CỘNG HÒA
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
ĐỘC LẬP-
TỰ DO – HẠNH PHÚC
Lịch sử
và nguồn gốc của Họ Lưu Làng Yên Tôn Hạ, xã Vĩnh Yên, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh
Thanh Hoá
I. Lịch
sử và nguồn gốc.
Họ Lưu chính quê ở làng Đan Nê, xã Yên Thọ,
huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa. Từ làng Đan Nê ông cha ta đã từ giã
quê hương của chính mình đi làm nghề dạy học chữ Hán Nôm ngày xưa do triều đình
phong kiến áp đặt. Ông tên
là: Lưu Huy Đễ, ông làm nghề dạy học ở làng Yên Tôn Hạ, xã Vĩnh Yên, huyện Vĩnh
Lộc, Tỉnh Thanh Hóa. Ông sang
đây dạy học với tư cách là một nhà nho giáo, từ đó bà con, già trẻ, trai gái
trong làng ai cũng mến phục. Trong thời gian dạy học ông đã kết duyên cùng bà:
Vũ Thị Nhàn, con ông: Cử Võ, người làng Phù Lưu, xã Vĩnh Yên, huyện Vĩnh Lộc,
Tỉnh Thanh Hóa. Khi kết
duyên cùng bà Vũ Thị Nhàn ông đã sinh được một người con trai và một người con gái. Con trai
tên là : Lưu Huy Tố, Con gái
không rõ tên...
Ông Lưu
Huy Tố kết duyên cùng bà Trịnh Thị Huệ (không rõ nguồn gốc bà Huệ) sinh được 3
người con trai tên là:
1/ Ông
Lưu Huy Khoát
2/ Ông
Lưu Huy Đạt
3/ Ông
Lưu Huy Đại
Ngoài ra ông Lưu Huy Tố còn kết duyên cùng
bà: Trịnh Thị Thính (vợ hai ông Tố và không rõ quê quán) và sinh được một người
con gái (không rõ tên) sau đó lấy chồng về họ ông Trình.
II Các
chi và các cành.
A . CHI
THỨ NHẤT
1. Ông
Lưu Huy Khoát
Ông
không có vợ, không có con, ông mất lúc còn nhỏ.
2. Ông
Lưu Huy Đạt
Lấy bà
Nguyễn Thị Phàn (không rõ làng nào) sinh được 3 người con trai và 1 người con
gái tên là:
1. Ông
Lưu Huy Cung (mất lúc còn nhỏ)
2. Ông
Lưu Huy Quyển
3. Ông
Lưu Huy Quốn
4. Bà Lưu Thị Ba (lấy chống ở làng
Yên Tôn Thượng rồi mất)
I. Cành
thứ nhất.
Ông Lưu
Huy Quyển lấy bà Trịnh Thị Phẩm, vợ kế là bà Trịnh Thị Dần.
Bà Phẩm sinh được ông Lưu Huy Uyển, lấy bà
Nguyễn Thị Pháo thuộc họ ông Nguyễn Văn Nghĩa (Đắc). Bà Pháo sinh được 3 người
con gái tên là:
- Chị Lưu Thị Lói
- Chị
Lưu Thị Soai (đã mất)
- Chị
Lưu Thị Doai (đã mất )
Bà Dần
sinh được 3 người con gái và một người con trai tên là:
- Lưu
Thị Dung
- Lưu
văn Bao
- Lưu
Thị Bảnh
- Lưu
Thị Bối
Bà Dung
lấy chồng Phù Lưu tên là Nguyễn Văn Nam, hiện nay về cành nhà anh Mên.
Bà Bảnh
lấy chồng là ông Nguyễn văn Thặn thuộc cành ông Cờ, bà Lắm.
Bà Bối
lấy chồng làng Đông Môn xã Vĩnh Long (hiện không có con cái gì)
Ông Lưu
văn Bao lấy bà: Nguyễn thị Ngượn (đã mất) và bà kế là bà: Nguyễn Thị Nhượng.
Bà Ngượn
sinh được 3 người con trai và 3 người con gái:
Con
trai:
- Lưu
Văn Tích (mất lúc còn nhỏ)
- Lưu
Văn Cổn
- Lưu
Văn Trung
Con gái:
- Lưu
Thị Thợn (lấy chồng Phù Lưu rồi chuyển đi Hải Phòng)
- Lưu
Thị Chinh (lấy ông Trúc ở làng)
- Lưu
Thị Thạnh (lấy ông Trịnh Văn Khuyến cùng làng)
Bà kế
Nguyễn Thị Nhượng sinh được một người con trai tên là:
- Lưu
Văn Bỉnh
Con trai
thứ nhất,
- Ông
Lưu Văn Cổn lấy bà Nguyễn Thị Đậu thuộc cành ông Kha người cùng làng sinh được
6 người con, 3 trai, 3 gái
Con trai
tên là:
Lưu văn
Kiên (đi bộ đội) lấy Trịnh Thị Nụ con ông Cống sinh được 2 người con là:
- Lưu
Văn Quân
- Lưu
Văn Trường
Lưu văn
Kiệm (đi học) Lấy Nguyễn Thị Triền con ông Sỏi sinh được 2 người con là:
- Lưu
văn Toàn
- Lưu
Văn Tùng
Lưu văn
Kính (đi học) Lấy Trịnh Thị Định con Ông Tiệp sinh được 2 người con là:
- Lưu
Văn Trọng.
- Lưu
Thị Bình
Con gái
tên là:
- Lưu
Thị Điểm (lấy chồng Phù Lưu)
- Lưu
Thị Điền
- Lưu
Thị Thảo (lấy chồng Phù Lưu)
Con trai
thứ 2.
Ông Lưu
Văn Trung lấy bà Nguyễn Thị Cạy sinh được 2 người con là:
- Con trai: Lưu văn Thành lấy Trịnh thị Tựu con
ông Lửng người làng Phù Lưu sinh được 2 người con là:
-Lưu Thị Thường
- Lưu
Xuân Tiến
- Con
gái: Lưu Thị Tâm (lấy chồng Phù Lưu)
Con trai
thứ 3.
Ông Lưu
văn Bỉnh lấy bà Trịnh thị Nhân sinh được 5 người con gái tên là:
- Lưu
Thị Thìn (lấy chồng Phù Lưu)
- Lưu
Thị Nhâm (lấy chồng Phù Lưu)
- Lưu
Thị Nhi (lấy chồng cùng làng)
- Lưu
Thị Thi (lấy chồng làng Thượng)
- Lưu
Thị Thu (lấy chồng làng Đồn)
II. Cành
thứ hai.
Con trai
thứ 2 của ông Lưu huy Đạt tên là Lưu Huy Quốn, lấy bà Nguyễn Thị Vỡi sinh được 3
người con gái và 1 người con trai:
Con trai
tên là: Lưu văn Đa
Con gái
thứ 1 tên là :
- Lưu
Thị Nhiều lấy ông Trịnh văn Nhẫn về cành nhà chú Tia, không may ông Nhẫn mất đi
bà Nhiều đi lấy chồng khác là ông Nguyễn văn Thặn thuộc cành bà Lắm, ông Cờ.
Con gái
thứ 2 tên là:
- Lưu
Thị Choắt lấy ông Trịnh Văn Thiệu người cùng làng hiện nay về cành nhà ông Phổ.
Con gái
thứ 3 tên là:
- Lưu
Thị Chắt lấy ông Nguyễn Văn Bỗng thuộc cành o Lài cùng làng.
Ông Lưu
văn Đa lấy bà Lê Thị Nhỡ về lối nhà anh Tôn, sinh được 2 người con trai tên là:
- Lưu
Văn Xương
- Lưu
Văn Lý (mất lúc còn nhỏ)
Con gái
tên là:
- Lưu
Thị Nạc (mất lúc còn nhỏ)
- Lưu
Thị Nhĩ (mất lúc còn nhỏ)
Bà vợ
thứ 2 của ông Đa tên là Trịnh Thị Tình người thôn Yên Lạc, xã Vĩnh Minh, sinh
được 1 người con gái tên là: Lưu Thị Bình (mất lúc còn nhỏ).
Ông Lưu
Văn Xương lấy bà Nguyễn thị Thắng (đã mất, về cành ông Đồng). Sau đó ông lấy bà
2 tên là: Trịnh Thị Hẹn người cùng làng thuộc cành ông Thới. Bà thứ 3 tên là Đỗ
Thị Nội, người làng Quan Yên, xã Định Hưng, huyện Yên Định, sinh được 1 người
con trai tên là Lưu văn Khương (đã mất)
Bà Trịnh
Thị Hẹn sinh được 7 người con, 3 trai, 4 gái tên là:
Con trai
thứ 1 tên là:
Lưu văn
Chương lấy bà Nguyễn thị Lan, sinh được 4 người con, 2 trai, 2 gái tên là:
- Lưu
Thị Lân.
- Lưu
Huy Ngọc.
- Lưu
Thị Loan.
- Lưu
Huy Cương
Hiện nay
gia đình đang sinh sống tại TP Thanh Hóa.
Con trai
thứ 2 tên là: Lưu Văn Phương đi bộ đội năm 1968 đến năm 1973 hy sinh tại mặt
trận phía Nam.
Con trai
thứ 3 tên là: Lưu Văn Lương lấy bà Vũ thị Mầu người làng Phù Lưu, sinh được 2
người con trai tên là:
- Lưu
Văn Y
- Lưu
Văn Khoa
Con gái
tên là:
- Lưu
Thị Hặn, lấy chồng Phù Lưu
- Lưu
Thị Hiền lấy chồng Phù Lưu
- Lưu
Thị Hậu lấy chồng cùng làng
- Lưu
Thị Hiệu lấy chồng làng Thượng
Ngoài ra
ông Lưu Huy Quốn nhận nuôi một người con nuôi tên là: Trần văn Đỗ lấy bà Nguyễn
thị Lắt người cùng làng sinh được 3 người con là:
- Trần
thị Giá
- Trần
Thị Gương
- Trần
Văn Soi
Trên đây
là cành thứ II.
B. CHI
THỨ HAI:
Cành thứ
III
Ông Lưu
Huy Đại lấy bà Trịnh Thị Thẩm về dòng họ nhà ông Đức hiện tại, sinh được ba
người con trai tên là:
1. Ông
Lưu Văn Độ
2. Ông
Lưu Văn Chế
3. Ông
Lưu Văn Tiết
- Ông
Lưu Văn Độ: lấy 3 người vợ:
Người vợ
thứ nhất: tên là Trịnh Thị Lan thuộc dòng họ ông Trình, sinh được 1 người con
gái tên là Lưu Thị Tằng, lấy ông Trịnh Văn Tiến, người Cẩm Thủy tỉnh Thanh Hóa.
Người vợ
thứ hai: tên là Nguyễn Thị Cấn, dòng họ ông Trợ, sinh được 1 người con gái tên
là Lưu Thị Kỳ, lấy ông Phùng Văn Quằng người cùng làng.
Người vợ
thứ ba: tên là Trịnh Thị Dự, dòng họ ông Trịnh Văn Dương sinh được 3 người con
là:
1. Lưu
Văn Quẫy
2. Lưu
Văn Tựa
3. Lưu
Thị Thuyết lấy ông Nguyễn Hữu Viên người cùng làng.
Ông Lưu
Văn Quẫy (Mất năm 1986-giỗ ngày 29 tháng chạp) lấy 2 người vợ: Vợ thứ nhất: tên
là Trịnh Thị Thố, con ông Trịnh Văn Lãm người cùng làng, sinh được 3 người con,
1 trai 2 gái (mất lúc còn nhỏ), 1 người con nuôi tên là Lưu Thị Sinh lấy chồng
người cùng làng.
Vợ thứ 2
tên là: Lê thị Tự người làng Trại, xã Thiệu Duy, huyện Thiệu Yên. Sinh được 1 người con trai
tên là: Lưu văn Võ (mất năm 2015-giỗ ngày 25/11 âm lịch), lấy bà Trịnh thị
Nguyền con ông Trịnh văn Phức người làng Phù Lưu, sinh được 2 con trai và 3 con
gái tên là:
- Lưu Thị Nhung (lấy chồng cùng làng)
- Lưu Tôn Văn
- Lưu Thị Nhưng (lấy chồng cùng làng )
- Lưu Công Bằng
(lấy vợ và sống tại TP HCM)
- Lưu Thị Minh (lấy chồng cùng làng )
Lưu Tôn
Văn lấy Nguyễn Thị Liên sinh được 2 người con:
+ Lưu Thị Hoa (23/02/1990)
+ Lưu Huy Bình (17/11/1992)
Ông Lưu
Huy Tựa (mất năm 1988-giỗ ngày 08/4 âm lịch) lấy 2 vợ.
Bà thứ
1: Đinh thị Khuây về dòng họ ông Đinh văn Khỏa
Bà thứ
2: Trịnh Thị Châu về dòng họ Trịnh ông Mỳ người Phù Lưu. (Mất năm 1998-Giỗ ngày
6 tháng 9 âm lịch)
Bà thứ 1
sinh được 2 người con, 1 trai 1 gái tên là:
Con gái tên là: Lưu thị Thao lấy anh Trịnh
văn Chẩn người cùng làng, hiện nay đang ở Nha Trang.
Con trai
tên là: Lưu Văn Khánh lấy bà Trịnh Thị Cần về dòng họ Trịnh ông Lưu, sinh được
4 người con 2 trai 2 gái:
- Lưu Công
Khẩn
- Lưu Thị Khuyên
- Lưu Văn Khải
- Lưu Thị Can
Lưu Công
Khẩn lấy Nguyễn thị Hương cùng làng sinh được 2 người con tên là:
- Lưu
Thị Hà (Sinh 01/11/1993)
- Lưu
Văn Đặng (18/9/1995)
Hiện nay
gia đình đang sinh sống tại thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai
Bà thứ 2
sinh được 2 người con trai tên là:
- Lưu
văn Chuông
- Lưu
văn Trống (mất lúc còn nhỏ)
Lưu Văn
Chuông (sinh 13/7/1956)-Cử nhân Toán kinh tế; lấy vợ là Nguyễn Thị Ngọc (giáo
viên THCS, thuộc dòng họ Nguyễn nhà ông Trợ cùng làng) Sinh sống ở quê đến
1993, năm 1994 chuyển xuống khu 3 thị trấn huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hoá,
tháng 11/1995 chuyển vào 48 Nguyễn Thái Bình, tp Pleiku-Gia Lai)
Sinh
được hai con trai tại quê:
1.1. Lưu Việt Cường (sinh ngày 09-4-1983)-Kỹ sư
xây dựng
Vợ: Mai thị Thuý Loan (Thuận Nhất-Bình
Thuận-Tây Sơn-Bình Định) cử nhân kinh tế.
Các con: Con trai: Lưu Việt Hoàng, sinh
ngày 03.5.2012
1.2. Lưu
Việt Hùng (sinh ngày 22-08-1988) -Kỹ sư Công nghệ hoá
Vợ: Ngô Nguyễn Khánh Uyên-(31/5/1991)-Thạc sỹ
Tại Italia
Các con:
Hiện nay
vợ chồng đang sinh sống tại Pleiku-tỉnh Gia Lai, các con lập nghiệp tại thành
phố Hồ Chí Minh
Cành thứ
IV.
Ông Lưu
Văn Chế lấy bà Nguyễn Thị Thường và bà Nguyễn Thị Yến người ở huyện Hậu Lộc.
ØBà thứ
1 người cùng làng sinh được 7 người con, 3 con trai, 4 con gái.
- Lưu Thị Xu lấy ông Trịnh văn Ninh người cùng làng
- Lưu Thị Nong (đã mất )
- Lưu Văn Tài (đã mất)
- Lưu Văn Tình (đã mất)
- Lưu Thị Vợn (mất lúc nhỏ)
- Lưu Văn Chính
- Lưu Thị Thặng lấy ông Trịnh Văn Dởn người
cùng làng.
Ông Lưu
Văn Chính lấy bà Trịnh Thị Phễu người cùng làng về họ nhà ông Trình, sinh được
5 người con 3 trai 2 gái tên là:
- Lưu Đức Thọ
- Lưu Thị Khang
- Lưu Thị Hoằng
- Lưu Xuân Vinh
- Lưu Huy Quang
Ông Lưu
Đức Thọ lấy bà Nguyễn Thị Phan đã mất sau đó lấy bà kế Trịnh Thị Vê người làng
Phù Lưu về họ nhà ông Lan, sinh được 3 người con, 1 trai, 2 gái
- Lưu
Đình Phú lấy Lý người xã Quý Lộc sinh được Lưu Huy Quý.
- Lưu
Thị Thảo
- Lưu
Thị Thơm
Ông Lưu
Xuân Vinh lấy bà Khúc Thị Vân người làng Thọ Vực, xã Vĩnh Ninh, huyện Vĩnh Lộc,
sinh được 1 con gái tên là: Lưu Thị Linh ( hiện nay đang sinh sống tại tỉnh
Bình Thuận)
Ông Lưu
Huy Quang lấy bà Trịnh Thị Hồng người làng Phù Lưu, sinh được 4 người con trai
tên là:
- Lưu Huy Cảnh
- Lưu Huy Quân
- Lưu Huy Dũng
- Lưu Ngọc Hùng
Hiện
đang sinh sống tại TP HCM.
Bà Lưu
Thị Khang lấy chồng người làng Thượng
Bà Lưu
Thị Hoằng lấy chồng tên là Nguyễn Văn Tính người cùng làng.
Bà thứ 2
Là Bà Nguyễn Thị Yến quê Huyên Hậu lộc, sinh được Ông Lưu Văn Thống. Ông Thống
lấy bà Nguyễn Thị Bốn về họ ông Trợ cùng làng và sinh được 4 người con, 3 trai,
1 gái:
- Ông
Lưu Văn Thiệu
- Ông
Lưu Văn Thuần
- Bà Lưu
Thị Thục
- Ông Lưu Văn Thế
*Ông Lưu
Văn Thiệu Lấy bà Nguyễn Thị Trác cùng làng vợ cả, Bà Nguyễn Thị Dặm cùng làng vợ kế Sinh được 6
người con
- Lưu
Văn Giới Lấy bà Trịnh Thị Inh xã Quí
lộc-Thiệu yên –Thanh Hóa sinh được
3 người
con :
- Lưu
Văn Tiến
- Lưu
Thị Thanh
- Lưu
Thị Hoa.
- Lưu
Văn Giáp lấy bà Nguyễn Thị Thắm cùng làng sinh được Lưu huy Ngọc
- Lưu
Văn Dũng lấy vợ ở rể Yên Lâm – Thiệu Yên
– Thanh Hóa
- Lưu
Văn Duẩn vợ là Lê Thị Tuyết cùng làng sinh được Lưu Hùng Vương
-
Lưu Thị Duyên lấy chồng Quí Lộc
- Lưu
Văn Dương vợ là Vũ Thị Nhẫn quê làng thượng sinh được
Lưu Văn Hùng.
*Ông Lưu Văn Thuần lấy bà Phạm Thị Thái xã Định Tường- Yên Định - Thanh Hóa sinh được 3 người con :
- Lưu thị Thủy Trú quán tại Thanh Hóa
- Lưu văn Thành Trú quán tại Thanh Hóa
-
Lưu văn Thực Trú quán tại Thanh Hóa
*Ông Lưu Văn Thế lấy bà Nguyễn Thị Cành
người cùng làng sinh được 2 người con trai là:
- Lưu
Văn Thắng
- Lưu
Văn Thông
*Bà Lưu
thị Thục lấy ông Nguyễn văn Nghê người cùng làng
Ông Lưu
văn Tiết lấy bà Trịnh thị Thỡi người cùng làng sinh được 1 người con gái tên
là:
- Lưu
Thị Thơ lấy ông Nguyễn Du Tinh người cùng làng. Sau khi ông Tiết mất đi, bà
Thỡi lấy ông Tòng về cành ông Tôn.
II. Lời
kết
Từ khi
ông cha, tổ tiên ta sinh ra và lớn lên đến nay đã được 8 đời, kể từ ông Lưu Huy
Đễ đến cháu Lưu Văn Quân. Như vậy hiện nay Họ ta có 2 chi, 4 cành.
* Chi
I là chi ông Kiên gồm:
Cành 1:
ông Kiên, ông Thành.
Cành 2:
ông Chương.
* Chi
II là chi ông Võ, ông Thọ gồm:
Cành 3:
Ông Võ, ông Khánh
Cành 4:
Ông Thọ, ông Giới
Làm tại Yên Tôn Hạ
Ngày 05 tháng 12 năm 1982
Tức là
ngày 21 tháng 10 năm Nhâm Tuất.
Đại diện
cho trưởng tộc
Lưu văn
Cổn
SƠ LƯỢC VỀ NGUỒN GỐC HỌ LƯU VIỆT NAM
Họ Lưu là một trong những dòng họ được đề
cập trong lịch sử Việt Nam
rất sớm. Theo Trúc Khê, Ngô Văn Triện [2], đền Đồng Cổ có từ năm 2569 trước
Công Nguyên (TCN), thuộc đời đầu Hùng Vương, tại làng Khả Lao (sau từ đời nhà
Trần gọi là Đan Nê, nay thuộc xã Yên Thọ, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa). Lúc
đó, ở Khả Lao có ba dòng họ Trịnh, Lưu và Hà sinh sống. Từ vùng đất này dòng họ
Lưu đã phát triển lan rộng và chuyển cư sang các địa phương khác.
Sơ lược di tích có ghi “Miếu Đồng Cổ được
khởi dựng từ thời Hùng Vương (2569 TCN)
Tiếp theo, trong truyện cổ tích “Sự tích
trầu cau” thời Hùng Vương, hơn 2000 năm TCN, cô con gái đạo sỹ họ Lưu, lấy
người anh trong cặp sinh đôi họ Cao[3] là học trò của cha cô.
Giai đoạn từ năm 144 đến 705[4], có 11
thứ sử họ Lưu người Trung Hoa sang cai quản Việt Nam . Họ là những người đã đỗ đạt
cao và có năng lực với chức sắc quan trọng trong các triều đại Trung Quốc, do
vậy có nhiều ảnh hưởng đến các vùng họ cai quản. Đặc biệt, từ góc độ dòng họ,
một số quan đô hộ đã lấy vợ người Việt, sinh con cháu tạo nên các chi họ tại
địa phương đó, các thế hệ tiếp theo phần lớn được học hành và được đào tạo
trong điều kiện tốt hơn, trở thành những người có đóng góp cho người dân đất
Việt. Thực tế, không ít quan đô hộ đã trở thành thủy tổ dòng họ Lưu tại Việt
Nam, như Thứ sử Vũ Hồn (841-843) được tôn là Thủy tổ Vũ - Võ... Có thể những
người tùy tùng đi theo các thứ sử hoặc chính các thứ sử mang họ Lưu đã tạo dựng
một số dòng họ Lưu tại một số địa phương, nơi họ sang, như họ Lưu - Dương Quảng
(Gia Lâm, Hà Nội) [5], do một quan viên họ Lưu cùng Thái thú Sĩ Nhiếp sang cai
quản Giao Châu (187-226) [6; tr.80], rồi ở lại để dạy học; hay như họ Lưu - Nguyệt
Áng (Thanh Trì, Hà Nội) từ Bành Thành, Giang Tô sang thời Lê Sơ [7].
Thời kỳ tự chủ của quốc gia Đại Việt
(938-1858), gồm: nhà Ngô, Đinh, Lê (Tiền Lê), Lý, Trần, Lê (Lê Sơ), Mạc, Tây
Sơn và Nguyễn, Họ Lưu Việt Nam có nhiều danh nhân, công thần khai quốc, đóng
góp trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tiêu biểu có Khai quốc công
thần gây dựng nhà Đinh là Thái sư Đô hộ phủ Lưu Cơ (940-1013) [8; tr.403-411]
(Xem Phụ lục 1). Lưu Cơ là người trang Tri Hối, châu Đại Hoàng, Ái Châu (nay
thuộc xã Gia Tân, huyện Gia Viễn, Ninh Bình) là con cầu tự tại Bạch Bát Sơn
Thần (thuộc xã Bạch Liên, Yên Mô, Ninh Bình); Ông cùng Đinh Điền, Nguyễn Bặc,
Trịnh Tú là tứ trụ triều đình lập lên nhà Đinh, nước Đại Cồ Việt, do Đinh Bộ
Lĩnh làm Hoàng đế. Năm 971, sau khi dẹp xong các sứ quân (Lưu Cơ bình định sứ
quân Lý Khuê), yên vị ngôi Hoàng đế, Đinh Tiên Hoàng đã tổ chức bộ máy triều
đình Đại Việt đầu tiên của Việt Nam, Lưu Cơ đứng tên đầu danh sách các quan
trong triều với cương vị Thái sư Đô hộ phủ thành Đại La quan trọng với vai trò
cai quản kho người, vựa lúa của Giao Châu đã được Vua Đinh giao cho vị quan
đứng đầu triều Thái sư trông coi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét