mật hoạt động, tin tưởng vào tổ chức, tin vào sự lãnh đạo của
Đảng. Tại xã vẫn tiếp tục hoạt động theo các hình thức như “hội truyền bá Quốc
ngữ”, “Hội nông hội đỏ” “Hội đi tranh” Làm nhà với mục đích đoàn kết, tập hợp
lực lượng để đấu tranh chống lại các chính sách của địch. Cơ sở nông hội đỏ được
duy trì củng cố vả mở rộng, các tổ chức khác như “hội đánh tranh” “hội đi săn”
thông qua các tổ chức hội biến tướng đã đưa người dân Vĩnh Hoà vào một nếp sống
chân tình, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau trong mọi trường hợp khó khăn thiếu thốn,
giúp nhau dựng nhà cửa sinh sống lúc cha già mẹ héo, đùm bọc nhau trong tình
làng nghĩa xóm.
Cuối năm 1933 đầu năm 1934, nhiều cơ sở
của Đảng trong huyện được phục hồi và củng cố, các tổ chức quần chúng phát
triển khắp nơi điều kiện số lượng cán bộ, Đảng viên đã được rèn luyện thử thách
qua thực tế công tác nên tỉnh uỷ Thanh Hoá có chủ trương thành lập chi bộ ghép
hai huyện Vĩnh Lộc và Thạch Thành thì đồng chí Trịnh Huy Quang (Nghĩa kỳ) cũng
tham gia và phụ trách tờ báo “Tia sáng” tiếng nói của tỉnh Đảng bộ Tỉnh Thanh
Hoá.
Tờ báo
“Tia sáng” được cơ quan ấn loát đặt tại nhà ông “Trịnh Văn Chế” “Quang biểu” và
nhà ông “Lê Văn Lược” (Nghĩa kỳ). Năm 1934 - 1935, thực hiện chủ trương của
tỉnh uỷ Thanh Hoá về việc thành lập các hội ái hữu, toàn huyện Vĩnh Lộc lúc này
có 11 làng có tổ chức thì riêng Vĩnh Hoà có đến 4 làng có tổ chức ái hữu đó là
làng Hữu Chấp, Phúc Tường, Quang Biểu và Lợi Chấp (Vĩnh Lộc còn có các làng
khác như : Cẩm Bào, Xuân Áng, Đông Môn, Yên Tôn Hạ, Thọ Đồn, Mỹ Xuyên) cũng
thành lập rất sớm.
Tháng 6/1937, một số làng tại Vĩnh
Lộc đã tổ chức đấu tranh chống thuế thân, một loại thuế nghiệt ngã, dã man nhất
trong các thứ thuế mà thực dân Pháp đè lên cổ người lao động phải chịu đựng.
Trong huyện, một số xã đã vận động quần chúng lao động phản đối việc thu thuế
thân, ở xã Vĩnh Hoà cũng dấy lên phong trào lấy chữ ký để phản đối nhà cầm
quyền điển hình cuộc vận động này là cuộc mít tinh tuần hành của quần chúng
nhân dân làng Quang biểu do đồng chí Cao Ngọc Oanh tổ chức, lãnh đạo trong cuộc
mít tinh tuần hành có cờ loa biểu ngữ hoan nghênh mặt trận bình dân pháp.
Cũng trong thời gian này, cuộc đấu
tranh để đưa những cán bộ Việt Minh vào các cấp chính quyền Nhà nước cũng diễn
ra rất sôi nổi trên địa bàn Huyện Vĩnh Lộc, trong đó tại Vĩnh Hoà có cuộc tuyên
truyền vận động nhân dân bầu cho cụ Nguyễn Đan Quế (Làng Sóc Sơn lúc đó đang
thuộc xã Vĩnh Hoà) vào viện dân biểu trung kỳ khu vực 5 gồm các huyện Vĩnh Lộc,
Hà Trung, Thạch Thành và Huyện Nga Sơn đồng chí Cao Ngọc Oanh đã lãnh đạo phong
trào này thành công tốt đẹp, thu được kết quả lớn.
Tháng
7/1938 thực hiện chủ trương của tỉnh uỷ Thanh Hoá về việc thành lập uỷ ban vận
động cách mạng ở huyện Vĩnh Lộc gồm 10 ngườì do ông Lê Văn Thiệp làm trưởng ban
và ông Đặng Văn Hỷ phụ trách công tác thanh niên thì xã Vĩnh Hoà cũng có một
người đứng trong hàng ngũ, tổ chức đó là đồng chí Cao Ngọc Oanh.
Ngày 14/7/1939, tại cửa Bắc thành Tây Giai,
hàng 100 quần chúng cách mạng thuộc các tổng Cao Mật, Bỉnh Bút, Hồ Nam và Sóc Sơn
dưới sự lãnh đạo của chi bộ Đảng tổ chức một cuộc mít tinh quy mô lớn. Đồng chí
Cao Ngọc Oanh đã đọc diễn thuyết hùng hồn nêu rõ ý nghĩa của cuộc cách mạng tư
sản Pháp, lên án chính quyền thuộc địa và thực dân phong kiến, kêu gọi quần
chúng nhân dân đoàn kết đấu tranh chống áp bức bọc lột, đòi thả tù chính trị.
Sau khi
Đảng được thành lập, được sự lãnh đạo sát sao, phong trào cách mạng trong xã
được triển khai sâu rộng, liên tục, mạnh mẽ thông qua các tổ chức “Hội ái hữu”
“Hội Đi Tranh” làm nhà từng bước nâng cao sự giác ngộ cách mạng của nhân dân
tham gia đông đảo hơn. Qua đó đội ngũ cán bộ, đảng viên đã trưởng thành từ nhận
thức lý luận đến hành động thực tế.
4. Đình, đền, bia ký và lễ hội
4.1 - Đình:
Trước cách mạng tháng Tám năm 1945, đình làng Nghĩa Kỳ xã Vĩnh Hòa, huyện Vĩnh
Lộc là địa điểm liên lạc của cán bộ hoạt động cách mạng, cũng là nơi thành lập
Hội Tương tế ái hữu, Mặt trận phản đế cứu quốc… Trong cuộc Tổng khởi nghĩa
giành chính quyền, đình làng là nơi tập trung lực lượng, tổ chức quần chúng đấu
tranh. Quê hương Nghĩa Kỳ đã trở thành cái nôi cách mạng của huyện Vĩnh Lộc.
Nơi đây, có nhiều người con ưu tú, có nhiều cống hiến cho sự nghiệp cách mạng
của tỉnh, như đồng chí Trịnh Huy Quang, Bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa giai đoạn 1936
- 1939; đồng chí Trần Tiến Quân (tức Trịnh Huy Lãng), Phó chủ tịch UBND tỉnh
Thanh Hóa năm 1977.
Năm 2022
Đình làng Nghĩa Kỳ được xếp hạng là di tích lịch sử cấp tỉnh sẽ tạo cơ sở pháp
lý quan trọng cho công tác bảo vệ và phát huy giá trị di tích trong việc xây
dựng đời sống văn hóa, giáo dục truyền thống cách mạng, bồi đắp tình yêu quê
hương, đất nước, lòng tự hào dân tộc cho các thế hệ cán bộ, đảng viên và Nhân
dân.
4.2 – Đền thờ - Bia Ký Trịnh Khả
Trịnh
Khả người làng Kim Bôi, huyện Vĩnh Ninh là bậc khai quốc công thần, làm quan
dưới 3 triều vua Lê: Thái Tổ, Thái Tông, Nhân Tông được ban quốc tính họ vua
gọi là Lê Khả. Trịnh Quyện là cha của Trịnh Khả. Ông sinh được 4 người con
trai, Trịnh Khả là con út. Trịnh Khả rất ham mê đọc sách, thường nằm nghỉ ngơi
ở chùa Kiều Sơn. Sách Thanh Hóa tỉnh, Vĩnh Lộc huyện chí của tác giả Lưu Công
Đạo viết: Năm 1407, sau khi bắt sống được cha con Hồ Quý Ly, nhà Minh đặt ách
cai trị, đã sai Trương Phụ đi khắp các quận huyện nước ta xem phong thủy. Một
hôm đến xã Kim Bôi ngắm kỹ non nước địa hình thì thấy: “Hướng Càn có đồn binh,
hướng Cấn có chỗ lên ngựa..., trong đất ấy ắt sẽ sinh ra tướng giỏi”. Năm 16
tuổi, một hôm Trịnh Khả dắt trâu đi cày về ngồi nghỉ tại cổng chùa Kiều Sơn.
Trương Phụ thấy ông kỳ lạ cho rằng đây là người mình đang cần tìm. Nhìn dung
mạo khôi ngô, mày rồng, trán hổ, tai dày dính thịt, mắt nhỏ ẩn thần ông lập tức
hỏi: “Con là ai ngồi đây có công cán gì” ; Trịnh Khả trả lời “Tôi là người nông
canh nhàn hạ câu cá, ngồi đợi quạt gió cỏ nam thơm, đa tạ quan nhân đã để mắt
tới kẻ hèn mọn. Có quan hệ gì đâu?”. Trương Phụ vừa nghe nói thất sắc đáp lại
rằng “Ngươi có tướng mạo phi thường, nhưng lời nói lại càng phi thường hơn” Rồi
lại nói “Câu cá phải có bạn cùng câu, ấy cỏ Nam thơm phải có người thưởng ngoạn
cùng, ngươi cũng không phải là ngoại lệ, kẻ tiền bối của ta sau này ta sẽ bắt
được ngươi” tức thì ông đứng dậy cười và nói “có việc nhà bức bách, vả lại phải
xin cha mẹ mới đi được” rồi về nói với mẹ “Con là người nước Nam, sao lại yên
việc với bọn giặc Ngô” bèn trốn đến gia đình người cô ở Duyên Phúc. Thời gian
không lâu giặc Minh kéo đến nhà bắt ông không được chúng đã quay sang giết cha
rồi ném xác xuống sông Mã lúc ấy là ngày 14 tháng 9. Hai ngày sau Trịnh Khả mới
biết chuyện men theo bờ sông tìm cha đến Hà Uyên (vực Tôm) bỗng thấy có 2 người
đương vớt xác của thân phụ ông lên đem chôn, khi lại gần ông bàng hoàng sợ hãi
ôm xác cha lên bờ tìm nơi cao an táng. Lại thấy một ông lão tóc bạc chắp tay
hướng về phía ông mà nói rằng “Cát địa ở trước mặt ông đó sao không mang đến
táng ở đó, đất bằng huyệt khởi, chỉ có lòng đất mới giữ được lâu…sau 3 năm sẽ
phát phúc”.Ôm xác cha táng ở đó rồi về xã Diên Phúc chịu tang cha vừa căm thù
giặc quyết chí báo thù. Nghe tin Lê Lợi đang náu mình ở Lam Sơn ngầm nuôi binh
mã, ông liền vác gươm tới xin theo. Đến với Lê Lợi, Trịnh Khả được trọng dụng
tin dùng, ông được phong làm Phó chỉ huy lực lượng quân Thiết Đột. Ngày 07
tháng 2 năm 1418 Lê Lợi long trọng tổ chức lễ tế cờ, bố cáo với thiên hạ bắt
đầu cuộc khởi nghĩa chống quân Minh đô hộ. Nhiều trận đánh lớn của nghĩa quân
Lam Sơn với quân Minh điển hình là trận ở Lạc Thủy với lòng chiến đấu dũng cảm
nghĩa quân đã đánh cho giặc Minh tơi bời chém được ba nghìn thủ cấp bắt sống
được gần một nghìn tên. Bấy giờ, để trả thù và uy hiếp lòng tin của nhân dân
đối với Lê Lợi và toàn bộ nghĩa quân, giặc Minh đã kéo đến Phật Hoàng quật mộ
lấy thi hài của thân phụ Lê lợi, chúng loan báo khắp nơi rằng ngôi huyệt đại
phát của dòng họ Lê không còn, theo Lê Lợi chỉ có đổ máu vô ích mà thôi. Lúc
bấy giờ Trịnh Khả đến trước mặt Lê Lợi xin được làm việc lớn mang thi hài của
thân phụ trở về. Ông liền đội cỏ mà bơi đến bến Dao Xá Thượng thẳng đến trước
mủi thuyền, lúc bấy giờ quân Minh đang ngủ say Trịnh Khả bèn lấy cái tiểu đựng
xương cốt thân phụ Lê Lợi đem về. Tỉnh giấc, quân Minh kiểm tra không thấy hài
cốt tổ tiên của Lê Lợi đâu vô cùng sợ hãi cho rằng việc ấy là do trời giúp Lê
Lợi. Mưu trả thù không thành, giặc Minh tức tốc kéo quân đánh vào Lam Sơn lần
thứ 2 trận đánh quá bất ngờ khiến nghĩa quân bị tổn thất nặng phải rút lên núi
Chí Linh. Trong bối cảnh đó, Lê Lợi muốn có sự giúp đỡ của Ai Lao ông đã cử
Trịnh Khả là người vừa thông thạo tiếng nói, ứng xử nhanh nhẹn thông minh, nắm
vững đường đi lối lại sang làm sứ giả. Triều đình Ai Lao đồng ý giúp Lam Sơn
một số quân và voi chiến, binh khí cùng với lương thực. Với thành công lớn
trong chuyến đi sứ Trịnh Khả đã góp phần quan trọng vào việc hồi phục lực lượng
của nghĩa quân Lam Sơn.
Tháng 10
năm 1424 nghĩa quân Lam Sơn ồ ạt tiến công vào Nghệ An, Trịnh Khả là một trong
những tướng lĩnh cầm quân tham gia cuộc tấn công quan trọng này, ông trực tiếp
chỉ huy quân đánh nhau với giặc đến mấy mươi trận lớn nhỏ trận nào ông cũng là
người xung phong lên đầu hãm giặc, lập công. Lê Lợi và bộ chỉ huy đánh giá rất
cao tài năng và cống hiến đa dạng của Trịnh Khả.
Tháng 9
năm 1426 nghĩa quân Lam Sơn tiến quân ra Bắc, lúc này Trịnh Khả cùng với các
tướng Phạm Văn Xảo, Lý Triện và Đỗ Bí chỉ huy ba đạo quân có nhiệm vụ uy hiếp
mặt Nam của Thành Đông Quan, đồng thời sẵn sàng chặn đứng đường viện binh của
giặc từ Vân Nam tràn qua, lập được nhiều chiến công xuất sắc đánh thắng 3 trận
lớn đó là trận Ninh Kiều, trận Nhâm Mục, trận Xa Lộc. Đáng chú ý ở trận Ninh
Kiều, Trịnh Khả đã có công chỉ huy phục binh bất ngờ đánh cho Trần Trí một trận
tơi bời tháo chạy về Đông Quan, ngay sau đó Ninh Kiều được xây dựng thành căn
cứ rất lợi hại của nghĩa quân Lam Sơn.
Ngày 10
tháng giêng năm Đinh Mùi, Trịnh Khả tiến binh về phía Bắc bờ sông Lô bao vây
thành Đông Quan, Vương Thông sợ hãi cấp báo với nhà Minh. Nhà Minh sai Liễu
Thăng, Mộc Thạch chia đường sang cứu viện, khi nghe tin quân Liễu Thăng thất
bại Mộc Thạch gom quân chạy về. Trịnh Khả tổ chức tung quân đuổi đánh ở Đan Xá
và Lãnh Châu, quân Mộc Thạch đại loạn, quân ta chém được hơn một vạn thủ cấp
bắt được hơn nghìn người ngựa cùng nhiều khí giới, lương thảo không kể xiết.
Lãnh Câu và Đan Xá là hai đòn cực mạnh cuối cùng, góp phần đánh gục hoàn toàn
cuồng vọng của Vương Thông nói riêng và triều đình nhà Minh nói chung. Tháng 12
năm 1426, Vương Thông xin hòa, rút quân về nước.
Niên
hiệu Thuận Thiên nguyên niên 1428 Lê Lợi dẹp yên giặc Minh, phong tước công
hầu, ban quốc tính. Trịnh Khả được ban hàm Kim Tử Vinh Lộc Đại Phu, Tả lân Hộ
vệ tướng quân, được ban túi Kim Ngưu và Ngân Phù. Năm 1429 nhà Lê cho khắc biển
ghi tên tuổi của các vị khai quốc công thần trong đó có Trịnh Khả.
Năm
1434, thừa lệnh vua Lê Thái Tổ, Trịnh Khả đem quân sang giúp Ai Lao,
cùng năm ông được cử làm tướng tiên phong cầm quân đi đánh giặc
Chiêm Thành giành thắng lợi được phong làm Thái úy ban cho sáu chữ “Công thần
thủ tướng Phụ chính’.
Trịnh
Khả là lão thần dưới triều Hậu Lê, trải qua 3 đời vua, công lao rực rỡ. sau này
được truy tặng là liệt Quốc Công, ban cho một trăm mẫu ruộng tế điền. Khi vua
Lê Thánh Tông lên ngôi, truy nhớ tới ơn cứu mẹ đã gia phong cho Trịnh Khả là
Hiển Ứng Vương Thượng đẳng phúc thần và lệnh cho làng Kim Bôi (ngày nay là làng
Giang Đông xã Vĩnh Hòa) lập đền thờ ông.
Đền thờ
và Bia ký được xây dựng trên triền đồi, hướng Nam nhìn ra dòng sông
Mã. Cấu trúc của đền gồm:
Nghinh
Môn (cổng) xây gạch có 2 lớp mái lợp ngói vảy, hai bên có hai tượng hộ pháp cầm
trường đao đứng dưới mái che, qua nghinh môn là dãy bậc thang dẫn lên đền chính
21 bậc, phía bên phải dãy bậc thang là nhà thủ từ.
Đền
chính có cấu trúc hình chữ nhị (=), tiền đường có 3 gian 2 dĩ; hiên trước được
ghép với 2 trái hai bên tạo thành hình thức 4 mái có góc đao; bốn trụ hiên xây
gạch, cấu trúc vì kèo đơn giản. Mái tiền đường lợp ngói vảy cá, chính giữa bờ
nóc trang trí lưỡng long trầu nguyệt.
Hậu cung
tiếp nối với tiền đường qua một khoảng sân nhỏ. Hậu cung rộng 18m2 tường xây
gạch mái cuốn vòm; có một cửa đi mở ra phía trước; Hai bên hậu cung có 2 nếp
nhà 2 gian quay nghiêng góc 300 vào tiền đường. Nhà phía bên trái là thờ các vị
con trai, bên phải thờ các vị con gái.
Nhà Bia
đi về phía sau qua lối nhỏ có bậc lên, nhà bia có hình thức 4 trụ, mới được xây
dựng gần đây bằng bê tông cốt thép, phía sau là khu lăng mộ của song thân cùng các
con trai, con gái của Trịnh Khả.
Tấm bia
đá ghi nhận thân thế và sự nghiệp của Trịnh Khả, Bia được làm bằng đá xanh
nguyên khối đặt trên lưng rùa có kích thước cao 1,30m, rộng 70cm, dày 0,02m.
Đỉnh bia hình vòng cung khắc hai bông cúc hóa long chầu vào nhau. Bia được soạn
niên hiệu Thái Hòa thứ 6 (1447) đời vua Lê Nhân Tông, người soạn là Thái học
sinh khoa Canh Thìn (1400) triều Hồ tên là Nguyễn Mộng Tuân, người khắc là
Nguyễn Thiên Lộ, ngự tiền tả ban. Toàn văn chữ Hán khắc kiểu chữ Khải, khoảng
22 dòng, mỗi dòng từ 2 đến 70 chữ.
Năm
2009, Di tích đã được UBND tỉnh phê duyệt trùng tu, tôn tạo với tổng mức đầu tư
là 9.780.000.000 đ.
Hậu điện thờ Thái Uý Trịnh Khả
Nguồn: Trương Văn Trọng – Trang thông
tin điện tử xã Vĩnh Hoà và sử Liệu Việt Nam, Phòng Văn hóa Thông tin Vĩnh Lộc,
Thanh Hoá