VĂN TẾ TRẬN VONG TƯỚNG SĨ
(Nguyễn Văn Thành ?)
Than rằng
---Trời Đông phố vận ra Sóc cảnh, trải bao phen gian hiểm mới có ngày nay !
Nước Lô hà chảy xuống Lương giang, nghĩ mấy kẻ điêu linh những từ thuở nọ .
--- Đã hay Sinh là kí mà tử là qui ;nhưng Mệnh ấy yểu mà danh ấy thọ .
Ai ôi !
---Tình dưới viên mao ,
Phận trong giới trụ .
---Ba nghìn họp con em đất Bái , cung tên ngang dọc chí nam nhi ;
Trăm hai vầy bờ cõi non Kì, cơm áo nặng dày ơn cố chủ .
---Giấn thân cho nước, son sắt một lòng ;
Nối nghĩa cùng thầy, tuyết sương mấy độ !
---Kẻ thời theo cơ đích chạy sang miền khách địa , hăm hở mài nanh giũa vuốt , chỉ
non Tây thề chẳng đội trời chung ;
Kẻ thời đón việt mao trở lại chốn sơ cơ, dập dìu vén cánh giương vây, trông
cõi Bắc quyết thu về đất cũ .
---Nằm gai nếm mật, chung nỗi ân ưu;
Mở suối bắc cầu, riêng phần lao khổ .
---Trước từng trải Xiêm -la, Cao miên về Gia định mới dần ra Khánh, Thuận , đã
mấy buổi sơn phong hải lễ , trời Cao Quang soi khắp tấm kiên trinh ;
Rồi lại từ Đồ-bàn, Nam Ngãi , lấy Phú-xuân mà thẳng tới Thăng Long , biết
bao phen vũ pháo vân thê , đất Lũng Thục lăn vào nơi hiểm cố .
---Phận truy tùy gẫm lại cũng cơ duyên ;
Trường chiến đấu biết đâu là mệnh số ?
---Kẻ thời chen chân ngựa quyết giật cờ trong trận, xót lẽ gan vàng mà
mệnh bạc, nắm lông hồng theo đạn lạc tên bay ;
Kẻ thì bắt mũi thuyền toan cướp giáo giữa dòng ,thương thay phép trọng để
thân khinh, phong da ngựa mặc bèo trôi sóng vỗ .
---RUỔI RONG TRĂM TRẬN ÁNG CƯƠNG TRƯỜNG,
RẢI RÁC MẤY NGƯỜI NỚI ĐẠO LỘ.
---Hồn tráng sĩ biết đâu miền minh mạc, mịt mù gió lốc thổi dấu tha hương ;
Mặt chinh phu khôn vẽ nét gian nan, lập lòe lửa trơi soi cfhừng cổ độ .
Ôi !
---Cùng lòng trung nghĩa, khác số đoản tu ;
Nửa cuộc công danh, chia phần kim cổ .
---Đoái là tiếc xương đồng da sắt, thanh bảo kiếm đã trăm rèn mới có,
nợ áo cơm phải trả đến hình hài ;
Những là khen dạ đá gan vàng, bóng bạch câu xem nửa phút như không,
ơn dày đội cũng cam trong phế phủ .
---Phần dầu không gác khói, đài mây;
Danh đã dậy ngàn cây, nội cỏ.
---Thiết vì thuở theo cờ trước gió, thân chẳng quản màn sương đệm giá ,
những chờ xem cao thấp bức cân thường ;
Tiếc cho khi lỡ bước giữa dòng , kiếp đã về cõi suối làng mây .
nào kịp thấy ít nhiều ơn vũ lộ .
---TÌNH XƯA LAI LÁNG BUỔI TÀ Ô;
DẤU CŨ NGẬM NGÙI NƠI DẠ THỎ .
---Vâng Thượng đức mới hồi loan tháng trước ,đoàn ứng nghĩa dẫu Quảng ,Thuận ,
Nghệ,Thanh cũng vậy, giội ân quang gieo khắp xuống đèo Ngang ;
. Mà những người từng thượng trận ngày xưa, rắp tấu công từ NGỌ ,VI
THÂN ,DẬU tới nay, treo tính tự để nằm trong lá Sổ
---Ngọn còi rúc nguyệt, nơi tẻ nơi vui ;
Dịp trống dồn hoa, chốn tươi chốn ủ .
---Đã biết rằng anh hùng thì chẳng quản ,trăm trận một trường oanh liệt,
cái sinh không, cái tử cũng là không;
Nhưng tiếc cho tạo hóa khéo vô tình, nghìn năm một hội tao phùng ,
phận thủy có, phận chung sao chẳng có ?
Bản tước nay :
---Vâng việc biên phòng;
Chạnh niềm viễn thú.
---Dưới trướng nức mùi chung đỉnh, sẽ nhớ khi chén rượu rót đầu ghềnh;
Trong nhà rỡ vẻ áo xiêm, chạnh nghĩ buổi tấm cừu vung trước gió.
---Bâng khuâng kẻ khuất với người còn;
Tưởng tượng thày đâu thờì tớ đó.
---Nền phủ định tới đây còn xốc nổi, vụ lòng một lễ, chén rựợu thoi vàng;
Chữ tương đồng ngẫm lại vốn đinh ninh,đông mặt ba quân, cờ đào nón đỏ.
---Có cảm thông thời tới đó khuyên mời;
Dầu linh thính hãy nghe lời dặn dỗ .
---Buổi chinh chiến hoặc là oan hy chẳng, cũng chớ nề kẻ trước người sau,
hàng trên lớp dưới, khao thưởng rỗi sẽ tấu biểu chương cho ;
Hội thanh bình đừng có nghĩ rằng không ,dù ai còn cha già mẹ yếu,
vợ góa con thơ, an tập hết cũng ban tồn tuất đủ.
---Hồn phách đâu cũng ngày tháng Thuấn Nghiêu;
Hài cốt đó cũng nước non Thang Vũ.
---Cơ huyền diệu hoặc thăng trầm chưa rõ, thiêng thời về Cố quận, để hương
thơm lửa sáng, kiếp tái sinh lại nhận cửa tiền quân ;
Niềm tôn thân dù sinh tử chớ nề ,linh thời hộ Hoàng triều, cho bể
lặng sông trong, duy vạn kỉ chẳng dời ngôi bảo tộ .
Thượng hưởng !
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét