Dịch giả: Nguyễn Hữu Kiệt
Thời Thơ Ấu
A
ha! Aha! Đã lên tới bốn tuổi rồi mà không ngồi vững trên lưng ngựa! Mi
sẽ không bao giờ trở nên một người hùng! Rồi đây cha mi sẽ nói sao?
Vừa
nói xong, ông Tzu thẳng tay quất vào mông con ngựa một ngọn roi da, đầu
ngọn roi cũng đét luôn cả vào người kỵ mã bất đắc dĩ, và nhổ luôn một
bãi nước bọt xuống đất một cách khinh bỉ.
Những
nóc nhọn và mái bầu bịt vàng của điện potala chói sáng dưới ánh mặt
trời nóng gắt. Gần bên chúng tôi, hồ sen trong vắt của ngôi Đền Rắn dợn
sóng lăn tăn. Đằng xa, trên đường mòn gồ ghề đá sạn, những khách lữ hành
vừa rời khỏi thủ đô Lhassa cố gắng thúc giục những con Yak đi mau hơn,
với những tiếng kêu inh ỏi. Từ những đồng cỏ xanh ở kế cận, vọng đến tai
tôi những tiếng kèn khổng lồ do những sư sãi nhạc công thực tập thổi
kèn ở một nơi vắng vẻ.
Nhưng
tôi không có thời giờ để ngắm nhìn những cảnh vật vẫn từng diễn ra hằng
ngày mà tôi đã quen mắt nhàm tai. Công việc của tôi trong hiện tại ôi,
một công việc khó nhọc thay là ngồi vững trên lưng con lừa nhỏ bất kham
của tôi. Nhưng con lừa Nakkim lại có những ý nghĩ khác. Nó muốn tách
khỏi người kỵ mã tí hon của nó, để có tự do ăn cỏ, nằm lăn trên đất và
chơi một mình.
Ông
Tzu là một ông thầy rất khó chịu. Suốt đời, ông luôn luôn nghiêm khắc
và khó tánh; trong lúc hiện tại, trong vai trò võ sư quyền thuật và huấn
luyện viên kỵ mã cho một đứa trẻ lên bốn tuổi, ông thường tỏ ra bất mãn
và nổi nóng hơn là kiên nhẫn. Xuất xứ từ vùng Kham, ở miền Đông xứ Tây
Tạng, ông được chọn lựa cùng với vài người khác nhờ bởi vóc vạc cao lớn
và lực lưỡng. Nhiều người có tác cao hơn hai thước và được tuyển dụng
làm những sư sãi cảnh binh trong các tu viện. Họ mặc áo dài và độn vai
rất cao để cho có vẻ to lớn, lấy lọ boi mặt để cho có vẻ hung tợn, và sử
dụng những cây gậy to và dài để trừng phạt những kẻ bất hảo.
Như vậy ông Tzu là một vị sư sãi cảnh binh, kiêm chức võ sư dạy quyền thuật và môn cưỡi ngựa cho một thiếu nhi con nhà quý tộc!
Không
thể đi đứng được lâu vì bị tật ở chân, ông ta chỉ di chuyển bằng cách
đi ngựa. Năm 1904, quân Anh dưới quyền chỉ huy của đại tá Younghusband,
đã xâm lăng xứ Tây Tạng và gây nên nhiều sự tàn phá, thiệt hại. Chắc hẳn
là họ nghĩ rằng phương tiện tốt nhất để thu phục được tình thân hữu của
Tây Tạng là bắn phá nhà cửa, làng mạc và giết hại dân tộc của xứ ấy.
Trong cuộc phòng thủ diệt địch, ông Tzu đã bị đạn bắn vẹt mất một phần
xương háng bên trái khi ông chiến đấu ngoài mặt trận.
Cha
tôi là một trong những viên chức có quyền thề nhất trong Chánh phủ.
Người thuộc dòng quý tộc và có thế lực rất mạnh trong việc quốc chính.
Cha tôi cao gần tới hai thước, và có một sức mạnh phi thường. Hồi còn
thanh người đã có lần ra sức giở hỏng một con lừa khỏa mặt đất; người là
một trong những người Tây Tạng có thể chiến thắng những thổ dân vùng
Kham trong những cuộc so tài về môn đô vật.
Xứ
Tây Tạng đã trải qua một thời kỳ loạn ly. Năm 1904 khi quân đội Anh xâm
lăng lãnh thổ Tây Tạng, vị Quốc vương xứ này là đức Đạt Lai Lạt Ma sang
tị nạn bên xứ Mông Cổ, giao quyền nhiếp chính lại cho cha tôi và cùng
với những viên chức trong nội các trong khi ngài vắng mặt. Năm 1909,
ngài trở về nước sau một thời gian sống tại Bắc Kinh. Năm 1910, quân
Trung Hoa, được khích lệ tinh thần bởi cuộc xâm lăng thành công trước
đây của quân đội Anh, bèn đem quân tấn công thủ đô Lhassa. Một lần nữa
đức Đạt Lai Lạt Ma lại lưu vong tị nạn nhưng lần này ngài sang Ấn Độ.
Năm 1911, trong cuộc cách mạng Trung Hoa, quân Tàu bị đánh bật ra thủ đô
Lhassa, sau khi đã gây nhiều cảnh giết chóc tang thương đối với dân
chúng Tây Tạng. Năm 1912, đức Đạt Lai Lạt Ma trở vể thủ đô Tây Tạng.
Trong khi ngài vắng mặt, suốt thời kỳ vô cùng khó khăn ở quốc nội, cha
tôi đã cùng với các quan chức đồng liêu trong nội có đảm đương trọng
trách của Chánh Phủ. Mẹ tôi thường nói rằng trách nhiệm nặng nề đó đã
làm cho cha tôi giảm thọ rất nhiều. Một điều chắc chắn là người không có
thời giờ săn sóc con cái và người không hề có dịp biểu lộ tình phụ tử
đậm đà đối với chúng tôi.
Dường
như tôi có cái khả năng đặc biệt là hay làm cho cha tôi nóng giận nên
ông Tzu, bản tính vốn đã khắc nghiệt, lại được cha tôi giao phó trách
nhiệm là bắt buộc tôi phải vâng lời tuyệt đối, bằng lời êm dịu hay "Bằng
roi vọt nếu cần."
Ông
Tzu lại coi việc cưỡi ngựa dở của tôi như là một sự sỉ nhục cho vai trò
huấn luyện viên của ông ta. Ở Tây Tạng, trẻ con trong các gia đình quý
tộc tập cưỡi ngựa trước khi tập đi! Làm một người kỵ mã giỏi là một điều
tối cần thiết trong một xứ núi non không có phương tiện giao thông, một
xứ mà mọi sự di chuyển đều làbằng cách đi bo hay cưỡi ngựa. Con nhà quý
phái tập cưỡi ngựa hằng giờ hằng phút mỗi ngày. Khi họ đã tập luyện
tinh nhục đến mức tuyệt luân, họ có thể đứng vững trên yên ngựa đang phi
nước đại, và bắn cung hay bắn súng vào các mục tiêu di động.
Đôi
khi từng đoàn kỵ mã đã tập luyện thuần phục phi nước đại trong những
cánh đồng, và trong khi sãi ngựa như bay họ đổi ngựa với nhau bằng cách
nhảy từ yên ngựa này sang yên ngựa khác. Trong khi đó, năm lên bốn tuổi,
tôi lại thấy khó khăn mà ngồi vững trên một yên ngựa.
Xứ
Tây Tạng là một nước sùng thượng thần quyền. Sự "Tiến bộ" của thế giới
bên ngoài không làm cho dân tộc xứ ấy ham thích. Người Tây Tạng chỉ muốn
tự do thiền định suy tư và vượt qua những giới hạn của xác thể. Từ lâu,
những nhà hiền triết của xứ này vẫn từng biết rằng những tài nguyên
phong phú của xứ Tây Tạng khêu gợi lòng tham của các nước Tây phương và
họ biết rằng khi nào người ngoại bang đến xứ này là sẽ không có hòa
bình.
Nhà
tôi ở tại khu Lingkhor, một khu vực sang trọng của thủ đô Lhassa, ở bên
đường lộ bao quanh đường phố, và ở dưới bóng mát của điện Potala. Chung
quanh Lhassa có ba đường vòng đồng tâm, con đường ở vòng ngoài, cũng
gọi là đường Ling khor làcon đường quen thuộc của khách hành hương.
Cũng
như tất cả các ngôi nhà khác ở Lhassa, vào lúc tôi mới sinh, nhà tôi
chỉ có hai tầng ở phía day mặt ra đường lộ. Mọi người đều bị tuyệt đối
cấm nhặt không được cất nhà nhiều tầng và vượt quá chiều cao đó, vì
không ai được phép từ trên cao nhìn xuống đức Đạt Lai Lạt Ma. Nhưng vì
lịnh cấm này thật ra chỉ áp dụng mỗi năm có một lần vào dịp rước lễ hằng
năm, nên nhiều người dân Tây Tạng cất trên nóc bằng của nhà họ thêm một
tầng nữa bằng cây ván có thể tháo gỡ được dể dàng, mà họ có thể sử dụng
mỗi năm trong mười một tháng.
Nhà tôi ở là một ngôi kiến trúc cổ bằng đá, hình vuông, xây trên một khu đất rộng và bao bọc xung quanh một cái sân giữa.
Năm
1910, trong cuộc xâm lăng của quân Trung Hoa, nhà tôi bị tàn phá hết
một phần, nhất lànhững vách tường phía trong. Về sau, cha tôi đã cho xây
cất lại bốn tầng lầu. Vì những tầng lầu này không day ra ngoài đường
cái, tức con đường Ling khor, nên chúng tôi không thể từ trên cao nhìn
xuống đức Đạt Lai Lạt Ma trong cuộc rước lễ hằng năm, thành thử không ai
phàn nàn hay phản đối.
Cánh
cửa lớn trổ ra cái sân giữa rất kiên cố và trở nên xám đen với thời
gian. Quân Tàu không chọc thủng nổi cánh cửa dày và chắc nịch này nên
chúng đã triệt hạ một góc tường để lọt vào nhà.
Từ
một văn phòng đặt ở ngay phía trên cái cửa này, người quản gia để ý
quan sát những kẻ ra vào. Người quản gia này có quyền thâu dụng hoặc sa
thải những kẻ nô bọc, và chăm lo chu đáo mọi việc lớn nhỏ trong nhà. Khi
những tiếng kèn trong những tu viện đón chào bóng hoàng hôn, đánh dấu
một ngày sắp tàn, thì những kẻ hành khất của thủ đô Lhassa tề tựu đến
trước cánh cửa sổ của vị quản gia để nhận lãnh những phần ăn của họ
trong chiều hôm đó. Theo thủ tục đó, tất cả những nhà danh giá quý tộc
bố thí cho kẻ nghèo ở trong vùng của họ ở. Những kẻ tù phạm bị xiềng
xích cũng thường đến xin ăn, vì khám đường rất hiếm và họ đi rảo khắp
các nẻo đường để xin của bố thí.
Ở
Tây Tạng, những kẻ tu phạm không bị khinh khi hay đối xử tàn tệ như
những kẻ hạ cấp. Người ra biết rằng phần nhiều trong thành phần của họ
có lẽ ở vào tình trạng của những người tù phạm kia nếu họ bị bắt quả
tang, bởi đó những kẻ phạm pháp ít may mắn hơn được đối xử một cách
tương đối dễ chịu.
Có
hai vị sư sãi trú ngụ trong các phòng ở phía tay mặt gian phòng của vị
quản gia; đó là các vị tư tế có phận sự cầu nguyện Trời Phật gia hộ cho
gia đình chúng tôi. Những gia đình quý tộc bậc trung hay bậc thấp hơn
chỉ có một vị tư tế trong nhà; cấp đẳng xã hội của gia đình tôi bắt buộc
phải có hai vị. Các vị tư tế này không được hỏi ý kiến trước mỗi biến
cố hay quyết định quan trọng, và họ có bổn phận cầu nguyện các đấng
Thiêng liêng che chở và ban ân huệ cho gia đình chúng tôi. Ba năm một
lần, họ lại trở về tu viện của họ, và những sư sãi khác đến thay thế.
Mỗi
chái ở hai bên hông nhà là một đền thờ nhỏ trong đó những ngọn đèn thắp
bằng bơ cháy sáng ngày như đêm trên một bàn thờ bằng gỗ chạm. Trên bàn
thờ, bảy chén nước Thánh được lau chùi sạch bóng và được thay nước mới
nhiều lần trong ngày.
Các
vị tư tế được ăn uống đầy đủ, họ dùng các thức ăn như người trong gia
đình, để cho những lời cầu nguyện của họ được sốt sắng hơn và để cho
thần thánh biết rằng họ được biệt đãi.
Ở
bên trái gian phòng vị quản gia, là phòng của vị cố vấn luật pháp, vị
này có phận sự xem xét cách giữ gìn nhà cửa của gia đình tôi cho đúng
theo nghi thức của nhà quyền quí. Người Tây Tạng rất tôn trọng luật lệ,
và để làm gương cho dân chúng, cha tôi phải xử thế như một công dân
gương mẫu.
Anh
tôi, Paljor, chị tôi, Yasodhara và tôi cùng ở tại phần mới xây cất của
ngôi nhà. Paljor không sống được lâu vì không có đủ sức khỏe để chấp
nhận cuộc sống khắc khổ, dành cho mọi đứa trẻ con nhà quý tộc. Anh tôi
qua đời trước khi lên bảy tuổi. Khi ấy Yaso lên sáu và tôi mới lên bốn.
Tôi vẫn còn hình dung anh tôi, chỉ còn là một cái xác không hồn, ngày mà
những Âm Công đến lượm xác anh tôi để làm lễ "điểu táng" tức là chặt
từng mảnh quăng cho kên kên ăn theo phong tục bổn xứ.
Khi
tôi trở thành người con trai kế nghiệp của gia đình, thì sự giáo dục
của tôi được săn sóc chu đáo. Năm tôi lên bốn tuổi, tôi hãy còn là một
kỵ mã quá dở! Cha tôi vốn dĩ đã là một người rất nghiêm khắc, nay với tư
cách là một chức sắc của giáo hội, bèn đặt tôi vào một thứ kỷ luật sắt
để làm gương cho sự giáo dục của những đứa trẻ khác.
Ở
xứ Tây Tạng, một đứa trẻ thuộc giai cấp càng cao thì sự giáo dục của nó
lại càng nghiêm khắc. Và nhà quý tộc đã bắt đầu chủ trương một kỷ luật
ít khắc khổ hơn cho sự giáo dục thiếu nhi, nhưng cha tôi không đồng ý,
viện lẽ rằng những đứa trẻ nghèo hèn không hy vọng có một đời sống tiện
nghi sung sướng hơn trong tương lai, cần phải được đối xử một cách dịu
dàng tử tế khi chúng còn nhỏ. Trái lại, những đứa trẻ con nhà quý tộc,
được thụ hưởng mọi thứ tiện nghi sung sướng khi đến tuổi trưởng thành,
nên cần phải được giáo dục trong sự khắc khổ tối đa khi chúng tôi còn
nhỏ, để nhờ sự kinh nghiệm trong đau khổ mà chúng mới biết thương người
về sau này. Đó cũng là quan điểm chánh thức của chánh phủ Tây Tạng.
Chánh sách đó rất tai hại đối với những đứa trẻ có thể chất yếu đuối,
nhưng còn những đứa nào vượt qua được mà không chết thì sẽ có thể đương
đầu với bất cứ một nghịch cảnh nào?
Võ
sư Tzu chiếm một gian nhà ở từng dưới gần chỗ cửa vào. Sau khi đã có
dịp quan sát đủ mọi hạng người trong nhiều năm với tư cách là một sư sãi
cảnh binh, ông ta không thể sống ẩn dật lánh đời, vì cuộc sống đó không
thích hợp với nếp sống quen thuộc của ông ta. Gần bên phòng của ông ta
ở, là những chuồng ngựa, trong đó cha tôi nuôi hai chục con ngựa, cùng
những loài vật kéo xe khác.
Những người giữ ngựa không ưa ông Tzu vì tánh quá sốt sắng của ông ta và thói quen hay xen vào công việc của họ.
Khi
cha tôi cưỡi ngựa đi đâu, thì luôn luôn có sáu người kỵ mã võ trang đi
theo hộ vệ. Những người cận vệ này đều mặc đồng phục và ông Tzu luôn
luôn kiểm soát chặt chẽ để giữ cho y phục của họ lúc nào cũng được chỉnh
tề.
Vì
một lý do mà tôi không biết rõ, sáu người kỵ mã này có thói quen ngồi
trên lưng ngựa sắp thành hàng giờ day lưng vào tường của một lẫm lúa, và
phóng ngựa chạy theo khi thấy cha tôi vừa xuất hiện. Tôi nhận thấy rằng
nếu tôi nghiêng mình ra ngoài cửa sổ của lẫm lúa, thì một trong những
người kỵ mã lọt vào tầm tay của tôi. Một ngày nọ, nhân lúc không có việc
gì làm, tôi bèn rón rén đến gần và xỏ một sợi dây gai vào cái đai da
nịt lưng của y trong khi y đang kiểm điểm đồ tư trang trước khi lên
đường. Kế đó tôi cột chặt cả hai đầu dây và máng một đầu vào một cái móc
sắt ở bên trong lẫm lúa. Việc ấy hoàn toàn diễn ra trong âm thầm không
ai để ý, giữa lúc mọi người đang mắc bận rộn rối rít. Khi cha tôi vừa
xuất hiện đoàn kỵ mã phóng ngựa chạy theo, trừ ra người thứ sáu mắc phải
sợi dây nên bị té ngựa và kêu la ỏm tỏi.
Cái
đai nịt lưng của y sút ra và trong cơn náo loạn, tôi lén rút lại sợi
dây gai và biến mất mà không ai hay biết. Ngày hôm sau, tôi lấy làm
khoái trá mà nói với nạn nhân sự đùa nghịch của tôi: "Thế nào, Nê Túc,
tôi tưởng chỉ có một mình tôi là cưỡi ngựa dở, còn anh cũng vậy sao?"
Chương
trình học của chúng tôi gồm có Hán văn, chữ Tây Tạng, toán học và khắc
bản gỗ. Về việc ấn loát ở Tây Tạng, người ta thường dùng những bản gỗ có
khắc chữ, nên việc khắc bản gỗ được coi như một bộ môn rất hữu ích.
Lớp
học của chúng tôi là một gian phòng rất rộng có thể chứa độ sáu chục
đứa trẻ. Chúng tôi ngồi xếp bằng trên sàn gạch, trước một cái bàn hay
một cái ghế dài, chiều cao độ năm tấc tây và ngồi xoay lưng về phía thầy
học để cho chúng tôi không thể biết rằng thầy có nhìn mình hay không.
Thầy bắt chúng tôi học một cách rất kham khổ và không để chúng tôi nghỉ
ngơi một giây phút nào.
Có
một phần trong chương trình học mà tôi không bao giờ quên: đó là lập
lại những Điều Răn tôn giáo. Chúng tôi phải đọc những Điều Răn này khi
vào lớp và lập lại một lần nữa trước khi rời khỏi lớp vào giờ tan học.
Đó là:
Hãy lấy ân báo ân, lấy đức báo đức
Đừng ăn hiếp những kẻ hiền lành
Hãy siêng đọc các kinh điển và giáo lý
Hãy giúp đỡ kẻ đồng loại
Luật pháp khắc khổ đối với kẻ giàu sang
Để dạy họ sự thông cảm và sự công bằng
Luật pháp khoan hồng đối với kẻ nghèo hèn để an ủi họ
Hãy trả dứt nghiệp quả nợ nần càng sớm càng hay
Để cho chúng tôi không thể nào quên, những Điều Răn đó được viết trên những tấm bản đóng trên bốn vách tường của lớp học.
Tuy
nhiên, cuộc đời hằng ngày của chúng tôi không phải hoàn toàn dành cho
sự học và sự sống khắc khổ. Chúng tôi cũng lao mình vào những cuộc chơi
điền kinh, thể dục một cách hăng say ngoài giờ học. Những môn thể dục
này được đặt ra để tạo cho chúng tôi một thể xác cường tráng có thể chịu
đựng khí hậu vô cùng gắt gao của xứ Tây Tạng. Ở xứ này, vào lúc giữa
trưa mùa hè nhiệt độ lên rất cao và ban đêm có thể xuống thấp dưới không
độ. Vào mùa đông, thời tiết còn lạnh hơn thế rất nhiều.
Bắn
cung, một môn thể dục rất tốt để làm nở nang bắp thịt và để tập nhắm
một cách chính xác, là bộ môn mà chúng tôi rất thích. Cung nỏ của chúng
tôi dùng đều làm bằng gỗ mun nhập cảng từ Ấn Độ; người ta chế tạo những
cái ná bằng gỗ bổn xứ. Là Phật tử chân chính, chúng tôi không bao giờ
bắn loài thú vật. Để tập bắn cung chúng tôi dùng những cái bia di động,
mà những kẻ gia nô núp ở chỗ ẩn khuất cầm dây kéo lên hoặc hạ xuống bất
thần mà không cho chúng tôi hay. Phần nhiều những bạn hữu của tôi có thể
bắn trúng đích trong khi họ sãi ngựa như bay. Về phần tôi, trái lại,
tôi không thể ngồi vững trên lưng ngựa được lâu như thế!
Một
trò chơi tiêu khiển khác là đi cà khêu. Chúng tôi dùng hai cây cà khêu,
giống như hai cây nạng gỗ nhưng rất dài, có bàn đạp để xỏ hai chân vào
đó, và sau khi đã ngụy trang làm những người khổng lồ, chúng tôi thường
xáp chiến với nhau trong những cuộc đấu sức dị kỳ, kẻ nào thua là kẻ bị
té ngã trước nhất.
Còn
những môn thể dục khác nữa là nhảy sào, và đá cầu. Nhưng ở Tây Tạng
nhất là ở vùng ngoại ô thủ đô Lhassa, cuộc chơi thịnh hành nhất là môn
thả diều, mà người ta có thể gọi là môn thể dục của dân tộc. Chúng tôi
chỉ có thể chơi diều vào những mùa nhất định. Nhiều năm về trước, người
ta nhận thấy rằng thả diều trên những vùng núi cao đã gây nên những trận
mưa lũ, khi đó người ta nghĩ rằng có lẽ các vị thần làm mưa đã nổi
giận, nên dân chúng chỉ được phép chơi diều vào mùa thu, tức là mùa tạnh
ráo ở Tây Tạng. Có những ngày nhất định, người ta giữ im lặng không kêu
to ở các miền núi, vì tiếng vang của họ gây nên một sự chuyển động quá
mau của những đám mây mù ẩm thấp từ bên Ấn Độ bay qua, do đó mà có những
trận mưa lũ bất ngờ.
Ngày
đầu mùa thu, một con diều đầu tiên được phóng lên từ nóc điện Potala.
Trong vài phút, những con diều khác đủ mọi hình thức, lớn nhỏ đủ cỡ và
đủ các màu sắc, liền xuất hiện trên nền trời Lhassa, trên đó chúng nó
bay lượn nhảy nhót theo chiều gió thổi mạnh.
Tôi
rất say mê cuộc chơi này và luôn luôn sắp đặt cách nào để con diều của
tôi bay lên trong số những con đầu tiên. Mọi đứa trẻ con đều tự tay
chúng nó chế tạo những con diều của mình, thường là với một cái sườn
bằng tre được bao bọc ở phía ngoài bằng một thứ hàng tơ rất đẹp. Chúng
tôi làm diều bằng những vật liệu thứ tốt hảo hạng vì danh dự của gia
đình cũng có liên hệ trong cuộc chơi này. Cái sườn bằng gỗ giống như cái
hộp được chế tạo xong, chúng tôi mới gắn vào đó cái đầu, hai cánh và
cái đuôi một con rồng có một hình dáng dữ tợn.
Cuộc
tranh đấu bằng diều diễn ra một cách vô cùng sôi nổi trong khi đó,
chúng tôi cố gắng hạ những con diều của các địch thủ. Để thực hiện điều
đó, chúng tôi gắn những miểng chai trên diều của chúng tôi và ngâm sợi
dây diều trong một thứ keo trộn với bột thủy tinh nghiền nát; sau đó,
chúng tôi chỉ cần phóng diều lên để cắt đứt sợi dây của các địch thủ và
bắt lấy con diều của họ.
Đôi
khi, lúc trời tối chúng tôi lén thả diều lên trời sau khi đã cột chặt
những cái đèn nhỏ thắp bằng bơ vào bên trong cái sườn gỗ và ở chỗ đầu
rồng. Đôi mắt rồng liền phóng ra những tia lửa đỏ và mình rồng lóng lánh
muôn màu nghìn sắc liền nổi bật trên không trung giữa nền trời u ám của
đêm khuya. Chúng tôi đặc biệt thích cuộc chơi này khi có những đoàn
thương buôn lớn chở hàng trên lưng những con Yak từ vùng Lhodzong đến
thủ đô Lhassa. Với tuổi ngây thơ chúng tôi nghĩ rằng người thương buôn
"Dốt nát" ở các vùng quê hẻo lánh chắc chưa bao giờ nghe nói đến những
phát minh diễm ảo tân kì như những con diều của chúng tôi. Vậy nên chúng
tôi quyết định gây cho họ một cơn sợ sệt kinh hoàng một phen nên thân.
Một
trong những phát minh khác nữa của chúng tôi là gắn trong mình con diều
ba loại vỏ ốc khác nhau, và đặt cách nào cho gió thổi vào làm các vỏ ốc
phát ra một tiếng hú kinh hồn. Khi thả diều lên trời, con rồng lửa uốn
khúc muôn màu phát ra những tiếng rú rùng rợn trong đên khuya, và chúng
tôi hy vọng rằng nó sẽ gây cho các tay thương buôn đến từ các tỉnh lẻ xa
xôi một cơn sợ sệt mà họ sẽ nhớ đến suốt đời không quên.
Tây
Tạng không phải là xứ có thể dung nạp những người có thể chất yếu đuối.
Thủ đô Lhassa ở vào một vùng cao nguyên bốn ngàn thước cao hơn mặt
biển, có một thời tiết rất chênh lệch giữa cực nóng và cực lạnh. Những
vùng cao hơn lại có một khí hậu gắt gao hơn nữa. Những người có thể chất
yếu đuối có thể làm liên lụy đến sự sống của kẻ khác. Chính vì bởi lẽ
đó, chứ không phải do sự tàn ác, mà sự giáo dục thiếu nhi thật là vô
cùng khắc khổ như đã kể trên.
Ở
những vùng sơn cước, người ta đem ngâm những đứa trẻ sơ sinh dưới suối
nước lạnh và xem chúng có đủ sức chịu đựng dẻo dai hay không, để có
quyền sống như mọi người. Tôi thường thấy những người đi diễn hành đến
một ngọn suối, ở một vùng núi non chiều cao trên sáu ngàn thước. Đến bờ
suối, đoàn người dừng lại, một bà lão bồng đứa trẻ sơ sinh trên tay, rồi
cả gia đình gồm cha, mẹ và thân quyến đứa trẻ ngồi vây chung quanh bà.
Khi người ta lột hết áo quần đứa trẻ, bà lão bèn ngâm thân mình đứa bé
sơ sinh dưới nước suối, chỉ còn thấy cái đầu nhô lên khỏi mặt nước. Dưới
nước suối lạnh buốt, thân mình đứa trẻ trở nên đỏ au, rồi xanh giờn,
những tiếng kêu của nó đã im bặt, nó không còn kêu la phản đối nữa. Nó
có vẻ chết lịm, nhưng bà lão đã từng kinh nghiệm nhiều về việc này bèn
rút nó lên khỏi mặt nước, lau chùi khô ráo và mặc quần áo lại cho đứa
bé. Nó sống lại chăng? Đó là các thần linh đã quyết định như thế. Nếu nó
chết, thì đó lại càng hay vì nó khỏi phải chịu những sự khổ đau về sau
này của cuộc đời trần thế! Người ta không thể làm gì khác hơn dưới một
khí hậu gắt gao như ở Tây Tạng. Không nên có những kẻ bịnh hoạn, yếu
đuối ở một xứ mà mọi phương tiện cứu trợ y tế đều thiếu thốn: Thà để vài
đứa bé sơ sinh chết còn hay hơn.
Khi
anh tôi qua đời, thì tôi cần phải xúc tiến việc một cách ráo riết hơn.
Thật vậy, vào năm lên bảy tuổi, tôi đã phải bắt đầu chuẩn bị tương lai.
Tôi sẽ đi theo con đường nào và chọn lựa nghành hoạt động nào? Điều đó
sẽ do các nhà chiêm tinh quyết định. Ở Tây Tạng, bất cứ việc gì lớn nhỏ,
từ việc mua một con Yak đến việc chọn một nghề nghiệp, đều do sự quyết
đoán của các nhà chiêm tinh. Trước ngày sinh nhật năm tôi lên bảy, mẹ
tôi mở một cuộc tiếp tân khổng lồ, trong dịp đó những quan khách gồm các
nhà quý tộc và các chức viên cao cấp trong chánh phủ được mời tham dự
để nghe những lời tiên tri của các nhà chiêm tinh.
Mẹ
tôi là một mệnh phụ đảm đang, với một vóc vạc phương phi, một gương mặt
tròn và tóc đen huyền. Những phụ nữ Tây Tạng bới đầu theo một kiểu rất
mỹ thuật và cài trên mái tóc một thứ lược bằng gỗ. Những lược gỗ này
thường sơn mài màu đỏ thắm, có cẩn những hột đá quí, cẩm thạch hoặc san
hô, là những mỹ phẩm làm rất khéo léo. Cài trên một đầu tóc đen huyền có
sức dầu bóng loáng, những lược sơn mài đó tạo nến một vẻ đẹp rất thanh
lịch.
Những
áo dài Tây Tạng có những màu sắc rất vui mắt mà nổi bật nhất là màu đỏ,
màu lục và màu vàng. Thường ngày các bà nội trợ đeo phía trước ngực một
mảnh vải trơn với một cái vệt ngang khác màu, nhưng màu sắc được chọn
cho tiệp với nhau một cách mỹ thuật. Họ đeo những chiếc bông tai mà kích
thước lớn nhỏ tùy nơi giai cấp của họ trong xã hội. Mẹ tôi, xuất thân
từ một gia đình quyền quí, đeo những chiếc bông tai dài trên muời lăm
phân tây.
Người
Tây Tạng chủ trương một sự bình đẳng tuyệt đối giữa nam và nữ. Nhưng về
vấn đề coi sóc nội trợ gia đình, mẹ tôi không phải chỉ bằng lòng với sự
bình đẳng. Với một ý chí độc tài và một quyền hành tuyệt đối, mẹ tôi
ngự trị trong gia đình như một nhà vua, mẹ tôi biết mẹ tôi muốn gì và
khi muốn gì mẹ tôi phải được cái đó.
Trong
sự nhộn nhịp xôn xao nhân dịp chuẩn bị cuộc tiếp tân, mẹ tôi mới thật
sự là có đất dụng võ. Nào là tổ chức, phải ra lệnh, soạn thảo kế hoạch
để "Aên đứt" những kẻ láng giềng. Mẹ tôi tỏ ra rất thông thạo vì trong
nhiều chuyến du hành theo cha tôi sang Ấn Độ, Bắc Kinh và Thượng Hải, mẹ
tôi đã thu thập được hằng khối những sáng kiến nước ngoài.
Khi
ngày tiếp tân đã định, những sư sãi như thư kí mới viết thiệp mời trên
một loại giấy dày, làm bằng tay, chỉ được dùng trong những dịp giao tế
tối quan trọng. Mỗi thiệp mời đo độ ba mươi phân bề ngang trên sáu mươi
phân bề dài và có đóng triện son của người gia trưởng. Mẹ tôi cũng đóng
triện son riêng của mình vào đó vì người thuộc về dòng dõi quý phái.
Ngoài ra lại còn một cái triện chung cho cả gia đình, tức là có tất cả
ba cái triện son đóng trên thiệp mời, làm cho nó trở nên một bản văn
kiện thật là nghiêm trọng. Nghĩ rằng tôi là nguyên nhân cho tất cả những
lễ nghi trịnh trọng đó làm cho tôi rùng mình. Tôi không biết rằng tầm
quan trọng của tôi thật ra chỉ là phụ thuộc so với một tập quán xã hội.
Nếu người ta nói cho tôi biết rằng cuộc tiếp tân long trọng này sẽ đem
nhiều vinh dự cho cha mẹ tôi, thì tôi sẽ không hiểu gì cả. Bởi vậy, tôi
vẫn nơm nớp lo sợ.
Những
sứ giả đem thơ được đặc biệt thu dụng trong dịp này để đem các thiệp
mời đến các quan khách. Mỗi người đều cưỡi một con tuấn mã và cầm nơi
tay một cái gậy ngắn có khe hở ở một đầu để xếp cái thiệp mời vào đó, ở
ngoài bao có in những phù hiệu chánh thức của gia đình chúng tôi.
Khi
các sứ giả đã sẵn sàng lên đường thì trong sân nhà chúng tôi diễn ra
một cảnh tượng náo động khôn tả. Các gia nô kêu gọi nhau đến khan cả cổ
họng, ngựa hí vang tai, những con chó ngao đen lớn sủa ầm lên như điên.
Sau một chầu rượu bia cuối cùng, những chàng kỵ mã đặt mạnh những ly cốc
xuống bàn, trong khi đó những cánh cửa cổng nặng nề đã mở ra với những
tiếng động ầm ĩ và đoàn kỵ mã vừa phóng ngựa phi nước đại vừa hét vang
tai nghe thật rùng rợn.
Nếu
họ mang những bức thơ tín viết tay thì đồng thời các sứ giả cũng chuyển
đạt luôn một thông điệp truyền khẩu, mà nội dung có thể hoàn toàn khác
hẳn. Hồi thời xưa, những tay côn đồ, cường đạo thường phục kích các sứ
giả đem thơ ở giữa đường rồi ngụy trang và dùng những bức thông điệp đó
để tấn công một ngôi nhà không phòng thủ hay một đoàn thương buôn chẳng
hạn. Từ đó, người ta thường cố ý viết những thơ tín giả để gài bẫy và dụ
bọn cướp đến những chỗ có phục binh và tiêu diệt chúng. Thủ tục cổ
truyền về việc gởi đi một lượt hai thông điệp, một viết tay và một
truyền khẩu, là một cái di sản của thời quá khứ. Dầu cho ở thời đại này,
người ta cũng có khi gởi đi hai thông điệp song đôi như thế; trong
trường hợp đó thì chỉ có thông điệp truyền khẩu mới có giá trị.
Trong
nhà tôi thật là náo nhiệt tưng bừng! Những vách và trần nhà được phết
lên một lớp sơn mới, những sàn gỗ được đánh bóng trơn tru đến nỗi đi
phải coi chừng kẻo trượt ngã. Những bàn thờ được lau chùi và sơn phết
lại sạch bóng. Một số lớn những ngọn đèn mới thắp bằng bơ được đem ra sử
dụng; có những ngọn đèn bằng vàng và những ngọn đèn khác bằng bạc,
nhưng cả thảy đều lau chùi bóng láng đến nỗi không thể phân biệt được
nữa. Mẹ tôi và người quản gia không ngớt chạy tới chạy lui trong nhà,
chỉ trích, sửa đổi chỗ này, dọn dẹp sắp đặt chỗ kia và ra lệnh cho những
kẻ gia nô làm việc không hở tay. Cha mẹ tôi có trên năm chục người nô
bộc giúp việc nhà và có một số khác được thâu dụng thêm trong việc tiếp
tân. Không một người nào là nhàn rỗi và tất cả đều làm việc một cách
hăng hái. Sân nhà cũng được quét dọn, lau chùi cho đến khi những tảng đá
chiếu sáng ngời như mới vừa đem ở động đá về. Để làm cho sân nhà có vẻ
lộng lẫy, những chỗ trống ở giữa các phiến đá cũng được tô thêm một lớp
màu. Khi mọi việc đều xong xuôi, mẹ tôi tụ tập tất cả gia nhân và ra
lệnh cho họ hãy mặc đồng phục tươm tất, chỉnh tề.
Trong
nhà bếp, có sự hoạt động ráo riết ngày đêm để chuẩn bị đầy đủ các đồ
cao lương mỹ vị đãi khách. Xứ Tây Tạng là một cái tủ lạnh thiên nhiên,
đồ vật thực một khi đã nấu nướng xong, có thể để dành rất lâu mà không
hư hoại, vì thời tiết lạnh và khô ráo. Dẫu cho khi tiết trời nóng bức,
bầu không khí khô ráo cũng giữ cho các thức ăn không hư. Nhờ đó, thịt có
thể để dành suốt năm mà vẫn còn tươi và lúa mì có thể để dành suốt
nhiều thế kỷ.
Vì
người Phật tử giữ giới bất sát sinh, nên người ta chỉ ăn thịt những con
thú vì rủi ro bị té chết trong khe núi, hoặc chết bởi các tai nạn khác.
Nhà
bếp của gia đình tôi có trữ sẵn nhiều loại thịt này. Ở Tây Tạng cũng có
những người làm nghề đồ tể, bán thịt nhưng những gia đình Phật tử chính
thống không giao tiếp với hạng người này, vì họ thuộc về một giai cấp
hạ tiện, "Bất khả tiếp xúc".
Mẹ
tôi quyết định tiếp tân theo một lối vừa khác thường vừa linh đình
trọng thể, và đãi khách một món đặc biệt là món mứt hoa rhododendron.
Vài tuần lễ trước, những kẻ gia nô nhà tôi đã cưỡi ngựa đến tận triền
núi Tuyết Sơn là nơi có những loại hoa đẹp nhất. Ở Tây Tạng, hoa
rhododendron mọc rất lớn và có rất nhiều loại thuộc đủ các màu sắc và
hương thơm. Người ta chọn những hoa chưa nở hẳn và đem về rửa sạch một
cách rất cẩn thận. Thật vậy, nếu một cái hoa hơi nát một chút là làm cho
mứt bị hỏng. Kế đó, mỗi hoa được để ngâm trong một cái bồn thủy tinh
lớn chứa đầy nước và mật ong, rồi đậy thật chặt để cho kín gió. Mỗi ngày
và liên tiếp trong nhiều tuần, bồn hoa được đem phơi nắng và xoay trở
từng kỳ hạn để cho tất cả các phần của hoa đều được hứng ánh nắng cần
thiết. Hoa trong bồn nở lớn từ từ và thấm nhuần chất nước pha mật ong.
Có người thích đem phơi gió vài ngày trước khi ăn để cho hoa được khô và
hơi giòn, mà vẫn không mất hương vị hay sắc tươi của nó. Họ cũng rắc
đường lên các cánh hoa để cho nó có vẻ đượm tuyết giống như thiên nhiên.
Tất cả những phí tổn để làm món mứt hoa này làm cho cha tôi nhăn nhó,
cằn nhằn. Người nói: "Với cái giá tiền để mua những hoa đẹp này, chúng
ta có thể mua sáu con Yak mẹ cùng với một bầy Yak con." Mẹ tôi đáp với
một giọng đầy nữ tính:
-
"Ông đừng ngớ ngẩn. Cuộc tiếp tân của chúng ta nhất định phải thành
công, và dầu sao chăng nữa, những phí tổn này là phần việc nội trợ của
tôi".
Món
vi cá nhập cảng từ Trung Hoa là một món mỹ vị khác, mà người ta dùng để
nấu canh. Có người nói rằng món canh vi cá là món tuyệt đỉnh của nghệ
thuật làm bếp.
Riêng
tôi, tôi nhận thấy món ấy rất dở, và thật là một cực hình khi tôi bắt
buộc phải ăn món vi cá. Cá mập được chở đến xứ Tây Tạng trong một trạng
thái mà người ta không còn nhận ra nó được nữa! Ta có thể nói một cách
ôn hòa là nó hơi kém tươi", điều này có người lại cho rằng làm cho vi cá
càng trở nên ngon hơn.
Món
măng tre non, cũng nhập cảng từ Trung Hoa, là món ăn rất ngon: đó là
món tôi thích nhất. Có nhiều cách để nấu măng, nhưng tôi thích nhất là
ăn sống với một chút muối. Tôi luôn luôn chọn những búp măng vàng và
xanh để ăn riêng, và bởi đó nhiều khúc măng để trong bếp bị ngắt đứt đầu
trước khi đem lên soong chảo. Người đầu bếp có vẻ nghi ngờ tôi, nhưng y
không có bằng cớ. Thật đáng tiếc, vì chính y cũng thích ăn búp măng
sống!
Ở
Tây Tạng, nấu bếp là công việc của đàn ông; phụ nữ cũng làm bếp nhưng
họ rất vụng về và không chịu cải tiến. Đàn ông có sáng kiến hơn và chịu
khó hơn, bởi đó họ nấu ăn rất thiện nghệ. Riêng về môn quét dọn và ngồi
lê đôi mách, thì phụ nữ chiếm giải quán quân, và lẽ tất nhiên họ cũng
rất giỏi về vài môn khác nữa. Nhưng nhất định là không, nếu nói về việc
làm món tsampa.
Món
tsampa là món ăn căn bản của người Tây Tạng. Nhiều người Tây Tạng quanh
năm chầy tháng chỉ sống bằng món tsampa và trà đến suốt đời. Món tsampa
làm bằng lúa mạch nha sấy khô cho đến khi nó trở thành giòn và có một
màu vàng sậm. Những hột lúa mạch nha khi đó mới được giã, và tán thành
bột, bột này lại được nướng lên lần nữa và đặt trong một cái chén, rồi
người ta đổ vô đó trà nóng trộn với bơ con Yak, một loại bò lông dài. Kế
đó người ta trộn cho đều để cho nó đông đặc lại thành một thứ bánh và
cho thêm muối, chất hàn theo và bơ con Yak tùy sở thích từng người. Thứ
bánh đó gọi là tsampa, có thể cuốn tròn lại và cắt thành từng khoanh,
rồi dọn ra để ăn. Món tsampa là món ăn thông thường của hạng người bình
dân, nó có đủ chất bổ béo để cho người dân Tây Tạng có thể sống dưới mọi
khí hậu và trong mọi hoàn cảnh.
Một
nhóm gia nô làm món tsampa, một nhóm khác làm bơ theo một phương pháp
đặc biệt của dân bổn xứ. Những cái bao lớn bằng da trừu, bề mặt có lông
trộn vào trong, bề trái lộn ngược ra ngoài, được dùng làm đồ dụng cụ
đánh sữa. Người ta đổ trong các bao da đó đầy sữa con Yak hay sữa dê. Để
tránh khỏi bị hao hớt, phần trên các bao da đó được túm và xếp lại rồi
may lại thật chắc. Kế đó, những bao da đựng sữa mới được nhồi thật mạnh
cho đến khi sữa trở thành chất bơ. Để đánh sữa bằng phương pháp này,
người ta dùng một chỗ có nhô lên những tảng đá bề cao chừng ba mươi
phân. Sau khi đã đổ đầy sữa vô bao, người ta mới buông những bao đó cho
rơi xuống các mô đá, việc này gọi là "đánh sữa". Chừng mười kẻ gia nô
làm công việc này trong nhiều giờ liên tiếp. Họ vừa hít một hơi thở vào
vừa giơ các bao da lên cao, và buông các bao da cho rơi xuống những mô
đá với một tiếng động êm dịu "zunk". Đôi khi một bao da đã quá cũ hoặc
do bởi người đánh sữa quá vụng về, thình lình nổ bung ra. Tôi còn nhớ
một gia nhân nhà tôi rất khỏe mạnh lực lưỡng, y thường hay khoe khoang
sức vóc của mình. Y làm việc nhanh gấp đôi kẻ khác, và sự cố gắng làm
gân cổ y nổi vồng lên. Một ngày nọ, có người nói với y: "Anh Timon, chắc
anh già rồi, vì bây giờ anh làm việc không nhanh bằng khi trước."
Hét
lên một tiếng giận dữ, Timon bèn nắm lấy phía trên một bao da, giơ lên
cao với hai cánh tay khỏe mạnh để buông cho nó rơi xuống. Nhưng sức mạnh
của y đã phản ngược lại y: Y còn nắm cái miệng bao da thì phần dưới đã
lở xuống và rớt xuống những mô đá. Một cây cột bơ hãy còn hơi lỏng vọt
ra và văng trúng ngay vào giữa mặt Timon, y "Lãnh đủ" tất cả vào miệng,
vào mắt, vào mũi, vào tai, vào tóc. Năm chục đến sáu chục lít bơ chảy
tuôn xuống dọc theo thân mình y và bao phủ y bằng một chất nhờn màu
vàng.
Nghe
tiếng động, mẹ tôi hối hả chạy vào. Đó là lần đầu tiên trong đời mà tôi
thấy mẹ tôi đứng sững nhìn trong im lặng. Có lẽ mẹ tôi tức giận vì thấy
những bấy nhiêu bơ bị hủy hoại chăng? Hay mẹ tôi đang lo ngại cho thằng
ngốc đang bị ngẹt thở? Dù rằng thế nào, mẹ tôi bèn nắm lấy cái bao da
rách bụng và đập một cái lên đầu y. Chàng Timon vô phước bèn trượt ngã
xuống đất nằm sóng sượt trên một cái ao... bơ!
Những
gia nô vụng về như Timon có thể làm hủy hoại mất nhiều bơ. Chỉ hơi cẩu
thả một chút trong khi buông tay cho cái bao rơi xuống là những sợi lông
liền tách rời ra khỏi da và lẫn lộn với chất sữa. Lượm lấy hai hay hai
chục sợi lông trong chất bơ đã làm xong, là một điều rất thông thường,
nhưng nếu lại thấy có cả chùm lông trong đó thì ấy là một điều rất dở.
Chất bơ bị hư hoại được cất riêng một nơi để dùng đốt đèn, hoặc để bố
thí cho những kẻ ăn mày, họ sẽ nấu lại và lọc sạch bằng một miếng giẻ cũ
để dùng ăn lần.
Những
thơ trả lời cho thiệp mời của chúng tôi không bao lâu đã đến. Những
người kỵ mã phóng nước đại đến nơi, tay vung lên những cây gậy nhỏ có
chẻ một đầu có đựng những thơ tín. Khi đó người quản gia mới bước ra để
nghinh đón sứ giả của các nhà quý tộc. Sau khi rút bức thông điệp từ
trong gậy ra, người sứ giả cũng thốt lên một thông điệp truyền khẩu,
thậm chí không kịp lấy lại hơi thở. Kế đóù, y sụm xuống trên hai đầu gối
và để rơi mình xuống đất trong một giàn cảnh rất khéo léo, dường nhưng
để tỏ cho mọi người thấy y đã xả thân không quản công lao khó nhọc để
làm tròn bổn phận và để đến nhà gia đình tôi kịp giờ!
Trong
những dịp đó, những gia nô nhà tôi thường vây chung quanh y và nói:
"Tội nghiệp thằng nhỏ!" Y đến thật là mau! Thật là một kỳ công hãn hữu!
Chắc hẳn là y chạy mau đến muốn đứng tim. Thật là cao quý thay, một tinh
thần phục vụ hăng say như thế!"
Một
ngày nọ tôi, đã ngứa miệng xen vào câu chuyện và nói: "Ấy không! Y
không có chạy mau đến muốn đứng tim! Tôi vừa thấy y ngồi nghỉ mệt ở đầu
làng gần đây. Chắc y nghỉ lấy sức để chạy một đoạn đường cuối cùng!" Sự
kín đáo bắt buộc tôi phải bỏ qua không nói đến cái cảnh tượng vụng về
lúng túng tiếp theo đó.
Sau
cùng, ngày đại nhật đã đến, cái ngày mà tôi vẫn e ngại biết bao, vì
người ta quyết định cuộc đời tương lai của tôi mà không cần hỏi ý kiến
của tôi. Những tia nắng đầu tiên của mặt trời bình minh vừa ló dạng từ
đằng sau các ngọn núi xa ở tận chân trời, thì một người gia nô bước vào
phòng tôi: "Cậu chưa ngủ dậy ư, cậu Lâm Bá? Hay là cậu giả vờ ngủ? Đã
bảy giờ rồi, và chúng tôi có nhiều việc phải làm. Thôi, cậu hãy thức dậy
đi!" tôi bỏ mền ra và ngồi dậy. Ngày đó là ngày mà con đường tương lai
sẽ rộng mở trước mắt tôi.
Ở
Tây Tạng, trẻ con được gọi bằng tên của nó do cha mẹ đặt cho khi còn
sống trong gia đình. Nhưng khi một đứa trẻ bước vào tu viện, nó nhận
được một tên khác, đó là pháp danh của nó. Đó là trường hợp của tôi
chăng? Phải đợi những giờ sắp tới đây mới biết được. Tôi đã lên bảy tuổi
và muốn trở nên một người chèo đò để thả thuyền lênh đênh trên sông
TsangPo,cách đó độ sáu chục cây số. Nhưng hãy khoan, để còn xem lại. Tôi
có thật sự muốn điều đó chăng? Dầu sao, những người chèo đò đều thuộc
giai cấp dưới, vì những đò của họ đều làm bằng da con Yak đóng trên
những cái khuôn bằng gỗ. Tôi, một anh lái đò? Tôi, một người thuộc gia
cấp hạ tiện? Không. Không phải vậy. Tôi muốn trở nên một nhà chuyên
nghiệp về môn thả diều. Ừ, phải đấy, thả diều trên không trung, nhảy tự
do như không khí, còn hơn là ngồi trong một chiếc đò căng bằng da thú,
làm hạ nhân cách và trôi theo dòng nước xoáy mạnh nguy hiểm. Một chuyên
viên thả diều, đó là điều mà tôi muốn làm, và tôi sẽ chế tạo những con
diều khổng lồ với những cái đầu tôi lớn và đôi mắt sáng rực như lửa.
Nhưng hôm nay, những giáo sĩ chiêm tinh sẽ có quyền quyết định. Có lẽ
tôi đã chờ đợi quá lâu: Nay thì đã quá trễ để nhảy qua cửa sổ và chạy
trốn. Cha tôi chắc sẽ cho người chạy theo bắt tôi trở lại. Dầu sao, tôi
là con nhà thế gia vọng tộc và tôi phải tuân theo truyền thống. Biết đâu
các nhà chiêm tinh chẳng tiên tri rằng tôi sinh ra đời để làm một
chuyên viên thả diều? Tôi chỉ có thể đợi chờ và hy vọng.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét