Đập thủy điện Tam Hiệp (Three Gorges dam)
Đây
là một dự án khổng lồ chưa từng thấy, đã gây tranh cãi nhiều nhất thời
hiện đại, đã di dời hơn 1,000,000 dân Trung Quốc vùng này, và nhận chìm
nhiều danh lam thắng cảnh đẹp nổi tiếng của Trung Quốc, cũng như nhiều
di tích lịch sử trong biển nước mênh mông đập nầy tạo ra.
Đập thuỷ điện Tam Hiệp lớn nhất thế giới (Ảnh Internet)
“Đập
Tam Hiệp (chữ Hán: 三峡大坝; bính âm: Sānxiá Dàbà) chặn sông Dương Tử (sông
dài thứ ba trên thế giới) tại Tam Đẩu Bình, Nghi Xương, tỉnh Hồ Bắc,
Trung Quốc.
Việc xây dựng bắt đầu vào năm 1994. Nó là đập thủy điện lớn nhất thế giới. Hồ chứa nước của nó đã bắt đầu có nước vào ngày 1 tháng 6 năm 2003, và sẽ chiếm toàn bộ vị trí hiện tại của khu vực Tam Hiệp thơ mộng, nằm giữa các thành phố Nghi Xương (tỉnh Hồ Bắc) và Phù Lăng (thành phố trực thuộc trung ương Trùng Khánh).
Giống như nhiều đập nước đang xây dựng khác, dự án này cũng gây ra nhiều ý kiến trái ngược về sự đúng sai. Các đề xuất xây dựng dựa vào các lợi ích kinh tế từ việc kiểm soát ngập lụt và năng lượng từ thủy điện. Các ý kiến chống lại chủ yếu là do các e ngại về tương lai của 1,9 triệu người sẽ phải di chuyển chỗ ở do mực nước tăng lên, sự mất đi của nhiều địa điểm có giá trị khảo cổ học và văn hóa, cũng như các tác động tới môi trường..
Thời gian xây dựng
• 1993-1997: sau 4 năm khởi công sông Dương Tử bị chặn lại vào tháng 11 năm 1997.
• 1998-2003: các tổ máy phát điện đầu tiên bắt đầu phát điện vào năm 2003, và cửa cống vĩnh cửu được mở cho giao thông thủy trong cùng năm.
• 2004-2009: phần cuối cùng của đập đã được xây xong vào ngày 20 tháng 5, 2006. Khi các bể chứa nước bắt đầu được bơm nước, nước lụt sẽ bắt đầu chiếm chỗ các cộng đồng dân cư. Toàn bộ dự án sẽ hoàn thành vào năm 2009, khi tất cả 26 tổ máy phát (với công suất tổng cộng 18,2 GW) được lắp xong, có thể phát ra 84,7 TWh điện mỗi năm, đáp ứng khoảng một phần ba mươi nhu cầu tiêu thụ điện toàn quốc…
Tôn Dật Tiên đã lần đầu tiên xem xét kế hoạch xây dựng đập trên sông Dương Tử vào năm 1919 để phát điện, nhưng ý tưởng này đã bị gác lại do các hoàn cảnh và điều kiện chính trị cũng như kinh tế không thuận lợi.
Đến năm 1944, công trình nghiên cứu tiền khả thi đã được giao cho một kỹ sư thành viên của Phòng Nông Nghiệp Hoa Kỳ, tuy nhiên dự án này đã bị bỏ dở vào năm 1947. Nguyên nhân chính thức được biết đến là vấn đề tài chính, tuy nhiên trên thực tế là do những sự kiện gắn liền với cuộc cách mạng giành chính quyền của những người cộng sản Trung Quốc.
Các trận lụt lội lớn đã làm sống lại ý tưởng này và chính quyền đã chấp thuận nó năm 1954 để kiểm soát lụt lội. Về sau, dự án này được các chuyên gia Liên Xô (cũ) tiếp tục thực hiện cho đến khi quan hệ ngoại giao giữa 2 nước bị rạn nứt. Trên thực tế, bắt đầu từ 1955, các nghiên cứu triển khai dự án đã được tiến hành liên tục.
Thứ trưởng Bộ điện lực Lý Duệ (李锐, Li Rui) đầu tiên cho rằng đập này cần phải đa mục đích, rằng cần phải xây dựng các đập nhỏ hơn trước cho đến khi Trung Quốc có đủ năng lực tài chính để có thể chịu được dự án tốn kém này và việc xây dựng cần được chia thành nhiều giai đoạn để có thời gian giải quyết các vấn đề kỹ thuật, theo như các nhà Trung Quốc học Kenneth Lieberthal và Michel Oksenberg.
Sau này, Lý Duệ kết luận rằng không nhất thiết phải xây dựng đập này do nó quá tốn kém. Ông cũng bổ sung thêm rằng đập nước sẽ làm ngập lụt nhiều thành thị và đất nông nghiệp màu mỡ, làm cho các vùng lưu vực trung và hạ lưu sông Dương Tử bị ngập lụt thảm họa trong quá trình xây dựng và không giúp ích nhiều cho vận tải thủy. Các quan chức tỉnh Tứ Xuyên cũng chống lại việc xây dựng do Tứ Xuyên nằm ở thượng nguồn sẽ phải gánh chịu nhiều phí tổn trong khi tỉnh Hồ Bắc ở hạ nguồn sẽ nhận được nhiều lợi ích.
Lâm Nhất Sơn (林一山, Lin Yishan), chủ nhiệm văn phòng quy hoạch lưu vực Dương Tử, là người chịu trách nhiệm của dự án thì lại cổ vũ cho việc xây dựng đập. Sự lạc quan của ông về việc giải quyết các vấn đề kỹ thuật đã được đẩy đi xa hơn vào năm 1958 do điều kiện chính trị thích hợp và sự ủng hộ của Chủ tịch nước khi đó là Mao Trạch Đông, là người muốn Trung Quốc có đập thủy điện lớn nhất thế giới, theo Lieberthal và Oksenberg. Các phê phán đã bị cấm đoán, nhưng sự trì trệ đã sinh ra từ cuộc Đại nhảy vọt đầy thảm họa và đã kết thúc các công việc chuẩn bị vào năm 1960.
Ý tưởng lại hồi sinh vào năm 1963 như một phần của chính sách mới để xây dựng “mặt trận thứ ba” của công nghiệp tại tây nam Trung Quốc. Nhưng Cách mạng văn hóa Trung Quốc đã nổ ra năm 1966 và trong năm 1969 sự e ngại rằng đập có thể bị Liên Xô (khi đó bị coi là kẻ thù) phá hoại đã góp phần trì hoãn việc xây dựng. Năm 1970, dự án lại được tiếp tục trở lại với Cát Châu Bá, một đập nhỏ hơn về phía hạ lưu, nhưng nó cũng nhanh chóng gặp phải các vấn đề kỹ thuật phức tạp và chi phí đã vượt quá dự toán giống như đối với đập Tam Hiệp xét theo thang độ của từng công trình.
Cải
cách kinh tế bắt đầu năm 1978 đã nhấn mạnh nhu cầu về điện năng để cung
cấp cho các cơ sở công nghiệp đang lớn mạnh, vì thế Quốc vụ viện Trung
Quốc đã phê chuẩn việc xây dựng năm 1979.
Nghiên cứu khả thi đã được tiến hành trong các năm 1982 – 1983 để xoa dịu lượng người chỉ trích ngày càng tăng, những người cho rằng dự án này đã không được dựa trên đầy đủ các nghiên cứu về kỹ thuật, xã hội hay môi trường.
Trong những năm thập niên 1980, người Mỹ đã quay trở lại tham gia dự án. Các nghiên cứu khả thi tiếp theo đã được tiến hành từ năm 1985 đến 1988 bởi liên doanh Canada quốc tế của dự án quản lý sông Dương Tử, một côngxoócxiom của 5 hãng công nghệ Canada.
Theo Lieberthal và Oksenberg, các lãnh đạo của Trùng Khánh cũng đột ngột yêu cầu là độ cao của đập cần nâng một cách đáng kể đến mức nó có thể làm hỏng dự án và giải phóng họ khỏi gánh nặng của các chi phí. Độ cao mới và yêu cầu về nghiên cứu tin cậy hơn bằng sử dụng các tiêu chuẩn quốc tế đã sinh ra nghiên cứu khả thi mới vào năm 1986.
Nhà sinh thái học, viện sĩ Hầu Học Dục (侯学煜, Hou Xueyu) là một trong số ít người từ chối không ký vào báo cáo môi trường vì cho rằng nó đã báo cáo sai sự thật về các lợi ích môi trường thu được nhờ đập này và đã đánh giá không đúng phạm vi ảnh hưởng tới môi trường cũng như thiếu các giải pháp cụ thể cho các lo ngại về môi trường.
Những nhà hoạt động vì sinh thái môi trường trong nước và quốc tế bắt đầu phản đối gay gắt hơn. Các luật gia về nhân quyền đã chỉ trích kế hoạch tái định cư. Các nhà khảo cổ học cũng e ngại do sự nhấn chìm của một lượng lớn các di tích lịch sử. Nhiều người đã nói về việc mất đi của một trong những kỳ quan đẹp nhất thế giới.
Có không ít các kỹ sư tỏ ý không tin tưởng rằng đập thực sự sẽ đạt được các mục đích đề ra. Nhà báo/kỹ sư Đái Tình đã xuất bản cuốn sách gồm các chỉ trích nghiêm khắc của các nhà khoa học Trung Quốc đối với dự án này. Tuy thế rất nhiều công ty xây dựng nước ngoài vẫn tiếp tục thúc ép chính quyền của họ ủng hộ về tài chính do việc xây dựng với hy vọng thắng thầu…
Phân phối điện năng của nhà máy thủy điện Tam Hiệp sẽ không chỉ nằm trong giới hạn của Hệ thống lưới điện trung tâm Trung Quốc (bao trùm các tỉnh Hà Nam, Hồ Bắc, Hồ Nam, và Giang Tây).
Thay vì điều này, điện năng cũng sẽ được truyền tải về phía tây tới Trùng Khánh và lưới điện Tứ Xuyên cũng như theo các tuyến khác về khu vực bờ biển phía đông và đông nam.
Trong khi điện năng được truyền tải tới Trùng Khánh và Tứ Xuyên thông qua hệ thống đường dây 500 kV AC thì công nghệ HVDC (điện cao thế một chiều) sẽ được sử dụng cho việc phân phối về phía đông.
Hai tuyến truyền tải có công suất lớn là HVDC Tam Hiệp-Trường Châu và HVDC Tam Hiệp-Quảng Đông, sẽ truyền tải điện năng về phía đông (tới khu vực Thượng Hải) và phía nam (tới tỉnh Quảng Đông).” (Nguồn: http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%ADp_Tam_Hi%E1%BB%87p )
“Có
một sự tĩnh lặng lạ kỳ ở khu vực này của sông Dương Tử. Con nước liếm
dần lên cao từng ngày ở nơi từng là khúc dữ dội nhất trong các con sông
Trung Quốc, và một khu vực rộng hơn 550 km vuông đang dần biến thành một
cái hồ hẹp.
Sau hàng chục năm tranh luận, nhiều năm xây dựng và di cư hơn 700.000 người bản địa, đập Tam Hiệp đang dần khép những cửa xả cuối cùng.
Hôm 11/6, mực nước hồ chứa đã đạt 135 m. Một ngày sau đó, chiếc tàu thương mại đầu tiên sẽ chạy qua các cửa, mở ra một thời kỳ mới trong giao thông thủy khu vực: các tàu viễn dương sẽ theo dòng sông ngược hàng trăm km lên Trùng Khánh – một đô thị đang bùng nổ ở miền trung Trung Quốc.
Tháng 8, hai tuabin đầu tiên của nhà máy phát điện lớn nhất thế giới này bắt đầu phát điện lên lưới – thành quả đầu tiên của dự án trị giá hơn 20 tỷ USD, đi kèm với những lợi và hại gây tranh cãi không bao giờ dứt.
“Đối với cả nước, công trình này có thể là tốt”, Yang Hongwen, chủ một doanh nghiệp nhỏ ở Fenggi, thành phố cách đập Tam Hiệp hơn 200 km về phía thượng nguồn, nhận xét.
“Nhưng đối với dân thường bản địa, đây là một sai lầm”, ông Yang nói, mắt nhìn về nơi từng là một thị trấn sầm uất với hơn 100 nghìn dân, nay đã bị san phẳng để làm lòng hồ. Nơi đó, những đám người nghèo khổ đang chen chúc đào bới nhặt nhạnh từng cân sắt vụn còn sót lại.
Rất nhiều trong số những người tái định cư đã phải giành giật để có được khu đất tốt hay nghề nghiệp ngon lành. Cho đến khi dự án đập thuỷ điện hoàn thành vào năm 2009, khoảng 430.000 nhân khẩu nữa sẽ phải rời khu vực. Với những người đã gắn bó lâu ở vùng đất này, như ông Yang chẳng hạn, nỗi luyến tiếc thật là sâu xa.
Tuy nhiên không phải ai cũng buồn rầu. Những người thích nghi nhanh đã thấy được những cơ hội tốt. Các thị trấn cũ vài km về thượng nguồn, một khu dân cư mới cao tầng, sáng rực bởi các sắc màu trang trí, đã mọc lên làm nơi cư trú cho hơn 80.000 người. Nhiều doanh nghiệp đã được thành lập và ăn nên làm ra trong guồng quay của hàng tỷ đôla chi cho xây dựng các đô thị mới, đường sá và cầu.
Bận tâm với cuộc mưu sinh, không mấy ai rỗi hơi lo chuyện những di sản văn hoá và phong cảnh sẽ bị nhấn chìm, hay băn khoăn về nạn ô nhiễm vốn là vấn đề đau đầu các chuyên gia. Với một lượng nước khổng lồ tĩnh tại trong hơn một tuần, đã có sự gia tăng đột biến các bệnh gây ra do vi khuẩn E.coli.
Sự kiện hàn đập và bắt đầu tích nước hôm 1/6 là dấu mốc quan trọng của dự án. Theo kế hoạch, đến 2009, mực nước hồ chứa sẽ dâng thêm 130 feet, nhấn chìm thêm những khu vực rộng lớn xung quanh gồm các khu dân cư và rừng. Nơi từng là những khu dân cư đông đúc, những nhà máy nhộn nhịp và khu chợ sầm uất đã biến mất trong bãi đổ nát rộng mênh mông. Trên đó là một cảnh tượng giống như hồi thế kỷ 19. Hàng trăm người, đàn ông và đàn bà, lao động cật lực trong biển bê tông đủ hình thù, đập lấy những mẩu sắt vụn và gạch còn nguyên vẹn. Bán chúng đi, họ thu được khoảng 25 USD mỗi tháng.
Li Shinli, 51 tuổi, gác cái cuốc chim lên một phiến bê tông đang treo lơ lửng ngay trên đầu ông ta và nói: “Tôi phải tiết kiệm tiền cho con trai đi học cao đẳng. Việc này nguy hiểm thật đấy, nhưng làm thế nào được!”.
Được hỏi ông thấy thế nào về công trình khổng lồ này, ông Li cho biết: “Người làng tôi chẳng có ý kiến gì hết. Nhưng ít nhất, con đập mang đến cho chúng tôi cơ hội kiếm tí tiền”.
Những người bán hàng và cư dân còn nán lại ở ven thị trấn đã bị san phẳng sẽ phải ra đi vào năm sau, hoặc năm sau nữa. Họ rất bất bình với khoản tiền đền bù tái định cư và kêu ca về tình trạng tham nhũng. Một phụ nữ 50 tuổi nói rằng bà rất uất ức vì ở nơi ở mới, vợ chồng bà sẽ không được chia cửa hàng hay một căn hộ như những nhà ở bên trong thị trấn. Đôi bạn già đang chờ nhận khoản đền bù hoa màu dành cho nông dân.
Thuỷ điện Tam Hiệp, cũng giống như những đại công trình khác, luôn là đề tài tranh cãi không có hồi kết về lợi và hại. Lợi ích về mặt giao thông thủy thì đã rõ, tuy nhiên một số người lo ngại rằng việc tích tụ quá nhiều phù sa ở phía Trùng Khánh sẽ gây nguy hiểm. Sản lượng điện khổng lồ từ Tam Hiệp sẽ là điều kiện thúc đẩt công nghiệp Trung Quốc, thay thế cho nhiều nhà máy nhiệt điện đốt than. Đây cũng là cái được về môi trường.
Công trình chứa hàng tỷ m3 nước sẽ giúp chế ngự những trận lụt liên miên ở vùng châu thổ sông Dương Tử hàng trăm năm nay. Các nhà thủy văn dự đoán đập Tam Hiệp sẽ ngăn nhiều cơn lũ, tuy nhiên không thể làm gì với những trận lụt như năm 1998, bởi khi đó nước đổ về châu thổ từ các sông nhánh đầy nước ở phía hạ lưu so với đập.
Khu 3 đèo nổi tiếng, từ lâu được ca tụng trong văn chương và thơ ca, sẽ biến mất, nhưng nó vẫn còn sức thu hút tiềm ẩn. Vả lại, khách du lịch sẽ tới trên những con tàu tham quan hồ chứa nước. Nguồn lợi du lịch cũng là một ưu điểm của công trình này.
Sự mất mát lớn nhất về văn hoá có lẽ là những khu khảo cổ, di tích, đền và lăng tẩm bị nhấn chìm. Một số đã được di chuyển, nhưng còn rất nhiều thứ quý giá khác có thể không bao giờ được khám phá. Một trong những khu di tích quan trọng là đền Bạch Đế, toạ lạc ngay lối vào khu ba đèo. Toà nhà chính sẽ nằm ngay trên mực nước dự kiến của năm 2009, nhưng phần lớn công trình đã bị nuốt gọn bởi lòng nước hồ.
Mấy năm gần đây, các nhà khoa học đã cảnh báo mạnh mẽ về nạn ô nhiễm sẽ xảy ra bởi các độc chất từ rác thải công nghiệp, hoá chất dùng trong nông nghiệp và nước thải sinh hoạt đều tuôn vào lòng hồ trên sông Dương Tử, sau đó chảy ra biển. Chính phủ đã cho xây dựng 19 trạm xử lý nước thải ở các thành phố thượng nguồn con sông, nhưng đến nay vẫn chưa hoàn thành. Vi khuẩn gây bệnh đường ruột có thể sinh sôi cực nhanh trong môi trường nước lặng của hồ chứa, khiến người ta không thể sử dụng nó cho sinh hoạt hàng ngày.
Rác thải tấn công đập Tam Hiệp
Tuy
nhiên, vấn đề gai góc nhất hiện nay là việc tái định cư cho hàng trăm
nghìn người, tại một khu vực đất dốc và bạc màu, trên một đất nước có số
dân đông đúc. Đến năm 2009, tổng số người phải chuyển đi lên đến hơn 1
triệu, trong đó có nhiều nông dân như ông Li, hiện vẫn chưa biết quê mới
của mình là ở nơi nào.
T. Huyền (theo NYT, AP)
Việt Báo (Theo_VnExpress.net) (Nguồn: http://vietbao.vn/The-gioi/Duoc-va-mat-o-thuy-dien-Tam-Hiep/10821727/168/ )
“Dự án đập Tam Hiệp được xác định là công trình thủy điện lớn nhất thế giới đầu tiên là do đây là công trình lớn nhất về bảo tồn nguồn nước.
Rộng 1.045 km2, trải dài 663 km, mức nước thường ở 175m có sức chứa gần 40 tỷ m3 nước.
Để nhường chỗ cho lòng hồ, số dân phải di dời là 1,13 triệu người. Nhà nước Trung Quốc đã xây dựng 16,7 triệu m2 nhà để bố trí chỗ ở mới cho dân tái định cư.
Khi hồ tích nước ở mức 175m, diện tích ngập trong nước rộng 632km2, nằm giữa khu vực từ Nghi Xương – tỉnh Hồ Bắc tới thành phố Trùng Khánh – tỉnh Tứ Xuyên gồm 20 huyện, 277 xã phường.
Ngoài ra, dự án này có năng lực phát điện lớn nhất thế giới. Khi hoàn thành dự án, Nhà máy thủy điện Tam Hiệp sẽ đứng đầu thế giới cả về công suất điện và lượng điện sản xuất hàng năm. Tổ hợp máy phát điện sẽ gồm 26 tuốc-bin cỡ 700.000 kW, với tổng công suất là 18,2 triệu kW, được xây dựng tại bên trái của đập Tam Hiệp.
Tổng sản lượng điện hàng năm là 84,68 tỷ kWh, tương đương 1/7 sản lượng điện của Trung Quốc năm 1992. Trong suốt 17 năm thực hiện dự án, Tam Hiệp đang bước vào giai đoạn cuối cùng mà không ảnh hưởng đến dòng chảy của sông Trường Giang.
Tàu thuyền có thể đi qua sông an toàn trừ khi mùa nước lên cao. Khi lượng nước chảy nhanh với tốc độ 25.000 m3/giây thì tàu to khó đi, còn với lượng nước tối đa là 10.000 – 15.000 m3/giây tàu nhỏ vẫn đi lại dễ dàng. (Nguồn: http://vnomega.com/home/kien-truc/cong-trinh/155-dap-tam-hiep-cong-trinh-vi-dai.html )
Đập thuỷ điện Tam Hiệp lớn nhất thế giới (Ảnh Internet)
Việc xây dựng bắt đầu vào năm 1994. Nó là đập thủy điện lớn nhất thế giới. Hồ chứa nước của nó đã bắt đầu có nước vào ngày 1 tháng 6 năm 2003, và sẽ chiếm toàn bộ vị trí hiện tại của khu vực Tam Hiệp thơ mộng, nằm giữa các thành phố Nghi Xương (tỉnh Hồ Bắc) và Phù Lăng (thành phố trực thuộc trung ương Trùng Khánh).
Giống như nhiều đập nước đang xây dựng khác, dự án này cũng gây ra nhiều ý kiến trái ngược về sự đúng sai. Các đề xuất xây dựng dựa vào các lợi ích kinh tế từ việc kiểm soát ngập lụt và năng lượng từ thủy điện. Các ý kiến chống lại chủ yếu là do các e ngại về tương lai của 1,9 triệu người sẽ phải di chuyển chỗ ở do mực nước tăng lên, sự mất đi của nhiều địa điểm có giá trị khảo cổ học và văn hóa, cũng như các tác động tới môi trường..
Thời gian xây dựng
• 1993-1997: sau 4 năm khởi công sông Dương Tử bị chặn lại vào tháng 11 năm 1997.
• 1998-2003: các tổ máy phát điện đầu tiên bắt đầu phát điện vào năm 2003, và cửa cống vĩnh cửu được mở cho giao thông thủy trong cùng năm.
• 2004-2009: phần cuối cùng của đập đã được xây xong vào ngày 20 tháng 5, 2006. Khi các bể chứa nước bắt đầu được bơm nước, nước lụt sẽ bắt đầu chiếm chỗ các cộng đồng dân cư. Toàn bộ dự án sẽ hoàn thành vào năm 2009, khi tất cả 26 tổ máy phát (với công suất tổng cộng 18,2 GW) được lắp xong, có thể phát ra 84,7 TWh điện mỗi năm, đáp ứng khoảng một phần ba mươi nhu cầu tiêu thụ điện toàn quốc…
Tôn Dật Tiên đã lần đầu tiên xem xét kế hoạch xây dựng đập trên sông Dương Tử vào năm 1919 để phát điện, nhưng ý tưởng này đã bị gác lại do các hoàn cảnh và điều kiện chính trị cũng như kinh tế không thuận lợi.
Đến năm 1944, công trình nghiên cứu tiền khả thi đã được giao cho một kỹ sư thành viên của Phòng Nông Nghiệp Hoa Kỳ, tuy nhiên dự án này đã bị bỏ dở vào năm 1947. Nguyên nhân chính thức được biết đến là vấn đề tài chính, tuy nhiên trên thực tế là do những sự kiện gắn liền với cuộc cách mạng giành chính quyền của những người cộng sản Trung Quốc.
Các trận lụt lội lớn đã làm sống lại ý tưởng này và chính quyền đã chấp thuận nó năm 1954 để kiểm soát lụt lội. Về sau, dự án này được các chuyên gia Liên Xô (cũ) tiếp tục thực hiện cho đến khi quan hệ ngoại giao giữa 2 nước bị rạn nứt. Trên thực tế, bắt đầu từ 1955, các nghiên cứu triển khai dự án đã được tiến hành liên tục.
Thứ trưởng Bộ điện lực Lý Duệ (李锐, Li Rui) đầu tiên cho rằng đập này cần phải đa mục đích, rằng cần phải xây dựng các đập nhỏ hơn trước cho đến khi Trung Quốc có đủ năng lực tài chính để có thể chịu được dự án tốn kém này và việc xây dựng cần được chia thành nhiều giai đoạn để có thời gian giải quyết các vấn đề kỹ thuật, theo như các nhà Trung Quốc học Kenneth Lieberthal và Michel Oksenberg.
Sau này, Lý Duệ kết luận rằng không nhất thiết phải xây dựng đập này do nó quá tốn kém. Ông cũng bổ sung thêm rằng đập nước sẽ làm ngập lụt nhiều thành thị và đất nông nghiệp màu mỡ, làm cho các vùng lưu vực trung và hạ lưu sông Dương Tử bị ngập lụt thảm họa trong quá trình xây dựng và không giúp ích nhiều cho vận tải thủy. Các quan chức tỉnh Tứ Xuyên cũng chống lại việc xây dựng do Tứ Xuyên nằm ở thượng nguồn sẽ phải gánh chịu nhiều phí tổn trong khi tỉnh Hồ Bắc ở hạ nguồn sẽ nhận được nhiều lợi ích.
Lâm Nhất Sơn (林一山, Lin Yishan), chủ nhiệm văn phòng quy hoạch lưu vực Dương Tử, là người chịu trách nhiệm của dự án thì lại cổ vũ cho việc xây dựng đập. Sự lạc quan của ông về việc giải quyết các vấn đề kỹ thuật đã được đẩy đi xa hơn vào năm 1958 do điều kiện chính trị thích hợp và sự ủng hộ của Chủ tịch nước khi đó là Mao Trạch Đông, là người muốn Trung Quốc có đập thủy điện lớn nhất thế giới, theo Lieberthal và Oksenberg. Các phê phán đã bị cấm đoán, nhưng sự trì trệ đã sinh ra từ cuộc Đại nhảy vọt đầy thảm họa và đã kết thúc các công việc chuẩn bị vào năm 1960.
Ý tưởng lại hồi sinh vào năm 1963 như một phần của chính sách mới để xây dựng “mặt trận thứ ba” của công nghiệp tại tây nam Trung Quốc. Nhưng Cách mạng văn hóa Trung Quốc đã nổ ra năm 1966 và trong năm 1969 sự e ngại rằng đập có thể bị Liên Xô (khi đó bị coi là kẻ thù) phá hoại đã góp phần trì hoãn việc xây dựng. Năm 1970, dự án lại được tiếp tục trở lại với Cát Châu Bá, một đập nhỏ hơn về phía hạ lưu, nhưng nó cũng nhanh chóng gặp phải các vấn đề kỹ thuật phức tạp và chi phí đã vượt quá dự toán giống như đối với đập Tam Hiệp xét theo thang độ của từng công trình.
Nghiên cứu khả thi đã được tiến hành trong các năm 1982 – 1983 để xoa dịu lượng người chỉ trích ngày càng tăng, những người cho rằng dự án này đã không được dựa trên đầy đủ các nghiên cứu về kỹ thuật, xã hội hay môi trường.
Trong những năm thập niên 1980, người Mỹ đã quay trở lại tham gia dự án. Các nghiên cứu khả thi tiếp theo đã được tiến hành từ năm 1985 đến 1988 bởi liên doanh Canada quốc tế của dự án quản lý sông Dương Tử, một côngxoócxiom của 5 hãng công nghệ Canada.
Theo Lieberthal và Oksenberg, các lãnh đạo của Trùng Khánh cũng đột ngột yêu cầu là độ cao của đập cần nâng một cách đáng kể đến mức nó có thể làm hỏng dự án và giải phóng họ khỏi gánh nặng của các chi phí. Độ cao mới và yêu cầu về nghiên cứu tin cậy hơn bằng sử dụng các tiêu chuẩn quốc tế đã sinh ra nghiên cứu khả thi mới vào năm 1986.
Nhà sinh thái học, viện sĩ Hầu Học Dục (侯学煜, Hou Xueyu) là một trong số ít người từ chối không ký vào báo cáo môi trường vì cho rằng nó đã báo cáo sai sự thật về các lợi ích môi trường thu được nhờ đập này và đã đánh giá không đúng phạm vi ảnh hưởng tới môi trường cũng như thiếu các giải pháp cụ thể cho các lo ngại về môi trường.
Những nhà hoạt động vì sinh thái môi trường trong nước và quốc tế bắt đầu phản đối gay gắt hơn. Các luật gia về nhân quyền đã chỉ trích kế hoạch tái định cư. Các nhà khảo cổ học cũng e ngại do sự nhấn chìm của một lượng lớn các di tích lịch sử. Nhiều người đã nói về việc mất đi của một trong những kỳ quan đẹp nhất thế giới.
Có không ít các kỹ sư tỏ ý không tin tưởng rằng đập thực sự sẽ đạt được các mục đích đề ra. Nhà báo/kỹ sư Đái Tình đã xuất bản cuốn sách gồm các chỉ trích nghiêm khắc của các nhà khoa học Trung Quốc đối với dự án này. Tuy thế rất nhiều công ty xây dựng nước ngoài vẫn tiếp tục thúc ép chính quyền của họ ủng hộ về tài chính do việc xây dựng với hy vọng thắng thầu…
Phân phối điện năng của nhà máy thủy điện Tam Hiệp sẽ không chỉ nằm trong giới hạn của Hệ thống lưới điện trung tâm Trung Quốc (bao trùm các tỉnh Hà Nam, Hồ Bắc, Hồ Nam, và Giang Tây).
Thay vì điều này, điện năng cũng sẽ được truyền tải về phía tây tới Trùng Khánh và lưới điện Tứ Xuyên cũng như theo các tuyến khác về khu vực bờ biển phía đông và đông nam.
Trong khi điện năng được truyền tải tới Trùng Khánh và Tứ Xuyên thông qua hệ thống đường dây 500 kV AC thì công nghệ HVDC (điện cao thế một chiều) sẽ được sử dụng cho việc phân phối về phía đông.
Hai tuyến truyền tải có công suất lớn là HVDC Tam Hiệp-Trường Châu và HVDC Tam Hiệp-Quảng Đông, sẽ truyền tải điện năng về phía đông (tới khu vực Thượng Hải) và phía nam (tới tỉnh Quảng Đông).” (Nguồn: http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%ADp_Tam_Hi%E1%BB%87p )
Sau hàng chục năm tranh luận, nhiều năm xây dựng và di cư hơn 700.000 người bản địa, đập Tam Hiệp đang dần khép những cửa xả cuối cùng.
Hôm 11/6, mực nước hồ chứa đã đạt 135 m. Một ngày sau đó, chiếc tàu thương mại đầu tiên sẽ chạy qua các cửa, mở ra một thời kỳ mới trong giao thông thủy khu vực: các tàu viễn dương sẽ theo dòng sông ngược hàng trăm km lên Trùng Khánh – một đô thị đang bùng nổ ở miền trung Trung Quốc.
Tháng 8, hai tuabin đầu tiên của nhà máy phát điện lớn nhất thế giới này bắt đầu phát điện lên lưới – thành quả đầu tiên của dự án trị giá hơn 20 tỷ USD, đi kèm với những lợi và hại gây tranh cãi không bao giờ dứt.
“Đối với cả nước, công trình này có thể là tốt”, Yang Hongwen, chủ một doanh nghiệp nhỏ ở Fenggi, thành phố cách đập Tam Hiệp hơn 200 km về phía thượng nguồn, nhận xét.
“Nhưng đối với dân thường bản địa, đây là một sai lầm”, ông Yang nói, mắt nhìn về nơi từng là một thị trấn sầm uất với hơn 100 nghìn dân, nay đã bị san phẳng để làm lòng hồ. Nơi đó, những đám người nghèo khổ đang chen chúc đào bới nhặt nhạnh từng cân sắt vụn còn sót lại.
Rất nhiều trong số những người tái định cư đã phải giành giật để có được khu đất tốt hay nghề nghiệp ngon lành. Cho đến khi dự án đập thuỷ điện hoàn thành vào năm 2009, khoảng 430.000 nhân khẩu nữa sẽ phải rời khu vực. Với những người đã gắn bó lâu ở vùng đất này, như ông Yang chẳng hạn, nỗi luyến tiếc thật là sâu xa.
Tuy nhiên không phải ai cũng buồn rầu. Những người thích nghi nhanh đã thấy được những cơ hội tốt. Các thị trấn cũ vài km về thượng nguồn, một khu dân cư mới cao tầng, sáng rực bởi các sắc màu trang trí, đã mọc lên làm nơi cư trú cho hơn 80.000 người. Nhiều doanh nghiệp đã được thành lập và ăn nên làm ra trong guồng quay của hàng tỷ đôla chi cho xây dựng các đô thị mới, đường sá và cầu.
Bận tâm với cuộc mưu sinh, không mấy ai rỗi hơi lo chuyện những di sản văn hoá và phong cảnh sẽ bị nhấn chìm, hay băn khoăn về nạn ô nhiễm vốn là vấn đề đau đầu các chuyên gia. Với một lượng nước khổng lồ tĩnh tại trong hơn một tuần, đã có sự gia tăng đột biến các bệnh gây ra do vi khuẩn E.coli.
Sự kiện hàn đập và bắt đầu tích nước hôm 1/6 là dấu mốc quan trọng của dự án. Theo kế hoạch, đến 2009, mực nước hồ chứa sẽ dâng thêm 130 feet, nhấn chìm thêm những khu vực rộng lớn xung quanh gồm các khu dân cư và rừng. Nơi từng là những khu dân cư đông đúc, những nhà máy nhộn nhịp và khu chợ sầm uất đã biến mất trong bãi đổ nát rộng mênh mông. Trên đó là một cảnh tượng giống như hồi thế kỷ 19. Hàng trăm người, đàn ông và đàn bà, lao động cật lực trong biển bê tông đủ hình thù, đập lấy những mẩu sắt vụn và gạch còn nguyên vẹn. Bán chúng đi, họ thu được khoảng 25 USD mỗi tháng.
Li Shinli, 51 tuổi, gác cái cuốc chim lên một phiến bê tông đang treo lơ lửng ngay trên đầu ông ta và nói: “Tôi phải tiết kiệm tiền cho con trai đi học cao đẳng. Việc này nguy hiểm thật đấy, nhưng làm thế nào được!”.
Được hỏi ông thấy thế nào về công trình khổng lồ này, ông Li cho biết: “Người làng tôi chẳng có ý kiến gì hết. Nhưng ít nhất, con đập mang đến cho chúng tôi cơ hội kiếm tí tiền”.
Những người bán hàng và cư dân còn nán lại ở ven thị trấn đã bị san phẳng sẽ phải ra đi vào năm sau, hoặc năm sau nữa. Họ rất bất bình với khoản tiền đền bù tái định cư và kêu ca về tình trạng tham nhũng. Một phụ nữ 50 tuổi nói rằng bà rất uất ức vì ở nơi ở mới, vợ chồng bà sẽ không được chia cửa hàng hay một căn hộ như những nhà ở bên trong thị trấn. Đôi bạn già đang chờ nhận khoản đền bù hoa màu dành cho nông dân.
Thuỷ điện Tam Hiệp, cũng giống như những đại công trình khác, luôn là đề tài tranh cãi không có hồi kết về lợi và hại. Lợi ích về mặt giao thông thủy thì đã rõ, tuy nhiên một số người lo ngại rằng việc tích tụ quá nhiều phù sa ở phía Trùng Khánh sẽ gây nguy hiểm. Sản lượng điện khổng lồ từ Tam Hiệp sẽ là điều kiện thúc đẩt công nghiệp Trung Quốc, thay thế cho nhiều nhà máy nhiệt điện đốt than. Đây cũng là cái được về môi trường.
Công trình chứa hàng tỷ m3 nước sẽ giúp chế ngự những trận lụt liên miên ở vùng châu thổ sông Dương Tử hàng trăm năm nay. Các nhà thủy văn dự đoán đập Tam Hiệp sẽ ngăn nhiều cơn lũ, tuy nhiên không thể làm gì với những trận lụt như năm 1998, bởi khi đó nước đổ về châu thổ từ các sông nhánh đầy nước ở phía hạ lưu so với đập.
Khu 3 đèo nổi tiếng, từ lâu được ca tụng trong văn chương và thơ ca, sẽ biến mất, nhưng nó vẫn còn sức thu hút tiềm ẩn. Vả lại, khách du lịch sẽ tới trên những con tàu tham quan hồ chứa nước. Nguồn lợi du lịch cũng là một ưu điểm của công trình này.
Sự mất mát lớn nhất về văn hoá có lẽ là những khu khảo cổ, di tích, đền và lăng tẩm bị nhấn chìm. Một số đã được di chuyển, nhưng còn rất nhiều thứ quý giá khác có thể không bao giờ được khám phá. Một trong những khu di tích quan trọng là đền Bạch Đế, toạ lạc ngay lối vào khu ba đèo. Toà nhà chính sẽ nằm ngay trên mực nước dự kiến của năm 2009, nhưng phần lớn công trình đã bị nuốt gọn bởi lòng nước hồ.
Mấy năm gần đây, các nhà khoa học đã cảnh báo mạnh mẽ về nạn ô nhiễm sẽ xảy ra bởi các độc chất từ rác thải công nghiệp, hoá chất dùng trong nông nghiệp và nước thải sinh hoạt đều tuôn vào lòng hồ trên sông Dương Tử, sau đó chảy ra biển. Chính phủ đã cho xây dựng 19 trạm xử lý nước thải ở các thành phố thượng nguồn con sông, nhưng đến nay vẫn chưa hoàn thành. Vi khuẩn gây bệnh đường ruột có thể sinh sôi cực nhanh trong môi trường nước lặng của hồ chứa, khiến người ta không thể sử dụng nó cho sinh hoạt hàng ngày.
Rác thải tấn công đập Tam Hiệp
T. Huyền (theo NYT, AP)
Việt Báo (Theo_VnExpress.net) (Nguồn: http://vietbao.vn/The-gioi/Duoc-va-mat-o-thuy-dien-Tam-Hiep/10821727/168/ )
“Dự án đập Tam Hiệp được xác định là công trình thủy điện lớn nhất thế giới đầu tiên là do đây là công trình lớn nhất về bảo tồn nguồn nước.
Rộng 1.045 km2, trải dài 663 km, mức nước thường ở 175m có sức chứa gần 40 tỷ m3 nước.
Để nhường chỗ cho lòng hồ, số dân phải di dời là 1,13 triệu người. Nhà nước Trung Quốc đã xây dựng 16,7 triệu m2 nhà để bố trí chỗ ở mới cho dân tái định cư.
Khi hồ tích nước ở mức 175m, diện tích ngập trong nước rộng 632km2, nằm giữa khu vực từ Nghi Xương – tỉnh Hồ Bắc tới thành phố Trùng Khánh – tỉnh Tứ Xuyên gồm 20 huyện, 277 xã phường.
Ngoài ra, dự án này có năng lực phát điện lớn nhất thế giới. Khi hoàn thành dự án, Nhà máy thủy điện Tam Hiệp sẽ đứng đầu thế giới cả về công suất điện và lượng điện sản xuất hàng năm. Tổ hợp máy phát điện sẽ gồm 26 tuốc-bin cỡ 700.000 kW, với tổng công suất là 18,2 triệu kW, được xây dựng tại bên trái của đập Tam Hiệp.
Tổng sản lượng điện hàng năm là 84,68 tỷ kWh, tương đương 1/7 sản lượng điện của Trung Quốc năm 1992. Trong suốt 17 năm thực hiện dự án, Tam Hiệp đang bước vào giai đoạn cuối cùng mà không ảnh hưởng đến dòng chảy của sông Trường Giang.
Tàu thuyền có thể đi qua sông an toàn trừ khi mùa nước lên cao. Khi lượng nước chảy nhanh với tốc độ 25.000 m3/giây thì tàu to khó đi, còn với lượng nước tối đa là 10.000 – 15.000 m3/giây tàu nhỏ vẫn đi lại dễ dàng. (Nguồn: http://vnomega.com/home/kien-truc/cong-trinh/155-dap-tam-hiep-cong-trinh-vi-dai.html )
Khả năng xả lũ của đập Tam Hiệp vẫn hạn chế, không như "quảng cáo"
SO SÁNH VỚI THUỶ ĐIỆN ITAIPÚ LỚN NHẤT THẾ GIỚI TRƯỚC ĐÓ CỦA BRAZIL
Hồ nước của Nhà máy thủy điện Itaipú có diện tích 1.400 km2. 18 tuabin sản xuất được tổng năng lượng là 12,6 GW (Thuỷ điện Tam Hiệp tổng công suất là 18,2 GW)- khoảng gấp ba lần đập nước Assuan của Ai Cập và đủ cung cấp năng lượng một ngày cho cả nước Paraguay hay khoảng 40% nhu cầu năng lượng của Brazil.
Nhà máy thủy điện lớn nhất thế giới trước khi có nhà máy thuỷ điện Tam Hiệp ra đời
SO SÁNH VỚI THUỶ ĐIỆN ITAIPÚ LỚN NHẤT THẾ GIỚI TRƯỚC ĐÓ CỦA BRAZIL
Hồ nước của Nhà máy thủy điện Itaipú có diện tích 1.400 km2. 18 tuabin sản xuất được tổng năng lượng là 12,6 GW (Thuỷ điện Tam Hiệp tổng công suất là 18,2 GW)- khoảng gấp ba lần đập nước Assuan của Ai Cập và đủ cung cấp năng lượng một ngày cho cả nước Paraguay hay khoảng 40% nhu cầu năng lượng của Brazil.
Nhà máy thủy điện lớn nhất thế giới trước khi có nhà máy thuỷ điện Tam Hiệp ra đời
Hình ảnh đập Tam Hiệp xả lũ 19/7/2010
Mực nước trên sông Dương Tử dâng cao kể từ đầu mùa lũ và vẫn tiếp tục tăng đạt đỉnh lũ do mưa
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét