Tả Ao địa lý toàn thư - Dịch giả:
Cao Trung
TỰA
TẬP ĐỊA LÝ TẢ AO BÍ THƯ ĐẠI TOÀN
của Cao Trung
Quý vị cầm nơi tay đây là tập Địa
Lý Gia Truyền Bí Thư Đại Toàn - tập này là tập thứ nhất trong tài liệu gia
truyền của giòng họ Tả Ao mà tên tổng hợp của nó là Tả Ao Địa Lý Toàn Thư.
Thưa quý vị. Tài liệu quý giá nhất
về khoa Địa Lý của người Việt Nam là Tả Ao Địa Lý Toàn Thư đã có trên 400 năm
nay vẫn được các cụ giữ kín dùng làm gia bảo riêng cho giòng họ nhà mình. Làng
Địa Lý Việt Nam ở ngoài Bắc di cư vào Nam năm 1954, không có quý vị nào mang
theo được, dù là một phần, tài liệu quý giá này. Sau nhiều năm tìm kiếm, may
thay lại kiếm được nó; không phải là do các cụ mang vào kỳ di cư 1954, mà là do
cụ Huyện Mười ở Tăng Nhân Phú có từ năm 1914, khi gia đình cụ di cư vào Nam
thời đó.
Dĩ nhiên làng Địa Lý lại xin sao,
và cụ Huyện Mười cũng rộng lượng cho phép. Do đó mỗi thầy Địa Lý di cư đều có
một bản. Cao Trung tôi, may thay cũng được dự phần. Các vị Địa Lý Gia khác khi
có sách này thì thường cất vào tủ và lâu lâu giở ra xem qua rồi lại cất đi.
Riêng chúng tôi, tài không có bao
nhiêu, nhưng mộng lại quá lớn. Chúng tôi quyết dịch và giải thích bộ sách này
để dành lại cho hậu thế một tài liệu quý báu đang sắp bị thất truyền. Trên 10
năm làm việc không ngừng, tham khảo với hàng trăm cụ Địa Lý dù quen hay lạ, nếu
cụ nào cho phép là tôi tới và gặp. Sách Địa Lý nào cũng mua, sao và đọc. Nhờ
rộng đường tham khảo nên năm 1975 mới xong. Mới vừa hoàn tất xong phần dịch
thuật chưa kịp san định, giải thích thêm, hoặc phân chia tiết mục, thì phải di
cư.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975 tôi được
biết trước, được xuất ngoại, có một tiếng đồng hồ nên bỏ hết cả tài sản lại
nhưng cố mang theo bản thảo Bộ Tả Ao Địa Lý Toàn Thư, một đứa con tinh thần,
một hoài bão vĩ đại, một giấc mộng lớn mà tôi đã cưu mang, chăm sóc ngoài 10
năm cũng chỉ mong bộ sách này được để lại cho đời sau khỏi thất truyền mà thôi.
Ước mong giản dị đó đã trải trên 10 năm ở Việt Nam và tiếp theo là trên 10 năm
nữa ở Hoa Kỳ.
Giờ đây tập thứ nhất của Tả Ao Địa
Lý Toàn Thư mới đến tay quý vị. Thật quá trễ nhưng vì khoa Địa Lý đã khó mà
chúng tôi lại muốn nó hết sức toàn vẹn trước khi đem in.
Tập thứ nhất này lấy tên là:
Địa Lý Tả Ao Bí Thư Đại Toàn
Và tập kế tiếp là:
Địa Lý Tả Ao Vi Sư Pháp
Sau đó còn độ 4 – 5 tập nữa mới hoàn tất toàn bộ Địa Lý của
dòng họ Tả Ao.
Thưa quý vị, bộ sách Địa Lý này có
3 phụ lục thật đặc sắc. Một phụ lục lò Bát Đại Hoàng Tuyền và phụ lục thứ hai
là Long Thượng Bát Sát và phụ lục thứ ba là Thủy Pháp.
Ở trong tài liệu của cụ Tả Ao dịch
mới đây cũng nói đến nó, mà nói một cách hết sức mơ hồ thật ra nó là phần quan
trọng nhất của khoa Địa Lý. Chúng tôi biết đến 9 phần 10 Địa Lý Gia không nắm
vững 3 phần quan trọng này. Do đó chúng tôi phải cố gắng sắp xếp lại cho thật
minh bạch ba phần này trước khi các cụ học Địa Lý phần khẩu thụ tâm truyền mới
nắm vững nó mà ngày nay trên bộ sách này nhờ ba phụ lục đặc biệt này quý vị nắm
vững và biết thật chính xác nó.
Phần Thủy Pháp trong quyển này gồm
48 trang đã là ngắn gọn nhưng chúng tôi lại đã thu gọn vào một Biểu Nhất Lãm tô
màu và bọc plastic - Biểu Nhất Lãm Thủy Pháp này làm bằng tay có 2 mặt - mặt
trước là Biểu Nhất Lãm Thủy Pháp và mặt sau là La Kinh có chú thêm chữ Việt
thường dùng trong khoa Địa lý. Chỉ cần đặt một cái kim chỉ nam vào giữa là ta
đã có La Kinh đầy đủ và đặt kim chỉ nam vào giữa mặt trước ta đã có Biểu Nhất
Lãm Thủy Pháp mà có sách Tàu phải viết đến 500 trang mới hết.
Mong rằng với sự cố gắng trình bày
tập sách này sẽ giúp quý vị nhiều về khoa Địa lý.
CAO TRUNG
CHƯƠNG I
TẦM LONG TRÓC MẠCH
A. HƯỚNG DẪN PHẦN TẦM LONG TRÓC
MẠCH
Tầm long của đất kết gọi là Tầm
Long Tróc Mạch. Từ gốc là tổ sơn long chia ra đi mọi nơi làm đất kết. Từ khởi
thủy của long mạch là tổ sơn đến kết cuộc là đất kết. Khúc giữa là hành long.
Một thế long đi khởi từ tổ sơn,
hành long có khi gần và có khi xa cả trăm, ngàn dặm mới đến đất kết. Long đi
phải có nước đi theo và khi vào kết thì nước đó lại đổ vào minh đường.
Tổ sơn có nhiều hình dạng, nhìn tổ
sơn có thể biết sau long đó sẽ hùng dũng hay suy nhược. Còn hành long thì chính
long là cán long (cành lớn) và bành long là chi long (cành nhỏ).
Long đi có thể thuận theo chiều
nước chảy, có thể nghịch lại chiều nước chảy, và cũng có thể quay ngang xa
chiều nước chảy. Long đi thuận theo nước chảy gọi thuận long. Long đi ngược
chiều nước chảy gọi là hồi long và đi ngang chiều nước chảy gọi là hoành long.
B. TẦM LONG TRÓC MẠCH
Câu 1: Tiên vấn tổ tôn, tổ giả, đột khởi nhất sơn vi
tổ, phân hành thiên chi vạn điệp, như Côn Lôn sơn đột khởi vi tổ sơn, thị dã.
Tôn giả, ly tổ biệt khởi nhất sơn
vi tôn, phân hành đông ngung tay lũng như Vân Lĩnh, Đan sơn giáng nam thị dã
Trước tiên phải hỏi đến tổ tôn - Tổ
là một núi đột khởi lên, rồi chia ra làm ngàn vạn chi nhánh – Như Côn Lôn sơn
một mình cao vọt lên là tổ sơn vậy. Tôn là tự rời khỏi tổ sơn rồi cũng lại khởi
lên một núi riêng biệt, phân hoành ra phương đông Ngung, tây Lũng xuống Nam
phương Vân Lĩnh sơn, Đan sơn vậy.
Câu 2: Tổ hữu thủy tổ, thiếu tổ, tiên nhận thủy tổ,
hà hữu hình tượng.
Tổ có thủy tổ và thiếu tổ. Trước
hết phải nhận rõ hình tượng gì của nó.
Câu 3: Hình hữu hoa cái,
tam thai, tượng hữu lâu đài, bảo điện, hoặc song phong tinh khởi, hoặc hữu mã
yên cáo trục, trước hình kỳ lân, phương hoàng sơn thế, thượng tự, hạ tự, vương
tự, nhân tự, thiên tự, ngũ phẩm bất đồng – Kim tinh, mộc tinh, hỏa tinh, thổ
tinh, ngũ hành hữu dị, hoặc như vân lôi nhi khởi, hoặc như qua đằng nhi lai,
hoặc như thương như khố, hoặc như cổ như kỳ. Nhược kiến tổ tông tủng bạt, nhất
định tử tôn tranh hùng.
Về hình thì có Hoa Cái – Tam Thai.
Về tượng thì lâu đài bảo điện. Cũng có khi hai ngọn vươn lên giống như cánh
chim. Hình có thể giống như yên ngựa cáo trục, hình kỳ lân, phụng hoàng hoặc
hình chữ thượng, chữ hạ, chữ vương, chữ nhân, chữ thiên năm phẩm khác nhau.
Kim tinh, hỏa tinh, mộc tinh, thổ
tinh... năm hành phân biệt. Hoặc như mây sấm dâng lên, hoặc như giây dưa man bò
lại, hoặc như kho tàng hoặc như cờ trống.
Nếu thấy tổ tôn cao vút chắc chắn
con cháu sẽ hùng cường.
Câu 4: Tổ hữu vạn hình
yếu dương suy lực, hồi nhi luận, tiên quan kỳ tổ tông khởi, thứ kỳ chi cán; cán
giả, chính mạch chi sở hành, chi giả bàng chi, chí sở khứ, cán giả, tùy tiết
nhi phát, chi giả nhất đại nhi suy, tiên luận sơn, hậu luận thủy.
Vì tổ sơn có hàng vạn hình trạng,
cần phải dùng mục lực mà suy luận. Trước hết hãy xem tổ tông rồi xem đến chi
cán – Cán (thân, cây) là đường đi của chính mạch. Chi (cành cây) là lối đi của
hàng chi.
Đại để về cán thì mỗi đốt một đời –
Còn chi thì chỉ có một đời phát rồi suy.
Trước hết bàn đến sơn, sau mới bàn
đến thủy.
Câu 5: Hoặc trường
giang, trường khê hoặc đại hồ đại trì, duyên khê nhi chí, phát trì nhi lai,
trường thanh khuất khúc vi quý, khí thiển bạc ư trọc, trực lưu vi tiện cách.
Hoặc sông dài suối dài, hoặc hồ
rộng ao rộng. Mạch theo ven sông ven suối đến. Khởi từ hồ ao lại. Nước trong trẻo
đi khuất khúc là quý khí, còn nước u trọc, chạy thẳng là tiện cách.
Câu 6: Đăng sơn tầm tổ
tông, đáo xứ vấn thủy khẩu.
Lên núi để tìm tổ tông, đến huyệt
trường phải kiếm thủy khẩu.
Câu 7: Cứ tổ tông nhi mạch tầm lạc, vấn thủy khẩu
nhi định lai long - Thủy khẩu phóng Nam, mạch tầm Bắc. Thủy khẩu quy Đông mạch
vọng Tây.
Cứ theo tổ tông tìm mạch lạc, hỏi
thủy khẩu mà định lai long, Thủy khẩu phóng Nam thì long mạch từ Bắc đến. Thủy
ra ở phía Đông thì Long mạch kiếm tìm ở phía Tây.
Câu 8: Dục tường quan giả, tiên khán thủy, hậu khán
sơn.
- Dục cấp quan giả, vị khán sơn,
tiên khán thủy.
Muốn cho xem tường tận, thì trước
phải xem thủy, sau mới xem đến sơn. Còn muốn xem vội thì ngược lại, ta xem sơn
trước, sau mới xem đến thủy.
Câu 9: Mạch hữu liên sơn nhi hạ,
hữu độ giang nhi lai, hoặc mã đề nhi hành,
hoặc bàng hồng nhi khởi.
Mạch có khi đi liền liền, từ núi cao chạy
xuống lại có khi mạch qua sông mà lại, cũng có khi mạch đi lỗ chỗ như vết chân
ngựa, hoặc có lúc lặn qua ruộng rồi mới nổi lên.
Câu 10: Thiết thiết tường kỳ bát tự
thủy phân, khẩu hiện kỳ lưỡng chi, sơn dẫn hữu thuận thế, nghịch thế, hữu hồi
long, hoành long.
Nhưng trước hết phải tìm long xuất tổ đi ra phải có “bát tự thủy phân”
(2 bên có 2 giòng nước). Long đi có thể đi thuận theo dòng nước, từ ngọn nước
đi xuôi (thuận long) và cũng có thể đi nghịch với chiều xuôi của dòng nước
(nghịch long - hồi long), hoặc bỏ dòng nước mà quay ngang đi xa xa (hoành
long).
Câu 11: Thuận giả, cầu kỳ nghịch,
nghịch giả cầu kỳ thuận, thuận nghịch cầu kỳ chứng tá, hồi hoành cầu kỳ thác
lạc.
Long đi thuận phải tìm nghịch, long đi nghịch phải tìm thuận - Thuận
nghịch phải tìm chứng tá - Muốn biết hồi hoành ta tìm thác lạc.
Câu 12: Địa thế bản tự Bắc chí Nam,
kiến kỳ nghịch hành vi quý
Trên nguyên tắc, long đi thuận là từ Bắc xuống Nam (cũng có khi từ Tây
Bắc xuống Đông Nam) - Nếu long đi nghịch lại “thế thuận” của long quý.
Câu 13: Thủy thế bản Đông quy, bối
tây kiến kỳ khúc khuất vi kỳ.
Cũng trên nguyên tắc thì thủy chạy từ Tây sang Đông, (ở Trung Quốc) cũng
có khi từ Tây Bắc xuống Đông Nam (ở Việt Nam) nếu sau lưng ở phía Tây mà thấy
nước chảy khuất khúc là nước hạ (thủy tốt).
Câu 14: Đại tiểu nhất đốn khởi
thành quách vi đại địa. Tiểu hình thế bạc, đơn vị tiểu địa
Lớn nhỏ núi cũng chỉ khi đốn khi khởi, nhưng nếu có thành quách bao vây
thì lại đại địa. Còn nếu thấy núi nhỏ bé, thế đơn côi bạc mỏng là tiểu địa.
Câu 15: Liên sơn tầm kỳ phiên thân.
Hạ sa quan kỳ hồi đầu
Nếu thấy dãy núi liền liền ta tìm
chỗ nó trở mình.
Nếu thấy núi soải xuống thấp ta xem
chỗ nó quay đầu.
Câu 16: Đại địa giả, tầm yêu, lý, hạc.
Tiểu địa giả, tầm đầu khí
thụ.
Nếu là đại địa ta tìm chỗ huyệt tọa
lạc trên lưng.
Nếu là tiểu địa ta tìm chỗ thụ khí
ở đầu.
Câu 17: Tam chi tề hành đoản giả vi chân
Lưỡng mạch tịnh hành, nghịch giả vi quý.
Nếu thấy ba chi cùng đi thì chi nào
ngắn nhất là thật. Nếu thấy hai mạch cùng đi, thì mạch nào quay ngược lại là
quý.
Câu 18: Thuận giả, tầm kỳ chính mạch
Kỵ giả tầm kỳ tích
Thế long thuận ta tìm chính mạch.
Thế kỵ ta tìm sống lưng.
Câu 19: Uyển chuyển giả, tầm trực
Chân ngạnh giả, vật thứ
Mạch đi uyển chuyển ta tìm chỗ ngay
ngắn.
Mạch đi thô ngạnh ta không dừng.
Câu 20: Mạch hành như qua đằng, đa hữu mạch.
Mạch đi như dây dưa (sinh động khi
quay sang phải khi quay sang trái) là có nhiều chỗ đi đến đất kết.
Câu 21: Như thảo vĩ thiếu chân, bác long hoán cốt tầm
lão long sinh nộn.
Mạch đi lờ mờ như vệt đuôi rắn luồn
trong cỏ là hình tích long đang “bác long hoán cốt” (chuyển từ hùng dũng sang
nhu hòa) ta tìm xem lão long sinh ra long trẻ, long non tơ (rất tốt).
Câu 22: Nhược kiến nhất trùng bảo khỏe, nhất trùng
khai, đích hữu công hầu tại thử gian.
Nhất sơn loạn bảo, nhất sơn cố,
đích hữu công khanh cư thử trú.
Nếu thấy thế núi:
- Một lần bao bọc, một lần mở ra là
đích thực có đất công hầu tại chỗ này.
- Lại thấy một núi vòng ôm, một núi
ngoảnh lại cũng là đích thực có đất rộng công khanh ở nơi này.
Câu 23: Bình điền bình địa khởi sơn lôi, sơn túc hữu
huyệt tại thử gian.
Bình điền bình địa khởi thạch đa, đa
sa hữu huyệt đa cát khánh.
Nơi bình điền bình địa mà thấy có
núi cao nổi lên thì chân núi hay có huyệt. Cũng nơi bình điền bình địa mà thấy
nổi lên cát đá, thì hay có huyệt tốt.
Câu 24: Chúng sơn cao tầm đê
Chúng sơn đê tầm cao.
Chung quanh nhiều núi cao ta tìm
huyệt ở chỗ thấp.
Chung quanh đều thấp ta tìm huyệt ở
chỗ cao.
Câu 25: Thập trường nhất đoản giả vi chân.
Thập đoản nhất trường
giả vi chủ.
Mười cái dài có một cái ngắn thì
cái ngắn là thật.
Mười cái ngắn có một cái dài thì
cái dài làm chủ.
Câu 26: Bình địa tầm hạc tất, phong yêu, đại phụ
quan toán sà hôi.
Nơi bình địa ta tìm chỗ gối hạc
lưng ong, nơi gò lớn ta tìm vết mạch nổi lên như rắn bò trên cỏ.
Câu 27: Duyên khúc mạch nhận kỳ châu.
Chân mạch tầm kỳ khúc.
Mạch quanh co ta tìm chỗ thực.
Mạch thực ta tìm chỗ quanh co.
Câu 28: Tầm địa chi pháp, tiên vấn tổ tông, khước
tòng chi mạch, khán hành tung tích chân long tận xứ, kham vi dụng đích. Hậu
long tiên, mạc kiến trùng trùng đốn khởi, tiền nghênh tống, hậu nghinh, phong
bất xuy, mạch bất đoạn, chúng thủy giao hợp, nội vi thành, ngoại vi quách, thủy
khẩu quan lan - Thử đại địa giả.
Phàm tìm đất trước hết hỏi tổ tông,
rồi lại từ đó xem các chi nhánh. Coi xem tung tích chân long đi đến chỗ nào là
cùng xứ, đáng dùng được.
Như phía hậu long, thấy có màn
trướng trùng trùng đốn khởi - Đằng trước có đón, đằng sau có đưa - Lại có chỗ
gió không thổi suốt tới (tàng phong mới tụ khí) – và mạch không bị đứt đoạn -
lại thêm có nhiều thủy giao hội – mà bên trong có thành, bên ngoài có quách -
lại thêm có thủy khẩu rành mạch. Đấy chính là đại địa vận vậy.
Câu 29: Nhược kiến nhất chi sơn, nhất phái thủy, đơn
hổ, đơn long, đơn sơn dẫn, đơn thủy sở tòng, tiểu địa giả.
Tầm long bất dị, điểm huyệt vưu nan.
Còn thấy có một chi sơn, một phái
thủy, một đơn long, một đơn hổ, một núi hướng dẫn, một nước chảy theo, chỉ là
tiểu địa thôi.
Tầm long không dễ, mà điểm huyệt
càng khó vậy.
CÁC KIỂU ĐẤT QUÝ
THÁI CỰC CHI ĐỒ
Đệ nhất cách
HỮU ĐỆ NHẤT CÁCH
Thiền
thiều mạch khởi tố phương la
Nhập não
tu cầu lưỡng thủy lai
Hậu hợp đường
tiền tiên tối hảo
Tự nhiên
phú quý đích vô sai.
CÁCH THỨ NHẤT
Đùn đùn
mạch tự tổ sơn lai.
Đến huyệt
hai dòng nước khép đai
Thủy hậu hợp tiền, hồ nguyệt ánh.
Giàu sang
đoán trước tất không sai.
CHƯƠNG II
ĐIỂM HUYỆT
A. HƯỚNG DẪN PHẦN ĐIỂM HUYỆT
Điểm huyệt là phép tìm ra chỗ đúng
của huyệt trường. Cũng theo phép quân bình âm dương, cao thấp mà điểm nơi huyệt
trường có hình: Oa hoặc Kiềm hoặc Nhũ hoặc Đột. Thường mạch nơi sơn cước ta
dùng Oa và Kiềm, mạch nơi bình dương (đất bằng) ta dùng Nhũ, Đột.
Mạch sơn cước chỗ đầu núi cúi xuống
gặp nước hay gặp đất bằng mà kết thì hay có hình oa hay hình kiềm. Còn đồng
bằng mà nổi lên kết thì hay có nhũ và đột. Đột là cao lên như cái gò nhỏ, còn
nhũ là cao lên và dài như cái vú quả mướp.
Điểm huyệt ở huyệt hình Kim, khác
điểm ở hình Mộc, khác hình Thủy, khác hình Hỏa, khác hình Thổ. Ngoài khi điểm
huyệt cũng nên chú trọng đến những ngấn nước ở hai bên huyệt ta gọi là hà tu
thủy. Ta cũng cần chú trọng đến những bông cỏ xanh tươi hoặc những mô cao thấp
một chút. Huyệt điểm cao quá thì sát, thấp quá thì yếu. Ngoài ra, tay long, tay
hổ dài ngắn cũng ảnh hưởng đến phép điểm huyệt, án cao, thấp cũng thế.
B. ĐIỂM HUYỆT
Câu 1: Sơn cốc tựu kỳ oa túc
Bình dương tựu kỳ đột lĩnh.
Nơi sơn cốc huyệt ở noi oa thấp.
Vũng bình dương tuyệt ở chỗ đột
kết.
Luận câu 1: Sơn cao úy phong xuy,
thực lăng cố cổ tầm oa xứ, sơn túc điểm chi, xứ phong bất xuy giả. Tha sơn cao
tụ khí thái khí giả, như nhân chi nguyên
khí, do ngạnh tác bất chung đa, tắc âm nhu nan tầm oa xứ, cập sơn túc sử khí
chung bất phong xuy giả, - bình dương đa bạc địa, khí tụ ư cao hậu đột lĩnh chi
xứ, cố tầm đột táng sử chi, khí bất bạc giả.
Nơi núi cao ta sợ gió thổi nên phải
tìm chỗ vững thấy (oa) nơi chân núi mà điểm, khiến cho gió không thổi tới được.
Bởi núi cao mà tụ khí thì khí quá
mạnh, khí ở đây như nguyên khí của người nên chỗ cương ngạnh (chỗ cao) có gió
thổi thì khí không tụ, ta phải tìm chỗ ôn nhu ở chỗ khai oa ở chân núi để cho
khí chung tụ (không bị gió thổi tới).
Còn nơi bình dương khí bạc, ta lại
phải tìm chỗ khí là tránh chỗ khí đơn bạc.
Câu 2: Chứng tá vô như vượng tướng.
Cao đê bất thất tụ chung.
Nhiều chứng tá không bằng chứng tá
vượng tướng.
Đất cao thấp, không thể để mất chỗ
tụ chung.
Luận câu 2: Phàm huyệt tả hữu
thượng hạ, chứng tá quân bình, thế đại nan y thừa kỳ vượng tướng. Mạch thừa kỳ
Bính Tý, Canh Tý chi loại, nhi tỵ cô hư chi khí. Hoặc cao hoặc đê, nan y giả
dã, tất thừa kỳ chung tụ chi khí, nhi thiên chi chung tụ giả - viên hậu phì
nhũ, thổ bao chung tú, thảo mộc thanh tú dị giả. Nhược chung tụ câu đại nan cứ
giã. Thượng lập chuẩn tiêu ư mạch ưng đáo xứ khởi huyệt xứ, hạ lập chuẩn tiêu ư
nậu tận, thủy hợp lưu xứ.
Thượng khởi hộ nhi hạ, hạ khởi bộ
nhi thượng, phàm bộ chi xích thốn, hợp đoản thiểu.
Hạ kế: Kiên, Trừ, Mãn, Bình, Định,
Chấp, Phá, Nguy, Thành, Thâu, Khai, Bế.
Thượng kế: Giáp, Ất, Bính, Đinh,
Canh, Tân, Nhâm, Quý.
Nhi trực ngộ xuất xứ
a. Hạ đắc: Bình, Định, Thành, Khai.
b. Thượng đắc: Giáp, Ất, Canh, Tân
Tiết điểm chi
Nhược huyệt như đích hữu chứng tá,
an thập đạo táng.
a. Ngộ Kiến, Phá, Trừ, Mậu, Kỷ,
Quý: Tiên sát tam nhân, hậu phát.
b. Ngộ Chấp, Bế, Ất, Đinh - Bất
phát, hưu kiến đại tai.
c. Ngộ Mãn, Thâu, Bình, Chi.
Phàm huyệt tả hữu trên dưới có
chứng tá, quân bình thế rộng lớn, khó mà căn cứ, thì ta phải thừa mạch Vượng,
Tướng, ví dụ như mạch nên thừa Bính Tý (nếu là Nhâm Long) Canh Tý (nếu là Tý
Long) và tránh khí Cô Hư (Giáp Tý, Mậu Tý, Nhâm Tý).
Còn mạch cao thấp khó mà căn cứ nên
phải thừa vào chỗ Khí chung tụ để táng huyệt. Chung tụ là chỗ viên hậu, phì
nhu, có sắc thổ tốt đẹp, cỏ cây xanh tươi đó là đất lạ.
Nếu chỗ chung tụ mà rộng thì cũng
khó mà căn cứ được, ta lại phải lập tiêu chuẩn.
Lập một tiêu chuẩn ở chỗ khởi huyệt
(bên trên).
Lập một tiêu chuẩn ở chỗ khởi lưu
(bên dưới). Rồi đi từ phía trên đi xuống, phía dưới đi lên. (Bằng cỡ chân bước
ngắn, dãy đều nhau).
Khi bước từ dưới lên đếm (tuần tự
đọc): Kiên - Trừ - Mãn – Bình - Định - Chấp – Phá – Nguy – Thành – Thâu – Khai
- Bế.
Còn bước từ trên xuống ta đọc: Giáp
- Ất – Bính – Đinh – Canh – Tân – Nhâm – Quý.
Mỗi bước một chữ
Khi trên dưới gặp nhau mà:
a. Phía dưới đi lên gặp chữ Bính –
Đinh – Thành khai.
b. Phía trên đi xuống gặp chữ Giáp
- Ất – Canh – Tân.
Tức là điểm đúng huyệt rồi đó
Còn như huyệt có đủ chứng tá phân
minh thì ta chăng dây hình chữ thập (một dây chiều trước sau, và một dây chiều
phải trái) để làm đích mà táng.
Lúc táng mà được Kiên, Phá, Trừ,
Mậu, Kỷ, Quý thì trước phải bị sát 3 người sau mới phát.
Còn gặp được Chấp, Bế, Ất, Đinh thì
không có phát và gặp tai họa dữ dội.
Còn gặp ngay Mãn, Thâu thì bình
thường.
Câu 3: Mạch thừa tả hữu, bất câu tả hữu
Địa hữu minh ám, tu biện minh ám.
Mạch nhận tả hữu mà không câu nệ tả
hữu.
Đất có minh ám, nên biện biệt minh
ám.
Luận câu 3: Kỳ pháp, mạch tòng tả
lai, khí chung vu hữu. Mạch tòng hữu lai, khí chung vô tả. Diệc nhiên, địa nhất
minh, nhất ám, nhất hư, nhất thực.
a. Minh giả: mạch thùy giáng khai
minh, thủy tiểu tiểu vi mang dã.
b. Ám giả: chúng tương hành
c. Hư giả: nhuyễn nhược bạc dã.
d. Thực giả: viên vụng, phi hậu tú
khí dã
Tại nơi điểm huyệt, nếu thấy mạch
từ tả đến (nhiều khi tả cao, hữu thấp) thì khí chếch sang bên hữu (nên điểm
huyệt sang bên phải).
Và nếu thấy mạch từ hữu sang tả
(khi hữu cao tả thấp) thì khí tụ chếch sang bên tả (nên điểm huyệt sang bên
trái).
Cũng tại nơi điểm huyệt, nếu thấy
đất một bên minh, một bên ám, hoặc một bên hư một bên thực, cũng phải biết mà
liệu điểm huyệt thì mới trúng nơi khí chung tụ.
a. Minh là mạch rủ xuống, trông
thấy rõ.
b. Ám thì lờ mờ khó nhận.
c. Hư là mềm yếu mỏng manh.
d. Thực là quầng tròn và đầy đặn.
Vì vậy nếu thấy đất Minh thì dễ,
còn đất Ám, ta phải coi thêm kỹ các chứng ứng như: Long, Hổ, Ám v.v...
Còn đất Thực thì ta chọn chỗ thực
mà bỏ chỗ hư - Bởi hư thì khí bạc mà thực thì mới có tú khí.
Câu 4: Cấp lai hoãn thụ, Hoãn lai cấp thụ
Âm lai dương thụ, Dương lai âm thụ
Mạch cấp lại thì chỗ Hoãn là kết.
Hoãn lại thì chỗ cấp là kết.
Mạch Âm lại thì chỗ Dương là kết và
mạch Dương lại thì chỗ Âm là kết.
Luận câu 4: Địa hữu hoãn hữu cấp,
như nhân hữu nhược hữu cường. Cấp giả, cao đại, huyệt tại Kiềm Nhũ. Hoãn giả vi
tiểu, đê bạc.
Phàm lai long nhị tam tiết giai
hùng, Cấp tựu kỳ Oa Kiềm, sơn túc chi xứ điểm chi.
Sơn cao vi âm, đê giả vi dương.
Quần sơn giai cao, tầm kỳ đê xứ nhi điểm.
Chúng sơn giai đê, tầm kỳ cao xứ
nhi điểm chi. Diệc cứ âm lai dương thụ chi nghĩa dã.
Mạch có hoãn có cấp, như người ta
có nhược có cường. Cấp thì cao lớn: Huyệt tại Kiềm Nhũ. Còn Hoãn thì nhỏ bé,
thấp bạc.
Phàm lai long hai ba tiết đều hùng
mạnh là Cấp huyệt ở Oa, Kiềm nơi chân núi mà điểm.
Còn sau huyệt mà thấy sơn bằng
phẳng, nhuyễn nhược thì phải tìm chỗ đột cao lên ở huyệt trường mà điểm (nơi
đột lĩnh).
Sơn cao là Âm, thấp là dương. Đám
sơn đều cao ta chọn chỗ thấp mà điểm huyệt.
Các sơn đều thấp, tìm chỗ cao mà
điểm huyệt. Đây là căn cứ vào nghĩa câu:
Âm lai dương thụ - Dương lai âm
thụ.
Câu 5: Quan mạch tương tiếp, bất sai
Khí mạch kiêmthu, hữu hiệu.
Quan với mạch nối tiếp nhau là đúng
phép.
Khí với mạch gồm thu cả mới hữu
hiệu.
Luận câu 5: Điểm huyệt chi pháp, sử
quan bất ly mạch, mạch bất ly quan, nhược bất sai chi như mãn cư tán dã.
Chính li vi mạch, lưỡng biên vi
khí, yếu đắc kiêm thu nhập huyệt, thủy phát phúc hữu hiệu giả dã.
Điểm huyệt là phép tìm chỗ cho quan
không xa lìa mạch, mạch không xa lìa quan, phải như vậy mới được kết. Chính
giữa là mạch thì hai bên là khí, cần phải cả khí lẫn mạch đều được kiêm thu vào
huyệt thì việc phát phúc mới hữu hiệu.
Câu 6: Kim dụng Oa, Mộc dụng Tiết,
diệu tại nhẫn suy. Thủy tầm khúc, Thổ tại Giốc, tựu chung linh tại nhỡn kiến.
Huyệt trường hình Kim (tròn) thì
huyệt dụng Oa. Hình mộc (dài) thì kiếm chỗ Đốt (mắt) khéo léo ở mắt quan sát.
Hình thủy (hình vòng vèo, méo) thì
tìm huyệt ở chỗ Khúc (cong mập).
Hình thổ thì ở nơi góc (nếu có khác
mấy góc kia) hoặc ở giữa (nếu 4 góc giống nhau) đó là hình lợi ở mắt nhìn.
Luận câu 6: Kim viên hình, tựu oa
nhi oa thủ. Vô oa tựu khai – nhi long, hổ, chủ, khách hữu tình tức tu khai tắc
kim oa. Cố viết diệu tại nhãn suy.
Mộc bản cao kỳ tiết, vô tiết tầm
ảnh, nhược vô tiết, ảnh, nhi sơn thủy hữu tình, tắc khí qui căn, nghi tác niêm
căn (gốc).
Thổ tinh huyệt tại Giốc. Nhước bất
minh tắc mạch quán trung, vi chính nghi huyệt tâm.
Thủy tinh nhược, đang tầm khúc xứ -
Thủy tùy mạch nhi điểm - Cố viết linh tại nhãn kiến dã.
Kim hình tròn, ta kiếm chỗ vụng
(oa) làm huyệt. Nếu không thấy chỗ vụng (oa) thì tìm chỗ Khai hoa (biến thể của
oa) mà có long, hổ, chủ, khách hữu tình thi chính chỗ khai hoa này thay thế cho
hình Oa (chỗ vụng) làm huyệt cho huyệt trường hình kim. Nên mới nói là khéo léo
ở mắt quan sát.
Hình Mộc (dài) thì quý ở chỗ Đốt
(mắt của cây). Nếu không thấy đốt (mắt của cây) thì ta tìm cái bóng của Đốt.
Trường hợp không có đốt, lại không có cả bóng của đốt nữa, mà thấy sơn thủy hữu
tình thì khí mạch tụ ở gốc (căn). Nên điểm sát gốc.
Thổ tinh (huyệt trường vuông hoặc
chữ nhật) thì huyệt hay ở vào một góc (góc có hình tích khai huyệt và ngoài có
long hổ vòng ôm).
Nếu các góc không có huyệt thì khí
mạch đều tụ ở chính giữa. Nó chính là huyệt tâm, trường hợp 4 mặt cao giữa
thấp, hoặc 4 mặt bằng mà giữa nổi lên hình Kim thì lại càng đúng.
Thủy tinh thì khí nhu nhược, ta nên
tìm ở chỗ cong (phì hậu) mà điểm (phải có chứng ứng như long, hổ, án, sa). Như
trên trình bày ta tùy mạch mà điểm, nên mới nói là linh ở mắt nhìn.
Câu 7: Hỏa tinh thập cá cửu không, biến kỳ quý
khí đương cầu.
Kỵ long thập cá cửu giả, nhận kỳ thực huyệt vi
thủ.
Hỏa tinh thì mười cái có 9 cái
không, nếu thấy có quý khí mới nên tìm.
Kỵ long thì mười cái có 9 cái giả,
nên tìm chỗ thực huyệt mà lấy.
Luận câu 7: Hỏa bản tiêm đầu vô
huyệt, nhược hỏa hình như đầu đại phì, tú khí tắc họa tuyệt ư phì xứ - Kỳ tọa
hoành đạp hoành sử bất kiến tiêm đầu hỏa, cố viết chiên hỏa cách. Kỵ long đại
địa bất kết ư tận xứ, cố viết kết chi ư nội, tiền hậu giai xung, giáp huyệt;
phong bất chí, thử bất sinh, tầm kỳ chính tích, hoặc Oa, Kiềm, Nhũ, Đột. Minh
tiền hiển hậu, đương nhận thử chi.
Kỵ hữu, thuận kỵ, đảo kỵ, hoành kỵ.
Thuận kỵ, lai sơn tác huyệt, khứ
sơn tác án.
Đảo kỵ giả, khứ sơn tác huyệt lai
sơn tác án.
Hoành kỵ, tống sơn tác tuyệt, nhược
huyệt vật dụng dã.
Phàm kỵ long, sơn bảo hành thủy do
phân, thập cá cửu không dã.
Nhược Long tụ, thủy giao, hữu chân
huyệt, phát phúc vĩnh niên giả.
Hình hỏa nhọn đầu vốn không có
huyệt. Nếu hỏa hình mà đầu mập lớn, có tú khí thời tọa tuyệt ở chỗ đầu mập.
Nhưng dù chọn chỗ đầy mập cũng phải “tọa hoành, đạp hoành” nghĩa là làm sao chỗ
ngồi của huyệt không còn nhìn thấy chỗ nhọn đầu của hình hỏa (hình nhọn) được.
Phép này gọi là “Tiễn hỏa cách”.
Thế kỵ long (ngồi trên lưng long,
còn xa mới tới minh đường) hay ở những ngôi đất lớn. Kỵ long thì huyệt không
kết ở nơi tận xứ (gần minh đường) mà kết ở ngay trong (trên lưng) long, và
trước sau của nó đều vệ giáp vào huyệt. Phải là chỗ mà gió không thổi tới, nắng
không tới. Huyệt ở trên sống lưng long có thể là Oa - Kiềm – Nhũ hoặc Đột nhưng
phải là chỗ trước, sau (những chứng ứng) phải minh hiển, rõ rệt.
Nói về kỵ long ta có cách:
1. Thuận kỵ (huyệt nhìn xuôi)
2. Đảo kỵ (huyệt nhìn nghịch)
3. Hoành kỵ (huyệt nhìn ngang)
a. Thuận kỵ thì lai sơn (sơn đến)
làm huyệt và khứ sơn (sơn đi) làm án.
b. Đảo kỵ thì khứ sơn (sơn đi) làm
huyệt, và lai sơn (sơn đến) làm án.
c. Hoành kỵ thì tống sơn (sơn tiễn)
làm huyệt và nghinh sơn làm án.
Tuy nhiên, kỵ long mà thấy huyệt
không chính xác thì chớ có dùng.
Phàm kỵ long mà sờn của long còn
chạy đi, nước chưa tụ thì mưới cái có đến 9 cái không.
Còn khi thấy chắc chắn long đã
đinh, thủy đã giao thì mới là chân huyệt. Sẽ phát phúc vĩnh viễn vậy.
Câu 8: Thổ tinh hữu huyền lăng, cá cá giai thị.
Thổ huyệt hữu triều ảnh, nhất nhất giai chân
Thổ tinh mà có “huyền lăng” thì cái
nào cũng phải.
Thổ huyệt mà có “triều ảnh” thì
nhất nhất đều trúng.
Luận câu 8: Thổ tinh vi bình, tứ
diện thành khởi, tựu trung nhi bất nghi, triều ảnh gia vận chi trung, lưỡng
biên vệ huyệt, thiên vũ thủy vọng chi ảnh vimang, hợp ư vận nhi điểm huyệt chi,
bất sai huyệt dã.
Thổ tinh bằng phẳng mà 4 phía chung
quanh có thành cao lên thì huyệt kết tại chính giữa, không còn hoài nghi gì
nữa.
Triều ảnh là ở trong vầng quầng mà
hai bên có vệ huyệt, khi trời mưa nhìn thấy ánh nước lờ mờ, hợp với vầng quầng,
ta điểm huyệt thì hẳn là đúng huyệt.
Câu 9: Hà tu nhất thể
Giải nhỡn lưỡng đầu
Râu tôm một thể
Mắt cua hai đầu.
Luận câu 9: Hà tu giả, vi thủy vệ
huyệt, dị kiến, chí nhược.
- Giải nhỡn, tả hành tắc tả biên
minh, hữu biên ám. Tùy án tiền nhi điểm chi dã.
Râu tôm, hà tu là cái vi thủy (thủy
nhỏ bé) vệ huyệt dễ nhìn thấy.
Mắt cua (giải nhỡn) thì nếu mạch đi
tả biên thì tả biên rõ hữu biên mờ. Trường hợp này thì theo án đằng trước mà
điểm huyệt.
Câu 10: Sơn bất hứa ư trực xung
Mạch trực sử ư quán nhĩ.
Sơn không nên đi thẳng đến huyệt.
Mạch trực nên cho vào (tài liệu mờ)
Luận câu 10: Sơn mạch trực nhập,
nhi tọa chi vị chi đấu, mạch sát, thả như:
a. Dậu long, tọa Dậu hướng Mão
b. Hợi long, tọa Hợi hướng Tỵ chi
loại.
Phạm huyệt trực nhập, tác phân kim,
thiên hướng sử mạch quán nhĩ, mạch nhập nhị dã.
Sơn mạch chạy thẳng vào quan là
“đấu sát” (đấu mạch bị sát). Ví dụ như:
a. Dậu long mà tọa Dậu hướng Mão.
b. Hợi long mà tọa Hợi hướng Tỵ.
Là mạch xông thẳng vào quan.
Phàm huyệt mà trực nhập thì phân
kim phải cho mạch đi xiên (khiến cho mạch không đâm thẳng vào não. Phải cho
mạch nhập nhĩ, gọi là mạch vào tai vậy).
Câu 11: Sở quý cầu mạch thảo xà
Sở ái lâm điền bộ ảnh
Đáng quý, mạch như rắn bò trên cỏ
Đáng yêu mạch như bóng hiện trên
ruộng
Luận câu 11: Thảo xà mạch, hành như
xà nhập dư tất tâm truyền thụ.
Ảnh giả, truyền giốc điền mạch dã.
Mạhc hành bình điền, nhận điều giốc
bán thốn vi cao vọng chi, như ảnh tùy thân, khai khẩu minh dịch nhi điểm chi.
Thảo xà là mạch đi nhu rắn bò trên
cỏ (hơi gợi lên).
Ta đã được tâm truyền thụ thụ.
Ảnh là mạch truyền góc ruộng. Đó là
mạch đi ở bình điền, nhận thấy ở góc ruộng hơi cao lên (độ 1 tấc) trông nó như
là bóng theo người. Tìm chỗ khai khẩu, hiện rõ mà điểm.
Câu 12: Tiêm đầu mạc hạ
Thử vĩ hưu thiên
Nhọn đầu đừng có hạ
Đuôi chuột chớ nên rời.
Luận câu 12: Tiêm đầu khí bất tụ,
thử vĩ khí bất chung. Phàm hình như tiêm đầu thử vị, tế tiểu nhi điểm khí bất
chung dã.
Nhọn đầu khí không tụ, đuôi chuột
khí không chung. Phàm mạch bé, hình đầu nhọn, hình đuôi chuột điểm ở chỗ nhọn
chỗ nhỏ đó thì không có khí tụ vậy.
Câu 13: Án long tỵ vật thượng ư thần
Táng quy kiên, vật dụng
ư sác.
Để ở mũi rồng, thì chớ cho xuống
môi.
Táng trên vai rùa thì đừng cho lên
mai.
Luận câu 13: Long bản quý khí tại
tỵ - Nghi điểm chi Quy bản huyệt tại kiên, vật dụng ư sác dã. Long điểm ư thần,
tận khí dã.
Rồng vốn quý ở nơi mũi (nói chung
là huyệt ở chỗ khí chung tu nên điểm vào mũi, chớ điểm thấp xuống mồm rồng.
Rùa, nếu huyệt ở vai (nói chung là
huyệt ở chỗ khí chung tụ) nên điểm vào vai (chớ điểm cao lên mai rùa).
Như trên, nếu rồng có khi chung tụ
ở mũi mà điểm xuống quá thấp là điểm ở chỗ tận khí (không tốt).
Cũng như trên, nếu rùa có khí chung
tụ ở vai mà điểm cao lên mai, thì bị sát, không tốt.
Câu 14: Thạch sơn tầm thổ huyệt
Thổ huyệt tầm thạch
long.
Núi đã kiếm thổ huyệt
Thổ huyệt tìm thạch long
Luận câu 14: Phàm thạch sơn bản vô
huyệt, nhược kiến oa hình, thổ nhuận nghi điểm chi, giác thư vi quý. Nhược vô
thạch mạch tụ, tựu hạ ư thổ xứ điểm chi.
Phàm núi đá vốn không có huyệt. Nếu
núi đá mà thấy ở chỗ vụng (oa) có đất mềm thì nên chú ý mà điểm huyệt – Thư
thái là quý.
Còn như không thấy khí mạch trên
núi đá thì ta tìm xuống dưới chỗ có đất mà điểm.
Câu 15: Thạch thượng nghi táng
Thủy để diệc thiên.
Trên núi đá cũng có cách táng.
Dưới nước cũng có cách dời xuống.
Luận câu 15: Thạch giả như nhân chi
cốt, phàm cốt ngạnh, vô huyệt, nhược kiến tả hữu, hữu tình, tiền hậu phân minh,
tú khí tụ chung, thổ diện giai thạch - Bất nghi phủ định quật chi - Kỳ pháp,
trí quan ư thạch thượng, dĩ khách thổ bồi chi – Cao hậu ngũ xích diệt phát phúc
dã.
Nhược chí mạch hành hoạt long, hoạt
xà, quý sơn sở dẫn, quý thủy sơ tòng, đáo xứ bất biến huyệt, hoặc trì hồ tĩnh
thủy bất động, hữu khởi tinh phong, hữu thực, thị thủy để huyệt nghi táng chi.
Đá cũng như xương người, phàm cốt,
thì thô ngạnh, không có huyệt, nhưng thấy tả hữu mà hữu tình, trước sau phân
minh, có tú khí chung tụ, mà trên mặt đất chỉ thấy có đá không có đất thì ta
chớ nên dùng đinh và búa mà đào khoét xuống (làm huyệt). Ta phải dùng phép đặt
quan tài trên đá, rồi lấy đất chỗ khác đem đến đắp lên. Đắp cao độ 5 thước
(thước ta độ 25cm) cũng phát phúc vậy.
Còn nếu mạch đi hoạt long, hoạt xà,
có quý sơn dẫn dắt, quý thủy đi theo, tới chỗ thích ứng mà không thấy huyệt mà
thấy nơi đó có nước hồ trong sạch, êm tịnh bất động lại thấy (có chứng ứng)
tinh phong khởi lên. Đó là có huyệt chim dưới nước. Ta nên tìm cách táng ở đó.
Câu 16: Phản thủ tắc niêm cao cốt.
Khúc bối tu ỷ tùy đầu.
Đất như bàn tay úp thì cốt lộ lên
cao
Đất như khum lưng xuống thì kết
huyện ở chỗ khum.
Luận câu 16: Cốt giả sơn chi khởi
phong, sơn hành như thủ chi phản, tầm kỳ cốt nhi điểm chi.
Sơn đầu, cốt thủy đầu, tựu ư đầu, huyệt
điểm chi.
Cốt là chỗ khởi phong của núi - Nếu
thế núi như bàn tay úp, ta tìm chỗ cốt lộ mà điểm.
Xương đầu núi cúi khom xuống, ta
tới chỗ đầu núi, tìm huyệt mà điểm.
Câu 17: Hiển đột bất dị ư đột thượng. Minh nhũ bất
ly ư nhũ trùng.
Kiềm tác kỳ ỷ - Oa tác kỳ chi.
Hiển đột không rời khỏi “mặt đột”.
Minh nhũ không lìa quá “trong nhũ” - Kiềm thời táng “ỷ” (ỷ là chỗ tựa). Oa thời
táng “chi” (chỉ là chỗ ngưng).
Luận câu 17: Thế hữu thiên đoan vạn
hình, bất quá tứ thế: Oa - Kiềm – Nhũ - Đột.
Thế đất có nghìn vạn đoạn hình,
nhưng điểm huyệt chẳng qua 4 thế là: Oa - Kiềm – Nhũ - Đột.
Câu 18: Tả hữu đầu trường, huyệt cư Nam
Tả hữu đầu đoản, huyệt cư Bắc.
Hai bên đầu tả hữu (long, hổ) dài,
huyệt ở Nam. Hai bên đầu tả hữu (long, hổ) ngắn, huyệt ở Bắc (gần).
Luận câu 18: Phàm huyệt thí như anh
nhi, tả hữu như thế sở cầu. Tả hữu trường tắc nguyệt ngoại của tả hữu đoản tắc
huyệt nội trú.
Đại khái huyệt cũng ví như đứa trẻ
(được hai tay long hổ ôm bế che đỡ). Tả (long) hữu (hổ) cũng ví như người dìu
dắt nó.
Tả hữu (long hổ) dài thì huyệt ở
ngoài xa. Tả hữu (long hổ) ngắn thì huyệt ở trong gần.
Lưu ý: Bởi thế núi, nguyên tắc đi
từ Bắc xuống nên nói Nm là nói ở xa, nói Bắc là nói ở gần. Và các vị thâm nho
kể cũng thâm thật.
Câu 19: Ngoại kháng tầm nội mật
Nội cùng mịch ngoại thư.
Rộng rãi không khoáng thì tìm kín
đáo bên trong.
Bức bách chật hẹp thì tìm thênh
thang bên ngoài.
Luận câu 19: Phàm huyệt hữu thế,
hữu hình, minh đường khoảng khoát tất di, sử ư tiền hữu vi, cao dĩ yểm tâm dã.
Nhược nội bức thái quá giả, nghi tựu mịch ư ngoại thư giả điểm chi.
Phàm huyệt có thế, có hình, nếu
minh đường rộng rãi, phải rời xa xa, khiến cho đằng trước có chỗ hơi cao để che
trước ngực. Nếu bên trong bức bách quá, kiếm chỗ thư thái bên ngoài mà điểm.
Câu 20: Tả động tả tầm
Hữu động hữu tầm.
Bên tả động, tìm huyệt bên tả. Bên
hữu động tìm huyệt bên hữu (chỗ động, chỗ trông khang khác là chỗ khai huyệt).
Luận câu 20: Truyền ngôn: thị Mộc,
thị Kim, động trung thủ huyệt
Lời truyền rằng: Dù hình Mộc, dù
hình Kim, cứ trông chỗ động mà tìm huyệt.
Câu 21: Minh Đường hiệp đê xứ điểm.
Minh Đường khoan cao xứ tầm.
Minh đường hẹp, điểm huyệt chỗ
thấp. Minh đường rộng, điểm huyệt cao (chỗ cao mới bao quát được chỗ rộng).
Luận câu 21: Hiệp nhi tọa đê, khoan
nhị tọa cao. Giai bất hiểu ư đường tất tùy kỳ thế dã.
Câu 22: Chân lai Ngụy lạc, huyệt kỳ chân
Ngụy lai chân lạc, huyệt kỳ ngụy.
Mạch chân lại, mạch ngụy lạc, huyệt
ở mạch chân.
Mạch ngụy lại, mạch chân lạc, huyệt
ở mạch ngụy.
Luận câu 22: Mạch hữu chân hữu
ngụy, như long hành tam tứ tiết nhi Hợi giao, đáo hữu ngạnh tiết. Tý, Quý hành
đáo như hữu minh dịch, diệc tựu Hợi điểm chi.
Mạch có mạch chân mạch ngụy. Nếu
long hành ba bốn tiết đến Hợi giao tiếp, có tiết thô ngạnh. Tý quý có nước mạch
rõ rệt, cũng theo mạch Hợi đó mà điểm.
Câu 23: Vật ngộ dụng bích lập tàng sơn
Vật ngộ dụng đê điền
bạc xứ
Đừng dùng chỗ vách đứng của núi
non.
Đừng dùng chỗ bạc nhược của bình
dương.
Luận câu 23: Hậu đầu sơn xứ bích
lập cận điểm chi tắc sinh hung họa. Phàm đê điền bạc xứ vô huyệt tất bất dụng.
Nếu điểm huyệt gần vách đứng dựng
của hậu đầu sơn thì sẽ sinh tai họa. phàm điểm huyệt mà thấy đất ruộng thấp đê
bạc của bình dương thì cũng nên tránh.
Câu 24: Bắc thần lãnh thủy bức án vô phương
Hậu đầu chiết mộc, cận
huyệt vật dụng
Phía Bắc có lãnh thủy, dù có án bức
cũng vô hại.
Nơi hậu đầu có có chiết mộc, gần
huyệt ta chớ nên dùng.
Luận câu 24: Phàm huyệt tại bình
điền, bình địa, tiền án cao nhất xích, cận ngũ bộ bức huyệt, sát hại, Đan Bắc
hướng, bất hại. Nhược kiến nhất sơn hậu hoành án như mộc, cận táng đắc hại
trướng.
Phàm huyệt ở nơi bình điền, bình
địa mà trước huyệt có án cao một thước, ở gần huyệt năm bộ, sẽ bức huyệt, thì
bị sát hại. Song, nếu án cao ở phương Bắc thì không hề chi. Nếu thấy núi vắt
ngang đằng sau như hình Mộc mà táng gần, thì hại con trưởng.
Câu 25: Cao vật dụng phong xuy
Đê vật dụng thủy phá
Nơi cao đừng dùng huyệt có gió
thổi.
Nơi thấp đừng dùng huyệt bị thủy
phá.
Luận câu 25: Cao úy phong xuy, phàm
sơn cốc tùy kỳ tàng phong, cố sơn túc điểm chi.
Phàm đê điền vật dụng hậu sơn lưỡng
bối cao mãn, hoàn thủy lâm phá hậu đầu, tất tuyệt tự dã.
Huyệt nơi cao phải tránh chỗ gió
thổi, phàm huyệt nơi sơn cốc, phải điểm huyệt ở chỗ ít gió (mới tụ được khí).
Ta phải kiếm huyệt ở chỗ chân núi mà điểm.
Phàm nơi bình dương (đất thấp)
không nên điểm huyệt ở chỗ có hậu sơn mà hai bên huyệt cao đầy, sẽ dễ bị nước
tràn phá vào hậu đầu - tất sẽ bị tuyệt tự.
Câu 26: Khai khẩu dụng thị đích
Minh dịch điểm vô sai
Điểm huyệt nơi khai khẩu là đích.
Điểm huyệt chỗ minh dịch không sai.
Luận câu 26: Khai khẩu cứ khẩu nhi
điểm – minh cứ dịch nhi điểm - Vận vô nhất thất dã
Thấy khai khẩu cứ chỗ khẩu mà điểm
- Thấy dịch cứ chỗ dịch mà điểm, vạn cái không sai một.
Câu 27: Tứ loan kim vật dụng kim
Tứ loan thủy vật dụng
thủy
Bốn kim nhạc đừng dùng kim.
Bốn thủy nhạc đừng dùng thủy.
Luận câu 27: Tứ loan kim ư tứ
phương, thủy dịch.
Bốn hình kim tròn ở bốn phương,
thủy cũng như vậy. Trường hợp này mạch cương (kim) thì cương quá, mạch nhu
(thủy) thì nhu quá cũng không có đất kết.
Câu 28: Đại để điểm huyệt chi pháp, cầu kỳ nguyệt chi
đắc thế, mạch chi sở quán, khí chi sở quán, khí chi sở chung, dĩ các kỳ dư hỹ.
Đại để phép điểm huyệt:
- Cần tìm chỗ đắc thế.
- Mạch suốt tới chỗ quán.
- Khí phải chung tụ.
Là nói bao quát vậy.
Câu 29: Dưới đây là điểm huyệt vào những chỗ khai
khẩu và minh dịch của các thế đất. Nếu không khai khẩu phải tìm chỗ long chân huyệt
đích mới được, còn nếu cứ theo hình mà điểm huyệt rất dễ sai nhầm.
1. Thụ Đăng giả, điểm ư Đăng Tâm
(Cây đèn thì điểm vào tim đèn)
2. Liên Hoa giả, điểm ư Hoa Nội.
(Hình hoa sen thì điểm trong bông hoa)
3. Ngư tầm Phúc dữ Nhãn.
(Hình con cá tìm ở bụng và mắt).
4. Xà tầm Nhĩ di Tê
(Hình con rắn thì tìm nơi tai và rốn)
5. Tượng hình khán Khổng Tỵ.
(Hình con voi thì xem ở lổ mũi).
6. Ngưu hình khán Phúc Trung
(Hình con trâu thì coi nơi bụng)
7. Kê bão tầm Noãn Thượng
(Hình gà ấp tìm trên trứng)
8. Long hý châu, cầu Châu Trung
(Hình rồng rỡn quả châu tìm trong hạt
châu)
9. Phượng ngộ tản phi, khí quy Túc Hạ
(Phượng tan bay thì khí quy ở dưới
chân)
10. Phượng hàm thư khí quy Chủy Đầu
(Phượng ngậm sách, khí quy ở đầu mỏ).
11. Xà thính cáp tầm Nhĩ Thượng
(Rắn ngậm trai, tìm ở tai)
12. Long ẩm thủy, tầm Phúc Tề
(Rồng uống nước tìm ở bụng, rốn)
13. Bạch tượng quyến hồ, Hồ Trung thủ
(Bạch tượng cuốn nước trong hồ thì tìm
trong hồ)
14. Mãnh hổ xuất sơn, Sơn Thượng tầm
(Mãnh hổ ra khỏi núi thì tìm trên núi)
15. Miên tróc thử, quan Nhãn
(Mèo bắt chuộc coi ở mắt)
16. Tê ngưu vọng nguyệt tầm Mục
(Con tê ngắm trăng tìm ở mắt)
17. Bạch mã ẩm thủy tầm Phúc
(Ngựa trắng uống nước tìm ở
bụng)
18. Kim kê kiến xà, tầm Mục
(Kim kê thấy rắn, tìm ở mắt)
19. Quy hạ than tầm Lưỡng Nhãn
(Rùa xuống bến nước tìm ở hai mắt)
20. Quy triều Bắc, mịch Lưỡng Kiên
(Rùa triều hướng Bắc, tìm ở hai vai)
21. Quần dương kiến khuyển, huyệt tại Khuyển
(Đàn dê thấy khuyển, huyệt ở hình
khuyển)
22. Quần nga kiến Thi, huyệt tại Thi
(Đàn quạ thấy xác chết, huyệt
tại xác)
23. Hoàng xà thổ khí, kiếm Ngoại khí
(Hoàng xà phun khí, kiếm ngoại khí)
24. Sư tử hí châu, Châu Thử mịch
(Sư tử dỡn trâu, tìm quả châu)
25. Ngô công, khán Lưỡng Nhãn.
(Hình con rết xem ở hai mắt).
26. Uyển đình quan Nhất Tề
(Hình con thằn lằn xem ở rốn)
27. Tiên nhân thúc đái, huyệt tại Âm Môn.
(Cô tiên thắt dây lưng huyệt ở âm môn)
28. Mỹ nữ hiển hoa, huyệt cư Nhũ Thượng
(Gái đẹp dâng hoa, huyệt ở trên vú).
MÃ TỬ ĐỒ
Đệ nhị cách
HỮU ĐỆ NHỊ CÁCH
Thê tòng
Huyền Vũ, Hổ, Long phân
Tả hữu loan
hoàn nhập thử phần
Lưỡng Hổ
đới triền thành triết phụ
Trùng Long
liên bút xuất hiền nhân.
Đường tiền
nguyệt chiếu sinh Tiên nữ
Sơn hậu
trùng trùng xuất Tướng quân.
Đại địa khả tri y thử cục.
Đương minh
huyệt nội thọ thiên xuân.
CÁCH THỨ HAI
Thế theo
Huyền Vũ, Hổ, Long phân,
Phải, trái
vòng cong ấp mộ phần
Lưỡng Hổ thêm
triền nên vợ tốt,
Trùng Long
liền bút xuất hiền nhân
Minh đường
trăng chiếu, sinh Tiên nữ
Sơn hậu muôn
lần, phát Tướng quân
Đại địa là
đây, ai khá biết.
Đường minh
gần huyệt, thọ muôn xuân.
CHƯƠNG III
SƠN THỦY PHÁP
A. HƯỚNG DẪN PHẦN SƠN THỦY PHÁP
Sơn thủy pháp là cách xem tướng đất
để biết người ra sao.
B. SƠN THỦY PHÁP
Câu 1: Nhân ư hiền ngu, hệ ư sơn
thủy
Người để được đất mà hiền hay ngu,
là do sơn thủy của cuộc đất đó.
Câu 2: Sơn hậu nhân phì, sơn bạc
nhân sấu.
Sơn tịnh nhân hảo, sơn trọc
nhân mê
Nếu núi mà đầy đặn thì sinh người
mập mạp, nếu núi mà bạc nhược thì sinh người ốm gầy, núi mà tinh thì sinh người
tốt giỏi, núi mà ô trọc thì sinh người ngu mê.
Câu 3: Sơn quý kỳ tú, nhi la
Ố kỳ trực ngạnh nhi chí.
Núi quý ở chỗ thanh tú mà đến.
Núi ghét ở chỗ trực ngạnh mà tới.
Câu 4: Huyệt tại sơn, nhi họa phúc tại thủy.
Huyệt ở núi mà họa phúc ở nước
Câu 5: Thủy tĩnh nhân tú, thủy trọc nhân mê
Thủy khứ nhân bần, thụy tụ nhân phú
Thủy tĩnh thì sinh người thanh tú,
thủy ô trọc thì sinh người mê muội.
Thủy chảy siết (không tụ) thì sinh
người nghèo khó. Thủy dồn tụ thì sinh người giàu có.
Câu 6: Thủy quý kỳ khuất khúc nhi chí
Ố kỳ tà phản nhi lưu
Thủy quý ở chỗ quanh co mà đến.
Ghét vi phản tà mà chảy qua.
Câu 7: Sơn vi phu thủy vi phụ, phu xướng phụ tùy
Sơn là chồng, thủy là vợ, chồng
xướng xuất thì vợ phu theo.
Câu 8: Sơn vi hùng, thủy vi thư
Hệ sơn tắc thủy tòng
Sơn là hùng, thủy là thư, có sơn
dẫn là có nước theo.
Câu 9: Sơn chủ nhân, thủy chủ tài
Sơn chủ người, thủy chủ tiền của.
Câu 10: Sơn yếu hồi, nhi thủy yếu nghịch
Sơn cầu hồi, mà thủy cầu nghịch
Câu 11: Sơn hậu vượng nhân đinh
Thủy triều tiến tài lộc
Sơn dầy, hậu thì vượng người.
Thủy triều lại thì thêm tài lộc.
Câu 12: Sơn súc súc nhi tối ái tú.
Thủy dương dương nhi triều cực
thanh.
Sơn chót vót thì quý nhất là tú mỹ.
Thủy rào rạt triều về mà trong
suốt.
Câu 13: Sơn vưu hậu nam nữ thọ xương
Thủy chừng ngưng tử tôn thanh
t
Sơn càng hậu thì trai gái càng thọ
xương.
Thủy càng ngưng đọng thì con cháu
càng thanh tú.
Câu 14: Sơn tha nga ác khí, bất cát
Thủy bộc lộc, khắp khốc, tối
hung
Sơn lởm chởm có ác khí thì không
cát
Thủy bộc chảy kêu réo (như khóc)
thì rất hung.
Câu 15: Hữu sơn vô thủy, vi chi cô sơn
Hữu thủy vô sơn vị chi cô thủy
Có sơn mà không có thủy gọi là cô
sơn
Có thủy mà không có sơn gọi là cô
thủy.
Câu 16: Sơn cố thủy, thủy cố sơn; dung kết chi địa dã
Sơn nghênh thủy, thủy nghé sơn mới
là có đất kết vậy.
MỘC TƯỚNG THỦ THÀNH
KIM TINH LẠC THỦY CÁCH
Đệ tam cách (3)
HỮU ĐỆ TAM CÁCH
Cổn cổn
sơn hành đới thủy biên.
Tổ long
cao trạc, tảo Khôi nguyên
Long cung giá bút đăng thiên ngoại
Hổ bạn
trừng thanh, nguyệt chiếu tiền
Nhất địa,
hà tri, tâm tối hảo
Tử tôn
phú quý tất thiên nhiên.
CÁCH THỨ BA
Sơn hành
lớp, thủy liền bên,
Tổ sơn
cao vút, phát Khôi nguyên
Trong
Long: Bút giá cao vòi vọi
Cạnh Hổ:
Đầm trong trăng chiếu tiền,
Được một
đất này ôi quá đủ,
Cháu con
phú quý, lý đương nhiên.
CHƯƠNG IV
MINH ĐƯỜNG THỦY PHÁP
A. HƯỚNG DẪN PHẦN MINH ĐƯỜNG THỦY
PHÁP
Nước tụ trước huyệt là Minh Đường.
Một minh đường tốt phải có đủ điều kiện tốt chỉ dẫn ở chương này. Minh đường có
thể chỉ có một và có thể có hai hay ba hay nhiều hơn nữa. Minh đường gần sát là
nội đường, kế nữa xa hơn là trung đường, và xơ nữa là ngoại đường. Muốn biết
giàu có hay nghèo khó ta hãy coi minh đường. Muốn biết thông minh hay ngu tối,
ta cũng nên coi minh đường.
B. MINH ĐƯỜNG THỦY PHÁP
Câu 1: Hình như ấn chưởng, tất chủ
mãi điền.
Thế nhược tu nang, định gia tích
ngọc.
Minh đường hình như bàn tay để ngửa
(trũng) chủ mua được nhiều ruộng đất.
Minh đường thế như cái túi chứa,
định rằng nhà có ngọc ngà súc tích.
Câu 2: Tiên thủ minh đường
Hậu thủ điền ngọc
Trước phải có minh đường.
Sau mới có ruộng đất, vàng ngọc.
Câu 3: Hữu đường hữu huyệt
Vô đường vô huyệt.
Có minh đường mới có huyệt kết.
Không có minh đường thì không có
huyệt kết.
Câu 4: Đường bất nhất đẳng nhi hữu
đa dạng
Đường không phải chỉ có một dạng,
mà có nhiều hình dáng.
Câu 5: Đệ nhất tối quý giả:
- Nội mật tiểu tiểu
- Hoặc phương, hoặc viên
- Hoặc dung nhân trác ngọa giai
sử
Lưỡng thủy thiếp ư nội,
nhi ngoại hữu đường dung vạn mã.
- Quý nhất là bên trong kính đáo,
nho nhỏ.
- Hoặc vuông hoặc tròn.
- Hoặc vừa người nằm nghiêng đều
khiến cho hai mạch thủy yên lặng ở trong, mà bên ngoài lại có minh đường rộng
lớn chứa được ngàn vạn con ngựa
Câu 6: Đường hữu nội, hữu trung,
hữu ngoại, vị chi tam đường.
Đường có nội đường, trung đường,
ngoại đường, gọi là tam đường.
Câu 7: Tam đường giả, giai tích tụ
phú quý tiền tài vô số
Cả ba đường này đều có nước tích
tụ, thì có rất nhiều tiền của
Câu 8: Nhất thốn thổ, nhất thốn
kim, tứ thời sơn thủy, tứ thời trân.
Một tấc đất (nước) một tấc vàng,
bốn mùa sơn thủy (có nước) lài loại minh đường bốn mùa trân quý.
Câu 9: Địa hữu minh đường như nhân
hữu phúc, cổ tích thủy nhi tích huyết.
Đất có minh đường cũng như người có
tâm phúc, cho nên chứa thủy là chứa huyết mạch.
Câu 10: Minh đường bình chính giả,
tử tôn tuấn tú tài lương.
Minh đường tà khuynh giả, tử
tôn du đãng, bần phạp.
Minh đường mà ngay ngắn thì con
cháu hiền tài.
Minh đường mà nghiêng lệch thì con
cháu du đãng nghèo.
Câu 11: Tích thủy vị chi tích ngọc,
tán thủy tức tán tài.
Minh đường có chứa nước cũng như
chứa ngọc, minh đường mà nước chảy tiêu tan cũng như tán tài.
Câu 12: Sở kỵ giả, thu vô thủy.
Sở úy giả, nội thế tà.
Điều đáng kỵ là mùa thu minh đường
cạn nước.
Điều đáng sợ là nội thế minh đường
nằm nghiêng (không kết).
Câu 13: Thủy thuận khứ, khí bất tụ
Nước chảy xuôi thuận đi (không
chứa) thì khí không tụ (vì nước theo khí của núi).
Câu 14: Đại để phú quý, bần tiện,
hệ ư minh đường, thử đặc luận minh đường phương yếu ư địa vị.
Đại để giàu sang nghèo hèn là quan
hệ ở minh đường đây là đặc biệt bàn về minh đường đối với vị trí của đất.
Câu 15: Tây Bắc bản Kim, thủy tụ
khí chung quán (tài liệu mờ)
Tây Bắc vốn hành Kim (quẻ Càn). Cố
thủy tụ khí chung suốt, kín che chở chu đáo rồi, cho nên nói rằng Bắc thì không
cần luận minh đường.
Lời bàn thêm: Thực ra thì nước chảy
theo chiều Tây Bắc, Đông Nam nên huyệt quay về hướng Tây Bắc, đã thu được tất
cả thủy từ cao xa về lòng rồi.
Câu 16: Tuy nhiên Đông Nam chân kỳ
thủy tụ. Nhược thâm nội, thái quá giả, khả kỵ. Khoáng đại thuận lưu, khả kỵ.
Tuy nhiên phương Đông Nam thiệt có
thủy tụ, nhưng nếu sâu quá cũng đáng kỵ, mà không khoáng rộng lớn, chảy xuôi
cũng đáng kỵ.
Câu 17: Tả khuynh giả, sơ niên bất
lợi.
Nghiêng về bên trái thì những năm
đầu không lợi.
Câu 18: Cục mỹ, đường khuynh, thoái
quan lạc chức
Cuộc đất đẹp mà đường nghiệp thì
làm quan trước sau cũng bị thoái quan lạc chức.
Câu 19: Huyệt cát thủy khuynh tức
quý nhi bần.
Huyệt cát mà nước nghiêng thì quý
nhưng nghèo.
Câu 20: Đường cận tốc phát, đường
viễn trì phát.
Đường gần huyệt thì phát sớm, đường
xa huyệt thì phát chậm.
Câu 21: Đường thanh, thanh tú,
đường trọc, trọc dâm.
Đường trong sinh người thanh tú,
đường đục thì sinh người trọc dâm.
Câu 22: Tả tụ, trưởng nam tiến phát
Hữu tụ, thứ nam tiên hưng.
Đường tụ bên trái thì trai trưởng
phát trước, tụ bên phải thì trai thứ phát trước.
Câu 23: Thử Minh Đường chi thể luận
dã.
Đây là luận về đại thể minh đường.
THỦY KHẨU
Câu 24: Khai thủy khẩu định long
lai:
1. Ất, Bính giao nhi xu Tuất
2. Tân, Nhâm hội nhi tụ Thìn
3. Đẩu Ngưu nạp Đinh Canh chi
Khí,
4. Kim dương thu Quý Giáp chi
linh.
Thấy thủy khẩu thì biết long lai:
1. Ất Bính giao nhau mà đi đến
Tuất.
2. Tân Nhâm hội ngộ rồi tụ ở Thìn.
3. Đẩu Ngưu (Sửu) là nơi nạp khí
của Đinh Canh.
4. Kim Dương (Mùi) là chỗ thu linh
khí của Quý Giáp.
Cho ta biết là biết thủy khẩu thì
biết long lai (long đến) như sau:
1. Long đến từ phía Nam, nếu thủy
khẩu xuất ra ở phía Bắc (Tuất).
2. Long đến từ phía Bắc, nếu thủy
khẩu xuất ra ở phía Nam (Thìn).
3. Long đến từ phía Tây, nếu thủy
khẩu xuất ra ở phía Đông (Sửu).
4. Long đến từ phía Đông, nếu thủy
khẩu xuất ra ở phía Tây (Mùi).
Và cũng cho ta biết:
1. Long từ phía Nam đến là Hỏa cuộc
long.
2. Long từ phía Bắc đến là Thủy
cuộc long.
3. Long từ phía Tây đến là Kim cuộc
long.
4. Long từ phía Đông đến là Mộc
cuộc long.
Và cũng cho ta biết:
1. Hỏa cuộc thì
a. Long từ Ất đi xuôi chiều
b. Hay từ Bính đi ngược chiều.
2. Thủy cuộc long thì:
a. Long từ Đinh đi xuôi chiều
b. Hay từ Nhâm đi ngược chiều.
3. Kim cuộc long thì:
a. Long từ Đinh đi xuôi chiều
b. Hay từ Canh đi ngược chiều
4. Mộc cuộc long thì:
a. Long từ Quý đi xuôi chiều.
b. Hay từ Giáp đi ngược chiều.
Trên đây mới về Long của Thủy pháp,
còn nếu nói cả Long lẫn Thủy của Thủy pháp thì sẽ xin trình bày ở Phụ lục 3.
Tiếp theo ta hãy khai triển phần
Thủy khẩu trong bài Thủy khẩu.
1. Địa hữu thủy khẩu, ngoại minh
đường thủy khẩu phóng dã.
Cuộc đất phải có thủy khẩu. Thủy
khẩu là nơi nước phóng (từ nội cuộc) ra ngoài minh đường vậy.
2. Sở quý chi huyền khuất khúc, tế
tiểu bất thông chu, quan tỏa ư ngoại.
Điều đáng quý là nước chảy chữ chi,
chữ huyền, quanh co khuất khúc, nhỏ bé, không đi lọt cái thuyền, đóng khóa ở
ngoài (thủy khẩu).
3. Hoặc triển kỳ nhi khứ, hoặc toàn
nhiễu nhi lưu.
Hoặc như mở cờ mà đi, hoặc quanh
quẩn mà chạy.
4. Sở kỵ giả, quảng trực xuất
Điều đáng kỵ là (nước thủy khẩu)
rộng mà chạy thẳng.
5. Nhược cầm hình, thú hình, du
ngư, gia ngư, tẩm bút, quái thạch, thử đại, quý chi địa giả.
Nếu có (then khóa ở thủy khẩu) hình con cầm (nhỏ), con thú (lớn), cá
bơi, cá lội hoặc quái thạch tấm bút (bút chấm nước) đó là đất đại quý vậy.
MÃ TỬ TRANH TIÊN
(Đệ tứ cách 4)
HỮU ĐỆ TỨ CÁCH
Long hành uyển chuyển bút sinh biên
Thử thị Thần đồng trạc
thiếu niên
Hổ xuất hổ mao, hình tự lập
Mã khép mã tử, thế tranh tiên
Vân đằng sơn ngoại Thần đông xuất
Nguyệt chiếu giang hồ, Ngọc nữ truyền.
Nhược kiến
đại giang hoàn nhiễu bảo
Tất nhiên phụ tử kế Khôi nguyên.
CÁCH THỨ 4
Long hành uyển chuyển, bút liền bên,
Ất đất Thần đồng, đỗ thiếu niên.
Hổ quát đuôi hùm, hình tự lập.
Dắt con ngựa mẹ, dáng tranh tiên.
Ngoài xa núi hiên, Thần đồng xuất,
Trăng chiếu trong sòng, Ngọc nữ truyền
Nếu được sông to vòng quắn lại
Ất là Phụ Tử kế khôi nguyên
CHƯƠNG V
HUYỀN VŨ PHÁP
A. HƯỚNG DẪN PHẦN HUYỀN VŨ PHÁP
Nếu đằng trước có minh đường và án,
diệu tinh thì đằng sau huyệt phải có huyền vũ.
Huyền vũ là nơi mạch từ ở đó rồi
rót vào huyệt. Huyền vũ cao, dày thì có nhiều khí mạch dự trữ, và con cháu
người để được đất đó sẽ có nhiều sinh khí, sống lâu hơn.
B. HUYỀN VŨ PHÁP
Câu 1: Huyền vũ, âm thiên dã quý kỳ
thủy đầu, bình chính phương viên.
Huyền vũ là âm thiên vậy, quý ở chỗ
cúi đầu, bằng ngay vuông tròn.
Câu 2: Sở khai trướng, loan cung, hoặc ngoại bình
kiến quỷ.
Huyền Vũ (tốt) thì có khai trướng,
vòng cung, hoặc ngoài bằng phẳng trông thấy quỷ.
Câu 3: Yếu sử kỳ bản thân vi cao,
vật sử ngưỡng ngọa, phong xuy.
Cần khiến cho bản thân hơi cao,
đừng để như nằm ngửa, bị gió thổi.
Câu 4: Vật sử thủy phi, sơn khứ
Đừng nên có thủy phi và sơn chảy
đi.
Câu 5: Phương xương viên hồ phú nhi
khả thọ.
Hình có hòm vuông, hồ tròn thì giàu
có và thọ.
Câu 6: Tôn nghiêm, tiêm bút, tú
cao, quý nhi thả vinh
Tôn nghiêm, có bút nhọn thanh tú và
cao thì quý và vinh hiển.
Câu 7: Sở kỵ giả, đê bạc phong xuy
Điều đáng kỵ là (huyền vũ) bị thấp
mỏng và bị gió thổi.
Câu 8: Sở kỵ giả thô bạo lăng áp.
Điều đáng kỵ nữa là thô bạo và lấn
át huyệt.
Câu 9: Thử Huyền Vũ chi chư dã
Đó là chủ yếu về Huyền Vũ vậy.
CÁT CẦM TINH HÌNH ĐỒ
Đệ ngũ cách (5)
HỮU ĐỆ NGŨ CÁCH
Tố khởi tả
kiên nhập hữu sa
Long tòng thủy nhiễu tụ
đường oa.
Long quá
Tây cung, tiên bái tướng
Hổ quá Đông
cung, thế thế khoa
CÁCH THỨ NĂM
Tổ sơn từ
tả hữu liền sa,
Thủy tụ,
Mạch dừng, Huyệt kết oa.
Long quá
Tây cung, triều bái tướng
Hổ qua Đông
vị, nối muôn khoa
CHƯƠNG VI
CHU TƯỚC PHÁP
A. HƯỚNG DẪN PHẦN CHU TƯỚC PHÁP
Chu tước là các gò đống ở trước
huyệt.
B. CHU TƯỚC PHÁP
Câu 1: Chu tước dương địa dã.
Chu tước là dương địa vậy.
Câu 2: Quý kỳ tường vũ triều
nghinh, hoặc thanh thúy tam quang, hoặc miên cung nhất bão.
Chu tước quý về chỗ nó múa lượn,
triều đón huyệt hoặc tươi tốt sáng sủa, hoặc là vòng cung ôm lại.
Câu 3: Yếu sử nội chi trừng thanh,
tắc tử tôn thanh tú.
Cần phải cho bên trong thanh nhã
thì con cháu sẽ thanh tú.
Câu 4: Song phong tịnh đối, chúng
thủy triều dương, tam thai liệt tú, ngũ nhạc triều nghinh, tam quân xuất trận,
vạn giáp bài tiền, thử quý cách dã.
Chu tước mà có hai ngọn núi đối
nhau, mọi dòng nước lại triều, có tam thai bày hàng thanh tú, có ngũ nhạc chầu
lại, như ba quân xuất trận, như vạn giáp bày hàng ở trước, đó là cách quý vậy.
Câu 5: Vật sử thủy chi thuận lưu,
sơn chi tán loạn
Đừng khiến cho thủy chảy thuận
xuôi, cho sơn chạy tán loạn.
Câu 6: Tối kỵ giả, tha nga ác khí
Thậm sơ úy giả, nội u âm
Đáng kỵ nhất là lởm chởm có ác khí, đáng sợ nhất là tù hãm, âm u.
Câu 7: Thử Chu Tước chi mật dã.
Đó là cơ mật của Chu tước vậy.
NGƯU MIÊN CHI ĐỒ
Đệ lục cách (6)
HỮU ĐỆ LỤC CÁCH
Thiền thiều phát tố khởi căn nguyên
Uyển chuyển hồi hoàn mạch khúc huyền
Hữu kiên đáo tả nhi chuyển hữu
Bàn vu cục thế tự ngưu miên.
Đường khai nội ngoại gia chân huyệt.
Sơn chiếu
quần tinh phúc vĩnh miên
CÁCH THỨ SÁU
Đùn đùn mạch tự Tổ sơn nguyên,
Khuất khúc trông như nét chữ “Huyền”.
Vai hữu chuyển
tả, tả về hữu
Hình như Trâu ngủ tại bình điền.
Minh đường nội ngoại đều: Chân huyệt,
Chiếu ứng quần tinh, phúc vạn niên.
CHƯƠNG VII
LONG HỔ PHÁP
A. HƯỚNG DẪN PHẦN LONG HỔ PHÁP
Long hổ là giải đất nhô ra ôm lấy
huyệt - Giải đất bên trái gọi là Long hay Thanh Long. Giải đất bên phải gọi là
Hổ hay Bạch Hổ.
Tay Long ứng về con trưởng hay con
trai, và tay Hổ ứng về con thứ hay con gái.
Có thể chỉ có một Long và một Hổ và
có thể có nhiều Long, Hổ.
Long, Hổ có tốt có xấu, ảnh hưởng
đến sự tốt xấu của con cháu.
Thường thường huyệt trường xuất ra
nội long và nội hổ.
Long hổ có thể có một cặp và cũng
có thể có nhiều cặp. Trên 3 tầng long hổ là quý.
B. LONG HỔ PHÁP
Câu 1: Phù địa hữu long hổ như nhân
hữu thủ túc.
Đất mà có long hổ như người ta có
chân tay.
Câu 2: Long Hổ vệ huyệt như thủ túc
vệ thân
Long Hổ bảo vệ cho huyệt như chân
tay bảo vệ cho thân thể.
Câu 3: Long bão hổ tối quý, hổ bão
long vị toàn
Long mà ôm lấy hổ thì rất quý, còn
hổ mà ôm lấy long thì chưa được hoàn thành, vì ngành thứ lấn át ngành trưởng,
con gái lấn át con trai.
Câu 4: Cố viết: Long yếu trường, Hổ
yếu đoản.
Nên mới nói rằng long cần dài, hổ
cần ngắn
Câu 5: Long chủ sinh Nam, văn thần,
triền nhiễu hồi đầu vi ái
Hổ chủ sinh nữ, vũ chức, tôn cứ vi quý
Long chủ sinh con trai, sinh văn
quan, nếu quấn quít, quay đầu lại là đáng yêu.
Hổ chủ sinh con gái, vũ tướng, nếu
ngồi tôn nghiêm là quý.
Câu 6: Hổ phản xuất, tắc nữ ưu, vũ
phế.
Long phản ta, tắc nam táng nhi văn suy.
Hổ phản ra, con gái buồn lo, vũ
chức bị phế bỏ.
Long mà phản, thì trai bị ly tán,
mà văn chức cũng suy. “Trường hợp này phải ly hương mới khá”.
Câu 7: Long hổ hữu lực, huyệt thị
quý
Long hổ vô tình huyệt thị tiện
Long hổ có lực là huyệt quý.
Long hổ vô tình là huyệt tiện.
Câu 8: Long sinh chi, vị chi long
sinh tử tôn
Hổ sinh dực, vị chi hổ hữu nội ngoại
Long sinh chi nhánh, gọi là long
sinh tử tôn
Hổ sinh cánh, gọi là hổ có nội
ngoại.
Câu 9: Long Hổ dữ Thủy nghịch thiên
hạ chân vô địch.
Long Hổ dữ thủy thuận, gia trung tài dụng tận
Long Hổ cùng thủy nghịch, thiên hạ
thật vô địch.
Long Hổ cùng thủy thuận, trong nhà
tiền dùng hết.
Câu 10: Sở kỵ giả, Long phản bội,
Hổ ngang đầu
Điều đáng kỵ là long quay lưng lại
và hổ vươn đầu lên, “sinh nghịch nhân”
Câu 11: Tả lai nhi hữu quá cung vệ
huyệt, vị chi Hổ nghịch.
Hữu lai nhi tả quá cung vệ huyệt, vị chi
Long nghịch
Hổ từ phải đến, quá cung sang bên
hữu là hổ nghịch.
Long từ trái đến, quá cung sang bên
tả là long nghịch.
Câu 12: Trùng long, trùng hổ phát
trùng đại.
Đơn long, đơn hổ phát đơn đại.
Nhiều long, nhiều hổ phát nhiều
đời.
Đơn long, đơn hổ phát một đời.
Câu 13: Cố viết: Luận địa bất quá
tả Thanh long, hữu Bạch hổ dã
Cho nên nói rằng: Luật đất thì bất
quá tả Thanh Long, hữu Bạch Hổ vậy.
QUÝ NHÂN LẬP MÃ
Đệ thất cách (7)
HỮU ĐỆ THẤT CÁCH
Hậu sơn
điệp điệp xuất trùng sơn
Long hổ thiều thiều thế
nhược bàn.
Thủy thanh
nghi đắc thanh giang chiếu
Kim bạch tu
cầu gián thủy loan
Nam tử tất
sinh đa thịnh vượng
Nữ nhi định
thị xuất bình an
Chân huyệt
ký đắc truyền thiên thế
Vạn đại
thời sư yếu sát quan.
CÁCH THỨ 7
Sau đầu khởi phục điệp trùng sơn,
Long, Hổ
lần lần thế uốn tròn
Thủy thanh
bởi tại thanh giang chiếu,
Kim bạch
nên cầu gián thủy loan.
Nam tử nếu sinh, là
thịnh vượng,
Nữ nhân hễ
xuất, ắt bình an.
Huyệt sẵn
an bài dành hậu thế,
Thời sư vạn
đại đến chiêm quan.
CHƯƠNG VIII
QUAN QUỶ LUẬN
A. HƯỚNG DẪN PHẦN QUAN QUỶ LUẬN
Trước huyệt mà long hổ thôi ra gọi
là tiền, quan. Sau huyệt mà đất cúi xuống gọi là hậu quỷ. Chỗ gần gọi là quan
hay quỷ và chỗ xa gọi là Triều.
Cụ Tả Ao nói: “Án dày muốn thấp
triều dày lại cao”. Vậy án hay quan quý ở gần phải thấp và càng xa phải càng
cao mới đúng phép.
Cũng có thể gọi gò đống trước huyệt
là án và gò đống sau huyệt là quỷ.
B. QUAN QUỶ LUẬN
Câu 1: Huyệt tiền long hổ thôi xuất
vị chi tiền quan.
Huyệt hậu thùy đầu vị chi hậu
quỷ.
Trước huyệt mà long hổ thôi ra, gọi
là tiền quan.
Sau huyệt mà cúi đầu xuống gọi là
hậu quỷ.
Câu 2: Quan Quỷ hữu cát hung
Quan Quỷ có cát, có hung
a. Tiền quan cát:
- Liên châu quan (liên tiếp như
chuỗi châu)
- Đới khố quan (đeo cái khố)
- Tam thai quan (ba ngọn núi)
- Ngũ nhạc quan (năm ngọn núi)
- Tiêm xuất quan (nhọn ra)
Quan như vậy là quan cát.
b. Tiền quan hung:
- Tha nga quan (lởm chởm)
- Hân quần quan (vén quần)
- Vũ tụ quan (tung vạt áo)
- Tà phi quan (bay chéo)
- Khứ thủ quan (mất đầu)
Quan như vậy là hung
c. Quỷ diệc hữu cát hữu hung
Quỷ cũng có cát có hung.
Quỷ hung như:
- Đới đổ bác quỷ.
- Đới sát quỷ.
- Tà phi quỷ
(Đều là hung)
Câu 3: Thuận thế dĩ quan vi quý
Hồi hoành dĩ quỷ vi tiên
Thuận thế thì lấy quan làm quý.
Hồi hoành thì lấy quỷ làm trước.
Câu 4: Đại địa hữu quan hữu quỷ, kỳ
địa tối mỹ.
Đất lớn có quan có quỷ, là đất rất
đẹp vậy.
Câu 5: Quan xuất tiền triều cao
thiên.
Quỷ thác hậu vi quan tối quý
Quan xuất đằng trước là được cao
thăng
Quỷ đỡ đằng sau, làm quan rất quý.
Câu 6: Huyệt tuy xưng, quan quỷ vưu
xưng
Huyệt vị minh, quan quỷ ích minh
Huyệt đáng khen có quan quỷ càng
đáng khen hơn.
Huyệt chưa minh bạch có quan quỷ
nhìn càng thêm rõ.
Câu 7: Thử quan quỷ chi luận dã
Đây là luận về quan quỷ vậy.
QUỶ SƠN VƯƠNG TỰ PHÁT MỘC NHÂN HÌNH
CẢI TỬ HOÀN SINH CÁCH
Đệ bát cách (8)
HỮU ĐỆ BÁT CÁCH
Nhất cá
Quỷ tinh phát bản nhân
Nhị cá
Quỷ tinh tác tỉnh nguyên
Tam cá Quỷ tinh Hàn lâm vị
Đề hình
Án phủ Vận ty liên
Tứ cá Quỷ
thần nhập Triều sĩ
Nhật lệnh
quỹ mật phụ Vương thiên
Lục cá Quỷ tinh vi Chinh
bái
Hợp môn
ân quyến quế chi sinh.
CÁCH THỨ 8
1. Quỷ
phát bản thân
2. Quỷ
phát Tỉnh nguyên.
3. Quỷ phát
Hàn lâm, Đề hình, Án phủ, Vận ty Quan
4. Quỷ
phát thi đỗ, được nhập triều đình
5. Quỷ
phát Nhật lệnh quỹ mật giúp vua.
6. Quỷ được đăng đàn
bái tướng
Nếu Quỷ
hợp ở cửa, toàn gia được đỗ đạt cao sang.
CHƯƠNG IX
DIỆU TINH PHÁP
A. HƯỚNG DẪN PHẦN DIỆU TINH PHÁP
Những gò đống nhỏ xuất bên ngoài
hay trên tay Long tay Hổ gọi là Diệu Tinh.
Diệu Tinh, Sa, Quan quỷ cần phải
bao bọc, bảo vệ, vòng ôm lấy huyệt thì mới tốt.
B. DIỆU TINH PHÁP
Câu 1: Diệu giả, tiền xuất giả -
Hữu thuận Diệu, nghịch Diệu.
Diệu tinh xuất ở trước “ngoài long
hổ”. Có thuận diệu và nghịch diệu.
Câu 2: Phàm kết huyệt ư nội, long
vệ ư ngoại, ngoại hữu diệu xuất dã.
Phàm kết huyệt ở trong, long vệ ở
ngoài, ngoài nữa có diệu xuất vậy.
Câu 3: Diệu hữu đa thể:
a.
Hữu loan cung diệu
b. Hữu lư tiên diệu
c. Hữu triêm xuất diệu
d. Hữu trường giang diệu
Diệu tinh có nhiều thể:
a. Có diệu ôm vòng cung.
b. Có diệu như chiếc roi.
c. Có tiêm xuất diệu
d. Có diệu trường giang.
Câu 4: Đắc chi nghi giai, trường,
hữu lực vi quý
Diệu cần được đẹp, dài, có lực là
quý.
Câu 5: Thử hảo cách tại diệu tinh
dã
Đây là cách tốt của diệu tinh vậy.
THU NGUYỆT ẤN SIÊU ĐỒ
Đệ cửu cách (9)
HỮU ĐỆ CỬU CÁCH
Long hình
loan bão tử vi viên
Khí tụ
hình tàng tại thủy uyên
Sơn khởi Kiền, Khôn nghi Cấn, Tốn
Thủy
trùng bất tiết huyệt thiên nhiên
Long khởi
loan hồi nhất bao quả
Thủy tụ
trùng thanh sơn nhất cá
Nguyệt
chiếu tinh thần thân bão hướng.
Thử địa
khoa danh đa hiển bá.
CÁCH THỨ 9
Mạch vòng
ôm khắp bốn phía của Viên cục.
Khí tụ, huyệt ẩn
trong vực nước.
Sơn khởi
ở các cung Kiền, Khôn, Chấn, Tốn.
Thủy lắng
trong cả bốn mùa, huyệt thiên nhiên
Long sơn khởi lên, vòng ôm một lần kín
khắp
Nước tụ
trong xanh núi một hòn.
Long lanh
ánh trăng chiếu lại có tính phong bão hướng.
Đất này
phát khoa danh nhiều người hiển đạt.
CHƯƠNG X
THÁC LẠC PHÁP
A. HƯỚNG DẪN PHẦN THÁC LẠC PHÁ
Thác lạc là những gò đống ở sau
huyệt hay sau long khi long hay huyệt đổi chiều. Nếu là đổi theo chiều ngang
gọi là hoành long mà có gò đống đỡ sau thì gọi là Thác. Thác là gò từ thân long
mọc ra đỡ sau long, còn Lạc là gò đống ở xa chạy đến đỡ sau thân long hay sau
huyệt. Đất Hồi Long bắt buộc phải có Lạc và Hoành Long phải có Thác mới tốt.
B. THÁC LẠC PHÁP
Câu 1: Phàm địa hữu chân, nghịch,
đa kết
Phàm đất có chân nghịch thì phần
nhiều hay kết.
Câu 2: Hồi long, Hoành long, hữu
Thác Sơn, Lạc Sơn dã.
Hồi long, hoành long thì sau lưng
thấp mỏng nên hồi, hoành phải có Thác Sơn (cho hồi long) và Lạc Sơn (cho hoành
long).
Câu 3: Địa hữu thác lạc đắc nhân
trác việt chi tài, vưu nghiệm dã.
Đất có Thác, Lạc thì sinh người có
tài trác việt, rất ứng nghiệm vậy.
HỒ MIÊU CÁCH
Đệ thập đồ (10)
HỮU ĐỆ THẬP CÁCH
Chú vận: Mạch khởi hữu chí tả nhập
cục, Hổ tiên đáo đường, Long hậu tiếp tục, nội ngoại loan hoàn, tả hữu khởi,
phục. Thành thượng tinh phong giang loan bàn nhiễu; thủy hiện sơn trung, thử vi
quý cách, nhiên đắc kỳ huyệt, phát phúc tậm giai, nãi thành quý cục.
CÁCH THỨ 10
Lời chú: Mạch bên hữu tới bên tả
nhập cục, trước tiên là Hổ sa tới minh đường, rồi sau lại đến Long sa tiếp tục.
Trong ngoài ôm cong về, tả hữu có tinh phong cao đại khởi phục. Sông to uốn
quanh, thủy hiện trong núi, là quý cục. Để huyệt tại long này sẽ phát phúc lâu
dài.
CHƯƠNG XI
ÁN SƠN PHÁP
A. HƯỚNG DẪN PHẦN ÁN SƠN PHÁP
Án nghĩa là bàn giấy. Án ở trước
huyệt như bàn giấy trước mặt người ngồi.
Án còn có nghĩa là khách nếu gọi
huyệt là chủ. Chủ khách phải tương kính nhau thì mới tốt. Án không nên quá cao
hoặc quá thấp. Án nghiêm chỉnh tốt hơn án lệch lạc. Án cũng cho ta biết là
huyệt đó phát mau hay lâu mới phát. Thường huyệt gần án phát mau hơn là huyệt
có án tận đằng xa.
B. ÁN SƠN PHÁP
Câu 1: Địa hữu án như quân hữu
triều
Đất có án như vua có triều
Câu 2: Huyệt vi chủ, án vi khách,
hữu chủ hữu khách do hữu quân, hữu thần.
Huyệt là chủ, án là khách, có chủ
có khách cũng như có vua có tôi.
Câu 3: Dục cầu kỳ chân hảo, viễn án
bất như cận án
Muốn cầu cho thật tốt, thì án xa
không bằng án gần.
Câu 4: Dục bất doanh háo, viễn
triều bất như cận triều
Muốn không doanh háo, triều xa
không bằng triều gần.
Câu 5: Chân giả do nghi, dĩ án vi
cứ
Thật giả (huyệt) còn ngờ thì lấy án
làm căn cứ
Câu 6: Hoặc viễn sơn hồi đầu vi
khách ám
Hoặc tự tuyệt thôi thân vi nội ám.
Hoặc núi ở xa quay đầu về làm khách
án.
Hoặc ở huyệt ra làm nội án.
Câu 7: Viễn án phát trì, cận án phát
tốc, thử án chi.
Án xa phát chậm, án gần phát mau đó
là phương pháp của án.
Nhược long hổ cận vệ chi chủ khách
tương nghịch nãi thị giả xứ cao tề mi, đê ứng tâm đắc chi thị dã.
Nếu được long hổ cộng vệ và huyệt
chủ, án khách tương nghinh, nơi đó ta mượn chỗ cao bằng mi mắt, thấy ngang rốn
là án được rồi đấy.
HỔ NHẬP ĐÔNG LÂM CÁCH
Thập nhất cách (11)
HỮU THẬP NHẤT CÁCH
Tố khởi Long kiên nhập hữu kiên
Đáo đầu nhất tiết trực lai thiên
Tu cầu hổ bạn bao quá huyệt
Phú quý công danh thế thế truyền
CÁCH THỨ 11
Tổ khởi từ vai long nhập vào vai
hữu long, vào đầu một tiết rồi đi thẳng vào ngay cửa trời. Bên hổ nên bao quá
huyệt. Phú quý công danh đời đời được truyền tụng.
CHƯƠNG XII
LUẬN VỀ PHƯƠNG VỊ QUÝ TIỆN LUẬN VÀ
CÁC CỤC PHÁP
A. HƯỚNG DẪN CHƯƠNG XII VÀ XIII
Từ chương I đến chương XI nói về
chi tiết căn bản để học khoa Địa lý. Từ chương XII này trở đi nói về tổng hợp
các căn bản đó và thêm cả tổng hợp về lý khí nữa.
Nói cách khác 11 chương trên nói
nhiều về căn bản và về loan đầu và từ chương 12 này trở đi nói nhiều về tổng
hợp và lý khí.
B. LUẬN VỀ PHƯƠNG VỊ QUÝ TIỆN LUẬN
VÀ CÁC CỤC PHÁP
1. Tam thai là Hợi, Chấn, Canh.
2. Lục tú là Cấn, Bình, Tốn, Tân,
Đoài, Đinh đều là âm long, đều là quý nếu tầm được long đó.
3. Tý, Ngọ, Dần, Thân là Dương
long.
4. Thìn, Tuất, Sửu, Mùi là Tứ Mộ
Long
5. Càn lão dương, Khôn lão âm đó là
tiện cách.
6. Giáp, Ất, Nhâm, Quý là Dương
Long.
7. Tốn Tỵ (Âm) Thìn Tuất (dương)
Sửu Mùi (âm) đều là tiện cách.
8. Bính Tý, Đinh Sửu, Mậu Dần, Kỷ
Mão, Canh Thìn, Tân Tỵ, Nhâm Ngọ, Quý Mùi, Giáp Thân, Ất Dậu, Bính Tuất, Đinh
Hợi: đó là Đại vượng tướng.
9. Canh Tý, Tân Sửu, Nhâm Dần, Quý
Mão, Giáp Thìn, Ất Tỵ, Bính Ngọ, Đinh Mùi, Mậu Thân, Kỷ Dậu, Canh Tuất, Tân Hợi
là Bàng vượng.
10. Giáp Tý, Ất Sửu, Bính Dần, Đinh
Mão, Mậu Thìn, Kỷ Tỵ, Canh Ngọ, Tân Mùi, Nhâm Thân, Quý Dậu, Giáp Tuất, Ất Hợi:
đó là chính Cô Hư.
11. Nhâm Tý, Quý Sửu, Giáp Dần, Ất
Mão, Bính Thìn, Đinh Tỵ, Mậu Ngọ, Kỷ Mùi, Canh Thân, Tân Dậu, Nhâm Tuất, Quý
Hợi: Đó là Bàng Cô Hư.
12. Mậu Tý, Kỷ Sửu, Canh Dần, Tân
Mão, Nhâm Thìn, Quý Tỵ, Giáp Ngọ, Ất Mùi, Bính Thân, Đinh Dậu: Đó là Không
Vong, Quan Sát.
13. Điểm huyệt nên thừa Vượng Tướng
mà bỏ Cô Hư, tránh Không Vong.
Thì sẽ tự nhiên phát phúc, có thể
đạt được thần công.
LONG QUẢI TÂY HOÀI
Thập nhị cách (12)
HỮU THẬP NHỊ CÁCH
Tố khởi
hữu kiên nhập long kiên
Đáo đầu nhất
tiết huyệt lai tiền
Tu cầu tả
bạn bao quá cục
Vạn đại
khoa danh thế thế truyền.
CÁCH THỨ 12
Khởi tố ở
phía hữu nhập vào vai long
Vào đầu
chỉ một tiết là tới ngay huyệt
Nên cầu
được tả sao bao quá cục đất.
Sẽ phát
khoa danh được đời đời truyền tụng.
CHƯƠNG XIII
TỔNG LUẬN CÁC CỤC PHÁP
A. HƯỚNG DẪN TỔNG LUẬN CÁC CỤC PHÁP
Đây là nói các cách thế của đất kết
B. TỔNG LUẬN CÁC CỤC PHÁP
- Phú Quý Thọ Khang Ninh đều là do
quý địa chứ không phải là do lời nói suông.
- Bần tiện nghèo khó cùng yểu, phần
nhiều đều là do thiên cơ, há chẳng biết ru.
Câu 1: Thủy triều cửu khúc, phú quý
vạn chung.
Sơn ứng tứ duy, vinh thăng chín trật.
Thủy triều chín khúc, minh đường
nước chan chứa: chủ giàu
Tứ duy (Càn Khôn Cấn Tốn) có núi
cao chót vót: chủ sang.
Câu 2: Có thiên trụ cao, thọ như
Bành Tổ
Có thiên tâm phá thì chết non như Nhan Hồi.
Thiên trụ là Càn, nếu huyệt phì và
cao hậu ở Càn phương, cao ứng chủ thọ.
Thiên tâm hậu đầu, kỵ nước chảy đi,
bị chết non.
Câu 3: Cấn thấy Bính: Giàu và sang
Đoài thấy Đinh: Thọ và vinh
Cấn chủ phú. Nếu Cấn sơn nhập
huyệt, Bính thủy triều mà Tốn phương có sơn ứng là tốt.
Đoài là tú long, nếu Đoài long nhập
huyệt, có Đinh thủy triều mà Bính phương có sơn ứng là tốt.
Câu 4: Chấn, Canh phấn phát về võ,
nắm quyền hành trọng yếu tại Hợi Tốn.
Canh Chấn phấn phát về võ, chính phương Nam tọa Khảm hướng Ly.
- Hợi long Bính ứng, Tốn phương có
núi cao
- Tốn long, Hợi (thủy) ứng, Chấn
Canh phương, có cờ trống lạ, Khảm long, Ly hướng, Chấn Canh ứng, là đất kết văn
trước, võ sau, do đường khoa mục mà nắm chính quyền.
Các phương Cấn, Tốn có tinh phong
khởi đột, chủ làm võ tướng, cấp thống lãnh (Tư lênh).
Câu 5: Thiên thị kiến Canh, trước
phát văn sau phát võ.
Bính thấy Tân, trước phát võ sau phát văn.
- Thiên thị là Cấn - Cấn long Canh
thủy ứng: Cấn chủ văn, Canh chủ võ cho nên trước phát văn sau phát võ.
Bính long, Tân (thủy) ứng, Bính chủ
võ chức và Tân chủ văn chương. Cho nên trước phát võ sau phát văn.
Câu 6: Thiên Hoàng (Hợi) nhập Thiên
thị (Cấn) quý khôn tả.
Thái Ất (Tân) gặp Thiên Ất (Tốn) tiếng lừng vô địch.
Thiên Hoàng là Hợi - Nếu long mạch
khởi từ Hợi, chuyển sang Cấn mà tứ chính (Tý, Ngọ, Mão, Dậu) có cao phong ứng
chủ con cháu giòng giống giàu sang thịnh vượng.
Thái Ất là Tân - nếu Tân sơn lai
Tốn thủy hoặc Tốn sơn lai Tân thủy ứng - chủ trúng khoa danh, thiên hạ vô địch
vậy.
Câu 7: Tốn Tấn đặc đạt: chu tủ (áo
đỏ, tía) khắp triều
Chấn Canh tú lệ: Giáp, Bính đầy nhà
Câu 8: Tam cát lục tú long kết cuộc
Tốn Tân có cao phong đẹp ứng về, hoặc bút vút từng mây: chủ về khôi
khoa.
- Phương Chấn, Canh có cờ trống. Hoặc ô núi cao tú lệ ứng về: chủ phát
võ tướng.
Câu 9: - Nhật mã kiến Thiên mã:
danh chiếm Trạng Nguyên
- Vị ngư kiến đại ngư: quan cư nhất phẩm.
Nhật mã là nam phương, nếu có yên
ngựa (Thiên mã) nổi cao lên, đứng tôn lập cho huyệt mà huyệt ngồi tôn nghiêm có
tú khí thì phát Trạng Nguyên. Cụ Tả Ao nói:
“Muốn cho con cháu Tam Khôi
Phương Nam có bút, phương đoài có
nghiên”
Nghiên là “đại ngu” vậy, nếu phương Đoài có nghiên và phương Nam có bút
lập nữa thì đỗ tam khôi (3 lần thì Hương, Hội và Đình đều đỗ đầu).
Câu 10: Tên chiếm Khôi Nguyên chủ
tam dương cao vọt
- Chỗ ngồi lăng miếu - chỉ vì tư thế
quân bình.
Tân là Kim Long, gặp Bính, Ngọ,
Đinh là tam dương Kim và Hỏa thành khí nên đỗ đầu thiên hạ.
Tý, Ngọ, Mão, Dậu là 4 thế - huyệt
ngồi đoan chính, 4 phương quân bình – con cháu phát khanh tướng.
Câu 11: Hợi, Tốn tiếng là vua tôi
Chấn, Canh như là vợ chồng
Gặp Đinh, Giáp bảng thì tuổi trẻ có thanh
danh gặp Đinh, Quý ứng chủ tuổi thọ thêm giàu có. Ngọ long, Đinh thủy lai
triều, thiếu niên đỗ đầu. Đinh long mà Quý phương có sơn ứng - chủ giàu thọ.
Câu 12: Càn, Đinh thì thọ, không
nên tương kiến.
Chấn, Hợi chủ quý chỉ muốn gặp nhau.
- Càn (kim) Đinh (hỏa):
Nếu Càn long gặp Đinh phương nên
mỏng, thấp.
Đinh long gặp Càn phương cũng nên
mỏng, thấp.
- Chấn long gặp Hợi thủy, hoặc Hợi
long gặp Chấn thủy: tất chủ quý hiền vậy.
Câu 13: Đất có tam kỳ: Vàng ngọc
dùng xa xỉ
Thổ có 4 thứ: tiền của thóc lúa không
dùng hết
- Phàm huyệt tốt - Hợi, Chấn, Canh
(tam kỳ) có ứng thì giàu lớn – Phương Cấn Bính cũng vậy.
- Phàm thổ hình, nhiều huyệt kết -
Bốn thế có núi cao, quân bình chủ cự phú – cho nên mới nói như vậy.
Câu 14: Một nam bao ba nữ, sở thuận
về đâu thời theo đấy
- Một nữ gặp ba nam, ở đâu thời lấy đó.
Khôn, Ly, Đoài là nữ - hoặc nga mi
hoặc bán nguyệt, hoặc như gương, như hốt, hoặc như liên châu (chuỗi châu) như
đàn tỳ bà (thuộc về đồ dùng của đàn bà).
Dậu long nhập huyệt, mà Khảm, Cấn,
Chấn ba phương có tứ ứng thì trước phát nữ, sau phát nam.
Chấn là trưởng nam
Khảm là trung nam
Cấn là thiếu nam
Tốn là trưởng nữ
Ly là trung nữ
Đoài là thiếu nữ
Vị nào ứng thì vị đó phát.
Như là Cấn long, thứ đến Khảm Đoài
cũng thế.
Câu 15: - Dậu, Tốn phát con gái
thông minh
- Chấn canh phát con trai uy vũ.
Câu 16: Làm quan ở ngũ phủ, do ở
nhị thổ, nhị kim
- Chức giữ ở lục bộ do ở khí tàng bát
tướng
nhị Kim là Càn Đoài, nhị Thổ là
Khôn Cấn ứng về.
Câu 17: Kho tàng thấy ở Cấn, Bính,
con trai giàu địch quốc
- Nga mi thấy ở Tý Ngọ, con gái đẹp
khuynh thành.
Câu 18: Càn nạp Giáp, Khôn nạp Ất
đoán trước đắc thời.
Tý ưa Ngọ, Thìn ưa Thân, bèn biết đắc
thế
- Càn long nạp Giáp thủy – Khôn
long nạp Ất thủy.
Tý long Ngọ hướng phát như lôi –
Thìn long Thân hướng cũng như vậy.
Đều là dương long, dương thủy sẽ
chỉ phát một thời.
Câu 19: Ngũ khí triều nguyên, cửa
nhiều xe ngựa
- Tứ Kim tú bão, nhà rực trâm anh
Mộc ở Đông, Kim ở Tây, Hỏa ở Nam,
Thủy ở Bắc, Thổ ở giữa làm huyện: Con cháu nhiều xe ngựa.
- Tú Kim khởi ứng bốn phương -
huyệt ở giữa: trâm anh gia truyền vậy.
Câu 20: Thế tuy đại, huyệt bất cầu
đại, chí ái nội tâm niêm khí.
- Huyệt tuy tiểu, phúc phát bất thiểu,
chân do nghịch thủy.
Thế tuy lớn, huyệt không cần lớn,
chỉ ưa nội tâm đĩnh khí.
Huyệt tuy nhỏ, phát phúc không nhỏ,
chính vì có nước nghịch lại.
Luận câu 20: Từ mười dặm long mạch
chạy lại, kết huyệt chẳng qua chỉ vừa chiếc chiếu, điều đáng ưa là nội đường
nhỏ, vừa một người nằm nghiêng - trời mưa chứa nước đọng ở trong, cho nên nói
là không cần đất rộng vậy.
Huyệt tuy nhỏ bé, nhưng kho mạch
gồm thu cả lại có cách nghịch hướng, thu tất cả nước từ đầu nguồn lại, con cháu
giàu sẽ mua hết cả ruộng của thế gian.
“Thụ tận nguyên đầu thủy
Tử tôn mãi tận thế gian điền”
Cho nên nói là phát phúc không nhỏ
vậy.
Câu 21: Mộc sinh văn sĩ, thổ vượng
điền ngưu.
- Đa kim đa ngọc, thủy sản anh hùng.
Hình mộc phát văn sĩ, hình thổ
vượng ruộng, trâu
Kim nhiều vàng ngọc, thủy sản anh
hùng.
Luận câu 21:
a. Mộc tính tĩnh xứ, khởi tiết tiết
sinh văn chương chi sĩ
b. Thổ tính trọc phì, mãn tiến điền
ngưu chi phú
c. Đa Kim tích ngọc, khai khẩu dĩ
đấu lượng kim.
d. Thủy kiến Kim, Thổ kiến Thủy đa
xuất anh hùng.
Có nghĩa là:
Mộc tính yên lặng, nếu có đốt đốt
mọc lên, gồ lên kết huyệt, táng vào sẽ sinh ra những bậc văn chương thi sĩ.
Thổ tinh trọc phì, huyệt kết ứng
sinh người giàu có, nhiều ruộng trâu.
Hình Kim chứa nhiều ngọc, nếu huyệt
Kim khai khẩu mà để được đất vào đó, thì giàu có thể lấy đấu đong vàng.
Câu 22: Tam thai tiền, Tam thai
hậu, Tể tướng côn khanh
Thất diệu Đông, thất diệu Tây, Trạng
Nguyên Phụ Bật.
Tam thai trước, tam thai sau, sẽ
phát tể tướng công khanh.
Thất diệu phía Đông, thất diệu phía
Tây, Trạng Nguyên Phụ Bật.
Câu 23: Hình giải đệm, mở chiếu,
đất đó rất quý.
- Có tiền quan hậu quỷ, đất đó rất tốt.
Câu 24: Phát phúc lâu dài, chẳc hẳn
nước quanh huyền vũ
Làm quan phú hậu, tất nhiên nước lượn
thanh long
Luận câu 24: Kiểu đât hồi long cố
tổ, nước tiền đường chảy quanh về huyền vũ, mà đi, thì phát phúc không có dứt.
Long ưa nghịch chiều, nếu nước chảy xuôi mà long đi ngược lên thì con cháu là
quan mà giàu vậy.
Câu 25: Cầm hình văn quan, yếu chi
hình thế nhi luận.
- Thú hình vũ sĩ, vưu đương tường mạch
lạc nhi suy.
Cầm hình phát văn quan, cần biết
hình thế mà bàn.
Thú hình phát vũ sĩ, nên tường mạch
lạc mà suy.
Câu 26: Đại thể xuất văn chương, do
hồ thủy khẩu sinh quái thạch.
- Thế thế liên khoa mục, tại hồ long
thượng khởi tinh phong
Đời đời xuất phát văn chương, do ở
thủy khẩu sinh quái thạch
Đời đời liền có khoa mục, do ở thân
long khởi tinh phong.
Luận câu 26: Kết tại Cấn, Hợi long,
nhập Tốn, Tân, kỳ huyệt quỷ khí, hựu quái thạch trấn thủy khẩu, tầm thủy,
trướng thủy, lạc như phù, tử tôn phú quý dã.
Kết ở Cấn, Hợi long, nhập Tốn, Tân
huyệt dã quý khí lại có quái thạch, trấn ở thủy khẩu, rút nước lên cạn, nổi
quái thạch, nên con cháu giàu sang vậy.
Câu 27: Thế thế liên khoa mục, kiến
tú mạch kết cục, Long thân thượng tiết tiết sinh phong, như liên châu, đại đại
tử tôn văn chương dã.
Đời đời liền phát khoa mục, huyệt
đã có mạch tốt kết cục.
Trên minh long lại có đốt đốt cao
lên như liên châu, nên đời đời con cháu phát văn chương vậy.
Câu 28: Bạch ốc xuất công khanh, do
hồ hồi long cố tổ.
- Điền phu chí tể tướng, do hồ nghịch
thủy nhập hoài.
Bạch ốc xuất công khanh do ư hồi
long đoái tổ.
Điền phu làm đến tể tướng do ư
nghịch thủy vào lòng.
Luận câu 28: Tổ như phụ viễn hành,
hồi long như tử, cửu vọng kiến nhi tự khoái, cố viết hồi long chi lực bạc năng
linh bạch ốc chí công khanh
Tổ như là cha đi xa, hồi long như
là con trông lâu được nhìn thấy mà vui mừng, cho nên nói là sức hồi long tuy
bạc nhược mà có thể khiến cho bạch ốc làm tới công khanh.
- Huyệt tuy tại sơn, nhưng họa phúc
tại thủy, thủy nghịch cấp phát, nhập hoài càng nhanh, cố viết sử điền dã chi
nhân vi quan chi tể tướng.
Huyệt tuy ở sơn họa phúc ở thủy.
Nước nghịch chảy siết vào lòng càng chóng phát nên mới nói là được đất đó, dù
là người điền dã cũng làm quan tới tể tướng vậy.
Câu 29: Thổ nhập Thổ tử tôn đa hào
phú
Mộc nhập Mộc tử tôn đa khoa mục
Thổ vào thổ con cháu nhiều hào phú.
Mộc vào Mộc con cháu nhiều khoa mục.
Luận câu 29: Cấn thuộc Thổ chủ phú,
Thổ vượng điền ngưu
Cấn long nhập thổ tinh, tác huyệt
chi phú quý dã.
Cấn thuộc thổ chủ về giàu, Thổ thì
vượng về ruộng trâu.
Cấn long vào Thổ tinh làm huyệt chủ
về giàu sang vậy.
Hợi thuộc mộc vi mộc thế, Hợi nhập
cục tác mộc huyệt, đa văn sĩ dã.
Hợi thuộc mộc làm mộc thế, Hợi nhập
cục làm mộc huyệt, đấy là phát nhiều văn sĩ vậy.
Hựu nhất thế long hành khởi tổ, đại
thổ tinh chi thổ hữu huyệt, tứ hành như thử chi loại.
Lại một thế cách nữa, long mạch đi
khởi tổ từ đại thổ tinh đến thổ có huyệt. Bốn hành khác đều giống như thế.
Câu 30: Nhất sơn nhất án túc dĩ tự
vinh
Nhất huyệt nhất đường túc dĩ trí phú.
Một sơn, một án đủ sức tự vinh
Một huyệt một đường, đủ sức làm
giàu.
Luận câu 30:
a. Chung ứng nhất huyệt thanh kỳ
nhất án, tuy vô long, hổ diệc vinh hoa.
Chung ứng vào một huyệt, thanh kỳ ở
một án, tuy không có long, hổ vẫn vinh hoa.
b. Thổ tinh kết huyệt hướng đường,
trữ thủy diệc trí phú dã
Thổ tinh kết huyệt hướng đường chứa
nước cũng có thể làm giầu vậy.
Câu 31: Lư chiên trúng dự ngao đầu,
cáo trục đa sinh phò mã
Hình như lư chiên, đậu trúng ngao
đầu, cáo trục sinh nhiều phò mã.
Luận câu 31:
a. Huyệt kết hồi long, tiền diện
sơn như hoa cái, hậu huyệt như lư chiên, phát trạng nguyên.
Huyệt kết hồi long, trước mặt có
núi, hình như hoa cái (lọng hoa), ở sau huyệt, hình như lư chiên (rơi ngựa)
phát trạng nguyên vậy.
b. Phàm huyệt kết xứ, Nam phương
Bính, Ngọ, Đinh, sơn hình như cáo trục đẳng lập, nam hôn công chúa dã
Phàm chỗ huyệt kết, ở Nam phương
(Bính, Ngọ, Đinh) có núi hình như cáo trục, đứng chầu, con trai lấy được công
chúa vậy.
Câu 32: Sơn thôi thoái vận, tuần
tiết nhi phát nhi tôn. Thủy khán nguyên đầu, kiến phương nhi tri chức nghiệp.
Núi suy chuyển xuống theo đốt tiết
mà phát con cháu. Nước xem từ đầu nguồn mà biết chức nghiệp.
Luận câu 32:
a. Sơn lai tự đầu giáng khởi, mỗi
nhất tiết phát nhất đại, đốn khởi nhi suy.
Núi đến từ đầu trở xuống, mỗi một
đốt tiết phát một đời, theo chỗ thấp chỗ cao mà suy luận.
b. Phàm thủy chi lai trường khê từ
chữ giai hữu thăng, tự phát – Hà tự nhi luân giả như Tý phát nguyên thủy chủ
thương mại, dĩ thử luận tha, khả loại suy.
Phàm nước trường khê tới, quan hệ
tự chỗ phát nguyên. Xem từ chữ gì mà định luận. Giá như nước phát nguyên từ chữ
Tý thì chủ về buôn bán, cứ theo pháp đó mà suy luận rộng ra.
Câu 33: Tam thai tiền, vương tự
hậu, tiền hậu vinh xương
Ngũ nhạc hậu, liên châu tiền, hậu tiền
vinh hiển.
Tam thai đằng trước, chữ vương đằng
sau thì trước sau vinh xương.
Ngũ nhạc ở sau, liên châu ở trước,
thì sau trước vinh hiển.
Luận câu 33:
a. Thử địa sinh phong hầu, tử miếu
thực.
Kiểu đất này sống được phong hầu,
chết được miếu thực (làm thần được cúng tế).
b. Ngũ nhạc hậu, hậu ngũ tử giai
vinh hiển đạt.
Ngũ nhạc ở đằng sau, 5 con đều hiển
đạt.
c. Liên châu sơn kỳ giả, tiền phát
liên châu.
Liên châu sơn ở đằng trước thì
trước phát liên châu.
Câu 34: Thạch thất hoa khai, vọng
chi nhi quý địa
Thủy nguyên trước tĩnh, đắc chi nhi cát
huyệt.
Thạch thất hoa khai, nhìn đó mà
biết là quý địa.
Nguồn nước lặng im được chỗ đó mà
làm huyệt tốt.
Luận câu 34:
a. Phàm thổ khởi, nhất cư huyệt dã,
giai quy địa dã.
Phàm đất gồ lên một chỗ mà làm
huyệt, đều là đất quý vậy.
b. Phàm thủy tính bản động, kiến
tĩnh xứ giai hữu kết huyệt dã.
Phàm nước tính vốn động, thấy chỗ
nước im lặng thì có huyệt kết vậy.
Câu 35: Nhất trùng bão khỏa nhất
trùng khai. Tướng Tướng vương hầu tại thử gian.
Tứ vi hoàn nhiễu tứ vi cố, công khanh
phụ bật cư thử trú.
Một trùng bao bọc, một trùng mở,
tướng văn tướng võ vương hầu ở chỗ đó.
Bốn bề quanh co bốn bề đoái lại,
công khanh phụ bật đóng tại đó.
Luận câu 35:
a. Kết huyệt nội khai nhất trùng,
ngoại cao nhất trùng, thủy khẩu tỏa mật, đích thị vương hầu chi địa
Huyệt kết trong khai mở một trùng,
ngoài lại cao lên một trùng, thủy khẩu thì đóng kín. Đúng là đất vương hầu.
b. Tứ diện giai miên cung, loan
cung bão, công khanh tất cư thử xứ
Bốn mặt đều hình cánh cung, nằm ôm
lấy, công khanh ở tại chỗ đó.
Câu 36: Vị liệt đài giai, yếu đắc
xích xà nhiễu ấn
- Chức cư thanh quý, do hồ thanh long
liên châu
Ngồi ở đài giai, cần có xích xà
nhiễu ấn.
Chức ở thanh quý, do tại Thanh Long
liên châu
Luận câu 36:
a. Như Cấn, Hợi kết cục Tỵ phương
hữu ấn, như long bão hướng chủ quý dã.
Như Cấn Hợi kết cục, Tỵ phương có
ấn mà lại có long bão hướng, chủ quý
vậy.
b. Cấn, Hợi long kết cục, nhi long
thân khởi tinh phong, chủ quý dã.
Cấn, Hợi long kết cục mà trên thân
long nổi tinh phong cũng chủ quý vậy.
Câu 37: Dậu vị sơn cao tế ác khí,
tĩnh thanh bất phi nhất hào.
Mão phương thủy tụ án quang minh, long nhi cận, danh phương tứ hải.
Dậu phương khí thanh tịnh, không bị
xâm phạm mảy may.
Mão phương nước tụ án quang đãng
được gần long nhan (vua) tiếng lừng bốn biển.
Câu 38: Mùi phương thê thiếp chi
vị, sở ái giả trừu thanh.
Mão phương quân vương chi vị, sở kỵ giả lăng áp.
Mùi phương chủ thê thiếp, đáng yêu
ở chỗ trong sạch.
Mão phương chủ quân vương đáng kỵ
là bị lấn át.
Luận câu 38:
a. Mùi phương chủ thê thiếp, như
hữu viên sơn tú ứng, tất hữu hiền thê tú thiếp.
Mùi phương chủ về thê thiếp, nếu có
núi tròn thanh tú ứng về, sẽ có vợ hiền thiếp tốt.
b. Mão phương nhật xuất chi minh
quân, tượng như sơn cao lăng chi nội, vị chi lăng áp thái dương, nan thụ quân
ân.
Mão phương là chỗ mặt trời mọc,
sáng sủa, tượng về vua, nếu ở trong có núi cao che khuất (che khuất mặt trời
mọc) gọi là lấp che thái dương, khó mà được hưởng ơn vua.
Câu 39: Càn, Khôn nhị vị đáo đầu,
tuy phát phúc, chung niên bại tuyệt.
a. Càn lão dương, Khôn lão âm,
lưỡng long kết cục diệc phát nhất đại, bại tuyệt dã.
Càn là lão dương, Khôn là lão âm,
hai long này kết cục, cũng chỉ phát có một đời rồi bị bại tuyệt.
b. Thìn, Tuất giai một khổ, long
phát nhất đại nhi tử tôn bần cùng.
Thìn, Tuất đều là mộ khố long, cũng
chỉ phát được một đời rồi con cháu lại bần cùng.
Câu 40: Tý, Ngọ, Dần, Thân, tứ
dương long chi vị toàn
Thìn, Tuất, Sửu, Mùi tứ mộ long chi sở
ố.
Tý, Ngọ, Dần, Thân là bốn dương
long chưa được hoàn toàn.
Thìn, Tuất, Sửu, Mùi là bốn mộ long
thật đáng nên ghét.
Luận câu 40:
a. Tứ dương long phát nhất đại
Bốn dương long chỉ phát được một
đời.
b. Tứ mộ long tuy phát phúc, tử tôn
bại tuyệt.
Bốn mộ long tuy phát phúc nhưng sau
con cháu lại ngoan ngu bại tuyệt.
Câu 41: Tiến nguyên đầu không, tài
cao bất đệ
a. Tốn, Tân không khuyết, tuy học quá
nhận, ứng thí bất đệ
Phương Tốn, Tân bị không khuyết,
tuy sức học hơn người nhưng đi thi không đậu.
b. Càn phương vô sơn, thâm thủy,
niên hưởng bất kỳ
Càn phương không có núi cao, lại
nước sâu thì tuổi sống không được mấy.
Câu 42: Đại sơn áp như thủy tinh
tai hại tịnh chí.
Mão tinh như nhật mã, hung họa tự tùy.
Đại sơn áp tới thủy tinh, tai hại
đều tới
Mão sơn lấn sang nhật mã, hung họa
theo tùy.
Luận câu 42:
a. Sửu phương hung vị, huyệt cư cận
túc, hậu sơn lăng áp, tử tôn hung bạo, họa bại dã, nhật mã ngộ hỏa dã.
Sửu sơn là hung vị, huyệt ở gần
chân, hậu sơn lấn áp huyền vũ, con cháu hung bạo, họa bại vậy.
b. Mão phương hữu sơn cư chi, chủ
thống mục
Mão phương có núi ở đó chủ về bị
đau mắt.
Câu 43: Thủy phóng Quỷ vị, nhi thê
thiếp họa bại nan đào.
Thủy phóng Ngưu phương, nhi tử tôn đạo
tặc dị hư
Thủy phóng ở Mùi vị, thê thiếp bị
họa bại khó tránh.
Thủy phóng ở Sửu phương, con cháu
làm trộm cướp dễ hư
Quý vị Mùi dã, Ngưu, Sửu phương dã.
Quý là phương Mùi, Ngưu là phương
Sửu.
Câu 44: Đới đao, đới kiếm, bất nghi
ư một khố chi vị
Hân quần, vũ tụ, bất kham ư mộc dục chi
hương
Hình đới đao, đới kiếm không nên ở
ngôi Mộ Khố.
Hình hân quần vũ tụ, không nên ở
nơi Mộc Dục.
Luận câu 44:
a. Mộ Khố: Thìn, Tuất, Sửu, Mùi dã.
Nhược kiến ư đao kiếm tại thử phương, tử tôn khởi đạo tặc dị tạo hình hại dã.
Mộ Khố là 4 phương Thìn, Tuất, Sửu,
Mùi nếu thấy có sơn hình như đao như kiếm ở phương đó thì con cháu sẽ khởi lên
làm đạo tặc mà bị hình hại vậy.
b. Mộc dục Tý, Ngọ, Mão, Dậu dã.
Thử phương hữu hình như hân quần vũ tụ tất sinh hoa nguyệt chi nữ dã.
Mộc dục là bốn phương Tý, Ngọ, Mão,
Dậu – Nếu thấy phương đó có sơn hình như vén quần sốc áo tất sẽ sinh ra con gái
trăng hoa vậy.
Câu 45: Bình bát kiến ư Khôn, Thân
tất sinh tăng ni.
Án tinh kiến ư Dần, Thân tất sinh vu nữ
Bình bát thấy ở Khôn, Thân tất sinh
ra những tăng ni.
Án tinh hiện ở Dần, Thân tất sinh
ra bọn vũ nữ.
Câu 46: Cao phong độc xuất ư nam
phương, viên hình, khủng tai hình chi họa
Cao phong trấn áp ư Thiên mẫu,
khủng tân hạ đệ chi danh.
Cao phong trơ trọi ở phương Nam,
hình tròn, sẽ bị họa tai, hình sát.
Cao phong trấn áp ở thiên mẫu e bị
mang danh thì hỏng.
Câu 47: Sửu, Mùi, Dần, Thân ngộ hồ
lô, nhi phong tàn bệnh tật.
Sửu, Mùi, Dần,Thân kiến bút, hoang hấn
tụng từ.
Sửu, Mùi, Dần, Thân gặp hình hồ lô,
bị bệnh phong, tàn tật.
Sửu, Mùi, Dần, Thân thấy hình bút,
bị gây hấn kiện tụng.
Câu 48: Minh đường can hạt, si bất
đăng khoa
Huyền vũ đê bạc, nhân vô thọ khảo
Minh Đường khô khan, học trò không
thi đỗ
Huyễn vũ mỏng thấp, người không
sống lâu
Câu 49: Ngũ hành nhập miếu, tiểu
cục thành nhân
Tam tiêm sấm vân, sĩ nho cao trúng
Ngũ hành ở chỗ miếu, vượng đất nhỏ
cũng nên người.
Ba cây bút chấm mây, học trò thi đỗ
cao.
Luận câu 49:
a. Mộc cư Đông, Hỏa cư Nam, Kim cư
Tây, Thủy cư Bắc. Giả như Đoài Kim mạch lai, Kim tác huyệt, ngộ nhất mộc cư
Đông tại án, đắc miếu vượng, huyệt tuy tiểu diệc xuất công khanh.
Ví như phương Đoài, mạch lai hình
Kim, lại khai huyệt hình Kim. Có một hình Mộc ở phương Đông đến làm án, là miếu
vượng nhất, dù đất nhỏ cũng phát công khanh.
b. Giả như Tân, Dậu, Canh tam tiêm
sấm vân, cát mạch nhập huyệt tọa nhi hướng chi, tất phát trạng nguyên dã.
Nếu như ở phương Canh, Dậu, Tân có
ba cây bút nhọn, vươn lên chấm mây, mà mạch cát. Phân kim tọa huyệt mà hướng
đúng sẽ phát trạng nguyên.
Câu 50: Nhất thốn thổ, nhất thốn
Kim, tại hồ thủy tụ nhập hoài.
Nhất Hỏa long, nhất Mộc án, thân sử Hàn lâm.
Một tấc đất, một tấc vàng, cốt ở
nước tụ vào lòng.
Một hỏa long nhập huyệt gặp mộc làm
án, ở chức Hàn Lâm vậy.
Câu 51: Chiêu tặc quân tại Tý, Ngọ,
do hồ Tý, Ngọ hoặc kiếm, hoặc kỳ, tất sinh hung tướng chi nhân.
- Nhất thốn thổ, nhất thốn kim, tâm tư
thiết thiết. Tam đẳng nhân, tam đẳng vật, tình tự v.v...
Chiêu tặc quân tại Tý, Ngọ, do ư Tý
Ngọ hoặc kiếm hoặc cờ, tất sinh ra người hùng tướng.
Nhất thốn thổ, nhất thốn kim, lòng
nhớ bâng khuâng.
Tam đẳng nhân, tam đẳng vật lòng
sầu man mác.
Luận câu 51:
a. Kim Mộc tương phản nhau
Kim Hỏa tương cộng nhau
Huyệt họa Mộc tinh, thấy trước án
là Kim tinh sẽ khắc thể. Huyệt tọa Kim tinh cũng vậy.
Kim huyệt mà nhập Hỏa chủ về tuyệt
diệc. Mộc huyệt mà thấy Kim, tổn thương con cái.
Câu 52: Cô sơn như lập tại Đông
phương, thường xuất tăng ni đạo sĩ.
Long mạch như loa tại Khôn, Thân thường
xuất nghiêm sư, hòa thượng.
Cô sơn như chiếc nón ở Đông phương,
thường phát xuất tăng ni đạo sĩ.
Mạch như ốc xoáy tại Tây phương
thường phát xuất nghiêm sư, hòa thượng.
Câu 53: Càn, Khảm, Cấn sinh viên
ấn, phù pháp phong lưu
Hợi, Mão, Mùi như bao tiểu Kim, y sư kinh nghiệm.
Càn, Khảm, Cấn phương có hình án
tròn sẽ phát thầy pháp, phong lưu
Hợi, Mão, Mùi phươn có hình như bọc
tiêu Kim phát thầy thuốc giỏi.
Câu 54: Tiền sơn loạn y đố nữ loạn
dâm,
Long hổ giao nha vi đại sát.
Phía đầu núi như loạn y sẽ phát gái
ghen, loạn dâm.
Tay Long Hổ giao nha (nhe răng vào
nhau) là đại sát.
Câu 55: Nẫu liên mật tinh nhi liên
bạc mệnh
Bát phong suy tảo, huyệt bán tử, bán ly
Đệm liền như đào giếng, con cái
luôn luôn bạc mệnh
Tám phương gió thổi vào huyệt, nửa
chết nửa phân ly.
Câu 56: Tứ phương tiêm xạ huyệt,
khởi tai khởi nghiệt.
Bốn phương bắn nhọn vào huyệt, gây
tai họa cho huyệt.
Luận câu 56:
Tả xạ trưởng nam tuyệt.
Hữu xạ thứ nam vong
Nhược nhiên đương diện xạ, trung tử
định ly hương
Bắn vào bên tả thì trưởng nam
tuyệt, bắn vào bên hữu thì thứ nam chết, nếu bắn vào giữa, con giữa ly hương.
Câu 57: Sa thủy nhược tà trắc, nữ
nhân tham hoa sắc. Sơn tẩu Đông Nam, táng hậu nhất trương hung họa.
Sa thủy nghiêng ghé, con gái trăng
hoa.
Núi chạy Đông Nam, sau khi táng bị
một trận hung họa.
Luận câu 57: Sa thủy do tán loạn,
táng hậu tiền tài tán.
Sa thủy tán loạn, chôn xong sẽ tán
tài.
Câu 58: Miếu xã ngộ táng huyệt,
huyệt hạ nhân đinh tuyệt.
Táng vào chỗ miếu xã, hạ huyệt xong
sẽ bị tuyệt con cái.
Câu 59: Tiền hậu kiến tước phá
huyệt, hạ chiêu tai họa.
Phía trước phía sau thấy hụt, phá,
huyệt hạ rước lấy tai vạ.
Câu 60: Long Hổ đoạn thủy xuất,
định mãi tận điền trạch.
Minh Đường thủy phản khuynh, tử tôn ly
hương bại.
Long Hổ đoạn thủy chảy ra, nhất
định phải bán hết ruộng đất.
Minh đường nước hắt nghiêng trở ra,
con cháu phải xa làng, thất bại.
Câu 61: Diện tiến kiến xạ Tào sát
nhân bất dụng lực.
Khảm úy Thìn nhi Khôn úy Mão
Chấn kỵ Thân nhi Tốn kỵ Dậu
Càn ố Ngọ nhi Đoài ố Tỵ
Cấn kỵ Dần nhi Ly kỵ Hợi
Trước mặt thấy mũi nhọn, giết người
không dùng sức.
Khảm sợ Thìn, Khôn sợ Mão
Chấn kỵ Thân, Tốn kỵ Dậu
Càn kỵ Ngọ, Đoài kỵ Tỵ
Cấn kỵ Dần, Ly kỵ Hợi
Luận câu 61: Khảm long kết huyệt
nhi Thìn thượng hữu nha đao.
Long kiến thủy giai hung họa chi
triệu dã khả loại thử nhập cát dã.
Khảm long kết huyệt mà trên cung
Thìn có gò đống, núi non hình nha đao là hung họa.
Long kiến thủy là Khảm long mà
hướng Thìn có nha đao. Đây là phép Long Thượng bát sát. Xin xem Phụ Lục I cho
rõ.
Câu 62:
Đinh Canh Khôn thượng thị Hoàng
Tuyền.
Ất Bính tu phòng Tốn thủy tiên.
Giáp Quý hướng lai hưu kiến Cấn
Tân Nhâm thủy lộ phạ đương Kiền
Như sơn mạch cốt nhục đoạn thương,
mạch tuyệt khí, tử tôn bại tuyệt dã.
Đinh, Canh thì Khôn là Hoàng Tuyền.
Ất Bính không nên phóng thủy ở Tốn.
Giáp Quý hướng lai, lo thấy ở Cấn
Tân, Nhâm thì sợ đường thủy ở Càn
Nếu sơn mạch cốt nhục bị đoạn khí,
con cháu bị bại tuyệt vậy.
Lưu ý: Muốn biết rõ hơn ở câu 62
xin xem phụ lục II nói về Bát Đại Hoàng Tuyền.
Câu 63: Thủy phá Thái Dương, dâm
trọc chi thái tự khởi.
Thủy phá Cấn vị, bần phạp chi thán tự
sinh.
Thủy phá Thái Dương, thói dâm trọc
tự khởi.
Thủy phá Cấn vị, lời than nghèo tự
sinh
Luận câu 63:
a. Thái Dương: Tý, Ngọ, Mão, Dậu kỳ
thủy tự
Dậu phóng Mão hoặc chuyển Mão phóng
Dậu
Tý Ngọ diệc nhiên cách giai dâm
thái dã.
Thái dương là Tý, Ngọ, Mão, Dậu –
Dòng nước từ Dậu phóng ra Mão, hoặc chuyển Mão phóng ra Dậu.
Tý, Ngọ cũng thế, đều là cách dâm
thái vậy.
b. Cấn sinh phú, nhược Cấn thủy phi
khứ giai bần tiện dã.
Cấn chủ phú, nếu cấn thủy bị chảy
đi đều là cách bần tiện vậy.
Câu 64: Thủy lưu quy bối, cơ hàn
khất cái
Sơn tọa cô đơn, tử tôn nan kế
Nước chảy lưng rùa, bị đói rét ăn
mày
Sơn ngồi cô đơn, con cháu khó bề
nối dõi.
Luận câu 64:
Tọa tuyệt diện tiền, thủy như quy
bối hoặc huyệt lộ hình
Thủy như quy bối, tử tôn tất bần,
khất cái. Cô đơn giả, sơn tân cận, hoặc bạc điền, đê điền, lưỡng biên vô hậu,
khí vô tàng phong, tất tuyệt tự dã.
Tọa tuyệt chỗ trước mặt như lưng
rùa, con cháu nghèo, phải ăn mày. Cô đơn là núi gần sát hoặc bạc điền, đê điền
ở hai bên không có hậu khí, không chắn gió tất bị tuyệt tự vậy.
Câu 65: Đại để sơn thủy tụ chung,
khí tú thanh, khuất khúc vi cát, trùng sơn xích thổ, băng phá, bạc độc vi hung.
Đang thủy xu cát tỵ hung dĩ toàn kỳ
thiện dã.
Đại để sơn thủy tụ được tú khí,
thanh thủy, khuất khúc là tốt. Còn trọc sơn, xích thổ, lở vỡ bạc độc là dở.
Phải chọn sơn thủy sao cho xu cát
tỵ hung để cho sự tốt lành được toàn vẹn.
HŨU THẬP TAM CÁCH
Tổ phát tả kiên nhập hữu kiên
Sơn
cao Huyền Vũ thủy chi huyền.
Nhật minh
nguyệt chiếu đường triều nội
Thử địa
vinh hoa phú quý toàn.
CÁCH THỨ 13
Mạch khởi Tổ từ vai tả nhập vào vai Hữu Long,
Núi Huyền vũ cao
dày, thủy chảy như chữ chi, chữ huyền.
Minh đường trong
sách, được nhật nguyệt chiếu minh.
Đất phát vinh hoa phú quý toàn vẹn.
CHƯƠNG XIV
NHẬT KỲ SƠN THỦY HỢP CÁT PHÁP
A. HƯỚNG DẪN PHẦN NHẬT KỲ SƠN THỦY
HỢP CÁT PHÁP
Chương này cho biết cách tính thời
gian kết phát trên 2 phương diện: Thể và Dụng.
Thể là do hình thế đất mà biết, còn
Dụng là do lý khí mà biết.
B. NHẬT KỲ SƠN THỦY HỢP CÁT PHÁP
Phép ấn định thời gian kết phát và
sơn thủy hợp pháp
1. Long thủy nạp Giáp
a. Càn long nạp Giáp thủy
b. Khảm long nạp Quý thủy
c. Cấn long nạp Bính thủy
d. Chấn long nạp Canh thủy
e. Tốn long nạp Tân thủy
g. Khôn long nạp Ất thủy
h. Đoài long nạp Đinh thủy
Nạp Giáp như trên đây là hợp pháp
tốt.
2. Bức và Khoáng
a. Phàm xuất sơn bộ huyệt:
- Nội bách bộ vi bức
- Ngoại bách bộ vi khoáng
Phàm xuất sơn bước tới huyệt:
- Trong trăm bước là bức bách.
- Ngoài trăm bước là khoáng đãng.
b. Thủy tựu huyệt
- Nội bách bộ vi cấp,
- Ngoại bách bộ vi khoáng
Từ nước tới huyệt:
- Trong trăm bước là cấp
- Ngoài trăm bước là hoãn.
Về núi thì 3 năm đi một bước, nước
mà thuận cũng đi một bước.
Bởi vậy nên: Nghịch là cấp. Thuận
là hoãn.
3. – a). Kiên, trì, động, cấp,
tĩnh, thả:
- Kim tính kiên
- Thổ tính trì
Sơn thủy cận cấp, vượng tướng = 18
chia 2 thành 9 nên 9 năm đã phát phúc.
b). Hựu giả như Hỏa tính cấp, hỏa
long hữu hỏa hình, thu tác huyệt, hỏa hướng, nghịch sa, nghịch thủy, tứ thế
giai vượng tướng. Bất tất luận thiên địa, chi số, chiêu táng, mộ phát.
Giả như Hỏa tính cấp, hỏa long hỏa
hình nhận hỏa hướng: Nghịch sa là thủy, 4 thế đều vượng tướng. Bất tất phải
luận về thiên địa số, sớm táng chiều phát vậy.
c). Hựu giả như thổ tính trì, thổ
long hựu thổ huyệt, giai sơn khoáng thuận. Cấn long, Canh hướng, như Cấn 7,
Canh 8 = 7 + 8 = 15.
Thập ngũ niên phát phúc dã.
Hưu tù bội thập ngũ thập niên phát
phúc dã.
Lại giả như Thổ tính tri, thổ long lai
thổ huyệt, sơn đều khoáng thuận. Nếu lập Cấn long, Canh hướng: Cấn 7, Canh 8 =
7 + 8 = 15, tức trong 15 năm sẽ phát phúc vậy.
Nếu hưu tù thì 50 năm sau mới phát.
4. – a).
Càn =
nhất
Đoài =
nhì
Ly =
tam
Chấn =
tứ
Tốn = ngũ
Khảm =
lục
Cấn =
thất
Khôn =
bát
Giáp, Tỵ, Tý, Ngọ = 9
Ất, Canh, Sửu, Mùi =
8
Bính, Tân, Dần, Tân =
7
Đinh, Nhâm, Mão, Dậu =
6
Mậu, Quý, Thìn, Tuất =
5
Tỵ, Hợi = 4
b. Nghịch thủy, nghịch án, tả hữu
tiền hậu cận giả nhi vượng tướng
Viễn thủy cận án, nội mật ngoại
kháng vi cát.
Khuynh giả vi hưu tù. Vượng tướng
giảm bán. Hưu tù bội thập.
Nghịch thủy nghịch án, tả hữu trước
sau, gần là vượng tướng.
Thủy xa án gần, trong mật ngoài
khoáng là cát.
Nghiêng là hưu tù. Vượng tướng giảm
đi một nửa.
Hưu tù thì tăng lên gấp mười.
c. Giả như Tý long, tác Ngọ hướng,
sơn thủy cận cấp.
Tý, Ngọ số cửu - Vượng tướng giảm
bán giả
Nhị cửu thập bát, cửu niên phát
phúc dã.
HỒI LONG CỐ TỔ CÁCH
Thập tứ cách (14)
HỮU THẬP TỨ CÁCH
Hậu tiền
sơn thủy các phân hành
Chỉ thị
sơn đầu chủ khách nghinh
Long mạch
hà tu cầu địa các
Huyệt
thành bất tất hợp thiên hình
Hữu tình
bất việt sơn hồi bão
Sa xứ vô
qua địa thản binh.
CÁCH THỨ 14
Trước sau sơn thủy khéo phân
hành.
Chỉ ở sơn
đầu chủ khách nghinh.
Long mạch
cần chi cầu địa các
Huyệt
thành chẳng hẳn hợp nguyên
Hữu tình
bởi tại sơn hoài bão
Đâu phải
không sa, (tài liệu photo mờ)
Giả như Tý long, Ngọ hướng. Tý +
Ngọ = 9 + 9 = 18
d. Thả khả suy thứ
Hựu như:
Tý dữ Sửu hợp.
Ngọ dữ Mùi hợp.
Dần dữ Hợi hợp
Thìn dữ Dậu hợp
Mão dữ Tuất hợp
Tý dữ Thân hợp
Tý số cửu
Sửu tiên đáo cận ứng - Tự táng lục,
thất niên vi bị cửu ngộ Sửu niên diệc phát phúc ư lục, thất niên dã.
Ngoài ra có thể suy ở đây mà biết:
Tý hợp Sửu
Ngọ hợp Mùi
Dần hợp Hợi
Thìn hợp Dậu
Mão hợp Tuất
Tỵ hợp Thân.
Số của Tý là 9 - Sửu tới trước sẽ
ứng gần hơn.
Kết quả:
Từ lúc táng tới sáu, bảy năm (chưa
tới 9 năm) mà gặp năm Sửu cũng phát phúc (năm thứ 6 thứ 7 vậy).
e). Tha khả loại suy hựu giả như Ly
Long tác Đoài hướng. Ly tam, Đoài nhị, Cộng thành ngũ. Sơn thủy cận vượng = nhi
niên báo phát phúc.
Hưu ngộ niên lưu sơn cốc ứng vạn
niệm
Ngoài ra có thể suy luận theo từng
loại:
Ly long = 3, Đoài hướng = 2 (2 + 3
= 5)
Nếu sơn thủy cận, vượng thì hai năm
rưỡi phát phúc, lại gặp năm có sơn cốc ứng vào thì càng ứng nghiệm.
CHƯƠNG XV
CẦU TỰ PHÁP
A. HƯỚNG DẪN PHẦN CẦU TỰ PHÁP
Phần này có liên quan đến thủy
pháp. Các cụ để riêng một chương là vì xưa kia khoa địa lý rất chú trọng đến
nhân đinh
B. CẦU TỰ PHÁP
1. Kim trường sinh tại Tỵ
2. Mộc trường sinh tại Hợi
3. Hỏa trường sinh tại Dần
4. Thủy trường sinh tại Thân
Đồ tự tam giả bối vượng nghinh sinh
Giả như:
1. Dần Giáp Mão Ất thuộc Mộc.
2. Tỵ Bính Ngọ Đinh thuộc Hỏa
3. Canh Dậu Tân thuộc Kim
4. Hợi Tý Quý thuộc Thủy
5. Thìn Tuất Sửu Mùi Khôn Cấn thuộc
Thổ.
6. Càn Đoài thuộc Kim
7. Chấn Tốn thuộc Mộc
8. Ly thuộc Hỏa
9. Khảm thuộc Thủy.
Câu 1: Tốn long nhập thủ - huyệt
đắc Hợi thủy nhập hoài vi sinh thủy đáo đường, tất vượng tử tôn.
Tuy nhiên, Mộc hữu dương mộc, âm
mộc.
a. Tự Hợi chuyển Mão nhập, huyệt vi
dương mộc Trường sinh tại Hợi.
b. Tự Ngọ chuyển Mão nhập, vi âm
mộc: Trường sinh tại Ngọ
Dương thuận, Âm nghịch. Tử xứ phùng
sinh.
Câu 2: Như Canh, Dậu, Tân thuộc
Kim, Trường sinh tại Tỵ, tử xứ tại Tý
a. Mạch tòng tả lai, chuyển Kim
nhập huyệt, Trường sinh tại Tỵ.
b. Nhược tòng hữu lai, Trường sinh
tại Tý.
Như tại tả lai vi dương, thuận hành.
Như tại hữu lai vi âm, nghịch hành.
c. Trường sinh, Mộc dục, Quan đới,
Lâm quan, Đế vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai, Dưỡng.
d. Tọa hướng sử: sinh vượng, nghi
lai
Tử, tuyệt nghi khứ
e. Vưu ái giả, Thanh long báo tử
Vưu nghiêm giả, Bạch hổ vệ tôn.
Tử xứ phùng sinh: Như Canh, Dậu,
Tân thuộc Kim Trường sinh ở Tỵ - Tứ xứ ở Tý.
a. Mạch tự tả lại, chuyển sang Kim
vào huyệt, Trường sinh ở Tỵ.
b. Nếu mạch theo bên hữu lại:
Trường sinh ở Tý. Nếu từ tả lại là dương thuận. Từ hữu lại chuyển sang là âm
nghịch.
c. Trường sinh, Mộc dục, Quan đới,
Lâm quan, Đế vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai, Dưỡng.
d. Tọa hướng nên khiến cho Sinh,
Vượng lai và nên bỏ Tử, Tuyệt.
e. Đáng yêu nhất là Thanh Long bão
tứ.
Đang nghiêm nhất là Bạch Hổ vệ tôn.
Câu 3: Mạch hành sinh khí, đắc sinh
thủy đáo đường. Hoặc hữu Thanh Long bão tử phong, Bạch Hổ bão tử phong – vi bão
tử vệ tôn.
Mạch hành sinh khí.
Được sinh thủy đáo đường, hoặc là
Thanh Long ôm con ẵm cháu.
Câu 4: Hoặc Thác Lạc sơn tại hậu vi
thiếu tôn phù - hậu đích nghiệm dã.
Hoặc Thác lạc sơn ở sau, đây là
nghiệm và có cháu nhỏ dắt ở sau vậy.
Câu 5: Sinh nam cầu Khảm, Cấn Chấn
Sinh nữ cầu Tốn, Ly, Đoài
Mạch Khảm, Cấn, Chấn vi
tam nam
Mạch Tốn, Ly Đoài vi tam nữ
Hựu đắc sinh thủy đáo đường, đa
sinh nam nữ dã.
Muốn sinh con trai thì cầu mạch ở
Khảm, Cấn, Chấn.
Muốn sinh con gái thì cầu mạch ở
Tốn, Ly, Đoài.
Khảm Cấn Chấn là tam nam
Tốn, Ly, Đoài là tam nữ
Lại được sinh thủy đáo đường sẽ
sinh nhiều con trai, con gái vậy.
1. Kim, Trường sinh tại Tỵ - Mộc
trường sinh tại Hợi - Hỏa trường sinh tại Dần - Thủy trường sinh tại Thân. Muốn
cầu tự thì phải bối vượng nghinh sinh. Tỷ như :
Dần, Giáp, Mão, Ất thuộc Mộc, Tỵ,
Bính, Ngọ, Đinh thuộc Hỏa, Canh, Dậu, Tân thuộc Kim, Hợi, Tý, Quý thuộc Thủy.
Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, Khôn, Cấn thuộc Thổ. Càn Đoài thuộc Kim. Chấn, Tốn thuộc
Mộc. Ly thuộc Hỏa, Khảm thuộc Thủy.
Tốn Mão long vào đầu, huyệt được
Hợi thủy vào lòng là sinh thủy đáo đường. Tất sẽ vượng con cháu.
Tuy nhiên Mộc có dương mộc, có âm
mộc.
Tự Hợi chuyển qua Mão vào huyệt là
Dương Mộc, Trường sinh tại Hợi.
Tự Ngọ chuyển qua Mão vào huyệt là
Âm Mộc: Trường sinh ở Ngọ, Dương thuận, Âm nghịch.
HỒI LONG CỔ TỔ
Thập ngũ cách (15)
HỮU THẬP NGŨ CÁCH
Tổ
phát cao phong cổn cổn lai
Hùng
Thư tả hữu lập môn đài
Đường
trung hữu thủy loan như nguyệt
Án
ngoại đường lai tịnh liệt thai
Nam trù khổn ngoại bình doanh thượng
Nữ
quản cung trung phượng các khai
Nhược
kiến ngoại sơn phong trĩ lập.
Vinh
hoa phú quý đích vô sai.
CÁCH THỨ 15
Tổ
phát cao phong cuộn cuộn lai,
Thư, Hùng hai phía lập môn
đài
Trong
đường, án nhỏ cong như nguyệt
Ngoài
lại tam thai án thứ hai.
Nam
vào triều trước ngồi dinh thượng
Nữ nhập
cung sau ngự các đài.
Nếu
được núi ngoài cao đại lập
Vinh hoa phú quý chẳng còn sai
CHƯƠNG XVI
ÂM DƯƠNG LUẬN
A. HƯỚNG DẪN CHUNG VỀ ÂM DƯƠNG LUẬN
VÀ ÂM DƯƠNG TỌA HƯỚNG LUẬN
Phần này luận về âm dương là căn
bản về khoa địa lý để thêm kiến thức cho các mục khác. Thật ra không thể nói
hết về âm dương luận ở đây. Cho nên ta thấy nó có nhiều chỗ giống như ở các chương
12 – 13 – 14.
B. ÂM DƯƠNG LUẬN
Câu 1: Thiên địa vạn thù, âm dương
nhị lý
Trời đất chỉ thuộc về âm dương hai
lẽ.
Câu 2: Khinh thanh vi thiên, trọng
trọc vi địa
Mật tiểu vi âm huyệt, khoan đãi vi dương huyệt.
Nhẹ và trong sáng là trời, nặng nề
và đục là đất, chặt chẽ và nhỏ bé là âm huyệt, rộng lớn khoảng khoát là dương
huyệt.
Câu 3: Nhân đồ ngôn âm cung vô di ư
dương cung, thử bất tri âm hữu di ư dương huyệt.
Người ta chỉ biết âm cung không
khác với dương cung, nhưng không hiểu âm huyệt có khác với dương huyệt.
Câu 4: Dương cơ giả, nghi cao đại,
khoan hình, phồn thế, hoặc nghịch thủy nhất phương, hoặc duyên giang nhất khu,
giai tháp đại hậu khí chung tụ cư chi.
Vì dương cơ nên cao lớn, khoan
hình, hệ bởi thế đất, hoặc nghịch thủy một phương, hoặc ven sông một khu, đều
phẳng, rộng hậu khí chung tụ ở đó.
Câu 5: Ám địa kết, bàng nhân dĩ đắc
Dương địa kết, nhân sở nan tri
Âm địa kết người bên cạnh dễ được,
Dương địa kết người ta khó biết.
Câu 6: Âm địa tiểu tiểu hữu chi,
bàng cận chi nhân dĩ đắc
Chí nhi âm trạch đa cầu nghịch thủy, nghịch sơn
- Tiện táng, tiện hành, nhược dung kết khí tụ dã.
Âm địa nhỏ bé, chỗ nào cũng có nên
người gần bên dễ được còn đến âm trạch, phần nhiều phải nghịch thủy, nghịch
sơn, mà táng, mà làm, nếu dung kết thời khí tụ vậy.
Câu 7: Dương địa kết thiên địa chi
khí tụ chung ư thử, nhân sinh cư chi, kế thế đinh tài vượng, thả nhân sinh
dương địa giai thụ thiên địa chi khí.
Dương địa kết thì khí của trời đất
chung tụ ở đấy, người sống ở đây được đời đời đinh tài đều vượng. Vả dĩ người
sinh ở dương địa đều chịu khí của trời đất.
Câu 8: Cư xử xuất nhập đắc thiên
địa dung kết chi xứ tất hưởng thiên địa chi phúc, cố thế nhân nan cầu dương cơ
dã.
Cư xử xuất nhập được chỗ trời đất
dung kết, tất nhiên được hưởng phúc của trời đất. Bởi vậy nên thế gian khó tìm
được dương cơ vậy.
Câu 9: Tự cổ ư kim thôn ấp đa thừa
tiện hành chi thế, thiếu dong kết chi địa, nhược mỗ đắc vượng mạch, thôn ấp,
nhất sơn hồi, hựu nhất thủy loan diệc phát thắng ư ấp trung
Tự cổ chí kim, ở nơi thôn ấp phần nhiều
là tùy theo cái thế tiện hành, chứ ít có đất dung kết. Nếu nơi nào được chỗ
mạch vượng, trong thôn ấp có một ngọn núi hồi về, lại có một dòng nước bọc
quanh, cũng sẽ phát hơn ở trong ấp.
Câu 10: Cố viết, nhất thôn, nhất
ấp, chung diệc hữu phú hữu bần chi dị - Phù sinh ư thổ, phản ư thổ, sự giai
thổ, cố nhất thổ vi trọng. Dương trạch bẩm sinh chi khí vưu trọng, cố nhất
dương thắng thập âm dã.
Cho nên mới nóilà cùng ở trong một
thôn ấp, mà cũng có người giàu người nghèo khác nhau, vì rằng sinh ở đất, mọi
việc đều ở trong đất, co nên nhất đất là trọng. Dương trạch là khí bẩm sinh lại
càng trọng. Bởi vậy nên một Dương hơn mười Âm vậy.
NGỌA TỈNH DIỆN CÂU
HƯỚNG NGUYỆT THỦY ĐỀ CÁCH
Thập lục cách (16)
HỮU THẬP LỤC CÁCH
Tổ tông thực
thực tổng thiên trùng
Long mạch
thô ngang nhất lý tòng
Nhất tiết
hoành lai nhi nhập cục
Lưỡng sơn
triều đối, lập Thần đồng
Long cung tiên đáo hồi
tây cá
Hổ bạn
hoành lai tất bảo long
Ngoại tỉnh
diện câu nhi hướng nguyệt.
Tất nhiên
phú quý nữ nam đồng
CÁCH THỨ 16
Tổ tông
cao đại, núi muôn trùng
Long mạch
thô ngang, một dặm vòng
Một đốt
quay ngang rồi nhập cục
Hai gò triều đối lập Thần đồng
Tay Long
tới trước vòng Tây, bão
Hổ lại
vòng qua bão lại Long
Huyệt
giếng, tiền cong, ôm án nguyệt
Tất nhiên vinh
hiển nữ nam cùng
CHƯƠNG XVII
ÂM DƯƠNG TỌA HƯỚNG LUẬN
A. ÂM DƯƠNG TỌA HƯỚNG LUẬN
1. Chấn, Canh, Cấn, Bính, Tốn, Tân,
Đoài, Đinh, Tỵ, Sửu, Hợi, Mùi = toàn Âm Long
Chấn, Canh, Cấn, Bính, Tốn, Tân,
Đoài, Đinh, Tỵ, Sửu, Hợi, Mùi toàn là Âm long.
2. Càn, Khôn, Khảm, Ly, Thân, Tý,
Thìn, Dần, Ngọ, Tuất vì Dương Long dã.
Càn, Khảm, Ly, Thân, Tý, Thìn, Dần,
Ngọ, Tuất là Dương long vậy.
3. Âm Long tác âm hướng, thuần âm
bất phát
Âm long làm âm hướng, thời thuần âm
không phát.
4. Dương long tác dương hướng,
thuần dương bất sinh.
(Tài liệu mờ)
Dương long làm dương hướng thời
thuần dương không phát.
Như Hợi long (âm long) làm Bính (âm
hướng) thì lúc tọa huyệt phân Kim phải gia sang Ngọ (Dương) nửa phân, thừa lấy
vượng, tướng, khiến cho hướng không có âm.
Như Tý Long (Dương long) làm Ngọ
hướng (dương hướng) thì lúc tọa huyệt phân Kim phải gia sang Mùi nửa phân,
khiến cho hướng không cô dương.
Ngoài ra đều theo như vậy.
CHƯƠNG XVIII
TỔNG LUẬN
ĐẠI ĐỊA CẤP CHƯ HÌNH THỂ CÁCH
A. HƯỚNG DẪN PHẦN ĐẠI ĐỊA CẤP CHƯ
HÌNH THỂ CÁCH
Phần này nhấn mạnh về hình thể các
đất lớn trên hai khía cạnh Thể (loan đầu) và Dụng (lý khí).
B. TỔNG LUẬN
ĐẠI ĐỊA CẤP CHƯ HÌNH THỂ CÁCH
Tổng luận đại địa cấp chư hình thể
cách
Đại huyết mạch
Câu 1: Đệ nhất: Cấn Hợi long nhi dĩ
Long hoặc hành tọa tinh, hoặc khởi nghịch hoa tinh, hoặc lâu đài bảo
điện tinh.
Đệ nhất chỉ có Cấn, Hợi long mà
thôi. Long hành hoặc tọa tinh, hoặc khởi nghịch hoa tinh, hoặc lâu đài bảo điện
tinh.
Câu 2: Hoặc triều thiên mạo tinh
Hoặc đại vương sơn
Hoặc tiên phi vũ sơn
Hoặc triều thiên mạo tinh, hoặc đại
vương sơn, hoặc tiên phi vũ sơn
Câu 3: Hoặc cửu tinh, củng bắc cực
tinh sơn,
Hoặc lực sĩ phù giá sơn phát nhi
lai.
Hoặc trường giang, trường hồ, đại
khê, đại uyên dẫn mạch nhi lai
Hoặc cửu tinh củng bắc cực sơn,
hoặc lực sĩ phò giá sơn phát mạch mà lại, hoặc là trường giang, trường hồ, sông
lớn, đầm lớn dẫn mạch mà tới.
Câu 4: Thiên sơn tống mạch, phi
thủy diễu thành
Ngàn nước dẫn mạch, nước chảy quanh
thành
Câu 5: Tường kỳ chi phái
Hiểu tường về là phái của nó
Câu 6: Thập lý nội vi nội thế, thập
lý ngoại vi ngoại thế
Trong mười dặm là nội thế, ngoài
mười dặm là ngoại thế.
Câu 7: Kiến vi vạn thần khể cứu đầu
tảng, vạn sơn hồi đầu
Thấy có vạn thần lạy cục trân, vạn
sơn quay
Câu 8: Huyệt tọa hoa cái, huyệt tọa
ngự bình, đoan trang, tôn nghiêm, nội trướng mạch tàng, thân ngoại lực sĩ thị
lập.
Huyệt tọa hoa cái, huyệt tọa ngự
bình, đoan trang tôn nghiêm, trong có trướng mạc tàng chân, ngoài có lực sĩ
đứng hầu.
Câu 9: Thủy khẩu chấn bắc thần,
đường tiền dung vạn mã.
Thủy khẩu chấn bắc thần, trước minh
đường dung được vạn mã.
Câu 10: Hoặc bách chiết, thiên
chiết, hoặc cửu khúc đương triều ư minh đường, thử đại địa dã.
Hoặc trăm ngàn chỗ quanh khúc
chiết, hoặc chín khúc triều về minh đường, đấy là đại địa vậy.
Câu 11: Tường kỳ thành tiết long
lai, tiên tri thành bại.
Giả như huyệt tại liên diệp,
mạch bát tiết ngộ dậu cô hư, mão vi hữu trừng thanh uyên thủ, thủy tụ hậu, phát
ra nhi tuyệt.
Biết rõ đốt nổi lên của long mạch,
lại sẽ thấy rõ thành bại. Giả như huyệt ở liên diệp, mạch nổi tám đốt tiết qua
Dậu, cô hư. Mão có vực nước trong sạch tu đằng sau, có phát sinh mà cũng bị
tuyệt.
Câu 12: Hoặc long hổ tam phiến tà
phản, tất tam thế nghịch thần mưu phản nhi vong
Hoặc long hổ có ba chỗ tà phản, tất
nhiên bị ba đời nghịch thần, mưu phản mà suy vong.
Câu 13: Hoặc long ngoại đệ thập
phiến lưỡng đầu, kình tương đấu trí, thập đại huynh đệ tương sát nhi tiết.
Hoặc ngoại long đốt thứ mười có hai
đầu kình đầu nhau, thì tới đời thứ mười, anh em tàn sát lẫn nhau mà thất bại.
Câu 14: Hoặc chuyển Mão nhi phóng
Dậu, nhân dâm tà nhi thất vị.
Hoặc chuyển qua Mão mà phóng ra
Dậu, thì nhân dâm mà mất chức vị
Câu 15: Nhược bình dương chi địa,
dị tường, khứ sơn nhi sinh long hình, mạch thủy dĩ khu huyệt khởi phù kiệu liễm
chi hình; nhất chủ sơn tự khách sơn nghinh.
Như ở đất bình dương thì dễ thấy
rõ, cát đùn núi như hình sinh long, mạch dư dồn cao lên huyệt như hình phò
kiệu, một chủ sơn đến đón khách sơn.
Câu 16: Hữu thủy triều nhiễu tả sơn
loan bão, ngũ tiết mạch, ngũ phong yêu phát ngũ đại.
Nước bên hữu lượn quanh, nước bên
tả vòng ôm, mạch năm đốt tiết như năm sườn núi sẽ phát năm đời.
Câu 17: Nhược thủy phóng tả hữu tốc
huyệt
Nếu nước phóng ra tả hữu thì chóng
tuyệt.
Câu 18: Nhiên đại địa bất cầu, tiểu
địa xứ xứ hữu chi, tế nhận mạch sở chỉ, thủy chi sở giao...
Song đại địa thì không thể tìm
được, tiểu địa thì chỗ nào cũng có, tế nhận chỗ mạch ngưng, chỗ nước giao.
Câu 19: Mạch huyệt hợp kỳ ngũ hành
Sơn thủy hợp kỳ âm dương
Mạch huyệt hợp với ngũ hành, sơn
thủy hợp với âm dương
Câu 20: Âm long, dương thủy, dương
long âm thủy
Tọa chung khí sinh tú chiên triển nậu.
Phàm sơn địa kết huyệt, lưỡng biên
áp huyệt khai dịch thủy – Âm long dương thủy, Dương long âm thủy, tọa chung khí
sinh chiên thần như giải đệm.
Câu 21: Hữu lai tả sa giả khí, tả
lai hữu sa giả khí
Mạch bên hữu lại, ở bên tả có sa
che khí - Mạch bên tả lại, bên hữu có sa che khí.
Câu 22: Huyệt tọa vô phong xuy, vô
ngưỡng ngọa, tiền thủy tụ, hậu sơn hồi, nhất sa vệ huyệt, nhất thủy nghịch
triều, túc dĩ hảo, phú quý dã, hà tầng tầng huyệt mạch dư?
Huyệt tọa không bị gió thổi, không
như viên ngói nằm ngửa, phía trước thủy tụ, phía sau sơn hồi, một sa vệ huyệt,
một thủy nghịch triều, đủ để giữ giàu sang vậy, đâu cần phải tầng tầng huyệt
mạch dư.
Câu 23: Cố cứu bần giả, cầu Cấu
thủy lai, tế tự túc giả cầu sinh thủy lai
Chỉ nên muốn cứu bần, tìm Cấn thủy
lại; muốn cầu tự, cầu sinh thủy lại.
Câu 24: Văn bất trúng, cầu Tốn, Tân
bút
Vô bất đạt, cầu Chấn, Canh kỳ kiếm.
Văn không đỗ tìm bút ở Tốn Tân
Võ không đạt tìm cờ, kiếm ở Chấn,
Canh
Câu 25: Vệ thần ư Tỵ Bính, vũ tướng
anh hùng
Bút sáp nhĩ ư Cấn, Đinh văn
thần khôi việt.
Kiếm vệ thần ở Tỵ, Bính thì võ
tướng anh hùng
Bút cài tai ở Cấn, Đinh thì văn
thần khôi việt.
Câu 26: Bút sấm vân thiên hán
ngoại, trạng nguyên tự kỳ
Án tề diện mục thiên tân nội, thần công
khả đoạt
Bút chọc mây ngoài thiên hán thì
trạng nguyên tự hẹn
Án ngang diện mục trong thiên tân
thì thần công khả đoạt.
Câu 27: Tả lai nhi hữu hóa yểm tâm,
thử địa cận thiên kim
Hữu lai nhi tả hóa chính án, tích tiền
thiên vạn quán.
Từ tạ lại mà hữu hóa che tâm, đất
có đáng ngàn vàng
Từ hữu lại mà tả hóa chính án, chứa
tiền vàng vạn quan. Cho nên mới nói: “duỗi tay sờ thấy án, tiền tài ngàn vạn
quan”
Câu 28: Đại để khí chất ngưng vi
địa, như Kim dĩ ứng thủy, thùy lưu ư bình địa mỗ khích đê
Như thủy chánh dòng lưu vi nhi tụ,
diệc như địa khí ngộ thủy chi nhi tụ, cố nộn sinh nhi thủy tụ vi huyệt
Đại để khí chất ngưng vị địa, như
Kim dĩ ứng thủy, thùy lưu ư bình địa mỗ khích đê.
Như thủy chánh dòng lưu vi nhi tụ,
diệc như địa khí ngộ thủy chi nhi tụ, cố nộn sinh nhi thủy tụ vi huyệt.
Đại để khí chất đọng lại làm đất
như Kim ngăn nước cho chảy xuống đất bằng, chỗ nào hở, hơi thấp một chút là
nước sẽ chảy sô vào mà tụ lại – Cũng như địa khí gặp nước ngưng mà tụ vậy.
Câu 29: Sơn cốc tác oa, tà, thủy
như giả vi mang
Sơn cốc thời chỗ oa tà, thủy như là
chỗ hơi gợn sóng.
Ảnh triều giả niêm thân sa huyệt,
nội thùy viên vựng, tọa bất khuynh, trác bất lộ phong, bất lâm đầu, bất cát
cước.
Ảnh triều là chỗ rủ vựng tròn thân
trong sa huyệt, tọa huyệt không có nghiêng nghé, không bị gió, không lấm đầu
(nước thấm ở đầu) không cát cước (cắt cụt ở chân).
Câu 30: Bình dương tác tựu đột
lĩnh, hoặc phương bình nhất thốn vi cao, khai khẩu minh dịch huyệt nội, trọng
thất bất bạc, yếu sử an bình ư nội thử, hợp địa lý chi ứng, cái niêm mộc táng ư
địa, do khô chủng ư thổ, thổ nhuận, mộc sinh.
Bình dương thời tới chỗ đột lĩnh
hoặc chỗ vuông phẳng, hơi cao lên một tấc, khai khẩu minh dịch trong huyệt,
vững chắc không mỏng manh, cần khiến cho bình an ở bên trong, đấy là hợp với sự
ứng nghiệm của địa lý vậy. Bởi chưng hài cốt hài cốt táng ở đất như là cây khô
trồng ở đất thấm nhuần cây mọc lên.
Câu 31: Địa chưng cốt tiếp mộc căn
ư thổ, kỳ đới thâm, trọng, tự nhiên, chi diệp mậu thịnh, phụ mẫu chi hình hài,
tử tôn chi hình cốt.
Đất kết thì hài cốt tiếp phúc, gốc
cây ở đất, rễ nó bén sâu, tự nhiên cành lá xanh tốt. Hình hài của cha mẹ ảnh
hưởng đến hình cốt con cháu.
Câu 32: Phụ mẫu cốt tiếp ư địa, kỳ
khí tụ âm tự nhiên, tử tôn hưng thịnh, cố sơn thủy chi ứng như hạ, nhược thị
đoạt thần công, cải thiên mệnh, năng linh bần cải phú tiện cải quý phi tha
thuật khả ti dã.
Hài cốt của cha mẹ táng ở chỗ đất
có khí âm kết, tự nhiên con cháu thịnh vượng. Bởi vậy nên sự ứng nghiệm về sơn
thủy làm thế nào mà đoạt được thần công, đổi được thiên mệnh, có thể khiến cho
nghèo trở nên giàu, hèn đổi nên sang, không phải thuật khác có thể so sánh
được.
Câu 33: Tướng địa diệc tự tướng
nhân, nhất ngữ cai vạn ngữ, nhất ngung phản tam ngung, túc dĩ minh sư hỹ.
Xem đất cũng như xem người, một lời
nói có thể khái quát được muôn lời, một góc có thể phản chứng được ba góc, thế
mới đủ làm minh sư vậy.
TẢ ĐƠN ĐỀ CÁCH
Đệ thập bát (18)
HỮU THẬP BÁT CÁCH
Chú vân: Sơn lai uyển chuyển, cục
thế tả đơn, tứ vi hỏa diệu, nội ngoại kim loan, chư tinh chiếu nội, sơn thủy
hồi hoàn, đương tri thử cách, phát phúc vĩnh miên, nhược năng đắc địa, văn
trúng Khôi nguyên.
CÁCH THỨ 18
Lời chú: Long đi uyển chuyển, cục
đất này gọi là tả đơn đề. Bốn phía đều có diệu tinh hình hỏa. Trong ngoài đều
có kim tinh uốn cong, mọi tinh phong đều chiếu vào trong huyệt. Sơn, thủy bồi
hoàn. Nếu biết được cách này mà táng thì phát phúc đời đời văn trúng Khôi
nguyên.
CHƯƠNG XIX
LÂM ĐIỀN THÙY ẢNH
A. HƯỚNG DẪN PHẦN LÂM ĐIỀN THÙY ẢNH
Chương 17 cũng nói về tổng hợp như
từ chương 12 đến đây nhưng nhấn mạnh một chút về cách xem các bóng mờ trên đất.
B. LÂM ĐIỀN THÙY ẢNH
Câu 1: Phàm mạch lâm điền thùy ảnh
như thủy chi ba.
Phàm mạch lâm điền thùy ảnh như gợn
sóng trên mặt nước.
Câu 2: Thượng điền thùy ảnh như ba
chi thùy đầu
Chỗ ruộng rủ bóng như là chỗ làn
sóng chũi đầu
Câu 3: Ba đầu khiến thổ long khí tụ
huyệt, kiến phong Kim long đắc kết huyệt thượng, kiến thủy khí mộc tinh thụ
huyệt gia dung kết chi địa.
Đầu sóng đi vượt khí thổ long mà
tới huyệt trước. Thấy Kim long được kết ở trên huyệt. Thấy thủy khí mộc tinh
tiếp nhận ở trên huyệt. Đấy đều là dung kết.
Câu 4: Nhược kiến hỏa nhập Kim
hương vi ngụy khí, bất tuyệt tha phóng thử.
Nếu thấy hỏa vào Kim hương là ngụy
khí, không tốt các chỗ khác đều phỏng theo đây mà luận.
Câu 5: Thế hữu vạn đoan, vạn hình,
bất quá tứ thế nhi dĩ: Oa, Kiềm, Nhũ, Đột thị dã.
Thế có vạn đoan vạn hình nhưng
chẳng qua cũng chỉ có 4 thế thôi, tức là Oa, Kiềm, Nhũ và Đột vậy.
Câu 6: Sở quý giả, tả hữu loan bão,
tiền thủy tụ, hậu sơn cao, án ấn phân minh, thành quách quan tỏa, cao bất phong
xuy, đê bất thoát mạch, quan mạch tương tiếp, thừa kỳ vượng tướng. Tỵ kỳ cô hư,
xả kỳ không vong, tức dĩ cái địa lý chi nghĩa dã.
Đất đáng quý là tả hữu vòng ôm lại,
thủy đằng trước tụ, sơn đằng sau cao, án và ấn phân minh, thành quách kín đáo,
cao mà không bị gió thổi, thấp mà không thoát mạch, quan tài và mạch tiếp giáp
với nhau, đón lấy vượng tướng, tránh cô, hư, bỏ không vong. Đủ để bao quát về ý
nghĩa địa lý vậy.
HỮU ĐƠN ĐỀ CÁCH
Đệ thập cửu (19)
HỮU ĐỆ THẬP CỬU CÁCH
Chú vân: Sơn lai uyển chuyển, cục
thế Hữu đơn, tứ vi tiêm diệu nội ngoại kim loan, chúng tinh chiếu huyệt, hữu
bạn hồi hoàn, hựu như thượng cách, phát phúc vĩnh miên, nhược năng đắc địa, vũ
khổn binh quyền.
Hựu văn: Sơn lai sinh cục, hữu bạn
hồi hoàn, tả kiên tác chứng, cổ viết đơn đề, thử vị hữu Tiên cung huyệt cách
dã.
CÁCH THỨ 19
Lời chú: Sơn lại uyển chuyển, cục
thế được gọi là Hữu Đơn, bốn phía đều là diệu tinh hình hỏa, trong ngoài Kim
tinh đóng hình vòng cong, chúng tinh đều chiếu vào huyệt, bên hữu vòng ôm. Được
như thượng cách sẽ phát phúc đời đời: Để được đất này sẽ phát võ khiến binh
quyền.
Lại nói: Sơn lại sinh cục, bên hữu
ôm vòng, vai tả làm chứng nên gọi là Đơn Đề Cách hay Hữu Tiên Cung Huyệt Cách.
HỮU ĐƠN ĐỀ CÁCH
Đệ thập cửu (19)
CHƯƠNG XX
TƯƠNG SINH TƯƠNG SÁT
A. HƯỚNG DẪN PHẦN TƯƠNG SINH TƯƠNG
SÁT
Vài nét đặc biệt về sinh sát của
đất kết
B. TƯƠNG SINH TƯƠNG SÁT
Câu 1: Phàm Canh, Dậu, Tân khởi tổ,
chuyển Bính, Ngọ, Đinh nhập huyệt, tuyệt mệnh, hỏa Kim hỏa bại. Cát huyệt tú,
đới cô hư, huyệt vô khí giả, tiền phát hậu sát giã
Phàm Canh, Dậu, Tân khởi tổ chuyển
ra Bính, Ngọ, Đinh mà vào huyệt thì tuyệt mệnh. Hỏa với Kim thì hỏa sẽ làm bại
mất. Cát huyệt tốt mà đới cô, hư, thì huyệt không có khí, trước phát nhưng sau
bị sát vậy.
Câu 2: Canh chuyển Hợi, Mão, hướng
Canh, thử địa quan chí tam công
Canh chuyển Hợi, Mão, hướng Canh -
Đất này quan đến tam công.
Câu 3: Hợi long chuyển Cấn, nhập
huyệt, phú quý vĩnh bất tuyệt.
Hợi long chuyển sang Cấn rồi vào
huyệt, thì giàu sang lâu bền mãi không tuyệt.
Câu 4: Cấn chuyển Bính nhập huyệt,
văn vũ đa hào kiệt phú quý xuất văn chương
Cấn chuyển sang Bính đi vào huyệt,
thời phát văn võ, nhiều bậc hào kiệt, giàu sang và phát xuất cả văn chương.
Câu 5: Bính, Ngọ chuyển Cấn nhập
huyệt phú quý hữu thanh danh.
Bính, Ngọ chuyển qua Cấn vào huyệt,
giàu sang có tiếng tăm.
Câu 6: Hợi chuyển Dậu, Canh, Tân
nhập huyệt, văn vũ phát bất tuyệt
Từ Hợi chuyển qua Dậu, Canh, Tân mà
vào huyệt, phát văn, phát võ bất tuyệt.
Câu 7: Khôn, Thân chuyển Tý, Quý
nhập huyệt, hướng Khôn, Thân, thử địa sĩ bạt quần
Từ Khôn, Thân chuyển sang Tý, Quý
vào huyệt hướng về Khôn, Thân đất này nhân sĩ siêu quần.
Câu 8: Càn sơn Càn hướng thủy lưu
Càn, thử địa xuất quan liêu
Càn sơn, Càn hướng, nước chảy ra ở
Càn, đất này phát xuất quan liêu
Câu 9: Ngọ sơn, Ngọ hướng, Ngọ thủy
lai, phú quý tốc như lôi
Ngọ sơn, Ngọ hướng, Ngọ thủy chảy
lại, giàu sang mau như sấm.
Câu 10: Cấn chuyển Canh, nhập huyệt
hướng Cấn, văn võ tinh hành, tài bất tận.
Từ Cấn chuyển sang Canh vào huyệt
hướng về Cấn phát cả văn lẫn võ, tiền của không dùng hết.
Câu 11: Thủy diễu hậu hướng tiền,
phát phúc vĩnh miên miên
Nước quanh phía sau, hướng về phía
trước, phát phúc dài liên miên.
Câu 12: Thủy nhập hoài triền huyền
vũ, phú quý phát, giai tụ sơn thủy huyệt.
Tiền nghinh vi cao trật cao thiên, sơn vô
triền hậu, vi quan bị nhân đấu (bị cạnh tranh)
Nước vào lòng, quanh về huyền vũ,
đều phát cả phú, quý. Tụ sơn thủy đón ở trước huyệt, làm quan được thăng cao
trật.
Không có sơn quanh ở đằng sau, làm
quan bị người ta đả kích.
Câu 13: Thanh long uyển chuyển bút
sinh liên.
Thử thị thần đồng trạc thiếu niên
Long đi uyển chuyển bút kề bên
cạnh.
Phát thần đồng tuổi thiếu niên
Câu 14: Hổ lập tôn cư trác Kim,
khởi thử địa, thượng thư, tha vô tỉ
Hổ đứng lom khom. Kim vút, chỉ đất
phát thượng thu ai dám ví.
Câu 15: Hậu đầu thử vĩ vi quỷ, thất
bộ thành thi, nhân tranh thị
Phía hậu đầu có đuôi chuột làm quỷ,
bảy bước thành thơ, người lác mắt.
Câu 16: Tiền như lư tiên, quan nhất
cử đăng khoa
Phía trước mặt có lư tiên, quan,
một bước đăng khoa.
Câu 17: Thế sở nan, tiểu thủy phát
thâm tương ngộ, thế hãn hữu chi phú quý, chỉ nhật khả kỳ, nhân nạn cập hỹ
Đời rất khó, nước nhỏ cùng gặp phát
ở sâu, ở đời hiếm có giàu sang, có thể hẹn ngày, người ta khó kịp vậy.
PHÚ THƯƠNG TỌA THỊ
LIỆT TỨ CÁCH
Đệ nhị thập (20)
HỮU NHỊ THẬP CÁCH
Tổ khởi nhi lai trú hữu cung
Hựu hoành đoạn tiết chí biên đông
Nhập yêu tác huyệt oa vi quý
Vạn khoảnh điền trang, gia phú ông
CÁCH THỨ 20
Khởi Tố mạch lai chú hữu cung,
Quay ngang một tiết tới bên đông,
Mạch vào lưng huyệt khai oa quý,
Vạn mẫu điền viên đích phú ông.
PHỤ LỤC 1
Giải thích câu thứ 62 của chương 12
nói về “Long Thượng Bát Sát”.
Câu 62 chương 12 sách nói về Long
Thượng Bát Sát quá đơn giản nên phải giải thích thêm:
Có 8 sát của long và thủy mà nhà
địa lý phải biết để tránh tai họa cho thân chủ. Nếu gặp Bát sát này mà không
biết tránh sẽ tạo nên hung họa và bại tuyệt cho con cháu gia đình để đất.
Câu 62 nói về Long Thượng Bát Sát
cần phải giải thích cho rõ thêm và mạch lạc hơn là nguyên văn sách có của nhà
cụ Tả Ao để quý vị nghiên cứu đỡ mất thời giờ tìm hiểu. Tài liệu này chúng tôi
lấy ở một bộ sách địa lý đặc biệt của dòng họ Dương Quán Tùng. Họ Dương là dòng
họ chính tông địa lý nổi danh nhất Trung Hoa và nổi danh lâu đời nhất. Không
phải cụ Tả Ao không biết Long Thượng Bát Sát, nhưng đây là tài liệu cụ học ở
bên tàu mang về, con cháu cứ theo như thế ghi lại, mà sách Tàu cổ xưa thường
trình bày kém mạch lạc. Do đó nên chúng ta là con cháu của cụ Tả Ao phải bổ
túc.
Long Thượng Bát Sát là 8 loại long
sát ở trên long
1. Thứ nhất là: Khảm Long
- Nếu là Khảm Long thì hướng Thìn
rất xấu.
2. Thứ hai là: Khôn Thỏ.
- Nếu là Khôn long thì hướng Mão
rất xấu.
3. Thứ ba là: Chấn Sơn Hầu
- Nếu là Chấn long thì hướng Thân
rất xấu.
4. Thứ tư là: Tốn Kê.
- Nếu là Tốn long thì hướng Dậu rất
xấu.
5. Thứ năm là: Kiền Mã
- Nếu là Càn Long thì hướng Ngọ rất
xấu.
6. Thứ sáu là: Đoài Sà Đầu
- Nếu là Đoài long thì hướng Tỵ rất
xấu
7. Thứ bảy là: Cấn Hổ
- Nếu là Cấn Long thì hướng Dần rất
xấu.
8. Thứ tám là: Ly Trư
- Nếu là Ly long thì hướng Hợi rất
xấu.
Đễ dễ nhớ người ta đọc thuộc lòng
như sau:
1. Khảm Long Khôn Thỏ, Chấn Sơn Hầu
2. Tốn Kê, Kiền Mã, Đoài Xà Đầu
3. Cấn Hổ, Ly Chư vi sát diệu
4. Mộ trạch phùng chi nhất tề hưu
Ý nghĩa của 4 câu thơ như sau:
Câu thứ nhất:
Khảm Long, Khôn Thỏ, Chấn Sơn Hầu.
a. Có nghĩa là quẻ Khảm (gồm 3 chữ
Nhâm Tý Quý) cấm kỵ Long (tức là cấm kỵ Thìn). Do đó cấm tọa Thìn cấm hướng
Thìn, cấm thủy từ Thìn lại và cấm có sơn ứng tự Thìn.
b. Tiếp theo là quẻ Khôn (gồm ba
chữ Mùi, Khôn, Thân) cấm kỵ Mão (thỏ), do đó cấm tọa Mão, cấm hướng Mão, cấm
thủy từ Mão lại và cấm sơn ứng ở Mão.
NGOẠI CẦM NỘI THÚ
ĐẠI TIỂU NOA TINH CÁCH
Thập thất cách (17)
HỮU THẬP THẤT CÁCH
Tổ sơn đại khởi nhập Long kiên
Thủy nhiễu loan hồi hậu đáo tiền
Tả hữu loan hoàn lai hướng phục
Tế vi nhất tiết nhập yêu thiên.
CÁCH THỨ 17
Tổ sơn cao khởi, chuyển vai Long,
Tu hậu lai tiên, thủy uốn cong
Long, Hổ, sa loan, triều, củng, phục.
Tinh vi nhất mạch nhập yêu cong.
c. Tiếp theo là quẻ Chấn (gồm 3 chữ
Giáp Mão, Ất, mạch từ quẻ chấn đến thì kỵ Hầu (hầu là Thân). Do đó cấm tọa
Thân, cấm hướng Thân, cấm thủy từ Thân lại và cấm sơn ứng ở Thân.
2. Câu thứ hai:
Tốn Kê, Kiền Mã Đoài Xà Đầu
a. Có nghĩa là quẻ Tốn (gồm 3 chữ
Thìn Tốn Tỵ), long mạch từ quẻ Tốn đến thì kỵ Kê (kê là dậu). Do đó cấm tọa
Dậu, hướng Dậu, cấm thủy từ Dậu lại và cấm có sơn ứng tại Dậu.
b. Tiếp theo là Kiền Mã là quẻ Kiền
(gồm 3 chữ Tuất Kiền Hợi), nếu long mạch từ Kiến đến thì kỵ Mã (Ngọ). Do đó cấm
tọa Ngọ, hướng Ngọ, cấm thủy từ Ngọ lại, và cấm sơn ứng ở Ngọ.
c. Tiếp theo là quẻ Đoài (gồm 3 chữ
Canh, Dậu, Tân). Nếu long mạch tự Đoài đến thì kỵ Xà (xà tức là Tỵ). Do đó cấm
tọa Tỵ hướng Tỵ, thủy tự Tỵ lai và cấm sơn ứng ở Tỵ.
3. Câu thứ ba:
Cấn Hổ, Ly Trư vi sát diệu
Có nghĩa là:
a. Quẻ Cấn (gồm 3 chữ Sửu Cấn Dần).
Nếu long mạch từ Cấn lại (hay từ Sửu Cấn Dần lại) thì kỵ Hổ (Dần) do đó cấm tọa
Dần, hướng Dần, cấm thủy từ Dần lại và cấm sơn ứng ở Dần.
b. Quẻ Ly (gồm 3 chữ Bính Ngọ
Đinh). Nếu long mạch từ quẻ Ly hay hướng Ly lại thì kỵ Trư (trư tức là Hợi). Do
đó cấm tọa Hợi, hướng Hợi, cấm thủy từ Hợi lại và cấm sơn ứng tại Hợi.
Tám cách trên là sát diệu ta gọi là
Bát Sát.
4. Câu thứ tư:
Mộ trạch phùng chi nhất tề hưu
Có nghĩa là âm phần và dương trạch
nếu gặp phải tám loại sát như trên thì mọi sự đều hư hỏng, tai hại nguy hiểm
cho cả tính mệnh con người, phải nên cẩn thận đề phòng, tránh những điều cấm kỵ
như trên.
Nếu những điều cấm kỵ trên mà còn
có mũi nhọn (nha đao) đâm vào tim huyệt thì chắc chắn tai họa không thể tránh
được. Cho nên khi điểm huyệt phải công phu làm sao tránh né được bát sát. Cụ Tả
Ao có khuyên ta thu cái tốt, tránh cái xấu như sau:
Mình sinh ám tử vô di
Coi đi coi lại quản chi nhọc nhằn
Quả nhiên huyệt chính long chân
Tiêu sa nạp thủy chớ lầm một ly
Táng thôi phúc lý tuy chi
Trâm anh bất tuyệt thu thi gia
truyền
THẠCH THẠCH CAO PHI
TIÊU MÔN GIÁ QUÝ
Nhị thập nhất cách (21)
HỮU NHỊ THẬP NHẤT CÁCH
Chú vân: Sơn lai sổ lý, chi cán
phân hành, đại hình đại thế, nội minh ngoại minh, long lai hổ bão, vạn thủy
truùg thanh, tiêu môn giá quý, địa chấn khoa danh, đa sinh cự phú, thế xuất anh
hùng, thử giai quy cách dã, dĩ thượng nhị thập nhất đồ, giai vi quý cách dã,
đích vi chân huyệt. Hoặc tác âm phần, hoặc tác dương trạch, giai đoạn phú qu,
chi cách dã, thử vị minh sinh lai chi, pháp dã.
CÁCH THỨ 21
Lời chú: Sơn mạch chạy từ nhiều dặm
lại, chi can phân chia mà đi, hình lớn thế lớn; trong rõ ngoài rõ. Long vòng Hổ
bão, vạn ngọn nước lắng trong, là cách. TIÊU MÔN GIÁ QUÝ, đất phát khoa danh
chấn động thiên hạ, thường sinh cự phú, đời đời phát xuất anh hùng, thật là quý
cách vậy.
Trong cách này: đúng là chân huyệt,
nếu táng mộ hoặc làm nhà đều được đại phú, đại quý.
THẠCH THẠCH CAO PHI
TIÊU MÔN GIÁ QUÝ
Nhị thập nhất cách (21)
PHỤ LỤC 2
Giải thích câu 63 của chương 12 về
Bát Đại Hoàng Tuyền.
Câu 63 chương 12 nói về Bát Đại
Hoàng Tuyền quá cô đọng nay xin giải thích thêm.
Có 8 loại hoàng tuyền hướng và thủy
(nước lại nước đi) sát mà làm địa lý cần phải biết để tránh hung họa cho giả
chu. Phép đó thu vào 4 câu thơ như sau:
Khứ lai thủy lộ bát đại hoàng
tuyền.
1. Đinh, Canh, Khôn thường thị
hoàng tuyền.
2. Ất, Bính tu phòng Tốn thủy tiên.
3. Giáp, Quý hướng lai hưu Kiến,
Cấn.
4. Tân, Nhâm thủy lộ phạ dương
Kiền.
Giải nghĩa: Nước lại, nước đi tám
lại hoàng tuyền sát (tục gọi là Sát nhân Đại Hoàng Tuyền).
Câu thứ nhất:
Đinh, Canh, Khôn thượng thị Hoàng
Tuyền.
Có nghĩa là: ở Mộc cuộc long bị
hoàng tuyền hướng và thủy sát, nếu ta:
- Thu Canh (Thai) thủy
- Thu Đinh (Mộ) thủy lên minh đường.
- Hoặc lập Khôn (Tuyệt) thủy lên
minh đường
- Hoặc lập Đinh (Mộ) hướng Canh
(Thai) hươớg.
Là bị Hoàng Tuyền hướng hoặc thủy
sát.
(Tài liệu photo mờ)
- Hoặc lập Tốn (tuyệt) hướng, thu
Tốn (tuyệt) thủy lên minh đường.
- Hoặc lập Ất (mộ) hướng, Bính (thai)
hướng là bị hướng hoặc thủy sát.
Câu thứ ba:
Giáp, Quý hướng trung hưu Kiến,
Cấn.
Có nghĩa là ở Kim cuộc long bị
hoàng tuyền hướng và thủy sát nếu ta:
- Thu Giáp (thai) thủy, Quý (mộ)
thủy lên minh đường.
- Hoặc lập Cấn (tuyệt) hướng, thu
Cấn (tuyệt) thủy lên minh đường.
- Hoặc lập Giáp (thai) hướng, Quý
(mộ) hướng là bị hướng hoặc thủy sát.
Câu thứ tư:
Tân, Nhâm thủy lộ phạ dương Kiền.
Có nghĩa là ở hỏa cuộc long bị
hoàng tuyền hướng và thủy sát nếu ta:
- Thu tân (Mộ), Nhâm (thai) hướng
lên minh đường.
- Lập Càn (tuyệt) hướng, thu Càn
(tuyệt) thủy lên minh đường.
- Lập Tân (mộ) hướng Nhâm (thai)
hướng lên minh đường là bị hướng hoặc thủy sát.
Thu thủy như trên là bị hoàng tuyền
sát. Hoàng tuyền thủy nên phóng cho chảy đi, không nên cho nhập cuộc lên minh
đường. Lại lập những hướng trên vừa kể là hoàng truyền thủy và hướng sát. Tức
là thu Hướng và Thủy giết người, phải nên hết sức kiêng kỵ.
Làm địa lý không nắm vững Long
Thượng Bát sát và Bát Đại Hoàng Tuyền thì tạo hóa cho người để đất. Vậy phải
hết sức kiêng kỵ.
Bởi quan trọng nên Cao Trung xin
trình bày kỹ lưỡng phụ lục này lên quý vị độc giả.
PHỤ LỤC 3
THỦY PHÁP
Hướng dẫn: Thủy pháp trong khoa Địa
lý là phần quan trọng nhất. Nó là phần bí truyền của khoa Địa lý. Có nhiều vị
học Địa lý 30, 40 năm mà vẫn không nắm được Thủy pháp. Làm địa lý mà không biết
thủy pháp thì không thể biết được đâu là chân huyệt, đâu là giả huyệt do đó 10
ngôi có thể lầm đến 9 ngôi.
Nội cuộc của một cuộc đất đầy đủ
rồi mà Thủy pháp trúng thì 10 ngôi trúng cả 10.
Phần Thủy pháp này nếu muốn nắm
vững thì phải biết phân biệt tổng quát như sau:
1. Tất cả có 4 cuộc long là: Kim
cuộc, Mộc cuộc, Thủy cuộc và Hỏa cuộc long.
2. Mỗi cuộc long có 6 huyệt là:
- Chính sinh hướng
- Chính vượng hướng
- Tự sinh hướng
- Mộ hướng
- Dương hướng
3. Mỗi cuộc long đều có nước từ đâu
đến Minh đường và từ minh đường chảy đi là thủy khẩu.
4. Nước có thể chảy xuôi, hay chảy
ngược chiều kim đồng hồ, chảy xuôi là thuận, chảy ngược chiều kim đồng hồ gọi
là chảy nghịch.
5. Các chính sinh của các cuộc long
đều giống nhau duy chỉ có hướng và thủy khẩu khác nhau.
Các chính vượng, tự sinh, tự vượng
và mộ, dưỡng cũng vậy.
CUỘC ĐẤT
HỎA CUỘC LONG – CHÍNH SINH HƯỚNG
(Dần, Ngọ, Tuất tam hợp Thành hỏa
cuộc long)
Thủy Tiêu Tân Tuất – Chính Mộ Khố
Lưu ý: Nếu dùng cuộc đất này thì
Tay Hổ dài và Tay Long ngắn.
HỎA CUỘC LONG – CHÍNH SINH HƯỚNG
Huyệt thứ 1 và của 6 huyệt thuộc
Hỏa cuộc Long.
Vượng khứ nghinh sinh, chính sinh
hướng.
Cục thế: Tả toàn long thụ hữu toàn
thủy.
Lập tọa Khôn hướng Cấn kiêm Dần ba
phân. Trước phải thu bính Ngọ đế vượng thủy, tự sau vai bên hữu vào minh đường,
thu Tốn Tỵ lâm quan thủy, thứ nữa thu Ất, Thìn quan đới thủy vào minh đường,
rối đến Giáp Mão quý nhân thủy, rồi thu Cấn Dần (cung này là hướng thượng bản
vị) tràng sinh thủy đem lại minh đường, vòng sang bên tả tiêu ra chữ tân là mộ
khố.
Đây là phép táng chính sinh hướng,
nếu được hướng này, thì nhân đinh rất vượng, phú quý song toàn, bền lâu mãi
mãi.
CUỘC ĐẤT
HỎA CUỘC LONG – CHÍNH VƯỢNG HƯỚNG
(Dần, Ngọ, Tuất – Tam hợp thành hỏa
cuộc long)
Thủy Tiêu Tân Tuất – Chính Mộ Khố
Lưu ý: Nếu dùng cuộc đất này thì
Tay long phải dài và Tay Hổ phải ngắn.
CHÍNH VƯỢNG HƯỚNG
Hỏa Cuộc Long Chính Vượng Hướng này
là huyệt thứ II của 6 huyệt thuộc Hỏa Cuộc Long.
Sinh lai hội vượng, chính vượng
hướng.
Cục thế: Hữu toàn long, thu tả toàn
thủy.
Lập tọa Nhâm hướng Bính kiêm ngọ ba
phân, nghinh lộc.
Lập tọa Tý hướng Ngọ kiêm bính ba
phân, tá lộc.
Trước phải thu nước bên tả, Cấn
Dần, tràng sinh thủy, Giáp Mão quý nhân thủy, Ất Thìn quan đới thủy, Tốn Tỵ lâm
quan thủy, vào minh đường rồi thu Bính Ngọ (cung này là hướng thượng bản vị)
thủy vào minh đường rồi vát thủy tiêu ra Tân, khố chảy đi. Phép tàng chính
vượng hướng nếu được hướng này lại được long chân huyệt đích, thì phát tài,
người thịnh, của nhiều, phát đạt bền lâu.
CUỘC ĐẤT
HỎA CUỘC LONG - TỰ SINH HƯỚNG
(Dần, Ngọ, Tuất, tam hợp thành hỏa
cuộc long)
Thủy Tiêu Tân Tuất Chính Mộ Khố
Lưu ý: Nếu đúng cuộc đất này thì
Tay Hổ hơi dài và Tay Long hơi ngắn.
HỎA CUỘC LONG - TỰ SINH HƯỚNG
Huyệt thứ III thuộc 6 huyệt của Hỏa
cuộc Long.
Đây là phép biến cục, tá khố tiêu
thủy, tự sinh hướng.
Cục thế: Tả toàn long, thu hữu toàn
thủy.
Lập tọa Tý, hướng Hợi, kiêm Kiền ba
phân.
Lập tọa Tốn, hướng Kiền, kiêm Hợi
ba phân.
Nước từ bên hữu đổ sang bên tả. Lấy
cung Kiền, cung Hợi ngay vị trí chữ tuyệt khởi tràng sinh, nghĩa là tự mình
hướng thượng khởi tràng sinh cho mình, đây gọi là tuyệt sứ phùng sinh (ngay
cung tuyệt gặp tràng sinh0.
Trước phải thu Giáp Mão là đế vượng
thủy, Cấn Dần là lâm quan thủy, Quý Sửu là quan đới thủy, Nhâm Tý là quý nhân
thủy, rồi thu Kiền Hợi là tràng sinh thủy (cung này là hướng thượng bản vị) vào
minh đường. Phép này gọi là khố tiêu nạp (mượn khố tiêu thủy khẩu). Táng được
hướng này phát rất mau và phát nhân đinh nhiều phú quý rất lớn.
CUỘC ĐẤT
HỎA CUỘC LONG - TỰ VƯỢNG HƯỚNG
(Dần, Ngọ, Tuất Tam hợp Hỏa cuộc
long)
Thủy Tiêu Tân Tuất Chính Mộ Khố
Lưu ý: Nếu đúng cuộc đất này thì
Tay Long hơi dài và Tay Hổ hơi ngắn.
HỎA CUỘC LONG - TỰ VƯỢNG HƯỚNG
Huyệt thứ IV của 6 huyệt thuộc Hỏa
cuộc long.
Đây là phép biến cục, tá khố tiêu
thủy, tự vượng hướng.
Cục thế: hữu toàn long, thu tả toàn
thủy.
Lập tọa Giáp, hướng Canh kiêm Dậu
ba phân, nghinh lộc.
Lập tọa Mão, hướng Dậu, kiêm canh
ba phân, tá lộc.
Nước từ bên tả đổ sang bên hữu, lấy
cung Canh Dậu ngay vào vị trí chữ tử hóa thành chữ vượng, đây là tự mình khởi
lấy vượng hướng thượng.
Nếu vượng ở cung Dậu, thì tràng
sinh phải ở cung Tỵ (Tốn Tỵ) đây thu Tốn Tỵ là tràng sinh thủy, Bính Ngọ là quý
nhân thủy. Đinh Mùi là quan đới thủy, Khôn Thân là lâm quan thủy, rồi đến Canh Dậu
là đế vượng vượng thủy (cung này là hướng thượng bản vị) vào minh đường, rồi
tiêu ra chữ Tân là mộ khố, cứ tính như phép tá cục tiêu thủy này, thì vượng tá
cục Tân Tuất là suy, vậy nên gọi là tá suy phương xuất thủy (mượn phương suy
cho nước tiêu ra).
Táng được hướng này phát phú rất
mau, mà đinh tài quý gồm cả, tức là lối biến cục hóa tử vi vượng (hóa chữ tử
làm chữ vượng).
Như trên bốn huyệt trong hỏa cục
long, phải tiêu thủy ra chính mộ khố mới được lập hướng. Bốn hướng là: chính
sinh, chính vượng, tự sinh, tự vượng. Công thức này là tam hợp Dần, Ngọ, Tuất,
tức như Cấn, Bính, Tân lấy âm dương phối hợp thành cục.
Đây tuy nhiên nói là biến cục, tá
khố tiêu thủy nhưng phải tiêu nạp (thu thủy và tiêu thủy) đúng với công thức
của nó mới được lập hướng, ngoại trừ không được những hướng khác với bốn công
thức trên, nếu thấy thủy đã tiêu ra tân khố.
CUỘC ĐẤT
CUỘC LONG – CHÍNH MỘ HƯỚNG
(Dần, Ngọ, Tuất, Tam hợp, Hỏa Cuộc
Long)
Thủy Tiêu Tân Tuất Chính Mộ Khố
Lưu ý: nếu dùng cuộc đất này thì
Tay Long hơi dài và Tay Hổ hơi ngắn.
HỎA CUỘC LONG – CHÍNH MỘ HƯỚNG
Huyệt thứ V của 6 huyệt thuộc Hỏa
cuộc long.
Cách: Lộc tồn lưu tận bội kim ngư.
Chính mộ hướng.
Cục thế: Tả toàn long thu hữu toàn
thủy.
Lập tọa Ất hướng Tân, kiêm Tuất ba
phân nghinh lộc.
Lập tọa Thìn hướng Tuất kiêm Tân ba
phân tá lộc.
Nước bên tả đổ sang bên hữu, trước
phải thu nước cung Tốn cung Tỵ là lâm quan thủy, thứ đến thu nước cung Bính,
cung Ngọ là đế vượng thủy, vào minh đường rồi thu nước bên tả là cung Cấn cung
Dần tràng sinh thủy vào giao hợp trước minh đường, rồi vát ra ngôi chữ tuyệt là
Kiền Hợi, cho thủy khẩu tiêu đi.
Bởi ngôi chữ tuyệt là vị trí sao
lộc tồn, nước ở cung này chỉ nên tiêu đi không nên triều lại, nên dùng làm thủy
khẩu rất tốt.
Lập hướng này: thu cả nước ở ngôi
đế vượng đến mình đường, phép táng này đúng với câu: Tân nhập kiền cung bát vạn
trạng (hướng tân thủy tiêu kiền có hàng trăm vạn điền trang).
Táng được hướng này thì con trai
con gái phát đồng đều, giàu sang thịnh đạt.
CUỘC ĐẤT
HỎA CUỘC LONG CHÍNH DƯỠNG HƯỚNG
(Dần, Ngọ, Tuất tam hợp thành hỏa
cuộc long)
Thủy Tiêu Tân Tuất Chính Mộ Khố
Lưu ý: Nếu đúng cuộc đất này thì
Tay Hổ hơi dài và Tay Long hơi ngắn.
HỎA CUỘC LONG – CHÍNH DƯỠNG HƯỚNG
Huyệt thứ VI của 6 huyệt thuộc Hỏa
cuộc long.
Cách: Quý nhân lộc mã thượng ngư
nhai, chính dưỡng hướng.
Cục thế: Tả toàn long thu hữu toàn
thủy.
Lập tọa Đinh, hướng Quý, kiêm tý ba
phân, nghinh lộc.
Lập tọa Mùi, hướng Sửu, kiêm quý ba
phân, tá lộc.
Nước bên hữu đổ sang bên tả, thu
nước ở cung Cấn, cung Dần là tràng sinh dưỡng (bản vị hướng thượng) vào minh
đường, quy về ngôi chữ tuyệt là kiền hợi, tức là thủy khu tiêu đi, bởi vị trí
nơi chữ tuyệt nên tiêu nước đi không nên thu nước lại.
Lập hướng này con cháu được thịnh
đạt, sang giàu khoa giáp văn chương.
Nói về hỏa cục long, nếu thấy nước
về chữ tuyệt, chỉ được lập hai phép: một là chính mộ hướng, hai là chính dưỡng
hướng. Kỳ dư: Cấm không được lập hướng nào khác hơn hai hướng trên.
Nói tóm lại, hỏa cục long có 6
hướng tốt là: chính sinh chính vượng, tự sinh tự vượng, chính mộ và chính
dưỡng, những hướng sinh, hướng vượng thì thủy phải tiêu ra chữ tuyệt mới là hợp
cách.
CUỘC ĐẤT
THỦY CUỘC LONG – CHÍNH SINH HƯỚNG
(Thân, Tý, Thìn Tam hợp thành Thủy
Cuộc Long)
Thủy tiêu Ất Thìn Chính Mộ Khố
Lưu ý: Nếu đúng cuộc đất này thì
Tay Hổ dài và Tay Long ngắn.
THỦY CUỘC LONG – CHÍNH SINH HƯỚNG
Huyệt thứ 1 của 6 huyệt thuộc Thủy
cuộc long.
Vượng khí nghinh sinh, chính sinh
hướng
Cục Thế: Tả toàn long, thu hữu toàn
thủy
Lập tọa Dần hướng Thân, kiêm Khôn
ba phân.
Lập tọa Cấn hướng Khôn kiên Thân ba
phân.
Trước phải thu Nhâm Tý đế vượng
thủy từ sau vài bên hữu vào minh đường, thứ khu Kiền Hợi, lâm quan thủy, thứ
nữa Tân Tuất, quan đới thủy vào minh đường rồi đến Canh Dậu quý nhân thủy, rồi
thu Khôn Thân tràng sinh thủy (cung này là hướng thượng bản vị) đem lại minh
đường, vòng sang bên tả tiêu ra chữ Ất là mộ khố.
Đây là phép táng chính sinh hướng,
nếu được hướng này thì nhân đnh rất vượng, phú quý song toàn, bền lâu mãi mãi.
CUỘC ĐẤT
THỦY CUỘC LONG – CHÍNH VƯỢNG HƯỚNG
(Thân, Tý, Thìn Tam hợp, Thành Thủy
Cuộc Long)
Thủy Tiêu Ất Thìn Chính Mộ Khố
Lưu ý: Nếu đúng cuộc đất này thì
Tay Long dài và Tay Hổ ngắn.
THỦY CUỘC LONG – CHÍNH VƯỢNG HƯỚNG
Huyệt thứ II của 6 huyệt thuộc Thủy
cuộc long
Sinh lai hội vượng Chính vượng
hướng
Cục thể: hũu toàn long thu tả toàn
thủy.
Lập tọa bính, hướng nhâm, kiêm hợi
ba phân nghinh lộc
Lập tọa Ngọ, hướng Tý, kiêm Nhâm ba
phân tả lộc.
Trước phải thu nước bên tả, Khôn
Thân tràng sinh thủy, Canh Dậu quý nhân thủy, Tân Tuất quan đới thủy Kiền Hợi
lâm quan thủy vào minh đường, rồi thu Nhâm Tý (cung này là hướng thượng bản vị)
thủy vào minh đường rồi vát thủy tiêu ra Ất khố chảy đi. Phép táng này chính
vượng hướng lại được long chấn huyệt đích, thì phát tài, người thịnh của nhiều,
phát đạt bền lâu.
CUỘC ĐẤT
THỦY CUỘC LONG - TỰ SINH HƯỚNG
(Thân, Tý, Thìn Tam Hợp Thành Thủy
Cuộc Long)
Thủy Tiêu Ất, Thìn, Chính Mộ Khố
Lưu ý: nếu dùng cuộc đất này thì
Tay Hổ hơi dài và Tay Long hơi ngắn
THỦY CUỘC LONG - TỰ SINH HƯỚNG
Huyệt thứ III của 6 huyệt thuộc
Thủy cuộc long.
Đây là phép biến cục, tá khố tiêu
thủy, tự sinh hướng.
Cục thế: Tả toàn long, thu hữu toàn
thủy.
Lập tọa Kiền hướng Tốn kiêm Tỵ ba
phân.
Lập tọa Hợi hướng Tỵ kiêm Tốn ba
phân.
Nước từ bên hữu đổ sang bên tả, lấy
cung Tốn, cung Tỵ ngay vị trí chữ tuyệt khởi tràng sinh, nghĩa là tự mình hướng
thượng khởi tràng sinh cho mình, đây gọi là tuyệt sứ phùng sinh (ngay cung
tuyệt gặp tràng sinh).
Trước phải thu Canh, Dậu là đế
vượng thủy, Khôn Thân là lâm quan thủy, Đinh Mùi là quan đới thủy, Bính Ngọ là
quý nhân thủy, rồi thu Tốn Tỵ tràng sinh thủy 9cung này là hướng thượng bản vị)
vào minh đường, phép này gọi là tá khố tiêu nạp (mượn khố tiêu thủy khẩu) táng
được hướng này phát rất mau và phát nhân đinh nhiều, phú quý rất lớn.
CUỘC ĐẤT
THỦY CUỘC LONG - TỰ VƯỢNG HƯỚNG
(Thân, Tý, Thìn, Tam hợp thành thủy
cuộc long)
Thủy Tiêu Ất Thìn – Chính Mộ Khố
Lưu ý: Nếu đúng cuộc đất này thì
Tay Long hơi dài và Tay Hổ hơi ngắn.
THỦY CUỘC LONG - TỰ VƯỢNG HƯỚNG
Huyệt thứ IV, của 6 huyệt thuộc
Thủy cuộc long. Đây là biến cục tá khố tiêu thủy, tự vượng hướng.
Cục thế: Hữu toàn long khu tả toàn
thủy.
Lập tọa Canh, hướng Giáp kiêm Dần
ba phân nghinh lộc.
Lập tọa Dậu, hướng Mão kiêm Giáp ba
phân tá lộc.
Nước từ bên tả đổ sang bên hữu, lấy
cung Giáp Mão ngay vào vị trí chữ tử hóa thành chữ vượng. Đây là tự mình lấy vượng
hướng thượng. Nếu vượng ở cung Giáp Mão thì tràng sinh phải ở Kiền Hợi. Đây thu
Kiền Hợi là tràng sinh thủy, Nhâm Tý là quý nhân thủy, Quý Sửu là quan đới
thủy, Cấn Dần là lâm quan thủy, rồi đến Giáp Mão là đế vượng thủy (cung này là
hướng thượng bản vị) vào minh đường rồi tiêu ra chữ Ất là mộ khố. Cứ tính như
phép tá cục tiêu thủy này, thì vượng tá cục Ất Thìn phải là suy, vậy nên gọi là
tá suy phương xuất thủy (mượn phương suy cho nước tiêu ra).
Táng được hưởng này, phát phú rất
mau, mà đinh tài quý gồm cả, tức là lối biến cục hóa tử vi vượng (hóa chữ tử
làm chữ vượng).
Như trên bốn tuyệt trong thủy cục
long, phải tiêu thủy ra chính mộ khố mới được lập hướng, bốn hướng là chính
sinh, chính vượng, tự sinh, tự vượng. Công thức này là tam hợp Thân, Tý, Thìn
tức như Khôn Nhâm Ất lấy âm dương phối hợp thành cục, tá khố tiêu thủy. Như
phải tiêu nạp đúng với công thức ở trên mới được lập hướng, ngoại trừ không
được lập những hướng khác trên, nếu thấy thủy đã tiêu ra ất khố.
CUỘC ĐẤT
THỦY CUỘC LONG – CHÍNH MỘ HƯỚNG
(Thân, Tý, Thìn Tam hợp thành Thủy
cuộc long)
Thủy Tiêu Ất Thìn Chính Mộ Khố
Lưu ý: Nếu đúng cuộc đất này thì
Tay Long hơi dài và Tay Hổ hơi ngắn.
THỦY CUỘC LONG – CHÍNH MỘ HƯỚNG
Huyệt thứ V của 6 huyệt thuộc Thủy
cuộc long.
Cách: Lộc tồn lưu tận bội kim ngư,
chính mộ hướng.
Cục thế: Tả toàn long thu hữu toàn
thủy, nếu hữu toàn long thu tả toàn thủy.
Lập tọa tận hướng ất kiêm thìn ba
phân tá lộc.
Nước bên tả đổ sang bên hữu, trước
phải thu nước bên hữu là cung Kiền, cung Hợi lâm quan thủy, thứ đến thu nước
cung Nhâm, cung Tý là đế vượng thủy, vào minh đường rồi thu nước bên tả là cung
Khôn, cung Thân, thân là tràng sinh thủy, vào giao hợp trước minh đường, rồi
vát ra chữ tuyệt là Tốn Tỵ, cho thủy khẩu tiêu đi.
Bởi ngôi chữ tuyệt là vị trí sao
lộc tồn, nước ở cung này chỉ nên tiêu đi không nên triều lại, nên dùng làm thủy
khẩu rất tốt.
Lập hướng này: thu cả nước ở ngôi
tràng sinh và ngôi đế vượng đến minh đường, phép táng này đúng với câu: Ất
hướng Tốn lưu thanh phú quý (hướng Ất thủy khẩu tiêu tốn rõ ràng giàu sang).
Táng được hướng này thì con trai,
con gái phát đồng đều, giàu sang, thịnh đạt.
CUỘC ĐẤT
THỦY CUỘC LONG – CHÍNH DƯỠNG HƯỚNG
(Thân, Tý, Thìn Tam hợp thành Thủy
cuộc long)
Thủy Tiêu Ất Thìn Chính Mộ Khố
Lưu ý: Nếu đúng cuộc đất này thì
Tay Hổ hơi dài và Tay Long hơi ngắn.
THỦY CUỘC LONG – CHÍNH DƯỠNG HƯỚNG
Huyệt thứ VI của 6 huyệt thuộc Thủy
cuộc long.
Cách: Quý nhân lộc mã thượng ngu
nhai chính dưỡng hướng.
Cục thể: Tả toàn long thu hữu toàn
thủy.
Lập tọa quý hướng đinh kiêm ngọ ba
phân nghinh lộc.
Lập tọa Sửu hướng Mùi kiêm Đinh ba
phân tá lộc.
Nước bên hữu đổ sang bên tả, thu
nước ở cung Khôn cung Thân là tràng sinh thủy, thứ đến thu nước ở cung Đinh
cung Mùi là vị trí của ngôi dưỡng (bản vị hướng thượng) vào minh đường, quy về
chữ tuyệt là Tốn Tỵ tức là thủy khẩu tiêu đi, bởi vị trí ngôi chữ tuyệt: là nên
tiêu nước đi không nên thu nước lại.
Lập hướng này con cháu được thịnh
đạt sang giàu khoa giáp, văn chương.
Nói về thủy cục long, nếu thấy nước
tiêu về chữ tuyệt chỉ được hai phép: Một là chính mộ hướng, hai là chính dưỡng
hướng, kỳ dư cấm không được lập hướng nào khác hơn hai hướng trên.
Nói tóm lại thủy cục long có 6
hướng tốt là chính sinh, chính vượng, tự sinh, tự vượng, tự sinh, tự vượng,
chính mộ và chính dưỡng. Những hướng sinh, hướng vượng thì thủy phải tiêu ra mộ
khố, những hướng mộ hướng dưỡng thì thủy phải tiêu ra ngôi chữ tuyệt mới là hợp
cách.
CUỘC ĐẤT
KIM CUỘC LONG – CHÍNH SINH HƯỚNG
(Tỵ, Dậu, Sửu – Tam hợp Thành Kim
Cuộc Long)
Thủy Tiên Quý Sửu Chính Mộ Khố
Lưu ý: Nếu đúng cuộc đất này thì
Tay Hổ dài và Tay Long ngắn.
KIM CUỘC LONG – CHÍNH SINH HƯỚNG
Huyệt thứ 1 của 6 huyệt thuộc Kim
cuộc long.
Vượng khứ nghinh sinh, chính sinh
hướng.
Cục thể: Tả toànlong thu hữu toàn
thủy.
Lập tọa Kiền hương Tốn, kiêm Tỵ ba
phân.
Lập tọa Hợi hướng Tỵ, kiêm Tốn ba
phân.
Trước phải thu Canh Dậu để vượng
thủy, từ vai sau bên hữu vào minh đường, thứ thu Khôn Thân lâm quan thủy, thứ
nữa thu Đinh Mùi quan đới thủy, vào minh đường, rồi đến Bính Ngọ quý nhân thủy,
Tốn Tỵ tràng sinh Tỵ thủy (cung này là hướng thượng bản vị) đem lại minh đường,
vòng sang bên tả, tiêu ra chữ quý là mộ khố.
Đây là phép tàng chính sinh hướng,
nếu được hướng này, thì nhân đinh rất vượng, phú quý song toàn, bền lâu mãi
mãi.
CUỘC ĐẤT
KIM CUỘC LONG – CHÍNH VƯỢNG HƯỚNG
(Tỵ, Dậu, Sửu Tam hợp Thành Kim
Cuộc Long)
Thủy Tiêu Quý Sửu Chính Mộ Khố
Lưu ý: Nếu đúng cuộc đất này thì
Tay Long dài và Tay Hổ ngắn.
KIM CUỘC LONG – CHÍNH VƯỢNG HƯỚNG
Huyệt thứ II của 6 huyệt thuộc Kim
cuộc long.
Sinh lai hội vượng, chính vượng
hướng.
Cục thế: Hữu toàn long, thu tả toàn
thủy
Lập tọa Giáp, hướng Canh, kiêm Dậu
ba phân, nghinh lộc.
Lập tọa Mão, hướng Dậu, kiêm Canh
ba phân, tá lộc.
Trước phải thu nước bên tả, Tốn Tỵ
tràng sinh thủy, Bính Ngọ quý nhân thủy, Đinh Mùi quan đới thủy, Khôn Thân lâm
quan thủy, vào minh đường, rồi thu Canh Dậu đế vượng thủy (cung này là hướng
thượng bản vị) vào minh đường, rồi vát thủy tiêu ra quý khố chảy đi.
Phép táng này, chính vượng hướng,
lại được long chân huyệt đích, thì phát tài, người thịnh của nhiều, phát đạt
bền lâu.
CUỘC ĐẤT
KIM CUỘC LONG - TỰ SINH HƯỚNG
(Tỵ, Dậu, Sửu tam hợp Thành Kim
Cuộc long)
Thủy tiêu Quý Sửu – Chính Mộ Khố
Lưu ý: Nếu đúng cuộc đất này thì
Tay Hổ hơi dài và Tay Long hơi ngắn.
KIM CUỘC LONG - TỰ SINH HƯỚNG
Huyệt thứ III của 6 huyệt thuộc Kim
cuộc long
Đây là phép biến cục, tá khố tiêu
thủy, tự sinh hướng.
Cục thế: tả toàn long thu hữu toàn
thủy.
Lập tọa Khôn, hướng Cấn, kiêm Dần
ba phân.
Lập tọa Thân, hướng Dần, kiêm Cấn
ba phân.
Nước từ bên hữu đổ sang bên tả, lấy
cung Kiền, cung Hợi, ngay vị trí chữ tuyệt khởi tràng sinh, nghĩa là: Tự mình
hướng thượng khởi tràng sinh cho mình, đây gọi là: Tuyệt sứ phùng sinh (ngay
cung tuyệt gặp tràng sinh).
Trước phải thu Bính Ngọ là đế vượng
thủy, Tốn Tỵ là lâm quan thủy, Ất Thìn là quan đới thủy, Giáp Mão là quý nhân
thủy, rồi thu Cấn Dần là tràng sinh thủy (cung này là hướng thượng bản vị) vào
minh đường.
Táng được hướng này, phát rất mau,
phát nhân đinh nhiều phú quý rất to lớn
CUỘC ĐẤT
KIM CUỘC LONG TỰ VƯỢNG HƯỚNG
(Tỵ, Dậu, Sửu Tam Hợp Thành Kim
Cuộc Long)
Thủy Tiêu Quý Sửu Chính Mộ Khố
Lưu ý: Nếu đúng cuộc đất này thì
Tay Long hơi dài và Tay Hổ hơi ngắn.
KIM CUỘC LONG - TỰ VƯỢNG HƯỚNG
Huyệt thứ IV của 6 huyệt thuộc Kim
cuộc long.
Đây là phép biến cục, tá khố tiêu
thủy, tự vượng hướng.
Cục thế: Hữu toàn long, thu tả toàn
thủy.
Lập tọa Bính, hướng Nhâm, kiêm Tý
ba phân, nghinh lộc.
Lập tọa Ngọ, hướng Tý, kiêm Nhâm ba
phân, tá lộc.
Nước từ bên tả đổ sang bên hữu, lấy
cung Nhâm Tý ngay vào vị trí chữ tử, hóa thành chữ vượng. Đây là tự mình khởi
lấy vượng hướng thượng
Nếu vượng ở cung Nhâm Tý thì tràng
sinh phải ở cung Khôn Thân, thu Khôn Thân là tràng sinh thủy. Canh Dậu là quý
nhân thủy, Tân Tuất là quan đới thủy. Kiền, Hợi là lâm quan thủy, rồi đến Nhâm
Tý là đế vượng thủy (cung này là hướng thượng bản vị) vào minh đường, rồi tiêu
chữ quý là mộ khố, cứ tính như phép tả cục tiêu thủy này, thì vượng tá cục
(Nhâm Tý) Quý Sửu phải là suy, vậy nên gọi là Tá suy phương xuất thủy, (mượn
phương suy cho nước tiêu ra).
Táng được hưởng này, phát phúc rất
mau và đinh, tài quý gồm cả, tức là lối biến cục, hóa tử vi vượng (hóa chữ tử
làm chữ vượng).
Như trên bốn cục trong kim cục
long, phải tiêu thủy ra chính mộ khố mới được lập hướng, bốn hướng là: Chính
sinh, chính vượng, chính sinh tự vượng, công thức này là Tam hợp Tỵ Dậu Sửu,
tức như Tốn, Canh, Quý lây âm dương hợp thanh cục.
Đây tuy nhiên nói là biến cục, tá
khố tiêu thủy, nhưng phải tiêu nạp (thu thủy và tiêu thủy) đúng với công thức
của nó mới được lập hướng, ngoài trừ, không được lập những hướng khác với bốn
công thức trên, nếu thấy thủy tiêu ra quý khố.
CUỘC ĐẤT
KIM CUỘC LONG – CHÍNH MỘ HƯỚNG
(Tỵ, Dậu, Sửu, Tam Hợp Thành Kim
Cuộc Long)
Thủy Tiêu Quý Sửu Chính Mộ Kh
Lưu ý: Nếu đúng cuộc đất này thì
Tay Long hơi dài và Tay Hổ hơi ngắn.
KIM CUỘC LONG – CHÍNH MỘ HƯỚNG
Huyệt thứ V của 6 huyệt thuộc Kim
cuộc long
Cách: lộc tổ lưu tận bội kim ngư,
chính mộ hướng
Cục thế: Tả toàn long, thu hữu toàn
thủy.
Lập tọa Đinh, hướng Quý, kiêm tý
ban phân, nghinh lộc
Nước bên tả đổ sang bên hữu, trước
phải thu nước bên hữu là cung Khôn Thân, tức làm quan thủy, thứ đến thu nước
cung Canh, cung Dậu là đế vượng thủy, vào minh đường, rồi thu nước bên tả là
cung Tốn, cung Tỵ tức tràng sinh thủy, vào giao bội rước minh đường, rồi vát ra
ngôi chữ tuyệt là Cấn Dần, chỗ thủy khẩu tiêu đi. Bởi ngôi chữ tuyệt là vị trí
sa lộc tồn, nước ở cung chỉ nên tiêu đi, không nên triều lại nên dùng làm thủy
khẩu rất tốt.
Lập hướng này, thu cả nước ở ngôi
tràng sinh và ngôi đế vượng đến minh đường, phép táng này đúng với câu Quý quy
Cấn thượng hiển văn chương (Hướng quý thủy khẩu tiêu chữ Cấn phát văn khoa hiển
đạt).
Táng được hướng này, thì con trai,
con gái phát đồng đều, giàu sang thịnh đạt.
CUỘC ĐẤT
KIM CUỘC LONG – CHÍNH DƯỠNG HƯỚNG
(Tỵ, Dậu, Sửu – Tam Hợp Thành Kim
Cuộc Long)
Thủy Tiêu Quý Sửu Chính Mộ Khố
Lưu ý: Nếu đúng cuộc đất này thì
Tay Hổ hơi dài và Tay Long hơi ngắn.
KIM CUỘC LONG – CHÍNH DƯỠNG HƯỚNG
Huyệt thứ VI của 6 huyệt thuộc Kim
cuộc Long
Cách: Quý nhân lộc mã thượng ngư
nhau, chính dưỡng hướng.
Cục thế: tả toàn long, thu hữu toàn
thủy.
Lập tọa tân hướng Ất, kiêm mão ba
phân, nghinh lộc.
Lập tọa Tuất, hướng Thìn, kiêm Ất
ba phân, tá lộc.
Nước bên hữu đổ sang bên tả, thu
nước ở cung Canh cung Dậu, là đế vượng thủy, rồi thu nước ở cung Thân, cung
Khôn là lâm quan thủy, cung Đinh, cung Mùi là quan đới thủy, cung Bính cung Ngọ
là quý nhân thủy, cung Tốn cung Tỵ là tràng sinh thủy, cùng với nước ở cung Ất
Thìn tức vị trí của ngôi dưỡng (bản vị hướng thượng) vào minh đường quy vào
ngôi chữ tuyệt, tức là chữ Cấn, nó là thủy khẩu tiêu đi, bởi vì ngôi chữ tuyệt
chỉ nên tiêu nước đi, không nên thu nước lại.
Lập hướng này, con cháu được thịnh
đạt, phát khoa giáp văn chương.
Nói về kim cục long, nếu thấy nước
tiêu về chữ tuyệt thì được lập hai phép. Một chính mộ hướng, một nữa là chính
dưỡng hướng, kỳ dư cấm không được lập hướng nào khác hơn hai hướng trên.
Nói tóm lại, kim cục long có sáu
hướng tốt là: chính sinh, chính vượng, tự sinh, tự vượng, chính mộ, chính
dưỡng.
Những hướng mộ, hướng dưỡng thì
thủy khẩu phải tiêu ra ngôi chữ tuyệt, những hướng sinh, hướng vượng, thì thủy
khẩu phải tiêu ra mộ khố, mới là hợp cách.
CUỘC ĐẤT
MỘC CỤC LONG CHÍNH SINH HƯỚNG
(Hợi, Mão, Mùi Tam Hợp Thành Mộc
Cuộc Long)
Thủy Tiêu Đinh Mùi Chính Mộ Khố
Lưu ý: Nếu đúng cuộc đất này thì
Tay Hổ dài và Tay Long ngắn
MỘC CUỘC LONG – CHÍNH SINH HƯỚNG
Huyệt thứ 1 của 6 huyệt thuộc Mộc
cuộc long.
Vượng khứ nghinh sinh, chính sinh
hướng
Cục thế: Tả toàn long, thu hữu toàn
thủy.
Lập tọa Tốn, hướng Kiền, kiêm Hợi
ba phân.
Lập tọa Tỵ, hướng Hợi, kiêm Kiền ba
phân.
Trước phải thu Giáp Mão để vượng
thủy, từ sau vai bên hữu vào minh đường, thu Cấn Dần lâm quan thủy, thứ nữa thu
Quý Sửu quan đới thủy vào minh đường rồi Nhâm Tý quý nhân thủy, Kiền Hợi tràng
sinh thủy (cung này là hướng thượng bản vị) đem lại minh đường, vòng sang bên
tả, tiêu ra chữ đinh là mộ khố.
Đây là phép táng chính sinh hướng,
nếu được hướng này thì nhân đinh rất vượng, phú quý song toàn, bền lâu mãi mãi.
CUỘC ĐẤT
MỘC CUỘC LONG – CHÍNH VƯỢNG HƯỚNG
(Hợi, Mão, Mùi, Tam Hợp Thành Mộc
Cuộc Long)
Thủy Tiêu Đinh Mùi Chính Mộ Khố
Lưu ý: Nếu đúng cuộc đất này thì
Tay Long dài và Tay Hổ ngắn.
MỘC CUỘC LONG – CHÍNH VƯỢNG HƯỚNG
Huyệt thứ II của 6 huyệt thuộc Mộc
Cuộc Long
Sinh lai hội vượng, chính vượng
hướng
Cục thế: Hữu toàn long, thu tả toàn
thủy
Lập tọa Canh hướng Giáp, kiêm Dần
ba phân nghinh lộc.
Lập tọa Dần hướng Mão, kiêm Giáp ba
phân, tá lộc.
Trước phải thu bên tả Kiền Hợi
tràng sinh thủy, Nhâm Tý quý nhân thủy, Quý Sửu quan đới thủy, Cấn Dần lâm quan
thủy, vào minh đường, rồi thu Giáp Mão để vượng (cung này là hướng thượng bản
vị) vào minh đường, rồi vát thủy tiêu ra đinh khố chảy đi.
Phép táng này chính vượng hướng,
lại được long chân huyệt đích, thì phát tài, người thịnh của nhiều, phát đạt
bền lâu.
CUỘC ĐẤT
MỘC CUỘC LONG TỰ SINH HƯỚNG
(Hợi, Mão, Mùi Tam Hợp Mộc Cuộc
Long)
Thủy Tiên Đinh Mùi Chính Mộ Khố
Lưu ý: Nếu đúng cuộc đất này thì
Tay Hổ hơi dài và Tay Long hơi ngắn.
MỘC CUỘC LONG - TỰ SINH HƯỚNG
Huyệt thứ III của 6 huyệt thuộc Mộc
Cuộc Long.
Đây là phép biến cục, tả khố tiêu
thủy. Tự sinh hướng.
Cục thế: Tả toàn long, thu hữu toàn
thủy.
Lập tọa Cấn, hướng Khôn, kiêm Thân
ba phân.
Lập tọa Dần, hướng Thân, kiêm Khôn
ba phân.
Nước từ bên hữu đổ sang bên tả, lấy
cung Khôn, Thân ngay vị trí chữ tuyệt, khởi tràng sinh, nghĩa là tự mình hướng
thượng khởi tràng sinh cho mình, đây gọi là tuyệt sứ phùng sinh (ngay cung
tuyệt gặp tràng sinh).
Trước phải thu Nhâm Tý là đế vượng
thủy, Kiền Hợi là lâm quan thủy, Tân Tuất là quan đới thủy, Canh Dậu là quý
nhân thủy, rồi thu Khôn Thân là tràng sinh thủy (cung này là hướng thượng bản
vị) vào minh đường.
Táng được hướng này phát rất mau,
phát nhân đinh nhiều, phú quý rất lớn.
CUỘC ĐẤT
MỘC CUỘC LONG - TỰ VƯỢNG HƯỚNG
(Hợi, Mão, Mùi: Tam hợp, Mộc Cuộc
Long)
Thủy Tiêu Đinh Mùi, Chính Mộ
Khố
Lưu ý: Nếu đúng cuộc đất này thì Tay Long hơi dài và
Tay Hổ hơi ngắn.
MỘC CUỘC LONG - TỰ VƯỚNG HƯỚNG
Hỏa cuộc long tự vượng hướng này là
huyệt thứ IV của 6 huyệt của Mộc Cuộc Long.
Đây là phép biến cục, tá khố tiêu
thủy, tự vượng hướng.
Cục thế: hữu toàn long, thu tả toàn
thủy.
Lập tọa Nhâm hướng Bính, kiêm Ngọ
ba phân nghinh lộc.
Lập tọa Tý hướng Ngọ, kiêm Bính ba
phân tá lộc.
Nước từ bên tả đổ sang bên hữu, lấy
cung Bính cung Ngọ ngay vào vị trí chữ tử, hóa thành chữ vượng, đây là tự mình
khởi lấy vượng hướng thượng.
Nếu vượng ở cung Bính Ngọ, thì
tràng sinh ở cung Cấn Dần, đây thu Cấn Dần là tràng sinh thủy, Ất Thìn là quan
đới thủy Tốn Tỵ là lâm quan thủy, rồi đến Bính Ngọ là Đế vượng thủy (cung này
là hướng thượng bản vị) vào minh đường, rồi tiêu ra chữ Đinh là một khố, cứ
tính như phép tá cục tiêu thủy này, thì vượng tá cục (Bính Ngọ) Đinh Mùi phải
là suy, vậy nên gọi là: Tá suy phương xuất thủy (mượn phương suy cho phép tiêu
ra).
Táng được hướng này, phát phú rất
mau, mà Đinh tài quý gồm cả, tức là lối biến cục, hóa tử vi vượng (hóa chữ tử
làm chữ vượng).
Như trên bốn cục trong mộc cung
long phải tiêu thủy ra chính mộ khố mới được lập hướng, bốn nước là: chính
sinh, chính vượng, tự sinh, tự vượng, công thức này là tam hợp Hợi Mão Mùi, tức
như kiền Giáp Đinh, lấy âm dương phối hợp thành cục.
Đây tuy nhiên nói là biến cục, tá
khố tiêu thủy, nhưng phải tiêu nạp (thu thủy và tiêu thủy) đúng với công thức
của nó mới được lập hướng, ngoại trừ không được lập những hướng khác với bốn
công thức trên, nếu thấy thủy đã tiêu ra Đinh khố
CUỘC ĐẤT
MỘC CUỘC LONG – CHÍNH MỘ HƯỚNG
(Hợi, Mão, Mùi: Tam hợp, Mộc Cục Long)
Thủy Tiêu, Đinh Mùi, Chính Mộ Khố
Lưu ý: Nếu đúng cuộc đất này thì
Tay Long hơi dài và Tay Hổ hơi ngắn.
MỘC CUỘC LONG – CHÍNH MỘ HƯỚNG
Huyệt thứ V của 6 huyệt thuộc Mộc
cuộc long.
Cách: Lộc tồn lưu tận bội kim ngư,
Chính mộ hướng
Cục thế: Hữu toàn long, thu tả toàn
thủy.
Tả toàn long, thu hữu toàn thủy.
Lập tọa Quý hướng Đinh, kiêm Mùi ba
phân nghinh lộc.
Lập tọa Sửu hướng Mùi, kiêm Đinh ba
phân tá lộc.
Nước từ bên tả đổ sang bên hữu,
trước phải thu nước bên hữu là cung Cấn cung Dần lâm quan thủy, thứ đến thu
nước cung Giáp, cung Mão là đế vượng thủy vào minh đường, rồi thu nước bên tả
là cung Kiền cung Hợi là tràng sinh thủy, vào giao hợp trước minh đường rồi vát
ra ngôi chữ tuyệt là Khôn Thân, cho thủy khẩu tiêu đi.
Bởi ngôi chữ tuyệt là vị trí sao
lộc tồn, nước ở cung này chỉ nên tiêu đi, không nên triều lại, nên dùng làm
thủy khẩu rất tốt.
Lập hướng này, thu cả nước ở ngôi
tràng sinh và ngôi đế vượng đến minh đường, phép táng này đúng với câu: Đinh
Khôn chung thị vạn tự trang (hướng Đinh thủy khẩu tiêu chữ Khôn, phát cự phú,
của chất đầy muôn kho, ngàn vựa).
Táng được hướng này, thì con trai,
con gái phát đồng đều, giàu sang thịnh đạt.
CUỘC ĐẤT
MỘC CUỘC LONG CHÍN DƯỠNG HƯỚNG
(Hợi, Mão, Mùi, Tam Hợp Thành Mộc
Cuộc Long)
Thủy Tiêu Đinh Mùi Chính Mộ Khố
Lưu ý: Nếu dùng cuộc đất này thì
Tay Hổ hơi dài và Tay Long hơi ngắn.
MỘC CUỘC LONG – CHÍNH DƯỠNG HƯỚNG
Huyệt thứ VI của 6 huyệt thuộc Mộc
cuộc long.
Cách: Quý nhân lộc mã thượng như
nhau. Chính dưỡng hướng.
Cục thế: Tả toàn long, thu hữu toàn
thủy.
Lập tọa Ất, hướng Tốn, kiêm Dậu ba
phân nghinh lộc.
Lập tọa Thìn, hướng Tuất, kiêm Tốn
ba phân tá lộc.
Nước bên hữu đổ sang bên tả, thu
nước ở cung Giáp cung Mão là đế vượng thủy rồi thu nước ở cung Cấn cung Dần là
lâm quan thủy, cung Quý cung Sửu là quan đới thủy, cung Nhâm cung Tý là quý
nhân thủy, cung Kiền cung Hợi là tràng sinh thủy, cùng với nước ở cung Tân cung
Tuất là vị trí của ngôi dưỡng (bản vị hướng thượng) vào minh đường quy vào ngôi
chữ tuyệt là chữ Khôn tức là thủy khẩu tiêu đi, bởi vì ngôi chữ tuyệt chỉ nên
tiêu nước đi, không nên thu nước lại.
Lập hướng này con cháu sẽ được
thịnh đạt, phát khoa giáp văn chương. Nói về mộc cục long, nếu thấy nước tiêu
về chữ tuyệt chỉ được lập hai phép: Một là chính mộ hướng, một là chính dưỡng
hướng, kỳ dư: Cấn không được lập hướng nào khác hơn hai hướng trên.
Nói tóm lại một cục long có 6 hướng
tốt, là chính sinh, chính vượng, tự sinh, tự vượng, chính mộ, chính dưỡng.
Những hướng mộ hướng dưỡng thì thủy
phải tiêu ra ngôi chữ tuyệt. Những hướng sinh hướng vượng thì thủy phải tiêu ra
mộ khố, mới là hợp cách.
Đón đọc bộ trường thiên tiểu thuyết
lịch sử nói về cuộc mưu đồ tái dựng nước của tổ tiên ta sau hơn nghìn năm Bắc
thuộc:
ANH HÙNG TIÊU SƠN
Của Yên tử cư sĩ Trần Đại Sỹ
Mỗi nhà phải có một bộ Anh hùng
Tiên Sơn để biết:
- Cuộc khởi binh của bà Triệu, làm
người Ngô kinh hồn động phách.
- Cuộc khởi binh của Bố cát đại
vương. Ngài có đức gì, khiến dân chúng tôn làm cha (bố) mẹ (cái)?
- Hành trang các vị Bồ Tát Bố Đại
(Phật Di Lặc) Vô Ngại, Phụng Định, Duy Giám, La Quý An, Vạn Hạnh, Sùng Phạm,
Huệ Sinh.
- Đất Việt là nơi địa linh. Thế đất
Tiêu Sơn kết phát, nhà Lý làm vua trên hai trăm năm.
Hai trận Bạch Đằng của vua Ngô, vua
Lê, cho đến nay còn dư oai
- Lý Công Uẩn, từ một người chăn
trâu cho chùa. Sau dựng lên triều Lý, lấy nhân đức trị dân.
- Võ học, y học thế kỷ thứ mười,
mười một của dân tộc Việt.
NHÀ XUẤT BẢN XUÂN THU
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét