XIN CHÀO VÀ CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ ĐẾN VỚI BLOGSPOT.COM CỦA LUU VAN CHUONG

Chủ Nhật, 7 tháng 8, 2016

VĂN TẾ TƯỚNG SỸ TRẬN VONG CỦA TƯỚNG QUÂN NGUYỄN VĂN THÀNH

Ông Nguyễn Văn Thành sinh ngày 13 tháng 11 âm lịch năm Mậu Dần (1758). Tiên tổ của ông người xứ Thuận Hóa, phủ Triệu Phong, huyện Quảng Điền, tổng Phú Ốc, xã Bác Vọng. Tằng tổ là Nguyễn Văn Toán dời vào Gia Định. Tổ là Nguyễn Văn Tính lại dời đến ở Bình Hòa. Cha ông là Nguyễn Văn Hiền lại dời vào Gia Định. Sử cũ ghi: "Nguyễn Văn Thành trạng mạo đẹp đẽ, tính trầm nghị, thích đọc sách, tài võ nghệ.
Văn tế tướng sĩ trận vong
(Nguyễn Văn Thành, năm 1802)
     Bài văn tế này tác giả soạn và đứng chủ tế lễ truy điệu các tướng sĩ bỏ mình trong cuộc chiến giữa Nguyễn Ánh với nghĩa quân Tây Sơn vào tháng chạp năm 1802, tại Thuận Hoá. Đây được coi là một áng văn chương tuyệt bút mà Nguyễn Văn Thành đã đóng góp cho nền văn học Việt Nam. Nhà nghiên cứu Phạm Quỳnh cho rằng: "lời đáng ghi vào vàng đá truyền đến muôn đời, khi giống giã như nhịp trống trong quân, khi tơi bời như ngọn cờ dưới nguyệt, khi mịt mù như cơn gió lốc thổi dấu kẻ tha hương, khi lập lòe như đám lửa trời soi chừng chốn cổ độ, khi hùng tráng như tiếng gươm tuốt giữa trận, khi lâm li như vượn khóc trên ngàn".
Văn tế Tướng sĩ trận vong
Lung khởi: 

Than ôi!
- Trời Đông Phố vận ra Sóc Cảnh, trải bao phen gian hiểm mới có ngày nay;
- Nước Lô hà chảy xuống Lương giang, nghĩ mấy kẻ điêu linh những từ thuở nọ,
            - Cho hay sinh là ký mà tử là quy;
            - Mới biết mệnh ấy yểu mà danh ấy thọ. 

Thích thực: 

Xót thay! Tình dưới viên mao,  phận trong giới trụ.
- Ba nghìn họp con em đất Bái, cung tên ngang dọc chí nam nhi;
- Hai trăm vây cờ cõi non Kỳ, cơm áo nặng dầy ơn cựu chủ.

            - Dấn thân cho nước, son sắt một lòng;
            - Nối nghĩa cùng thầy, tuyết sơn mấy độ.

- Kẻ thời theo cơ đích chạy sang miền khách địa, hăm hở mài nanh giũa vuốt, chỉ non Tây thề chẳng đội chung trời;
- Kẻ thời đón việt mao trở lại chốn sa cơ, dập dìu vén cánh nương vây, trông cõi Bắc quyết thu về đất cũ.

           - Nằm gai nếm mật, chung nỗi ân ưu;
           - Mở suối bắc cầu, riêng phần lao khổ.

- Trước từng trải Xiêm La, Cao Miên về Gia Định mới dần ra Khánh, Thuận, đã mấy buổi sơn phong hải lễ, trời Cao, Quang soi tỏ tấm kiên trinh,
- Rồi lai từ Đồ Bàn, Nam, Ngãi lấy Phú Xuân mà thẳng tới Thăng Long, biết bao phen vũ pháo vân thê, đất Lũng, Thục lăn vào nơi hiểm cố.

         - Phận truy tùy, ngẫm lại cũng cơ duyên;
         - Trường tranh đấu biết đâu là mệnh số.

- Kẻ thời chen chân ngựa quyết giật cờ trong trận, xót lẽ gan vàng mà mạng bạc, nắm lông hồng theo đạn lạc tên bay;
- Kẻ thời bắt mũi thuyền toan cướp giáo giữa dòng, thương thay phép trọng để thân khinh, phong da ngựa mặc bèo trôi sóng vỗ.

- Hồn tráng sĩ biết đâu miền minh mạc, mịt mù gió lốc, thổi dấu tha hương;
- Mặt chinh phu khôn vẽ nét gian nan, lấp lóe lửa trời, soi chừng cổ độ. 

Ai vãn: 

Ôi!
        - Cùng lòng trung nghĩa, khác số đoản tu,
        - Nửa cuộc công danh, chia phần kim cổ.

- Đoái là tiếc xương đồng da sắt, thanh bảo kiếm đã trăm rèn mới có, nợ áo cơm phải trả đến hình hài;
- Những là khen dạ đá gan vàng, bóng bạch câu xem nửa phút như không, ơn dầy đội cũng cam trong phế phủ.

        - Phận dù không gác khói đài mây;
        - Danh đã dậy ngàn cây nội cỏ.

- Thiết vì thuở theo cờ trước gió, thân chả quản ngàn sương đệm giá, những chờ xem cao thấp bức cân thường;
- Tiếc cho khi lỡ bước giữa dòng, kiếp đã về cõi suối làng mây, nào kịp thấy ít nhiều ơn Vũ lộ.

- Vâng thượng đức hồi loan tháng trước, đoàn ứng nghĩa dẫu Quảng, Thuận, Nghệ, Thanh cũng vậy, giội ân quang gieo khắp xuống đèo Ngang;
- Mà những người từng thượng trận ngày xưa, dắp tấu công từ Ngọ, Vị, Thân, Dậu đến giờ, treo tính tự để nằm trong lá số.

          - Ngọn còi rúc nguyệt, nơi tẻ nơi vui;
          - Dịp trống dồn hoa; chốn tươi chốn ủ.
- Đã biết rằng anh hùng thì chẳng quản, trăm trận một trường oanh liệt, cái sinh không, cái tử cũng là không;
- Nhưng tiếc cho tạo hóa khéo vô tình, ngàn năm một hội tao phùng, phận thủy có phận chung sao không có. 

Kết: 

Bản chức nay:
- Vâng việc biên phòng, chạnh niềm viễn thú. Dưới trướng nức mùi chung đỉnh, sực nhớ khi chén rượu rót đầu ghềnh;
- Trong nhà rõ vẻ áo xiêm, chạnh nghĩ buổi tấm cừu vung trước gió. Bâng khuâng kẻ khuất với người còn; tưởng tượng thầy đâu thì tớ đó.

- Nền phủ định tới đây còn xốc nỗi, vụ lòng một lễ, chén rượu thoi vàng.
- Chữ tương đồng ngẫm lại vốn đinh ninh, khắp mặt ba quân, cờ đào nón đỏ. 
        - Có cảm thông thì tới đó khuyên mời;
        - Dù linh thính hãy nghe lời dặn dỗ.

- Buổi chinh chiến hoặc là oan hay chẳng, cũng chớ nề kẻ trước, người sau, hàng trên, lớp dưới, khao thưởng rồi sẽ tấu biểu dương cho;
- Hội thăng bình đừng có nghĩ rằng không, dù ai còn cha già, mẹ yếu, vợ góa, con côi, an tập hết, cũng ban tồn tuất đủ.

       - Hồn phách đâu đều ngày tháng Thuấn, Nghiêu.                
       - Hài cốt đó cũng nước non Thang, Vũ.

- Cơ huyền diệu hoặc thâm trầm chưa rõ, thiêng thời về cố quận, để hương thơm lửa sáng, kiếp tái sinh lại nhập cửa tiền quân;
- Niềm tôn thân dù sinh tử chớ nề, linh thời hộ Hoàng triều cho bể lặng sông trong, duy vạn kỷ chửa dời ngôi bảo tộ.  HẾT
Đôi nét về ông
Nguyễn Văn Thành - 1802

Lời giới thiệu:
"Văn tế tướng sĩ trận vong" là một bài văn tế do Tiền Quân Nguyễn Văn Thành, là đại thần có công lớn trong công cuộc thiết lập và xây dựng triều Nguyễn soạn và đứng chủ tế lễ truy điệu các tướng sĩ bỏ mình trong cuộc chiến giữa Nguyễn Ánh với nghĩa quân Tây Sơn vào tháng chạp năm 1802, tại Thuận Hóa.
Nhà giáo Dương Quảng Hàm viết:
“Bài Văn tế Văn tế tướng sĩ trận vong của quan Tiền quân Nguyễn Văn Thành đọc khi tế các tướng sĩ đã chết trận trong hồi theo vua Gia Long đánh dẹp các nơi. Trong bài, lấy cái cảm tình của một ông võ tướng mà dãi bày công trạng anh hùng của kẻ đã qua, thổ lộ tấm lòng thương tiếc của người còn lại, lời văn thống thiết, giọng văn hùng hồn, thật là một bài văn tế rất hay.”
Nhà nghiên cứu Phạm Quỳnh cho rằng:
"Lời đáng ghi vào vàng đá truyền đến muôn đời, khi giống giã như nhịp trống trong quân, khi tơi bời như ngọn cờ dưới nguyệt, khi mịt mù như cơn gió lốc thổi dấu kẻ tha hương, khi lập lòe như đám lửa trời soi chừng chốn cổ độ, khi hùng tráng như tiếng gươm tuốt giữa trận, khi lâm li như vượn khóc trên ngàn."
Thạch Trung Giả viết:
"Hùng hồn và thống thiết là đặc điểm của áng văn này. Ngoài ra, những nét gợi cảm đến dựng đứng tóc gáy cho ta thấy vết tích của nghệ thuật Lê mạt với những Đặng Trần Côn, Ôn Như Hầu, và cái vẻ trang nghiêm đanh thép dự báo cho ta thời thịnh Nguyễn với những Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát..."
Bài được chia thành 4 phần:
1- Lung khởi
2- Thích thực
3- Ai vãn
4- Kết

Sơ lược về thân thế và sự nghiệp Tiền Quân Nguyễn Văn Thành:
Nguyễn Văn Thành (1758 – 1817) sinh ngày 13 tháng 11 năm Mậu Dần (1758), tiên tổ của ông người Quảng Điền, phủ Thừa Thiên, tằng tổ là Nguyễn Văn Toán dời vào Gia Định. Tổ là Nguyễn Văn Tính lại dời đến ở Bình Hòa. Cha là Nguyễn Văn Hiền lại dời vào Gia Định.
Nguyễn Văn Thành là một trong những vị khai quốc công thần của triều Nguyễn và là một trong những người có công lớn nhất trong việc đưa Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi, trở thành vị vua đầu tiên (vua Gia Long) của triều Nguyễn - triều đại phong kiến cuối cùng của Việt Nam (1802-1945).
Sử cũ ghi: "Nguyễn Văn Thành trạng mạo đẹp đẽ, tính trầm nghị, thích đọc sách, tài võ nghệ."
Ông là người "biết chữ, hiểu nghĩa sách, biết đại thể, ở trong chư tướng, vua trọng Thành hơn cả, không cứ việc lớn việc nhỏ đều hỏi để quyết đoán. Mỗi khi ông đến chầu vua cho ngồi thong dong hỏi han, ông cũng đem hết sức tiềm tàng, tình hình ngoài biên, sự đau khổ của dân, kế hoạch nhà nước, mưu kế việc binh, biết điều gì là nói hết, cũng nhiều bổ ích."
Về tài cầm binh của ông, theo nhiều nhà nghiên cứu thì ông là người "phân tích kĩ lưỡng, đâu là điểm mạnh, đâu là thế yếu, rồi mới quyết đoán, lúc tiến, khi lui nhằm giảm thiểu hao tổn tướng sĩ."
Vào tháng Chạp năm 1802, tại Thuận Hóa, ông đứng chủ tế ở lễ truy điệu các tướng sĩ bỏ mình trong cuộc chiến giữa Nguyễn Ánh với lực lượng Tây Sơn. Ông đã soạn bài"Văn Tế Tướng Sĩ Trận Vong", lúc tế ông đọc bài văn này, lấy cái cảm tình của một ông võ tướng mà giải bày công trạng anh hùng của kẻ đã qua, thổ lộ tấm lòng thương tiếc của người còn lại, lời văn thống thiết, giọng văn hùng hồn, đây thật là một áng văn chương tuyệt bút của nền văn học Việt Nam.
Là một võ tướng, Nguyễn Văn Thành lại rất coi trọng việc học, cùng thời gian sửa sang lại Bắc Thành, ông đã cho tu bổ Văn Miếu-Quốc Tử Giám, dựng thêm Khuê Văn Các, đây là một kiến trúc có giá trị độc đáo về khía cạnh văn hóa và mỹ thuật, công việc được hoàn thành vào mùa thu năm 1805. Kiến trúc được đặt ở cửa Nghi Môn và chính tại đây hằng năm vào mùa Xuân và mùa Thu, chọn hai ngày Đinh lệnh cho quan đến tế, lại lấy bốn tháng giữa Xuân, Hạ, Thu, Đông tổchức khảo thí học trò. 
VỤ ÁN OAN
Năm Ất Hợi 1815, người con trưởng của ông là Nguyễn Văn Thuyên cũng chính là phò mã của vua Gia Long đỗ hương cống, vốn là người hâm mộ văn chương, thường làm thơ, ngâm vịnh văn thơ với những kẻ sĩ. Bấy giờ nghe người ở Thanh Hóa là Nguyễn Văn Khuê và Nguyễn Đức Nhuận có tiếng hay chữ, ông Thuyên có làm một bài thơ tặng,
                       thơ dịch âm rằng: 
Văn đạo Ái Châu đa tuấn kiệt,
Hư hoài trắc tịch dục cầu ty.
Vô tâm cửu bảo Kinh Sơn phác,
Thiện tướng, phương tri Ký-bắc Kỳ.
U-cốc hữu hương thiên lý viễn,
Cao vương minh-phượng cửu thiên tri.
Thư hồi được đắc Sơn trung tể,
Tá ngã kinh-luân chuyển hóa ky. 


Dịch nghĩa là: 
Ái-châu nghe nói lắm người hay,
Ao ước cầu hiền đã bấy nay.
Ngọc phác Kinh-Sơn tài sẵn đó,
Ngựa Kỳ Ký-bắc biết lâu thay.
Mùi hương hang tối xa nghìn dặm,
Tiếng phượng gò cao suốt chín mây.
Sơn tể phen này dù gặp gỡ,
Giúp nhau xoay-đổi hội cơ này.

Một số người vốn có tị hiềm với ông dựa vào hai câu cuối của bài thơ mà lập luận, suy đoán, thêu dệt thành ý phản loạn, truất ngôi vua.

Mọi việc kêu oan của ông đều không được Gia Long minh xét. Ông nói với Thống chế Thị Trung lúc bấy giờ là Hoàng Công Lý : "Án đã xong rồi vua bắt bề tôi chết, bề tôi không chết, không phải là trung," Ông buộc phải uống thuốc độc tự tử trong ngục vào năm Đinh Sửu (1817), hưởng thọ sáu mươi tuổi. Con trai ông là Nguyễn Văn Thuyên thì bị xử án chém. 
Có hai người được cho là tác giả của bài Văn tế. Cụ thể như sau:
·                    Nhiều nhà nghiên cứu, ví dụ như nhà văn hóa Phạm Quỳnh[1] hay nhà nghiên cứu Dương Quảng Hàm[2], cho rằng bài văn tế do bản thân Tiền Quân Nguyễn Văn Thành, vốn có tiếng là người hay chữ nhất trong các quan võ của Gia Long và là người đã cùng Gia Long vào sinh ra tử trong cuộc chiến mấy mươi năm, tự soạn và đứng chủ tế.
·                    Ngoài ra thì theo GS. Nguyễn Lộc, giáo sư văn học thuộc Đại học KHXH và NV Hà Nội, thì bài văn tế do một người khác là ông Nguyễn Huy Lượng soạn. GS Lộc giải thích năm 1804, để làm lễ tế các tướng sĩ tử trận, Tổng trấn Bắc thành Nguyễn Văn Thành có nhờ Nguyễn Huy Lượng và Phan Huy Ích mỗi người làm một bài văn tế. Và Nguyễn Huy Lượng đã dâng lên bài Văn tế tướng sĩ trận vong mà xưa nay hay cho là của ông Thành [3].
·                    Theo Đại Nam Thực Lục Chính Biên – Đệ Nhất Kỷ, quyển XVIII: Bàn đặt chức Tổng Trấn Bắc Thành, Vua sắp hồi loan dụ bày tôi rằng: “ Nay võ công đã yên mà ta chưa bái yết Thái Miếu, huống chi hai, ba năm nay xa cách Từ Cung, mối quạt nồng ấm lạnh, canh cánh bên lòng. Nếu cứ ở ngoài mãi để đợi đại điển bang giao (nhận Sắc phong nhà Thanh – 1804) thì lòng ta có chỗ không yên. Vậy nên bàn việc hồi loan. Duy đất Bắc hà vừa dẹp yên, dân vật đều mới, mà thành Thăng Long lại là nơi quan trọng của Bắc hà cần có trọng thần giữ mới được”.
Điều này cho thấy bài Tướng Sĩ Trận Vong được soạn đọc trong lễ tế, sau khi Gia Long ở Bắc hà về kinh đô một tháng: "Vâng thượng đức hồi loan tháng trước". Nghĩa là việc tế lễ diễn ra vào khoảng cuối năm 1802, lại nữa vừa nên công đại định, thì liền tổ chức cuộc truy điệu tướng sĩ là một việc hợp lý, hợp thời, hợp tình, hợp cảnh.
Ngược dòng lịch sử, các danh thần Tây Sơn, ông Phan Huy Ích thăng đến chức Thị Trung Ngự Sử; Nguyễn Huy Lượng giữ chức Hữu Thị Lang Hộ Bộ và đã soạn ra bài phú tụng Tây Hồ rất nổi tiếng. Với quan niệm trung quân, hướng về cựu trào là điều dễ hiểu, thì việc cho rằng một trong hai ông này đã soạn ra áng văn tế để tưởng nhớ, ghi công cho những người đã ngã xuống cho sự nghiệp nhà Nguyễn Gia Long là điều hoàn toàn không thuyết phục. HẾT

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét