Lịch sử Trung Quốc - từ Bát vương chi loạn đến Ngũ đại Thập quốc
Bát vương chi loạn
Cùng với cái chết của Vũ đế sự suy yếu xông đến với triều đình: con Vũ đế là Huệ Đế, một hoàng đế đần độn. Quyền hành rơi vào tay hoàng hậu Giả Nam Phong. Bà vốn đa nghi và bắt đầu bắt giữ và hành quyết bất kỳ ai mà bà cho là một mối đe doạ cho vị trí của mình, kể cả những kẻ đối lập bên trong hoàng gia. Cuộc xung đột nổ ra giữa các hoàng thân nhà Tấn, sử gọi là "loạn tám vương" (Bát vương chi loạn)Nhiều vương công và hàng nghìn người khác bị giết. Hoàng hậu họ Giả không thể giết tất cả những kẻ đối nghịch với mình, và năm 300, một hoàng thân là Triệu vương Tư Mã Luân đã làm đảo chính, giết Giả Hoàng hậu và nhiều người khác, đồng thời ép vị vua nhu nhược phải nhường ngôi. Đến lượt các vương hầu khác khởi binh chống lại Tư Mã Luân và giết ông chỉ sau 3 tháng. Vị vua nhu nhược Tư Mã Trung lại được lập làm hoàng đế lần thứ hai. Tuy nhiên, cuộc chiến giữa các vương hầu không hề kết thúc. Số lượng người chết vì cuộc chiến thật khủng khiếp! Thêm vào đó, hạn hán và nạn đói liên tiếp xảy ra. Chính phủ trung ương suy yếu và hoàn toàn bất lực trước sức mạnh của các lãnh chúa địa phương. Chu kỳ bước qua giai đoạn thống nhất giờ lại bước vào giai đoạn tan rã.
Khổng giáo, Phật giáo thời Tây Tấn
Với sự tan rã của Hán triều, các bộ tộc Hung nô từ phía bắc Trung Quốc thấy cơ hội để tiếp tục cướp phá những vùng đông dân của Trung Quốc. Giống như điều xảy ra ở châu Âu, sự đổ vỡ của chính phủ thúc đẩy nông dân từ bỏ sự độc lập của mình và tập hợp lại với nhau để được bảo vệ dưới một ông chúa đất có lực lượng gồm những người có trang bị vũ khí. Các nông dân chạy trốn để khỏi phải đóng thuế cho nhà nước và đi lao động công ích, nhưng lại trở thành nông nô của ông chúa đất.Giống như sự suy tàn của tôn giáo chính thức trong thời đại khó khăn ở Rome, Khổng giáo cũng bị như vậy trong thời hỗn loạn ở Hán triều. Khổng giáo từng là tư tưởng của tầng lớp tiểu quý tộc và quý tộc Trung Quốc và vốn thống trị trong giáo dục và hành chính của đế chế, nhưng với việc đạo đức rất ít thấy trong số những người nắm quyền, nhiều người tinh hoa Trung Quốc quay sang coi Khổng giáo là biện hộ cho sự trung thành đối với kẻ cai trị là thứ không thích hợp và nhiều người coi Khổng giáo là đã không đáp ứng được với nhu cầu của thời đại.
Họ không nghiên cứu Khổng giáo nữa mà tìm kiếm một tư tưởng khác để thay thế và một trong số đó là Đạo giáo. Một thứ khác nữa là Phật giáo, mà theo truyền thuyết đã du nhập vào Trung Quốc năm 65, trong một giấc mơ của hoàng đế Mingdi nhà Hán. Một lý thuyết đối nghịch cho rằng Phật giáo đã nhập với Hindu giáo khi phát triển về phía đông với những nhà buôn Ấn Độ, Phật giáo vào Trung Quốc qua những nhà buôn vào lục địa qua Trung Á trong thế kỷ đầu tiên. Triều đình nhà Hán, theo ghi chép, chào đón Phật giáo vào Trung Quốc. Nhưng Phật giáo vẫn bị cô lập trong thời nhà Hán, chỉ được các nhà buôn Ấn Độ gia nhập - những người chi tiền và hiến đất để xây các chùa Phật giáo và sử dụng chúng làm nhà băng và nơi cất giữ hàng hóa.
Người Trung Quốc đầu tiên đổi sang Phật giáo là những người thuê đất đai của nhà chùa. Các dạy dỗ Phật giáo được dịch sang tiếng Trung Quốc. Sau đó với sự sụp đổ của Hán triều, việc theo Phật giáo ngày càng phát triển trong dân chúng Trung Quốc. Họ không biết nhiều về học thuyết của Phật giáo, nhưng họ có được sự an ủi trong Phật giáo. Các chùa Phật giáo và những lễ nghi phức tạp rất ấn tượng, và Phật giáo là một thông điệp ấm áp hơn thông điệp của Khổng giáo: một thông điệp về sự cứu rỗi thông qua sự tiết chế hay kiêng khem và thông điệp về lòng trắc ẩn cho mọi sinh vật. Cả Phật giáo Đại thừa và Tiểu thừa đều có mặt ở Trung Quốc, nhưng phái Đại thừa với các thần phật cứu rỗi và hay giúp đỡ ở mức thống trị.
Chia cắt Ngũ Hồ loạn Hoa và Nam Bắc triều
Ngũ Hồ loạn Hoa
Sau loạn bát vương, Tây Tấn suy yếu cực độ và bị các tộc phương bắc xâm chiếm. Năm 316, vua nước Hán Triệu là Lưu Thông tiêu diệt Tây Tấn. Các quý tộc nhà Tấn chạy xuống phía nam tái lập nhà Đông Tấn (ở đất nhà Ngô thời Tam Quốc cũ). Phía bắc bị các tộc người Hồ chiếm giữ, gọi là thời Ngũ Hồ loạn Hoa, gồm 16 nước.Bị cai trị bởi chế độ quân chủ là một điều không may cho Trung Quốc, với những cuộc chiến tranh và đổ máu là phương tiện để tìm ra người kế tục ngôi báu. Những vị vua có năng lực lại bị tiếp nối bởi những vị không năng lực, với tình trạng tham nhũng trong chính phủ và sự xao nhãng quan tâm tới quyền lợi của thường dân. Nếu những người nắm quyền phục thuộc vào nguyện vọng của nhân dân họ sẽ phải làm nhiều việc cho quyền lợi của người dân - như tích trữ lương thực vào những năm được mùa để phòng khi hữu sự. Các chính quyền không có khả năng và luôn thay đổi làm cho Trung Quốc dễ rơi vào tranh giành.
Ở miền nam, Đông Tấn luôn gặp phải nạn bè phái và sự trỗi dậy của các quyền thần, loạn thần nhân khi "thiên tử" suy yếu, điển hình là Vương Đôn, cha con Hoàn Ôn - Hoàn Huyền. Thêm vào đó, những cuộc nổi dậy của nông dân, nhất là là khởi nghĩa Lư Tuần đầu thế kỷ 5 khiến nhà Tấn càng suy yếu. Điều đó khiến Đông Tấn rất ít khi có cơ hội mở các cuộc tấn công bắc phạt để giành lại quyền kiểm soát trung nguyên, dù ở miền bắc đã không ít lần có những biến động thuận lợi - sự tan rã, suy yếu của các chính quyền Ngũ Hồ - để làm điều đó. Năm 420, quyền thần Lưu Dụ, phát triển thế lực nhờ dẹp khởi nghĩa Lư Tuần và diệt được 2 trong số các nước Ngũ Hồ phía bắc, mở đất đến Quan Trung và sông Hoài, thực hiện cướp ngôi nhà Tấn, lập ra nhà Tống, sử gọi là Lưu Tống.
Trong khi đó ở miền bắc sau khi nhà Tấn mất quyền kiểm soát, các bộ tộc Hồ gây chiến liên miên với nhau và với người Hán. Có hơn 20 quốc gia đã hình thành và diệt vong trong thời gian đó, nhưng 16 nước được sử hay nhắc tới. Tình hình miền bắc được các sử gia chia làm hai giai đoạn lớn: Từ năm 383 trở về trước và sau năm 383.
Trước năm 383, sử Ngũ Hồ loạn Hoa có sự ra đời và diệt vong của các nước Hán Triệu (304-329), Hậu Triệu (319-352), Thành Hán (303 - 347), Tiền Lương (314-376), Tiền Yên (317-371), Tiền Tần (351-394). Các quốc gia này, song song với việc đánh chiếm được đất đai của nhà Tấn và chống lại những cuộc bắc phạt của nhà Tấn đã quay sang đánh lẫn nhau. Tới năm 376, khi vua Tiền Tần là Phù Kiên diệt nước Tiền Lương và Bắc Đại (nước của người Tiên Ty, không được nhắc tới trong 16 nước), thống nhất miền bắc, cơ bản Trung Quốc chỉ còn 2 nước Tần và Tấn chống nhau.
Năm 383, Phù Kiên huy động 100 vạn quân đa sắc tộc đi đánh Đông Tấn để thống nhất Trung Quốc, nhưng bị thảm bại ở trận Phì Thủy nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc.
Ngay sau trận Phì Thủy 383, Tiền Tần suy yếu và tan rã nhanh chóng. Các bộ tộc cũ của người Hung Nô, Tiên Ty, Khương lại nổi dậy chia cắt miền bắc, hình thành các nước Hậu Lương, Bắc Lương, Tây Lương, Nam Lương, Hậu Yên, Bắc Yên, Nam Yên, Tiền Tần, Hậu Tần và Tây Tần và Hạ. Nước Bắc Đại của họ Thác Bạt cũng phục hồi năm 386 với tên là Bắc Ngụy và dần dần lớn mạnh.
Bắc Ngụy lần lượt diệt các nước Ngũ Hồ phía bắc, thống nhất miền bắc năm 439.
Nam Bắc triều
Không lâu sau khi Lưu Dụ lập ra nhà Tống, Bắc Ngụy cũng thống nhất miền bắc, kết thúc thời Ngũ Hồ loạn Hoa. Từ đó trong một thời gian dài, miền nam và miền bắc ít bị chia cắt hơn loạn Ngũ Hồ, duy trì biên giới tương đối ổn định và có sự kế tục nhau của các thế lực phong kiến cai trị hai miền.
Năm 453, vua Bắc Ngụy dốc toàn quân đánh Lưu Tống để thống nhất Trung Quốc. Vua Tống là Văn Đế Lưu Nghĩa Long cũng mang sức cả nước ra chống lại. Kết quả không ai thắng ai, nhưng sau đó cả hai bên đều suy yếu, nhất là nhà Tống ở miền nam vốn có tiềm lực nhỏ hơn.
Bắc Ngụy tập trung vào phát triển kinh tế và xây dựng. Sau một thời gian, triều đình này Hán hóa rất mạnh, tới cuối thế kỷ 5 đổi từ họ Thác Bạt sang họ Nguyên.
Ở phía Nam, một chuỗi các gia tộc Hán vốn đã leo lên và rơi xuống khỏi quyền lực trong khi lao vào các trận chém giết, coi đó là cách để giải quyết xung đột về việc ai sẽ cai trị. Nhà Tống suy yếu, bị quyền thần Tiêu Đạo Thành tiêu diệt lập ra nhà Nam Tề (479). Được hơn 20 năm (502), một người em họ của Tiêu Đạo Thành là Tiêu Diễn diệt cháu chắt của anh họ mình, lập ra nhà Lương. Theo sách Mưu lược người xưa[2], các nhà sử học Trung Quốc đã thống kê ra: chỉ từ cuối thời Đông Hán tới khi Lương Vũ Đế Tiêu Diễn lên ngôi đã có gần 300 người xưng vương hay xưng đế[3]. Điều đó đủ cho thấy mức độ loạn lạc của Trung Quốc từ thời Tam Quốc tới Nam Bắc triều.
Ở cả miền nam và miền bắc, tuy chiến tranh chấm dứt nhưng bạo loạn, tranh chấp trong cung đình vẫn liên tục xảy ra giữa những người thân tộc.
Để chống họa ngoại thích, các vua Bắc Ngụy đặt ra lệ: trong các hoàng tử, ai được lập làm thái tử thì mẹ người đó phải chết. Nhưng tới Tuyên Vũ đế Nguyên Khác lại phá lệ vì yêu Hồ hậu, nên để cho mẹ thái tử Hủ được sống. Năm 515, Nguyên Khác chết, Nguyên Hủ lên thay. Quyền lực nhà Bắc Ngụy lập tức rơi vào tay Thái hậu nhiếp chính họ Hồ. Bà là người rất sùng đạo Phật, tuy vậy lại sử dụng thủ đoạn rất tàn độc với những người mà bà không thích, kể cả những người cùng gia tộc. Năm 528, bà hành quyết cả Nguyên Hủ vì Hủ không ngừng muốn thoát khỏi tình trạng giám hộ của bà.
Lập tức, các tướng lãnh nổi loạn. Năm 530, Nhĩ Chu Vinh, một đại tướng đang cầm quân bên ngoài đã đem quân vào kinh thành giết chết Hồ Thái hậu và cả Nguyên Tử Du, vị vua kế vị mới vừa được bà lập nên. Từ đó đại loạn bắt đầu nổ ra.
Nhĩ Chu Vinh và em là Nhĩ Chu Triệu cùng hàng loạt vua Ngụy bù nhìn như Nguyên Diệp, Nguyên Cung, Nguyên Lãng, Nguyên Tu bị giết trong cuộc hỗn chiến. Hai quyền thần mới, vốn là thủ hạ của các lực lượng quân phiệt hỗn chiến, nổi lên trong chính trường sau khi lớp trước bị thủ tiêu là Cao Hoan và Vũ Văn Thái, chia nhau giữ đất Bắc Nguỵ.
Tình trạng lọan lạc kéo dài dẫn đến việc triều đình Bắc Ngụy bị chia làm hai là Đông Ngụy và Tây Ngụy vào năm 534. Tuy nhiên, cả hai triều đình này không tồn tại được lâu, vì quyền lực thực tế đều nằm trong các tướng lĩnh quân sự. Ở phía đông, Cao Hoan khống chế Đông Nguỵ, phía tây Vũ Văn Thái thao túng Tây Nguỵ. Năm 550 con thứ Cao Hoan là Cao Dương đã phế truất vị vua duy nhất của triều Đông Ngụy là Nguyên Thiện Kiến để lên làm vua, lập nên triều đình Bắc Tề vào. Không lâu sau đó, ở Tây Ngụy, quyền thần Vũ Văn Giác (con Vũ Văn Thái) ép vị vua cuối cùng của nhà Tây Ngụy là Nguyên Khuếch nhường ngôi cho mình vào năm 557, lập nên nhà Chu, sử gọi là Bắc Chu.
Các vị vua của Bắc Chu không ngừng lại ở đó mà tiếp tục thực hiện các chiến dịch quân sự để đánh phá người láng giềng Bắc Tề. Vào năm 577, vua Bắc Chu là Vũ Đế Vũ Văn Ung tiêu diệt Bắc Tề, thống nhất miền bắc bằng vũ lực. Tuy nhiên, ngay sau đó Chu Vũ Đế mất, con trai ông là Chu Tuyên Đế lại mải chơi không thể giữ gìn được sự nghiệp và chết yểu.
Nhà Tuỳ
Một quý tộc người Hán là Dương Kiên đã chiếm lấy quyền lực. Ông thẳng tay giết hại vương thất nhà Bắc Chu, dọn sạch con đường bước lên ngai vàng. Năm 581, ông phế truất vị vua cuối cùng của Bác Chu là Vũ Văn Xiển, lên ngôi hoàng đế, lập nên nhà Tùy. Chín năm sau, ông tiêu diệt vương quốc Trần ở phía Nam, thống nhất toàn bộ Trung Quốc sau gần 300 năm phân liệt.
Văn đế
Từ cuối thời Tây Tấn đến thời đại Nam Bắc Triều, các tộc thiểu số phía Bắc và phía Tây tiến vào Trung Nguyên, ảnh hưởng của văn hóa kinh tế phong kiến của dân tộc trường kỳ chống áp bức và bóc lột, hình thành một sự hòa hợp chủng tộc mà dân tộc Hán là trung tâm. Dân tộc Hán chạy về phía Nam cũng đem theo công cụ sản xuất kỹ thuật sản xuất tiến bộ, nhân dân và sĩ phu cùng nhau cần cù xây dựng miền Nam làm cho miền Nam Trung Quốc lúc bấy giờ phát triển cả về kinh tế và xã hội. Với xu thế xã hội lúc bấy giờ, Tuỳ Văn đế Dương Kiên tiến xuống phía Nam diệt nhà Trần của Trần Thúc Bảo, đó là điều kiện có lợi cho thống nhất Trung Quốc để xây dựng vương triều Tuỳ lấy dân tộc Hán làm chủ. Nhà Tuỳ tiếp tục thực hiện các cuộc cải cách về kinh tế và chính trị. Những cuộc cải cách này cũng đã củng cố được nền thống trị mới, xúc tiến được sự phát triển của miền Bắc Trung Quốc, phục hồi sản xuất, thế lực của nhà Tuỳ tăng lên nhanh chóng. Năm 589, sau khi diệt được triều Trần, kết thúc cục diện chia cắt lâu dài, nhà Tuỳ đã thực hiện hàng loạt chính sách ổn định xã hội, phát triển sản xuât. Tuỳ Văn đế đầu tiên đẫ trấn áp hết các thế lực phiến loạn và bạo động., tiêu diệt các mầm mống phản loạn, đồng thời vẫn tôn trọng các quý tộc Tiên Ty, lấy việc hòa hoãn để giải quyết mâu thuẫn giữa các tập đoàn thống trị.Theo đà phát triển của nông nghiệp, Văn đế đã phái các quan đến nhiều nơi xem xét và chia lại ruộng đất, nhân dân đều có ruộng, nơi nào thiếu ruộng đất, họ buộc phải đi khẩn hoang, do đó diện tích cầy cấy tăng lên nhanh chóng. Ngoài việc giải quyết vấn đề sức lao động và phân phối lại ruộng đất, còn thực hiện bỏ các quận, lập các châu, cải tổ hệ thống pháp luật, trừng trị tham quan, xây dựng các kho dự trữ để phòng lúc đói kém trợ giúp nhân dân. Vương triều Tuỳ lúc đầu để tập trung và nắm vững vật chất củng cố chính quyền trung ương, đã thi hành nhiều biện pháp tiến bộ, dân chúng tuân theo, hăng hái đóng góp sức người sức của để xây dựng đất nước.
Về mặt công nghiệp, triều đình đặc biệt chú ý đào mương, sông ngòi, nối các dòng sông với nhau. Ví dụ như việc nối sông Hoàng Hà với sông Vị tạo nước tưới, đồng thời cũng tạo điều kiện cho việc thông thương. Một trong những tiêu chuẩn để nhà Tuỳ tăng thêm sức lực là khẩn điền và tăng thêm nhân khẩu. Mục đích tăng nhân khẩu là để là để lấy người lao động và bổ sung vào quân đội thường trực, vì một thời gian dài chiến tranh liên miên nên dân số quá hao hụt. Những tài sản do nhân dân lao động làm ra để nuôi dưỡng tập đoàn thống trị thì nay nhà Tuỳ đã đem phân phát bớt cho dân chúng, nên chính quyền được dân tin, củng cố. Những tiến bộ trên chỉ được duy trì và thực hiện khi Văn đế nắm quyền, còn khi Tùy Dạng đế lên kế vị thì đã không còn.
Dạng đế
Năm 604, Dương Quảng lên ngôi, lấy hiệu là Đại Nghiệp (大業). Do sự phát triển của kinh tế xã hội thời kì đầu nhà Tùy, nhờ sự cần mẫn của vua cha, vương triều đã tích lũy được nhiều của cải. Nhưng Dạng đế lại đi ngược chính sách của cha, tàn bạo bóc lột nhân dân, mặt khác tiến hành các cuộc chiến tranh xâm lược, chinh phạt. Dạng đế bỏ nhiều tiền của để xây dựng kinh đô Lạc Dương, cung điện thành quách nguy nga, bắt dân lên rừng xuống biển để tìm thú quý, cá đẹp, cây lạ để đem về nuôi ở vườn Ngự Uyển. Tây Uyển ở gần Lạc Dương, chu vi đến 200 dặm, có hồ lớn chu vi hơn 10 dặm, có cả núi giả. Để thỏa mã thú vui, Dạng đế đã bắt dân tìm hàng triệu con đom đóm cho vào vườn Ngự Uyển để thay cho ánh đèn, tăng vẻ đẹp cho vườn lạ. Bên cạnh đó, Dạng đế đã phát động các cuộc chiến tranh xâm lược Triều Tiên, chỉ toàn thất bại. Bao sức người sức của mà Văn đế dày công vun đắp đến thời Dạng đế đã bị hủy hoại, cơ nghiệp nhà Tuỳ tan rã. Dân chúng không biết dựa vào đâu mà sống, liền nổi dậy chống lại triều đình ở khắp mọi nơi. Năm 616, Tuỳ Dạng đế trước các cuộc khởi nghĩa của nông dân, vẫn chưa chịu nhận ra, lại tuần du xuống Giang Đô. Thuyền rồng của Dạng đế còn chưa về đến Giang Đô, thì đường quay về ở phía bắc đã bị cắt đứt. Năm Đại Nghiệp thứ 13 (617), Dạng đế bị thống lĩnh Cấm vệ quân là Vũ Văn Hóa Cập sát hại. Vương triều Tùy dựng được 38 năm bị diệt vong.Nhà Đường
Năm 618, cuộc nội chiến kết thúc, Đường quốc công Lý Uyên là người thắng trận. Ông tái thống nhất Trung Quốc, mở đầu thời đại nhà Đường và được tôn xưng là Đường Cao Tổ. Tuy nhiên, các con ông lại đánh nhau để giành quyền thừa kế ngai vàng. Hai người con trai của ông là Lý Kiến Thành và Lý Nguyên Cát đã thiệt mạng trong cuộc tranh giành quyền lực này. Lý Uyên chỉ còn một sự lựa chon duy nhất là Lý Thế Dân, con trai đã trưởng thành duy nhất còn sống sót[4]. Năm 626, Lý Uyên nhường ngôi là cho Lý Thế Dân, người mà về sau đã đưa đất nước Trung Quốc quay trở lại thời thịnh vượng và vàng son.
Tuy nhiên, người thừa kế của Thái Tông Lý Thế Dân là Cao Tông lại là một người ốm yếu như nhược, và là nguyên nhân làm cho Trung Quốc rơi vào xung đột và giết chóc. Quá trình hỗn loạn này bắt đầu khi người thiếp của Cao Tông là Võ Tắc Thiên, tìm cách thúc đẩy ông ta đưa bà lên thay hoàng hậu. Võ Tắc Thiên dùng những phương cách truyền thống để tống khứ những kẻ đối nghịch: bà giết hoàng hậu cùng một số kẻ khác. Võ Tắc Thiên trở thành Hoàng hậu, và bà đày ải, giết hại và bắt hàng chục quan chức lớn tuổi tự sát.
Vua Cao Tông phải chịu một sự khủng hoảng trong 11 năm cầm quyền của mình, trở nên yếu đuối và tầm thường. Võ Hậu củng cố hơn nữa quyền lực của mình. Bà giết các tôn thất họ Lý mà bà coi là đối thủ, và bà đưa các thành viên gia tộc của mình lên nắm quyền. Năm 690, bà phế truất chính người con của mình là Lý Đán để tự mình lên làm vua khi đã 67 tuổi, lập nên một triều đình ngắn ngủi với danh hiệu là Chu.
Võ Tắc Thiên là vị Nữ hoàng đế duy nhất trong lịch sử Trung Quốc. Bằng cách sử dụng những kẻ chỉ điểm, bà lập lên một chính quyền cai trị dựa trên sự sợ hãi. Bà thanh lọc các trí thức Khổng giáo và các thành phần chống đối khác. Nhưng bà cũng xây dựng lên một nền tảng chính trị bằng cách cung cấp đủ những nhu cầu công cộng và thăng chức cho những vị quan ủng hộ mình. Bà rất sùng kính đạo Phật và tập trung quanh mình những người đàn ông sùng đạo như bà, các nhà sư và ra lệnh dựng chùa ở mọi quận huyện.
Khi tuổi đã già, nữ hoàng họ Võ mất dần quyền kiểm soát triểu đình, và năm 705 các quan lại ở triều buộc bà rút lui để trả lại ngôi vua cho một người con của bà là Lý Hiển, vốn đã bị bà phế truất vào năm 684. Trung Tông Lý Hiển trở lại ngai vàng và cai trị tới tận khi ông chết vào năm 710 - vợ ông, hoàng hậu họ Vi, bị nghi ngờ đã đầu độc ông. Vi hậu tìm cách cai trị giống như Võ hậu. Bà bán chức tước và quyền làm sư sãi, và bà cũng đứng đằng sau những vụ tham nhũng trong triều. Bà đã tạo ra các đối thủ mà bà không thể tiêu diệt, và họ đã tập hợp lực lượng để làm cuộc đảo chính giết chết Vi hậu, đưa vị vua vốn cũng bị Võ Tắc Thiên phế truất là Lý Đán trở lại ngai vàng.
Đến lượt các đồng minh này lại đánh nhau. Tuy nhiên, cuộc tranh giành quyền lực nhanh chóng kết thúc với ưu thế tuyệt đối của một hoàng tử nhà Đường, người được kế thừa ngôi vua vào năm 712, Huyền Tông Lý Long Cơ.
Huyền Tông lên nắm quyền ở tuổi 28 và ở ngôi 44 năm. Ông năng động và can đảm, và dưới thời ông, sự thịnh vượng quay trở lại. Nhưng vào những năm cuối đời ông ngày càng bị lôi cuốn vào tư tưởng Đạo giáo và không quan tâm đến cai trị nữa. Sau năm 745 ông say mê một người thiếp của mình là Dương Quý Phi và bỏ rơi triều chính. Triều đình trở nên hỗ loạn bởi sự tranh giành ảnh hưởng của các đại thần trong triều và các quân phiệt địa phương. Trung Quốc nhanh chóng lại rơi vào tình trạng suy sụp.
Năm 715, các đội quân Hồi giáo đánh bại Trung Quốc ở Trung Á, cắt đứt con đường dẫn tới phía Tây và Ấn Độ của Trung Quốc. Những người Hồi giáo thay thế người Trung Quốc trong vị thế ảnh hưởng thống trị dọc theo Con đường tơ lụa, và các tiểu quốc bộ tộc ở biên giới Trung Quốc dần dần có nhiều ảnh hưởng. Năm 755, An Lộc Sơn, một vị tướng có nguồn gốc Thổ Nhĩ Kỳ và là tình nhân của Dương Quý Phi tiến đánh kinh thành Trường An, buộc Huyền Tông và triều thần phải lưu vong. Cuộc bạo loạn này tuy chỉ kéo dài trong 8 năm (756-763) và con Huyền Tông là Lý Hanh cuối cùng cũng lấy lại được ngai vàng, nhưng cuộc tranh quyền lực giữa các đại thần trung ương và các thủ lĩnh quân sự địa phương vẫn diễn ra gay gắt.
Trong thời Vũ Tông Lý Viêm, vốn là người theo Đạo giáo, ông cho đóng cửa chùa Phật giáo, bắt sư sãi đạo Phật phải hoàn tục và tịch thu hàng triệu mẫu đất trồng trọt cho nhà nước sử dụng. Đạo Phật ở Trung Quốc sống sót nhưng không bao giờ đạt lại được mức cũ, trong khi đối thủ của Phật giáo, Khổng giáo lại hồi phục lại trong giới trí thức.
Đạo giáo tuy được trọng dụng nhưng không phát triểu được thành quốc giáo. Tuy nhiên, những người theo Đạo giáo đã kiếm lợi được từ việc thực hiện các thí nghiệm hóa học. Những người theo Khổng giáo xem đó như là một phần của sự thô tục của Đạo giáo - như thuộc về những người bình dân. Những nhà Nho vốn có thành kiến xấu về hóa học, điều này đã làm cho khoa học ở Trung Quốc chậm phát triển. Nho giáo tin tưởng việc học tập tốt nhất là dành cho văn học và lịch sử - những kiểu văn học và lịch sử của họ.
Trong cuộc tranh giành quyền lực triều đình, bất ngờ trỗi lên một lực lượng thứ ba. Đó là nhóm các vị hoạn quan. Nhóm này tỏ ra biết các luồn lách khéo léo, lợi dụng của hai bên kia để nắm được quyền lực triều đình. Ở những năm cuối của triều Đường, các hoạn quan hoàn toàn thao túng triều đình, thậm chí có thể lựa chọn người sẽ lên làm vua. Trong 22 vị vua của nhà Đường, thì đã có 10 vị do các hoạn quan lập nên. Tất cả đều ở những năm cuối cùng của triều Đường.
Ngũ đại Thập quốc
Năm 907, một lãnh chúa là Chu Ôn lật đổ ngai vàng nhà Đường và lập lên triều Lương, một trong năm triều đại ngắn ngủi kế tiếp nhau thống trị bắc Trung Quốc trong nửa thế kỷ: Hậu Đường (923-936), Hậu Tấn (936-947), Hậu Hán (947-950), Hậu Chu (951-959). Ở phía nam, các lãnh chúa cát cứ vùng đất của mình và lần lượt thành lập mười tiểu quốc nhỏ và không ngừng tìm kiếm phương cách để thôn tính lẫn nhau: Tiền Thục, Hậu Thục, Ngô, Ngô Việt, Nam Đường, Mân, Sở, Nam Hán, Nam Bình. Tới năm 951, một hoàng thân nhà Hậu Hán chiếm giữ Thái Nguyên lập ra nước Bắc Hán. Thời kỳ này, người Trung Quốc gọi là Ngũ Đại Thập Quốc.
Ở cực bắc Trung Quốc, những bộ tộc người du mục và bán du mục nhiều sắc tộc đã thống nhất lại thành một vương triều vào năm 916, một chính quyền chiếm hữu nô lệ hoàn chỉnh với tên gọi là Khiết Đan, đôi lúc gọi là Liêu. Thậm chí, họ còn phát triển thế lực mạnh mẽ, chiếm hữu của người Trung Quốc vùng lãnh thổ cực bắc, vùng đất bao gồm cả thành phố Bắc Kinh ngày nay, tới tận khi nhà Tống chấm dứt được cục diện chia cắt mười nước vẫn không lấy lại được vùng đất đó.
http://bacsingan.vnweblogs.com/post/10824/127206
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét