Trang

Thứ Năm, 30 tháng 3, 2023

CÓ GÌ MỚI VÀ LẠ TRONG NĂM QUÝ MÃO 2023....BẠN CÓ BIẾT ?

Con số kỳ diệu
số 7, số 17 và năm 2023
7 x 17² = 2023
Hai số này sẽ làm cho năm 2023 rất đặc biệt. Đây là hai số nguyên tố độc đáo tạo nên năm Quý Mão 2023.
SỐ 7
Nhiều người rất thích số 7, vì đây là con số huyền bí, cá tính, có nhiều ý nghĩa sâu xa.
Người chết sẽ cúng tuần, tức là 7 ngày cúng một lần, cúng đúng 7x7 = 49 ngày thì dừng lại. Một tuần có 7 ngày, Bắc Đẩu có 7 ngôi sao sáng nhất, thế giới có 7 châu lục, âm nhạc có 7 thang âm, cầu vồng có 7 sắc màu. Con người có 7 lỗ tự nhiên, y học phương Đông gọi là thất khiếu, để hấp thụ vật chất, tinh thần mà trưởng thành. Bảy lỗ đó là: hai mắt, hai tai, hai lỗ mũi, miệng. Phật giáo có 7 báu vật. Cứu sống một người bằng xây 7 toà tháp. Theo truyền thuyết có 7 vị tiên giáng trần. Chúng ta tổ chức lễ Thất tịch ngày mùng 7 tháng 7 âm lịch để cúng Ông Ngâu
Người Hy Lạp quan niệm có 7 yếu tố cơ bản tạo nên thế giới, bao gồm 4 thuộc về tự nhiên (thuỷ - nước, hoả - lửa, phong – gió, thổ - đất) và 3 thuộc về gia đình (phụ - cha, mẫu – mẹ, tử - con). Thượng đế tạo ra thế giới trong 7 ngày, tạo ra Eva bằng chiếc xương sườn thứ 7 của Adam vào ngày thứ 7.
Thế giới loài người có 7 kì quan
Dung dịch có pH = 7 đại diện cho trung tính và giá trị pH của nước tinh khiết là 7.
SỐ 17
Toán học, 1 là số nguyên tố đương nhiên, 2 là số nguyên tố đầu tiên, số nguyên tố đứng thứ 7 chính là số 17.
Vậy 17 là số nguyên tố đỉnh cao trong 7 số nguyên tố đầu tiên.
Như vậy, 2023 là con số hoàn hảo, nó được tích hợp từ hai số hoàn hảo là 7 và 17.
2023 = 7 x 17 x 17 = 7 x 17^2,
7 = 2+0+2+3,
17= 2^2 + 0^2 + 2^2 + 3^2.
Sưu Tầm

Thứ Sáu, 24 tháng 3, 2023

CÂU CHUYỆN LỊCH SỬ: CÓ LẼ BẠN CHƯA BIẾT?


Khang Nguyen

Có đến 90% khả năng là bạn chưa biết gì về câu chuyện lịch sử này. Bởi vì...những bậc trí thức, học giả, những nhà nghiên cứu và giảng dạy lịch sử ở VN cũng không biết khi trả lời câu hỏi:

"Trước thế kỷ 20, cuộc xâm lược cuối cùng của Trung Quốc vào Việt Nam là cuộc xâm lược nào? Trong sự kiện ấy, ai là tổng chỉ huy của quân đội Trung Quốc? Ai là người đánh bại đội quân xâm lược đó?

Hầu hết người được hỏi đều trả lời: Đó là cuộc xâm lược của Mãn Thanh thời Hoàng đế Càn Long vào năm 1789, chỉ huy đội quân xâm lược là Tôn Sỹ Nghị, người đánh bại đội quân xâm lược đó là Hoàng đế Quang Trung.

Chỉ có một học giả duy nhất trả lời đúng: Cuộc xâm lược cuối cùng là vào thế kỷ 19, thời Từ Hy thái hậu của Mãn Thanh, chỉ huy đội quân xâm lược là Phùng Tử Tài, còn người đánh bại cuộc xâm lược đó của Trung Quốc là… thực dân Pháp.

Tại sao hầu hết những người am tường sách vở ở Việt Nam mà tôi có dịp được hỏi lại hoàn toàn không nhớ gì về cuộc xâm lược trong thế kỷ 19 này của Trung Quốc?

Vì nó hoàn toàn bị xoá khỏi lịch sử. Nó không được dạy trong chương trình sử ở cả bậc đại học lẫn trung học.

Cuối thế kỷ 19, Việt Nam đối diện với hai siêu cường, Pháp và Mãn Thanh, một bên đến từ phương Tây, mang theo nền văn minh của chủ nghĩa tư bản, một bên là thiên triều ngàn năm vẫn đang chìm đắm trong ảo giác mình là trung tâm của thế giới.

Ngay sau khi Pháp lấy Nam Kỳ, Mãn Thanh cũng lập kế hoạch đánh chiếm miền Bắc.

Mãn Thanh quyết tâm đánh chiếm Bắc Kỳ vì Việt Nam đã suy yếu, và nhằm bảo vệ mô hình thiên triều - chư hầu ngàn năm. Pháp thì quyết lấy nốt phần còn lại. Hai bên tất yếu bước vào một cuộc đụng đầu lịch sử, dần dần đi đến chỗ đánh nhau ác liệt ngay trên lãnh thổ Việt Nam, qua một loạt trận đánh như Sơn Tây, Bắc Ninh, Hưng Hóa, Tuyên Quang năm 1883.

Mãn Thanh đã quyết tâm đến mức dốc tổng lực đánh bại Pháp trên đất liền, chiếm toàn bộ vùng trung du phía Bắc, áp sát khu vực đồng bằng sông Hồng. Thủ tướng Pháp phải từ chức. Nhưng quân Pháp lật ngược thế cờ bằng cách mở ra chiến trường trên biển, đánh chiếm đảo Đài Loan và huỷ diệt Bắc Dương hạm đội của Mãn Thanh ở Phúc Châu.

Mãn Thanh ban đầu thấy chỉ khả thi khi đặt mục tiêu giữ lại vùng Bắc Kỳ, nhưng khi phải ký vào Hiệp ước Thiên Tân 1885, Mãn Thanh buộc chấp nhận mất toàn bộ chư hầu Việt Nam.

Hiệp ước Thiên Tân 1885 giữa Pháp và Mãn Thanh đã tạo ra một bước ngoặt lịch sử cho cả Mãn Thanh và Việt Nam.

Nếu như việc phải nhượng địa Hong Kong cho nước Anh chỉ khiến Mãn Thanh thức tỉnh về khả năng kỹ thuật của phương Tây nhưng vẫn giữ vững niềm tin vào hệ thống thiên triều - chư hầu, thì đến khi mất chư hầu Việt Nam vào tay Pháp, ý thức hệ và cấu trúc thiên triều - chư hầu của họ bị đánh tận gốc rễ.

Việc Mãn Thanh không thể giữ Việt Nam trong cấu trúc thiên triều - chư hầu đã khiến Nhật Bản, lúc này đã trở thành một cường quốc, quyết định giành lấy một chư hầu khác của Mãn Thanh là Triều Tiên. Mãn Thanh tiếp tục mất Triều Tiên trong cuộc chiến Nhật Thanh 10 năm sau đó.

Từ đó, việc cấu trúc và ý thức hệ thiên triều - chư hầu bị sụp đổ toàn diện trong thế kỷ 19 trở thành một trong những nội dung chủ yếu của ý niệm “thế kỷ ô nhục” trong chủ nghĩa dân tộc Trung Hoa hiện đại.

Còn ở Việt Nam, do cuộc chiến Pháp - Thanh ảnh hưởng quá lớn đến số phận Việt Nam, nên dù xoá cuộc chiến này khỏi sách giáo khoa sử cho học sinh phổ thông, ngày nay, các sử gia ở Hà Nội vẫn phải dạy học sinh về một số điều liên quan đến cuộc chiến ấy: đội quân Cờ Đen của tướng Mãn Thanh là Lưu Vĩnh Phúc và Hiệp ước Thiên Tân 1885.

Đó là sự kiện không thể không dạy. Quân đội Lưu Vĩnh Phúc của Mãn Thanh đã lập hai chiến công là giết hai chỉ huy của Pháp trong hai trận ở Cầu Giấy, còn Hiệp ước Pháp - Thanh 1885 thì mở ra trang sử mới của Việt Nam.

Nhưng, nói về Lưu Vĩnh Phúc và Hiệp ước Pháp - Thanh mà lại không nói gì về cuộc chiến tranh quyết định quyền kiểm soát Việt Nam của hai nước Pháp - Thanh này, các sử gia của chúng ta đã cho học sinh phổ thông học một bức tranh lịch sử cận đại theo kiểu… Pháp xâm lược Việt Nam, rồi đột nhiên Mãn Thanh xuất hiện ký một hiệp ước quyết định số phận chúng ta.

Lưu Vĩnh Phúc vốn là quân Thái Bình Thiên Quốc, bị triều đình Mãn Thanh đánh bại, chạy sang Việt Nam làm thổ phỉ, gây ra vô số tội ác cho dân chúng. Triều đình Huế không thể đánh dẹp, phải nhờ Mãn Thanh đánh giúp. Nhưng khi triều đình Mãn Thanh cử quân đội vào Việt Nam để đụng đầu với Pháp, quân đội triều đình Mãn Thanh đã thâu nạp luôn đội quân thổ phỉ Lưu Vĩnh Phúc, ban cho phẩm hàm triều đình, thay vì tiêu diệt nó.

Sách giáo khoa sử lớp 7 hiện nay ở Việt Nam dùng khái niệm “quân ta” để gọi Lưu Vĩnh Phúc. Lối giáo dục này bắt đầu từ hơn 70 năm trước, khi sử gia Trần Văn Giàu và Trần Huy Liệu ở Hà Nội bắt đầu xây dựng bức tranh “lịch sử cận đại”. Lưu Vĩnh Phúc có tờ Hịch kêu gọi binh lính của mình đánh Pháp, trong đó, đoạn đầu tiên, ông nói rõ mục đích của cuộc chiến: "Việt Nam là chư hầu của Mãn Thanh, nay Pháp sang chiếm mất chư hầu của ta, ta và Pháp là kẻ thù không đội trời chung".

Sử gia Trần Văn Giàu làm gì khi trích dẫn bài Hịch này vào bộ sử “Bắc kỳ kháng Pháp”? Ông cắt bỏ đoạn mở đầu thể hiện rõ ý thức hệ và mục đích chiến tranh của họ Lưu đó đi. Nhờ thế, sử gia họ Trần dễ dàng gắn huân chương “tình hữu nghị chiến đấu của hai dân tộc Việt Trung” cho Lưu Vĩnh Phúc.

Xoá bỏ cuộc xâm lược của Mãn Thanh và cuộc chiến Pháp-Thanh vào thế kỷ 19, các sử gia miền Bắc xây dựng thế kỷ 19 theo mô hình phân đôi: một bên là thực dân Pháp xâm lược, nhà Nguyễn hèn nhát hàng giặc, một bên là “dân tộc” anh hùng kháng chiến chống ngoại xâm.

Trên cái nền bức tranh phân đôi con người làm hai tuyến, bên trái là “xâm lược phương Tây” và bên phải là “nhân dân anh hùng”, người ta lần lượt điêu khắc các nhân vật lịch sử sao cho "ăn khớp" với bức tranh ấy: Alexandre de Rhodes dĩ nhiên thuộc bên trái bức tranh, phong trào văn thân (vốn không có ý niệm về lòng ái quốc mà chỉ chống người theo đạo Thiên chúa để bảo vệ hệ thống phong kiến nơi họ có thể tìm thấy vị trí xã hội của mình) được xếp vào bên phải.

Vẽ bức tranh thế kỷ 19 theo cách ấy, các sử gia của Viện Sử học ở Hà Nội từ thập niên 1950 dễ dàng tiếp tục vẽ bức tranh của giai đoạn tiếp theo như cách chúng ta thấy trong các giáo trình “Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam” ngày nay: “nhân dân” tuy anh hùng nhưng không có đường lối đấu tranh đúng đắn, liên tục thất bại cho đến khi Đảng Cộng sản ra đời, mang về Việt Nam vũ khí tối tân là con đường cách mạng vô sản. Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân vật trung tâm của bức tranh. Lịch sử quốc gia thế kỷ 20 được đồng nhất với lịch sử Đảng.

Cách học ấy bắt đầu từ giữa thập niên 1950, đến nay đã kéo dài khoảng 4 thế hệ.

Trần Trọng Kim, người cha của sử học hiện đại Việt Nam, 1883-1953

Cuộc chiến Pháp -Thanh và sự thất bại của Việt Nam khi bị kẹt giữa hai siêu cường ấy đã được sử gia hiện đại đầu tiên của Việt Nam, Trần Trọng Kim, phân tích kỹ lưỡng trong “Việt Nam sử lược”, bộ sách giáo khoa lịch sử đầu tiên của nước Việt Nam, xuất bản vào 1919-1920. Cuốn sách này đã bị cấm ở miền Bắc sau 1954 và toàn quốc sau 1975. Nếu chấp nhận phục hồi ký ức về cuộc xâm lược của Mãn Thanh và cuộc chiến Pháp-Thanh thế kỷ 19, chúng ta sẽ phải chấp nhận bức tranh thế kỷ ấy như người cha của nền sử học Việt Nam đã khắc họa một cách khách quan: Đó là thế kỷ mà Việt Nam bị mắc kẹt vào hai gọng kìm Pháp-Thanh, bị giằng xé giữa hai mô hình “chư hầu của thiên triều phương Bắc” và “thuộc địa của thực dân phương Tây”, bị buộc phải lựa chọn giữa hai con đường “Tây phương hoá” hay “tiếp tục nằm trong vòng ảnh hưởng của vùng văn hoá chữ Hán”.

Điều đó có nghĩa là bức tranh lịch sử từ đầu thế kỷ 20 cũng cần được vẽ lại toàn bộ. Trong bức tranh này, vị trí của các lực lựợng chính trị, các phong trào xã hội, các vấn đề thuộc phạm vi tinh thần như lịch sử tư tưởng, văn hoá, văn học nghệ thuật… cũng sẽ được tái định vị một cách căn bản.

Năm 1987, sử gia Nhật Bản Tsuboi Yoshiharu xuất bản “Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa”, phân tích thế kỷ 19, trọng tâm là thời Tự Đức, như là thời đại Việt Nam mắc kẹt giữa hai siêu cường. Cuốn sách được các học giả Nguyễn Đình Đầu, Bùi Trân Phượng, Tăng Văn Hỷ, Vũ Văn Kính dịch ra tiếng Việt và Trần Văn Giàu là người viết lời giới thiệu. Trần Văn Giàu đã đánh giá cách tiếp cận của Tsuboi là “mới mẻ” mà “quên” mất rằng, cách hiểu ấy về thế kỷ 19 đã ra đời ngay từ đầu thế kỷ 20, trước sử gia Nhật Bản ấy đến bảy thập niên, trong “Việt Nam sử lược”, cuốn sách mà chính các sử gia kiêm chính trị gia ở Hà Nội đã cấm đoán từ thập niên 1950 để độc quyền một cách kể chuyện lịch sử duy nhất.

Nhận thức về lịch sử (trả lời câu hỏi “chúng ta đến đây từ đâu và như thế nào?”) và lựa chọn chính trị (trả lời câu hỏi “chúng ta làm gì bây giờ?”) chỉ là hai mặt của một tờ giấy. Hiểu theo cách đó, như ta thấy qua câu chuyện phản đối đặt tên đường cho Alexandre de Rhodes nói trên, những lựa chọn của người Việt Nam hôm nay vẫn chìm đắm trong một màn sương mù của tư duy được đình hình từ giữa thế kỷ trước bởi Ban nghiên cứu Văn Sử Địa.

Lãng quên bài học thất bại khi đối diện yêu cầu lịch sử phải lựa chọn giữa Pháp - Thanh với tư cách là hai mô hình, hai thế giới, Việt Nam ngày nay tiếp tục đối diện câu hỏi ấy một lần nữa.

(Nguồn: Khôi Nguyễn, Đại học Oregon).

Dung Tran

KieuHuong

Nguồn copy Hà Nội Tri Thức - Connaissance De Hanoï - Knowledge Of Hanoi

Invite

SỰ DỐI TRÁ NGỌT NGÀO...HAY LÀ SỰ CHI PHỐI CỦA THUYẾT ƯU SINH

Một bạn đem tương ớt vào chào hàng. Em thao thao bất tuyệt về công nghệ, dây chuyền và độ an toàn cũng như chất lượng thực phẩm sạch. Tôi cắt ngang, hỏi: “Ớt này trồng ở đâu em?”. Em không trả lời được. Tôi bảo: “Ờ, em đem hàng về đi. Chị cảm ơn em. Chị không mua".
Một chị đem giò bò vào giới thiệu, bảo hàng nhà làm, chị kể liên mồm nào là thịt tươi mới mổ ra là chị đã lấy để làm giò nên thơm ngon và dai, giòn... Tôi cắt ngang: “Bao nhiêu một ký ạ?”. Chị bảo: “Một trăm hai mươi ngàn". Tôi cười: “Em là đầu bếp. Chị bán giá đó thì đào đâu ra thịt thăn ngon để giã giò. Em không mua đâu ạ".
Chị rủ tôi đi ăn bún riêu ở phố cổ, khen ngon mà rẻ lắm, tôi hỏi: “Họ bán bao nhiêu một tô mà chị khen rẻ?”. “Có hai mươi ngàn. Cua đồng ngon lắm em ạ. Ngọt". Tôi phì cười: “Chị nhớ hôm lên nhà em ăn cơm em nấu canh cua không? Em mua cua sống với giá một trăm năm mươi ngàn một ký, nấu nồi canh bốn người ăn hết vèo. Một ký cua được có hai tô canh. Và từng đó mới đủ ngọt mà không cần cho thêm bột ngọt hay gia vị gì. Chị ăn tô bún riêu hai chục thì chỉ có ăn tám mươi phần trăm đậu phụ nghiền trộn hai mươi phần trăm cua, và nước pha bột ngọt chứ lấy đâu ra cua thật? Chị nghĩ người ta bán hàng từ thiện à?".
Tôi là dân làm bếp, tôi hết sức hãi hùng khi thấy vỉa hè Hà Nội, nhất là khu Lò Đúc, Trần Khát Chân người ta bán phô mai que chiên với giá năm ngàn đồng, người ăn nườm nượp. Tôi cắt vài miếng phô mai tôi nhập hàng từ châu Âu và cân đong làm thử, giá thành là mười một ngàn năm trăm đồng. Vậy cái phô mai mà người ta bán ở vỉa hè với giá năm ngàn đồng là cái gì? Trung Quốc. Họ bán phô mai Trung Quốc đóng trong hộp đã cắt thành que sẵn với giá chỉ có một trăm hai chục ngàn đồng một ký!
Tôi đi ăn thịt dê với bạn bè, tôi thích món nầm dê nướng của quán đó, lần nào tôi cũng gọi và tôi luôn biết đó không phải là nầm dê vì ở đâu ra mà lắm thế. Tôi gọi vì tôi thích cách ướp gia vị của họ và tôi ăn thấy ngon, thế là đủ, nhưng nhắc lại, tôi luôn biết trong đầu đó không phải là nầm dê.
Tôi đi tham quan làng gốm Bát Tràng, chạy xe máy lòng vòng khắp làng để tìm nơi sản xuất thực sự và tìm hiểu nơi lấy đất, cái thứ đất sét tạo ra hồn cốt gốm Bát Tràng đó nằm ở đâu? Còn không? Sao không thấy cảnh tập kết nguyên liệu? Không thấy cảnh sản xuất? Chỉ có cửa hàng. À, tôi vẫn mua vì tôi thích gốm. Nhưng tôi biết cái mà mình mua không chắc là gốm Bát Tràng như tên gọi.
Tôi đi Vạn Phúc. Cũng xe máy, cũng lê la. Và cũng chỉ cửa hàng và cửa hàng. Họ trồng dâu ở đâu? Nuôi tằm ở đâu? Dệt ở đâu? Với số lượng hàng hoá nhiều đến thế thì phải có một vùng nuôi trồng rất lớn chứ sao lại chẳng thấy gì? Trồng cây dâu, nuôi con tằm, lấy kén, kéo tơ, se sợi… là những công đoạn cực kỳ công phu vất vả và chẳng thể nào có được số lượng nhiều, đại trà. Do đó, giá của nó phải rất cao. Cái giá mà người có thu nhập trung bình khá cũng phải đắn đo. Và loại khăn, áo với giá tầm ba triệu đổ lại thì chỉ có thể là sợi tổng hợp trung cấp. Tôi cũng mua vài khăn ở Vạn Phúc và tôi biết nó là sợi tổng hợp mặc dù người bán hàng ra sức giới thiệu, quảng cáo làng nghề. Tôi thích thì tôi mua chứ không phải bởi vì tôi tin đó là hàng cao cấp hay hàng thủ công do làng làm ra.
Cũng vậy, thỉnh thoảng tôi được bạn biếu trà và cứ khoe là trà tuyết san hay ô long, tôi thường từ chối, bảo tôi quen với cái đắng chát của trà Thái Nguyên. Bởi tôi biết, làm quái gì có đủ trà tuyết san tới lượt cái loại như bạn tôi và tôi thưởng thức? Toàn giả mạo.
Tôi và nhiều người dân Việt đã từng trải qua cái thời đói rách khốn khổ. Giờ, có cái ăn, cái mặc và khi có dư ra chút xíu thì ham muốn hưởng thụ là điều đương nhiên. Nhưng, ta có điều kiện để mà hưởng thụ những sản phẩm cấp cao thực thụ không? Tôi e đa số là không. Và đã từng được thưởng thức cái ngon, cái đẹp thực thụ để có kiến thức và hiểu biết một cách thực sự chưa? Tôi cũng e đa số là chưa. Khi ta chưa ăn que phô mai chiên có giá hai mươi ngàn thì làm sao biết cách phân biệt, so sánh với que phô mai giá năm ngàn? Khi chưa từng được sờ tay vào lụa tơ tằm thật để cảm nhận độ mát của nó thì dễ dàng nhầm độ lạnh của lụa tổng hợp là độ mát. Khi chưa ăn một đĩa mỳ spaghetti nấu đúng vị ngon một cách thực thụ thì đĩa mỳ spaghetti nào cũng là mỳ Ý. Và khi chưa được ngắm những bức tranh tuyệt tác của những hoạ sĩ tài hoa vẽ ra, thì xem tranh chép bày bán nhan nhản ở phố Nguyễn Thái Học cũng tưởng đó là tranh đẹp!
Cái ham muốn được ăn ngon mặc đẹp, được sang trọng và có đẳng cấp nó cuốn hút con người ta ghê lắm. Có mấy ai thoát được. Và những người kinh doanh luôn nắm bắt được tâm lý thích làm sang mà thiếu kiến thức này của khách hàng. Sự dối trá không cần che đậy vẫn lừa được bao người chỉ vì nhiều người thích được dối trá một cách ngọt ngào.
Hình như nó đã thành truyền thống?! Cái câu khẩu hiệu: “Làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu” chẳng phải là đã dụ được quá trời người tin, theo đó thôi! Nhưng đừng trách ai cả, bởi chính mình ngây thơ, hồn nhiên, bịt mắt, bịt tai, bịt mồm trước mọi sự dối trá và còn không dám sống thật với chính mình...!
<Nguyễn Thị Bích Ngà>
Copy từ trang Trần Huy Mẫn

Chủ Nhật, 19 tháng 3, 2023

LỊCH SỬ XÃ VĨNH HƯNG, HUYỆN VĨNH LỘC, TỈNH THANH HOÁ

        Vĩnh Hưng là một xã miền núi miền quê có bề dày lịch sử văn hóa và giàu truyền thống yêu nước. Di chỉ khảo cổ học Làng Còng đã nói lên vùng đất này cách đây hơn 6.500 năm đã có con người đến đây sinh sống. Những tên làng, thôn, xóm. Làng Còng, Cù Đông. Mĩ Chí, Nhân Sơn, Bái Thôn...Dù đã thay đổi qua nhiều tên khác nhau nhưng vẫn mang đậm dấu ấn, gắn bó với mỗi con người nơi đây một nắng hai sương cần cù, siêng năng vật lộn với mảnh đất Sống chung với lũ” Để tồn tại vươn lên.

Những di tích: Đê Bà Chúa, đền Cao Sơn, chùa Linh Quang đều lưu truyền mãi với hậu thế, truyền thuyết và huyền Thoại.

Dưới thời pháp thuộc, nhân dân Vĩnh Hưng đã sớm giác ngộ tư tưởng yêu nước, cách mạng, giải phóng dân tộc. Từ những năm 1930 đã nhen nhóm tổ chức cách mạng; Trong phong trào chiến khu Ngọc Trạo (1939 - 1941) nhân dân Vĩnh Hưng đã có nhiều hoạt động giúp đỡ, che chở cho các chiến sỹ hoạt động.

Từ khi Đảng bộ Vĩnh Hưng được thành lập (1953) đến nay, dưới sự lảnh đạo của Ban Chấp hành Đảng bộ,nhân dân Vĩnh Hưng đã đi theo ngọn cờ của Đảng, chung sức chung lòng vượt qua mọi khó khăn thử thách, đóng góp sức người, sức của cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc.

I. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên:

Vĩnh Hưng là một xã miền núi năm ở phía đông bắc của huyện Vĩnh Lộc có mã số quốc gia 271307, nằm cách huyện lỵ Vĩnh Lộc 5 km về phía đông Bắc, cách thành phố Thanh Hóa 50 km. Xã Vĩnh Hưng có vị trí phía Bắc giáp huyện Thạch Thành, phía Tây giáp xã Vĩnh Phúc, Vĩnh Long, phía Đông giáp huyện Thạch Thành, phía Nam giáp xã Vĩnh Hòa. Diện tích tự nhiên xã Vĩnh Hưng, tính đến thời điểm tháng 10 năm 2012 là 1.672,95 ha. Trong đó đất nông nghiệp có 1.178,36 ha, Là một xã miền núi nhưng địa hình là đồi thấp diện tích đất sản xuất nông nghiệp phần lớn lại là vũng trũng nên gặp rất nhiều khó khăn. Trên địa bàn xã có dòng sông Bưởi chạy qua dài hơn 3km là phụ du của sông Mã. Sông bưởi hẹp, uốn khúc nhiều đoạn, vì vậy mùa mưa lũ hằng năm, khi nước thượng nguồn đổ về nhiều làm giảm tốc độ thoát nước của dòng chảy gây ra ngập lụt cục bộ. Sông Bưởi là nguồn nước cơ bản cung cấp nước tươi phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt của nhân dân trong xã.

Với vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên, đất đai, sông ngòi, đồi núi, khí hậu.. đã tạo điều kiện thuận lợi trong phát triển kinh tế xã hội ở Vĩnh Hưng.

II. Các di tích lịch sử văn hóa của xã.

Vĩnh Hưng là vùng đất cổ lâu đời. Tất cả các làng từ xưa đều có đình, chùa, nghè, phủ lăng, đền, bia thờ khổng tử....Tiếc rằng những năm chiến tranh và thời gian bao cấp đã bị phá hủy chỉ còn là phế tích. Hiện nay trong xã còn lại 2 di tích: Đền thờ Cao Hiển và Hoàng Bà, di tích chùa Linh Quang.

Chùa Linh Quang

Về chùa Linh Quang hay còn gọi là Chùa Còng. Vào thời vua Lý Thánh Tông (1054 - 1072) đã cùng hoàng hậu đến đây cầu tự và cũng đã đến đây lễ tạ. Nói về sự kiện này, thần phả còn giữ được ở chùa Ling Quang do Bùi Xuân Vĩ cán bộ Hán Nôm Thư viện Khoa học tỉnh Thanh Hóa dịch thuật đã viết như sau:

 Thời Lý Thánh Tông lam vua chuyên lấy đức hóa dân, lòng nhân đạo đó như trời biển, trí tuệ đó như thần thánh, đời khen là vua hiền tài đức độ. Lúc đó vua cùng hoàng hậu tên húy là Quang Thục (Sinh ngày 11 tháng giêng năm giáp Thìn) lấy nhau mà chưa có con nên vua cung hoàng hậu năm thang thường đi tuần du các nơi, cảnh núi linh thiêng để cầu nguyện thần thánh. Vua đã cùng hoàng hậu đến địa giới Khu Cương trang phúc lâm, huyện Vĩnh Phúc, phủ Thiệu Thiên, trấn Thanh Hóa (Tức Làng Còng ngày nay) thấy vùng đất đó có núi bao bọc, sông giao nhau một thắng cảnh đẹp, anh linh có một ngôi đền thiêng viết chữ Tối linh từ nghĩa là đền linh thiêng nhất. Vua lý Thánh Tông cùng hoàng hậu làm lễ cầu đảo và cùng qua chùa Linh quang thắp hương được Phật Quan Âm báo điềm tốt...

Về đền thờ Cao Hiển Hoàng Bà.

Đây là loại di tích lịch sử văn hóa Nơi lưu niệm danh nhân và sự kiện cao Hiển – Cao Sơn Đại Vương một thừa tướng đã cùng nhân dân lập trang trại,khai hoang lập ấp và chống ngoại xâm (Giặc Đông Dy). Cũng tại khu cương trang Phúc Lâm, nơi có cảnh đẹp, có nhiều đền miếu linh thiêng nơi mà Hoàng Hậu nhà Lý đã cùng vua Lý Thánh Tông đến đây thăm và chiêm ngưỡng, cũng là nơi an nghỉ của bà Hoàng Hậu nơi lưu giữ kỷ niệm vua Lý Thánh Tông (1054 - 1072)

III. Nhân dân Vĩnh Hưng đến với cách mạng.

Những năm 1925 - 1930, thực dân Pháp không những nắm giữ mọi ngành kinh tế quan trọng mà chúng còn tăng cường khai thác sức người, sức của ở Việt Nam để bù đắp sự thiệt hại sau chiến tranh và làm giàu cho chúng.

Ngày 03 tháng 02 năm 1930 Đảng Cộng sản Việt Namđược thành lập. Sự kiện trọng đại này mở ra giai đoạn mới của cách mạng ViệtNamnói chung và các đại phương trong cả nước nói riêng. Ngày 29 tháng 7 năm 1930 tỉnh Đảng bộ Thanh Hóa được thành lập. Ngày 16 tháng 4 năm 1934 chi bộ Đảng ghép gồm Vĩnh Lộc và Thạch Thành được thành lập tại chùa Xuân Áng (xã Vĩnh Long).

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, những năm 1935- 1939, phong trào đấu tranh Cách mạng diễn ra ở nhiều nơi của huyện Vĩnh Lộc.

Ở làng Cù Đông xã Vĩnh Hưng những năm 1934 - 1935 đã xuất hiện mầm mống cộng sản. Bấy giờ làng Cù Đông có ông Phạm Quang Hồng Tức Phạm Văn Tằm đã được đồng chí Trịnh Quang Đản giác ngộ cách mạng và thường xuyên lui tới nhà ông Phạm Quang Hồng để giúp đỡ và gửi cho ông Phạm Quang Hồng nhiều loại báo cách mạng đó là: Hà thành thời báo, Dân nghèo, Dân cày, Công hội và nông hội đỏ.., Mùa đông năm 1938 do cuộc đấu tranh gay gắt xảy ra trong việc thu thuế, kết quả lý trưởng làng cù đông bị đánh đòn, 2 hội viên của hội Tương tế ái hữu là ông Phạm Văn Thuật, Lê Xuân Phương bị chính quyền thực dân bắt giam 2 tháng còn ông Quỷnh ông Hỷ bị truy nã. Khoảng giữa năm 1941, do việc bố trí cuộc họp giữa các chiến sỹ cách mạng ở làng Cù Đông bị lộ, hai đồng chí là Phạm Văn Thuật và Phạm Quang Hồng bị chính quyền tay sai bắt giam 2 năm tại nhà lao Thanh Hóa.

IV. Nhân dân Vĩnh Hưng tham gia kháng chiến kiến quốc thắng lợi và trong công cuộc xây dựng, đổi mới đất nước.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cùng với cả huyện, cả tỉnh, nhân dân Vĩnh Hưng dã dũng cảm vùng dậy đánh đổ đế quốc thực dân phong kiến góp phần thắng lợi trong cuộc cách mạng tháng 8 năm 1945.

Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, nhân dân Vĩnh Hưng đã thực hiện tốt khẩu hiệu kháng chiến kiến quốc. Dưới sự lãnh đạo của chi bộ Đảng, nhân dân Vĩnh Hưng tích cực tăng gia sản xuất, xây dựng hậu phương vững mạnh, chi viện cho tiền tuyến, tòng quân giết giặc, đi dân công tải lương tiếp đạn, hết lòng giúp đỡ các đơn vị bộ đội, thương binh, đồng bào tản cư về ở tại địa phương.

Hòa bình lập lại ở miền Bắc, nhân dân Vĩnh Hưng thực hiện chủ trương của Đảng, tiến hành cải cách ruộng đất thắng lợi, thành lập tổ đổi công, xây dựng hợp tác xã bậc thấp, hợp tác xã bậc cao, đưa quê hương Vĩnh Hưng tiến dần lên chủ nghĩa xã hội.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Đảng bộ lãnh đạo nhân dân vừa thi đua lao động sản xuất, vừa sẵn sàng chiến đấu, đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa xã hội; quốc phòng an ninh; xây dựng hệ thống chính trị, chi viện cao nhất sức người, sức của cho tiền tuyến, góp phần vào công cuộc giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước.

Trong các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp,đế quốc Mỹ và bảo vệ tổ quốc của dân tộc. Vĩnh Hưng đã có 679 người lên đường tham gia chiến đấu và 1.379 người tham gia phục vụ chiến đấu trên khắp các chiến trường. Hiện nay trong toàn xã có 5 được truy tặng danh hiệu Mẹ Việt Nam anh hùng", số liệt sỹ là 82, số thương binh và bệnh binh là 76, số người bị nhiễm chất độc da cam điôxin là 6 đồng chí.

Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, cả nước ta bước vào kỷ nguyên độc lập, thống nhất và quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Nhân dân Vĩnh Hưng cùng cả nước đi vào khắc phục hậu quả nặng nề của chiến tranh và chung sức chung lòng xây dựng lại quê hương đất nước đàng hoàng hơn, to đẹp hơn.

Hơn 30 năm đổi mới, dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc các nhiệm kỳ, được sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Huyện ủy VĨnh Lộc, Đảng bộ và nhân dân Vĩnh Hưng đã nỗ lực phấn đấu vươn lên, đoàn kết, tự lực, tự cường, cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất. Chính vì thế trên bước đường đổi mới, Vĩnh Hưng đã đạt được những thành tựu to lớn đáng phấn khởi; kinh tế - văn hóa có bước phát triển khá, quốc phòng an ninh được giữ vững, chính trị xã hội ổn định, đời sống nhân dân được nâng lên rõ rệt.

Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm sau cao hơn năm trước, tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm là 13%. Năm 2010, tổng thu nhập của cả xã là 53 tỷ 600 triệu đồng, bình quân thu nhập đầu người trong năm là 10 triệu đồng. Năm 2018, tổng thu nhập của cả xã là 214 tỷ 992 triệu đồng, bình quân thu nhập đầu người trong năm 36 triệu đồng.

Xã đã căn bản hoàn thành các mục tiêu xây dựng cơ bản gồm điện, đường, trường học, trạm y tế, hội trường công sở, các nhà văn hóa thôn.

Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa đạt kết quả tốt. 12/12 làng, cơ quan văn hóa, đến nay đã có 7 làng và 4 cơ quan đạt danh hiệu làng, cơ quan văn hóa cấp huyện, xã Vĩnh Hưng đạt chuẩn quốc gia về Y tế giai đoạn 2.

Trong quá trình hơn 60 năm xây dựng và phát triển, dưới sự lãnh đạo của huyện ủy Vĩnh Lộc, Đảng bộ xã Vĩnh Hưng ngày càng phát triển không ngừng. Đảng bộ Vĩnh Hưng luôn đạt danh hiệu Đảng bộ trong sạch vững mạnh. Tổ chức chính quyền, Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể hàng năm đều đạt danh hiệu vững mạnh và vững mạnh xuất sắc.

Bước vào thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và nông dân, nhân dân Vĩnh Hưng dưới sự lãnh đạo của Đảng đang phát huy những thành tựu đã đạt được, nhận rõ khó khăn và thuận lợi quyết tâm hoàn thành tốt các nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới.

Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, kể từ thuở khai phá đất hoang lập trại, rồi lập nên xóm, nên làng, các thế hệ người dân nơi đây và cả những người dân nơi khác đến đã bỏ bao nhiêu mồ hôi, công sức và trí tuệ để có được một xã Vĩnh Hưng tốt lành và trù phú như tên gọi của mảnh đất này.

Những giá trị truyền thống tốt đẹp của quê hương sẽ được thế hệ hôm nay và mai sau trân trọng, giữ gìn và phát huy trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Cùng với nhân dân cả nước, Đảng bộ và nhân dân Vĩnh Hưng đang quyết tâm, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa quê hương đất nước, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.

Nguồn tư liệu: Lịch sử xã Vĩnh Hưng;


HƯ VÔ


Rồi một ngày định mệnh

Ta rời bỏ thế gian

Xác thân ta nguội lạnh

Bên nghi ngút khói nhang

 

Người ghét ta phấn khởi

Nhảy múa để ăn mừng ,

Người thương ta suy sụp

Mắt hai hàng rưng rưng.

 

Ngày ta về huyệt mộ

Kẻ ghét ta mỉm cười

Người thương ta đau khổ

Như sụp đổ đất trời.

 

Vài tháng sau, dưới mộ

Giòi bọ đục xác thân

Xưa ta yêu quí nó

Giờ chỉ là thức ăn.

 

Vài năm sau, rất chóng

Thịt da ta rữa tan

Nấm mồ ta hiu hắt

Mưa gió xối hoang tàn

 

Người ghét ta thi thoảng

Vẫn nhắc đến tên ta

Trong những lần tụ họp

Cà kê bên rượu, trà

 

Người thương ta vẫn nhớ

Thi thoảng vẫn khóc thầm

Khi hình ta bất chợt

Hiện về trong xa xăm.

 

Mười năm sau mộ sập

Khó phân biệt đầu-chân

Người thân thi thoảng đến

Khói hương thưa thớt dần.

 

Người ghét ta quên hẳn

Về khuôn mặt của ta

Tên ta thi thoảng nhớ

Oán thù xưa phai nhoà.

 

Người thân ta mang máng

Về khuôn mặt của ta

Nước mắt không còn rớt

Ta chết lâu rồi mà.

 

Vài chục năm sau nữa

Nấm mộ ta phẳng lì

Nằm lẫn trong cỏ dại

Bên lối người ta đi.

 

Người ghét ta đã lú

Bởi họ đã quá già

Người yêu thương ta nhất

Cũng lìa trần như ta.

 

Vậy là theo năm tháng

Ta trở thành hư vô

Những gì ta để lại

Là nhúm xương dưới mồ.

 

Những hư danh ta có

Nay trở thành hư không

Nhưng gì ta kiếm được

Nay kẻ khác đang dùng.

 

Đắng cay khi chợt ngộ

Ta giành giật cả đời

Đến khi về huyệt mộ

Cũng trả lại đất trời.

 

Những hư danh huyễn tưởng

Những vật chất xô bồ

Đến khi ta nhắm mắt

Đều trở thành hư vô

 

Những gì ta có được

Là những thứ cho đi

Những gì ta cố giữ

Lại chẳng mang được gì.

 

Bần hàn hay phú quý

Đói khổ hay sang giàu

Trăm năm sau rồi cũng

Nhúm xương tàn như nhau.

 

Giá như ta lúc sống

Ngộ được chân lý này

Thì giờ đây đã chẳng

Ngậm ngùi pha chua cay…!

Sưu Tầm – Khuyết Danh

Thứ Bảy, 18 tháng 3, 2023

Lịch sử hình thành thôn làng và phát triển xã Vĩnh Hòa, Vĩnh Lộc, Thanh Hó

 


Vĩnh Hòa là một xã nằm phía đông Bắc của huyện Vĩnh Lộc, cách trung tâm huyện khoảng 6 km, với diện tích tự nhiên là 1488,51 ha tiếp giáp với các xã như sau:

- Phía Đông giáp Vĩnh Hùng

- Phía Tây giáp xã Vĩnh Khang

- Phía Nam giáp Huyện Yên Định

- Phía Bắc giáp xã Vĩnh Phúc và Vĩnh Hưng

1. Diện tích tự nhiên, dân số.

Tổng diện tích tự nhiên của xã: 1.488,51 ha.

- Nhân khẩu cả xã có 6.437 nhân khẩu và 1.716 hộ, Cơ cấu dân số trên 10 thôn.

- Cơ cấu kinh tế:

Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ cụ thể là: Nông nghiệp 42%; XD-CN-TTCN 29%, dịch vụ thương mại 29%.

2. Hành chính

Toàn xã có 10 thôn trong đó có 1 thôn là công giáo toàn tòng

Xã Vĩnh Hòa gồm có 10 thôn, làng:

Quang Biểu 1

Quang Biểu 2

Nghĩa Kỹ 1

Nghĩa kỳ 2

Giang Đông

Pháp Ngỡ

Bỗng Phồn

Hữu Chấp

Lợi Chấp

Nhật Quang

Đặc sản: Nem chua nướng, bánh răng bừa, bánh mật...

Di tích và thắng cảnh: Chùa Vĩnh Nghiêm (làng Quang Biểu 1), Đền Trịnh Khả (thôn Giang Đông), Sông Mã, sông Bưởi...

          Vĩnh Hoà, một xã thuần nông, là một đơn vị hành chính thuộc huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa, xã có một bề dày lịch sử hàng nghìn năm, đã trãi qua nhiều vương triều phong kiến Việt Nam, là một xã trung du bán sơn địa. Một vùng quê với truyền thống yêu nước, tinh thần bất khuất chống giặc ngoại xâm, cần cù siêng năng trong lao động sản xuất, giản di trong sinh hoạt, đoàn kết đồng lòng trong xây dựng quê hương đất nước.

        Cách trung tâm huyện Vĩnh Lộc gần 7 km về phía Đông Nam, xã Vĩnh Hoà một đơn vị hành chính thuộc huyện Vĩnh Lộc tỉnh Thanh Hoá, cách thành phố Thanh Hoá 44 km về phía Tây. Tổng diện tích tự nhiên toàn xã là 1.488,5 ha. Phía Tây giáp xã Vĩnh Thành, Phía Đông giáp làng Sóc Sơn xã Vĩnh Hùng, Phía Bắc giáp xã Vĩnh Hưng, Phía Nam giáp xã Định Hải và xã Định Liên của huyện Yên Định. Tổng dân số tính đến tháng 12 năm 2017 là 7511 nhân khẩu, sinh sống trong 11 thôn, trong xã có 01 thôn công giáo toàn tòng với gần 700 nhân khẩu.

Dựa vào các điều kiện thuận lợi như toàn bộ phía tây xã là hợp lưu sông Mã, sông Bưởi hàng năm đã bôi đắp một lượng phù sa màu mỡ hàng 100m3. Thành phần và cấu tạo địa lý đất đai xã Vĩnh Hoà được xác định nhiều thành phần mà qua phân tích thổ nhưỡng của ngành khoa học có từ đất hạng một đến hạng 5, có sông, núi, có đồng cao, đồng sâu, đồng chiêm có bãi bồi phù sa ven sông ...

          Mặc dù đã có dấu vết cư dân sinh sống cách đây hàng ngàn năm nhưng mãi đến cuối triều đại nhà Trần đầu Hồ (Khoảng năm 1360 - 1401) mới có tên địa danh xã Vĩnh Hoà đến ngày nay đã thay đổi các làng xã trang ấp của “4 tổng” hợp lại đó là:

Làng Chấp: (Tức Hữu Chấp) và làng Mới (tức làng Lợi Chấp) Thuộc tổng xã Nam Cai tổng Hồ Nam.

Làng Công (tức Phụng Công, thuộc tổng Cao Mật)

Làng Nhật (Tức Nhật Quang) Thuộc tổng Bỉm Bút. Bốn làng trên sau cách mạng 8/1945 được huyện đặt tên là xã Cộng Hoà, chủ tịch uỷ ban lâm thời của xã Cộng Hoà là ông Lê Văn Hinh người làng Lợi Chấp.

Còn tổng Sóc Sơn gồm có 7 làng:

Làng Bỉm (Tức làng Quang Biểu)

Làng Phúc Tường (tức Nghĩa Kỳ)

Làng Boi (Tức làng Giang đông)

Làng Ngỡ (Tức Pháp Ngỡ)

Làng Sóc Sơn.

Làng Cù (Tức làng Cù Đông)

Làng Toán Nghệ.

Về niên đại hình thành tổng Sóc Sơn có khoảng cuối thế kỷ thứ X (năm 940 - 975) và đã trải qua 5 vương triều phong kiến Việt Nam, đó là cuối Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hậu Lê.

Như vậy, xã Vĩnh Hoà trước cách mạng tháng 8/1945 thuộc tổng Sóc Sơn, là một trong sáu tổng của Huyện Vĩnh Lộc; Gồm tổng Cao Mật, Tổng Hồ Nam, Tổng Bỉnh Bút, tổng Bồng Thượng, Tổng Thanh Xá và Tổng Sóc Sơn.

Chủ tịch uỷ ban lâm thời xã Vĩnh Hoà là Ông: Trịnh Bá Huệ người làng Quang Biểu.

Sau thắng lợi tổng khởi nghĩa 19/8/1945 do đặc điểm tình hình và địa hình dân cư, Huyện Quyết định sát nhập 2 xã từ ngày 12/12/1947 với tên gọi là xã Vĩnh Hoà cho đến ngày nay. Người chủ tịch uỷ ban xã đầu tiên là Ông: Trịnh Bá Huệ.

Đồng thời với công tác tổ chức nhân sự thì tổ chức hành chính cũng được tiến hành điều chỉnh sắp xếp lại các làng xã nhằm mục đích tạo điều kiện hợp lý trong hoạt động và điều hành công việc.

Sau cách mạng 1945, xã Vĩnh Hoà mới nhận về 5 làng thuộc các tổng khác là:

Làng Hữu Chấp huộc tổng Hồ Nam về Vĩnh Hoà.

Làng Lợi Chấp thuộc tổng Hồ Nam về Vĩnh Hoà

Làng Phụng Công thuộc Cao Mật về Vĩnh Hoà.

Làng Nhật Quang thuộc Bỉnh Bút về Vĩnh Hoà.

Làng Đồng Mực thuộc tổng Vân Lung về Vĩnh Hoà.

* Chuyển 5 làng về các xã khác là: Làng Cù Đông chuyển về xã Vĩnh Phúc, Làng Toán Nghệ chuyển về Vĩnh Hùng, Làng Sóc Sơn chuyển về Vĩnh Hùng, Làng Phụng Công chuyển về Vĩnh Thành (1967), Làng Đồng Mực chuyển về Vĩnh Hùng;

3. Thôn làng và lịch sử hoạt động cách mạng

Xã Vĩnh Hoà hiện nay có 8 làng sau: Làng Quang Biểu, Làng Nghĩa Kỳ, Làng Giang Đông, Làng Pháp Ngỡ, Làng Hữu Chấp, Làng Lợi Chấp, Làng Nhật Quang, Làng Bỗng Phồn.

          Xã Vĩnh Hoà là một địa điểm của người dân từ nhiều miền quê hội tụ, nhiều làng xóm có nguồn gốc lâu đời từ trên dưới 2 nghìn năm thuộc văn hoá Đông Sơn.

          Trải qua hàng ngàn năm hình thành, xây dựng và phát triển, với bao nhiêu biến cố thăng trầm của đất nước và vùng quê người dân Vĩnh Hoà đã cần cù trong lao động sản xuất, đoàn kết chung sức chung lòng để chống chọi với thiên nhiên.

         Vĩnh Hoà cũng là vùng đất màu mỡ nên đã tụ hội được nhiều cư dân mới, họ đã mang những kinh nghiệm sống, nếp văn hoá truyền thống của các địa phương, nhiều phong tục tập quán mới được bổ sung làm nên nét riêng cho xã Vĩnh Hoà.

          Và cũng từ đó đã sản sinh ra những con người hào kiệt của đất nước như: Thái uý Bình quân Quốc sự Trịnh Khả (mùa đông 1416 là một trong 18 người tham gia hội thề Lũng Nhai của Lê Lợi, năm 1928 kháng Minh Thành công Lê Lợi lên ngôi Hoàng Đế ông đã trở thành công thần khai quốc của Nhà Hậu Lê) người Kim Bôi (Tức Giang Đông); Năm 1884, vua Hàm nghi hạ chiều cần vương đánh Pháp thì Vĩnh Hoà cũng đóng góp cho nghĩa quân những người tài giỏi, mưu trí dũng lược, chỉ huy nghĩa binh cùng Tống Duy Tân chiến đấu chống giặc tại Ba đình (Nga Sơn) và núi Hùng Lĩnh (Vĩnh Lộc).

        Noi gương các bậc tiền bối, trước khi có Đảng cộng sản ra đời 3/2/1930 lãnh đạo cách mạng Việt Nam thì Vĩnh Hoà đã có một loạt nhân tố tích cực, được giác ngộ chủ nghĩa yêu nước, tham gia tích cực các đoàn thể, các phong trào cách mạng dưới nhiều hình thức công khai và bán công khai. Tiêu biểu nhất là đồng chí Trịnh Huy Quang người làng Nghĩa Kỳ đã tham gia tổ chức cách mạng đầu tiên ở xã Vĩnh Hoà, huyện Vĩnh Lộc và một số huyện trong tỉnh.

Từ cuối năm 1926 tại tỉnh Thanh Hoá đã có 2 tổ chức cách mạng là “Hội Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội ” và “Đảng tân việt” đồng chí Quang đã tham gia tích cực và sau đó đã trở thành Bí thư tỉnh uỷ Thanh Hoá .

Năm 1927 đồng chí Trịnh Huy Quang đã lãnh đạo một số đồng chí khác rải truyền đơn dọc các tuyến đường trưởng tiểu học Pháp – Việt đã gây ảnh hưởng rất lớn đối với quần chúng nhân dân, đồng thời gây thanh thế cho tổ chức cách mạng.

Giữa năm 1928, cơ sở của hội Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội được xây dựng ở nhiều làng trong xã như Nghĩa Kỳ, Quang Biểu, Hữu chấp.

Cuối năm 1929 thì đồng chí Trịnh Huy Quang bị mật thám bắt và bị giam tù tại nhà tù Buôn Ma Thuật. Sau nhiều đợt tra tấn tàn ác không khai thác được gì ở người cộng sản này buộc địch phải trả tự do sau hơn 4 năm trong tù đế quốc (Đồng chí Quang bị tù từ tháng 8/1929 đến 11/1933).

Ra tù đồng chí đã liên lạc với tổ chức và tiếp tục hoạt động ở khu vực huyện Vĩnh Lộc, Cẩm thuỷ.

          Cùng với tổ chức Hội Việt Nam cách mạng thanh niên thì tổ chức “Đảng Tân Việt” cũng phát triển nhanh chóng trong các làng Hữu Chấp, Lợi Chấp, Quang Biểu, Nghĩa Kỳ … thu hút đông đảo tầng lớp thanh niên tham gia dưới sự dìu dắt hướng dẫn của đồng chí hoạt động tại làng Sóc Sơn (lúc đó là tổng Sóc Sơn có cả Vĩnh Hoà ngày nay). Với danh nghĩa là đi vỡ hoang sản xuất nhưng thực tế đấy là khu vực huấn luyện quân sự, chính trị còn tăng gia sản xuất là để tự túc.

Ngoài 2 tổ chức trên thì “Hội tiên long Ái Quốc” cũng hoạt động ráo riết không chỉ riêng Vĩnh Hoà mà còn rộng khắp các huyện trong tỉnh. Song, do điều kiện địch đàn áp, lùng bắt … nên hội tiên long ái Quốc chỉ tồn tại được một thời gian ngắn (khoảng hơn 1 năm) thì tan rã trong xã Vĩnh Hoà cũng có một số bị bắt nhưng qua tra tấn đánh đập đều giữ vững được khí tiết cách mạng;

Thời kỳ từ 1931 đến 1936 cách tổ chức cách mạng hoạt động trên quy mô rộng lớn tác dụng của các phong trào yêu nước mỗi ngày mộ lên cao nhất là phong trào xô viết Nghệ Tĩnh đã có ảnh hưởng sâu sắc đến các địa phương trong tỉnh, trong huyện nói chung và Vĩnh Hoà nói riêng. Nhiều cơ sở cách mạng được xây dựng ở các làng mà xã Vĩnh Hoà có các làng tiêu biểu như Lợi Chấp, Hữu Chấp, Phúc Tường, Quang Biểu.

        Sau ngày Đảng cộng sản ra đời thì ảnh hưởng của Đảng đã đi vào đời sống của người dân, quần chúng được tuyên truyền, giác ngộ cách mạng, càng thấm thía cuộc đời lầm than, nỗi nhục của người dân bị áp bức bóc lột của đế quốc phong kiến. Nhân dân có lòng tin Đảng, đi theo cách mạng, làm cách mạng.

Trước các cao trào đấu tranh và hoạt động cách mạng của quần chúng nhân dân, địch điên cuồng lồng lộn khủng bố, đàn áp các lực lượng cách mạng bước vào thời kỳ vô cùng khó khăn, xã Vĩnh Hoà cũng trong bế tắc đó. Song, các đoàn thể quần chúng vẫn bí mật hoạt động, tin tưởng vào tổ chức, tin vào sự lãnh đạo của Đảng. Tại xã vẫn tiếp tục hoạt động theo các hình thức như “hội truyền bá Quốc ngữ”, “Hội nông hội đỏ” “Hội đi tranh” Làm nhà với mục đích đoàn kết, tập hợp lực lượng để đấu tranh chống lại các chính sách của địch. Cơ sở nông hội đỏ được duy trì củng cố vả mở rộng, các tổ chức khác như “hội đánh tranh” “hội đi săn” thông qua các tổ chức hội biến tướng đã đưa người dân Vĩnh Hoà vào một nếp sống chân tình, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau trong mọi trường hợp khó khăn thiếu thốn, giúp nhau dựng nhà cửa sinh sống lúc cha già mẹ héo, đùm bọc nhau trong tình làng nghĩa xóm.

        Cuối năm 1933 đầu năm 1934, nhiều cơ sở của Đảng trong huyện được phục hồi và củng cố, các tổ chức quần chúng phát triển khắp nơi điều kiện số lượng cán bộ, Đảng viên đã được rèn luyện thử thách qua thực tế công tác nên tỉnh uỷ Thanh Hoá có chủ trương thành lập chi bộ ghép hai huyện Vĩnh Lộc và Thạch Thành thì đồng chí Trịnh Huy Quang (Nghĩa kỳ) cũng tham gia và phụ trách tờ báo “Tia sáng” tiếng nói của tỉnh Đảng bộ Tỉnh Thanh Hoá.

Tờ báo “Tia sáng” được cơ quan ấn loát đặt tại nhà ông “Trịnh Văn Chế” “Quang biểu” và nhà ông “Lê Văn Lược” (Nghĩa kỳ). Năm 1934 - 1935, thực hiện chủ trương của tỉnh uỷ Thanh Hoá về việc thành lập các hội ái hữu, toàn huyện Vĩnh Lộc lúc này có 11 làng có tổ chức thì riêng Vĩnh Hoà có đến 4 làng có tổ chức ái hữu đó là làng Hữu Chấp, Phúc Tường, Quang Biểu và Lợi Chấp (Vĩnh Lộc còn có các làng khác như : Cẩm Bào, Xuân Áng, Đông Môn, Yên Tôn Hạ, Thọ Đồn, Mỹ Xuyên) cũng thành lập rất sớm.

          Tháng 6/1937, một số làng tại Vĩnh Lộc đã tổ chức đấu tranh chống thuế thân, một loại thuế nghiệt ngã, dã man nhất trong các thứ thuế mà thực dân Pháp đè lên cổ người lao động phải chịu đựng. Trong huyện, một số xã đã vận động quần chúng lao động phản đối việc thu thuế thân, ở xã Vĩnh Hoà cũng dấy lên phong trào lấy chữ ký để phản đối nhà cầm quyền điển hình cuộc vận động này là cuộc mít tinh tuần hành của quần chúng nhân dân làng Quang biểu do đồng chí Cao Ngọc Oanh tổ chức, lãnh đạo trong cuộc mít tinh tuần hành có cờ loa biểu ngữ hoan nghênh mặt trận bình dân pháp.

          Cũng trong thời gian này, cuộc đấu tranh để đưa những cán bộ Việt Minh vào các cấp chính quyền Nhà nước cũng diễn ra rất sôi nổi trên địa bàn Huyện Vĩnh Lộc, trong đó tại Vĩnh Hoà có cuộc tuyên truyền vận động nhân dân bầu cho cụ Nguyễn Đan Quế (Làng Sóc Sơn lúc đó đang thuộc xã Vĩnh Hoà) vào viện dân biểu trung kỳ khu vực 5 gồm các huyện Vĩnh Lộc, Hà Trung, Thạch Thành và Huyện Nga Sơn đồng chí Cao Ngọc Oanh đã lãnh đạo phong trào này thành công tốt đẹp, thu được kết quả lớn.

Tháng 7/1938 thực hiện chủ trương của tỉnh uỷ Thanh Hoá về việc thành lập uỷ ban vận động cách mạng ở huyện Vĩnh Lộc gồm 10 ngườì do ông Lê Văn Thiệp làm trưởng ban và ông Đặng Văn Hỷ phụ trách công tác thanh niên thì xã Vĩnh Hoà cũng có một người đứng trong hàng ngũ, tổ chức đó là đồng chí Cao Ngọc Oanh.

        Ngày 14/7/1939, tại cửa Bắc thành Tây Giai, hàng 100 quần chúng cách mạng thuộc các tổng Cao Mật, Bỉnh Bút, Hồ Nam và Sóc Sơn dưới sự lãnh đạo của chi bộ Đảng tổ chức một cuộc mít tinh quy mô lớn. Đồng chí Cao Ngọc Oanh đã đọc diễn thuyết hùng hồn nêu rõ ý nghĩa của cuộc cách mạng tư sản Pháp, lên án chính quyền thuộc địa và thực dân phong kiến, kêu gọi quần chúng nhân dân đoàn kết đấu tranh chống áp bức bọc lột, đòi thả tù chính trị.

Sau khi Đảng được thành lập, được sự lãnh đạo sát sao, phong trào cách mạng trong xã được triển khai sâu rộng, liên tục, mạnh mẽ thông qua các tổ chức “Hội ái hữu” “Hội Đi Tranh” làm nhà từng bước nâng cao sự giác ngộ cách mạng của nhân dân tham gia đông đảo hơn. Qua đó đội ngũ cán bộ, đảng viên đã trưởng thành từ nhận thức lý luận đến hành động thực tế.

4. Đình, đền, bia ký và lễ hội

4.1 - Đình: Trước cách mạng tháng Tám năm 1945, đình làng Nghĩa Kỳ xã Vĩnh Hòa, huyện Vĩnh Lộc là địa điểm liên lạc của cán bộ hoạt động cách mạng, cũng là nơi thành lập Hội Tương tế ái hữu, Mặt trận phản đế cứu quốc… Trong cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, đình làng là nơi tập trung lực lượng, tổ chức quần chúng đấu tranh. Quê hương Nghĩa Kỳ đã trở thành cái nôi cách mạng của huyện Vĩnh Lộc. Nơi đây, có nhiều người con ưu tú, có nhiều cống hiến cho sự nghiệp cách mạng của tỉnh, như đồng chí Trịnh Huy Quang, Bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa giai đoạn 1936 - 1939; đồng chí Trần Tiến Quân (tức Trịnh Huy Lãng), Phó chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa năm 1977. 

Năm 2022 Đình làng Nghĩa Kỳ được xếp hạng là di tích lịch sử cấp tỉnh sẽ tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho công tác bảo vệ và phát huy giá trị di tích trong việc xây dựng đời sống văn hóa, giáo dục truyền thống cách mạng, bồi đắp tình yêu quê hương, đất nước, lòng tự hào dân tộc cho các thế hệ cán bộ, đảng viên và Nhân dân.

4.2 – Đền thờ - Bia Ký Trịnh Khả

Trịnh Khả người làng Kim Bôi, huyện Vĩnh Ninh là bậc khai quốc công thần, làm quan dưới 3 triều vua Lê: Thái Tổ, Thái Tông, Nhân Tông được ban quốc tính họ vua gọi là Lê Khả. Trịnh Quyện là cha của Trịnh Khả. Ông sinh được 4 người con trai, Trịnh Khả là con út. Trịnh Khả rất ham mê đọc sách, thường nằm nghỉ ngơi ở chùa Kiều Sơn. Sách Thanh Hóa tỉnh, Vĩnh Lộc huyện chí của tác giả Lưu Công Đạo viết: Năm 1407, sau khi bắt sống được cha con Hồ Quý Ly, nhà Minh đặt ách cai trị, đã sai Trương Phụ đi khắp các quận huyện nước ta xem phong thủy. Một hôm đến xã Kim Bôi ngắm kỹ non nước địa hình thì thấy: “Hướng Càn có đồn binh, hướng Cấn có chỗ lên ngựa..., trong đất ấy ắt sẽ sinh ra tướng giỏi”. Năm 16 tuổi, một hôm Trịnh Khả dắt trâu đi cày về ngồi nghỉ tại cổng chùa Kiều Sơn. Trương Phụ thấy ông kỳ lạ cho rằng đây là người mình đang cần tìm. Nhìn dung mạo khôi ngô, mày rồng, trán hổ, tai dày dính thịt, mắt nhỏ ẩn thần ông lập tức hỏi: “Con là ai ngồi đây có công cán gì” ; Trịnh Khả trả lời “Tôi là người nông canh nhàn hạ câu cá, ngồi đợi quạt gió cỏ nam thơm, đa tạ quan nhân đã để mắt tới kẻ hèn mọn. Có quan hệ gì đâu?”. Trương Phụ vừa nghe nói thất sắc đáp lại rằng “Ngươi có tướng mạo phi thường, nhưng lời nói lại càng phi thường hơn” Rồi lại nói “Câu cá phải có bạn cùng câu, ấy cỏ Nam thơm phải có người thưởng ngoạn cùng, ngươi cũng không phải là ngoại lệ, kẻ tiền bối của ta sau này ta sẽ bắt được ngươi” tức thì ông đứng dậy cười và nói “có việc nhà bức bách, vả lại phải xin cha mẹ mới đi được” rồi về nói với mẹ “Con là người nước Nam, sao lại yên việc với bọn giặc Ngô” bèn trốn đến gia đình người cô ở Duyên Phúc. Thời gian không lâu giặc Minh kéo đến nhà bắt ông không được chúng đã quay sang giết cha rồi ném xác xuống sông Mã lúc ấy là ngày 14 tháng 9. Hai ngày sau Trịnh Khả mới biết chuyện men theo bờ sông tìm cha đến Hà Uyên (vực Tôm) bỗng thấy có 2 người đương vớt xác của thân phụ ông lên đem chôn, khi lại gần ông bàng hoàng sợ hãi ôm xác cha lên bờ tìm nơi cao an táng. Lại thấy một ông lão tóc bạc chắp tay hướng về phía ông mà nói rằng “Cát địa ở trước mặt ông đó sao không mang đến táng ở đó, đất bằng huyệt khởi, chỉ có lòng đất mới giữ được lâu…sau 3 năm sẽ phát phúc”.Ôm xác cha táng ở đó rồi về xã Diên Phúc chịu tang cha vừa căm thù giặc quyết chí báo thù. Nghe tin Lê Lợi đang náu mình ở Lam Sơn ngầm nuôi binh mã, ông liền vác gươm tới xin theo. Đến với Lê Lợi, Trịnh Khả được trọng dụng tin dùng, ông được phong làm Phó chỉ huy lực lượng quân Thiết Đột. Ngày 07 tháng 2 năm 1418 Lê Lợi long trọng tổ chức lễ tế cờ, bố cáo với thiên hạ bắt đầu cuộc khởi nghĩa chống quân Minh đô hộ. Nhiều trận đánh lớn của nghĩa quân Lam Sơn với quân Minh điển hình là trận ở Lạc Thủy với lòng chiến đấu dũng cảm nghĩa quân đã đánh cho giặc Minh tơi bời chém được ba nghìn thủ cấp bắt sống được gần một nghìn tên. Bấy giờ, để trả thù và uy hiếp lòng tin của nhân dân đối với Lê Lợi và toàn bộ nghĩa quân, giặc Minh đã kéo đến Phật Hoàng quật mộ lấy thi hài của thân phụ Lê lợi, chúng loan báo khắp nơi rằng ngôi huyệt đại phát của dòng họ Lê không còn, theo Lê Lợi chỉ có đổ máu vô ích mà thôi. Lúc bấy giờ Trịnh Khả đến trước mặt Lê Lợi xin được làm việc lớn mang thi hài của thân phụ trở về. Ông liền đội cỏ mà bơi đến bến Dao Xá Thượng thẳng đến trước mủi thuyền, lúc bấy giờ quân Minh đang ngủ say Trịnh Khả bèn lấy cái tiểu đựng xương cốt thân phụ Lê Lợi đem về. Tỉnh giấc, quân Minh kiểm tra không thấy hài cốt tổ tiên của Lê Lợi đâu vô cùng sợ hãi cho rằng việc ấy là do trời giúp Lê Lợi. Mưu trả thù không thành, giặc Minh tức tốc kéo quân đánh vào Lam Sơn lần thứ 2 trận đánh quá bất ngờ khiến nghĩa quân bị tổn thất nặng phải rút lên núi Chí Linh. Trong bối cảnh đó, Lê Lợi muốn có sự giúp đỡ của Ai Lao ông đã cử Trịnh Khả là người vừa thông thạo tiếng nói, ứng xử nhanh nhẹn thông minh, nắm vững đường đi lối lại sang làm sứ giả. Triều đình Ai Lao đồng ý giúp Lam Sơn một số quân và voi chiến, binh khí cùng với lương thực. Với thành công lớn trong chuyến đi sứ Trịnh Khả đã góp phần quan trọng vào việc hồi phục lực lượng của nghĩa quân Lam Sơn.

Tháng 10 năm 1424 nghĩa quân Lam Sơn ồ ạt tiến công vào Nghệ An, Trịnh Khả là một trong những tướng lĩnh cầm quân tham gia cuộc tấn công quan trọng này, ông trực tiếp chỉ huy quân đánh nhau với giặc đến mấy mươi trận lớn nhỏ trận nào ông cũng là người xung phong lên đầu hãm giặc, lập công. Lê Lợi và bộ chỉ huy đánh giá rất cao tài năng và cống hiến đa dạng của Trịnh Khả.

Tháng 9 năm 1426 nghĩa quân Lam Sơn tiến quân ra Bắc, lúc này Trịnh Khả cùng với các tướng Phạm Văn Xảo, Lý Triện và Đỗ Bí chỉ huy ba đạo quân có nhiệm vụ uy hiếp mặt Nam của Thành Đông Quan, đồng thời sẵn sàng chặn đứng đường viện binh của giặc từ Vân Nam tràn qua, lập được nhiều chiến công xuất sắc đánh thắng 3 trận lớn đó là trận Ninh Kiều, trận Nhâm Mục, trận Xa Lộc. Đáng chú ý ở trận Ninh Kiều, Trịnh Khả đã có công chỉ huy phục binh bất ngờ đánh cho Trần Trí một trận tơi bời tháo chạy về Đông Quan, ngay sau đó Ninh Kiều được xây dựng thành căn cứ rất lợi hại của nghĩa quân Lam Sơn.

Ngày 10 tháng giêng năm Đinh Mùi, Trịnh Khả tiến binh về phía Bắc bờ sông Lô bao vây thành Đông Quan, Vương Thông sợ hãi cấp báo với nhà Minh. Nhà Minh sai Liễu Thăng, Mộc Thạch chia đường sang cứu viện, khi nghe tin quân Liễu Thăng thất bại Mộc Thạch gom quân chạy về. Trịnh Khả tổ chức tung quân đuổi đánh ở Đan Xá và Lãnh Châu, quân Mộc Thạch đại loạn, quân ta chém được hơn một vạn thủ cấp bắt được hơn nghìn người ngựa cùng nhiều khí giới, lương thảo không kể xiết. Lãnh Câu và Đan Xá là hai đòn cực mạnh cuối cùng, góp phần đánh gục hoàn toàn cuồng vọng của Vương Thông nói riêng và triều đình nhà Minh nói chung. Tháng 12 năm 1426, Vương Thông xin hòa, rút quân về nước.

Niên hiệu Thuận Thiên nguyên niên 1428 Lê Lợi dẹp yên giặc Minh, phong tước công hầu, ban quốc tính. Trịnh Khả được ban hàm Kim Tử Vinh Lộc Đại Phu, Tả lân Hộ vệ tướng quân, được ban túi Kim Ngưu và Ngân Phù. Năm 1429 nhà Lê cho khắc biển ghi tên tuổi của các vị khai quốc công thần trong đó có Trịnh Khả.

Năm 1434, thừa lệnh vua Lê Thái Tổ, Trịnh Khả đem quân sang giúp Ai Lao, cùng  năm ông được cử làm tướng tiên phong cầm quân đi đánh giặc Chiêm Thành giành thắng lợi được phong làm Thái úy ban cho sáu chữ “Công thần thủ tướng Phụ chính’.

Trịnh Khả là lão thần dưới triều Hậu Lê, trải qua 3 đời vua, công lao rực rỡ. sau này được truy tặng là liệt Quốc Công, ban cho một trăm mẫu ruộng tế điền. Khi vua Lê Thánh Tông lên ngôi, truy nhớ tới ơn cứu mẹ đã gia phong cho Trịnh Khả là Hiển Ứng Vương Thượng đẳng phúc thần và lệnh cho làng Kim Bôi (ngày nay là làng Giang Đông xã Vĩnh Hòa) lập đền thờ ông.

Đền thờ và Bia ký được xây dựng trên triền đồi, hướng Nam nhìn ra dòng sông Mã. Cấu trúc của đền gồm:

Nghinh Môn (cổng) xây gạch có 2 lớp mái lợp ngói vảy, hai bên có hai tượng hộ pháp cầm trường đao đứng dưới mái che, qua nghinh môn là dãy bậc thang dẫn lên đền chính 21 bậc, phía bên phải dãy bậc thang là nhà thủ từ.

Đền chính có cấu trúc hình chữ nhị (=), tiền đường có 3 gian 2 dĩ; hiên trước được ghép với 2 trái hai bên tạo thành hình thức 4 mái có góc đao; bốn trụ hiên xây gạch, cấu trúc vì kèo đơn giản. Mái tiền đường lợp ngói vảy cá, chính giữa bờ nóc trang trí lưỡng long trầu nguyệt.

Hậu cung tiếp nối với tiền đường qua một khoảng sân nhỏ. Hậu cung rộng 18m2 tường xây gạch mái cuốn vòm; có một cửa đi mở ra phía trước; Hai bên hậu cung có 2 nếp nhà 2 gian quay nghiêng góc 300 vào tiền đường. Nhà phía bên trái là thờ các vị con trai, bên phải thờ các vị con gái.

Nhà Bia đi về phía sau qua lối nhỏ có bậc lên, nhà bia có hình thức 4 trụ, mới được xây dựng gần đây bằng bê tông cốt thép, phía sau là khu lăng mộ của song thân cùng các con trai, con gái của Trịnh Khả.

Tấm bia đá ghi nhận thân thế và sự nghiệp của Trịnh Khả, Bia được làm bằng đá xanh nguyên khối đặt trên lưng rùa có kích thước cao 1,30m, rộng 70cm, dày 0,02m. Đỉnh bia hình vòng cung khắc hai bông cúc hóa long chầu vào nhau. Bia được soạn niên hiệu Thái Hòa thứ 6 (1447) đời vua Lê Nhân Tông, người soạn là Thái học sinh khoa Canh Thìn (1400) triều Hồ tên là Nguyễn Mộng Tuân, người khắc là Nguyễn Thiên Lộ, ngự tiền tả ban. Toàn văn chữ Hán khắc kiểu chữ Khải, khoảng 22 dòng, mỗi dòng từ 2 đến 70 chữ.

Năm 2009, Di tích đã được UBND tỉnh phê duyệt trùng tu, tôn tạo với tổng mức đầu tư là 9.780.000.000 đ.


Hậu điện thờ Thái Uý Trịnh Khả

        Nguồn: Trương Văn Trọng – Trang thông tin điện tử xã Vĩnh Hoà và sử Liệu Việt Nam, Phòng Văn hóa Thông tin Vĩnh Lộc, Thanh Hoá