Trang

Thứ Sáu, 31 tháng 5, 2024

TÌM HIỂU VỀ ĐẠO PHẬT (ĐỪNG NHẦM VỚI PHẬT TRONG TÂY DU KÝ)

Mấy nay "Thầy" Thích Chân Quang nói kháy Thầy Pháp Hòa là rằng bậy, khi Thầy Pháp Hòa nói: “Đạo Phật không phải là một Tôn Giáo, mà là một Triết Lý sống thật. Bởi Đạo Phật không có Đấng quyền năng tạo dựng muôn loài như Đạo Công Giáo nên việc lạy lục, cúng vái để xin được cái này cái kia là sai Pháp, mà cũng chẳng được ích gì bởi Đức Phật không có quyền năng của một đấng thưởng thiện, phạt ác".

Bài thuyết Pháp của Thầy Hoà khiến không những mình "Thầy" Chân Quang nóng mặt, mà mình tin cả 100, nghìn thầy cũng như đa số Phật tử Việt Nam nóng mặt. Vì xưa nay theo Phật Giáo Tàu nên đa phần sư sãi, thầy chùa cho đến phật tử luôn nghĩ rằng Đức Phật là người ban phước lành mà không dễ chấp nhận Đạo Phật chân chính là một triết lý Sống Thật.

Đức Phật (phiên âm từ Bubta có nghĩa là Người Đã Giác Ngộ ) tức là Đức Tất Đạt Đa cũng như cả tỷ, triệu người tu trước đây đều đã Giác Ngộ, người thì có Thầy chỉ cho cách Giác Ngộ. Người thì tự tu và Giác Ngộ.

Đức Tất Đạt Đa khác các vị Đã Giác Ngộ trước là Ngài đã Hoằng Pháp ( tức đi giảng dạy các Tỳ Khoe cách đi đến Giác Ngộ mà thôi, còn đại đa các vị tu hành trước thầy Tất Đạt Đa sau khi đã Giác Ngộ chưa một ai Hoằng Pháp. Ngày nay các Khầy chùa Lữa ở Đông Lào dù chưa Giác Ngộ, vẫn Hoằng Pháp onl hằng ngày).

Sau đây là bài chia sẽ tất tần tật về cái chính của Đạo Phật. Kính mong đón nhận trong niềm hoan hỉ, tránh cãi nhau đúng sai.

NHỮNG HIỂU LẦM VỀ ĐẠO PHẬT.

Đạo Phật ngày càng suy đồi, tha hóa, “mạt pháp”, nguyên nhân thì nhiều, nhưng đôi khi vì trong giới tu sĩ và cư sĩ không trang bị đủ kiến thức của giáo pháp như thực - tức là giáo pháp cội rễ - mà chỉ chạy theo cành, nhánh, ngọn lắm hoa và nhiều trái. Từ đấy, khó phân biệt đâu là đạo Phật chơn chánh, đâu là đạo Phật đã bị biến chất, chạy theo thị hiếu dung thường của thế gian. Đôi nơi đạo Phật còn bị trộn lẫn với tín ngưỡng duy linh và cả tín ngưỡng nhân gian nữa... Nhiều lắm, không kể xiết đâu.

Với cái nhìn “chủ quan” của một tu sĩ Thēravāda, tôi xin mạo muội liệt kê ra đây những hiểu lầm tai hại và rất phổ biến của Phật giáo trong và ngoài nước để chư vị thức giả cùng thấy rõ như thực:

1- Tôn giáo:

Đạo Phật có những sinh hoạt về tôn giáo nhưng đạo Phật không phải là tôn giáo vì đạo Phật không có một vị thượng đế tối cao hoá sinh muôn loài và có quyền ban thưởng, phạt ác...

2- Tín ngưỡng:

Đạo Phật có những sinh hoạt tín ngưỡng nhưng đạo Phật không phải là tín ngưỡng để mọi người đến van vái, cầu xin những ước mơ dung tục của đời thường.

3- Triết học:

Đạo Phật có một hệ thống tư tưởng được rút ra từ Kinh, Luật và Abhidhamma, được gọi là “như thực, như thị thuyết” chứ không phải là một bộ môn triết học “chia” rồi “chẻ”, “phán” rồi “đoán” như của Tây phương.

4- Triết luận:

Đạo Phật có tuệ giác để thấy rõ Cái Thực chứ không sử dụng lý trí phân tích, lý luận. Còn triết, còn luận là vì chưa thấy rõ Cái Thực. Đạo Phật là đạo như chơn, như thực. Kinh giáo của đức Phật luôn đi từ cái thực cụ thể để hướng dẫn mọi người tu tập, nó không có triết, có luận đâu. Ngay “thiền” mà còn “luận” (thiền luận) là đã đánh mất thiền rồi.

5- Từ thiện xã hội:

Đạo Phật có những sinh hoạt từ thiện xã hội nhưng không coi từ thiện xã hội là tất cả, để hy sinh cuộc đời đầu tròn, áo vuông một cách uổng phí. Đạo Phật còn có những sinh hoạt cao cả hơn: Đó là giáo dục, văn hoá, nghệ thuật, tu tập thiền định và thiền tuệ nữa. Từ thiện xã hội thì ai cũng làm được, thậm chí người ta còn làm tốt hơn cả Phật giáo, ví dụ như Bill Gates. Còn giáo dục, văn hoá, nghệ thuật của đạo Phật là nền tảng Mỹ Học viết hoa (nội hàm các giá trị nhân văn, nhân bản) mà không một tôn giáo, một chủ nghĩa, một học thuyết nào trên thế gian có thể so sánh được. Và đây mới là sự phụng hiến cao đẹp của đạo Phật cho thế gian. Còn nữa, nếu không có tu tập thiền định và thiền tuệ thì mọi hình thái sinh hoạt của đạo Phật, xem ra không phải là của đạo Phật đâu!

6- Cực lạc, cực hạnh phúc:

Đạo Phật có nói đến hỷ, lạc trong các tầng thiền; có nói đến hạnh phúc siêu thế khi ly thoát tham sân, khổ lạc (dukkha), phiền não của thế gian - chứ không có một nơi chốn cực lạc, cực hạnh phúc được phóng đại như thế.

7) 8 vạn 4 ngàn pháp môn:

Đạo Phật có nói đến 8 vạn 4 ngàn pháp uẩn (dhammakhandha) chứ không nói đến 8 van 4 ngàn pháp môn (dhammadvāra). Uẩn (khandha) ngoài nghĩa che lấp, che mờ và nghĩa chồng lên, chồng chất, còn có nghĩa là nhóm, liên kết, tập hợp ví như Giới uẩn (nhóm giới), Định uẩn (nhóm định), Tuệ uẩn (nhóm tuệ). Do từ uẩn (khandha) lại dịch lệch ra môn - cửa (dvāra), pháp môn nên ai cũng tưởng là có 8 vạn 4 ngàn pháp môn, tu theo pháp môn nào cũng được! Ai là người có thể đếm đủ 8 vạn, 4 ngàn cửa pháp này? Còn nữa, xin lưu ý, 8 vạn 4 ngàn chỉ là con số tượng trưng, có nghĩa là nhiều lắm, đếm không kể xiết theo truyền thống tôn giáo và tín ngưỡng Ấn Độ cổ thời. Ví dụ 84 ngàn lỗ chân lông, 84 ngàn vi trùng trong một bát nước, 84 ngàn phiền não, 84 ngàn cách tu..

8- Xin xăm, bói quẻ, cầu sao, giải hạn, xem ngày giờ tốt xấu:

Những hình thức này không phải của đạo Phật. Trong kinh tụng Pāḷi có đoạn: “Sunakkhataṃ sumaṅgalaṃ supabhātaṃ suhuṭṭhitaṃ, sukhno ca suyiṭṭaṃ brahmacārisu. Padakkhinaṃ kāyakammaṃ vācākammaṃ padakkhinaṃ padakkhinaṃ manokammaṃ paṇidhī te padakkhinā...” Có nghĩa là: Giờ nào (chúng ta) thực hành thân, khẩu, ý trong sạch; giờ đó được gọi là vận mệnh tốt, là giờ tốt, là khắc tốt, là canh tốt... Ngày đó gọi là có nghiệp thân phát đạt, nghiệp khẩu phát đạt, nghiệp ý phát đạt. Và nguyện vọng theo đó được gọi là nguyện vọng phát đạt. Người tạo nghiệp thân, nghiệp khẩu, nghiệp ý phát đạt như thế rồi sẽ được những lợi ích phát đạt (chữ phát đạt có thể có thêm nghĩa nhiêu ích).

9- Định mệnh:

Đạo Phật có nói đến nghiệp, đến nhân quả nghiệp báo chứ không hề nói đến định mệnh. Theo đó, gây nhân xấu ác thì gặt quả đau khổ, gây nhân lành tốt thì gặt quả an vui - chứ không phải “cái tơ cái tóc cũng do trời định” như định mệnh thuyết của Khổng Nho hoặc định mệnh 4 giai cấp của Bà-la-môn giáo.

10- Siêu độ, siêu thoát:

Không có bài kinh nào, không có uy lực của bất kỳ ông sư, ông thầy nào có thể tụng kinh siêu độ, siêu thoát cho hương linh, vong linh, chân linh cả. Thời Phật tại thế, nếu có đến nơi người mất, chư tăng chỉ đọc những bài kệ vô thường, khổ và vô ngã để thức tỉnh người sống; và hiện nay các nước Phật giáo Thēravāda còn duy trì. Có thể có hai trường hợp:

- Nếu vừa chết lâm sàng thì thần thức người chết vẫn còn. Vậy có thể đọc kinh, mở băng kinh, chuông mõ, hương trầm... để “thần thức người chết” hướng về điều lành... để thần thức tự tạo “cận tử nghiệp” tốt cho mình.

- Nếu thần thức đã lìa khỏi thân rồi – thì họ đã tái sanh vào cõi khác rồi, ngay tức khắc. Khi ấy thì gia đình làm phước để chư tăng tụng kinh hồi hướng phước ấy cho người đã mất.

Cả hai trường hợp trên đều không hề mang ý nghĩa siêu độ, siêu thoát mà chỉ có ý nghĩa gia hộ, gia niệm, gia lực mà thôi. Tu dựa vào tha lực cũng tương tự như vậy, nhưng cuối cùng cũng phải tự lực: “Tự mình thắp đuốc mà đi, tự mình là hòn đảo của chính mình”. Chư thiên chỉ có khả năng hoan hỷ phước và báo truyền thông tin ấy cho người quá vãng mà thôi. Họ không có uy lực ban phước lành cho ai cả.

11- Huyền bí, bí mật:

Giáo pháp của đức Phật không có cái gì được gọi là huyền bí, bí mật cả. Đức Phật luôn tuyên bố là “Như Lai thuyết pháp với bàn tay mở ra”; có nghĩa là ngài không có pháp nào bí mật để giấu kín cả!

12- Tâm linh:

Ngày nay, người ta tràn lan lễ hội, tràn lan mọi loại điện thờ với những hình thức mê tín, dị đoan, sa đoạ văn hoá... mà ở đâu cũng rêu rao các giá trị tâm linh. Đạo Phật không hề có các kiểu tâm linh như vậy. Thuật ngữ tâm linh này được du nhập từ Trung Quốc. Và rất tiếc, tôi không hề tìm ra nguồn Phật học Pāli hay Sanskrit có từ nào tương thích với chữ “linh” này cả!

13- Niết-bàn:

Nhiều người tưởng lầm Niết-bàn là ở một cõi nào đó, một nơi chốn nào đó; thậm chí là ở một thế giới ở ngoài thế gian này. Người nào tìm kiếm Niết-bàn kiểu ấy, thuật ngữ thiền tông có cụm từ “lông rùa, sừng thỏ” như ngài Huệ Năng đã nói rõ: “Phật pháp tại thế gian. Bất ly thế gian giác. Ly thế mịch bồ-đề. Cáp như tầm thố giác”. Thố giác là sừng thỏ. Và giác ngộ cũng vậy, chính ở trong khổ đau, phiền não mới giác ngộ bài học được.

14- Bỏ khổ, tìm lạc:

Tu Phật không phải là bỏ khổ, tìm lạc. Xin lưu ý cho: Khổ và Lạc chính là căn bản của phiền não!

15- Tu để được cái gì?

Có nhiều người nghĩ rằng, tu là để được cái gì đó. Xin thưa, được cái gì là sở đắc. Ai sở đắc? Chính là bản ngã sở đắc. Đạo Phật là vô ngã. Hãy xin đọc lại Bát-nhã tâm kinh.

16- Tu là sửa mình:

Nếu tu là sửa thì mình đã từ “cái ta này” biến thành “cái ta khác”. Nếu tu là không sửa thì cứ để nguyên trạng tham, sân, si như vậy hay sao? Xin thưa, sửa hay không sửa đều trật. Đạo Phật quan trọng ở Cái Thấy! Có Cái Thấy mới nói đến giác ngộ và giải thoát. Không có Cái Thấy này thì tu kiểu gì cũng chệch hướng hoặc rơi vào phước báu nhân thiên.

17- Vía:

Đạo Phật không có vía nào cả. Vía, hồn, phách là quan niệm của nhân gian. Ví dụ, ba hồn bảy vía. Ví dụ, nam thất, nữ cửu – nam bảy vía, nữ chín vía. Nếu là nam thất, nữ cửu thì nó trùng với nam 7 khiếu, nữ 9 khiếu. Vía là phần hồn. Không có cái hồn, cái linh hồn tự tồn tại nếu không có chỗ nương gá. Vía không độc lập được. Như danh - phần tâm, sắc - phần thân – luôn nương tựa vào nhau. Chỉ có năng lực thiền định mới tạm thời tách lìa danh ra khỏi sắc, như Cõi trời Vô tưởng của tứ thiền. Tuy nhiên, cõi trời Vô tưởng hữu tình này không phải là không có danh tâm mà chúng ở dạng tiềm miên. Còn các Cõi trời Vô sắc thì sắc không phải là không có, chúng cũng ở dạng tiềm miên. Thật đáng phàn nàn, Phật và Bồ-tát đều có “vía” cả! Và cũng thật là “đau khổ” khi trong lễ an vị Phật, người ta còn hô “Thần nhập tượng” nữa chứ!

18- Bồ-tát:

Bồ-tát là âm của chữ Bodhisatta: Chúng sanh có trí tuệ. Vậy, chúng ta tạm thời bỏ quên “khái niệm Bồ-tát” quen thuộc trong kinh điển mà trở về với nghĩa gốc là “chúng sanh có trí tuệ”. Và như vậy, sẽ có hạng chúng sanh có trí tuệ với nguyện lực Thanh Văn; chúng sanh có trí tuệ với nguyện lực Độc Giác; chúng sanh có trí tuệ với nguyện lực Chánh Đẳng Giác. Ngoài 3 loại chúng sanh có trí tuệ trên – không có loại chúng sanh có trí tuệ nào khác.

19- Phật:

Phật là âm của chữ Buddha, nghĩa là người Giác ngộ. Vậy chúng ta nên tạm thời bỏ quên “khái niệm Phật” từ lâu đã mọc rễ trong tâm thức mà trở về nghĩa gốc là bậc Giác ngộ. Vậy, có người Giác ngộ do nghe pháp từ bậc Chánh Đẳng Giác, được gọi là Thanh Văn Giác. Có người Giác ngộ do tự mình tu tập vào thời không có đức Chánh Đẳng Giác, được gọi là Độc Giác. Có vị Giác ngộ do trọn vẹn 30 ba-la-mật, trọn vẹn minh và hạnh nên gọi là Chánh Đẳng Giác. Không có vị Giác ngộ (Phật) nào ngoài 3 loại Giác ngộ trên.

20- Thể nhập:

Tu là không thể nhập vào cái gì cả. Thể nhập là bỏ cái ngã này để nhập vào cái ngã khác. Cái ngã khác ấy có thể là dòng sông, có thể là ngọn núi, có thể là một cội cây, có thể là một thần linh, thượng đế. Cái cụm từ “thể nhập pháp giới” rất dễ bị hiểu lầm. Khi đi, chánh niệm, tỉnh giác trọn vẹn với cái đi; khi nói, chánh niệm, tỉnh giác trọn vẹn với cái nói; khi ăn, chánh niệm, tỉnh giác trọn vẹn với cái ăn – thì đấy mới đúng nghĩa “thể nhập pháp giới”, ngay giây khắc ấy, mọi tham, sân, phiền não không có chỗ để phan duyên, sanh khởi.

• Hòa thượng Giới Đức

 Ngọa Tùng Am, Huế.

————

* Lời pháp của Đức Dalai Lama: Phật giáo không chấp nhận một lý thuyết về Thượng đế, hay một đấng sáng tạo. Theo Phật giáo, hành động của chính mình suy cho cùng là người tạo tác (nghiệp của mình). Một số người nói rằng, từ một góc độ nhất định, Phật giáo không phải là một tôn giáo mà là một khoa học về tâm thức.

Nguồn Bài đăng từ facebook Nguyễn Tiến Dũng

PHÂN BIỆT PHẬT GIÁO ĐẠI THỪA VÀ TIỂU THỪA

PGS.TS. Nguyễn Công Khanh

Trong quá trình hình thành và phát triển, từ Ấn Độ Phật giáo đã được truyền sang các nước lân cận, ra khu vực Á đông và phát triển trên toàn thế giới. Sự phát triển này, được chia theo 2 hướng: về phương Bắc, gọi là Phật giáo Bắc Tông, mang tư tưởng Đại thừa. Về phương Nam, gọi là Phật giáo Nam Tông, mang tư tưởng Tiểu thừa.

Sự phân chia này không phải do mâu thuẫn về tổ chức hay quyền lợi, địa vị mà do khác biệt trong quan điểm về giáo lý, giới luật.

Phật giáo Tiểu thừa

Phái Tiểu thừa (Hyayana) nghĩa là “con đường cứu vớt nhỏ” hoặc “cỗ xe nhỏ”, chủ trương chỉ những người xuất gia tu hành mới được cứu vớt. Phái này cho rằng những người theo Tiểu thừa phải tự giác ngộ, tự giải thoát cho bản thân mình, không thể giải thoát cho người khác.

Theo phái Phái Tiểu thừa chỉ có Thích Ca là Phật duy nhất.

Phái Tiểu thừa quan niệm rằng sinh tử luân hồi và niết bàn là hai phạm trù khác biệt nhau, chỉ khi nào con người thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi thì mới lên được Niết Bàn. Niết Bàn là cõi hư vô, là nơi đã giác ngộ, ở đó không còn khổ não. Phật tổ là người đầu tiên đạt tới Niết Bàn.

Phật giáo Tiểu thừa bảo vệ sự tuân thủ nghiêm ngặt của giáo quy, bám sát các giáo điều của đạo Phật nguyên thủy. Theo các môn đồ Tiểu thừa thì phái này đại diện cho học thuyết thuần khiết và khởi thủy như những gì mà Phật đã thuyết giảng. Những quan niệm của nó chủ yếu dựa vào các kinh ghi lại lời dạy của Phật tổ, quy tắc kỷ luật tu hành dựa vào Luật tạng.

Phái Tiểu thừa được truyền bá ra nhiều nơi, từ Xri Lanka đến Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia, Việt Nam… Quá trình phát triển của phái Tiểu thừa cũng chia thành nhiều chi phái, tiêu biểu như Thành thực tông, Luật tông, Câu xá tông…

Phật giáo Đại thừa

Phái Đại thừa (Mahayana) nghĩa là “con đường cứu vớt lớn”, “cỗ xe lớn” được gọi là tôn giáo cải cách. Giáo lý Đại thừa có nhiều cái mới so với đạo Phật nguyên thủy. Phái này cho rằng không chỉ những người xuất gia tu hành mà cả những phật tử cũng được cứu vớt.

Vì vậy, chủ trương người theo đạo Phật Đại thừa không chỉ giải thoát, giác ngộ cho bản thân mà còn có thể giúp nhiều người cùng giải thoát, giác ngộ. Đại thừa chủ trương mỗi người có thể đến Niết Bàn chỉ bằng sự cố gắng của mình, đồng thời chủ trương giải thoát đông đảo cho nhiều người.

Thư viện Học viện Phật giáo Việt Nam được trang bị nhiều đầu sách về kinh Phật, giáo lý. Các Tăng Ni sinh đang theo học phải nghiên cứu rất nhiều tài liệu được viết bằng các ngôn ngữ tiếng Phạn, Hán cổ,.. Ảnh tư liệu

Phái Đại thừa không chỉ thừa nhận Thích Ca là Phật mà còn thừa nhận nhiều Phật khác như Phật Adiđà, Phật Di Lặc, Phật Đại Dược Sư... Ai cũng có thể trở thành Phật và thực tế đã có nhiều người thành Phật như Văn Thù Bồ Tát, Quan Âm Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát...

Với quan niệm đó, những chùa theo Phái Đại thừa thờ nhiều tượng Phật. Bồ Tát cũng là đối tượng được thờ cúng. Bồ Tát là những người đã đạt được sự hoàn thiện bằng tu luyện, đáng được lên Niết bàn song tự nguyện ở lại trần gian để cứu độ chúng sinh. Trong các vị đó, Quan Âm Bồ Tát được kính trọng nhất.

Phật giáo Đại thừa quan niệm rằng sinh tử luân hồi và Niết Bàn không phải là hai phạm trù khác biệt, ngay trong quá trình tồn tại (quá trình sinh tử) cũng có thể đạt được Niết Bàn. Theo phái Đại thừa, Niết bàn là nơi cực lạc, là thế giới của các vị Phật, giống như Thiên đường của các tôn giáo khác.

Với quan điểm cách tân của mình, Phật giáo Đại thừa được truyền bá đến nhiều nơi trên thế giới, trước hết là các nước châu Á. Từ Ấn Độ truyền sang Tây Tạng rồi vào Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam... Trong quá trình đó, phái Đại thừa cũng chia thành nhiều chi phái, tiêu biểu có Pháp tương tông, Tam luận tông, Hoa nghiêm tông, Mật tông, Tịnh độ tông, Thiền tông.

Ở Việt Nam - một trong những trung tâm phát triển sớm của Phật giáo thế giới, chứng kiến sự phát triển của cả hai trường phái Tiểu thừa và Đại thừa. Với tư tưởng nhân văn, “từ bi hỉ xả”, bình đẳng giữa các chúng sinh, khuyên con người làm việc thiện, tránh điều ác... Phật giáo Tiểu thừa và Đại thừa đều đã nhanh chóng đi vào lòng người, được đông đảo quần chúng nhân dân đồng tình, hưởng ứng và gắn liền với mỗi giai đoạn phát triển của quốc gia, dân tộc.

MUỐN ĐI TU THEO THẦY MINH TUỆ, CÁC "HÀNH GIẢ" PHẢI ĐỌC BÀI NÀY. HÀNH TRÌNH #19-5 QUA #20-5

 

Hôm nay thì đoàn bộ hành đã vượt đèo Ngang tiến sang địa phận tỉnh Quảng Bình.

Hôm qua thì thầy và các hành giả nghỉ ngơi ở bờ suối Tiên dưới chân dãy Hoành Sơn, nơi mà trước đây thầy từng ngồi đó tu hành. Dưới ánh nến lung linh huyền ảo do Phật tử thắp, thì đêm đã trôi qua êm đẹp.

Có người hỏi thẳng thầy là hôm nay có phải sinh nhật thầy không, thì thầy né câu trả lời chỉ nói là thầy đã xuất gia không còn quan tâm sinh nhật. Và đương nhiên theo nguồn tin thì đêm qua có Phật tử mang bánh sinh nhật tới đã bị thầy từ chối.

Nói chung, thầy xử lý truyền thông đang rất kín kẽ. Chúng ta nên nhớ là quân đội đã đào tạo thầy.

Thầy cũng khuyên mọi người ra về, ai vào việc đó, nhưng có thể thầy không biết rằng nhiều anh chị em đã tự do tài chính, giá vàng thế giới đang xuyên mây bay lên cao thì theo thầy vài năm là chuyện nhỏ.

Còn với youtuber thì thầy chính là công việc của họ, đi về thì làm gì nữa.

NHÓM ÁO ĐEN BẢO KÊ

Hôm qua tôi có đề cập đến việc nhóm áo đen bảo kê thầy thì hôm nay các anh ấy đã bị giải tán. Chàng trai ấy không còn mặc áo đen nữa, tuy nhiên vẫn cố lao tới để sắp xếp thì bị mọi người đuổi ra.

Sau gáy anh ấy xăm chữ Nhẫn. Trong truyền thuyết giới xăm hình thì đây là hình xăm chỉ dành cho đệ nhất giang hồ, chỉ có những tay giang hồ thứ thiệt mới gánh được chữ này. Theo quan sát thì anh ấy chưa đủ khí chất để gánh chữ Nhẫn một cách thứ thiệt.

Anh này hàm vuông là cũng quyết đoán, mắt lá răm là cũng sắc bén, má hóp là cũng có độ tàn bạo, khí quyện là cũng có sự tập trung, nhưng thần thì hơi tối cho nên theo cảm quan mà nói thì anh hơi khó làm được Hà Thiên Chụm. Các trùm ngoài nắm đấm và khẩu súng thì còn phải có trí tuệ, chứ đội hình thuần cơ bắp không đấu được đâu anh ơi.

Giữa chốn quan trên trông xuống người ta trông vào, mà các anh cứ thu 250k cho một lượt vào thăm thầy. Sau là đến 3h sáng các anh cũng cho người ta vào thăm thầy. Thì khó.

Kiểm toán quốc tế còn có thể mềm dẻo tí. Chứ ở đây kiểm toán nhân dân, hàng triệu cặp mắt soi vào. Có thể ở Hà Tĩnh các anh làm một tí nhưng vừa vừa thôi, thu họ như thế mãi làm sao được.

Thầy nói lịch sự là không cần Hộ Pháp thực ra ý thầy là đừng bảo kê thầy, và đừng lợi dụng thầy.

Nếu có Hộ Pháp thì sau này sẽ là những người cạo trọc ôm nồi cơm điện và mặc y đa sắc đang theo thầy, chứ không đến lượt các anh áo đen. Vì các hành giả đó ít ra là người dấn thân cho nên phần nào đáng tin hơn.

Thầy bây giờ giá trị truyền thông lên đến nhiều nghìn tỷ, như viên ngọc quý đi ngoài đường. Ai chả muốn bảo hộ. Đến Đệ nhất Bang và Vô song Hội nếu muốn bảo hộ thì người dân còn chưa chắc đồng ý nữa là các anh.

CÁC HÀNH GIẢ NGỦ GẬT

Hôm qua nổi bật là câu chuyện ngủ gật của các hành giả đi theo thầy.

Có nhiều hành giả mới theo thầy, trưa hôm qua đã nằm dài ngủ la liệt trong vườn cây keo. Có những hành giả như anh áo vàng (hay đi đầu dẫn đoàn, trước đây là CA Thủ Đức) thì cố gắng ngồi ngủ nhưng ngủ gật. Tức là về hạnh Đầu Đà không được nằm ngủ thì các anh chưa đạt. Tôi nói la liệt là do cảm thấy như các anh muốn buông mình xuống mặt đất vì mệt rồi, chứ không còn là nằm nghỉ thông thường.

Nhưng theo tôi, đây là điều tuyệt vời. Bởi vì nó nói lên rằng đây là sự thực. 13 hạnh Đầu Đà có một đặc điểm là nó đều diễn ra ngoài trời nên dễ dàng kiểm chứng được. Những người mới theo thì ngồi thẳng mà ngủ được mới là chuyện lạ. Các anh cứ dặt dẹo và ngáp là bình thường. Ai cũng thế thôi. Làm sao theo được ultra_man ngay lập tức. Thầy đã ngồi ngủ thậm chí còn thẳng lưng, mà nếu cần thức liền 3 4 hôm, bởi vì thiền 15 phút là thầy nhập định, và định khoảng hơn tiếng là thầy hồi phục năng lượng.

Có một chú mặc áo nâu, tuy đã cạo trọc và dựa lưng vào cây keo ngủ gật, nhưng theo quan sát thì khí của chú khá nặng và đục cho nên khả năng duyên nợ hồng trần của chú còn sâu nặng lắm.

Chú cứ đi cho vui một thời gian, có gì về quê chơi vài hôm rồi lại đi tiếp. Tôi mới nghĩ tới đó, thì thấy chú giật mình liếc con mắt qua cái túi nâu chú để bên cạnh rồi lại bình tâm khép mắt ngủ tiếp dưới trưa nắng. Khả năng chú đã từng đi qua các bến xe liên tỉnh nhiều. Rất tuyệt vời chú ạ.

Theo như sư Minh Tạng, người đã kịp gom hơn 1.000.000 cổ phiếu của thầy khi cổ phiếu của thầy mới lên sàn và bây giờ khi nhắc đến thầy người ta đều hỏi sư Minh Tạng đâu rồi, thì sư Minh Tạng đã đi được theo thầy khoảng 1 tháng và sư Minh Tạng có nói rằng: ăn 3 bữa đi không nổi đâu, ăn 1 bữa mới đi được.

Vậy thì bí quyết trường sinh ở đây là gì? Chính là 4 chữ ĂN ĐÓI MẶC RÉT. Vì ăn đói nên khí mới thông, vì mặc rét nên cơ thể mới thoáng. Thông thoáng thì vào ra không bị cản trở, không bị cản trở thì trường sinh.

BỎ DÉP HAY BỎ CUỘC

Đầu tiên là vì sao thầy làm được như vậy ? Ăn 1 bữa 1 ngày và đầu trần chân đất, đội nắng phơi mưa. Lại còn ăn chay. Thì câu trả lời rất đơn giản là phải như vậy mới làm được như vậy. Cái khó hiểu là do quan điểm của chúng ta trước giờ bị ngược mà thôi.

Tức là từ trước đến nay chúng ta sống trong một hệ kín, đó là giày dép kín chân, mũ kín đầu, ăn no mặc ấm, ở điều hòa. Tóm lại là chúng ta đang sống trong một hệ kín. Kín với cái gì? Kín với thiên nhiên. Mặt trời là thứ gây hại cho làn da, còn nước sông thì ô nhiễm, và không khí thì bụi mịn, trong con mắt truyền thông hiện đại. Có vẻ như thế lực nào đó xúi bẩy chúng ta tách rời khỏi tự nhiên để sa vào vòng tay của họ.

Với chúng ta không có thực phẩm sống hay thực phẩm chết. Đồ đông lạnh vẫn đầy đủ dinh dưỡng khi xét nghiệm hóa học là được. Cái gì là khí, không bao giờ có khái niệm đó. Thực phẩm chỉ là chất mà thôi. Và khoa học dinh dưỡng luôn đề cập đến đủ chất, chứ chưa bao giờ nói là đủ khí. Trong con mắt khoa học không có cái gì gọi là khí (prana). Chỉ có khí là thể khí mà thôi.

Hậu quả là hiện nay trên tất cả các phương tiện truyền thông, thì các chuyên gia đều cho rằng thực phẩm chỉ cung cấp hai thứ duy nhất là: năng lượng (calo) và dinh dưỡng. Chấm hết. Và vô tình kéo theo chiều ngược lại là năng lượng và dinh dưỡng chỉ có từ thực phẩm. Điểm này đã lùa con người vào trong hệ kín như trên như những con gà công nghiệp. Những con gà công nghiệp này học bằng truyền thông và sống bằng thực phẩm công nghiệp.

Và họ không thể nào hiểu được, năng lượng đến từ mặt trời, năng lượng đến từ nước, năng lượng đến từ ánh mắt, năng lượng đến từ lời chào. Hay nói cách khác, sư Minh Tuệ đang sống theo hệ mở. Sống theo hệ mở thì đương nhiên phải từ bỏ những trói buộc của xã hội và nền công nghiệp.

Những người cúng dường đồ ăn cho thầy có vẻ như không hiểu pháp môn này. Ngay cả những hành giả đi theo thầy, họ cũng không thể nào hiểu được cơ thể tự nhiên có thể thải độc qua lòng bàn chân với điều kiện nó được tiếp xúc với mặt đất. Cho nên việc đi đất của thầy Minh Tuệ là một phương pháp khoa học chứ không phải là tự hứng lên mà đi như trời đày. Cho nên các hành giả đi theo thầy hãy nghe em, bỏ dép ra các anh ạ. Mình trải nghiệm là phải đủ món đủ bài, chứ một thang thuốc mình mở ra chỉ bốc cam thảo ăn thì nó không có tác dụng.

Thầy chắc chắn là hiểu nhưng thầy vì miễn trừ trách nhiệm không thể xui các anh bỏ dép được. Nếu các anh đi dép thì cố gắng đội nón. Còn phía trên các anh bắt chước thầy để đầu trần, mà phía dưới các anh lại bịt thì cơ thể anh thành cái chảo rang trên thì mở dưới thì bít không thể sống được. Đã mở trên thì mở cả dưới.

Cho nên như dự đoán thì một thời gian nữa các anh đi dép cũng sẽ bỏ cuộc hoặc bỏ dép.

Tiếp theo, năng lượng của tứ đại là đất nước gió lửa có thể lấy trực tiếp từ đất từ nước từ gió và từ lửa. Vì lấy năng lượng từ mặt trời từ đất từ nước từ cây từ không khí, cho nên lượng thực phẩm đưa vào cơ thể sẽ giảm xuống chỉ còn 1 bữa. Một bữa thực ra vẫn còn thừa, thầy nói là 1 bữa nhưng chắc chắn 1 bữa của thầy bằng ½ bữa người thường. Và càng chắc chắn khi đó là bữa chay. Bởi vì thịt rất âm, nạp vào một cơ thể thuần dương với năng lượng lấy từ ánh sáng từ nước, sẽ chỉ làm uế tạp cơ thể. Thầy không khuyến khích ăn chay, và cũng nói là Phật không bắt ăn chay, nhưng thầy có chia sẻ là ăn chay thì tốt hơn cho tu tập.

Và khi trược khí nhiều thì các anh sẽ buồn ngủ, hay còn gọi là hôn trầm, và sống lưng không thẳng thì khí không thông, càng gập lưng thì càng ngày càng gục xuống. Ai ăn trưa càng nhiều thì càng buồn ngủ trưa. Và cả ngày hôm nay càng ăn tinh bột nhiều thì cả ngày hôm sau cơ thể lại càng buồn ngủ.

Cho nên ở góc nhìn của năng lượng, chúng ta đã thấy rất khắt khe. Nhưng cái gì dẫn một hành giả toàn thân uế trược mà có thể dần dần thanh tẩy, vì ban đầu chúng ta hiểu là mọi thứ rất mệt mỏi và đau nhức, thầy có lẽ trước đây khi mới tu học cũng có thời kỳ uể oải khi trược khí vẫn còn nhiều, đến nay người thầy toàn thanh khí nên mới có cước bộ nhẹ nhàng như vậy.

Thì đó chính là niềm tin vào Chánh đẳng Chánh giác. Hay nói cách khác, bên ngoài là giao diện đầu trần chân đất đồng bộ với bên trong là hệ điều hành Chánh niệm, thì mọi thứ mới vận hành trơn tru.

Còn cứ bắt chước bên ngoài của thầy, thì sớm muộn các hành giả cũng sẽ bỏ cuộc.

Bạn nam áo nâu buổi sáng phát nguyện theo thầy cả đời nên cho đi nốt 247k và cho đi sạc điện thoại, nhưng buổi chiều đau chân quá khóc hu hu xin bỏ cuộc là chuyện hết sức bình thường không có gì lạ cả. May mà 2 cái điện thoại vẫn được bạn bè cầm giúp.

Có anh ở Tây Ninh theo thầy được vài hôm cũng bắt xe về thăm nhà vài hôm.

Đoàn 18 người theo thầy cũng đã lác đác 4 5 anh về thăm nhà, và hẹn một ngày không xa sẽ quay trở lại.

Bạn Song Ngư theo thầy đi mấy tỉnh phía Bắc cũng về thu xếp nhà cửa con nhỏ, gọi là đi vài bữa cho có trải nghiệm.

Đó là những chuyện rất bình thường.

Mọi thứ sẽ được đãi lọc theo thời gian.

Bởi vì ngay khi từ bỏ lối sống cũ, thay vì hiểu là được trút bỏ, nghĩa là được, thì họ vẫn nghĩ là họ mất. Họ mất thì họ tiếc, và lại đi tìm cái cũ thôi.

Thầy chắc cũng kệ thời gian đãi lọc một cách tự nhiên. Sau này ai còn lại thì nói chuyện sau. Gọi là tùy duyên.

THẦY BIẾN MẤT CHIỀU NGÀY 20/5 Ở KHU VỰC CỔNG TRỜI

12h00 trưa nay thầy cùng đoàn đi cùng đã vào rừng và không quay trở lại. Đến 16h00 chiều nay cũng không thấy thầy quay ra, tối nay khả năng thầy sẽ ở lại chân núi khu Cổng Trời. Sắp có mưa to khu vực rừng thầy ở lại. Bà con thì vẫn quyến luyến chưa muốn quay về.

Tôi cũng đoán biết thầy rất muốn ẩn tu rồi. Nhưng theo tôi, thì khá là khó. Bởi vì thầy phát nguyện khất thực tức là đến từng nhà để xin đồ ăn, chứ tự mang đến là thầy không thọ nhận. Mà thầy đến tận nhà dân để khất thực thì thầy không thể biến mất được. Đơn giản vậy thôi.

Alex Alpha

#thichminhtue #daudaminhtue #suminhtue

NHỮNG LỜI CHIA SẺ CỦA THÍCH MINH TUỆ:

 

Muốn biết tận gốc về hiện tượng sư Minh Tuệ, các vị chỉ cần đọc bài này - chính lời của Minh Tuệ !

Không cần đọc của ai hết, dù họ viết hay, viết giỏi cỡ nào !!

1. Giữa tháng 7/2015, con đi làm vô tình nghe được Phật pháp. Con phát nguyện ăn chay ngày một bữa, tìm đọc kinh sách Phật và giữ giới trong 6 tháng.

2. Con thấy mục đích Phật dạy rất cao cả, nên con muốn đi tu và quyết định xuất gia.

3. Cha mẹ con lúc đầu không cho. Sau đó, thì cũng chấp thuận. Con được cha mẹ chia phần tài sản như các anh em trong nhà, nhưng con từ chối, con chỉ xin cha mẹ ký giấy cho con xuất gia thôi.

4. Lúc đầu tu học thì con không hiểu được gì nhiều. Con như người học lớp 1, rồi học lớp 2, từ từ học lên nữa, người ta cũng chỉ cho con, con mới hiểu nhiều hơn.

5. Con học tu ở chùa một thời gian, có pháp danh là Thích Minh Tuệ. Sau đó, con thấy không hợp, nên con rời bỏ chùa, lên núi ẩn cư một mình trong hốc đá, hàng ngày đi khất thực.

Dù Phật không có nói, nhưng con chọn ngủ ngồi 3 năm rồi, không có nằm. Con ngủ ngồi là con muốn bỏ cái ngủ đi. Khi nào mệt quá thì ngồi dựa vào gốc cây hay bờ tường cũng được.

6. Sau thời gian ở một chỗ con thấy mình không có cơ hội xúc chạm để thử thách tham-sân-si, nên con quyết định bộ hành từ Nam ra Bắc, rồi ngược lại. Con không dám nói trước cho đến lúc nào thì con dừng.

7. Con muốn giữ lại pháp danh cũ, nên con nói tên con là Thích Minh Tuệ, thay vì nói tục danh con (là Lê Anh Tú).

8. Trước khi đi tu, con cũng có việc làm như bao người, nhưng con không hạnh phúc, bởi con tư duy thấy rằng cho dù ai có việc làm, có công chức, cuộc sống ổn định nhưng rồi cũng bệnh, cũng già và chết như nhau. Con sẽ giống họ.

9. Con muốn học những điều Phật dạy cao siêu, vi diệu, tối ưu, thiền định, trí tuệ, thoát được khổ đau, và an lạc hạnh phúc.

10. Phật bày như thế nào, con làm theo thế ấy, để có an lạc hạnh phúc, chứ không phải tự mình mà biết. Con chưa vào định được. Con còn đang học.

11. Con đi tu là để cầu giải thoát. Khi đắc đạo chánh đẳng, chánh giác, con mới đền đáp được công ơn cha mẹ.

12. Ngày nào con cũng xin ăn không quá một bữa cơm mỗi ngày để nuôi thân tu hành. Con không tích chứa để dành, hoặc xin thêm.

13. Con tuyệt đối không nhận tiền, vàng và vật phẩm của ai, dưới bất cứ hình thức nào.

14. Y áo con mặc được may từ vải con nhặt ở nghĩa địa, hay thùng rác ven đường.

15. Con không sử dụng y áo có màu giống với các tu sĩ, và nói mình ở chùa nào, vì con không muốn mượn hình ảnh để xúc phạm đến sư thầy và các nhà chùa. Người ta có thể nói con lợi dụng để lừa đảo, hay làm điều sai trái, làm ảnh hưởng đến họ.

16. “Bình bát” để nhận thức ăn là do con sửa chế từ nồi cơm điện người ta cho con. Đó không phải là “y bát” của quý sư thầy.

17. Đời là vô thường, sống nay chết mai đâu ai biết, nên con phải sớm đi tu, lỡ mai chết mất thân này thì con đâu còn cơ hội.

18. Có người hỏi con ngủ ở nghĩa địa có thấy gì không? (ma). Con nói không thấy cũng không đúng. Có khi con thấy bóng đen nào đó đi qua, nhưng không ảnh hưởng gì đến con thì con nói thấy hay không thấy cũng vậy.

19. Giờ đây con coi mọi người đều là anh em, cha mẹ con.

20. Trong lòng con không còn ích kỷ, thù hận. Con coi tất cả mọi người trong thế gian đều bình đẳng.

21. Giờ nếu anh có chửi con, con vẫn coi anh là bạn.

22. Người ta có đánh con, con vẫn chúc mọi điều tốt đẹp đến với họ.

23. Con nguyện ước chúc cho mọi người được hạnh phúc.

24. Bình thường như con khi chưa phát tâm tu hành chánh đẳng , chánh giác thì không sao, nhưng khi phát tâm tu hành rồi thì đầy đủ các thứ đánh đập, chửi bới bệnh đau nó đến để thử thách lòng mình có vượt qua được không, có chiến thắng với 4 nổi khổ: sinh, già , bệnh, chết không. Ví dụ bệnh đau là cái đầu tiên vẫn đến để xem mình có sợ nó không.

25. Mọi người không nên học bói toán, vì có cái đúng, cái không đúng. Đức Phật không có dạy xem bói. Hơn nữa, nếu họ tài giỏi thì họ đã bói cho họ rồi. Thay vì học bói toán, mọi người nên học đạo đức, giới luật. Cố gắng giữ 5 giới: không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống bia rượu sẽ được hạnh phúc.

26. Việc giữ giới là quan trọng đầu tiên trong Giới-Định-Tuệ. Không giữ giới thì không tu được thành Phật.

27. Ăn chay mà giữ giới thì cũng thành đạt trong việc tu Phật được.

28. Người ta cho con chay, mặn có đủ. Khi ăn, con chọn thức ăn chay.

29. Mọi người đừng lạy con mà hãy lạy Phật - Pháp - Tăng.

30. Con không kêu gọi hay lập ê kíp đi theo quay phim con. Nhưng con cũng không xua đuổi họ.

31. Nếu họ vì quay phim con mà được lợi ích, thì con cũng chúc họ hạnh phúc.

32. Đối với con, ở đâu cũng là chùa. Nên con không quan trọng lý do vì sao chùa này mở cửa, chùa kia đóng cửa.

33. Con đi bộ, không đi xe, là để rèn luyện sức khoẻ.

34. Con đi chân trần là để cảm nhận được những gì ở phía dưới chân, mình có dẫm đạp lên các côn trùng, sinh vật không? Hơn nữa giày, dép mau hư hơn chân con.

35. Ai không có thứ gì đáng giá trên người, mới là hạnh phúc, vì họ không phải lo giữ gì cả.

36. Con không có gì hết nên con không sợ bị ai đánh đập hay giết mình để lấy của. Con không sợ chết, bởi con đâu có thứ gì tiếc uống, cần phải sống để giữ nó.

37. Có người hỏi con ngủ trong chòi lá, rừng cây lạnh lẽo, rét buốt làm sao ngủ ngon bằng ở phòng kín, chăn ấm, nệm êm? Con nói vẫn ngon, vì theo lời Đức Phật dạy ngủ ở đâu cũng ngon, nếu không có khởi tâm dâm dục.

38. Đọc chú đại bi phải có mục đích nào đó. Nếu vì muốn mình an ổn, cần phải đọc chú đại bi, ví dụ xua đuổi con quỷ chẳng hạn, thì mình cư xử ác với nó rồi. Con không muốn giành lấy chỗ ở hay sự an ổn của ai, (ví dụ của con quỷ) nên con không học chú đại bi.

39. Ai nói xấu con hay chửi mắng con thì con không giận họ và chúc họ may mắn. Ai nói tốt con hay khen tặng con thì con bình tâm, không để mình bị dính mắc vào ngã mạn, và con cũng chúc họ được hạnh phúc.

40, Nói tốt, nói xấu hoặc khen, chê con thì rồi cũng vậy. Nhưng con phát hiện ra 2 tâm trạng : người cho con thức ăn thì con thấy họ rất vui và hạnh phúc, còn người chửi con thì con thấy họ đỏ mặt không tự nhiên.

41. Con không phải là sư, là thầy gì cả. Con là công dân VN giống như mọi người thôi . Con chỉ muốn học tu. Con không có mục đích tuyên truyền hay rao giảng gì cả. Tất cả lời Phật dạy đều có trên mạng.

42. Khi nào con thành tựu được chánh đẳng chánh giác con mới giảng pháp cho mọi người được. Bây giờ người nào muốn học thì cứ lên mạng nghe giảng của các sư thầy. Kinh sách nào của Phật cũng đều có cả.

43. Những người tu hành, già cả hay nghèo khổ mình nên bố thí cho họ cơm ăn, y áo vật thực hay cái gì đó. Những người sa ngã, ăn chơi, hư hỏng, mình bày cho họ đừng sát sanh, trộm cắp, sống lương thiện, giữ trọn 5 giới, đó là bố thí pháp.

44. Sáu năm qua con không là nhân sự ở chùa nào. Con không là Nam tông hay Bắc tông, cũng không phải là tu sĩ của GHPGVN, bởi con tự thấy đạo đức của con chưa đạt đến cảnh giới đó.

(Ngộ Trí Tâm, cập nhật 19/5/2024-12/4 âl).

HIỆN TƯỢN HÀNH GIẢ MINH TUỆ

 

Duy Trung

Hiện nay Phật giáo tại VN được chia ra một số tông phái chính, nhưng cơ bản là truyền thống Bắc tông (còn được gọi là Phật giáo phát triển) và Nam tông (còn được gọi là Phật giáo Nguyên Thuỷ). Phật giáo Bắc tông lại chia nhiều tông phái khác nhau phủ khắp ba miền Bắc Trung Nam. Phật giáo Nguyên thuỷ chủ yếu từ miền Trung trở vào, chủ yếu hiện diện ở miền Nam. Ngoài Bắc chỉ có vài chùa theo phái Nguyên thuỷ, dù Phật tử theo Phật giáo Nguyên thuỷ cũng khá nhiều so với số lượng sự hiện diện của các ngôi chùa theo Nguyên thuỷ ở vùng này.

Sự khác biệt của hai tông phái này chủ yếu là hai hệ thống Tam tạng Kinh, y bát và cách hành trì. Tam tạng Kinh của Phật giáo Nam truyền là bộ ba Kinh, Luật, Vi diệu pháp/Thắng pháp (Bắc truyền gọi là bộ Luận - nội dung có khác biệt).

Đối chiếu với những hình thức thể hiện của hành giả Minh Tuệ thì có thể nói hành giả đang hành trì theo Phật giáo Nguyên thuỷ.

1. Y áo.

Hành giả Minh Tuệ dùng những mảnh vải nhặt được trên đường đi để cắt và khâu lại thành tấm y để mặc. Cách thức thực hiện này được nhắc đến trong Kinh tạng và Luật tạng thuộc Nam truyền. Trong kinh điển, các vị nhặt những mảnh vải mà người ta quăng bỏ ở nghĩa địa (là những tấm vải từng quấn người chết) hoặc vải thừa vụn bị vứt bỏ trên đường. Những vị tỳ kheo trong kinh điển là dùng y qua cách thức này (còn được gọi là y phấn tảo). Hiện nay ngay cả ở một số nước quốc giáo theo Phật giáo Nguyên thuỷ như Myanmar, Thái Lan, Sri Lanka, Cambodia, Lào dù có cùng kiểu y là một tấm vải lớn hình chữ nhật, nhưng rất hiếm thấy được kiểu y phấn tảo (đúng nghĩa là nhặt các mảnh vải vứt đi rồi khâu may ghép lại). Tam y là ba tấm y gồm: y nội (dùng đắp từ thắt lưng trở xuống), y thượng (đắp ở phía trên, hay còn gọi là y vai trái) và y kép (sanghati, là y hai lớp). Cách may và sử dụng tam y theo Luật tạng rất chặt chẽ và nghiêm khắc. Một hành giả mà chỉ sử dụng Tam y đúng theo Luật tạng thì rất đơn sơ giản dị đến mức khó khăn nếu không biết linh hoạt khi tắm rửa, trời mưa bị ướt. Hành trì theo hạnh đầu đà thì cực kỳ khó khổ khi không có trú xứ thích hợp lúc trời nắng mưa, nơi tắm giặt, khi ngủ nghỉ (trời lạnh chỉ có thể dung y kép để đắp chứ không có chăn, không có y áo khác để mặc thêm). Hiện nay các sư theo phái Nam truyền hầu hết đều mặc y do Phật tử cúng dường qua lễ dâng y Kathina. Ở một thiền viện nổi tiếng thì chỉ sau một mùa lễ dâng y Kathina (lễ này diễn ra sau ba tháng an cư kiết hạ mùa mưa) thì một vị sư có thể nhận được tới cả chục bộ y. Nếu một vị sư đã thọ trì Tam y thì sau khi được cúng dường nhiều bộ y đều phải xả (bỏ) lại cho văn phòng chư tăng (Sangha office), hoặc các chùa khác, các vị sư nơi khác khó khăn hơn. Một tấm y theo đúng Luật tạng không phải là một miếng vải, mà phải may từ nhiều mảnh vải nhỏ ghép lại, kích thước được tính theo đơn vị “hắc tay” của thời trước (được cụ thể hơn qua các bộ chú giải và phụ chú giải của Luật tạng). Hạnh đầu đà chỉ là một trong các pháp tu hành trì, nhưng được chính Đức Phật tán thán trong Kinh tạng. Vì đây chính là biểu hiện rõ nhất của tinh thần “thiểu dục tri túc” trong đạo Phật. Một hành giả mà có tâm tham, tâm ngã mạn nhiều thì pháp tu đầu đà là cách thức làm thuyên giảm những chướng ngại về tham dục (dục ở đây là ngũ dục thông qua ngũ căn chứ không phải tình dục) và sự cống cao ngã mạn. Có thể nói hiện nay pháp tu hạnh đầu đà không còn hiện diện nhiều ngay cả ở những nước quốc giáo, nổi tiếng uy tín về giới luật như Myanmar, hay một số pháp môn “sơn tăng” tại Thái Lan hay Sri Lanka. Một số vị chỉ có thể hành trì một vài điều trong tổng số (12 hoặc 13) hạnh đầu đà như ngày ăn một bữa, ngủ trong rừng. Còn thực sự đắp y phấn tảo, ngủ nơi nghĩa địa, dưới gốc cây, ăn ngày một bữa thì rất hiếm còn. Tại VN gần như là chưa thấy vị nào hành trì được những hạnh đầu đà này. Giờ chỉ có thể thấy một hành giả Minh Tuệ “dám” thực hiện điều đó: đắp y phấn tảo, ngủ dưới gốc cây, ngồi nơi nghĩa địa,… Đó là những điều quá xứng đáng để được tán thán trong bối cảnh Phật giáo hiện nay tại VN. Thậm chí là một hiện tượng đáng để tự hào so với Phật giáo hiện nay trên thế giới. Một người từ trong kinh điển bước ra, khiến cho các “thầy chùa” choáng váng, hổ thẹn.

2. Bình bát.

Các sư theo Nguyên thuỷ hiện nay hầu hết đều sử dụng bình bát để thọ thực. Các bình bát này cũng đều được các Phật tử dâng cúng. Sau khi thọ nhận một bình bát mới thì theo Luật tạng phải làm cho bình bát “hoại sắc” (y áo cũng theo tinh thần này). Tại Myanmar một số thiền viện các sư vẫn dùng bình bát chất liệu bằng sắt, được hun đốt thành màu đen, có loại bằng nhôm. Sang hơn là dùng bình bát bằng chất liệu inox, rất thịnh hành ở Thái Lan. Bình bát bằng inox khi mới sáng bóng, cũng được các vị mang đốt bằng một loại dầu để làm cho “hoại sắc”. Về bản chất thì đã đúng theo Luật tạng quy định, nghĩa là không sai, nhưng vẫn là một kiểu “hình thức mới”, đôi khi còn thấy đẹp hơn! Hành giả Minh Tuệ dùng chiếc ruột cũ của nồi cơm điện đi xin được làm bình bát, một sáng tạo không thể ngờ tới, quá là đáng yêu! Nó “đáng yêu” ở chỗ không chấp vào hình thức. Tới thời điểm hiện tại thì thấy các Phật tử đã đổi cho ông một bình bát mới, nhìn sáng bóng kiểu chất liệu inox, điều này là không cần thiết nhưng có thể hiểu cho “tình cảm” (nhu cầu cúng dường tạo phước) của các Phật tử.

3. Chân đất.

Hiện nay các sư bên Phật giáo Nguyên thuỷ chủ yếu là đi dép xỏ ngón/tông. Đi giày được coi là phạm giới, nếu trời lạnh có thể đi thêm tất. Chỉ một số ít là các vị hành trì việc đi chân đất hoàn toàn. Dù khi đi khất thực, hay lúc thọ nhận đồ cúng dường các vị đi dép vẫn phải bỏ tạm dép ra, đứng chân đất để thọ nhận để cho “hợp luật”. Hình ảnh các vị sư đi chân đất khất thực vào buổi sáng tại Myanmar rất quen thuộc, không còn lạ gì với người theo Phật giáo Nguyên thuỷ. Tại VN cũng không quá khó khăn để thấy được những hình ảnh như thế, một vị (hay một nhóm vị) đi chân đất khất thực vào buổi sáng. Nhưng để thấy được một vị đi hoàn toàn bằng chân đất, không sử dụng dép thì có thể nói ở VN hiện nay, ngoài hành giả Minh Tuệ ra thì cũng khó tìm ra thêm. Vì để hành trì được điều này, hành giả gần như buộc phải chọn trú xứ là rừng cây, nghĩa địa, chứ sống trong chùa, thiền viện, ngủ trên giường là quá bất tiện, không phù hợp. Nói “đi chân đất” nghe có vẻ bình thường, nhưng để đi chân đất trên đường ngày nắng nóng, sự nguy hiểm của chông gai rắn rết khi đi vào rừng, bãi hoang là điều không phải tầm thường. Đó là điều mà hạng người độn căn, thiếu trí, ngoại đạo cười chê, cho là hâm dở, nhưng lại là biểu hiện cho tinh thần “bi-trí-dũng” được những người lợi căn, có trí, có tâm tán thán. Vì đã “vô duyên” với đạo Phật thì miễn bàn, mà đã “hữu duyên” thì không thể không tán thán một biểu hiện của tinh thần “thiểu dục tri túc”, hạnh kham nhẫn trong Phật giáo.

4. Nhận tiền và không nhận tiền.

Cần nói ngay và luôn, một người khi đã xuất gia theo Phật giáo Nguyên thuỷ thì hành trì theo tạng Kinh và tạng Luật, thì trong tạng Luật hành vi nhận tiền, tích trữ tiền vàng là phạm giới luật. Một vị sadi (giữ 10 giới) còn một vị tỳ kheo thọ đại giới là 227 giới. Trong giới luật tỳ kheo thì đứng đầu là bốn tội nặng nhất (tội bất cộng trụ), phạm vào một trong bốn tội này được cho là một tỳ kheo đã “mất đầu”, dù có tu như nào nữa thì trong kiếp này không thể thành tựu (Pháp thượng nhân). Khi một vị bị phát hiện (hoặc chủ động sám hối) thì cũng lập tức buộc phải xả y (hoàn tục), nếu không thực hiện cũng bị đuổi ra khỏi tăng đoàn. Tiếp theo là 13 tội tăng tàn, những tội này muốn sám hối thanh tịnh giới phải thông qua một hội đồng chư tăng (những vị trong sạch giới hạnh). Tiếp theo nữa mới đến các giới nhỏ dần. Nhận tiền (bao gồm vàng bạc) là một trong 227 giới luật, được cho là một giới nhỏ so với những giới nặng được nhắc ở trên. Trong bối cảnh Phật giáo hiện nay, không chỉ ở VN mà ở mọi nơi có Phật giáo hiện diện thì “nhận tiền” là một vấn đề nổi cộm gây nhiều nhức nhối. Bên Phật giáo Bắc tông tại VN việc các thầy nhận tiền cúng dường gần như đã được coi là việc bình thường. Chỉ những hình ảnh của một số “thầy chùa” tay chộp phong bì liên hồi trên tay các “phật tử” là dễ gây phản cảm, hay các bài “thuyết pháp” gây bức xúc khi nhai đi nhai lại việc cúng dường (chủ yếu là tiền bạc). Bên Phật giáo Nguyên thuỷ có tiếng hơn trong việc nghiêm trì giới luật nên việc các sư nhận tiền là rõ ràng đã phạm giới. Nhưng hiện nay ở VN (và cả một số các nước quốc giáo khác như Myanmar, Thái Lan,…) hình ảnh các sư thọ nhận tiền bạc không phải quá hiếm. Trong các lễ hội cúng dường tại các chùa, thiền viện ở VN không thiếu những hình ảnh các “phật tử” bỏ tiền, bỏ phong bì vào bình bát của các sư. Có người nhận thì có người cúng hay có người cúng thì có người nhận. Các sư phạm giới nhận tiền là do chính Phật tử đã cúng dường tiền, làm “hư” các sư. Trong Kinh tạng và Luật tạng một vị tỳ kheo chỉ cần bốn thứ cần thiết (Tứ vật dụng) cho đời sống xuất gia: vật thực (đồ ăn uống), trú xứ (liêu cốc), y áo và thuốc chữa bệnh. Phật giáo Nguyên thuỷ có quy định về “người hộ tăng” (Kappyya) để lo việc hộ trì cho các sư. Khi Phật tử muốn cúng dường “tứ vật dụng” trên cho các sư mà chưa thể “hiện thực hoá” ngay các vật đó thì họ tác bạch với các sư và đưa tiền cho người hộ tăng nhận. Nói một cách thẳng thắn thì việc này là các sư không nhận tiền trực tiếp mà là gián tiếp thông qua người hộ tăng. Khi nhận thấy vị sư có nhu cầu cần đến một trong các “tứ vật dụng” thì người hộ tăng sử dụng số tiền được cúng dường để thực hiện. Với một người tu tập đúng đắn, đã có tâm xả bỏ tài sản, gia đình thì tiền bạc thực sự không có ý nghĩa nhiều. Và hơn hết vị sư đó sẽ thông qua người hộ tăng để sử dụng số tiền một cách “hợp luật”, không phạm giới. Nhưng nếu một vị không có tinh thần xả bỏ, tu tập và nghiêm trì giới hạnh lại trực tiếp nhận tiền và giữ tiền thì điều gì cũng có thể xảy ra. Hành giả Minh Tuệ không có người hộ tăng, nghĩa là không có người nhận tiền “gián tiếp”, càng không có việc nhận tiền trực tiếp như lời ông tuyên bố và đã thực hiện qua những gì mọi người thấy thì điều đó đã thể hiện một người tu tập giữ giới này trọn vẹn như nào. Trong bối cảnh Phật giáo hiện nay, điều đó chả phải đáng tán thán ư?! Đó là việc khiến cho bao người xuất gia phạm giới nhận tiền khác phải hổ thẹn. Nó là việc khiến hàng nghìn Phật tử đã động tâm.

5. Xưng hô.

Trong truyền thống Phật giáo, một người xuất gia sau thường xưng “con” với người đã xuất gia trước (thường nhiều tuổi). Hoặc một vị sadi thường xưng hô là “con” đối với một vị tỳ kheo (để biểu lộ sự tôn kính với người tu bậc trên). Và rõ ràng hơn là việc xưng con với người thầy tế độ (người cho mình xuất gia), hay với các thiền sư, pháp sư dạy mình. Ngôn ngữ trong Pali còn gọi các bậc trưởng lão là “sayadaw” (với ý tôn kính bậc cao thượng), hay “Bhante” dành cho các vị tỳ kheo. Trong tiếng Việt các vị sư hay gọi các vị cao hạ hơn là “đại đức”. Với một người xuất gia mà xưng “con” với người tại gia là xưa nay chưa từng thấy/nghe. Chỉ thấy việc mấy ông sư trẻ tuổi, ít hạ, mấy thầy chùa lên giọng sư giọng thầy và gọi Phật tử là “con” dù Phật tử có nhiều tuổi hơn họ (thậm chí bằng hoặc lớn hơn tuổi bố mẹ các sư các thầy) lại là điều không hiếm thấy. Việc hành giả Minh Tuệ xưng “con” với hầu hết mọi người, bất kể già trẻ trai gái, bất kể với xuất gia hay tại gia là một sự khiêm hạ, khiêm cung đáng nể, gần như không thể thấy có ai khác trong giới tu sĩ. Khi người ta vẫn đang học về “vô ngã” là người ta còn cái ngã. Cái ngã mạn này ở mỗi tu sĩ có cao thấp khác nhau, và biểu lộ của sự đụng chạm đến cái ngã là tâm sân. Và một người khi đã tạm đặt cái ngã này sang một bên để chủ động hạ mình xuống trước tất cả mọi người thì không dễ một chút nào. Khi làm được điều đó với một sự chân thật, có phần hồn nhiên vô tư thì tự họ đã vô tình nổi bật trong đám đông tăng sĩ (điều mà nhiều tu sĩ có muốn “diễn” cũng không làm nổi), đừng nói tới hạng phàm phu tục tử.

Dù đã và đang hành trì theo kinh điển với những biểu hiện về y phấn tảo, không nhận tiền, ngày ăn một bữa, đi chân đất, ngủ dưới gốc cây,… nhưng hành giả Minh Tuệ lại không nhận mình là tu sĩ. Đó lại là một điều khiến nhiều tu sĩ khác phải hổ thẹn. Dù hiện nay một số người có tìm hiểu Kinh, Luật cho rằng hiện tượng hành giả Minh Tuệ là không đúng đắn, các phân tích về việc thọ trì giới luật, hội chúng tăng đoàn, thầy tế độ,… Có ý kiến còn nặng đến mức cho rằng hành giả Minh Tuệ “ăn trộm tăng tướng”. Xét một cách máy móc về giới luật và kiểu áp đặt giới luật thì một số nhận định phân tích là không sai. Nhưng đó chỉ là một trong các cách diễn giải giới luật còn nhiều tranh luận. Người ta cũng quên rằng, giới luật là để bảo vệ người tu, chứ không phải là làm khó người thực sự muốn tu. Hành giả Minh Tuệ chỉ nhận mình là người đang học theo Đức Phật, ông không nhận mình là tu sĩ, nên không thể quàng lên ông những giới luật một cách máy móc (áp dụng cho một vị tỳ kheo xuất gia đúng “quy trình”). Mà thậm chí những biểu hiện của hành giả Minh Tuệ đã đáng để nhiều vị tỳ kheo hiện nay học hỏi. Bậc cao nhất của một người theo đạo Phật chính là thực hành giáo Pháp (dhamma - Pali). Hành giả Minh Tuệ có thể ăn nói chưa “hoa mỹ”, dùng từ hồn nhiên nhưng lại chân thật, ông không phải một Pháp sư (người giảng Pháp) để diễn ngôn chuẩn chỉnh. Nhưng hàm chứa trong lời nói ngây ngô chân thật đó phải là một người có trí, lợi căn và chân thật, biểu lộ các ba la mật (Parami) về hạnh kham nhẫn, khiêm cung, thiểu dục tri túc, thu thúc lục căn (những điều luôn được nhấn mạnh quan trọng, đáng tán thán trong tạng Kinh Nikaya). Khó có thể tìm thấy một biểu hiện của sự cống cao ngã mạn, tâm tham, tâm sân ở hành giả Minh Tuệ. Những người tôn xưng hành giả Minh Tuệ là Phật sống, thánh tăng có thể là quá lời, cũng có thể hiểu được “tình cảm” đó của mọi người trong bối cảnh Phật giáo ngày nay. Nhưng nếu là một “phàm tăng” thì hành giả Minh Tuệ là một phàm tăng xuất chúng, tìm mỏi mắt cũng không thấy người thứ hai. Chỉ riêng những điều đó thôi cũng đủ xứng đáng để người ta đảnh lễ, cúng dường, cung kính, tán thán. Những đố kỵ, ganh ghét, sân giận với ông trong thời điểm này chỉ biểu hiện của hàng độn căn, tự hạ thấp mình. Dĩ nhiên quyền cá nhân biểu hiện thì thoải mái đi. Nếu nhìn từ khía cạnh đời sống không có nhiều điều để bàn, thậm chí chỉ gây tranh cãi vô nghĩa. Nhìn một hiện tượng về tâm linh thì cần bàn trên góc nhìn tâm đạo. Pháp (dhamma) là “đến để mà thấy”, dành cho người hữu duyên, không phải chỉ để tin và cho người vô duyên (với đạo). Có thể tương lai hành giả Minh Tuệ sẽ đổi khác, không đúng, thì đó là chuyện của tương lai. Hành trình “Giới - Định - Tuệ” là con đường cả đời, trải qua nhiều kiếp sống mới có thể thành tựu. Nhưng với những gì đã diễn ra cho đến thời điểm này, “hiện tượng Minh Tuệ” sẽ còn được nhắc đến lâu dài, như một biểu tượng mới về “hình ảnh tu sĩ”  trong Phật giáo hiện nay. "

Duy Trung

22/5/2024.

MẤY SUY NGHĨ VỀ “HIỆN TƯỢNG THÍCH MINH TUỆ”

Có mấy bạn muốn tôi viết về chuyện vị Thích Minh Tuệ, như Nguyễn Bá Vĩnh: “Dạ anh.. rất trông mong bài viết của anh, về tu sỹ Minh Tuệ ạ!”; Duong Hoài Anh: “…rất mong được đọc bài viết công tâm của chú Đông La. Có rất nhiều ý kiến trái chiều, nhưng không được tích cực chú à”. Vậy hôm nay tôi sẽ viết đôi điều.

***

Trước hết, tôi là người được “đào tạo cơ bản” về khoa học tự nhiên, từng làm công việc nghiên cứu tại các viện và trung tâm, từng làm chủ nhiệm đề tài những công trình, có bài toán khoa học công nghệ 20 năm một ngành của cả nước không ai làm được thì tôi đã làm được, mang đề tài đi thi đã được Giải A trong cuộc thi Sáng tạo KHKT TPHCM, v.v… Khoa học tự nhiên là một hệ thống những quy luật logic, chính xác, có thể kiểm chứng và ứng dụng trong đời sống, vì vậy nó không có chỗ cho tâm linh, tôn giáo; thế nhưng, các hiện tượng xuất hiện trong tự nhiên, đời sống lại phong phú hơn KHTN, vượt khỏi tầm với của KHTN, và thú vị là do cơ duyên đưa đẩy, tôi đã được trực tiếp chứng kiến những hiện tượng siêu phàm, khả năng siêu phàm của con người. Triết học Mác đã dạy, thực tiễn là tiêu chuẩn cao nhất để kiểm tra chân lý, nên thực tiễn xuất hiện những hiện tượng ngoài tầm với khoa học ta cũng phải công nhận, nếu không ta sẽ thành mê tín, không phải mê tín tâm linh mà là mê tín khoa học.

***

Về vị Thích Minh Tuệ, các báo đồng loạt đưa tin: Ngày 16/5, thượng tọa Thích Đức Thiện, Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam, gửi công văn đến Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam các tỉnh, thành phố, “khẳng định người được mạng xã hội gọi là "sư Thích Minh Tuệ" không phải là tu sĩ Phật giáo, không tu tập và không là nhân sự của bất cứ ngôi chùa, cơ sở tự viện nào của Giáo hội Phật giáo Việt Nam”.

Vì vậy, để xem xét chính xác công văn trên ta phải hiểu được vị Thích Minh Tuệ là ai, như thế nào? Thế nào là tu sĩ Phật giáo?

***

Trước hết, theo tôi, trên internet người ta gọi Sư Thích Minh Tuệ là chưa chính xác. Vì “sư” theo nghĩa Hán Việt là thầy giáo, trong giới tu sĩ là người giảng đạo, truyền đạo. Qua các cuộc trò chuyện vị Thích Minh Tuệ cũng tự cho mình không phải là sư, không phải là thầy, cũng không giảng đạo, chỉ trò chuyện khi có người hỏi. Vì vậy gọi ông là tu sĩ, tức người đi tu, là đúng nhất. Ông cũng nhiều lần nói mình không thuộc bất cứ chùa nào, tổ chức nào thuộc Giáo hội PGVN, vì vậy công văn trên viết lại điều này là thừa. Còn chuyện công văn viết Thích Minh Tuệ không phải là “tu sĩ Phật giáo”? Cộng đồng mạng đã nổi giận, đã phản đối!

***

Với Thích Minh Tuệ, khi biết có công văn trên, ông nói mình không liên quan, còn Phật, Phật Pháp là của nhân loại chứ không của riêng Giáo hội PGVN. Ông chỉ là một công dân, làm theo lời Phật dạy.

Còn tôi, muốn biết Thích Minh Tuệ có phải là tu sĩ Phật giáo không thì phải xem ông có làm theo đúng Phật pháp không? Nếu ông làm đúng thì đại diện PGVN không chỉ phạm giáo pháp mà phạm cả luật pháp, vì nhà nước ta có luật tôn trọng tự do tín ngưỡng của mọi công dân.

Trước hết, về chuyện khất thực, xin ăn. Một lần trên đường Đức Phật trở lại hoàng cung thăm vua cha và người thân, ngài cũng khất thực. Vua cha thấy vậy rất xót xa, hỏi ý “Con là thái tử, sơn hào hải vị không thiếu sao con lại phải đi ăn xin như vậy?” Đức Phật trả lời đại ý: “Khất thực là một pháp tu chủ yếu, để tạo phúc cho người bố thí mình, đồng thời xoá bỏ đi cái tôi kiêu mạn, cũng là một pháp tu”. Nghe nói, GHPGVN đã quy định, hiện nay không cho phép các nhà sư đi khất thực. Như vậy, xem chừng chính GHPGVN đã không theo lời Phật dạy, còn Thích Minh Tuệ thì đã thực hành đúng theo chánh Pháp của ngài.

Khi dạy con trai mình tập thiền, Đức Phật cũng nói ý phải xoá bỏ cái tôi kiêu mạn, hạ mình xuống thấp nhất, hãy coi mình như mặt đất, người ta có thể quăng rác, quẳng xú uế lên mà vẫn an nhiên, tự tại. Với Thích Minh Tuệ, người ta thấy lạ là ông xưng “con” với tất cả mọi người, thì ra đó cũng là cách ông hạ mình xuống “thành mặt đất” như lời dạy của Đức Phật.

Về chuyện khổ hạnh, thời Thái tử Tất Đạt Đa tu luyện cho rằng thực hành phương pháp khổ hạnh cực đoan là sẽ  đắc đạo. Ngài đã tích cực thực hiện, ở trong rừng núi, ngày chỉ ăn vài hạt đậu, uống vài giọt nước, v.v… Cơ thể ngài gầy xác xơ đến mức, tay chạm da bụng sẽ chạm được vào cả cột sống, rung chân, tay những sợi lông cũng rụng ra, v.v… Và khi đến tận giới hạn của cái chết, ngài đã tỉnh ngộ, tu kiểu này mình chết mất tiêu rồi còn đâu mà đắc đạo. Ngài đã uống một bát sữa của cô thôn nữ cúng dường rồi ngộ ra con đường Trung đạo, như lên dây đàn, chùng quá không thành tiếng, căng quá sẽ đứt, chỉ vừa phải mới cho ra tiếng đàn tuyệt diệu. Trung Đạo là phương pháp thành tựu không chỉ cho tu luyện mà còn cho tất cả các lĩnh vực đời sống. Và rồi chính thiền định đã giúp ngài đắc đạo.

Thích Minh Tuệ cho biết ông tu theo hạnh đầu đà, một pháp tu có thể là khắc khổ nhất nhưng vẫn theo con đường Trung Đạo, so với pháp tu khắc khổ cực đoan mà Thái tử Tất Đạt Đa đã thực hành thì chưa là gì.

Nhưng việc ngày ăn chay một bữa, choàng y ghép từ các mảnh vải cũ, đi bộ, ngủ ngồi ở nghĩa trang, nhà hoang, gốc cây, hang đá… nếu không bị bệnh thần kinh, bình thường như Thích Minh Tuệ mà làm được như vậy, làm một cách an nhiên, tự tại, còn thấy hạnh phúc nữa thì ông đúng là không phải là một người thường. Ông phải hiểu biết sâu sắc Đạo Phật, tin tưởng sâu sắc Đạo Phật, phải buông bỏ được tất cả, gột rửa được tất cả tham, sân, si của Đời thì mới làm được. Qua một số cuộc trò chuyện, tôi thấy ông đã là người như thế. Người ta có thể trình diễn để mưu cầu điều gì đó, nhưng chỉ với thời gian ngắn, còn Thích Minh Tuệ đã tu hành 6 năm rồi. Dù Đời có những bất ngờ không thể tưởng tượng được, nhưng tôi có nhiều sự tin tưởng Thích Minh Tuệ là một vị chân tu.

***

Trong Công văn của Giáo hội PGVN có viết "… một số người đã sử dụng hình ảnh đi bộ của ông Lê Anh Tú tạo sự hiếu kỳ, tạo nên hiệu ứng câu view và có nhiều bình luận xuyên tạc đời sống tu hành của tăng ni, phật tử Giáo hội Phật giáo Việt Nam". Điều này thì vừa đúng vừa không đúng.

Cho cả Giáo hội PGVN, tất cả các tu sĩ thuộc Giáo hội PGVN là xấu hết thì đúng là sai. Nhưng với nhiều chuyện đã xảy ra trong sinh hoạt Phật giáo thì những lời phê phán đó xem chừng không phải là “xuyên tạc”.

Như vụ Chùa Ba Vàng trưng bầy “xá lợi tóc Phật” kêu gọi Phật tử đến cúng dường để hưởng phước báu muôn đời chẳng hạn.

Tôi cũng đã viết bài “Doanh nghiệp chùa”. Ở Việt Nam ta có hiện tượng thi nhau xây chùa, chùa đẹp đẽ cao sang như cung điện. Người ta thích đứng đầu, thích là độc nhất vô nhị, thích lập kỷ lục, nên mới xây chùa to nhất, đúc tượng Phật, tượng Quán Thế âm Bồ Tát to nhất, đẹp nhất. Nhưng họ đã quên mất rằng Phật Tổ là Thái tử đã từ bỏ cung vàng, điện ngọc, vợ đẹp, con thơ, hành khất, tu luyện, tìm đạo cứu đời. Những sự kiện quan trọng nhất của cuộc đời Ngài không xảy ra nơi cung vàng, điện ngọc mà toàn dưới tán cây ngoài thiên nhiên. Như ngài đản sinh bên gốc cây vô ưu, vườn Lâm tì ni; Ngài giác ngộ, đắc đạo bên gốc cây bồ đề ở Bồ Đề Đạo Tràng (Bodhgaya). Và cuối cùng ngài nhập Niết Bàn dưới tán cây Sàla trong cánh rừng ven phía Nam Thành phố Câu-thi-na (kuṣinagara).

Khi có đệ tử hỏi ý ngài xuất gia như vậy thì ngôi thái tử cùng cung vàng, điện ngọc ngài có trao lại cho con trai không? Ngài trả lời ý rằng “Các thứ ta đã bỏ đi, không màng đến thì sao ta lại có thể trao cho con trai yêu quý của ta được?”

Thực tế ở ta, các lễ hội người ta đi đông như kiến nhưng không hiểu đạo là gì, họ đi cầu xin lợi lộc là chính, còn tìm cách hối lộ cả Trời, Phật. Vì thế mới có chuyện cổng phủ, cổng chùa có rất nhiều bàn mua bán, đổi tiền lẻ, toàn mới tinh, kẹp chì, để người dân đặt tiền, dán tiền vào tay, vào người tượng phật, ném tiền lẻ bừa bãi.

Còn tiền công đức có chuyện thất thoát, mất mát. Có chuyện nhà sư dùng tiền công đức mua xe, điện thoại quá sang trọng; có người còn gửi tiền về quê xây nhà, tậu trang trại… Ông Đỗ Đức Dục, một cán bộ làm ngành Ngân hàng, nơi nhận tiền gửi công đức của rất nhiều ngôi chùa lớn, nhỏ cho rằng, con số tiền công đức thống kê là khoảng 200-300 tỉ đồng/năm là chưa chính xác. Ông nói: “Theo tôi, thực tế lớn hơn rất nhiều” (theo motthegioi). Chính vì vậy mới có những chuyện tai tiếng. Năm 2014, một ông sư tu tại chùa ở Hải Dương khoe xe MayBack, khoe iPhone 6, điện thoại Vertu và những tài sản mình có trên facebook cá nhân, sau thanh minh là quảng cáo hộ người khác. Một ông sư ở Bắc Ninh thì “chơi” chiếc xe Ford Mustang (khoảng 2 tỉ đồng). Nhà sư Thích Thanh An, chùa Nôm, Hưng Yên nói:“Tôi thấy mấy trường hợp đó còn ít đấy. Có chùa, tôi biết, nguồn thu chỉ trong tháng sau Tết và dịp lễ hội đã có 30 tỉ đồng. Ở đó, có vị riêng dàn xe sở hữu đã trị giá 100 tỉ đồng với hơn 10 chiếc và tiền xăng một năm đi đã tốn gần 500 triệu đồng”. Một doanh nhân ở Hà Nội cũng hay đi lễ chùa kể, tháng trước, anh vào công tác tại TP Hồ Chí Minh, anh em tổ chức đi vào thăm một ngôi chùa lớn ở thành phố. Chúng tôi rất bất ngờ khi thấy nhà chùa đưa cả 2 xe Lexus 570 mới coóng ra đón anh em, nhưng vẫn thiếu nên một ông trong ban quản lý chùa lại gọi thêm một chiếc nữa ra đón. “Lexus 570 cũng là xe sang, khá đắt tiền không phải xe hạng sang nhất nhưng có đến 3 chiếc mà theo tôi biết nhà chùa còn vài cái y như vậy nữa, cũng đủ biết nhà chùa rất biết chơi”, anh nói. (Cũng theo motthegioi).

Như vậy chùa chiền có nơi đã thành doanh nghiệp, dân đi chùa đông lại không hiểu đạo là gì, quan chức lấy tiền tham nhũng mua lễ vật đến chùa cầu lên ghế để tham nhũng tiếp và nhiều hơn. Tất cả là do không hiểu đạo, không biết luật nhân quả nên không sợ quả báo.

Nhưng đạo là gì? Học ở đâu? Cả những người có trọng trách và Giáo hội Phật giáo VN hiện không trả lời được!

20-5-2024

ĐÔNG LA

KÍNH CHIẾU YÊU!

 


Tiến sĩ Tô Văn Trường

Nhiều người hỏi, tôi cứ lần khân mãi không bình luận về nhà sư Thích Minh Tuệ, vì mình không am hiểu về đạo Phật. Nhưng để phúc đáp bạn bè, thôi thì tôi cứ xin nói theo thiển ý dưới góc nhìn đơn giản như sau:

Một người tu hành theo Phật pháp, lẽ thường xuất gia thì danh từ chung gọi là nhà sư như sư thầy, sư ông, tại gia gọi là cư sỹ, tu sỹ. Các từ đại đức (Bhadanta), thượng tọa (Sthavira – Thera), hoà thượng (Upadhyaya – Upajjhaya) vốn được dùng để tôn xưng một vị tu hành theo Phật giáo đã đạt thành quả nhất định. Về sau, những từ này trở thành tên các cấp bậc (giáo phẩm) khác nhau, do Giáo hội Phật giáo phong.

Khi các vị đại đức, thượng tọa học qua trường thì cũng được cấp học vị cử nhân, thạc sỹ, tiến sỹ. Như vậy, có thể hiểu, “sư”, “nhà sư” là cách nói dân gian chỉ người tu hành. Còn đại đức, thượng toạ, hoà thượng là giáo phẩm do Giáo hội Phật giáo phong.

Công dân Lê Anh Tú (Thích Minh Tuệ) không nhận mình là sư mặc dù trên thực tế có thời gian ông đã ở chùa, lấy pháp danh Thích Minh Tuệ và trên thực tế đang tu tập theo Đạo Phật. Nhưng người nói tiếng Việt dùng từ “sư” gọi ông là đúng nghĩa. Không nhất thiết cứ phải thuộc “biên chế” của một chùa nào mới là sư. Tục ngữ chẳng đã có câu “Thứ nhất là tu tại gia, thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa” là gì?

Nhà sư Minh Tuệ chọn cách tu khổ hạnh (hạnh đầu đà), âm thầm miệt mài 6 năm qua đầu trần, chân đất, đi khắp mọi miền của đất nước chỉ ăn 1 bữa cơm chay vào buổi trưa , ngủ ngoài trời, không nhận tiền bạc, khiêm tốn xưng “con” với mọi người. Thích Minh Tuệ xuất hiện như một luồng ánh sáng chiếu kỳ lạ, đã soi thấu những hào quang giả tạo của giới tu “thích cúng dường” , “thích tí khí ” của một bộ phận không nhỏ Phật giáo hiện nay.

Trong Phật giáo Việt Nam thời hiện đại có thiền sư Thích Nhất Hạnh nổi tiếng toàn thế giới. Nhưng tăng đoàn của Ngài không thuộc Giáo hội phật giáo Việt Nam. Nói theo công văn của Ban trị sự  Giáo hội thì cả thiền sư Thích Nhất Hạnh và các đệ tử của Ngài cũng không phải là "tu sỹ phật giáo" vì không có trong danh sách tăng ni do Giáo hội quản lý.

Thầy Minh Tuệ là một hiện tượng, một năng lực, một nhân cách không tầm thường. Tuy nhiên, câu chuyện chính ở đây không phải là về sư Minh Tuệ, mà là về những bức xúc của dư luận lâu nay trước quá nhiều nhiễu nhương, tiêu cực trong giới tu hành buôn chùa bán Phật. Những nỗi niềm, khát khao của dân chúng về các vị chân tu và về đạo đức xã hội đã tích tụ đủ lớn để thành một kho xăng.

Nhưng ngọn lửa châm vào kho xăng ấy không phải là ngài Minh Tuệ mà lại chính là cái công văn tai hại của Ban trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam “quốc doanh”.

Nói tóm lại: Ngài Thích Minh Tuệ quá đơn giản, quá chất phác, thậm chí còn hơi ngây ngô nhưng lại trở thành một loại thuốc thử khiến cho các loại bệnh tật, các loại "ma tăng" hiện nguyên hình và cả hệ thống “Phật giáo quốc doanh” rung chuyển. Hay nói cách khác, dư luận gọi Ngài là “kính chiếu yêu” cũng là điều dễ hiểu.

20h ngày 27.5.2024