Đền Chín Gian
Bài viết của Ngo Hoai Chung
Như Xuân là huyện miền núi nằm ở phía Tây
Nam của tỉnh Thanh Hóa, cách trung tâm tỉnh khoảng 60km. Như Xuân phía Bắc giáp
Thường Xuân, phía Đông giáp Như Thanh, phía Tây và Nam giáp tỉnh Nghệ An.
Trước khi giải thể cấp huyện, Như Xuân có
diện tích tự nhiên 721,72 km2, dân số khoảng
80.000 người gồm 4 dân tộc là Thái, Kinh, Thổ, Mường, trong đó dân tộc
Thái chiếm khoảng 43%, dân tộc Kinh khoảng 37%, dân tộc Thổ khoảng 14,5% và dân
tộc Mường khoảng 5,5%. Trục đường giao thông chính chạy qua huyện là đường Hồ
Chí Minh và quốc lộ 45.
Danh xưng Như Xuân lần đầu xuất hiện và
được đặt cho một đơn vị hành chính là vào năm Thành Thái thứ 6 (1894), đó là
châu Như Xuân. Sau Cách mạng tháng Tám 1945, xóa bỏ châu phủ, đổi thành huyện
Như Xuân. Đến năm 1996, thực hiện Nghị định 72/CP của Chính phủ, chia huyện Như
Xuân thành hai huyện là Như Xuân và Như Thanh.
Như vậy, so với các huyện của tỉnh Thanh
Hóa, Như Xuân trở thành đơn vị hành chính khá muộn. Trong thư tịch nhà Nguyễn,
bản “Đồng Khánh địa dư chí” được làm thời vua Đồng Khánh (1886-1887) chưa có
tên Như Xuân. Lúc bấy giờ vùng đất Như Xuân thuộc huyện Nông Cống, nằm trong
phủ Tĩnh Gia. Thời ấy huyện Nông Cống có 12 tổng, 221 xã, thôn, tộc, sở, trang,
giáp, ấp thì có 2 tổng: Lân Du 7 xã, Lãng Lăng 5 xã chính là phần lớn vùng đất Như Xuân sau này.
Sách “Đại Nam nhất thống chí” do Quốc sử
quán triều Nguyễn biên soạn vào đời Tự Đức năm thứ 18 (1865) hoàn tất vào năm
Tự Đức thứ 35 (1882), được trùng tu vào đời Thành Thái (1889) và hoàn thành vào
đời Duy Tân thứ 3 (1909). Trong “Đại Nam nhất thống chí tỉnh Thanh Hóa”, tập
thượng, ở phần Kiến trí duyên cách, đã có châu Như Xuân. Sách viết: “Châu Như
Xuân ở phía tây nam tỉnh, cách 47 dặm. Phía đông tới huyện Nông Cống phủ Tĩnh
Gia; phía tây giáp châu Thường Xuân; phía nam tiếp phủ Quỳ Châu tỉnh Nghệ An;
phía bắc liền huyện Lôi Dương phủ Thọ Xuân. Nguyên trước là đất của huyện Nông
Cống và châu Thường Xuân. Năm Thành Thái thứ 6 (1894) tách 2 tổng Du Xuân
(nguyên trước tên là Lân Du) và Lãng Lăng trong huyện Nông Cống, cùng mấy xã
ven núi lập ra 3 tổng Xuân Du, Hạ Thưởng và Lãng Lăng. Lại lấy thêm tổng Như
Lăng trong châu Thường Xuân cho thuộc thêm vào, đặt ra tên châu ngày nay và đặt
chức Châu úy. Hiện nay lãnh 4 tổng 34 xã thôn”.
Theo “Địa chí Thanh Hóa” vùng đất Như
Xuân thời thuộc Hán là miền đất thuộc huyện Cư Phong. Thời Tam Quốc, Lưỡng Tấn
là miền đất thuộc huyện Tùng Nguyên. Thời Tùy – Đường là miền đất thuộc huyện
Cửu Chân. Thời Đinh, Lê, Lý vẫn giữ như Tùy Đường. Thời Trần – Hồ là miền đất
thuộc huyện Nông Cống (châu Cửu Chân). Thời Lê và Nguyễn là 2 tổng Xuân Du và
Lãng Lăng huyện Nông Cống. “Thành Thái thứ 5 (1893), tách hai tổng Xuân Du và
Lãng Lăng của huyện Nông Cống đặt làm châu Như Xuân” (Sách “Đất nước Việt Nam
qua các đời” của tác giả Đào Duy Anh). Như vậy, về năm thành lập châu Như Xuân
sách “Đại Nam nhất thống chí” chép là năm Thành Thái thứ 6 (1894), còn tác giả
Đào Duy Anh được dẫn trong Địa chí Thanh Hóa lại cho là năm Thành Thái thứ 5
(1893). Theo tôi, “Đại Nam nhất thống chí” do Quốc sử quán triều Nguyễn biên
soạn, là bộ sử chính thống của nhà Nguyễn nên có độ tin cậy cao hơn. Vì vậy có
thể xác định danh xưng Như Xuân để đặt cho châu mới thành lập là năm Thành Thái
thứ 6 (1894). Sau năm 1996, sau khi tách ra thành lập huyện mới Như Thanh, thì
đơn vị hành chính cấp xã huyện Như Xuân có nhiều biến động, nhiều lần tách nhập
các xã, thị trấn. Đến trước khi giải thể, ngày 1 tháng 7 năm 2025, Như Xuân có
15 xã và thị trấn Yên Cát.
Như Xuân là huyện miền núi có tài
nguyên rừng phong phú, hệ sinh thái đa dạng, đất đai phì nhiêu phù hợp phát
triển kinh tế rừng và nông nghiệp. Như Xuân cũng là vùng đất có nhiều cảnh quan
thiên nhiên độc đáo, những thắng cảnh hấp dẫn. Là vùng đất có nhiều tộc người
sinh sống nên văn hóa của Như Xuân đa sắc màu và độc đáo.
Về đặc điểm tự nhiên núi sông, Như Xuân có
các ngọn núi lớn như núi Đá Chai (xã Hóa Quỳ), núi Bù Mùn (xã Thượng Ninh), núi
Bù Kha (Thanh Quân), núi Mu (Thượng Ninh). Những người am hiểu miền núi Thanh
Hóa đều biết, Như Xuân từng nổi tiếng là một vựa lim của Thanh Hóa. Gỗ lim Như
Xuân có vân xoáy đẹp mê hồn, càng để lâu càng bóng lên nước và cứng như thép
nguội. Thời trước những gia đình khá giả có nếp nhà, bộ bàn ghế, chiếc tủ bằng
gỗ lim Như Xuân là đắng cấp và tự hào lắm. Tuy nhiên, đến nay do việc phá rừng,
các rừng lim đã vắng bóng trên đất Như Xuân. Như Xuân có con sông duy nhất là
sông Chàng bắt nguồn từ các khe suối thuộc xã Thanh Quân chảy qua xã Thah Phong
trước khi đổ vào sông Hiếu của tỉnh Nghệ An.
Như Xuân có khá nhiều thắng cảnh thiên
nhiên nổi tiếng, có sức hấp dẫn khách du lịch, nhất là du lịch sinh thái, khám
phá và du lịch cộng đồng. Từ đỉnh Bù Mùn với độ cao hơn 1.000m so với mực nước
biển, nhiều dòng suối hợp lại, chảy qua 2 xã tạo thành 3 ngọn thác nổi tiếng là
thác Thanh Lâm ở xã Thanh Phong, thác Đồng Quan và thác Cổng Trời ở xã Hóa Quỳ.
Trong các ngọn thác này, thác Cổng Trời ở làng Chuối, Hoá Quỳ là điểm đến được
nhiều du khách lựa chọn vì cảnh sắc hoang sơ kỳ vĩ, nằm giữa rừng nguyên sinh,
cây cối xanh tốt um tùm, hệ thực vật đa dạng và vẻ đẹp hùng vĩ của thác nước.
Thác gắn liền với truyền thuyết về Nàng Xuân (Xuốm Náng) gắn với tục thờ nữ
thần Nước của đồng bào dân tộc Thái. Truyện kể rằng nữ thần Nàng Xuân vốn là
một con thuồng luồng có thân rắn kỳ dị, biết biến hóa, có mào đỏ. Nàng yêu một
nam thần tên là Tạo, dòng giống chim ở trên đỉnh núi Bù Mùn nên thường theo một
đường ống ở khúc ghềnh của thác Cổng Trời thông lên núi để gặp nam thần. Hiện nay,
trên khúc ghềnh của thác Cổng Trời vẫn có một địa điểm thờ Nàng Xuân. Truyền
thuyết này không chỉ thể hiện đời sống tín ngưỡng phong phú của cư dân nơi đây
mà còn góp phần tạo nên giá trị văn hoá đặc sắc cho địa danh thác Cổng Trời
cũng như khẳng định ý nghĩa, sự gắn bó thiêng liêng, tầm quan trọng của thác
nước này đối với đồng bào dân tộc Thái sinh sống từ lâu đời trong những bản
làng nơi đây. Thác Cổng Trời có chiều cao hơn 30m, chân thác rộng, dòng nước
thác đổ xuống những bậc đá tạo nên âm thanh sôi động như một bản hoà ca bất tận
của rừng già. Những cánh rừng rộng lớn nơi đây quanh năm xanh tốt với lớp lớp
cây cổ thụ gối lên nhau như những tầng mây tăm tắp đến tận chân trời. Rừng già
xanh tươi, thác nước rào rào, không khí thanh sạch cùng dòng nước mát lành tạo
nên một khung cảnh sơn thuỷ hữu tình không nỡ rời đối với bất kì ai có cơ hội
tới thăm thác Cổng Trời.
Thác Đồng Quan ở xã Hóa Quỳ được bao quanh
bởi khu rừng nguyên sinh, cảnh quan rất phong phú, dòng nước từ trên cao dội
xuống trắng xóa, tạo ra những bể bơi thiên nhiên với dòng nước sâu và trong vắt
dưới chân thác, tạo ra khung cảnh lung linh giữa núi rừng hang sơ. Ngoài các
ngọn thác trên, núi rừng Như Xuân còn có thác Mồng ở xã Thanh Quân, một xã giáp
Nghệ An cũng là một điểm đến hấp dẫn đối với những tín đồ của du lịch khám phá.
Vườn quốc gia Bến En nằm giữa hai huyện
Như Xuân và Như Thanh, một “báu vật” với thiên nhiên hùng vĩ, hệ sinh thái đa
dạng và cảnh quan làm say đắm lòng người. Dòng sông Mực đã bị đắp đập chặn lại,
tạo nên hồ sông Mực trong không gian vườn quốc gia đã làm nên một “Vịnh Hạ Long
trên cạn” của Thanh Hóa.
Vườn quốc gia Bến En được thành lập ngày
27/01/1992, có tổng diện tích tự nhiên 14.634ha, gồm 16 tiểu khu sinh thái và
vùng hồ sông Mực chứa 40 triệu m3 nước. Toàn bộ khu lòng hồ phía trên đập gồm
có 21 hòn đảo lớn nhỏ được bao bọc bởi ba cánh cung núi đá, đồi đất, rừng cây
tạo ra cảnh quan sơn thủy hữu tình. Phía dưới đập là dòng sông Mực uốn quanh
núi đá tạo nên một quần thể hài hòa nên thơ. Vườn có hệ sinh thái rất đa dạng,
phong phú. Theo kết quả điều tra cơ bản khu hệ động, thực vật rừng Bến En đến năm 2013, hệ thực vật gồm 6 ngành, 7 lớp,
77 bộ, 1.417 loài thực vật thuộc 191 họ với 57 loài quý hiếm nằm trong Sách đỏ
thế giới, 49 loài nằm trong Sách đỏ Việt Nam năm 2007, trong đó có một số loài
ở mức độ cực kỳ nguy cấp và nguy cấp trên phạm vi toàn thế giới như: trầm
hương, táu mặt quỷ, re hương, vệ hài, kim cang Poilane, sao hải nam, sao hòn
gai, táu nước, lim xanh… Bên cạnh đó, động vật có 1.530 loài gồm: 102 loài thú,
277 loài chim, 66 loài bò sát, 47 loài ếch nhái, 97 loài cá, 50 loài động vật
nổi, 163 loài động vật đáy và 728 loài côn trùng với nhiều loài quý hiếm như:
gấu ngựa, vượn đen má trắng, cu li lớn, cu li nhỏ, khỉ vàng, rắn hổ mang chúa… Trong
vườn quốc gia này, ngoài những cánh rừng xanh và hệ thống động thực vật phong
phú, Bến En còn có những dãy núi đá vôi với nhiều hang động tự nhiên lung linh,
kì vĩ như hang Ngọc, hang Dơi, hang Xuân Thái… trong đó nổi tiếng nhất là hang
Ngọc. Với những gì thiên nhiên ban tặng, Vườn Quốc gia Bến En mang một ý nghĩa
sinh thái đặc biệt, đồng thời cũng đem đến một tiềm năng du lịch to lớn. Với đa
dạng sinh học và cấu trúc là địa hình rừng núi và hồ nước nên khí hậu ở đây rất
mát mẻ, trong lành. Ngoài khu vực hồ, bán đảo và rừng, Bến En còn có dãy núi đá
vôi, với hệ thống hang động đẹp còn giữ được nét đẹp nguyên sơ như hàng Ngọc,
hang Cận. Đến với khu du lịch Bến En, du khách được trải nghiệm rất nhiều hoạt
động du lịch đặc sắc bằng hai con đường bộ và đường thủy như: đi thuyền ngắm
cảnh trên sông Mực, tham quan các đảo và hang động, tham quan các làng bản ở
khu vực vùng đệm, tìm hiểu cuộc sống của người dân bản địa và giao lưu văn hoá
với người dân ở đây; cắm trại qua đêm ở khu ngoài rừng; chiêm ngưỡng hoàng hôn
buông xuống trên sông Mực và ngắm nhìn những đàn cò trắng bay về vùng ven sông
để tìm mồi,... Du khách cũng có thể lựa chọn đi bộ theo con đường bê tông trải
dài khoảng 5km vào sâu khám phá cánh rừng kì vĩ và đầy bí ẩn. Hiện nay, tập
đoàn Sun Group đang có dự án đầu tư xây dựng khu Vườn Quốc gia Bến En thành một
quần thể khu du lịch nghỉ dưỡng và vui chơi giải trí cao cấp tại với nhiều hạng
mục được chia làm hai khu vực là khu vực tự nhiên (500 ha) và khu vực sinh hoạt
văn hóa. Trong tương lai, khi dự án này hoàn thành, Vườn Quốc gia Bến En chắc
chắn sẽ địa điểm lí tưởng thu hút rất nhiều khách du lịch trong và ngoài nước
đến với Thanh Hoá. Vườn Quốc gia Bến En đã được công nhận là di tích thắng cảnh
của tỉnh Thanh Hóa theo quyết định số 345/QĐ-UBND ngày 30/01/2015.
Đền Chín Gian, còn có tên khác là đền thờ
Trời, toạ lạc trên đỉnh đồi Pú Pỏm (đồi Tròn) thuộc địa phận thôn Thống Nhất,
xã Thanh Quân. Đền Chín Gian là một công trình tâm linh gắn liền với lễ hội
dâng trâu tế trời - một lễ hội truyền thống của người Thái. Đền thờ Pò Phạ
(Ngọc Hoàng), Náng Xỉ Đả (con gái Ngọc Hoàng) và Tạo Ló Ỳ (người có công khai
lập chín mường của người Thái ở vùng phía Tây Thanh Hóa - Nghệ An). Đền Chín
Gian xa xưa còn có tên gọi là “Tến Xớ Quái” (Đền hiến trâu) làm bằng tre nứa
được dựng tại mường Chiếng Ván của người Thái, đến năm 1937, được di chuyển về
đây. Đền có tên gọi là Đền Chín Gian vì kiến trúc của đền là một nhà sàn bằng
gỗ có 9 gian, mỗi gian trong đền tượng trưng cho một mường của người Thái. Năm
2016, đền được phục dựng lại theo kiến trúc nhà sàn của người Thái với 2 tầng
và 9 gian thờ. Trong không gian di tích, bên cạnh đền Chín Gian còn có một số
công trình tâm linh khác như miếu thờ thần Thổ địa, tượng Phật A Di Đà, nhà thờ
Phật, nhà thờ Mẫu Thượng Ngàn.…nhằm đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa tâm linh,
tín ngưỡng, tôn giáo của du khách thập phương. Dưới sân đền, có tượng 9 con
trâu, trong đó 6 trâu đen, 3 trâu trắng. Trước mỗi tượng trâu đá có 1 chậu nước
tượng trưng cho 9 cái giếng. Phía dưới chân đồi Pú Pỏm có dòng suối Tốn, thung
lũng Phà Lẽm, bến Tá Tạo (bến Quan), bến Tà Phạ (bến Tắm Trâu của Trời). Hằng
năm, tại đền, vào tháng Giêng âm lịch, đồng bào dân tộc Thái tổ chức lễ hội
dâng trâu tế trời. Trong lễ hội, nhiều nghi lễ độc đáo mang đậm bản sắc văn hoá
tín ngưỡng của đồng bào dân tộc Thái được tái hiện. Đây cũng là lễ hội thu hút
rất nhiều du khách thập phương về thăm di tích đền Chín Gian.
Đình Thi, còn có tên là đền Thi, nằm ở thôn
Trung Thành, xã Như Xuân. Đình được xây dựng từ thế kỉ XV thờ hai vị thần là
thần nhà Trời Dương Cảnh bạch y Thượng đẳng tối linh thần và Thành hoàng làng
Lê Phúc Thành. Tương truyền, Lê Phúc Thành tên thật là Cầm Bá Thành, là một vị
tướng lĩnh người Thổ có công phò trợ Lê Lợi trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Sau
khi đất nước sạch bóng quân thù, vua Lê Thái Tổ ban cho ông quốc tính đổi tên
thành Lê Phúc Thành, giao cho ông cai quản một vùng đất rộng lớn tương ứng với
xã Như Xuân ngày nay. Sau khi tiếp quản đất đai, ông cùng với 4 người con trai
của mình tiến hành khai hoang, mở làng, chiêu mộ nhiều người về đây sinh sống
và sản xuất. Nhiều người Kinh, người Thái, người Mường,... khi về đây đều cải
họ thành họ Lê, cùng với người Thổ bản địa tôn Lê Phúc Thành là tổ gốc của mình
và thờ ngài ở đình Thi. Từ khi đình Thi thờ Lê Phúc Thành được xây dựng, đến
những kì lễ, nhân dân tập trung về đình để dâng hương tế lễ thành hoàng làng.
Trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử, đình Thi cũ không còn. Năm 1995, đình
được xây dựng lại trên một nền đất bằng phẳng, rộng lớn, bên phải là cánh đồng,
bên trái xóm làng và phía sau là dãy núi núi Mùn Tượng (núi Chóp Nón). Đình có
cổng tam quan uy nghi, bề thế. Bước qua cổng tam quan, ở ngay bên tay phải, du
khách sẽ được nhìn ngắm những nếp nhà cổ đơn sơ của người Thổ. Đi qua một khoảng
sân rộng với những cây hoa sứ, hoa đại được uốn theo nhiều hình thù khác nhau
mang sự trang nghiêm, du khách sẽ đến nơi thờ tự là khu ngôi nhà gỗ lim 3 gian
được tôn cao so với sân 50cm chia thành nhà tiền đường và hậu cung. Nhà Tiền
đường chia thành 3 ban thờ: ban hữu thờ 4 người con trai của ông; ban tả thờ
Mẫu; ban còn lại nằm ở đầu hồi phía Nam nhà tiền đường thờ Dương Cảnh Bạch Y
thượng đẳng tối linh thần và Thổ thần. Thành hoàng làng Lê Phúc Thành được thờ
ở Hậu cung với 3 lớp hương án. Ngai thờ và thánh vị được đặt ở lớp trong cùng.
Lớp hương án lớp thứ 2 có đèn thờ, hạc đồng thắp nến, đỉnh đồng. Lớp thứ 3 có
đặt bát hương bằng gốm. Hai bên hương án được trang trí bằng chiêng (phía bên
trái) và trống (phía bên phải). Phía trên hậu cung còn có tàn lọng màu vàng,
phía trước treo hai bức trướng. Trong đình hiện nay còn lưu giữ sắc phong từ
thời vua Khải Định và Bảo Đại trao năm 1922 và 1934, và đặc biệt là 4 bức
trướng dệt bằng lụa ghi lại công đức của Lê Phúc Thành được thêu những hoa văn
trang trí tứ linh, tứ quý tinh xảo mang đậm dấu ấn mĩ thuật cuối thời Lê đầu
thời Nguyễn có giá trị nghệ thuật cao. Đình Thi còn là nơi diễn ra lễ hội đình
Thi truyền thống vào tháng 3 âm lịch hằng năm. Đây là lễ hội tôn vinh công đức
của Thành hoàng làng Lê Phúc Thành, cũng là dịp để người Thổ tổ chức lễ hội tế
trâu truyền thống và biểu diễn một số trò chơi, trò diễn dân gian.
Chùa Yên Cát, còn gọi là Thiền tự Yên
Cát hoặc chùa Di Lặc, nằm ở thôn Thăng Bình, xã Như Xuân. Chùa nằm ở thị trấn
Yên Cát cũ nên còn được gọi là Thiền tự Yên Cát. Chùa có từ xa xưa nhưng trải
qua thời gian bị phá huỷ. Để bảo tồn và phát huy di tích, đáp ứng nhu cầu sinh
hoạt văn hoá tâm linh của nhân dân trong huyện, năm 2018 chùa đã được xây lại.
Hiện nay chùa đã khang trang hơn, có khu nhà chính thờ Tam bảo, thờ Mẫu, thờ
Tổ. Chùa toạ lạc trên một quả đồi, nhìn xuống hồ nước, cảnh vật xung quanh “sơn
thuỷ hữu tình”. Điểm nhấn của chùa là hệ thống tượng Phật: tượng Đức Phật bổn
sư Thích Ca Mâu Ni với chiều cao 21m tính từ chân đế đến đỉnh, bề ngang 2 vai
tôn tượng đức Phật là 10m, được xây dựng bằng xi măng cốt thép; tượng Phật Di
Lặc lớn cao 7m rộng 10,5m chất liệu xi măng, tượng Phật Di Lặc cùng 12 con giáp
cao 1m3. Chùa là nơi thu hút đông khách thập phương đến chiêm bái.
Đến Như Xuân ta sẽ ghé thăm chợ Yên Cát,
nằm ở trung tâm xã Như Xuân. Đây là một chợ cổ nổi tiếng được hình thành từ xa
xưa mang đặc trưng của một chợ vùng núi Như Xuân, nơi sinh sống của rất nhiều
dân tộc như Thái, Thổ, Mường, Kinh,... Vì vậy chợ Yên Cát không chỉ là trung
tâm buôn bán, giao thương mà còn là nơi giao lưu văn hoá giữa các dân tộc Trong
chợ có nhiều sạp hàng bày bán rất nhiều mặt hàng phong phú, đa dạng. Ngoài
những mặt hàng thiết yếu phục vụ đời sống hàng ngày của nhân dân, phải kể đến
những sản vật của các dân tộc thiểu số. Đến chợ, du khách dễ dàng mua được đồ
thủ công những sản phẩm lưu niệm như túi xách, ví cầm tay, khăn, váy, áo,...
được dệt thủ công với những hoạ tiết thổ cẩm đặc trưng. Ngoài ra, những mặt
hàng nông sản cũng được bày bán rất nhiều ở chợ như gà, cá, rau, gạo,... Chợ
còn bày bán những đặc sản của núi rừng như măng rừng, thịt lợn mán, lá sắn, mật
ong, lá thuốc nam, rượu cần…
Như Xuân là vùng đất giao thoa văn hóa giữa
dân tộc Thái, Thổ, Mường và Kinh khá rõ nét, nhất là trong kiến trúc nhà ở,
phong tục tập quán, văn hóa ẩm thực. Đến thăm Như Xuân ta sẽ thưởng thức cảnh
sắc đặc trưng nơi vùng sơn cước với những nếp nhà sàn ẩn hiện trong sương và
những con suối nhỏ chạy ven chân núi. Ta sẽ tìm hiểu và thực hành tín ngưỡng,
cuộc sống của các dân tộc nơi đây. Ta sẽ có cơ hội được thưởng thức những đặc
sản địa phương như rượu cần, cơm lam, gà nướng, canh gà lá sắn, cá suối nướng,
măng nấu chua, vịt nấu canh chua, cá mè sông Mực nướng hoặc nấu canh chua, canh
lá đắng, nem chua ống tre lợn mán, cơm lam, canh bồi…
Ngày nay, sau khi sắp xếp lại tổ chức của
bộ máy hành chính, huyện Như Xuân đã bị giải thể. Từ 16 xã và thị trấn, Như
Xuân sắp xếp thành 6 xã, đó là các xã: Như Xuân, Thượng Ninh, Hóa Quỳ, Xuân
Bình, Thanh Phong và Thanh Quân.
Ngày nay, vùng đất Như Xuân tươi đẹp, giàu
bản sắc, kết nối với khu kinh tế Nghi Sơn thuận lợi, cửa ngõ miền tây nam Thanh
Hóa đi sang tỉnh bạn Nghệ An sẽ hứa hẹn có bước phát triển mạnh mẽ trong tương
lai. Dẫu huyện Như Xuân không còn nhưng chắc chắn vùng đất này sẽ còn mãi xuân
với những cánh rừng nguyên sinh, thác nước hùng vĩ và giá trị văn hóa đặc sắc,
hấp dẫn nơi đây.
Ảnh: Thác Cổng trời, Đồng Quan.
Đền Chín Gian


Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét