Chương 61
TIẾNG GẦM CỦA SƯ TỬ LỚN
Mùa an
cư an năm nay, nhân một câu hỏi của đại đức Ananda về đạo lý duyên sinh, Bụt đã
dạy các vị khất sĩ về mười hai nhân duyên như là động cơ của guồng máy sinh tử.
Ngưới
bảo thầy Ananda:
- Đạo lý
duyên sinh là đạo lý rất vi diệu và thâm sâu. Các vị đừng nghĩ rằng có thể thấu
hiểu được hết chiều sâu của đạo lý này bằng ngôn từ và lý luận
Các vị
khất sĩ! Ngày xưa thầy Uruvela Kassapa nhờ được nghe đạo lý nhân duyên mà thấy
được và vào được chánh pháp. Ngày xưa Sariputta cũng nhờ nghe được một bài kệ
về đạo lý nhân duyên mà hôm nay đã trở nên một trong những khuôn mặt của chúng
trung tôn. Này các vị! Trong mỗi giây phút của cuộc sống hàng ngày, các vị phải
quán chiếu về tự tính duyên sinh của vạn pháp. Nhìn vào một tờ lá hay một hạt
mưa, các vị phải tập thấy cho được tất cả những điều kiện gần xa đã đưa tới sự
có mặt của tờ lá ấy hay của hạt mưa ấy. Các vị nên biết rằng thế giới được dệt
thành bởi những màn nhân duyên chằng chịt, cái này có vì cái kia có, cái này
không vì cái kia không, cái này sinh vì cái kia sinh, cái này diệt vì cái kia
diệt. Sự sinh diệt của một pháp tùy thuộc vào sự sinh diệt của tất cả các pháp.
Sự sinh diệt của tất cả các pháp tùy thuộc vào sự sinh diệt của một pháp. Trong
cái một có cái tất cả, và trong cái tất cả có cái một. Cái một tức là cái tất
cả, cái tất cả tức là cái một. Không có cái một thì không có cái tất cả, không
có cái tất cả thì không có cái một. Đây là chỗ vi diệu của đạo lý duyên sinh.
Nếu quán sát cho thấu triệt tự tính của vạn pháp, các vị sẽ vượt thoát ra ngoài
cái lo và cái khổ về sinh tử, nói một cách khác hơn là thoát ra được ngoài vòng
sinh tử.
Các vị
khất sĩ! Duyên khởi chằng chịt nhiều tầng nhiều lớp, nhưng quý vị có thể phân
biệt bốn loại: đó là nhân duyên, tăng thượng duyên, đẳng vô gián duyên và sở
duyên duyên.
Nhân
duyên là điều kiện chính yếu gần nhất, như hạt lúa là điều kiện chính yếu để
phát sinh ra cây lúa. Tăng thượng duyên là những điều kiện phù trợ, như nắng,
mưa, hơi ấm, đất màu giúp cho hạt lúa nảy mầm lớn lên thành cây lúa.
Đẳng vô
gián duyên tức là sự tiếp nối không gián đoạn của dòng lưu chuyển.
Thiếu sự
tiếp nối thì sự trưởng thành của cây lúa bị gián đoạn nữa chừng.
Sở duyên
duyên là đối tượng của nhận thức, bởi vì nhận thức bao giờ cũng là nhận thức
một cái gì, nhận thức không rời đối tượng nhận thức. Hạt lúa, cây lúa và các
điều kiện xa gần đưa tới sự có mặt của cây lúa ... tất cả đều là đối tượng của
nhận thức, không thể tách rời ra khỏi nhận thức. Tâm thức vì vậy là một điều
kiện căn bản của hiện hữu.
Này các
vị khất sĩ! Sở dĩ có khổ đau là vì có sinh tử. Tại sao có sinh tử? Tại vì có vô
minh. Nếu các vị quán chiếu và thấy được tự tính duyên khởi của vạn vật thì các
vị sẽ tiêu diệt được vô minh. Tiêu diệt được vô minh thì siêu thoát được quan
niệm về sinh tử. Thoát được sinh tử thì diệt được mọi khổ đau và lo âu.
Này các
vị! Có tử là vì có sinh, có sinh tử là vì còn ý niệm có ta, còn ý niệm có ta là
vì bị dính mắc, bị dính mắc là vì tham ái, tham ái là vì không thấy được tự
tính của cảm giác, không thấy được tự tính của cảm giác là vì bị kéo theo dòng
tiếp xúc giữa giác quan và đối tượng, bị kéo theo dòng tiếp xúc giữa giác quan
và đối tượng là vì tâm tư không sáng suốt và an tĩnh, tâm tư không sáng suốt an
tĩnh là vì tâm thức hôn mê. Tâm thức hôn mê là vì vô minh. Mười hai cái khoen
của vòng xích ấy nối liền nhau, trong một cái có cả mười một cái kia, thiếu một
cái thì mười một cái kia cũng không có. Tử, Sinh, Hữu, Thủ, Ái, Thọ, Xúc, Lục
nhập, Danh sắc, Thức, Hành, và Vô minh là tên gọi của mười hai cái khoen ấy.
Các vị
khất sĩ! Vô minh là chất liệu căn bản của cả mười hai nhân duyên.
Nhờ quán
chiếu tự tính duyên sinh, ta lấy ánh sáng của trí tuệ làm tan rã chất liệu vô
minh đó và ta vượt thoát được tất cả những lo sợ đau buồn của sinh tử. Người
phàm phu bị nhận chìm trong biển khổ sinh tử. Bậc giải thoát cỡi trên những đợt
sóng sinh tử mà đi. Mười hai cái khoen của vòng xích trở nên mười hai cái bánh
xe của một cỗ xe chở người tới giác ngộ. Bậc giác ngộ sống trên đời nhưng không
bao giờ bị cuộc đời làm cho chìm đắm. Các vị khất sĩ! Các vị đừng trốn chạy
sinh tử, các vị chỉ cần vượt thắng lên trên sinh tử mà thôi. Siêu việt sinh tử,
đó là chí khí của bậc đại trượng phu.
Trong
một buổi pháp đàm được tổ chức sau đó mấy hôm, đại đức Mahakassapa cho biết Bụt
đã từng giảng dạy nhiều lần về đạo lý nhân duyên, và đạo lý này có thể coi như
là trọng tâm của đạo giác ngộ, và đại đức cho biết có lần Bụt đã dùng hình ảnh
một bó lau để làm ví dụ. Người nói không có ai làm ra các nhân duyên cả mà
chính các nhân duyên tự làm ra nhau. Vô minh là ra hành và hành làm ra vô minh,
hành làm ra thức và thức làm ra hành. Cũng như những cọng lau dựa vào nhau mà
dứng, Một cọng lau bị kéo qua một bên thì cọng kia rơi xuống. Vạn vật trong vũ
trụ cũng vậy.
Một làm
ra tất cả, và tất cả làm ra một. Nhìn cho sâu, ta thấy cái một trong tất cả và
ta thấy tất cả trong cái một.
Cũng
trong mùa an cư, Bụt bị một nhóm Bà la môn âm mưu trả thù bằng cách vu cáo rằng
người đã ăn nằm với người đàn bà cho đến khi người này có thai rồi bỏ.
Vụ âm
mưu này được tổ chức rất khéo léo. Những người chủ mưu đã tìm được một cô gái
trong giới Bà la môn sẵn sàng cộng tác với họ. Cô này tên là Cinca, nhăn sắc
khá mặn mà. Những người chủ mưu đã than thở với cô về sự sụp đổ của niềm tin
nơi đạo Bà la môn của giới trẻ tuổi. Giới trẻ tuổi Bà la môn đã theo Bụt nhiều
quá, và trong số ấy có những người rất xuất sắc.
Một khi
theo Bụt họ đã không ngần ngại nói tới những cái mà họ cho là sai lầm và hẹp
hòi trong đạo Bà la môn. Nóng lòng vì nền đạo đức của tổ tiên, cô Cinca nói
rằng cô có thể làm bất cứ gì để cứu vãn tình thế, và cô đã làm theo những lời
chỉ dẫn của những người chủ mưu.
Ngày nào
cô cũng ăn mặc thật đẹp và đi về tu viện Jetavana, trên tay luôn luôn có một bó
hoa. Nhưng cô không đi chùa vào giờ người khác đi chùa.
Cô chỉ
tới chùa vào giờ những người khác rời chùa để về nhà sau khi nghe thuyết pháp.
Ai hỏi đi đâu, cô chỉ mỉm cười mà không nói. Có khi cô lại nói nửa úp nửa mở:
“Tôi đi đâu thì đi, việc gì đến quý vị mà hỏi?”. Thiên hạ lấy làm hồ nghi. Sau đó
nhiều tuần lễ, cô lại trả lời người ta như sau: “Tôi đi thăm sa môn
Gotama". Rồi mấy hôm sau, cô lại nói: “Ngủ lại tu viện Jetavana thật là
vui!”.
Những
điều đó làm nhiều người chói tai, nhưng cũng làm cho người sinh ra hoài nghi.
Tuy nhiên không ai phê phán gì. Cho đến một hôm, Cinca xuất hiện trong một buổi
thuyết pháp của Bụt. Bụng của cô đã phình lên khá lớn, Bụt đang thuyết pháp nửa
chừng thì cô bước lên. Trước mặt thính chúng đông đảo, cô nói lớn:
- Sa môn
Gotama! Ngài thuyết pháp rất là hay, và ngài là một người có thế lực lớn, nhưng
ngài không bao bọc được cho một người đàn bà yếu đuối đã vì ngài mà bụng mang
dạ chửa. Đứa con trong bụng này là của ngài. Nếu ngài không chịu nhận trách
nhiệm làm cha nó thì ai nhận đậy?
Thính
chúng xôn xao, mọi người đưa mắt hỏi nhau rồi nhìn lên Bụt. Bụt nói với Cinca,
miệng người mỉm cười:
- Này cô
bé, chuyện này là thật hay giả thì chỉ có cô và ta biết rõ mà thôi.
Cinca
hơi mất bình tĩnh, nhưng cô cố lấy giọng rắn rõi:
- Đúng
rồi, việc này có thật hay không có thật thì chỉ có sa môn Gotama và tôi biết mà
thôi.
Quần
chúng không chịu đựng được sự ngạc nhiên nữa. Nhiều người xô ghế đứng dậy. Nhất
là những người ngồi phía sau. Cinca hoảng hốt, tưởng thiên hạ đang lén tấn công
mình. Cô tìm cách thoát thân, cô vụng về vấp phải một cái cột nhà, cô gượng níu
lấy cột nhà để đứng dậy. Lúc đó có một sợi dây đứt và miếng gỗ tròn lép từ bụng
cô rơi xuống, đánh rầm một cái. Miếng gỗ khá nặng, miếng gỗ dày ở giữa nhưng có
mép mỏng chung quanh. Miếng gỗ rơi xuống trúng vào hai ngón chân của bàn chân
cô làm cô đau điếng. Cinca rú lên, cúi xuống ôm lấy bàn chân. Cái bụng của cô
bây giờ xép lẹp.
Quần
chúng thở phào nhẹ nhõm. Nhiều người phá lên cười ngặt ngoẻo. Có một ni sư đứng
dậy và tiến lên. Đó là ni sư Khema. Ni sư bước tới, dịu dàng dìu Cinca ra khỏi
phòng. Đợi cho hai người khuất bóng, Bụt trở lại với bài thuyết pháp. Giọng nói
của người bình thản, như là vừa rồi chẳng có chuyện gì quan trọng xảy ra.
Bụt nói:
- Đại
chúng! Đạo lý giác ngộ có năng lực công phá những thành trì kiên cố nhất của vô
minh, cũng như ánh sáng có năng lực làm tiêu tan bóng tối.
Những
đạo lý như bốn sự thật, vô thường, vô ngã, duyên sinh, bốn niệm xứ, bảy giác
chi, ba cánh cửa giải thoát và con đường tám sự chân chính đã được tuyên thuyết
trong nhân gian như những tiếng gầm của một con sư tử lớn, đẩy lui hàng trăm
hàng ngàn tà thuyết và hý luận.
Này các
vị, sư tử là vua của các loài thú. Khi nó ra khỏi hang, con sư tử uốn mình và
vươn vai. Sau khi uốn mình và vươn vai, nó đưa cặp mắt sáng nhìn ra bốn phía.
Rồi nó gầm lên ba lần tiếng gầm của loài sư tử. Sau đó nó mới đi tìm mồi.
Này các
vị, bất cứ loài thú nào trong rừng nghe tiếng gầm của sư tử đều lấy làm sợ hãi,
có con núp kín, có con run rẩy, có con bỏ chạy, có con rời rã cả tứ chi không
còn biết làm gì nữa. Chim bay lên cao, loài cư trú dưới nước như thuồng luồng
và cá sấu hấp tấp lội xuống nước, chồn, cáo, và các loài ở hang chui xuống hang
sâu. Những con voi trong các làng xóm lân cận, dù là voi của vua có trang sức
dây nịt và lộng vàng, đều hoảng sợ, tung bỏ tất cả những đồ trang sức mà chạy,
có khi văng cả phân và nước tiểu. Con sư tử có uy lực lớn như thế đó.
Đại
chúng! Pháp âm của đạo giác ngộ cũng giống như tiếng gầm của con sư tử! Pháp âm
giác ngộ được cất lên thì tất cả các tà thuyết đều run sợ. Các đạo lý vô
thường, vô ngã, duyên sinh ... một khi được tuyên thuyết lên thì tất cả những
ai lâu nay nương náu và cảm thấy an ổn trong vô minh và trong quên lãng đều
phải giật mình. Loài người cũng vậy mà loài trời cũng vậy.
Khi bừng
tỉnh giấc mơ, mọi người thấy được sự thật chói lòa: “thì ra lâu nay chúng ta
đang ôm lấy hiểm nguy, chúng ta đã nhận cái vô thưòng làm cái thường, cái vô
ngã làm cái ngã, cái khổ làm cái vui, cái tạm bợ làm cái vĩnh cữu, cái giả làm
cái thật. Đã đến lúc chúng ta phải phá tung tất cả những màn lưới quên lãng và
luận chấp mà đi”.
Đại
chúng! Các học thuyết của nhân gian đều bị ràng buộc vào ý niệm có và không.
Pháp âm của đạo giác ngộ đưa nhân gian ra khỏi màn lưới dày đặc của muôn ngàn
lý luận ấy. Đạo lý giác ngộ vượt thoát mọi ý niệm có không.
Mỗi khi
có một bậc giác ngộ ra đời là pháp âm giác ngộ lại được dịp vang động như tiếng
hải triều. Khi hải triều lên tất cả đều bị cuống phăng theo ngọn sóng. Pháp âm
giác ngộ cũng hùng vĩ như tiếng hải triều.
Đại
chúng! Nhân gian thường bị vướng mắc trong bốn cái cạm bẫy lớn. Cạm bẫy thứ
nhất là dục lạc. Cạm bẫy thứ hai là kiến thức. Cạm bẫy thứ ba là nghi lễ. Cạm
bẫy thứ tư là ý niệm về ngã. Vướng mắc vào các cạm bẫy ấy, con người không còn
vùng vẫy được. Pháp âm giác ngộ đưa con người thoát ra bốn thứ cạm bẫy lớn này.
Đại
chúng! Đạo lý duyên khởi là con đường đưa mọi người ra khỏi mọi cố chấp và cạm
bẫy. Các vị phải thường xuyên quán sát tự tánh duyên khởi trong đời sống hàng
ngày của các vị, nơi thân thể, nơi cảm thọ, nơi tâm ý và nơi vạn pháp, đối
tượng của tâm ý.
Buổi
thuyết pháp của Bụt được đại đức Ananda trùng tuyên ngày hôm sau tại giảng
đường Lộc Mẫu. Đại đức đặt tên cho bài thuyết pháp này là Kinh Tiếng Gầm Của Sư
Tử.
Mùa an
cư năm ấy, rất nhiều vị khất sĩ trong tu viện mắc phải bệnh sốt rét.
Có nhiều
thầy sốt cho đến ốm o và xanh xao. Rất nhiều thầy không đủ sức để ôm bát đi
khất thực. Họ phải nằm tại nhà chờ các vị khất sĩ đi khất thực về chia xẻ thức
ăn với họ. Nhưng hầu hết thức ăn xin được là cơm có chan nước cà ri. Thức ăn
này quá cứng và quá khô đối với người bệnh, thành ra những vị khất sĩ bị sốt
không thể nào muốt được. Biết vậy, Bụt cho phép giới cư sĩ cúng dường cho các
vị khất sĩ bệnh các thức ăn mềm và có nhiều chất lượng bổ dưỡng như mật, sữa,
đường, đề hồ và dâu.
Nhờ
những thức ăn ấy các vị khất sĩ bị bệnh phục hồi được sức khỏe một cách từ từ.
Một hôm sau giờ ngồi thiền. Bụt nghe tiếng quạ kêu râm ran bốn phía. Người đi
ra thì thấy một số các vị khất sĩ đang cho quạ ăn các thức ăn rất quý đã được cúng
dường đặc biệt cho người bệnh. Các vị khất sĩ này là những người được cử ra săn
sóc cho bệnh nhân. Họ trình với Bụt rằng sở dĩ họ phải cho quạ ăn các thức ăn
quý giá này vì có một số các vị khất sĩ sốt vào buổi sáng nên không thọ thực
được. Quá giờ ngọ thì không được ăn nữa, cho nên thức ăn phải đem cho quạ ăn.
Bụt hỏi tại sao không giữ các thức ăn này lại cho ngày mai. Các vị trả lời là
họ không được phép giữ thức ăn qua đêm. Bụt dạy trong khi bệnh, các vị khất sĩ
có quyền thọ thực sau giờ ngọ, và cũng có quyền giữ các thức ăn đến ngày hôm
sau.
Một vị y
sĩ tại thủ đô gặp đại đức Sariputta và đề nghị với đại đức một thứ thức ăn được
chế biến bằng năm yếu tố có nhiều chất đạm để bồi bổ cho các vị khất sĩ đã vì
sốt và rét mà trở nên ốm yếu xanh xao.
---o0o---
Chương 62
ĐỪNG VỘI TIN CŨNG ĐỪNG VỘI BÀI BÁC
Mùa an
cư hoàn mãn, đại đức Sariputta đến từ biệt Bụt để lên đường hành hóa, Bụt chúc
đại đức lên đường bình yên, thân thể và tâm trí nhẹ nhàng, không gặp quá nhiều
khó khăn trên đường giáo hóa. Đại đức Sariputta cảm tạ và lên đường ngay sau
đó.
Trưa hôm
ấy có một vị khất sĩ lên tìm Bụt và phàn nàn với người là thầy đã bị đại đức
Sariputta hất hủi. Bụt hỏi hất hủi như thế nào. Vị khất sĩ ấy đáp:
- Con
hỏi thầy ấy đi đâu, thầy ấy đã không thèm trả lời mà lại còn xô con ngã rồi bỏ
đi không thèm xin lỗi.
Bụt bảo
Ananda:
- Chắc
Sariputta chưa đi xa đâu. Ananda, hãy nhờ một vị sa di đi tìm đại đức Sariputta
về. Tối hôm nay chúng ta sẻ tâp họp đại chúng ở giảng đường Jeta.
Đại đức
Ananda vâng mệnh. Chiều hôm ấy đại đức Sariputta trở về tu viện với vị sa di.
Thầy lên trình diện Bụt. Bụt bảo:
Sariputta,
tối hôm nay chúng ta sẽ họp tại giảng đường, có vị khất sĩ buộc tội thầy đã xô
ngã thầy ấy và bỏ đi không thèm xin lỗi.
Các đại
đức Moggallana và Ananda chiều hôm đó tay cầm xâu chìa khóa đi vào khắp các
tăng xá của tu viện. Tới đâu họ cũng thông báo về cuộc họp tối nay. Họ nói:
- Mời
chư huynh đệ tối nay tới họp mặt đông đảo tại giảng đường. Tối nay sư huynh
Sariputta thế nào cũng gầm lên tiếng gầm sư tử của sư huynh trước mặt Thế Tôn
và đại chúng, sẽ hào hứng lắm.
Tối hôm
ấy giảng đường không thiếu mặt ai. Ai cĩng muốn biết đại đức Sariputta phản ứng
thế nào trước những người lâu nay đã có thái độ ganh ghét và hờn giận mình. Ai
cũng biết rằng đại đức là một người đệ tử lớn của Bụt và được Bụt tin yêu, và
vì vậy ông đã là mục tiêu của rất nhiều sự hiểu lầm và ganh ghét.
Trong
giới môn đệ Bụt, có người nghĩ rằng Bụt đã tin cậy Sariputta một cách quá đáng,
rằng người đã quá nghe lời Sariputta, hoặc đã đi tới những quyết định dưới ảnh
hưởng nặng nề của vị đại đức này. Có người lại nghĩ rằng nều họ bị Bụt quở
trách và giáo giới đó là cũng vì Bụt đã nghe những lời nói ra nói vào của đại
đức Sariputta. Và họ đem lòng hận thù đại đức. Họ nhắc mãi tới việc năm xưa có lần
Bụt đã mời Sariputta ngồi chung một ghế.
Có một
thầy tên là Kokalika, trước đây cũng từng cư trú tại tu viện Jetava, và đã từng
thù ghét các sư huynh Sariputta và Moggallana đến nước không ai có thể can ngăn
được. Chuyện đã xảy ra cách trên tám năm, nhưng vẫn còn đậm nét trong lòng thầy
Ananda. Theo thầy Kokalika thì cả hai vị đại đệ tử Bụt là Sariputta và
Moggallana đều là những người tu hành giả dối, đều là người hành động theo ái
dục. Niềm ganh tỵ và hận thù của thầy Kokalika quá lớn khiến không ai có thể
hòa giải được. Chính Bụt đã có lần gọi thầy tới và bảo: “Này khất sĩ Kokalika,
đừng có nói rằng Sariputta và Moggallana là những người bị ái dục chi phối. Họ
là những người có đạo đức chân thật và tính tình rất hòa ái”. Tuy nhiên vì tâm
thầy Kokalika đã bị hận thù che lấp nên thầy không tiếp nhận được lời của Bụt.
Cuối cùng thầy bỏ tu viện ra đi.
Sau đó
thầy mắc một chứng bịnh rất lạ kỳ. Da thầy trở nên sần sùi, rồi tự nhiên đầy
mình mọc ra hàng vạn cái mụt nhỏ lớn bằng hạt cải, những cái mụt này lớn lên
bằng những hạt đậu. Rồi những chiếc mụt ấy vỡ ra, chảy đầy máu và mủ. Thuốc men
nào cũng không chữa được, Bụt nhận thầy về tu viện, nhưng thầy không về. Sau đó
thầy mạng chung. Bụt rất xót thương.
Người
bảo: “Hận thù và ganh ghét là những chất độc làm ung thối tâm hồn, sau khi làm
ung thối tâm hồn, những chất độc ấy còn phá hoại thân thể và gây thành những
chứng bệnh rất kỳ lạ. Này các vị khất sĩ, các vị đừng để cho những chất độc ấy
thấm vào thân tâm”.
Đại đức
Ananda biết hết những tình tiết đó cho nên đã ngần ngại rất nhiều trước khi
nhận trách nhiệm làm thị giả cho Bụt. Trong những điều kiện thầy đưa ra có điều
kiện là nếu làm thị giả cho Bụt, thầy xin Bụt đừng bao giờ cho thầy áo, đừng
cho thầy ngủ chung một phòng và đừng bao giờ chia cho thầy những thức ăn mà
người ta cúng dường riêng cho Bụt. Thầy biết rất rõ là trong số những người đến
với Bụt có nhiều người muốn được Bụt tiếp xử bằng một thái độ đặc biệt, và nếu
không được tiếp xử như thế họ cảm thấy buồn tủi và từ sự buồn tủi đó họ có thể
sinh ra hờn án và ghét bỏ luôn cả Bụt.
Đại đức
Ananda nhớ rằng hồi Bụt an cư tại làng Kaimasadamya ở Kosambi, có một người đàn
bà tên là Magandika đã vì không được Bụt đối xử một cách đặc biệt mà sinh lòng
thù hận Bụt. Magandika là một phụ nữ xinh đẹp, con gái của một gia đình Bà la
môn. Lần đầu thấy Bụt -hồi đó Bụt mới có bốn mươì bốn tuổi- cô đem lòng yêu mến
người, rồi khi tình cảm đó lớn mạnh, cô đòi hỏi Bụt có một biệt nhãn đối với
cô. Cô dã làm mọi cách để Bụt đối xử với cô như một người đặc biệt, nhưng cô
không thành công. Rốt cuộc, tình cảm biến thành thù hận. Sau này trở nên thứ
hậu của vua Udena xứ Vamsa, cô đã dùng quyền thế và phương tiện của cô để cho
người đi nói xấu và nhục mạ Bụt, làm áp lực cho những chính quyền quận và ấp
đừng cho Bụt và giáo đoàn tới thuyết pháp. Cô lại tìm cách trả thù và hành hạ
vương phi Samavati, một người rất được vua Udayana ân sủng, chỉ vì người này là
đệ tử rất thuần kính của Bụt. Thấy Bụt bị nhục mạ và làm khó dễ quá, đại đức
Ananda đề nghị người nên đi hành đạo tại một xứ khác. Bụt hỏi:
- Nếu
tới xứ khác mà cũng bị nhục mạ và làm khó dễ nữa, thì ta sẽ đi đâu?
Ananda
nói:
- Thì ta
nên tới một xứ khác nữa.
Bụt bảo:
Nói như thế không được. Ananda ơi, gặp khó khăn, ta không nên nản lòng. Phải từ
trong môi trường khó khăn ấy mà tìm ra giải pháp ổn thỏa.
Ananda,
nếu ta thực tập phép hành xã, ta sẽ không thấy khó chịu khi bị nhục mạ, và
những lời nhục mạ ấy không động được đến ta. Những người chửi rủa ta sẽ không
làm tổn thương được ta và chí hướng ta nếu ta thực tập được phép xả; còn họ, họ
sẽ phải cịu dựng những kết quả của sự chửi rủa của họ.
Khi một
người nhổ nước bọt lên trời với ý định làm bẩn người, trời đã không bị bẩn mà
nước bọt sẽ rơi xuống mặt người nhổ nước bọt.
Bụt đã
thành công năm xưa ấy, Ananda thấy lòng bình thản và không lo ngại gì cho đại
đức Sariputta tối nay. Đạo hạnh của Sariputta đã được số đông các huynh đệ công
nhận, Nếu đứng vào địa vị của Bụt, chắc Ananda cũng phải làm như Bụt và cũng
phải trọng dnụg đại đức Sariputta. Sư huynh Sariputta thật xứng đáng ở địa vị
một huynh trưởng. Thông minh xuất chúng, kiến giải và đạo hạnh cao siêu, sư
huynh đã từng thay thế Bụt nhiều lần trong việc lãnh đạo giáo đoàn. Sư huynh đã
thuyết pháp nhiều lần và nhiều bài pháp thoại của sư huynh đã được Bụt khen
ngợi và cũng đã được trùng tuyên thành kinh điển. Chính Kinh Dấu Chân Voi -
Hatthipadopanna sutta - là do sư huynh nói. Trong kinh này sư huynh đã dạy về
tứ diệu đế. Sư huynh không lặp lại những lời của Bụt, mà đã diễn giải tứ diệu
đế một cách rất kỳ thú căn cứ vào sự tu chứng của bản thân sư huynh. Những lời
sư huynh nói về bốn yếu tố đất, nước, lửa và không khí liên hệ tới năm uẩn thật
là những giáo lý kỳ đặc và mới mẻ.
Khi Bụt
bước vào giảng đường, tất cả các vị khất sĩ đều đứng dậy. Người đưa tay mời mọi
người an tọa. Người cũng ngồi xuống pháp tọa để dành cho người và ra hiệu cho
đại đức Sariputta tới ngồi trên một chiếc ghế thấp bên tay phải của người.
Đợi cho
mọi người an tọa hết. Bụt mới xoay lại nói với đại đức Sariputta:
-
Sariputta, có vị khất sĩ buộc tội thầy xô vị ấy ngã và bỏ đi mà không xin lỗi.
Thầy có điều gì nói về việc này không?
Đại đức
Sariputta đứng dậy chắp tay xá Bụt rồi chắp tay xá đại chúng. Thầy lên tiếng:
Thế Tôn,
một ông thầy tu không tu, không quán niệm thân thể nơi thân thể, không có ý
thức về những động tác của thân thể, một ông thầy tu như thế có thể xô ngã một
người bạn tu của mình và bỏ đi mà không thèm xin lỗi.
Thế Tôn,
con nhớ bài học mà ngày xưa Thế Tôn đã dạy cho khất sĩ Rahula, hồi ấy mới mười
tám tuổi, cách đây đã trên mười bốn năm. Thế Tôn dạy Rahula học theo hạnh của
đất, của nước, của lửa và của không khí, để nuôi dưỡng và phát triển bốn đức
Từ, Bi, Hỷ và Xả. Hôm ấy con cũng có mặt.
Thế Tôn
dạy Rahula, nhưng con đã có duyên học và thực tập bài học ấy trong suốt mười bốn
năm qua và con đã nhiều lần thầm biết ơn Thế Tôn về bài học ấy.
Thế Tôn,
con đã tập hành sự như đất, và con đã thành công. Đất bao giờ cũng dày dặn,
rộng lớn, bao la, có khả năng thu nhận và chuyển hóa. Dù người ta đổ và rải lên
những thứ tinh sạch như hoa, nước thơm, sữa thơm hoặc đổ và rải xuống đất những
thứ dơ bẩn và hôi hám như phân, nước tiểu, máu, mủ, đàm, nhớt ... thì đất cũng
tiếp nhận những thứ đó một cách thản nhiên, không tham đắm, không giận hờn,
cũng không ghê tởm ...
Lạy Bụt,
con đã quán niệm để thân và tâm con được như đất. Một ông thầy tu không quán
niệm thân thể nơi thân thể, không có ý thức về những động tác của thân thể, một
ông thầy tu như thế có thể xô ngã một người bạn tu và bỏ đi mà không thèm xin
lỗi. Con không đến nỗi như vậy.
Thế Tôn,
con đã tập hành sự như nước. Khi người ta giặt những thứ thơm tho hoặc dơ bẩn
trong nước, nước cũng không vì thế mà cảm thấy tham đắm hoặc tủi nhục, buồn khổ
và chán chường. Nước bao la, lưu chuyển, có năng lực hóa giải và gạn lọc. Lạy
Bụt, con đã quán niệm để thân và tâm con được như nước. Một ông thầy tu không
quán niệm thân thể nơi thân thể, không có ý thức về những động tác của thân
thể, một ông thầy tu như thế có thể xô ngã một người bạn tu và bỏ đi mà không
thèm xin lỗi. Con không đến nỗi như thế.
Thế Tôn,
con đã tập hành sự như lửa. Lửa đốt cháy mọi thứ kể cả những cái đẹp đẽ hoặc
hôi hám và dơ bẩn, nhưng lửa không vì vậy mà cảm thấy hoặc tham đắm hoặc tủi
nhục, buồn giận và chán chường. Lửa có năng lực thiêu đốt, gạn lọc và hóa giải.
Lạy Bụt, con đã quán niệm để thân và tâm con được như lửa. Một ông thầy tu
không quán niệm thân thể nơi thân thể, không có ý thức về những động tác của
thân thể, một ông thầy tu như thế có thể xô ngã một người bạn tu và bỏ đi mà
không thèm xin lỗi. Con không đến nỗi như thế.
Thế Tôn,
con đã tập hành sự như không khí. Không khí thổi đi những thứ mùi hoặc thơm
hoặc thối, dù mùi đó là mùi máu mủ, phân và nước tiểu, mà không cảm thấy tham
đắm hoặc tủi nhục, buồn giận hay chán chường.
Không
khí có khả năng giải tỏa, gạn lọc và hóa giải. Lạy Bụt, con đã quán niệm để
thân và tâm con được như không khí. Một ông thầy tu không quán niệm thân thể
nơi thân thể, không có ý thức về những động tác của thân thể, một ông thầy tu
như thế có thể xô ngã một người bạn tu và bỏ đi mà không thèm xin lỗi. Con
không đến nỗi như thế.
Thế Tôn,
như một em bé dòng dõi hạ tiện, áo quần rách rưới ôm bát vào làng xóm mà xin
ăn; trong lòng không có một hào ly nào tự phụ, con cũng thế, trái tim con cũng
như trái tim của một em bé dòng dõi hạ tiện, luôn luôn tràn đầy khiêm cung, đâu
có dám lên mặt với ai. Lạy Bụt, một ông thầy tu không quán niệm thân thể nơi
thân thể, không có ý thức về những động tác của tâm ý, một ông thầy tu như thế
có thể xô ngã một người bạn tu và bỏ đi mà không thèm xin lỗi. Con không đến
nỗi như thế.
Đại đứ
Sariputta còn muốn nói nữa, nhưng vị khất sĩ buộc tội đại đức đã đứng dậy. Vị
này vắt chéo áo sanghati lên vai, và lạy xuống trước Bụt, rồi quỳ xuống với hai
bàn tay chắp lại, vị ấy nói:
- Bạch
Thế Tôn, con đã phạm giới, con đã buộc tội sư huynh Sariputta một cách oan
uổng, con xin sám hối trước Bụt và đại chúng để được thanh tịnh, và tự nguyện
từ nay về sau sẽ không tái phạm.
Bụt nói:
- Thầy
đã nhận là mình có tội trước đại chúng và sám hối. Điều này rất tốt, đại chúng
đã chấp nhận sự sám hối của thầy.
Quay lại
đại đức Sariputta, Bụt nói:
- Mong
đại đức bỏ qua lỗi lầm của vị khất sĩ này.
- Con
xin sẵn lòng bỏ qua nếu thầy ấy hối cải, và con cũng xin thầy ấy bỏ qua và tha
thứ những lỗi lầm có thể có của con.
Vị khất
sĩ đến trước Sariputta chắp tay lại làm lễ, Đại đức Sariputta đứng dậy đáp lễ.
Hai vị cung kính lạy nhau. Đại chúng rất hoan hỷ. Không khí rất cởi mở và hòa
dịu. đại đức Ananda đứng dậy nói:
- Sư
huynh Sariputta, mời sư huynh ở lại chơi với các huynh đệ dăm ba hôm rồi sau đó
hãy lên đường đi hành hóa. Anh em rất nhiều người muốn được gặp gỡ thân mật với
sư huynh.
Đại đức
Sariputta mỉm cười, im lặng chấp thuận.
Sau mùa
an cư, Bụt đi du hành ở nhiều thị trấn trong xứ. Một hôm người đến Kesaputta,
thị trấn của bộ tộc Kalama. Giới trẻ tìm gặp người rất đông, họ đã từng nghe
tiếng sa môn Gotama nhưng chưa lần nào được gặp.
Một
thanh niên chắp tay hỏi Bụt:
- Sa môn
Gotama, lâu nay có rất nhiều vị đạo sĩ Bà la môn đến viếng xứ Kesaputta này, để
giảng dạy đạo lý. Vị nào cũng nói chỉ có đạo lý của mình là hay và thường hay
chê bai những đạo lý khác. Chúng con thật là bối rối, không biết đường nào mà
đi, và rốt cuộc chúng con sinh ra nghi ngờ tất cả.
Sa môn,
chúng con nghe nói người là bậc giác ngộ liêm trực, xin người cho chúng con
biết là nên tin theo ai và không nên tin theo ai? Ai là nói đúng và ai là người
đang truyền bá tà thuyết?
Bụt nói:
- Trong
trường hợp này, nếu các bạn có sinh tâm nghi ngờ, đó cũng là việc tự nhiên, dễ
hiểu.
Này các
bạn, các bạn đừng vội tin vào một điều gì dù diều đó là điều mà người ta thường
nói đến luôn, dù điều đó có trong kinh điển, dù điều đó là do một bậc thầy mà
thiên hạ tôn sùng nói ra. Các bạn chỉ nên chấp nhận và tin vào những điều mà
các bạn thấy hợp với lý trí của các bạn, những điều được các hiền nhân đồng ý,
những điều mà nếu đem ra thực hành thì đưa tới những kết quả tốt đẹp cho đời
sống, còn những điều không hợp với lý trí, những điều bị các hiền nhân chê
trách, những điều mà nếu đem ra thực hành thì đưa tới khổ đau và đổ vỡ, những
điều đó các bạn nên bác bỏ, đừng chấp nhận nữa.
Người
thanh niên Kalama nói:
- Xin sa
môn Gotama chỉ bày thêm cho chúng con.
Bụt hỏi:
- Này
các bạn, ví dụ có một người để tham vọng, giận hờn và si mê chế ngự tâm mình,
thì những tham dục giận hờn và si mê ấy sẽ làm cho kia vui hay là khổ?
- Thưa
sa môn, những tham vọng, giận hờn và si mê ấy sẽ làm cho người kia phạm vào tội
ác và sẽ đem lại khổ đau lâu dài cho người ấy.
- Vậy
thì sống theo tham vọng, giận hờn và si mê có phải là lối sống mà các bậc hiền
nhân chấp nhận và khuyến khích không?
- Thưa
không.
- Giả dụ
có một người kia sống theo hạnh Từ, Bi, Hỷ, và Xả, biết đem lại hạnh phúc cho
kẻ khác, biết làm giảm bớt nổi khổ của người đời, biết vui theo niềm vui của kẻ
khác, biêt đối xử với kẻ khác một cách không kỳ thị, không oán trách, thì những
hạnh Từ, Bi, Hỷ, và Xả ấy sẽ làm cho người ấy vui hay là khổ?
Những
hạnh ấy không những sẽ làm cho người ấy có hạnh phúc mà còn làm cho mọi người
sống chung quanh có hạnh phúc nữa.
- Vậy thì
sống theo Từ, Bi, Hỷ, và Xả có phải là lối sống mà các bậc hiền nhân chấp nhận
và khuyến khích không?
- Thưa
sa môn, có.
- Hay
lắm, các bạn. Các bạn hiện có đầy đủ tư cách để phán xét những gì nên tin và
nên chấp nhận, và những gì không nên tin và không nên chấp nhận. Tôi xin nhắc
lại: chỉ nên tin và chấp nhận những gì hợp với trí xét đoán của mình, những gì
được các bậc hiền nhân chấp nhận và khuyến khích, những gì mà nếu đem ra thực
hành sẽ đem lại niềm vui và hạnh phúc cho mình và cho kẻ khác. Những gì trái
chống lại thì nên từ chối, đừng chấp nhận.
Những
người trẻ trong bộ tộc Klama rất lấy làm hoan hỷ sau khi nghe Bụt nói. Họ nhận
thấy giáo lý của Bụt rất phù hợp với lý trí họ, không đòi hỏi một đức tin không
điều kiện. Họ thấy nơi giáo lý ấy một niềm tôn trọng tự do tư tưởng rất lớn.
Nhiều người xin được quy y làm học trò của Bụt.
---o0o---
Chương 63
ĐƯỜNG VỀ BIỂN CẢ
Trên
đường đi, Bụt ghé vào thị trấn Alavi, Tại đây người được dân chúng đón tiếp và
cúng dường trai phạn tại một trú sở công cộng. Đi theo Bụt có tám vị khất sĩ
trong đó có thị giả của người là Ananda. Sau khi Bụt và các vị khất sĩ đã thọ
trai, mọi người đều ngồi lại ăn uống. Hôm ấy đến dự có khoảng ba trăm người.
Cơm nước đã xong, đại đức Ananda thỉnh Bụt nói pháp cho quần chúng. Mọi người
đã ngồi yên sẵn sàng nghe Bụt nói, thì một bác nông dân đẩy cửa bước vào. Bác
đã đến trễ, vì sáng hôm nay bác phải đi tìm một con trâu lạc. Tìm được trâu
rồi, bác đóng cửa chuồng trâu và vội vã tìm tới trụ sở buổi họp, chưa kịp bỏ
một hạt cơm nào vào bụng.
Biết bác
nông dân đang đói, Bụt không thuyết pháp vội. Người bảo đem cơm và cà ri ra để
bác nông dân ăn trước. Có người sốt ruột, bảo rằng ba trăm người mà phải chờ
một người thì quá đáng, nhưng Bụt nhất định chờ.
Người
chờ cho bác nông dân ăn cơm và uống nước xong mới bắt đầu thuyết pháp. Người
nói:
- Thưa
quý vị, nếu tôi thuyết pháp trong khi bác nông dân này đang đói bụng, thì bác
sẽ không theo dõi được bài giảng và như thế là sẽ thiệt hại cho bác. Đại chúng
nên biết không có gì khổ bằng đói. Cái đói nó hành hạ ta và làm cho ta mất hết
thanh tịnh và an lạc. Chúng ta phải nghĩ tới những kẻ bị đói, người lớn cũng
như trẻ em. Đói vì ăn cơm trễ đã là khổ rồi, huống hồ không ăn trong nhiều ngày
nhiều tháng. Ta phải làm sao để đừng có ai bị đói trên cuộc đời này mới được.
Ngược
dòng sông Hằng, Bụt hướng về Kosambi phía Tây Bắc. Đứng bên dòng sông, Bụt nhìn
thấy một khúc gỗ lớn đang theo dòng chảy về phương Đông. Người gọi các vị khất
sĩ cùng đi, chỉ cho họ thấy khúc gỗ đang trôi và nói:
- Các vị
khất sĩ! Khúc gỗ kia nếu không bị vướng mắc vào hai bờ, nếu không chìm đắm nửa
chừng, nếu không vướng một doi cát, nếu không bị người ta vớt lên, nếu không bị
cuốn theo dòng nưóc xoáy và nếu không bị mục nát từ bên trong mục nát ra, thì
sẽ cứ trôi như thế cho đến ngày ra được biển cả. Các vị cũng thế, trên con
đường tu đạo, nếu quý vị không bị vướng mắc vào hai bờ, nếu quý vị không bị
chìm đắm nửa chừng, nếu không vướng vào một doi cát, nếu không bị người ta vớt
lên, nếu không bị cuốn theo dòng nước xoáy và nếu không bị mục nát từ bên trong
mục nát ra, thì chắc chắn các vị cũng sẽ đi về tới đại dương của sự giải thoát
và giác ngộ hoàn toàn.
Các vị
khất sĩ hỏi Bụt:
- Xin
Thế Tôn nói rõ cho chúng con hiểu, thế nào là vướng mắc vào hai bờ?
Thế nào
là không bị chìm đắm nửa chừng? Thế nào là không bị cuốn trôi theo dòng nước
xoáy?
- Bị
vướng mắc vào hai bờ tức là bị vướng mắc vào sáu giác quan và sáu loại đối
tượng. Sống tinh cần và tỉnh thức thì quý vị thì các vị sẽ không đánh mất chánh
niệm và sẽ không bị kẹt vào những cảm thọ do sự xúc tiếp giữa sáu giác quan và
sáu loại đối tượng của chúng gây ra. Chìm đắm nửa chừng túc là bị những sợi dây
tham dục và mê đắm buộc lại và không còn đủ sức để đi tới, và rốt cuộc phải nửa
chừng bỏ lỡ sự nghiệp tu học của mình.
Vướng mà
một doi cát tức là vướng vào sự phục vụ cái ngã của mình, suốt đời chỉ nhắm tới
chuyện quyền lợi và hư danh mà quên đi mục đích tối hậu là giải thoát. Bị người
ta vớt lên nghĩa là mãi mê cái vui phàm tục, chỉ ưa la cà suốt ngày suốt buổi
rong chơi với bạn xấu mà bỏ nhãng công việc tu hành. Cuốn theo dòng nước xoáy
có nghĩa là chìm đắm trong vũng tù của năm thức dục lạc: ăn ngon, mặc đẹp, sang
giàu, dâm dục, hư danh, và lười biếng mê ngủ. Mục nát từ bên trong mục nát ra
là sống đời sống đạo đức giả dối, lường gạt quần chúng, lợi dụng đạo pháp để
thỏa mãn cá nhân.
Các vị
khất sĩ! Các vị nên tinh tiến tu học, giữ gìn để đừng vướng mắc vào một trong
sáu trở ngại đó. Như thế các vị chắc chắn sẽ đi về quả giác ngộ, như khúc gỗ
kia nếu không bị vướng mắc vào bất cứ trở ngại gì trên sông thì sẽ chắc chắn về
được tới biển cả.
Trong
lúc Bụt giảng dạy cho các vị khất sĩ thì có một thiếu niên chăn trâu khoảng
mười sáu tuổi đứng gần đó. Thanh niên này tên là Nanda, trùng với tên vị khất
sĩ Nanda, em cùng cha khác mẹ với Bụt. Nanda nghe Bụt giảng, thích lắm, chàng
đến gần Bụt xin Bụt cho chàng đi theo làm học trò người.
Chàng
nói:
- Sa
môn, con cũng muốn được như các vị khất sĩ có dung mạo trang nghiêm kia. Con
cũng muốn tu học như các vị. Con hứa sẽ đem hết sức mình để tu học, để đừng bị
vướng vào hai bờ, để đừng bị chìm đắm, để đừng bị vướng vào một doi cát, để
đừng bị người ta vớt lên, để đừng bị cuốn theo dòng nước xoáy và để đừng bị mục
nát từ trong mục nát ra. Xon sa môn nhận con làm học trò của người ...
Thấy
thiếu niên tuy ít học mà có vẻ thông minh, Bụt gật đầu. Người hỏi:
- Con
bao nhiêu tuổi?
- Bạch
sa môn, con mười sáu.
- Con có
cha mẹ ở nhà không?
- Ba mẹ
con đều đã mất. Con không có anh em và bà con nào hết. Con chỉ ở giữ trâu cho
một người giàu có trong làng mà thôi.
Bụt hỏi
tiếp:
- Con có
thể ăn một ngày một bữa không?
- Con đã
quen ăn như thế từ lâu.
Bụt nói:
- Đáng
ra, con phải có đủ hai mươi tuổi mới được chấp nhận vào giáo đoàn.
Tuổi
chưa hai mươi thì chưa đủ chịu đựng được nếp sống không nhà không cửa, nhưng
con là một thiếu niên đặc biệt, ta sẽ xin giáo đoàn cho con được miễn điều kiện
tuổi tác. Con sẽ tập sự bốn năm với tư cách một vị sa di trước khi thọ giới
khất sĩ. Bây giờ con đi lùa trâu về trả cho chủ con đi, và con xin phép chủ con
cho nghỉ việc. Xong xuôi, con sẽ đến tìm ta.
Thiêu
niên thưa:
- Bạch
sa môn, con không cần làm như thế, những con trâu này khôn lắm, chúng có thể đi
về chuồng một mình mà không cần con lùa.
- Nhưng
con phải lùa chúng về, giao lại cho chủ đàng hoàng và xin phép chủ nghỉ việc
thì con mới được chấp nhận theo ta.
- Nếu lỡ
con lùa trâu về giao cho chủ và xin phép chủ được rồi, nhưng khi trở lại Bụt và
các thầy đã đi hết rồi thì sao?
Bụt
cười:
- Con
đừng lo, ta đã hứa thì chúng ta sẽ đứng đây chờ con.
Nanda
sung sướng đi lùa trâu về chuồng. Bụt gọi khất sĩ Svastika. Người nói:
-
Svastika, thầy giao cho con hướng dẫn em thiếu niên chăn trâu này. Thầy tin
rằng con biết cách giúp nó.
Svastika
chắp tay phụng mệnh. Thầy Svastika năm nay đã ba mươi chín tuổi. Thầy biết tại
sao Bụt giao trách nhiệm hướng dẫn em thiếu niên chăn trâu này. Được gặp Bụt
hồi còn mười một tuổi, Svastika đã được Bụt cho xuất gia năm thầy lên hai mươi
mốt. Chính vì Svastika mà Bụt đã nói kinh Phong Ngưu. Kinh này thầy Svastika
vẫn thuộc lòng. Thầy đã trùng tuyên kinh này rất nhiều lần cho các bạn đồng tu.
Cậu bé này sẽ được tập sự xuất gia, và bốn năm sau sẽ được thọ giới khất sĩ.
Thầy Svastika tin tưởng là mình đủ sức để hướng dẫn chú bé Nanda này. Đã đến
lúc Bụt giao cho thầy trách vụ tiếp độ những người trẻ tuổi. Bạn thân nhất của
thầy là đại đức Rahula năm nay cũng đã ba mươi sáu.
Tất cả
mấy đứa em của thầy Svastika đến nay đã có vợ và có chồng. Ai cũng có gia đình
và nhà cửa riêng. Ngôi nhà ngày xưa của gia đình Svastika bây giờ đã xiêu vẹo
và đổ nát. Trong một chuyến du hành ngang qua thôn Uruveka, Svastika đã ghé
thăm lại chốn cũ năm xưa, khi thầy còn mười một tuổi, một mình phải đi chăn
trâu nuôi bốn đứa em. Năm ấy Rupak mới bảy tuổi, Bala mới năm tuổi, Bhima mới
hai tuổi. Năm nay Bhima đã ba mươi tuổi rồi. Cũng như chị nó là Bala, Bhima đã
có chồng có con, em trai của Svastika sau khi cưới vợ đã đi lập nghiệp ở một
nơi khác. Svastika đã có gần hai mươi đứa cháu, và trong số đó cũng có những
đứa đang đi chăn trâu cho người khác như Svastika và Rupak ngày xưa. Svastika
nhớ có lần thầy đã mời thầy Rahula ghé lại quê nhà. Lúc đó Rupak đã cưới vợ và
đi sinh sống nơi khác. Hai đứa em gái còn ở với nhau, sống vào nghề làm bánh.
Svastika đã cùng đi với Rahula ra bờ sông. Nhớ lời hứa với bạn, Svastika đã đi
tìm bọn chăn trâu đang thả trâu cho ăn bên bờ cỏ cạnh dòng sông Ni Liên Thuyền
và bảo chúng để cho Rahula thử cỡi lên mình trâu. Lúc đó Rahula đã thọ giới
khất sĩ, nên hơi ngần ngại, nhưng cuối cùng, Rahula đã cởi áo sanghati cho Svastika
cầm. Một em bé mục đồng chỉ cho Rahula cách leo và ngồi trên mình trâu. Thấy
con trâu to lớn nhưng quá hiền lành, Rahula làm đúng theo lời em bé. Ngồi trên
mình trâu, để trâu thong thả bước đi, Rahula cho Svastika biết cái cảm giác là
lạ của thầy. Rahula ý thức về cảm giác ấy, rồi Rahula nói không biết nếu thấy
cảnh này Bụt sẽ nghĩ gì, Svastika biết nếu không đi tu, nếu ở lại hoàng cung để
sau này làm vua, chắc hẳng Rahula sẽ không bao giờ có dịp cỡi lên mình trâu mà
đi như hôm nay.
Chú bé
Nanda đã trở lại, đại đức Svastika trở về giờ phút hiện tại. Thầy bảo Nanda tới
gần thầy, và cho chú biết thầy sẽ là thầy nương tựa của chú. Ngay tối hôm ấy
Nanda được xuống tóc làm một vị sa di. Chú tiểu mới này được dạy cách mặc áo,
mang bát và những cách đi, đứng, nằm, ngồi theo chánh pháp.
Nanda đã
mười sáu tuổi và có vẻ chín chắn; thầy Svastika nghĩ rằng hướng dẫn chú sa di
này không phải là việc khó. Thầy nhớ năm xưa ở tu viện Trúc Lâm, có một nhóm
mười bảy em bé được các thầy trong tu viện chấp nhận vào giáo đoàn để tu học,
em lớn nhất mười bảy tuổi và em bé nhất chỉ mới có mười hai. Tất cả đều là con
nhà khá giả, đứa lớn nhất tên là Upali. Mười sáu em kia đều là bạn chơi thân
của Upali. Khi Upali xin đi xuất gia, cả bọn mười sáu đứa kia đều đòi cha mẹ
cho đi tu theo. Sau khi được chấp nhận, bọn trẻ được khép vào kỷ luật của tu
viện. Luật của tăng đoàn là không thể ăn quá ngọ. Đêm đầu, mấy em nhỏ đói quá
nên khóc. Các thầy bỏ phải đợi tới ngày mai mới được ăn cơm. Buổi sáng, Bụt hỏi
các thầy tại sao ban đêm lại có tiếng trẻ em khóc. Các thầy trình bày lại tự
sự. Bụt bảo:
- Từ nay
về sau, các thầy không nên nhận vào giáo đoàn những người dưới hai mươi tuổi.
Các em chưa đủ sức để chịu đựng nếp sống của người khất sĩ.
Tuy
nhiên, vì các em đã được chấp nhận lỡ rồi nên vẫn được giữ lại. Bụt dạy các
thầy nên cho phép các em từ mười lăm trở xuống được ăn thức ăn nhẹ vào buổi
chiều, cũng như Rahula hồi còn tám tuổi. Em bé nhỏ nhất năm ấy, năm nay cũng đã
được thọ giới khất sĩ rồi vì đã đến tuổi hai mươi.
---o0o---
Chương 64
VÒNG SINH TỬ KHÔNG CÓ BẮT ĐẦU
Một hôm
đang ngồi ở vườn Bhesakala ở Sumsumaragira, Bụt bảo các vị khất sĩ:
- Này
các vị, tôi muốn nói để các vị nghe về tám điều giác ngộ của các bậc đại nhân.
Tám điều này đã từng được đại đức Anurudha chiêm nghiệm và nói tới, hồi tôi gặp
đại đức tại Vườn Tre xứ Ceti, nơi đại đức ẩn cư. Đây là tám điều mà những bậc
giác ngộ có thể đem ra dạy dỗ và giáo hóa để đưa người từ cõi mê lầm đến bờ
giải thoát.
Điều thứ
nhất là giác ngộ rằng vạn pháp là vô thường và vô ngã. Quán sát về tính vô
thường và vô ngã của vạn pháp thì tránh được khổ đau và dần dần đạt tới giải
thoát và an lạc.
Điều thứ
hai là giác ngộ rằng càng nhiều ham muốn thì càng nhiều khổ đau.
Giảm bớt
ham muốn tức là làm cho đời bớt khổ.
Điều thứ
ba là giác ngộ rằng tri túc đem tới an lạc. Biết sống đơn giản thì sẽ có thì
giờ và tâm lực để tu đạo và để giúp đời.
Điều thứ
tư là giác ngộ rằng chỉ có sự tinh cần mới đưa ta đến quả vị giác ngộ. Lười
biếng và hưởng thụ chỉ đưa đến sụ đọa lạc vào thế giới của ma chướng và phiền
não.
Điều thứ
năm là giác ngộ rằng sống trong quên lãng và vô minh thì sẽ bị giam hãm đời đời
trong cõi sinh tử ràng buộc. Chỉ có đời sống chánh niệm và tỉnh thức mới đưa
tới sự thành tựu giác ngộ và khả năng giáo hóa.
Điều thứ
sáu là giác ngộ rằng bố thí là một phương tiện quan trọng để độ người. Vì nghèo
khổ mà phần đông bị giam hãm trong oán hận và căm thù, do đó mà cứ tạo thêm
nghiệp xấu. Người hành đạo phải thực hiện phép bố thí, coi kẻ ghét người thương
bằng nhau, bỏ qua những điều ác mà người ta đã làm đối với mình và không đem
tâm ghét bỏ những ai đã vì nghèo khó mà lỡ phạm vào tội lỗi.
Điều thứ
bảy là giác ngộ rằng người hành đạo tuy đi vào đời để hóa độ mà không bị chìm
đắm trong cuộc đời. Người xuất gia khi đi vào đời để cứu độ chỉ nên lấy y bát
làm vật sở hữu duy nhất của mình, luôn luôn sống nếp sống thanh bạch mà hành
đạo, giữ phạm hạnh cho thanh cao và đem lòng từ bi mà tiếp xử với tất cả mọi
người và mọi loài.
Điều
giác ngộ thứ tám là không chỉ bo bo lo việc giải thoát cho riêng mình mà phải
biết nổ lực phục vụ cho kẻ khác để tất cả cùng hướng về nẻo giác ngộ.
Này các
vị khất sĩ! Trên đây là tám điều giác ngộ của các bậc đại nhân. Tất cả các bậc
đại nhân đã nhờ tu tập theo tám điều này mà được giác ngộ. Khi đi vào đời họ
cũng đem tám điều này để khai mở và giáo hóa cho mọi người, để cho ai nấy đều
biết được con đường đưa tới giác ngộ và giải thoát.
Về tới
tu viện Trúc Lâm ở Rajagala, Bụt được thông báo là vị khất sĩ Vakkali đang bị
bệnh nặng và rất trông mong được thấy mặt Bụt trước khi qua đời. Nghe Bụt về
tới Trúc Lâm, thầy đã gửi vị thị giả của thầy tới để vấn an Bụt. Vị thị giả này
lạy xuống ba lạy rồi mới quỳ lên và bạch:
- Bạch
Thế Tôn, thầy con hiện đang ốm nặng. Thầy con đang nằm trên giường bệnh, trong
ngôi nhà của một người cư sĩ làm nghề đồ gốm. Thầy con dặn con tới thay thầy
con để cung kính lạy xuống và kê đầu trên chân Thế Tôn, ba lần.
Bụt nói
với thầy Ananda:
- Chúng
ta hãy đi thăm đại đức Vakkali.
Biết Bụt
đến, đại đức Vakkali gắng gượng ngồi lên, nhưng thầy không ngồi lên nổi, Bụt đỡ
thầy nàm xuống trở lại và nói:
-
Vakkali, đừng cố gắng ngồi lên. Cứ nằm xuống cho thoải mái. Có mấy cái ghế có
sẵn đây, tôi và thầy Ananda ngồi xuống được rồi.
Bụt và
thầy Ananda ngồi xuống. Người hỏi thăm:
- Thầy
Vakkali, tôi mong rằng tình trạng sức khỏe của thầy không đến nổi nào và những
cơn đau trong thân thể của thầy có giảm bớt.
- Bạch
Thế Tôn, tình trạng sức khỏe của con càng lúc càng tệ. Con khó chịu lắm, những
cơn đau trong cơ thể đã không giảm bớt, trái lại còn cứ tăng dần.
- Tôi
mong rằng trong tâm, thầy không lo lắng gì và không ân hận gì.
- Bạch
Thế Tôn, có; trong lòng con có lo lắng và có ân hận.
- Vậy
tôi mong thầy không tự trách gì mình về nếp sống tu học phạm hạnh của thầy.
- Không,
bạch Thế Tôn, con không có trách móc gì con và không có ân hận gì về đời sống
phạm hạnh của con cả.
- Vậy
thì thầy lo lắng và ân hận về cái gì?
- Con
chỉ lo lắng và ân hận là từ lâu nay con rất muốn đi thăm Bụt mà vì yếu quá con
đã chẳng làm được việc ấy.
Bụt quở
nhẹ nhàng:
- Thôi
đi, Vakkali. Lo lắng ân hận gì về chuyện ấy. Thầy đã sống xứng đáng đời sống
phạm hạnh như thế, thì thầy trò mình luôn luôn có mặt bên nhau rồi. Cứ gì phải
thấy mặt tôi mới gọi là thấy Bụt? Cái hình hài này đâu phải là quan trọng.
Chính chánh pháp mới là thiết yếu. Ai thấy được chánh pháp tức là thấy Bụt.
Thầy được hình hài này mà không thấy được chánh pháp tức cũng như không thấy
được gì hết.
Im lặng
một lát, Bụt hỏi:
-
Vakkali, thầy có thấy sắc thân là vô thường không? Sắc thân nơi thầy cũng thế,
mà sắc thân nơi tôi cũng thế.
- Bạch
Thế Tôn, con thấy rất rõ, con thấy sắc thân là vô thường, sinh diệt, và biến
chuyển không ngừng. Con lại thấy cảm thọ cũng vô thường, những đau nhức cũng
như những vui mừng của con cũng đang sinh diệt và biến chuyển không ngừng. Tri
giác, tâm tư, và nhận thức nơi con cũng chịu luật sinh diệt vô thường ấy. Trước
khi Thế Tôn đến thăm, con đã quán chiếu nhiều về tính vô thường của năm uẩn và
con bắt đầu thấy rõ ràng trong năm dòng sinh diệt ấy không có gì có thể gọi là
tự ngã.
- Hay
lắm, Vakkali! Tôi có đức tin nơi thầy. Trong năm uẩn, ta không thấy được một
cái gì gọi là tự ngã. Tự ngã không phải là một cái gì được nhốt kín trong năm
uẩn. Thầy mở mắt ra nhìn đi: đâu mà không phải là Vakkala, cái gì mà không phải
là Vakkali? Sự sống mầu nhiệm khắp nơi. Vakkali! Sinh diệt không động được tới
thầy đâu. Thầy mỉm cười đi, mỉm cười ngay với cái thân tứ đại của thầy. Mỉm
cười ngay với những đau nhức đang sinh diệt trong cơ thể của thầy.
Hai mắt
của đại đức Vakkali rươm rướm ướt. Trên môi thầy rõ rệt là có một nụ cười.
Bụt đứng
dậy cáo từ.
Sau khi
Bụt và Ananda đã đi khỏi, đại đức Vakkali bảo các bạn:
- Các
bạn khiêng dùm tôi. Khiêng cả chiếc giường này. Xin khiêng tôi ra sườn núi
Isigili. Một người như tôi mà nằm chết trong một căn phòng thì ngó sao được?
Tôi muốn chết trên sườn núi, giữa mây trời cao rộng.
Các bạn
tu của thầy liền xúm lại khiêng thầy lên sườn núi Isigili.
Đêm ấy
Bụt ngồi thiền tọa cho đến khuya. Sáng sớm, người đi ra và bảo mấy vị khất sĩ
cư trú gần người:
- Các
thầy hãy đi thăm thầy Vakkali đi, và nhắn rằng thầy ấy đừng nên e ngại sợ sệt.
Cái chết của thầy sẽ bình an và vô tội, thầy cứ an tâm mà đi. Tôi có đức tin
nơi thầy ấy.
Các vị
khất sĩ tìm ra sườn núi và gặp đại đức Vakkali. Họ nói:
- Đức
Thế Tôn có điều muốn nhắn với thầy.
Vakkali
nói:
- Nhờ
các bạn khiêng tôi xuống đất. Nằm trên giường cao mà nhận giáo chỉ của Bụt thì
còn ra gì nữa? Tôi là ai mà dám nằm trên giường cao để tiếp nhận lời giáo huấn
của đức Thế Tôn?
Người ta
khiêng thầy xuống nằm trên một tảng đá. Rồi các vị khất sĩ lập lại những lời
của Bụt nhắn.
Nghe
xong, thầy Vakkali chắp tay lại, khẩn khoản:
- Xin
các sư huynh về đãnh lễ Bụt giúp cho tôi ba lần, và xin các sư huynh bạch với
người như sau: Thế Tôn, khất sĩ Vakkali đau rất nặng, và nhức nhối vô cùng.
Khất sĩ Vakkali xin đập đầu kính lạy Thế Tôn. Khất sĩ Vakkali thấy rất rõ năm
uẩn là vô thưòng, là khổ, là không, là vô ngã, và khất sĩ Vakkali không bị ràng
buộc vào năm uẩn. cho đến giờ phút chót Vakkali cũng thấy rõ như vậy và không
còn một chút nghi ngại nào.
Các vị
khất sĩ nói:
- Huynh
cứ an tâm, chúng tôi sẽ về lạy Bụt và trình lại người những điều sư huynh vừa
nói.
Các vị
khất sĩ vừa đi khỏi thì vị khất sĩ Vakkali từ trần.
Chiều
hôm ấy Bụt lên núi Isigili với một số các vị khất sĩ. Bầu trời xanh trong, chỉ
có một gợn khói bốc lên từ cuối chân trời, nhưng trong phút chốc gợn khói cũng
tan loãng trong không gian và biến mất. Nhìn bầu trời bao la, Bụt nói với các
vị khất sĩ:
-
Vakkali đã giải thoát. Không một ma chướng nào, không một pháp hữu vi nào có
thể kìm hãm và giam giữ được Vakkali.
Bụt lại
lên đường đi Nalanda rồi Vesali.
Tại tu
viện Trùng Các trong rừng Mahavana, một hôm Bụt dạy các vị khất sĩ:
- Này
các vị, sống ở trên đời ai mà không ít nhiều phải gánh chịu khổ đau.
Tuy
nhiên, những ai có tu, có học, có đạt được trí tuệ thì khổ đau rất ít so sánh
với khổ đau của người không tu, không học, không có trí tuệ.
Lúc ấy
trời còn nắng lớn nhưng Bụt đang ngồi với các thầy trong bóng mát những cây
sala. Bụt nhặt lên một hòn đất nhỏ, cầm nó giữa ngón tay cái và ngón tay trỏ,
đưa lên cao và hỏi:
- Này
các vị khất sĩ, hòn đất trong tay tôi so với núi Tượng Đầu cái nào lớn hơn?
- Bạch
đức Thế Tôn, cố nhiên so với núi Tượng Đầu, hòn đất trong tay Thế Tôn không có
nghĩa gì.
- Cũng
như thế đó các vị, đối với người có tu, có học, có đạt đến trí tuệ thì tuy có
đau khổ mà đau khổ ấy sánh với đau khổ của người không tu, không học, không có
trí tuệ thì không có nghĩa gì. Si vọng làm cho đau khổ to lớn gấp bội.
Này các
vị, ví dụ có người bị trúng một mũi tên, người ấy cảm thấy đau nhức, nhưng nếu
một mũi tên thứ hai tới cắm đúng vào chỗ vết thương thì cái đau nhức ấy chắc
chắn lớn hơn bội phần, và nếu một mũi tên thứ ba bay tới bắn trúng ngày vào
cùng chỗ đó thì sự đau nhức lại còn lớn lao gấp trăm ngàn lần. Si vọng cũng như
mũi tên thứ hai, mũi tên thứ ba và những mũi tên khác. Nó làm cho cái khổ tăng
gia gấp bội.
Nhờ trí
tuệ, nhờ hiểu biết, con người có học, có tu và có giác ngộ không làm cho cái
khổ gia tăng nơi mình và nơi người khác. Khi có một khổ thọ, dù là khổ thọ về
thân xác hay là khổ thọ về tâm ý, người có trí không sầu muộn, không than van
khóc lóc, không đập ngực bứt tóc, không đày đọa thân thể và tâm hồn, không ngã
lăn ra bất tỉnh. Người ấy bình tĩnh quán chiếu và biết khổ thọ chỉ là một cảm
thọ, người ấy biết người ấy không phải là cảm thọ, không kẹt vào cảm thọ. Cảm
thọ không còn trói buộc được người ấy. Khổ đau không trói buộc được người ấy.
Khi có
một khổ thọ về thân thể, người ấy biết có một khổ thọ về thân thể.
Người ấy
không hoảng hốt, không lo sợ, không trách cứ, không u sầu, vì vậy khổ thọ ấy
vẫn chỉ là một khổ thọ về thân thể, mà không trở nên một khổ thọ lớn lao có thể
làm chìm đắm tự thân.
Cũng vì
thế. này quý vị khất sĩ, quý vị nên tu tập, nên quán chiếu để đạt tới trí tuệ
và để không bị khổ đau ràng buộc. Sinh, lão, bệnh, tử sẽ không còn khống chế
được quý vị.
Này các
vị khất sĩ, khi sắp mệnh chung, việc người khất sĩ nên làm là quán chiếu thân
thể, cảm thọ, tâm ý và đối tượng tâm ý. Mỗi tư thế, mỗi động tác cần được đặt
trong chánh niệm. Mỗi cảm thọ đều được soi sáng bởi chánh niệm. Người sắp mệnh
chung quán chiếu tự tánh vô thường và duyên sinh của thân thể và của cảm thọ,
để không còn bị vướng mắc vào thân thể và cảm thọ, dù là lạc thọ, khổ thọ, hay
xả thọ. Nếu có cơn đau phải đem hết toàn thân ra chịu đựng, thì người ấy quán
chiếu: đây là một cơn đau phải đem hết toàn thân ra chịu đựng. Cơn đau này
không phải là ta, ta không phải là cơn đau này, ta không kẹt vào cơn đau này.
Thân thể và cảm thọ như là một ngọn đèn đang cạn dầu và hết bấc. Ánh sáng do
nhân duyên làm tỏ lộ mà cũng do nhân duyên làm tiềm phục. Ta không bị ràng buộc
bởi nhân duyên, và như thế sẽ có lắng dịu, sẽ có giải thoát.
Khi
những trận mưa đầu mùa đổ xuống làm dịu bớt cái nóng mùa Hạ, người lên đường về
tu viện Jetavana. Năm nay các thầy và các ni sư về an cư ở các trung tâm tu học
tại Savatthi đông lắm.
Tại
giảng đường Lộc Mẫu, một hôm Bụt giảng dạy thêm về đạo lý duyên sinh. Một vị
khất sĩ đứng lên bạch:
- Thế
Tôn, người đã dạy thức là cơ sở của danh sắc, như vậy có nghĩa là vũ trụ vạn
hữu trong thế giới đều phát sinh từ tâm thức, có phải thế không?
Bụt nói:
- Đúng
như vậy. Danh là tâm nhận thức. Sắc là đối tượng nhận thức. Chủ thể nhận thức
và đối tượng nhận thức là hai mặt của cùng một thực tại. Không thể nào có nhận
thức nếu không có đối tượng nhận thức, không thể nào có đối tượng nhận thức nếu
không có nhận thức. Danh và sắc không thể tồn tại riêng biệt. Vì chủ thể nhận
thức và đối tượng nhận thức không thể rời nhau mà có mặt cho nên cả hai đều
phát xuất từ cơ sở tâm thức. Chính vì vậy nên tôi đã nói rằng Thức là cơ sở của
Danh Sắc.
- Bạch
Thế Tôn, nếu Danh Sắc phát sinh từ thức thì quả thật Thức là nguồn gốc của vũ
trụ vạn hữu. Ta có thể tìm hiểu vì sao có tâm thức hay không? Và tâm thức có từ
lúc nào? Có thể nói đến một sự bắt đầu của tâm thức hay không?
- Này
các vị khất sĩ! Ý niệm về bắt đầu và ý niệm về chung cuộc cuối cùng là những ý
niệm phát sinh từ tâm thức. Thật ra không có cái bắt đầu, mà cũng không có sự
chung cuộc. Do vô minh cho nên ta mới có ý niệm về thỉ và chung. Do vô minh mà
người ta mới đi vòng trong cõi luân hồi sinh tử.
Cái vòng
luân hồi sinh tử không có thỉ cũng không có chung.
- Nếu
vòng luân hồi sinh tử không có thỉ mà cũng không có chung thì làm sao là chấm
dứt được luân hồi sinh tử?
- Sinh
và tử cũng là những ý niệm phát sinh từ tâm thức vô minh. Thoát ra được những ý
niệm về sinh tử và thỉ chung, đó là thoát ra khỏi luân hồi.
Các vị
khất sĩ! Hôm nay tôi chỉ nói chừng ấy. Quý vị hãy về thực tập quán chiếu. Hôm
khác chúng ta sẽ trở lại vấn đề này.
---o0o---
Chương 65
KHÔNG ‘CÓ’ CŨNG KHÔNG ‘KHÔNG’
Sau buổi
pháp thoại này, đại đức Svastika thấy nhiều thầy có vẻ trầm ngâm, riêng đại đức
thấy mình chưa nắm vững được những điều Bụt dạy. Đại đức tâm niệm sẽ cố gần gũi
các vị đại đức lớn để học hỏi thêm, qua những lời luận đàm của họ.
Trong
buổi pháp thoại kế tiếp, đại đức Ananda được phép đại diện các thầy đặt lên
những câu hỏi để Bụt trả lời.
- Bạch
Thế Tôn, thế nào là thế giới? Thế nào là vạn hữu?
-
Ananda, thế giới (loka) là sự tập hợp của tất cả những gì có tính biến chuyển
và tàn hoại (paloka). Vạn hữu tuy sum la nhưng tất cả đều bao hàm trong mười
tám lãnh vực: đó là sáu căn, sáu trần, và sáu thức. Sáu căn, như các vị đã biết
là mắt. tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Sáu trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc và ý
tưởng. Sáu thức là cái thấy, cái nghe, cái ngửi, cái nếm, cái xúc chạm và cái
ý. Ngoài mười tám lãnh vực đó mà ta gọi là thập bát giới, không còn có gì nữa.
Tất cả mười tám cái ấy đều có tính sinh diệt và biến hoại, cho nên tôi đã định
nghĩa thế giới là sự tập hợp của tất cả những gì có tính biến chuyển và tàn
hoại.
Ananda
lại hỏi:
- Thế
Tôn đã từng nói vạn pháp là không. Như thế nào gọi là vạn pháp không?
- Bởi vì
vạn pháp không có tự thể riêng biệt cho nên gọi là vạn pháp không.
Sáu căn,
sáu trần cũng như sáu thức, không có pháp nào có tự thể riêng biệt.
- Thế
Tôn, có lần con đã nghe Thế Tôn nói về ba cách cửa giải thoát là Không, Vô
Tướng và Vô Tác. Có lần con cũng đã nghe Thế Tôn nói vạn pháp là không, thế
giới là không. Con chưa thật sự hiểu được thế nào là không. Có phải vì vạn pháp
có tính biến chuyển và tàn hoại cho nên Bụt nói “vạn pháp là không" không?
-
Ananda, quả thật tôi đã từng nói về không, và phép quán về không. Phép quán
chiếu về không là một phép quán chiếu mầu nhiệm, có thể giúp người hành đạo
vượt ra khỏi khổ ưu và sinh tử. Hôm nay tôi sẽ vì đại chúng mà nói về không
quán.
Ananda,
tất cả chúng ta đều đang ngồi trong giảng đường Lộc Mẫu. Chúng ta biết rằng
trong giảng đường này không có chợ búa, trâu bò, làng xóm, mà chỉ có các vị
khất sĩ đang ngồi nghe pháp mà thôi. Cái gì không thì ta nói là không, cái gì
có thì ta phải nói là có. Trong trường của chúng ta đây, tức là trong trường
hợp giảng đường Lộc Mẫu, chợ búa, làng xóm, trâu bò là không, nhưng các vị khất
sĩ là có, có phải như thế không?
- Bạch
Thế Tôn, đúng như vậy.
- Sau
buổi giảng này, tất cả chúng ta đều sẽ đi ra khỏi giảng đường Lộc Mẫu, và trong
giảng đường sẽ không có một vị khất sĩ nào. Lúc đó, giảng đường Lộc Mẫu không
có chợ búa, không có làng xóm, không có trâu bò mà cũng không có các vị khất
sĩ. Có phải thế không?
- Bạch
Thế Tôn, đúng như vậy. Lúc đó trong giảng đường Lộc Mẫu không có gì hết.
-
Ananda, có luôn luôn nghĩa là có cái gì, không luôn luôn nghĩa là không cái gì.
Tiếng có và tiếng không tự chúng không có nghĩa gì cả.
Xin Thế
Tôn giải rõ cho chúng con.
- Này
nhé: không bao giờ cũng là không một cái gì, ví dụ không chợ búa, không trâu
bò, không làng xóm, không có các vị khất sĩ. Ta không thể nói không một cách
suông cụt được. Có cũng thế. Có bao giờ cũng là có một cái gì, như có chợ búa,
có trâu bò, có làng xóm, có các vị khất sĩ. Ta không thể nói có một cách suông
cụt được. Vào giờ phút hiện tại, các vị có thể nói là trong Lộc Mẫu Đường không
chợ búa, không trâu bò, không xóm làng, nhưng có các vị khất sĩ. Đó là trường
hợp Lộc Mẫu Đường, còn trong trường hợp vạn pháp thì sao? Nếu ta nói vạn pháp
có, thì vạn pháp có cái gì? Nếu ta nói vạn pháp không thì vạn pháp không cái
gì?
Này các
vị khất sĩ, cái mà tôi gọi là không trong vạn pháp đó là cái ngã, nghĩa là cái
tính chất thường tại và bất biến. Vạn pháp không nghĩa là vạn pháp không có
ngã, nghĩa là không có tính chất thường tại và bất biến.
Nghĩa
căn bản của không là như thế. Các vị đã chấp nhận và đã biết rằng vạn pháp đều
có tính biến chuyển và hoại diệt. Chính vì vạn pháp có tính cách biến chuyển và
hoại diệt cho nên vạn pháp không có ngã, không hàm chứa một cái ngã. Vì vô
thường cho nên vạn pháp cũng là vô ngã. Tất cả các pháp đều không có ngã trong
tự thân, cho nên vạn pháp được gọi là không ...
Này quý
vị, không có nghĩa là không có tự ngã.
Này các
vị khất sĩ! Trong năm uẩn không có uẩn nào có tính cách thường tại bất biến cả.
Cả năm yếu tố hình hài, cảm giác, tri giác, tâm tư và nhận thức đều không có tự
ngã, đều không có tính cách thường tại bất biến. Tính cách thường tại bất biến
ấy thường được gọi là cái ta. Đã không có ta thì làm gì có cái của ta? Đã không
có ngã thì làm gì có ngã sở? Quán chiếu để thấy được sự không có mặt của cái ta
và cái của ta trong vạn pháp tức là quán chiếu về không vậy.
Ananda
hỏi:
- Vạn
pháp không có ngã, đó là điều mà chúng con đã hiểu và đã thấy, nhưng bạch Thế
Tôn, có vạn pháp không?
Bụt im
lặng nhìn xuống phía trước mặt người.
Trước
mặt Bụt có một chiếc bàn nhỏ, trên bàn có đặt một cái bát đầy nước trong để Bụt
giải khát, chỉ vào bát nước trên bàn, Bụt hỏi đại đức Ananda:
-
Ananda, theo thầy thì cái bát này là bát không hay bát đầy?
- Bạch
Thế Tôn, cái bát này không phải là bát không, nó là một cái bát đựng đầy nước
trong.
-
Ananda, thầy hãy cầm cái bát nước đầy này lên và đem đổ hết nước trong bát ra
phía ngoài Lộc Mẫu Đường.
Đại đức
Ananda làm theo lời Bụt dạy. Khi trở vào đại đức đặt chiếc bát không lên bàn.
Cầm
chiếc bát lên và úp miệng về phía dưới, Bụt hỏi:
-
Ananda, cái bát này bây giờ đây là bát không hay bát đầy?
- Bạch
Thế Tôn, cái bát này bây giờ đây không phải là cái bát đầy nước nữa, mà là một
cái bát không.
-
Ananda, thầy có chắc là cái bát này là cái bát không không?
- Bạch
Thế Tôn, con chắc chắn cái bát này là cái bát không.
-
Ananda, trong cái bát này không có nước nhưng lại có đầy không khí. Cái bát chỉ
không có nước thôi, chứ cái bát đang có đầy không khí. Thầy đã quên rồi. Không
luôn luôn nghĩa là không một cái gì, có luôn luôn nghĩa là có một cái gì. Trong
trường hợp này, thầy phải nói: cái bát không có nước, nhưng có đầy không khí.
- Bạch
Thế Tôn, con đã hiểu.
- Vậy
thì này Ananda, cái bát có thể là một cái bát không mà cũng có thể là một cái
bát đầy. Cái không hay cái đầy ấy tùy thuộc vào sự có mặt của cái bát. Nếu
không có cái bát thì làm gì có cái không hay cái đầy. Vậy nếu muốn không hay
muốn đầy thì phải có cái bát đã. Như giảng đường Lộc Mẫu mà trong đó chúng ta
đang ngồi đây. Giảng đường có thể không hay đầy, nhưng muốn không hay đầy thì
phải có giảng đường trước đã.
Đại
chúng “ồ” lên một tiếng.
Đại đức
Ananda chắp tay:
- Bạch
Thế Tôn, như vậy là có vạn pháp, và vạn pháp có thật.
Bụt mỉm
cười:
-
Ananda! Thầy đừng nên bị từ ngữ khống chế như thế. Nếu vạn pháp có mặt như
những hiện tượng không có ngã thì cái có đó không phải là cái có của tri giác
thông thường. Cái có ấy cùng với cái không kia là một.
Ananda
lại chắp tay:
- Xin
Bụt khai thị cho chúng con.
- Này
Ananda, chúng ta vừa nói đến cái bát không và cái bát đầy. Chúng ta cũng vừa
nói đến giảng đường không và giảng đường đầy. Tôi đã nói sơ lược về không, bây
giờ tôi sẽ nói sơ lược về có.
Cái bát
trên bàn kia tuy là cái bát không còn nước, nhưng nếu đại chúng nhìn thật kỹ
thì không phải như vậy.
Nâng cái
bát lên, Bụt nhìn Ananda:
-
Ananda, trong những yếu tố nhân duyên đã đưa tới sự có mặt của cái bát này, có
yếu tố nước không?
- Bạch
Thế Tôn, có. Nếu không có nước trộn vào đất sét thì người thợ gốm không thể nào
biến đất sét thành cái bát.
- Đúng
rồi, Ananda! Nhìn kỹ vào cái bát ta thấy có nước ở trong đó, dù trong giờ phút
hiện tại, nó là một cái bát không có nước. Sự có mặt của cái bát chứng minh
được sự có mặt của nước. Ananda! Thầy có thấy yếu tố lửa trong cái bát này
không?
- Bạch
Thế Tôn, con có thấy. Nếu không có lửa thì đất trộn với nước không thể nào đưa
tới sự có mặt của cái bát. Nhìn sâu vào cái bát con thấy sự có mặt của hơi nóng
của lửa.
Nhìn sâu
vào cái bát thấy gì nữa?
- Con
thấy không khí. Nếu không có không khí thì lửa không cháy được và người thợ gốm
cũng không sống được. Con thấy người thợ gốm. Con thấy bàn tay khéo léo của
người thợ gốm. Con thấy tâm thức của người thợ gốm.
Con thấy
lò gốm. Con thấy tâm thức của người thợ gốm. Con thấy lò gốm.
Con thấy
củi chất trong lò. Con thấy rừng cây đã làm ra củi. Con thấy mưa, nắng, đại địa
đã làm cho rừng cây mọc lên tươi tốt ... Bạch Thế Tôn, con thấy muôn ngàn yếu
tố nhân duyên đã cùng nhau hợp lại để đưa tới sự có mặt của cái bát này.
- Hay
lắm, Ananda! Thầy đã thấy được sự có mặt của những yếu tố nhân duyên, đã đưa
tới sự có mặt của cái bát khi quán sát về cái bàn. Ananda!
Những
yếu tố ấy cũng có mặt đồng thời với cái bát và trong cát. Trong những yếu tố
ấy, có yếu tố tâm thức của thầy. Ananda! Nếu từ trong cái bát này mà thầy lấy
hơi nóng để trả về cho mặt trời, lấy đất sét trả về cho đại địa, lấy nước trả
về cho dòng sông, lấy bàn tay người thợ gốm trả về cho cha mẹ người ấy, lấy
than củi trả về cho rừng cây ... thì cái bát sẽ còn có mặt không? Cái bát sẽ đi
về đâu?
- Bạch
Thế Tôn, cái bát sẽ không còn có mặt, bởi vì những nhân duyên tạo nên cái bát
đã trở về với vị trí nguyên thỉ của chúng. Cái bát sẽ trở về với những yếu tố
nhân duyên ấy.
-
Ananda! Nếu thầy đã quán chiếu chín chắn về đạo lý nhân duyên, chắc chắn thầy
đã thấy rằng cái bát không thể tự riêng mình mà có mặt được. Cái bát chỉ có thể
có mặt trong liên hệ nhân duyên với tất cả các pháp. Các pháp nương nhau mà
sinh khởi, có mặt và hoại diệt. Sự có mặt của một pháp kéo theo sự có mặt của
tất cả các pháp. Sự có mặt của các pháp có thể được chứng minh nhờ sự có mặt
của một pháp. Ananda, đó là nguyên lý tương nhập và tương tức.
Ananda!
Tương nhập nghĩa là trong cái này có cái kia và trong cái kia có cái này. Ví dụ
nhìn vào cái bát ta có thể thấy người thợ gốm, nhìn người thợ gốm ta có thể thấy
cái bát. Tương tức nghĩa là cái này là cái kia, cái kia là cái này. Ví dụ sóng
là nước, nước là sóng. Ananda, hiện Lộc Mẫu Đường không có chợ búa, trâu bò, và
làng xóm nhưng kỳ thực nếu không có chợ búa, trâu bò và làng xóm, đó chỉ là một
cách nói, một lối nhận thức. Sự thực thì nếu không có chợ búa, trâu bò và làng
xóm thì chúng ta sẽ không bao giờ có Lộc Mẫu Đường. Nếu không có giáo đoàn của
các vị khất sĩ thì cũng sẽ không có Lộc Mẫu Đường. Vì vậy cho nên, Ananda khi
nhìn giảng đường Lộc Mẫu vào lúc giảng đường trống vắng, ta cũng phải thấy có
sự có mặt của chợ búa, trâu bò, xóm làng, và các vị khất sĩ trong đó. Không có
cái này thì không có cái kia, và ý nghĩa căn bản của không (sunna) là: cái này
có thì cái kia có.
Nói tới
đây Bụt im lặng. Giảng đường Lộc Mẫu im phăng phắc. Những lời Bụt nói đã gây ấn
tượng sâu sắc trong tâm trí người nghe.
Một lát
sau, Bụt nâng cái bát không lên, nói với đại chúng:
- Các vị
khất sĩ! Cái bát này tự nó một mình nó không thể có mặt được. Nó chỉ có thể có
mặt đồng thời với tất cả những cái khác mà ta không gọi là bát, như đất, nước,
lửa, không khí, người thợ gốm ... Tất cả các pháp trên thế gian, pháp nào cũng
thế. Pháp nào cũng có mặt trên liên hệ nhân duyên trên nguyên tắc tương tức và
tương nhập.
Các vị
khất sĩ! Nhìn vào cái bát này ta thấy được tất cả vũ trụ vạn hữu. Vậy ta có thể
nói cái bát này chứa đầy cả vũ trụ vạn hữu. Chỉ có một cái không có mặt trong
cái bát này thôi. Đó là tự ngã riêng biệt của cái bát.
Tự ngã
là gì? Tự ngã là tự mình có mặt, không cần đến một yếu tố nào khác.
Trên thế
gian không có pháp nào có thể tự mình có mặt mà không cần đến bất cứ một yếu tố
nào khác, vì vậy cho nên không có một pháp nào có tự ngã. Đó là ý nghĩa căn bản
của không. Không nghĩa là không có tự ngã.
Các vị
khất sĩ! Năm uẩn là năm yếu tố của sinh mạng. Hình sắc không có tự ngã, vì hình
sắc không thể tự mình có mặt một cách riêng biệt. Trong hình sắc có cảm thọ, có
tri giác, có tâm tư và có nhận thức. Cảm thọ cũng vậy.
Cảm thọ
cũng không có tự ngã, bởi vì cảm thọ không thể tự mình có mặt một cách riêng
biệt. Trong cảm thọ có hình sắc, có tri giác, có tâm tư và có nhận thức. Điều
này cũng được áp dụng cho các uẩn khác là tri giác, tâm tư và nhận thức. Trong
năm uẩn, không có uẩn nào có tự tính riêng biệt. Năm uẩn nương vào nhau mà
thành lập. Vì vậy năm uẩn là không.
Các vị
khất sĩ! Sáu căn, sáu trần và sáu thức là không. Mỗi nhân duyên phải nương vào
các nhân duyên khác mà được thành lập, không nhân duyên nào có tự tính riêng
biệt.
Các vị
khất sĩ Tôi muốn nhắc lại để quý vị cùng nhớ: cái này có cho nên cái kia có.
Các pháp vì nương vào nhau mà có mặt cho nên các pháp được gọi là không. Không
ở đây nghĩa là không có tự ngã, không có một sự hiện hữu riêng biệt và độc lập.
Đại đức
Ananda bạch:
- Thế
Tôn, có những nhà trí thức Bà la môn nói rằng: “Sa môn Gotama chủ trương thuyết
hư vô đoạn diệt. Sa môn Gotama dẫn dắt người ta tới sự tiêu diệt mọi hình thức
của sự sống”. Thế Tôn, có phải vì Thế Tôn nói vạn pháp không cho nên người hiểu
lầm như thế hay chăng?
Bụt nói:
- Ananda,
những nhà trí thức Bà la môn kia, những vị lãnh đạo giáo phái kia không nói
đúng sự thật. Tôi không không bao giờ chủ trương thuyết hư vô, thuyết hoại
diệt. Tôi không chủ trương dẫn dắt đến sự hoại diệt mọi hình thức của sự sống.
Ananda!
Trong só các tà kiến có hai tà kiến mà nhiều người đã vướng phải: đó là chấp có
và chấp không. Chấp có là nhận thức vạn sự vạn vật như những gì thường tại và
có tự thể riêng biệt. Chấp không là nhận thức vạn sự vạn vật như một màn ảo
thuật của thần linh. Kẹt vào tà kiến nào trong hai tà kiến ấy cũng không có cơ
hội thấy được sự thật.
Ananda!
Có lần khất sĩ Kaccayana hỏi tôi: Thế Tôn, thế nào là chánh kiến, thế nào là
cái thấy chân thực? Tôi đã trả lời: Kaccayana, chánh kiến là thứ nhận thức vượt
thoát hai luận chấp có và không. Khi ta đã thấy được tự tính chân thực của thực
tại rồi thì ta không con bị ràng buộc bởi hai tà kiến ấy nữa. Người có chánh
kiến thấy được quá trình phát sinh và hoại diệt của các pháp và vì vậy không bị
lay chuyển bởi các ý niệm có và không. Khi khổ đau phát sinh, người có chánh
kiến biết là khổ đau đang phát sinh. Khi khổ đau tàn họai, người có chánh kiến
biết kà khổ đau đang tàn hoại. Sự phát sinh và tàn hoại của vạn pháp không lay
chuyển được người có chánh kiến.
Chấp có
là một thái cực, chấp không cũng là một thái cực khác. Nhận thức duyên sinh
vượt ra ngoài hai thái cực đó và an trú ở trung đạo.
Ananda!
Có và không thực ra chỉ là những ý niệm không phù hợp với thực tại. Thực tại
vượt ra ngoài khuôn khổ của những ý niệm ấy. Kẻ giác ngộ là người đã vượt thoát
ý niệm có và không.
Ananda!
Không những có và không đều không, mà sinh và diệt cũng là không. Sinh và diệt
cũng chỉ là những ý niệm. Sinh diệt cũng là không.
Đại đức
Ananda hỏi:
- Bạch
đức Thế Tôn, nếu sinh diệt là không thì tại sao Thế Tôn nói “vạn pháp vô
thường, luôn luôn sinh diệt?” - Ananda, Đứng về tục đế ta có thể nói vạn pháp
có sinh và có diệt, nhưng đứng về đệ nhất nghĩa đế, ta cần thấy được tính cách
bất sinh và bất diệt của vạn pháp.
- Xin
Thế Tôn chỉ dạy thêm cho chúng con.
- Này
Ananda! Cây bồ đề mà thầy trồng ở trước Lộc Mẫu Đường, cây bồ đề ấy đã được
sinh ra từ lúc nào?
- Bạch
đức Thế Tôn, cây bồ đề ấy sinh ra từ bốn năm nay, vào giờ phút mà hạt bồ đề bắt
đầu nứt mầm trong đất.
-
Ananda! Vậy trước khi cây bồ đề ấy sinh ra, nó đã có chưa?
- Thế
Tôn, trước khi nó sinh ra, cây bồ đề chưa có.
- Vậy
thì cây bồ đề có thể từ không mà trở thành có hay sao? Thầy đã thấy một pháp
nào từ không mà trở thành có hay chưa?
Đại đức
Ananda im lặng.
Bụt nói:
-
Ananda, trong vũ trụ không có một pháp nào đã từ không mà trở nên có.
Nếu
không có hạt giống bồ đề thì không thể có cây bồ đề. Cây bồ đề là từ hạt bồ đề
mà có. Cây bồ đề chỉ là sự tiếp nối của hạt bồ đề. Trước khi hạt bồ đề nứt mầm,
cây bồ đề đã có sẵn trong hạt bồ đề. Một pháp đã có sẵn thì cần gì sinh ra nữa?
Vì vậy cho nên cây bồ đề có tính cách bất sinh.
Bụt lại
hỏi Ananda:
-
Ananda, sau khi hạt bồ đề nảy mầm thành cây bồ đề, hạt bồ đề có diệt không?
- Bạch
Thế Tôn, hạt bồ đề có diệt thì cây bồ đề mới sinh ra được.
- Ananda,
hạt bồ đề không diệt. Diệt tức là từ có mà trở thành không. Thầy có thấy trong
vũ trụ này có một pháp nào từ có mà trở thành không được không? Một chiếc lá,
một hạt bụi, một làn hương cũng không thể từ có mà trở thành không được. Các
pháp ấy chỉ có thể biến chuyển để trở thành những pháp khác. Hạt bồ đề cũng
thế, hạt bồ đề không diệt mà chỉ biến chuyển thành cây bồ đề. Hạt bồ đề cũng
như cây bồ đề đều là những pháp bất sinh và bất diệt. Ananda! Không những hạt
bồ đề và cây bồ đề là những pháp bất sinh bất diệt mà tất cả các pháp trong đó
có tôi, có thầy, có các vị khất sĩ, có Lộc Mẫu Đường, có chiếc lá, có hạt bụi,
có làn hương, tất cả đều bất sinh diệt.
Ananda!
Tất cả các pháp đều bất sinh và bất sinh; sinh và diệt chỉ là những ý niệm của
nhận thức mà thôi. Các pháp không có, không không, không sinh, không diệt,
không dơ, không sạch, không thêm, không bớt, không tới, không đi, không một,
không nhiều. Tất cả các ý niệm có không, sinh diệt, dơ sạch, thêm bớt, tới đi,
một nhiều ... đều là những ý niệm phân biệt. Nhờ quán chiếu về tự tính không
của các pháp, các vị có thể vượt thoát những ý niệm phân biệt ấy để chứng nhập
được thực tại của vạn hữu.
Ananda!
Thực tại của vạn hữu là không có cũng không không, không sinh cũng không diệt,
không thành cũng không hoại. Nếu không có thực tại ấy làm cơ bản thì làm gì có
cái thế giới có sinh có diệt, có có, có không, có thành có hoại của nhận thức
phân biệt? Nếu không có thực tại ấy thì thì làm gì có lối thoát cho thế giới
sinh diệt, có không và thành hoại?
Ananda!
Có khi nào đứng trên bờ biển thầy nhìn ngắm những đợt sóng nhấp nhô sinh diệt
trên mặt đại dương không? Thực tại bất sinh bất diệt có thể đem so sánh với
nước trong đại dương, và thế giới sinh diệt có thể được đem so sánh với nước
trong đại dương, và thế giới sinh diệt có thể được đem so sánh với những đợt
sóng lô nhô trên mặt biển. Ananda! Sóng thì có cao có thấp, có lớn, có bé, có
sinh có diệt, nhưng nước trong đại dương thì không cao không thấp, không lớn
không bé, không sinh không diệt. Nếu không có nước thì làm sao có sóng? Và sóng
đi về đâu nếu không là trở về với nước?
Ananda!
Sóng là nước, nước là sóng. Sóng tuy có sinh có diệt, nhưng một khi sóng nhận
biết được rằng mình chính là nước thì tự khắc sóng vượt thoát được sinh diệt và
không còn sợ hãi, âu lo và khổ đau vì sinh diệt.
Các vị
khất sĩ! Phép quán chiếu về tự tính không của vạn pháp là một phép quán chiếu
mầu nhiệm có thể đưa các vị vượt thoát sợ hãi, vượt thoát lo lắng, vượt thoát
khổ đau. Phép quán chiếu này có thể đưa quý vị vượt thoát thế giới của sinh tử.
Các vị hãy nổ lực mà thực tập phép quán chiếu này.
Nói tới
đây Bụt lặng im. Người đã chấm dứt pháp thoại.
Buổi
pháp thoại hôm nay làm xôn xao cả đại chúng. Đại đức Svastika chưa bao giờ được
nghe Bụt nói những điều sâu sắc và mầu nhiệm như hôm nay.
Đại đức
thấy các thầy lớn thầy nào nét mặt cũng rạng rỡ. Vẻ sung sướng hiện rõ trong
cái nhìn và trong nụ cười của họ. Svastika có cảm tưởng mình hiểu được những
điều Bụt nói, nhưng thầy nghĩ có thể là mình chưa thấy hết được chiều sâu của buổi
pháp thoại này. Thầy biết thế nào mai mốt đại đức Ananda cũng sẽ trùng tuyên
lại bài thuyết pháp hôm nay và thầy sẽ có dịp học hỏi thêm qua những cuộc pháp
đàm do các thầy lớn tổ chức.
---o0o---
Chương 66
BỐN NÚI BAO QUANH
Một buổi
sáng tinh sương, đại đức Moggallana tìm đến Bụt, hai mắt ướt đẫm, Bụt hỏi duyên
cớ. Đại đức thưa:
- Thế
Tôn, trong giờ thiền tọa đầu hôm qua, con đã nghĩ đến mẹ của con, và con đã
dùng định lực để quán chiếu về nỗi nhớ niềm thương của con đối với mẹ. Con biết
là trong thời niên thiếu đã có đôi lần con làm cho mẹ con buồn, nhưng con cũng
biết đó không phải là nguyên do của nỗi buồn thấm thía của con. Nỗi buồn thấm
thía của con phát sinh từ ý nghĩ là con không làm được gì để giúp mẹ con lúc bà
còn sống, và con cũng không làm được gì để giúp mẹ con sau khi bà đã mệnh
chung. Bạch Thế Tôn, nghiệp chướng của mẹ con rất nặng. Hồi sinh tiền, bà đã
từng tạo ra nhiều ác nghiệp. Con biết rằng bây giờ những ác nghiệp ấy vẫn còn
theo đuổi và tiếp tục làm cho mẹ con khổ đau. Trong giờ thiền định con thấy
hình ảnh này, con thấy con đi thăm mẹ con ở một nơi thật tối tăm, ẩm thấp. Mẹ
con than đói, bà gầy ốm như một bóng ma. Con lấy cơm trong bình bát dâng lên,
mẹ con bốc cơm ăn, nhưng khi mẹ con đưa cơm vào tới miệng thì cơm ấy biến thành
than hồng, mẹ con không thể nuốt được, phải nhả ra. Thế Tôn, hình ảnh đó con
không thể nào quên được. Con không biết làm cách gì để cho nghiệp chướng của mẹ
con được tiêu trừ và thân cho tâm thân của mẹ con được nhẹ nhàng, siêu thoát.
Bụt hỏi:
- Hồi
sinh tiền, mẹ của thầy đã tạo những nghiệp ác nào?
- Bạch
Thế Tôn, hồi sinh tiền, mẹ con đã không chịu sống theo chánh mạng.
Nghề
nghiệp của bà buộc bà phải sát hại rất nhiều sinh mạng của các loài hữu tình.
Mẹ con lại là người không biết biết tu theo chánh ngữ. Bà đã gây nhiều khổ đau
cho kẻ khác vì những lời nói của bà. Bà bứng cây sống, trồng cây chết. Con
không dám kể hết chi tiết về những ác nghiệp của bà để Thế Tôn nghe, nhưng quả
thật mẹ con đã sống ngược lại với tất cả năm giới quý báu mà Thế Tôn đã dạy. Thế
Tôn, nếu con có thể chịu khổ đau thay thế để đổi nghiệp quả của mẹ con, thì con
sẵn sàng chấp nhận. Xin Thế Tôn, đem lòng từ bi xót thương mẹ con mà chỉ bảo
cho con.
Bụt nói:
-
Moggallana, tôi rất cảm động về tấm lòng hiếu thảo của thầy đối với mẹ.
Công ơn
cha mẹ như trời như biển: làm con phải luôn luôn nhớ tới công ơn ấy, ngày cũng
như đêm. Gặp thời không có Bụt và không có các bậc thánh hiền, phụng sự cha mẹ
tức là phụng sự Bụt và các bậc thánh hiền.
Moggallana,
thầy đã cố gắng để chuyển hóa mẹ thầy khi bà còn sống, thầy lại còn lo lắng để
chuyển nghiệp cho mẹ thầy khi bà đã chết, điều đó chứng tỏ thầy là một người
rất có hiếu đối với cha mẹ. Tôi rất mừng vì điểm đó.
Moggallana!
Điều căn bản nhất mà mình có thể làm để báo hiếu cha mẹ là sống một đời sống
đẹp đẽ, hạnh phúc và đức hạnh. Như vậy là vừa đền đáp được công ơn sinh dưỡng
vừa đền đáp lại kỳ vọng của cha mẹ nơi con cái.
Trường
hợp của thầy là một trường hợp thành công. Đời sống của thầy là một đời sống có
an lạc, có hạnh phúc, có đạo hạnh; đời sống của thầy là một đời sống gương mẫu,
thầy đã và đang hóa độ được bao nhiêu người, giúp họ đi về con đường chánh. Nếu
đem đời sống và công đức ấy mà hồi hướng và chú nguyện cho mẹ thì chắc chắn
hành nghiệp của mẹ thầy sẽ được chuyển biết một cách đáng kể.
Moggallana!
Tôi sẽ chỉ cho thầy một phương pháp mầu nhiệm và hữu hiệu để giúp mẹ. Đến ngày
tự tứ mãn khóa an cư mùa mưa, thầy nên thỉnh cầu toàn thể đại chúng họp lực chú
nguyện cho mẹ thầy. Nên biết trong đại chúng có nhiều vị khất sĩ đạo đức và đức
hạnh rất lớn. Nếu thầy phối hợp đạo lực và đức hạnh của thầy với đạo lực và đức
hạnh của tất cả các vị ấy thì sức chú nguyện sẽ hùng mạnh vô cùng và nhờ nhân
duyên đó, nghiệp chướng của mẹ thầy sẽ tiêu tan và bà sẽ có cơ hội và đi vào
con đường chánh pháp.
- Tôi
nghĩ là trong đại chúng có thể cũng có những vị có tâm trạng như thầy, vì vậy
ta nên tuyên bố điều này ra trong đại chúng. Thầy hãy bàn với thầy Sariputta,
để từ nay cứ đến ngày tự tứ thì ta có thể tổ chức một lễ chú nguyện, chú nguyện
để hộ niệm cho các bậc cha mẹ đã mất và cả cho những người làm cha mẹ còn sống.
Như vậy cũng là để đồng thời giáo dục người trẻ về đạo hiếu đối với cha mẹ và
tổ tiên.
Moggallana!
Người đời thường chỉ biết tiếc thương cha mẹ khi cha mẹ đã qua đời. Trong ánh
sáng của đạo tỉnh thức, có cha có mẹ là một hạnh phúc lớn. Cha mẹ là những
nguồn vui lớn cho con cái. Con cái phải biết trân quý thời gian sống với cha
mẹ, được thấy cha mẹ hàng ngày, được đem niềm vui hàng ngày cho cha mẹ.
Ngay
trong khi cha mẹ con sống và sau khi cha mẹ quá vãng, những hành động từ ái cần
được thể hiện để gây niềm vui cho cha mẹ và hồi hướng công đức cho cha mẹ. Giúp
người nghèo khổ và bệnh tật, thăm viếng và ủy lạo những người cô đơn, phóng
thích tù nhân và những loài vật sắp bị sát hại, chẩn tế, trồng cây ... đều là
những hành động phát xuất từ tâm từ bi có thể chuyển đổi được tình trạng hiện
tại và gây niềm vui cho cha mẹ. Trong ngày tự tứ của tăng đoàn khất sĩ, chúng
ta nên khuyến khích mọi người làm những việc như thế.
Đại đức
Moggallana vui mừng lạy ta Bụt.
Chiều
hôm ấy, đi thiền hành tới cổng tu viện Trúc Lâm, Bụt thấy xa giá của vua
Pasenadi cũng vừa dừng lại trước cổng. Vua đi thăm Bụt. Hai người còn đang đứng
ở cổng tu viện để chuyện trò thì có bảy vị du sĩ phái Nigantha đi ngang qua. Họ
là những người tu khổ hạnh, lõa hình, tóc và râu không cạo, móng tay móng chân
để dài không cắt. Trông thấy họ, vua Pasenadi xin lỗi Bụt và đi ra chào đón các
vị du sĩ. Vua lạy xuống cung kính trước bảy vị du sĩ, và nói:
- Thưa
các vị cao đức, trẫm là Pasenadi, vua nước Kosala.
Vua lạy
và nói ba lần như thế, rồi mời chào họ và trở về với Bụt. Đợi họ đi khuất, vua
hỏi:
- Bạch
Thế Tôn, theo Thế Tôn thì trong bảy vị du sĩ đó có vị nào chứng quả A la hán
chưa? Học có vị nào đang đi trên con đường đến quả vị ấy?
Bụt đáp:
- Đại
vương, ngài sống cuộc sống vương giả và thân cận với giới chính trị nhiều hơn
giới đạo sĩ nên ngài khó mà biết được ai là người đã giải thoát và ai chưa giải
thoát. Đại vưong, gặp gỡ đôi ba lần và nhìn vào bề ngoài của một vị đạo sĩ thì
khó mà biết được họ có giác ngộ hay không. Chỉ khi nào ta sống bên họ và có thì
giờ nhận xét họ ta mới biết được họ có giải thoát hay không có giải thoát. Đi
lâu mới biết đường dài; thân cận lâu ngày với một người, sống vói người ấy
trong những hoàn cảnh khó khăn, nghe người ấy nói năng đàm luận ... ta mới thấy
được mức độ trí tuệ, đức hạnh và sự chứng đắc của người ấy.
Vua biểu
đồng tình vời Bụt:
- Bạch
Thế Tôn, con cũng thấy như thế. Mỗi khi con gửi các thám tử đi do thám tình
hình các nơi, những người này thường phải hóa trang để cho người ta không nhận
ra được họ. Con nhớ là khi những thám tử này về cung trình diện, chính con cũng
không nhận ra được họ. Con tưởng họ là những người không quen. Chỉ khi nào họ
lột bỏ những đồ hóa trang, đi tắm, rửa mặt và mặc áo quần của chính họ vào thì
con mới nhận ra được họ. Thế Tôn! Thế Tôn nói rất đúng. Ta không thể nhận ra
được đức hạnh, trí tuệ và sự chứng đắc của một người nếu ta không có được cơ
hội để biết về người ấy một cách chín chắn.
Bụt mời
vua đi bộ về phía tịnh thất của người.
Vào đến
tịnh thất, Bụt bảo thầy Ananda bắc ghế trước sân mời vua ngồi. Sau khi an tọa,
vua bạch với Bụt:
- Thế
Tôn, con đã bảy mươi tuổi rồi. Con nghĩ là con phải để nhiều thì giờ hơn vào
việc tu học của con, Con phải tập ngồi thiền và đi thiền hành nhiều hơn trước.
Thế Tôn, công việc triều chính quá bận rộn, nhiều lúc ngồi nghe Bụt giảng mà
con cũng ngủ gục. Con lấy làm xấu hổ quá. Bạch Thế Tôn, con lại có cái tật ăn
nhiều. Con nhớ có một buổi trưa ăn no quá, tới chùa con buồn ngủ chi lạ. Con ra
ngoài sân tu viện đi thiền hành cho bớt buồn ngủ mà cũng vẫn buồn ngủ như
thường. Hôm đó con vừa đi vừa ngủ gục, đến nổi gặp Thế Tôn cho nên cũng không
thấy, và con đã vấp vào Thế Tôn, Thế Tôn có nhớ việc này không?
Bụt
cười:
- Tôi có
nhớ, đại vương! Đại vương ăn ít thôi, thì thân tâm sẽ nhẹ nhàng, và công việc
chính trị cũng như công phu tu tập cũng sẽ có phẩm chất hơn. Nếu muốn thành
công trong việc này, đại vương nên nhờ hoàng hậu Malika hay công chúa Vajiri
chăm sóc về thực phẩm hàng ngày cho đại vương, về phẩm cũng như về lượng.
Vua chắp
tay lĩnh giáo. Bụt nói:
- Đại
vương nên để thêm thì giờ mà lo về sức khỏe và sự tu tập của mình.
Bây giờ
tuổi đại vương đã cao; nếu không lo tu tập, thì đại vương không còn nhiều thì
giờ nữa. Đại vương! Ví dụ có một người hộ vệ thân tín của đại vương từ phương
Đông trở về báo cáo với đại vương là có một hòn núi vĩ đại cao gần bằng mặt
trời đang tiến dần từ phương Đông tới; và trên đường đi trái núi ấy nghiến nát
tất cả những sinh vật nào nó gặp dưới chân. Đại vương đang lo lắng thì một
người thân tín của đại vương từ phương Tây về báo cáo rằng từ phương Tây cũng
có một trái núi vĩ đại như thế đang tiến tới, rồi những người thân tín của đại
vương từ phương Bắc và phương Nam cũng về báo cáo là có hai hòn núi vĩ đại từ
các phương trời ấy đang từ từ tiến tới phía đại vương, ngọn núi nào cũng nghiến
nát dưới chân mình tất cả những sinh vật trên đường đi.
Đại
vương biết là bốn ngọn núi từ bốn phưong đang áp tới và mạng sống của đại vương
sẽ không thể kéo dài. Đại vương không còn nhiều thì giờ. Vậy đại vương sẽ làm
gì trong tình trạng ấy?
Vua ngẫm
nghĩ rồi nhìn vào mặt Bụt:
- Bạch
Thế Tôn, trẫm nghĩ trong trường hợp ấy thì chỉ có một việc đáng làm mà thôi. Đó
là sống những ngày còn lại thật xứng đáng, thật trầm tĩnh, đúng theo chánh
pháp.
Bụt
khen:
- Hay
lắm, đại vương! Tôi xin nói để đại vương biết: bốn ngọn núi ấy là bốn ngọn núi
của sinh lão bệnh tử. Cái già và và cái chết là những ngọn núi vây hãm chúng ta
và đang từ từ tiến tới.
Vua chắp
tay:
- Bạch
Thế Tôn, biết được cái già cái chết đang vây quanh và tiến tới, con nghĩ chỉ có
một cách là đem những ngày tháng còn lại để sống theo chánh pháp, sống thật
trầm tĩnh, làm tất cả những việc thiện nào có thể làm, và xây dựng cho các thế
hệ tương lai.
Vua đứng
dậy làm lễ Bụt và ra về.
Mùa mưa
năm nay, các đạo sĩ và Bà la môn đủ các giáo phái về Savatthi đông lắm. Các
buổi thuyết giảng của họ được tổ chức khắp nơi, và dân chúng thủ đô thỉnh
thoảng được mời tới dự những cuộc đàm luận giữa những vị đại diện của các giáo
phái. Những chủ thuyết khác nhau có dịp được trình bày. Trong giới môn đệ của
Bụt cũng có nhiều vị đi dự những cuộc đàm luận này. Họ về chùa kể cho Bụt và
các thầy nghe những điều họ nghe và thấy. Họ nói không có vấn đề siêu hình nào mà
các vị đạo sĩ lại không đặt ra, và vị nào cũng tự nhận thuyết của mình là đúng,
thuyết của kẻ khác là sai. Ban đầu thì họ chỉ tranh luận nhẹ nhàng, nhưng rốt
cuộc phần lớn đều nổi nóng và cuối cùng người ta bắt đầu nói nặng với nhau và
lên án nhau bằng những lời lẽ thật cay độc.
Bụt kể
cho môn đệ chuyện ngụ ngôn sau đây:
- Ngày
xưa có một vua thật ngộ nghĩnh. Ông cho mời những người mù trong xứ đến, những
người mù từ khi mới được sinh ra. Vua cho dắt tới một con voi. Vua bảo những
người này sờ voi và cho biết con voi như thế nào. Có người sờ chân voi, nói voi
giống cái cột nhà. Có người sờ đuôi voi, nói voi giống cái phất trần. Có người
sờ tai voi, nói voi giống cái rổ. Có người sờ ngà voi, nói voi giống như một
cái cọc. Có người sờ bụng voi, nói voi giống cái bồ chứa thóc. Có người sờ đầu
voi, nói voi giống như cái lu nước. Ngồi lại với nhau, những người mù này không
ai đồng ý với ai về hình thù của con voi. Họ cãi nhau kịch liệt. Ông vua thấy
thế rất lấy làm thích thú.
Các vị,
những gì quý vị thấy và nghe chỉ là một phần của sự thật. Nếu ta cho đó là toàn
thể sự thật tức là ta bóp méo sự thật. Người tu học phải có tâm khiêm nhượng,
biết rằng cái thấy cái hiểu của mình còn nhỏ bé, và mình cần phải nổ lực học
hỏi và thực tập tinh tiến thêm mãi. Người tu học phải có tâm cởi mở, biết rằng
nếu cố chấp vào tri kiến hiện tại, cho đó là chân lý tuyệt đối, thì mình sẽ bị
kẹt và sẽ đánh mất cơ hội tiếp xúc với chân lý của thực tại mầu nhiệm. Khiêm
nhượng và cởi mở là hai điều kiện thiết yếu của sự tiến thủ.
---o0o---
Chương 67
NƯỚC BIỂN CHỈ CÓ VỊ MẶN
Mùa an
cư năm ấy hoàn mãn, nhiều vị đại đức lên từ giã Bụt để đi hoàng hóa ở các địa
phương. Đại đức Punna, vốn là một trong những vị giảng sư nổi tiếng của giáo
đoàn khất sĩ, trình với Bụt là đại đức có ý về quê để hành đạo. Sinh quán của
đại đức là đảo Sunaparanta, ở ngoài khơi biển Đông, Bụt hỏi:
- Tôi
nghe nói vùng đó là một vùng chưa được khai hóa, những giống dân cư trú tại đó
tính tình hung dữ và các vụ bạo động thưòng xảy ra luôn, không biết là thầy về
đó hành đạo có tiện hay không.
Đại đức
Punna bạch:
- Lạy
Bụt, chính vì họ chưa được khai hóa cho nên chúng ta phải tới để giúp họ. Chính
vì họ hung dữ và bạo động nên chúng ta phải đem đạo từ bi và phép hành xử bất
bạo động đến. Con nghĩ là con có thể thành công ở đó được.
- Punna,
nếu thầy đang thuyết pháp mà họ cứ tới la ó và chửi mắng vào mặt thầy thì thầy
tính sao?
- Lạy
Bụt, con nghĩ la ó và chửi mắng cũng chưa lấy gì làm dữ lắm. Họ cũng còn chưa
liệng đá và đồ dơ vào con.
- Nhưng
nếu họ liệng đá và đồ dơ vào thầy?
- Lạy
Bụt, liệng đá và dồ dơ cũng chưa lấy gì làm dữ lắm. Họ cũng còn chưa lấy gậy
đánh vào con.
- Nhưng
nếu họ lỡ họ lấy gậy đánh vào thầy?
Đại đức
Punna cười:
- Lạy
Bụt, như vậy họ cũng còn hiền lắm. Họ vẫn chưa giết con.
- Nhưng
họ lỡ họ giết thầy?
- Điều
này không xảy ra đâu, bạch đức Thế Tôn, mà dù nó có xảy ra đi nữa thì chết vì
đạo lý từ bi và bất bạo động vẫn là một cái chết có ý nghĩa, có thể giáo dục
người ta được. Lạy Bụt, người ta sống trên đời ai cũng phải có một lần chết,
nếu cần chết vì lý tưởng từ bi và bất động, con sẽ không từ nan.
Bụt
khen:
- Hay
lắm Punna! Thầy có dư sức đi hành hóa tại xứ Sunaparanta. Tôi hỏi để các thầy
khác cũng được nghe mà thôi, chứ riêng tôi, tôi không ngi ngờ gì về khả năng và
lập trường bất bạo động của thầy hết.
Đại đức
Punna ngày xưa vốn là thương gia. Hồi ấy Punna thương cùng với người em rễ đi
buôn, bỏ hàng từ Savatthi đem về Sunaparanta và chở những sản phẩm địa phương
tại quê nhà đem bán ở lục địa. Họ dùng ghe thuyền và xe bò để chuyên chở hàng
hóa. Một hôm chở hàng tới Savatthi, Punna được trông thấy một đoàn khất sĩ đang
trang nghiêm đi khất thực. Do đó Punna đã tìm tới được tu viện Jeatvana và đã
được nghe Bụt thuyết pháp. Nghe xong bài thuyết pháp, Punna không muốn đi muốn
nữa. Ông muốn theo Bụt để làm khất sĩ. Ông giao hết tất cả hàng hóa tiền bạc
cho người em rễ và tới chùa xin Bụt cho phép xuất gia. Đại đức Punna rất thông
minh, đại đức tu học rất tinh tiến và đã trở nên một vị giảng sư xuất sắc. Đại
đức đã từng đi hành hóa nhiều nơi trong các vương quốc Kosala và Magadha. Ai
cũng nghĩ rằng kinh nghiệm và đạo hạnh của đại đức đủ bảo đảm cho sự thành công
của đại đức tại quê nhà.
Mùa Xuân
năm sau, trong chuyến đi về miền Đông, Bụt đã ghé thăm Vesali, Campa, và theo
dòng sông đi ra tới miền biển để giáo hóa. Bụt và các vị khất sĩ đã có những
dịp ra ngồi rất lâu trên bờ biển. Một lần kia, đại đức Ananda nói với Bụt:
- Bạch
Thế Tôn, nghe tiếng sóng vỗ, nhìn các đợt sóng, chấm dứt mọi suy tư, theo dõi
hơi thở và an trú trong hiện tại, con thấy thân tâm thật thoải mái, và đại
dương như giúp con đổi mới trong từng giây từng phút.
Bụt gật
đầu.
Có một
hôm nọ đứng nói chuyện với ngư dân ven biển, đại đức Ananda hỏi các ngư dân này
nghĩ gì về biển cả. Một người đàn ông cao lớn, nước da xạm nắng, dáng người rất
đẹp nói với thầy:
- Biển
có những đặc tính rất lớn và tôi ưa biển vì những đặc tính ấy. Đặc tính thứ
nhất là biển có những bãi cát thoai thoải đưa ta đi từ từ xuống nước, khiến cho
việc thả thuyền và kéo lưới trở nên rất dễ dàng. Đặc điểm thứ hai là biển luôn
luôn ở tại chỗ, biển không bao giờ dời chỗ. Mình muốn ra biển thì mình biết
hướng mà tìm đi. Đặc điểm thứ ba là biển không chấp nhận thây chết. Khi có thây
chết, biển luôn luôn đẩy nó lên bãi. Đặc điểm thứ tư là biển chấp nhận nước của
tất cả các dòng sông, dù đó là sông Ganga, sông Yamuna, sông Aciravati, sông
Sarabhu hay sông Mahi. Sông nào ra tới biển thì cũng bỏ tên riêng của mình để
mang tên biển cả. Đặc điểm thứ năm là tuy ngày đêm muôn sông liên tiếp đổ nước
về biển, biển củng không vì vậy mà có khi vơi khi đầy. Đặc điểm thứ sáu là nước
biển ở đâu cũng mặn. Đặc điểm thứ bảy là trong lòng biển có biết bao nhiêu thứ
san hô, xà cừ và ngọc quý. Đặc điểm thứ tám là biển làm chỗ dung thân cho hàng
triệu loài sinh vật, trong đó có những loài rất lớn dài hàng trăm do tuần, và
những loài nhỏ bé như cây kim hoặc hạt bụi. Thưa các thầy, tôi chỉ nói có chừng
đó, các thầy cũng thấy tôi yêu biển đến chừng nào.
Ananda
nhìn kỹ bác ngư dân. Bác này làm nghề chài lưới mà nói năng như là một thi sĩ.
Thầy hướng về phía Bụt:
- Thế
Tôn, bác ngư dân này ca tụng biển rất hay. Thế Tôn, bác ngư dân yêu biển thế
nào thì con cũng yêu đạo pháp giác ngộ như thế, con thấy đạo pháp của Thế Tôn
có rất nhiều đặc tính tuyệt vời, đạo pháp này cũng bao la như biển cả, mong Thế
Tôn dạy cho chúng con.
Bụt mỉm
cười, đưa tay chỉ ghềnh đá:
- Chúng
ta hãy tới ngồi trên những tảng đá kia. Tôi sẽ nói cho các vị nghe về những đặc
tính của đạo pháp giác ngộ.
Mọi
người theo Bụt leo lên ngồi trên ghềnh đá. Các bác ngư dân cũng được mời theo.
Khi mọi người đã an tọa quanh Bụt, Bụt cất tiếng:
- Này
quý vị, bác ngư dân vừa nói tới tám điều đáng yêu của biển. Tôi cũng sẽ nói tới
tám điều đáng yêu của chánh pháp.
Thứ
nhất, nếu biển có những bờ cát thoai thoải có thể đưa ta đi từ từ xuống nước,
khiến cho việc thả thuyền và kéo lưới trở nên dễ dàng, thì chánh pháp cũng vậy.
Trong đạo pháp này, mọi người có thể đi từ dễ tới khó, từ thấp tới cao, từ cạn
tới sâu. Chánh pháp mỏ rộng cho tất cả mọi người thuộc đủ loại căn tính: ai
cũng có thể đi vào chánh pháp được cả. Dù là em bé, người già, giác ngộ trí
thức, kẻ thiếu học ... tất cả đều tìm thấy pháp môn tu học thích hợp với mình
trong đạo pháp này.
Thứ hai,
nếu biển luôn luôn ở tại chỗ mà không dời đi nơi khác, không cuốn phăng đi xóm làng
và thành thị, thì chánh pháp cũng thế, những nguyên tắc của chánh pháp luôn
luôn không thay đổi, và giới luật của người thọ trì chánh pháp đã được quy định
rõ ràng, Ở đâu có sự học hỏi và thực hành đúng theo những nguyên tắc ấy và
những giới luật ấy là ở đó có chánh pháp, không thể nào sai chạy được.
Thứ ba,
nếu biển không bao giờ dung túng một thây chết trong lòng nó thì chánh pháp
cũng vậy. Chánh pháp không dung túng được vô minh, biếng lười và hành động phạm
giới. Một người không tu trong một đại chúng có tu không thể nào cư trú lâu dài
được. Ngưòi đó sớm muộn gì cũng phải bị đẩy ra khỏi đoàn thể và giáo pháp.
Thứ tư,
nếu biển chấp nhận nước của tất cả các dòng sông không phân biệt kỳ thị thì
chánh pháp cũng thế. Từ giai cấp nào trong bốn giai cấp xã hội, người ta cũng
được đón tiếp một cách bình đẳng vào trong đạo pháp này.
Cũng như
khi nước các dòng sông chảy ra biển, chúng bỏ lại sau lưng mình tên của dòng
sông và bắt đầu lấy tên biển cả, những người đi vào trong đạo pháp của tôi
không còn mang theo giai cấp, dòng dõi và địa vị xã hội của họ: tất cả đều được
gọi chung là người khất sĩ.
Thứ năm,
nếu biển không vơi đi cũng không đầy thêm dù đêm ngày muôn sông vẫn tiếp tục
chảy về, thì chánh pháp cũng vậy. Chánh pháp là chánh pháp, không phải vì có
nhiều người đi theo mà mới là chánh pháp, không phải là vì ít người đi theo mà
đạo pháp không phải là chánh pháp. Sự thịnh suy không đánh giá được chân lý của
đạo pháp này.
Thứ sáu,
nếu nước biển ở đâu cũng chỉ có một vị là vị mặn, thì chánh pháp cũng thế. Dù
giáo pháp được trình bày ra nhiều cách, dù có hàng ngàn hàng vạn pháp môn, thì
chánh pháp cũng chỉ có một vị, đó là vị giải thoát. Không có công năng giải
thoát thì đó không phải là chánh pháp.
Thứ bảy,
nếu trong lòng biển có vô số các loại san hô, xà cừ và ngọc quý thì chánh pháp
cũng thế. Trong đạo pháp ta có nhiều pháp môn vi diệu và quý báu như tứ diệu
đế, tứ chánh cần, tứ như ý túc, ngũ căn, ngũ lục, thất bồ đề và bát chánh đạo.
Thứ tám,
nếu biển là chỗ dung thân thoải mái cho hàng triệu loài sinh vật trong đó có
những loài vật nhỏ như hạt cát và dài lớn đến hàng trăm do tuần, thì chánh pháp
cũng thế. Trong đạo pháp ta, một em bé hay một người ít học vẫn có thể cơ hội
tu học thoải mái. Trong đạo pháp ta, những bậc đại nhân có kích thước lớn như những
vị bồ tát có thể có cơ hội tu học và hoằng hóa trong một môi trường thênh
thang. Trong đạo pháp ta cũng có vô số các vị đã chứng đạt quả vị Nhập lưu,
Nhất hoàn, Bất hoàn và A la hán.
Này quý
vị, biển cả là một nguồn cảm hứng, là một kho tàng vô tận. Chánh pháp là một
nguồn cảm hứng, là một kho tàng vô tận.
Đại đức
Ananda chắp tay nhìn Bụt:
- Thế
Tôn, người là một vị đạo sư, nhưng người cũng là một thi sĩ nữa.
---o0o---
Chương 68
BA CÁNH CỬA NHIỆM MẦU
Rời miền
biển Bụt trở về Pataliputta, ghé Vesali và đi lên hướng Tây Bắc, quê hương của
người. Khi tới Samagama, thuộc nội địa vương quốc Sakya.
Bụt nghe
nói vị giáo chủ của giáo phái Nigantha là Nathaputta đã qua đời, và giáo đoàn
du sĩ Nigantha đã bị chia rẽ trầm trọng làm hai cánh. Hai bên chống đối nhau
rất kịch liệt về mặt giáo lý cũng như về mặt tổ chức khiến cho giới đệ tử tại
gia của họ rất đau khổ, không biết theo ai.
Chú sa
di Cunda thị giả của đại đức Sariputta đã tới gặp đại đức Ananda và kể lại
những chuyện trên, vì trong khi an cư ở Pava, chú đã nghe hết mọi chi tiết.
Thầy Ananda liền đem câu chuyện chia rẽ của giáo phái Nigantha bạch lên Bụt.
Thầy nói, giọng rầu rầu:
- Lạy
Bụt, con mong sau khi người diệt độ, sẽ không có sự chia rẽ trong hàng ngũ giáo
đoàn khất sĩ như thế. Con không ưa sự chia rẽ và tranh chấp một chút nào hết.
Bụt vỗ
vai Ananda:
- Này
Ananda, thầy có thấy các vị khất sĩ trong giáo đoàn ta tranh chấp và cãi vả
nhau về nội dung các pháp môn như Tứ Niệm Xứ, Chánh Cần, Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất
Bồ Đề và Bát Chánh Đạo không?
- Lạy
Bụt, con chưa thấy có vị khất sĩ nào tranh chấp và cãi cọ về nội dung giáo lý,
nhưng con nghĩ khi Bụt còn tại thế, nhờ đức của Bụt ai cũng nương tựa vào Bụt,
nghe lời Bụt và tu học yên ổn không có vấn đề gì, nhưng một khi Bụt trăm tuổi,
họ có thể bắt đầu tranh chấp với nhau về giới luật và về cách thức sinh hoạt và
hoằng hóa. Nếu điều này xảy ra thì nhiều người sẽ buồn lắm và sẽ mất tin tưởng
ở đạo pháp.
Bụt an
ủi Ananda:
- Đừng
lo ngại, Ananda, chừng nào mà có sự tranh chấp và cãi cọ trong giáo đoàn về nội
dung giáo lý, về các pháp môn tu tập như Tứ Niệm Xứ, Tứ Chánh Cần, Ngũ Căn, Ngũ
Lực, Thất Bồ Đề, Bát Chánh Đạo ... thì lúc đó ta mới nên e ngại, còn những
tranh chấp về tổ chức, về giới luật và về lề thói sinh hoạt, tuy có thể xảy ra,
nhưng cũng không đáng ngại lắm đâu.
Tuy được
Bụt trấn an, đại đức Ananda vẫn không tươi tỉnh lắm. Thầy mới nghe tin là tại
Vesali, đại đức Sunakkhata, ngày xưa từng làm thị giả cho Bụt, nay đã rời bỏ
giáo đoàn khất sĩ vì những bất mãn riêng tư. Thầy ấy đã bắt đầu tổ chức những
cuộc diễn giảng chống lại Bụt và giáo đoàn. Đi tới đâu Sunakkhata cũng nói: sa
môn Gotama cũng chỉ là người thường thôi, không có gì đặc biệt hơn ai và giáo
pháp của sa môn Gotama chỉ đem tới sự giải thoát cá nhân, chẳng có ích lợi gì
cho xã hội. Sunakkata đã bắt đầu gây hoang mang trong quần chúng. Điều này
chính đại đức Sariputta cũng đã biết.
Đại đức
còn biết rằng mầm chia rẽ đã manh nha trong giáo đoàn ở thủ đô Rajagaha. Một
nhóm các vị khất sĩ tại Rajagaha trong đó có đại đức Devadatta đang âm thầm tổ
chức một giáo đoàn khất sĩ độc lập với giáo đoàn của Bụt. Cộng tác với thầy
Devadatta có nhiều thầy cũng thuộc hạng giỏi như các đại đức Kokalita,
Katamoraka Tissa, Khandadeviputta và Samuddadatta. Thầy Devadatta vốn là một
trong những người đệ tử lớn, thông minh và tài giỏi nhất của Bụt. Chính sư
huynh Sariputta đã từng khen ngợi đại đức Devadatta ngay giữa các đám đông vùng
Rajagaha. Đã có lúc đại đức Sariputta tiếp xử với đại đức Devadatta như là một
người bạn tri kỷ.
Vậy mà
không biết vì lý do nào Devadatta gần đây đã nảy ý ganh ghét, ngay cả với Bụt.
Thầy Ananda không biết là đã có ai trình lên Bụt các vụ này chưa. Riêng thầy,
thầy rất ái ngại phải nói để Bụt nghe những chuyện đau buồn như thế.
Mùa mưa
năm sau, Bụt lại về Savatthi và an cư tại vườn Cấp Cô Độc. Đầu mùa an cư, người
giảng kinh Pháp Ấn.
Hôm đó,
tại giảng đường Kỳ Thọ, Bụt nói:
- Có
pháp ấn mầu nhiệm, quý vị có biết không? Hôm nay tôi muốn nói cho quý vị nghe
về pháp ấn ấy. Qúy vị hãy tháo bỏ mọi tri kiến để cho tâm hồn thanh tịnh thì
mới nghe, hiểu và tiếp thị được.
Các vị
khất sĩ! Pháp ấn là con dấu chứng thực tích cách chân xác của chánh pháp. Có ba
con dấu tất cả. Bất cứ một giáo lý nào, một pháp môn nào mà không có dấu vết
của ba con dấu ấy, thì không phải là giáo lý của tôi nói. Ba con dấu là không,
vô tướng, và vô nguyện. Ba con dấu ấy cũng là ba cánh cửa để đi vào thế giới
của giải thoát. Vì vậy pháp ấn cũng được gọi là ba cánh cửa giải thoát, hay tam
giải thoát môn.
Các vị
khất sĩ! Con dấu thứ nhất là không (sunnata). Không ở đây có nghĩa là rỗng
không, không có tự ngã riêng biệt. Không ở đây không có nghĩa là không đối với
có. Như các vị đã biết, chấp có và chấp không là hai kiến chấp sai lầm. Vậy
không ở đây có nghĩa là không có một tự ngã riêng biệt, không có một sự tồn tại
riêng biệt. Vạn pháp nương vào nhau mà có mặt, không có pháp nào có thể phát
sinh và tồn tại một cách độc lập. Các pháp sinh khởi và tồn tại trong liên hệ
nhân duyên chằng chịt, cái này có vì cái kia có, cái này không vì cái kia
không, cái này sinh vì cái kia sinh, cái này diệt vì cái kia diệt. Do đó, bản
chất của không là duyên khởi. Này các vị! Các vị phải tập nhìn vạn pháp trong
liên hệ nhân duyên của chúng để thấy được rằng trong một pháp có mặt tất cả vạn
pháp, để thấy rằng trong cái một có cái tất cả và ngoài cái một, cái tất cả
không thể nào tồn tại. Quán chiếu mười tám giới là sáu căn, sáu trần và sáu
thức, quán chiếu năm uẩn là sắc thọ tưởng, hành và thức, các vị sẽ thấy được
rằng không có giới nào cũng như không có uẩn nào có tự thể riêng biệt, rằng tất
cả đều nương vào nhau mà đứng. Thấy được tính không ấy rồi thì thấy được tính
không của vạn pháp. Thấy được tính không ấy rồi thì các vị không còn ước muốn
theo đuổi hoặc trốn chạy bất cứ một pháp nào nữa và các vị sẽ đồng thời vượt
thoát những tham đắm, phân biệt hoặc kỳ thị đối với tất cả các pháp. Quán chiếu
về tính không tức là mở ra một cánh cửa để đi vào thế giới của tự do. Vì vậy
không là cánh cửa giải thoát thứ nhất.
Các vị
khất sĩ! Con dấu thứ hai là vô tướng (animita). Vô tướng tức là vượt thoát
những khuôn khổ của tri giác và của nhận thức phân biệt. Vì không thấy được tự
tính duyên khởi của các pháp. Vì không thấy được tự tính duyên khởi của các
pháp, vì không chứng đắc được tính không của các pháp, cho nên người đời thường
nhìn các pháp như những hiện tượng riêng biệt, độc lập, cái này tồn tại ngoài
cái kia, cái này có mặt độc lập với tất cả cái kia. Nhìn các pháp như thế cũng
giống như là lấy thanh gươm của nhận thức phân biệt để chặt thực tại ra từng
mảnh nhỏ rời rạc, và như thế là không thấy được tự thân của thực tại. Này các
vị! Vạn pháp tùy thuộc vào nhau, cái này có trong cái kia, cái này lồng trong
cái kia, trong một cái có tất cả mọi cái.
Đó là ý
nghĩa hai tiếng tương nhập và tương tức. Tương nhập là đi vào trong nhau; tương
tức là là nhau. Cái này đi vào trong cái kia, cái kia đi vào trong cái này; cái
này là cái kia, cái kia là cái này. Quán chiếu như thế các vị sẽ thấy rằng tri
giác của chúng ta đầy dẫy sai lầm. Con mắt của cảm giác không thấy được vạn hữu
rõ ràng và chính xác bằng con mắt quán chiếu của trí tuệ. Có khi nhìn sợi dây,
con mắt của cảm giác và của tri giác có thể nhận lầm là con rắn, nhưng dưới con
mắt của quán chiếu, tự thân của sợi dây được hiển lộ rõ ràng và hình bóng con
rắn sẽ tự nhiên tiêu diệt.
Các vị
khất sĩ! Các tướng trạng như có, không, sinh, diệt, một, nhiều, còn, mất, tới,
đi, dơ, sạch, thêm, bớt ... đều là những tướng trạng mà tri giác và nhận thức
phân biệt úp chụp vào thực tại. Đối với đệ nhất nghĩa đế, thì tự thân thực tại
không bị giam nhốt trong những phạm trù phân biệt đó, không bị khuôn khổ trong
các tướng trạng đó của nhận thức phân biệt, Vì vậy cho nên vạn pháp được gọi là
vô tướng. Quán chiếu để làm tan rã những ý niệm có, không, sinh, diệt, một,
nhiều, còn, mất, tới, đi, dơ, sạch, thêm, bớt ... các vị sẽ đạt tới giải thoát.
Vô tướng vì vậy là cánh cửa mầu nhiệm thứ hai mở ra để ta đi vào thế giới của
tự do. Vô tướng là cánh cửa giải thoát thứ hai.
Các vị
khất sĩ! Con dấu thứ ba là vô tác, hay là vô nguyện (appanithita). Vô nguyện là
không đuổi theo bất cứ một cái gì. Tại sao thế! Thói thường người ta hay muốn
trốn chạy khỏi một pháp để đuổi theo một pháp khác. Người đời ưa trốn chạy sự
nghèo khổ để đuổi theo sự giàu sang. Người tu đạo ưa trốn chạy sinh tử để đuổi
theo giải thoát. Nhưng nếu các pháp có mặt trong nhau, nếu các pháp là nhau,
thì ta còn cần trốn chạy pháp nào và đuổi theo pháp nào? Trong sinh tử đã có
niết bàn, trong niết bàn đã có sinh tử, niết bàn và sinh tử không phải là hai
thực thể riêng biệt. Vậy thì ruồng bỏ sinh tử để chạy theo niết bàn tức là chưa
chứng nhập được thể tính duyên sinh của vạn pháp. Chưa chứng nhập tự tính không
và vô tướng của vạn pháp. Quán chiếu vô nguyện là để chấm dứt ngay sự tìm cầu
và theo đuổi.
Giải
thoát và giác ngộ không phải là những pháp có mặt ở ngoài ta. Chỉ cần mở mắt để
chiêm nghiệm, thì ta thấy được ta chính là bản thân của giải thoát và giác ngộ.
Tất cả các pháp, tất cả chúng sinh đều có sẵn tự tính giác ngộ tròn đầy trong
tự thân mình. Các vị đừng đi tìm tự tính ấy ở bên ngoài. Nếu biết xoay ánh sáng
quán chiếu vào tự thân, tự khắc các vị thực hiện được giác ngộ. Các vị khất sĩ!
Tất cả các pháp trong vũ trụ không pháp nào tồn tại độc lập ngoài nhận thức của
các vị, trong đó kể cả niết bàn, trong đó kể cả giải thoát. Các vị không cần đi
tìm cầu những thứ ấy ở đâu nữa. Các vị nên nhớ rằng đối tượng nhận thức không
tồn tại độc lập với nhận thức. Không đuổi theo một pháp nào, kể cả Phạm Thiên,
Niết Bàn và Giải Thoát, đó là ý nghĩa của vô nguyện. Các vị đã là cái các vị
đang đi tìm.
Vô nguyện,
do đó, là cánh cửa mầu nhiệm thứ ba mở ra để ta đi vào thế giới của tự do. Vô
nguyện là cánh cửa giải thoát thứ ba vậy.
Các vị
khất sĩ! Đó là giáo lý pháp ấn, đó là pháp môn ba cánh cửa giải thoát.
Tam Giải
Thoát Môn là pháp môn rất vi diệu, rất mầu nhiệm, các vị nên hết lòng học hỏi
và thực tập. Tu tập theo pháp này chắc chắn quý vị sẽ đạt tới tri kiến thanh
tịnh, và thực hiện được giải thoát.
Bụt nói
xong Kinh Pháp Ấn, đại đức Sariputta đứng dậy đảnh lễ Bụt. Đại chúng thấy thế
đều đứng dậy và lạy xuống để tạ ơn Thế Tôn.
Đại đức
Sariputta tuyên bố với đại chúng là ngày hôm sau sẽ có một buổi trùng tuyên và
học hỏi về kinh này. Đại đức nói đây là một kinh thâm diệu vô cùng, phải đem
hết sinh mạng và tâm chí ra mà học hỏi và thực tập mới mong có thể hiểu được.
Đại đức Svastika thấy kinh này có liên hệ tới Kinh Không mà Bụt dạy năm ngoái.
Bụt đã hướng dẫn các đệ tử của người từ những giáo lý đơn giản đến những giáo
lý càng ngày càng huyền nhiệm.
Thầy
thấy các vị trưởng thượng như Mahakassapa, Sariputta, Punna, Moggallana ... ai
nấy đều tỏ vẻ sung sướng cực kỳ khi được nghe kinh này.
Thầy nhớ
năm ngoái khi Bụt giảng xong Kinh Không, thầy Sariputta cũng đã lên lạy Bụt, và
tất cả các vị trưởng thượng trong giáo đoàn cũng đã lên bắt chước đại đức
Sariputta. Tình thầy trò thật rất thắm thiết.
Chiều
ngày hôm sau, các đại đức Yamelu và Tekula đến tìm Bụt ở tịnh thất của người.
Hai đại đức này đều xuất thân từ dòng dõi Bà la môn. Đó là hai anh em ruột. Họ
nổi tiếng là lão thông văn chương, cú pháp và nhất là cổ ngữ. Giọng phúng tụng
và xướng tán của họ rất thanh tao, trong như tiếng chuông và hùng mạnh như
tiếng trống. Gặp Bụt, hai đại đức lạy xuống. Bụt mời họ ngồi:
Đại đức
Yamelu nói:
- Thế
Tôn, chúng con muốn xin phép Thế Tôn để trình bày về vấn đề chuyển ngữ trong
công cuộc hoằng pháp. Bạch Thế Tôn, trong khi Thế Tôn thuyết pháp, người thường
dùng ngôn ngữ Magadhi ở Magadha hay ở Kosala cũng vậy. Nhưng trong giới khất sĩ
có nhiều vị không sử dụng được tiếng Magadhi, và ở những miền họ hành đạo dân
chúng cũng không biết tiếng Magadhi. Vì vậy pháp âm của người đã được chuyển
dịch thành rất nhiều thứ tiếng của nhiều giống dân khác nhau. Thời chưa xuất
gia, chúng con đã may mắn hoặc được nhiều sinh ngữ, và chúng con nhận xét rằng
ở nhiều nơi người ta đã làm sai lệch và méo mó pháp âm vi diệu của người bằng
cách diễn dịch pháp âm ấy thành nhiều thổ ngữ. Chúng con xin Bụt cho phép chúng
con đem tất cả các kinh giáo của người viết thành ngôn ngữ Sanskrit cổ điển.
Nếu các vị khất sĩ bốn phương đều học thuộc pháp âm người qua cổ ngữ ấy thì
chắc chắn chúng ta tránh được cái nạn làm méo mó và sai lệch tiếng nói của Bụt.
Bụt im
lặng một lát rồi ngửng lên nhìn hai vị đại đức:
- Các vị
làm như thế không tiện, đạo pháp là một thực thể linh động, ngôn ngữ để chuyên
chở giáo pháp phải là những sinh ngữ đang được sử dụng.
Tôi
không muốn giáo lý của chúng ta được trình bày bằng một cổ ngữ, trừ những người
trí thức, ít ai hiểu và cảm được giáo lý qua một cổ ngữ. Các thầy Yamalu và
Tekula, tôi muốn nói rõ với quý vị là giới môn đệ của tôi, xuất gia cũng như
tại gia, đều phải học hỏi và thực tập giáo pháp bằng chính tiếng mẹ đẻ của
mình. Như vậy giáo pháp mới linh động và dễ hiểu. Giáo pháp phải được thích ứng
với đời sống hiện tại và phải được trình bày như thế nào để thích hợp và dễ
hiểu với văn hóa địa phương.
Hiểu
được ý Bụt, hai đại đức Yamalu và Tekula đảnh lễ người và rút lui.
---o0o---
Chương 69
CHIM CỤT VÀ CHIM ƯNG
Tuy chưa
bị Bụt gọi riêng để quở trách lần nào, thầy Svastika vẫn biết rằng mình còn có
rất nhiều khiếm khuyết trong nếp sống phạm hạnh và thầy cũng biết rằng Bụt thấy
hết những khiếm khuyết ấy. Nếu Bụt không rầy hoặc chưa rầy có lẽ là vì Bụt thấy
thầy có để tâm hộ trì sáu căn, tuy sự hộ trì này chưa được nghiêm mật. Mỗi lần
thấy vị khất sĩ hay nữ khất sĩ nào bị quở trách, Svastika thường xem như chính
mình bị quở trách, vì vậy thầy có nhiều cơ hội để tập thúc liễm thân tâm. Nhất
là mỗi khi thầy Rahula được Bụt gọi lại giáo hóa là thầy Svastika xem như là
chính mình được Bụt gọi. Thầy Rahula đã bước những bước thật vững chãi trên con
đường tiến tu phạm hạnh và điều này là một trợ duyên cho sự tu học của thầy
Svastika.
Có một
lần thầy Svastika ngồi tâm sự với thầy Rahula trong một cụm rừng về sự may mắn
được xuất gia theo Bụt của mình. Thầy nói thầy đã được nếm hương vị tịnh lạc và
giải thoát rồi thì không còn thấy nếp sống ngoài thế gian là vui thích nữa.
Thầy Rahula bảo:
- Tuy
vậy mình không nên vội quá tin nơi mình. Công trình hộ trì sáu căn là công
trình căn bản của nếp sống phạm hạnh và ngay các vị lớn trong giáo đoàn khất sĩ
cũng vẫn không dám khinh thường công phu thực tập này.
Rồi thầy
kể cho thầy Svastika nghe về thầy Vangisa. Thầy Vangisa nổi tiếng là một vị
khất sĩ vừa có biện tài vừa có khiếu văn chương. Thầy đích thực là một thi sĩ,
thầy đã làm nhiều bài thi kệ ca ngợi Bụt, Pháp và Tăng. Thầy đã từng đọc thơ
của thầy cho Bụt nghe và Bụt đã ngỏ lời khen ngợi. Hồi mới xuất gia, thầy
Vangisa được theo học với thầy Nigrodhakappa và y chỉ nơi thầy. Hai thầy trò cư
trú tại đền Aggalava miền ngoại ô thành Savatthi. Sau đó trưởng lão
Nigrodhakappa tịch, thầy được về tu viện Cấp Cô Độc. Một hôm đi khất thực với
thầy Ananda, thầy Vangisa thú thật với thầy Ananda rằng tâm thầy không được an
tịnh và thầy khẩn cầu thầy Ananda hóa giải dùm. Hỏi ra, thầy Ananda biết được
rằng tâm của thầy Vangisa còn đang xao xuyến vì nhan sắc của một số các vị tiểu
thư thường đến cúng dường tại tu viện. Thầy Ananda hiểu rằng thầy Vangisa là
một nghệ sĩ, tâm hồn dễ rung động bởi những cái đẹp và vì vậy đã lấy cái sắc
đẹp của chính giáo pháp và của giác ngộ để giúp thầy Vangisa vượt thoát cái đẹp
mong manh, vô thường và có thể gây tai họa của nữ sắc. Thầy đã dạy thầy Vangisa
chiếu rọi ánh sáng vào đối tượng quán niệm để thấy tính cách bất tịnh và chóng
tàn hoại của các pháp. Thầy Vangisa đã thực tập theo lời giáo huấn của thầy
Ananda, đã thực tập hộ trì sáu căn và đã làm một bài thi kệ tự tính mà nhiều
thầy biết đến. Bài kệ ấy như sau:
Đã khoác
áo ca sa, Tham dục còn đuổi theo Như trâu nhớ lúa người Quả thật là hổ thẹn!
Con của
nhà đại tướng Tài giỏi nghề cung tên Ngàn người bắn tứ phía Vẫn phá được vòng
vây.
Nay giai
nhân có đến, Đông hơn là quân tràn, An trú nơi chánh pháp Ta quyết cũng không
sờn.
Ta đã
theo Thế Tôn Của dòng họ Mặt Trời Trên đường về thong dong Tình ta đã trọn gởi.
Do hộ
trì sáu căn Ta ung dung tiến bước Não phiền vô lượng Nào lay chuyển được ta?
Thầy
Vangisa là người thông minh và tài giỏi, vì vậy đã có lần vướng vào tâm trạng
tự hào và âm thầm có ý khinh miệt một số các thầy khác, nhưng may mắn thay, nhờ
tu tập chánh niệm, thầy đã thấy được niềm kiêu mạn khởi ra trong tâm thầy, và
thầy bất giác cảm thấy hổ thẹn. Thầy đã làm ra bài kệ sau đây để tự tỉnh:
Đệ tử
Gotama, Hãy đoạn trừ kiêu mạn!
Con
đường khiêu mạn này Chỉ đưa về khổ thủ!
Kẻ kiêu
mạn ngấm ngầm Cũng đi về địa ngục Huống chi là những kẻ Vênh váo nhìn cuộc đời!
Học đạo
thấy đường ngay, Tâm hồn được an lạc Niềm vui đó rất cao Ta phải mong đạt tới.
Hãy tập
phép chánh niệm Để đạt phép tam minh, Kiêu mạn đoạn trừ xong Mới thành công
thật sự.
Nhờ có
cảnh giác cao cho nên thầy Vangisa đã vượt được rất nhiều chướng ngại và đã
bước những bước thật lớn trên con đường chuyển hóa. Thầy đã đạt tới quả vị Bất
Sinh, và điều này đã được trưởng lão Sariputta xác nhận.
Ngày tâm
tư bừng mở, thầy Vangisa đã làm một bài thi kệ để tỏ lòng biết ơn Bụt. Bài thi
kệ ấy như sau:
Ngày xưa
say thơ mộng Ta phiêu bồng khắp nơi Cảnh chợ rồi cảnh quê Cuối cùng được gặp
Bụt!
Thế Tôn
đã thương xót Dạy cho ta phép mầu Nghe xong khởi niềm tin Khoác áo người khất
sĩ.
An trú
trong chánh pháp Kiên cố ta một lòng Nay chứng được tam minh Đền ơn bậc tỉnh
thức Hạt giống của mặt trời Thế Tôn đã gieo rắc Vì chúng sanh u tối Người khai
mở lối ra Bốn thật sự nhiệm mầu Con đường tám nẻo chánh An lạc và tự do Nghĩa
lời cùng vi diệu.
Phạm
hạnh đã cao siêu Độ sinh càng khéo léo Niết bàn cứu muôn loài Ơn sâu người chỉ
dạy!
Thầy
Sariputta trong một buổi giảng cho các vị khất sĩ trẻ có đem trường hợp của
thầy Vangisa ra để làm gương. Thầy bảo: Thầy Vangisa trong bước đầu tu học cũng
đã từng có những tình cảm và những tâm trạng yếu đuối, nhưng sau đó nhờ tu học
tinh chuyên đã vượt thắng được mọi phiền não và chứng ngộ được diệu pháp. Biết
vậy, người tu không nên có mặc cảm, dù là mặc cảm tự tôn hay là mặc cảm tự ty.
Tu tập chánh niệm, ta sẽ ý thức được những gì đang xảy ra trong nội tâm và ta
sẽ không bị lôi cuốn theo những gì đang xảy ra. Hộ trì sáu căn vì vậy là phương
pháp rất mầu nhiệm để vững tiến trên đường đạo.
Nghe
thầy Rahula kể về thầy Vangisa, thầy Svastika hình dung lại được vị khất sĩ tài
hoa này. Tuy thầy đã từng được gặp thầy Vangisa nhưng chưa bao giờ có dịp trò
chuyện. Thầy định bụng hôm nào sẽ xin đến làm quen và học hỏi kinh nghiệm tu
đạo của thầy Vangisa. Thầy nhớ có một hôm Bụt dùng hình ảnh về biển cả để dạy
đại chúng về công phu hộ trì sáu căn. Người nói:
- Này
các vị khất sĩ, mắt là một đại dương sâu, trong ấy có đầy những loài thủy quái,
có đầy những con nước xoáy và những đợt sóng ngầm rất nguy hiểm. Nếu không đi
trong chánh niệm, chiếc thuyền của quý vị sẽ bị những loài thủy quái, những con
nước xoáy và những đợt sóng ngầm ấy làm cho đắm chìm trong biển sắc. Tai, mũi,
lưỡi, thân và ý của quý vị cũng là những đại dương sâu trong ấy có đầy những
loài thủy quái ...
Nhớ tới
những lời dạy ấy của Bụt, thầy Svastika thấy sâu sắc vô cùng. Quả thật sáu giác
quan của thầy là những đại dương sâu, và những đợt sóng ngầm có thể nổi dậy bất
cứ lúc nào và làm cho thầy chìm đắm. Thầy Rahula nói rất phải: thầy rất không
nên khinh thường và phải thực tập rất nghiêm chỉnh lời Bụt dạy.
Câu
chuyện về con chim Cút mà Bụt kể cho các thầy khất sĩ trẻ nghe trước túp lều
của người tại tu viện Jetavana là một câu chuyện thật dễ nhớ. Câu chuyện này
cũng có mục đích nhắc nhở các thầy giữ gìn sáu căn và đừng buông thả tự thân
trong lĩnh vực của thất niệm. Bụt kể: Một hôm nọ có một con chim Ưng thình lình
đáp xuống và chụp lấy một con chim Cút rồi bay vút lên cao. Con chim Cút than
khóc, tự trách là mình đã đi ra khỏi vùng mà cha mẹ nó bảo không nên ra khỏi
cho nên mới bị tai nạn. “Nếu ta biết nghe lời cha mẹ ta thì con chim Ưng này có
làm gì được ta”. Nghe con chim Cút nói thế, chim Ưng hỏi: “Vậy vùng mà cha mẹ
mày bảo mày đừng ra khỏi là vùng nào?” Chim Cút trả lời: “Đó là vạt đất mới
được cày”. Chim Ưng lấy làm lạ, bay đi, bèn mang con chim Cút ra trả về chỗ cũ.
Trước khi bay đi, chim Ưng nói: “Này Cút, ta đã thả mày ra, mày hãy liệu chừng,
ta chỉ thả mày lần này thôi. Lần sau nếu bắt được mày, ta sẽ không thả đâu”.
Chim Cút
trở về vạt đất đã được cày, leo lên đứng trên một hòn đất lớn và thách thức
chim Ưng: “Này chim Ưng, mày hãy xuống đây, xuống đây xem có thể bắt được ta
hay không?”.
Chim Ưng
nổi giận, xếp hai cánh vào mình, lao vút xuống với tất cả sức lực của nó. Chim
Cút biết thế nên lập tức chui xuống núp dưới hòn đất. Chim Ưng đã bắt không
được chim Cút mà còn va vào hòn đất thật mạnh đến nỗi bị bể ngực và quay ra dẫy
chết. Này các vị khất sĩ, người tu hành phải an trú trong chánh niệm, hộ trì
sáu căn cho nghiêm chỉnh, rời khỏi lãnh vực chánh niệm tức là đi vào lãnh thổ
của ma vương, thế nào cũng bị tai nạn”.
Thầy
Svastika nhận thấy trong giáo đoàn của Bụt có nhiều vị khất sĩ trẻ tuổi có đạo
hạnh và tài năng. Điều này làm cho thầy phấn khởi. Có một hôm thầy được tháp
tùng một số các thượng tọa tới dự lễ trai tăng ở tư thất cư sĩ Citta tại thị
trấn Macchikasanda và đã khám phá ra sự có mặt im lặng của một vị khất sĩ trẻ
tuổi như thế. Cư sĩ Citta là người nổi tiếng tinh thâm giáo lý. Ông là một vị
đệ tử cư sĩ có đạo tâm và cũng được quần chúng ái mộ gần như cư sĩ
Anathapindika. Ông thường hay thỉnh các vị cao đức tới nhà để cúng dường trai
phạn và để được học hỏi. Hôm ấy có trên mười vị khất sĩ cao niên được mời. Chỉ
có Svastika và một vị khất sĩ khác tên là Isidatta là hai người trẻ tuổi. Sau
khi cúng dường trai hạn, cư sĩ Citta đứng ra đảnh lễ các vị tôn túc, xin phép
ngồi xuống một chiếc ghé thấp trước mặt các vị xuất gia và đặt câu hỏi sau đây:
- Kính
bạch các vị tôn túc, con đã được nghe kinh Bramajala, trong đó Bụt nói về sáu
mươi hai luận chấp của các học phái đương thời. Con cũng có nghe những câu hỏi
về sinh diệt và về linh hồn mà các đạo sĩ thường nêu ra như: thế giới là hữu
biên hay vô biên, vĩnh cữu hay phải đoạn diệt, linh hồn và thân xác là một hay
là khác, Như Lai có còn không sau khi nhập diệt, hay là vừa còn vừa không còn,
hoặc không còn cũng không không còn ... Bạch các vị tôn đức, do đâu mà có những
luận chấp và những câu hỏi có tính cách siêu hình ấy?
Trước
câu hỏi của cư sĩ Citta, tất cả các vị khất sĩ đều nín thinh, Citta lặp lại câu
hỏi này tới ba lần mà cũng không có vị khất sĩ nào lên tiếng để trả lời cả.
Thầy
Svastika cảm thấy bối rối, và cảm thấy nóng bên hai tai. Đột nhiên thầy Isidata
lên tiếng, hướng về phía các vị trưởng lão, thầy hỏi:
- Kính
bạch các vị trưởng thượng, con có thể trả lời câu hỏi đó của cư sĩ Citta được
không?
Các vị
khất sĩ lớn trả lời:
- Khất
sĩ, ông có thể trả lời nếu ông muốn.
Hướng về
cư sĩ Citta, thầy Isidatta nói:
- Này
của sĩ, sở dĩ có những luận chấp và những câu hỏi ấy vì người ta còn mắc kẹt
vào ngã kiến. Nếu ngã kiến không còn, người ta sẽ không hỏi những câu hỏi như
thế và không chủ trương những luận chấp như thế.
Cư sĩ
Citta lộ vẻ ngạc nhiên và thán phục, song ông lại nói:
- Xin
đại đức vui lòng cắt nghĩa cho rõ thêm.
- Người
không được gần gũi các bậc thiện nhân, không được học hỏi giáo pháp giác ngộ,
thường cho rằng thân thể này là ta, hoặc thân thể này là của ta, hoặc có ta
trong thân thể này, và có thân thể này trong ta ... Người ấy lại cho rằng cảm
thọ là ta, là sở hữu của ta, hoặc có ta trong cảm thọ này và có cảm thọ này
trong ta ... Người ấy cũng có cùng một kiến chấp ấy đối với tri giác, tâm hành
và nhận thức. Đó là người đang bị kẹt vào ngã kiến, chính vì bị kẹt vào ngã
kiến như thế nên mới chủ trương và tin vào những luận chấp như sáu mươi hai
luận chấp trong kinh Phạm Võng, và mới hỏi những câu hỏi như những câu hỏi về
hữu biên và vô biên, thường và đoạn, một và khác, còn hay là không còn. Cư sĩ
Citta, nếu học hỏi và tu tập để phá trừ được ngã kiến thì những câu hỏi và
những luận chấp kia sẽ tự động trở thành vô nghĩa.
Cư sĩ
hoàn toàn bị thầy Isidatta chinh phục. Ông kính cẩn hỏi:
- Bạch
đại đức, ngài từ đâu tới?
- Cư sĩ
Citta, tôi tới từ Avanti.
- Bạch
đại đức, tôi nghe nói ở Avanti có một người trẻ tuổi tên là Isidatta đã xuất
gia. Đó là một thiếu niên anh tuấn, lỗi lạc phi thường, một người mà chúng tôi
nghe tên mà chưa bao giờ từng được gặp. Chẳng hay đại đức có gặp ông ta hay
không?
- Cư sĩ
Citta, tôi đã có gặp ông ấy.
- Vậy
thưa đại đức, vị khất sĩ tài đức ấy hiện bây giờ ở đâu?
Đại đức
Isidatta im lặng.
Cư sĩ
Citta vốn người thông minh. Ông ngờ rằng vị đại đức đang ngồi trước mặt mình là
Isidatta. Ông hỏi:
- Có
phải đại đức chính là đại đức Isidatta đó không?
- Thưa
phải, thầy Isidatta trả lời.
Cư sĩ
Citta mừng rỡ:
- Vậy
thì quý hóa và hân hạnh cho tôi biết mấy. Bạch đại đức Isidatta, vườn xoài và
tệ xá tại Macchikasada rất mát mẻ và đầy đủ mọi tiện nghi. Tôi rất mong ước
được đại đức đến viếng chúng tôi thường thường. Chúng tôi xin nguyện cúng dường
đại đức tất cả những gì đại đức cần đến như thực phẩm, y áo, thuốc men và chỗ
ở.
Thầy
Isidatta im lặng. Sau đó các vị khất sĩ từ giã. Thầy Svastika nghe nói là sau
đó, thầy Isidatta không bao giờ trở lại nhà cư sĩ Citta một lần nữa. Và từ đó
thầy cũng không còn được gặp lại thầy Isidatta. Hình ảnh thầy Isidata sáng ngời
trong tâm thầy Svastika. Thầy Isidatta không những thông minh mà còn rất khiêm
nhượng nữa. Thầy không màng tới sự cung kính và cúng dường của người cư sĩ, dù
là một vị đại cư sĩ như Citta. Thầy Svastika thầm nguyện sẽ học theo hạnh của
thầy Isidatta và thầm hẹn là một hôm nào đó có dịp ghé về Avanti, thầy sẽ hỏi
thăm để tìm gặp lại vị khất sĩ ấy.
Thầy
Svastika biết Bụt rất thương yêu những thầy trẻ có chuyên tâm, có tuệ giác và
có chí nguyện lợi tha. Bụt đã từng nói là người trông cậy thật nhiều ở những vị
này trong công trình bồi đắp và trao truyền đạo pháp cho các thế hệ tương lai.
Tuy vậy, thầy thấy Bụt đã và đang đem lòng che chở cho cả các thầy trong giáo
đoàn khất sĩ, và người rất kiên nhẫn trong việc giảng dạy và hóa độ. Có thầy tu
không thành công, ra đời tới sáu lần mà đến khi hồi đầu, Bụt cũng cho phép trở
lại giáo đoàn một lần nữa. Có những những vị thiếu thông minh đến nỗi học hoài
mà cũng không thuộc được mười sáu phép thở, vậy mà người vẫn tiếp tục vỗ về và
khuyến khích. Một hồi đó, tại tu viện Jetava, có một thầy tên Bhaddali. Thầy
Bhaddali có những khuyết điểm mà Bụt biết, nhưng người cố tình làm lơ để tạo
cho thầy một cơ hội để chuyển hóa. Thầy không theo kịp đại chúng trong việc
chấp tri những qui luật của tu viện. Phép tắc của tu viện có điều khoản là khi
thọ trai, vị khất sĩ chỉ ngồi một lần cho đến khi ăn xong bữa cơm mà không được
đứng dậy để lấy thêm thức ăn hoặc làm những việc khác. Đó gọi là phép nhất tọa
thực. Tuy nhiên, thầy Bhaddali không làm như vậy được, và sống trong đại chúng,
thầy thường gây ra những phiền nhiễu cho người khác, Bụt có gọi thầy lên nhiều
lần và dạy thầy phép tự hỏi câu hỏi: “Tôi phải làm gì để cho đại chúng hoan
hỷ?” mỗi sáng mai. Vậy mà mấy tháng sau, thầy vẫn chưa thành công, Trong đại
chúng có những thầy không đủ kiên nhẫn và có khi nói nặng thầy.
Biết
vậy, có hôm Bụt dạy đại chúng:
- Các vị
khất sĩ, mọi cá nhân trong tăng đoàn dù có những khuyết điểm trầm trọng, nhưng
thế nào trong con người ấy vẫn còn lại một ít hạt giống của niềm tin và tình
thương. Chúng ta phải cư xử với vị ấy như thế nào để những hạt giống của niềm
tin và tình thương còn lại trong con người không bị hoàn toàn tiêu diệt. Ví dụ
có một người kia vì bất hạnh mà mù một con mắt, và chỉ còn một con mắt. Bà con
và những người thân thuộc của người này cố nhiên sẽ tìm cách giúp đỡ và bảo vệ
con mắt còn lại kia, vì biết rằng con mắt kia mà mù nữa thì không còn gì là
tương lai nữa. Vậy thì các vị khất sĩ, các vị hãy giúp bảo vệ những hạt giống
đức tin va tình thương còn lại nơi người đồng đạo bằng cách đối xử dễ thương
với người ấy.
Hôm ấy,
thầy Svastika có mặt. Thầy rất cảm động vì thái độ và tình thương của Bụt Thầy
ngửng lên thì thấy thầy Ananda đưa tay lau nước mắt, thì ra thầy Ananda cũng
cảm động như thầy.
Bụt tuy
là một người rất ngọt ngào, nhưng có khi người cũng rất nghiêm khắc và cũng
từng sử dụng những lời quở trách rất thẳng thắn và rất quyết liệt. Người nào mà
Bụt không độ được hoặc chưa độ được quả thật là người không có tương lai. Một
hôm, Svastika được chứng nghiệm một cuộc nói chuyện ngắn và rất hào hứng giữa
Bụt và một vị điều mã sư, nghĩa là một người huấn luyện điều phục ngựa. Bụt hỏi
vị điều mã sư:
- Ông
điều phục ngựa như thế nào, xin nói cho chúng tôi nghe đi.
Vị điều
mã sư:
- Thế
Tôn, có nhiều loại ngựa. Có loại rất dễ, chỉ cần dùng biện pháp ngọt ngào. Có
loại khó trị nhơn phải dùng vừa biện pháp ngọt ngào vừa biện pháp mạnh. Có loài
khó hơn, chỉ có thể dùng biện pháp mạnh.
Bụt cười
và hỏi:
- Vậy
khi gặp loại ngựa chứng mà cả ba biện pháp đều vô hiệu thì ông làm thế nào?
- Bạch
Thế Tôn, trong trường hợp ấy thì con phải hạ sát nó. Để nó sống chung trong bầy
ngựa thì sẽ làm hư hỏng những con ngựa khác. Bạch đức Thế Tôn, người điều phục
các vị đệ tử như thế nào, xin cho con biết với.
Bụt
cười:
- Thì
tôi cũng làm tương tự như ông. Có những người chỉ cần ngọt ngào. Có những người
vừa cần biện pháp ngọt ngào vừa cần biện pháp mạnh. Có những người chỉ có thể
dùng biện pháp mạnh mới có thể trị nổi.
- Vậy
trong trường hợp cả ba biện pháp đều vô hiệu thì đức Thế Tôn làm gì đối với
người bất khả trị đó?
Bụt nói:
- Thì
tôi cũng làm như ông vậy, tôi giết người ấy đi.
Vị điều
mã sư tròn xoe hai mắt:
- Sao?
Đức Thế Tôn giết người à? Đức Thế Tôn dạy người ta giới bất sát ...
Bụt nói:
- Tôi
nói vậy thôi chứ đâu có giết người theo kiểu ông giết ngựa. Gặp trường hợp có
người không thể sử dụng được một trong ba biện pháp trên thì tôi từ chối không
chấp nhận vào giáo đoàn khất sĩ, không chấp nhận là học trò của tôi, thế thôi,
nhưng đó cũng là điều bất hạnh lớn. Không được tu tập theo chính pháp trong
tăng đoàn đó là gì nếu không phải là sự đánh mất cái cơ hội muôn kiếp một lần?
Đó là gì không phải là một cái chết của tâm linh.
Nhưng đó
không phải chỉ là cho người kia mà là một niềm đau cho cả tôi, vì tôi rất
thương xót người đó, và tôi vẫn mong là một ngày kia người đó có thể hồi đầu.
Ngày
xưa, thầy Svastika đã có dịp thấy và nghe Bụt quở trách và dạy dỗ thầy Rahula,
và thầy cũng đã từng thấy Bụt trách dạy một vài thầy khác. Bây giờ thầy thấy
được sau hành động quở trách và la dạy ấy cả một tình thương đằm thắm. Thầy
Svastika biết Bụt rất thương thầy dù Bụt chưa nói ra điều đó thành lời, nhưng
chỉ cần nhìn vào mắt người là thầy thấy rõ điều đó.
Đêm nay,
đức Thế Tôn có khách. Thầy Ananda nhờ thầy Svastika đi đun nước nấu trà. Khách
là một vị hiệp sĩ, dáng đi hiên ngang, lưng đeo trường kiếm. Ông cột ngựa ngoài
cổng tu viện Jetavana, gươm bên yên ngựa và được thầy Sariputta hướng dẫn vào
chiếc am tranh của Bụt. Người ông cao lớn, mắt ông sáng quắc và ông bước những
bước dài, mắt sáng quắc nhìn về phía trước. Thầy Ananda cho thầy Svastika biết
đó là hiệp sĩ Rohitassa.
Khi vào
dâng trà, thầy Svastika thấy hiệp sĩ Rohitassa và thầy Sariputta đang ngồi đối
diện Bụt trên những chiếc gỗ kê thấp, còn thầy Ananda thì đứng hầu sau lưng
Bụt. Dâng trà cho Bụt, cho khách và cho hai thầy xong, thầy Svastika cũng đến
đứng sau lưng Bụt bên cạnh thầy Ananda. Mọi người lặng thinh một lúc thật lâu
sau khi uống trà. Đột nhiên, hiệp sĩ Rohitassa mở lời:
- Bạch
đức Thế Tôn, có một cõi nào mà không có sinh, không có già, không có bịnh, và
không có chết? Có một cõi nào mà muôn loại không chịu luật sinh diệt? Ta có thể
di chuyển bằng cách nào để ra khỏi thế giới của sinh diệt để đi tới thế giới
không sinh diệt kia?
Bụt trả
lời:
- Này,
Rohitassa, không thể nào ra khỏi thế giới sinh diệt bằng cách di chuyển, dù ta
có đi mau cách mấy đi nữa, dù ta có đi mau hơn cả ánh sáng.
Nghe Bụt
nói như thế, hiệp sĩ chắp hai tay lại:
- Lạy
đức Thế Tôn, người dạy rất chí lý. Quả thật ta không thể đi ra khỏi biên giới
của thế giới của sinh diệt bằng cách di chuyển, dù bằng tốc độ nào.
Con nhớ
trong một kiếp trước con đã từng có thần thông và con đã có thể bay trong hư
không với tốc độ của một mũi tên, con chỉ vần bước một bước là đã có thể từ bờ
biển miền Đông con sang tới bờ biển miền Tây. Con đã cố quyết vượt biên giới
của thế giới sinh lão, bệnh, tử, để đi sang một thế giới khác, một thế giới
trong đó ta không còn bị không chế bởi luật sinh diệt. Con đã đi suốt ngày như
vậy, ngày này sang ngày khác, không dừng lại hoặc để ăn, hoặc để uống, hoặc để
nghỉ ngơi, hoặc để ngủ, hoặc để đi đại tiện hay tiểu tiện ... Con đã đi trên
một trăm năm với tốc độ ấy nhưng con đã không đi tới đâu cả và rốt cuộc con đã
chết dọc đường ... Vi diệu thay, dùng sự thật thay là lời nói của đức Thế Tôn!
Quả thật ta không thể nào vượt được biên giới của cõi sinh tử bằng cách di
chuyển, dù là di chuyển với tốc độ của ánh sáng.
Bụt dạy:
- Tuy
vậy, ta không nói rằng cõi sinh tử này không thể vượt được. Này Rohitassa, ông
có thể vượt khỏi cõi sinh tử này. Ta sẽ chỉ cho ông con đường để vượt thoát thế
giới sinh tử. Này Rohitassa, chính trong tấm thân dài bảy thước của ông mà thế
giới sinh tử được sinh khởi và cũng trong chính tấm thân dài bảy thước ấy mà
ông có thể tìm thấy được sự chấm dứt của thế giới sinh tử. Hãy quán chiếu thân
thể ông. Hãy quán chiếu thế giới sinh diệt ngay trong tấm thân bảy thước của
ông. Quán chiếu để thấy được thực tướng vô thường, vô ngã, bất sinh và bất diệt
của vạn pháp trong vũ trụ.
Rồi ông
sẽ thấy thế giới sinh diệt tan biến và thế giới của bất diệt bất sinh hiển lộ.
Ông sẽ được giải thoát khỏi mọi khổ đau và sợ hãi. Để vượt khỏi thế giới của
khổ đau và sinh diệt, ông không cần đi đâu hết. Ông chỉ cần ngồi lại và nhìn
sâu vào tự tánh của thân thể ông.
Thầy
Svastika thấy hai mắt của đại đức Sariputta sáng quắc như hai vì sao.
Hiệp sĩ
cũng lộ vẻ vui sướng một cách rõ rệt. Svastika cảm động không cùng, ai dè pháp
Bụt mầu nhiệm đến thế và cũng hùng tráng đến thế. Thật như là một bản đại hùng
ca. Chìa khóa của sự thành công nằm ngay trong lòng bàn tay của mình, thầy
Svastika cảm thấy rõ ràng điều đó.
---o0o---
Chương 70
BỤT TỪ ĐÂU TỚI VÀ SẼ ĐI VỀ ĐÂU?
Một hôm
nọ, khi trời đang cơn mưa tầm tả, có một vị du sĩ tới viếng. Vị du sĩ này tên
là Uttiya. Đại đức Ananda tiến dẫn ông vào gặp Bụt. Thầy giới thiệu vị du sĩ,
nhắc ghế mời ông ngồi, rồi đi lấy khăn để ông lau khô đầu tóc và mình mẩy.
Uttiya
hỏi Bụt:
- Sa môn
Gotama, thế giới là còn mãi hay là sẽ có khi bị hoại diệt?
Bụt mỉm
cười, nói:
- Du sĩ
Uttiya, tôi xin phép không trả lời câu hỏi đó.
Uttiya
hỏi:
- Thế
giới là có biên giới hay không có biên giới?
- Tôi
cũng không trả lời câu hỏi đó.
- Vậy
thì thân thể và linh hồn là một hay là hai?
- Câu
hỏi này tôi cũng xin phép không trả lời.
- Sau
khi chết, sa môn Gotama còn hay là mất?
- Câu
hỏi này tôi cũng xin phép không trả lời.
- Hay
ngài nghĩ rằng sau khi chết, ngài vừa còn mà cũng vừa mất?
- Du sĩ
Uttiya, câu hỏi đó, tôi cũng không trả lời.
Uttiya
ngạc nhiên. Ông nói:
- Câu
nào tôi hỏi, sa môn Gotama cũng không trả lời. Tại sao thế? Vậy hỏi câu nào sa
môn Gotama mới chịu trả lời?
Bụt nói:
- Tôi
chỉ trả lời những câu hỏi về đạo pháp có liên hệ tới công phu tu tập nhằm gạn
lọc thân tâm, vượt thắng lo âu và sầu khổ mà thôi.
- Đạo
pháp của sa môn Gotama có thể cứu độ được bao nhiêu người trên thế giới?
Bụt lặng
yên không nói.
Du sĩ
Uttiya cũng ngồi yên lặng.
Sợ vị du
sĩ nghĩ lầm rằng Bụt không thèm hoặc không đủ sức trả lời những câu hỏi của ông
ta, và nghĩ như thế thì tội nghiệp cho ông ta quá, đại đức Ananda lên tiếng:
- Du sĩ
Uttiya để tôi nói cho bạn nghe một ví dụ này, và bạn có thể hiểu ý của thầy
tôi, Giả dụ có một ông vua kia cư trú trong một thành trì thật kiên cố, có hào
sâu và hầm chông bao quanh, chỉ có một cửa ra vào mà thôi, và ở cửa ra vào ấy
vua đã cử một người thật sáng suốt đứng canh gác. Người gác cửa nà chỉ cho vào
thành người nào mà ông ta biết và nhận mặt được, ngoài ra ông ta chận lại tất
cả một người lạ mặt. Ông ta cũng đã đi tuần tiễu chung quanh thành trì và biết
rõ rằng không có một kẻ hở nào do đó ngoại nhân có thể đột nhập được vào thành,
dù cho một cái lỗ nhỏ đủ để một con mèo con chui qua. Ông vua trấn ngự trong
thành không lưu tâm tới số lượng những người được phép qua lại cổng thành. Ông
vua ấy chỉ quan tâm đến việc làm thế nào cho kẻ gian không đột nhập được vào
thành. Thầy tôi cũng vậy. Sa môn Gotama không quan tâm mấy tới số lượng những
người theo đạo. Sa môn Gotama chỉ quan tâm tới những pháp môn có hiệu lực ngăn
chận và diệt trừ tham dục, bạo động, và mê vọng để thực hiện an lạc và giải thoát
mà thôi. Nếu bạn hỏi thầy tôi những câu hỏi thật sự hữu ích cho việc điều phục
thân tâm và tu tập thiền quán thì thầy tôi sẽ trả lời bạn, chứ sao không?
Du sĩ
Uttiya lĩnh ý, nhưng vì ông ta quá chú trọng đến những vấn đề thuộc phạm vi lý
luận siêu hình nên ông đã cáo từ Bụt và đại đức Ananda mà không cảm thấy thỏa
mãn cho lắm.
Sau đó
mấy hôm lại có một vị du sĩ khác tên là Vacchagota tới viếng Bụt.
Ông ta
cũng hỏi Bụt những câu có tính cách tương tợ như những câu hỏi của du sĩ
Uttiya. Ví dụ ông hỏi:
- Sa môn
Gotama, xin ngài cho biết là có ngã hay không?
Bụt lặng
thinh không đáp. Sau vài câu hỏi không được giải đáp, Vacchagota đứng dậy và bỏ
đi.
Sau khi
Vacchagota đã đi khuất, đại đức Ananda hỏi Bụt:
- Thế
Tôn, trong các buổi pháp thoại, Thế Tôn đã từng có giảng dạy về đạo lý vô ngã.
Tại sao hôm nay Thế Tôn không trả lời những câu hỏi về ngã của du sĩ
Vacchagota?
Bụt nói:
-
Ananda, đạo lý vô ngã mà tôi giảng dạy cho các vị khất sĩ là một pháp môn hướng
dẫn thiền quán, mà không phải là một chủ thuyết. Hiểu nó như một chủ thuyết,
các vị có thể bị kẹt vào nó. Tôi đã chẳng có lần bảo các thầy là giáo pháp phải
được xem như chiếc bè chở ta qua sông, như ngón tay chỉ mặt trăng, và ta không
nên bị kẹt vào giáo pháp hay sao? Du sĩ Vacchagota chỉ muốn tôi đưa ra một chủ
thuyết thì tôi đưa ra sao được. Tôi không muốn cho Vacchagota kẹt vào một chủ
thuyết, dù là chủ thuyết hữu ngã hay là chủ thuyết vô ngã. Nếu mình nói với ông
ta là có ngã, thì là mình ngược lại giáo pháp của mình. Nếu mình nói với ông ta
là không có ngã, để ông ta níu vào đấy như một chủ thuyết rồi để ông ra bị kẹt
vào đấy thì có ích gì cho ông ta?
Vậy nên
im lặng là câu trả lời hay nhất trong trường hợp này, thà rằng họ cho là mình
“không biết” còn hơn là họ bị kẹt vào kiến chấp.
Một hôm đại
đức Anuruddha trên đường đi khất thực bị một nhóm du sĩ chận lại cật vấn. Họ
bắt thầy phải trả lời cho được câu hỏi của họ. Họ nói trả lời được thì họ mới
cho đi. Họ hỏi:
- Chúng
tôi nghe đồn sa môn Gotama là bậc giác ngộ vẹn toàn, và giáo pháp của người rất
cao siêu mầu nhiệm. Thầy là môn đệ của sa môn Gotama, vậy xin thầy cho biết:
sau khi chết sa môn Gotama có còn hiện hữu hay không?
Rồi các
vị du sĩ buộc đại đức Anaruddha chọn một trong những điều sau đây:
1. Sau
khi chết, sa môn Gotama còn.
2. Sau
khi chết, sa môn Gotama mất.
3. Sau
khi chết, sa môn Gotama vừa còn vừa mất.
4. Sau
khi chết, sa môn Gotama vừa không còn vừa không mất.
Khất sĩ
Anuruddha biết rằng trong bốn câu trả lời đó không có câu trả lời nào phù hợp
với giáo pháp của Bụt. Thầy im lặng, nhưng các vị du sĩ không bằng lòng sự im
lặng đó. Họ buộc thầy phải nói một cái gì đó. Cuối cùng, đại đức nói:
- Này
các bạn, theo tri kiến của tôi thì bốn mệnh đề đó, không mệnh đề nào diễn tả
được sự thật về sa môn Gotama.
Các thầy
du sĩ cười và bảo nhau:
- Xem bộ
vị khất sĩ này là người mới tu cho nên ông ta mới không trả lời được câu hỏi
của mình và tìm mọi cách để thối thác. Thôi chúng ta nên để cho ông ta đi đi
cho rồi.
Nói
xong, họ bỏ đi. Sau đó mấy hôm, gặp giờ pháp thoại, đại đức Anuruddha đem việc
xảy ra trình lên Bụt, rồi thầy nói:
- Thế
Tôn, xin Thế Tôn soi sáng cho chúng con, để chúng con được học hỏi thêm và để
cho chúng con có khả năng trả lời mỗi khi được hỏi những câu hỏi tương tợ.
Bụt hỏi
Anuruddha:
- Này
Anuruddha, đi tìm bắt sa môn Gotama bằng khái niệm rất khó. Sa môn Gotama ở
đâu? Anaruddha! Có thể tìm sa môn Gotama nơi hình sắc không?
- Bạch
Thế Tôn, không.
- Có thể
tìm sa môn Gotama nơi cảm giác không?
- Bạch
Thế Tôn, không.
- Có thể
tìm sa môn nơi tri giác, tâm tư và nhận thức không?
- Bạch
Thế Tôn, không.
- Vậy
thì Anuruddha, có thể tìm sa môn Gotama ngoài hình sắc không?
- Bạch
Thế Tôn, không.
- Có thể
tìm sa môn Gotama ngoài cảm giác không?
- Bạch
Thế Tôn, không.
- Có thể
tìm sa môn Gotama ngoài tri giác, tâm tư và nhận thức không?
- Bạch
Thế Tôn, không.
Bụt nhìn
Anuruddha:
- Vậy
thì tìm sa môn Gotama ở đâu? Anuruddha, ngay trong giờ phút hiện tại đứng trước
sa môn Gotama mà còn không nắm bắt được sa môn Gotama huống hồ là sau khi sa
môn Gotama diệt độ! Anuruddha, tự thân của sa môn Gotama, cũng như tự thân của
bất cứ một pháp nào trong vạn pháp, không thể nào nắm bắt được bằng khái niệm,
bằng những phạm trù của nhận thức phân biệt. Phải thấy được các pháp trong liên
hệ duyên khởi của nó. Phải thấy được sa môn Gotama nơi những pháp mà ta thường
cho là không phải sa môn Gotama, như thế mới thấy được chân tướng của sa môn
Gotama.
Anuruddha!
Muốn thấy được tự tánh của một đóa hoa sen, ta phải thấy được đóa sen nơi những
pháp mà ta không gọi là đóa sen, như ánh sáng mặt trời, nước hồ, đám mây, bùn
đất, hơi nóng ... Chỉ có cái thấy đó mới đưa ta vượt thoát được cái lưới biển
kế sở chấp, tức là cái lưới phân biệt khái niệm, tức là những phạm trù sinh,
diệt, này, kia, có, không, dơ, sạch, thêm, bớt ...
Muốn thấy
được sa môn Gotama cũng thế. Bốn phạm trù: có, không, vừa có vừa không, không
có cũng không không, chỉ là bốn cái lưới nhện trong số bao nhiêu chiếc lưới
nhện khác, không có đủ sức nắm bắt được con chim đại bàng của thực tại mầu
nhiệm.
Anuruddha!
Thực tại tự thân không thể dùng khái niệm phân biệt mà nắm bắt, không thể dùng
ngôn ngữ văn từ mà diễn bày. Chỉ có trí tuệ thực chứng do thiền quán đem lại
mới giúp ta nhận được tự thân thực tại. Anuruddha, một người chưa bao giờ có
dịp nếm hương vị của một trái xoài thì không thể nào biết được hương vị ấy dù
người khác có dùng bao nhiêu ngữ ngôn, văn từ và khái niệm phân biệt để diễn tả
hương vị trái xoài cho người kia nghe.
Chỉ có
kinh nghiệm chứng đắc trực tiếp mới đưa ta thể nhập được thực tại.
Do đó
tôi đã từng nhiều lần nói với các vị là đừng nên đi lạc vào thế giới của hý
luận để đánh mất thời gian quý báu của sự tu tập quán chiếu.
Anuruddha!
Vạn pháp là vạn pháp trong cái tự thân như thật của nó, cho nên ta gọi tự thân
của các pháp là chân như (tathatha). Chân như là tự thân mầu nhiệm của vạn
pháp. Đóa sen từ chân như mà tới, Anuruddha cũng từ chân như mà tới,, sa môn
Gotama cũng từ chân như mà tới. Từ chân như mà tới thì gọi là như lai
(tathagatha). Từ chân như tới, vạn pháp đi về đâu? Vạn pháp đi về chân như. Đi
về chân như thì gọi là như khứ (tathagatha). Thật ra vạn pháp không từ đâu tới
cả, cũng không đi về đâu cả, vì tự thân của vạn pháp đã là chân như rồi.
Anuruddha! Nghĩa đích thực của như lai là không từ đâu tới mà cũng không đi về
đâu cả (từng vô sở lai, diệc vô sở khứ).
Anuruddha,
từ hôm nay trở đi tôi sẽ tự gọi là như lai (tathagatha). Như lai ưa từ này, bởi
vì từ này tránh được ý niệm phân biệt có thể thấy được trong các đại danh từ
tôi và ta.
Đại đức
Anuruddha mỉm cười:
- Bạch
như lai, từ nay xin người cứ tự xưng là Như lai đối với chúng con.
Chúng
con biết rằng chúng con cũng từ chân như tới, nhưng chúng con không tự xưng
chúng con là Như lai, chúng con chỉ để Như lai sử dụng đại danh từ này.
Thế Tôn,
mỗi lần Thế Tôn tự gọi mình là Như lai, chúng con lại có dịp được nhắc để quán
chiếu và nhớ rằng chúng con cũng thuộc về cùng một bản thể chân như, bất sinh
và bất diệt.
Bụt mỉm
cười:
- Như
lai rất vuilòng vì đề nghị ấy của thầy Anuruddha.
Đại đức
Ananda có mặt trong buổi tham vấn kỳ diệu hôm ấy. Sau khi cuộc tham vấn chấm
dứt, thầy đi theo đại đức Anuruddha. Thầy đề nghị là ngày hôm sau, hai người sẽ
lên trùng tuyên cho đại chúng nghe nội dung của cuộc tham vấn từ đầu tới cuối,
và đại đức Anuruddha sẽ bắt đầu buổi trùng tuyên bằng cách thuật lại cuộc đối
thoại giữa thầy và các du sĩ ngoại đạo trên đường phố Savatthi. Thầy Anuruddha
rất hoan hỷ về đề nghị này.
---o0o---
Chương 71
NGHỆ THUẬT LÊN DÂY ĐÀN
Mùa an
cư hoàn mãn, Bụt lên đường về miền Nam. Người ghé thăm vườn Nai Migaradava ở
Isipatana, phía Bắc thành phố Baranasi, nơi người đã nói pháp thoại Tứ Diệu Đế,
pháp thoại đầu tiên của người. Quang cảnh ở đây đã đổi khác. Một cái tháp lớn
đã được dân chúng địa phương dựng lên để kỷ niệm lần đầu tiên bánh xe chánh
pháp được chuyển xoay. Mới đó mà ba mươi sáu năm đã đi qua, bánh xe chánh pháp
đã được chuyển xoay liên tục trong mươi sáu năm và chánh pháp đã được lan
truyền đến mọi nơi, trên khắp lưu vực sông Hằng. Tại vườn Nai, một giảng đường
đã được tạo lập và các vị khất sĩ cư trú tu học rất là đông đảo. Sau khi thăm
hỏi, thuyết pháp và khích lệ đại chúng, Bụt lên đường đi Gaya. Người ghé
Uruvela thăm cây bồ đề năm xưa. Cây bồ đè càng ngày càng xanh tốt. Nhiều chiếc
tịnh thất đã được dựng lên trong vùng. Vua Bimbisara đang chuẩn bị cho xây một
ngôi tháp kỷ niệm nơi Bụt thành đạo. Bụt ghé vào thôn xóm để chơi với bọn trẻ
con. Những đứa trẻ năm nay không khác gì những đứa trẻ năm xưa. Chú bé chăn
trâu Svastika năm xưa nay đã bốn mươi bảy tuổi rồi và đã trở nên một vị lớn
trong giới khất sĩ. Bọn trẻ đi hái những trái đu đủ chín đỏ để cúng dường Bụt,
đứa nào cũng biết đọc bài tam quy.
Từ Gaya,
Bụt đi dần lên phía Đông Bắc để về Rajagaha. Về tới thủ đô, Bụt đi thẳng lên
núi Linh Thứu.
Tại đây,
Bụt gặp đại đức Punna. Thấy Bụt, đại đức rất mừng. Thầy kể cho Bụt nghe về công
trình hoằng pháp của thầy tại đảo Sunaparanta. Thầy vừa mới kết thúc một mùa an
cư tại đó với một số các vị khất sĩ bạn. Số người quy y Bụt, Pháp và Tăng ở đảo
đã lên tới con số năm trăm.
Những
ngày kế tiếp, Bụt đi thăm các trung tâm tu học rải rác trong vùng.
Một đêm
kia, tĩnh tọa trong tịnh thất tại trung tâm vườn Mát. Bụt thoáng nghe được
giọng tụng kinh hơi bất thường của một vị khất sĩ. Giọng tụng kinh này có vẻ
mệt mỏi và buồn chán. Bụt biết vị khất sĩ này đang gặp khó khăn.
Sáng hôm
sau, nhờ hỏi đại đức Ananda, Bụt biết vị khất sĩ tụng kinh hồi hôm là Sona. Bụt
đã từng biết Sona nhiều năm về trước tại Savatthi.
Đại đức
Kulikanna đã được xuất gia dưới sự hướng dẫn của đại đức Maha Kaccana, và tu
học với đại đức này mấy năm trên núi Pavatta ở xứ Kururaghara. Sona là một
thanh niên con nhà giàu, nho nhã thông minh, nhưng thể chất không được cứng cát
cho lắm. Thầy phải cố gắng hết sức mới sống được đời sống xuất gia không nhà
không cửa, ăn một một ngày một bữa và ngủ dưới gốc cây, nhưng đạo tâm của Sona
rất lớn. Năm sau, thầy Sona mới được đại đức bổn sư phái về Savatthi thăm Bụt.
Được gặp
Bụt lần đầu, thầy Sona rất sung sướng, Bụt hỏi thăm thầy:
- Sona,
thầy có mạnh giỏi không? Tu học, khất thực và hành hóa có khó khăn lắm không?
- Bạch
Thế Tôn, con hạnh phúc lắm. Công việc tu học, khất thực và hành hóa của con
không có gì khó khăn.
Bụt bảo
thầy Ananda:
- Thầy
dọn cho khất sĩ Sona một chỗ nghỉ ngơi trong tịnh thất.
Đại đức
Ananda kê thêm một cái giường trong tịnh xá Bụt. Đêm ấy, Bụt ngồi thiền ngoài
trời cho tới ba giờ sáng. Sona thấy thế cũng không ngủ. Khi Bụt bước vào, người
hỏi:
- Thầy
chưa ngủ sao?
- Bạch
Thế Tôn, con chưa ngủ.
- Thầy
chưa buồn ngủ sao? Vậy thì thầy có thuộc được kinh kệ gì, đọc lên cho vui đi.
Đại đức
Sona vâng lời đọc lên mười sáu câu kệ thuộc phép quán niệm hơi thở. Giọng thầy
trong như chuông, không vấp váp, không có một lỗi văn phạm. Bụt khen:
- Thầy
đọc hay lắm, thầy tu đã được mấy năm rồi?
-Bạch
Thế Tôn, con mới đi tu được có hơn một năm thôi. Con chỉ mới có một tuổi an cư.
Đó là
lần đầu Bụt gặp thầy Sona. Đêm qua nghe tiếng tụng kinh của thầy.
Bụt biết
là Sona đã cố gắng quá sức mình trong nổ lực tu học. Người bảo Ananda cùng đi
với người tới tịnh thất của thầy Sona. Thấy Bụt, Sona đứng dậy chào mừng. Bụt
bảo Ananda và Sona ngồi xuống cạnh Bụt, rồi người hỏi Sona:
- Ngày
trước, hồi chưa xuất gia, thầy là nhạc sĩ chuyên về đàn mười sáu dây, phải
không?
- Bạch
Thế Tôn, phải.
- Khi
đánh đàn, nếu dây đàn chùng thì sao?
- Bạch
Thế Tôn, nếu dây đàn chùng thì tiếng đàn chưa đúng mức.
- Còn
nếu dây quá căng.
-Bạch
Thế Tôn, nếu dây đàn quá căng thì tiếng đàn biến thể và dây đàn có thể đứt.
- Còn
nếu dây đàn được lên vừa phải?
- Bạch
Thế Tôn, nếu dây đàn được lên vừa phải thì bản nhạc sẽ hay.
- Đúng
như vậy đó, Sona! Giải đãi và lười biếng thì đạo nghiệp không thành, mà cố gắng
quá sức mình thì sẽ đưa tới sự mệt mỏi và thối chí. Sona! Thầy phải biết lượng
sức mình, đừng ép uổng thân và tâm quá mức, như vậy thầy mới mong thành tựu
được đạo nghiệp.
Đại đức
Sona đứng dậy lạy xuống để cảm tạ Bụt.
Một buổi
chiều, y sĩ Jivaka, lên núi Linh Thứu thăm Bụt. Tới chân núi, ông gặp Bụt, Bụt
mới ở tu viện Trúc Lâm về. Ông chào Bụt và xin phép được đi theo người lên núi.
Jivaka
nhìn Bụt leo các bậc thang đá lên núi mà trong bụng khen thầm Năm nay Bụt đã
bảy mươi hai tuổi rồi mà người còn cứng cát và mạnh khỏe quá, Bụt leo núi một
cách thong thả và ung dung, một tay cầm bát, một tay cầm chéo áo. Đại đức
Ananda đi cạnh Bụt không thể cầm bát thay cho Bụt được, bởi vì một tay thầy
cũng cầm bát và một tay thầy cũng cầm chéo áo. Jivaka tiến lên và xin mang bình
bát hầu Bụt. Bụt trao bình bát cho ông và mỉm cười:
- Như
lai đã leo núi này có cả mấy ngàn lần, lần nào cũng tự cầm lấy bát, thì đã có
sao đâu.
Bậc đá
được xây lên tận thềm tịnh xá của Bụt ở trên đỉnh đồi. Chính vua Bimbisara đã
ra lệnh xây mấy trăm bậc đá này để cúng dường. Lên tới sân tịnh xá, y sĩ được
Bụt mời ngồi trên một tảng đá. Ông cám ơn Bụt rồi hỏi thăm Bụt về tình hình sức
khỏe và công việc hoằng hóa của người ở các nước. Ông nhìn đại đức Ananda rồi
nhìn Bụt. Ông nói:
- Bạch
Thế Tôn, con xin phép nói sơ lược về tình trạng giáo đoàn ở đây. Con thấy tình
trạng giáo đoàn có liên hệ tới tình trạng chính trị. Con nghĩ Thế Tôn cần phải
được thông báo về tình hình này.
Rồi y sĩ
cho Bụt biết rằng đại đức Devadatta có vây cánh khá mạnh mẽ và đông đảo trong
giới các vị khất sĩ cũng như trong giới chính trị. Cánh tay trái của đại đức là
đại đức Kokalika, một người được xem như là mưu sĩ của đại đức Devadatta. Ngoài
ra còn có các đại đức Kotamoraka Tissa, Khandadeviputta và đại đức
Samuddadatta; vị nào cũng có đông đảo đệ tử.
Đại đức
Devadatta rất thông minh mà cũng rất hùng biện cho nên được rất đông người nghe
theo, trong giới khất sĩ cũng như trong giới cư sĩ. Đại đức không chính thức
nói ra là đại đức chống đối Bụt và các vị đại đệ tử phụ tá người, nhưng đại đức
đã nhiều lần đưa ra ý kiến là Bụt đã lớn tuổi, không đủ sức để lãnh đạo giáo
đoàn, và cách thức của Bụt đã hơi xưa không thích hợp với giới trẻ và với thời
đại mới. Đứng về phương diện xã hội, đại đức rất được nhiều giới giàu có ủng
hộ. Người ủng hộ đại đức tận tình nhất là là hoàng thái tử Ajatasattu. Không
biết đại đức khéo léo thế nào mà thái tử Ajatasattu đã ủng hộ đại đức một cách
tận tình. Hoàng thượng Bimbisara tin kính Bụt như thế nào thì Ajatasattu tin
kính đại đức Devadatta như thế ấy.
Thái tử
đã xây cất cho đại đức một trung tâm tu học lớn trên núi Gayasisa, nơi ngày xưa
Bụt đã nói Kinh Lửa cho ba anh em đại đức Uruvela Kassapa và cả gần một ngàn vị
môn đệ của họ. Thái tử cho chở tới trung tâm các thức cúng dường, chở bằng xe
ngựa, ba bốn hôm một lần. Giới thương gia và chính trị gia muốn được lòng thái
tử cũng bắt chước đi lại Gayasisa để cúng dường và nghe pháp. Với sự ủng hộ đó,
uy tín của đại đức càng lúc càng lên.
Số các
vị khất sĩ theo hùa về đại đức đã có đến ba hoặc bốn trăm vị.
Nói tới
đây, y sĩ lại nhìn Bụt và xuống giọng:
- Bạch
Thế Tôn, con nghĩ rằng những gì xảy ra đó không đủ để làm Thế Tôn e ngại, nhưng
điều này con xin Thế Tôn lưu ý cho con, con nghe phong phanh là Ajatasattu muốn
sớm làm vua để thi hành được những gì mà thái tử muốn, Ajatasattu nóng ruột
thấy vua cha ngồi ở trên ngôi lâu quá; cũng như đại đức Devadatta nóng ruột
thấy Bụt chưa giao quyền lãnh đạo giáo đoàn cho đại đức. Con nghĩ rằng chính
đại đức Devadatta đã gieo những ý tưởng nguy hiểm vào đầu thái tử Ajatasattu,
Thế Tôn, vì phải lui tới kinh đô để chữa trị cho hoàng thưọng và hoàng gia, con
đã cảm thấy các nguy cơ này.
Nếu vạn
nhất có chuyện gì xảy ra, Bụt và giáo đoàn thế nào cũng bị liên lụy.
Xin Thế
Tôn lưu ý.
Bụt nói:
-
Jivaka, cám ơn ông đã cho Như lai biết tình hình. Biết được những gì đang xảy
ra, đó là điều quan trọng, nhưng ông đừng quá lo lắng, Như lai sẽ sắp đặt để
giáo đoàn đừng bị vương vấn vào những chuyện không may.
Y sĩ
Jivaka lạy Bụt, cáo từ và xuống núi.
Bụt dặn
thầy Ananda đừng tiết lộ những gì y sĩ nói cho ai biết.
Mươi hôm
sau, trong một buổi pháp thoại lớn tổ chức hàng tháng tại tu viện Trúc Lâm, Bụt
giảng về ngũ lực, tức năm loại năng lực cần thiết để nuôi dưỡng hoa trái giác
ngộ, Ngũ lực là niềm tin (tín), sự chuyên cần (tấn), chánh niệm (niệm), sự
chuyên tinh (định), và sự hiểu biết (tuệ).
Buổi
pháp thoại rất đông đảo, có trên ba ngàn người tham dự, trong đó có cả quốc
vương Bimbisara. Pháp thoại vừa chấm dứt, mọi người chưa có cơ hội để hỏi Bụt
những điểm họ chưa thấu triệt thì đại đức Devadatta đã đứng dậy.
Đại đức
bước lên, chắp tay cung kính làm lễ Bụt, rồi bạch:
- Thế
Tôn, năm nay tuổi Thế Tôn đã cao, sức khỏe Thế Tôn đã kém, Thế Tôn cần được
nghỉ ngơi an tĩnh để bớt đi những khó nhọc trong những năm chót còn lại trên
đời. Công việc lãnh đạo giáo đoàn đã trở nên quá nặng nhọc đối với Thế Tôn. Xin
Thế Tôn rút về tịnh xá an nghỉ. Con sẽ xin thay mặt người mà lãnh đạo giáo đoàn
khất sĩ.
Bụt nhìn
Devađatta, người trả lời:
-Devadatta,
cám ơn thầy đã lo lắng cho Như lai, nhưng Như lai vẫn còn đủ sức để lãnh đạo
giáo đoàn khất sĩ.
Đại đức
quay lại nhìn đại chúng. Có khoảng ba trăm vị khất sĩ đứng dậy và chắp tay. Đại
đức nói:
- Ở đây
có nhiều vị cũng nhận thấy như con. Xin Thế Tôn đừng e ngại, con đủ sức lãnh
đạo giáo đoàn để đỡ mệt cho người.
Bụt nói:
- Thôi,
Devadatta, đừng nên nói nữa. Trong số các đệ tử lớn của ta có những vị xuất sắc
và xứng đáng hơn thầy nhiều mà ta cũng chưa giao cho họ trách nhiệm lãnh đạo
giáo đoàn khất sĩ, huống hồ là giao cho thầy. Thầy chưa có đủ tư cách lãnh đạo
giáo đoàn khất sĩ đâu.
Bị Bụt
chê giữa đám đông người, trong đó có cả vua Bimbisara, đại đức Devadatta lấy
làm xấu hổ, mặt thầy đỏ lên vì giận. Thầy đi xuống, không nói thêm một lời nào
nữa.
Ngày hôm
sau, tại tịnh thất trên núi Linh Thứu, đại đức Ananda tâm tình với Bụt:
- Thế
Tôn, con rất đau khổ vì anh ruột của con là đại đức Devadatta, Thế Tôn đã chê
anh ấy trước đám đông, anh ấy sẽ tìm mọi cách để trả thù, con nghĩ là sẽ có
chia rẽ trầm trọng trong giáo đoàn, nếu Thế Tôn thấy con cần đi nói chuyện
riêng với anh ấy để khuyên nhủ thì con xin đi.
-
Ananda, sở dĩ Như lai phải nói nặng với Devadatta ngay giữa đám đông và trước
mặt quốc vương là vì Như lai có ý muốn cho mọi người thấy rằng Devadatta không
phải là người chủ chốt trong giáo đoàn, và những hành vi của Devadatta sau này
chỉ có một mình Devadatta chịu trách nhiệm, chúng ta không phải gánh chịu trách
nhiệm ấy. Ananda, nếu thầy thấy nói chuyện với Devadatta có thể làm cho
Devadatta hồi tâm thì thầy cũng nên đi gặp Devadatta.
Mấy hôm
sau đó, y sĩ Jivaka lại lên thăm Bụt. Ông trình với Bụt rằng ông biết Devadatta
đang chuẩn bị một kế hoạc nào đó để tách rời khỏi giáo đoàn, nhưng ông không
biết rõ được kế hoạch đó là kế hoạch gì.
---o0o---
Chương 72
CHỐNG ĐỐI IM LẶNG
Thấm
thoát mà đã đến ngày Bụt nói pháp thoại tại Trúc Lâm. Kỳ nào quần chúng cũng đi
thật đông, có mặt tại buổi pháp thoại cũng có quốc vương Bimbisara, và có cả
hoàng thái tử Ajatasattu nữa. Đại đức Ananda để ý thì thấy các vị khất sĩ các
nơi về đông lắm, đông gấp hai kỳ trước. Đại đức Devadatta cũng có mặt ở hàng
đầu các vị khất sĩ. Đại đức ngồi giữa hai vị Sariputta và Mahakassapa.
Cũng như
lần trước, sau khi Bụt thuyết pháp xong, đại đức Devadatta đứng dậy, tiến lên,
chắp tay lễ Bụt và nói:
- Thế
Tôn, người đã dạy các vị khất sĩ nên sống theo các nguyên tắc thiểu dục và tri
túc, bỏ dần các ham muốn và sống thật đơn giản với những điều kiện vật chất tối
thiểu. Con xin đề nghị một quy chế năm điểm để thực hiện các nguyên tắc thiểu
dục và tri túc đó:
- Điểm
thứ nhất, các vị khất sĩ chỉ ở suốt đời trong rừng hoặc trong vườn cây mà không
được về ngủ ở ngoài thành phố hay trong thôn xóm.
- Điểm
thứ hai, các vị khất sĩ chỉ đi khất thực suốt đời mà không được đáp lời mời của
giới cư sĩ tới thọ trai ở nhà họ.
- Điểm
thứ ba, các vị khất sĩ chỉ có quyền lượm giẻ rách và những mảnh vải vụn để may
lại thành y chứ không được nhận y do giới cư sĩ cúng dường.
- Điểm
thứ tư, các vị khất sĩ chỉ được ngủ dưới gốc cây mà không được ngủ trong phòng
ốc.
- Điểm
thứ năm, các vị khất sĩ chỉ được phép ăn chay, không được động tới thịt cá.
Thế Tôn,
nếu giáo đoàn khất sĩ theo đúng năm điểm này thì chắc chắn các nguyên tắc thiểu
dục và tri túc mới được thực hiện nghiêm chỉnh.
Bụt nói:
-
Devadatta, Như lai không chấp nhận sự bắt buộc phải làm theo năm điểm ấy. Vị
khất sĩ nào muốn chỉ cư trú trong chốn viên lâm thì được phép chỉ cư trú trong
chốn viên lâm, nhưng những vị khác có thể ở tu viện, tịnh xá, và tạm trú tại
thành phố hay thôn lạc khi cần thiết. Vị khất sĩ nào muốn chỉ khất thực mà
không muốn đến nhà đàn việt thọ trai thì được phép chỉ đi khất thực, nhưng
những vị khác có thể đáp lời mời của giới cư sĩ tới nhà thọ trai và thuyết
pháp. Vị khất sĩ nào muốn chỉ lượm giẻ và vải vụn để may thành y thì được phép
chỉ lượm giẻ và vải vụn để may thành y, nhưng những vị khác có thể thọ nhận của
giới đàn việt cúng dường, với điều kiện là không có quá ba y. Vị khất sĩ nào
chỉ muốn ngủ dưói gốc cây thì được phép chỉ ngủ dưới gốc cây, nhưng những vị
khác có thể ngủ trong tăng xá, tịnh xá, và ngủ tạm tại nhà cửa ở thành phố hay
thôn lạc khi cần thiết. Vị nào muốn chỉ ăn chay, thì được phép chỉ ăn chay,
nhưng những vị khác có thể tạm thọ nhận thức cúng dường mà đàn việt đã làm sẵn,
trong đó có ngũ tịnh nhục, nghĩa là những vị đàn việt này đã không vì các vị
khất sĩ mà sát sinh. Devadatta theo pháp chế hiện thời, các vị khất sĩ có đủ cơ
hội để tiếp xúc và hướng dẫn người cư sĩ, nhất là những người mới có duyên tiếp
xúc lần đầu với đạo giác ngộ.
Đại đức
Dvadatta thưa:
- Như
vậy là Thế Tôn không chấp nhận pháp chế năm điểm.
- Không,
Devadatta, Như lai không chấp nhận pháp chế của thầy đề nghị.
Devadatta
cúi chào Bụt và trở về chỗ ngồi, miệng mỉm cười, không có vẻ gì thất vọng.
Tối hôm
ấy, Bụt nghỉ lại tịnh xá ở tu viện Trúc lâm. Người nói với đại đức Ananda:
-
Ananda, Như lai biết tâm trạng của Devadatta, Như lai nghĩ là sẽ có chia rẽ
trầm trọng trong giáo đoàn khất sĩ.
Một hôm
đi khất thực trong thành phố Rajagaha, đại đức Ananda gặp đại đức Devadatta.
Hai người dừng lại bên đường để nói chuyện. Đại đức Devadatta cho đại đức
Ananda biết là từ nay trở đi, đại đức sẽ tổ chức những lễ tụng giới, bố tát, tự
tứ và an cư riêng trong giới các vị đệ tử và thân hữu khất sĩ của đại đức,
không còn làm chung với giáo đoàn khất sĩ do Bụt lãnh đạo như trước. Buồn bã,
đại đức Ananda về bạch lại với Bụt.
Lễ bố
tát thường được thực hiện tại tu viện Trúc lâm. Đại đức Ananda nhận thấy kỳ bố
tát này có hàng trăm vị khất sĩ vắng mặt. Số lượng các vị này ít nhất là ba
trăm. Chắc hẳn là họ đi dự lễ bố tát trên tu viện Tượng Đầu do đại đức
Devadatta tổ chức.
Lễ bố
tát và tụng giới cử hành xong, một số các vị khất sĩ tìm tới tịnh xá gặp Bụt.
Họ nói:
- Thế
Tôn, những người bên phía đại đức Devadatta đã đến với chúng con.
Họ nói
rằng chúng con nên theo về giáo đoàn do sư huynh Devadatta lãnh đạo, bởi vì bên
ấy pháp chế nghiêm chỉnh hơn pháp chế của Thế Tôn nhiều.
Họ đưa
ra pháp chế năm điểm, pháp chế mà Thế Tôn không chấp nhận trong kỳ pháp thoại
vừa rồi. Họ nói: tu hành như bên Trúc Lân thì sướng quá, có khác gì người không
tu đâu. Bụt dạy pháp thiểu dục và tri túc nhưng không chấp nhận pháp chế năm
điểm để thực hành cho đúng mức những phép ấy, như vậy là mâu thuẫn. Thế Tôn,
chúng con đã không nghe lời sư huynh Devadatta. Chúng có đức tin nơi Bụt, nơi
trí tuệ và sự xét đoán của người, nhưng có rất nhiều vị khất sĩ trẻ, chưa có
kinh nghiệm, nhất là những vị xuất thân từ Vajji do đại đức Devadatta thế độ,
những vị này thấy pháp chế năm điểm khổ hạnh rất là hấp dẫn và đã đi theo về
bên ấy. Chúng con xin tin để Thế Tôn biết.
Bụt dạy:
- Xin
các thầy đừng lo lắng quá về vụ này. Điều quan trọng nhất là tự mình, mình phải
tu học và sống đời phạm hạnh cho xứng đáng.
Mấy hôm
sau, y sĩ Jivaka lên thăm Bụt ở trên núi Linh Thứu, y sĩ cho Bụt biết là trên
năm trăm vị khất sĩ đã theo về phía đại đức Devadatta. Devadatta đã đưa tất cả
về trung tâm Tượng Đầu ở Gayasisa, và lập đại bản doanh của giáo đoàn độc lập ở
đấy. Y sĩ cũng cho Bụt biết là một cuộc vận động khác cũng đang âm thầm diễn
biến trong lãnh vực chánh trị, trong đó đại đức Devadatta có dính líu quan
trọng, và ông đề nghị với Bụt nên chính thức tuyên bố khai trừ đại đức
Devadatta ra khỏi giáo đoàn khất sĩ.
Tin đại
đức Devadatta lập giáo đoàn riêng làm chấn động hết mọi giới. Đi đâu các vị
khất sĩ cũng bị quần chúng chất vấn. Tất cả các thầy đều được đại đức Sariputta
dặn là chỉ nên trả lời như sau: “Những ai gây nhân xấu sẽ gặt quả xấu, chia rẽ
giáo đoàn là một trọng tội đối với đạo pháp”.
Một hôm,
nói chuyện với các vị khất sĩ, Bụt nhắc lại lời của y sĩ Jivaka là phải lên
tiếng về vụ đại đức Devadatta, phải tuyên bố rằng mình không chịu trách nhiệm
gì về hành động của Devadatta, và Devadatta không còn giữ một chức vụ gì trong
giáo đoàn của Bụt. Đại đức Sariputta ngẫm nghĩ hồi lâu rồi bạch với Bụt:
- Thế
Tôn, ngày xưa chúng con đã từng tán thán tài đức của sư huynh Devadatta trước
mặt mọi người, bây giờ nếu chính chúng con lại đi tố giác sư huynh của chúng
con thì chướng lắm, ngó sao được?
Bụt nói:
-
Sariputta, ngày xưa tán thán tài đức của Devadatta trước đám đông, thầy có nói
sự thật không?
- Bạch
Thế Tôn, ngày xưa tán thán tài đức của Devadatta, con đã nói sự thật.
- Vậy
bây giờ nếu tố giác Devadatta thầy có nói sự thật không?
Bạch Thế
Tôn, nếu bây giờ đi tố giác sư huynh Devadatta, con cũng sẽ nói sự thật.
Bụt dạy:
- Vậy
thì có gì là chướng ngại đâu? Vấn đề là nói ra sự thật mà thôi.
Những
ngày sau đó, trong dịp tiếp xúc với quần chúng, các vị khất sĩ báo tin cho
thiên hạ biết là đại đức Devadatta đã bị khai trừ ra khỏi giáo hội. Các vị khất
sĩ cũng nói thêm: từ nay Bụt và giáo đoàn không còn chịu trách nhiêm gì về hành
động của đại đức Devadatta nữa.
Trong
khi đó hai đại đức Sariputta và Moggallana vẫn luôn luôn giữ im lặng.
Họ không
mở miệng để nói bất cứ một lời nào, dù được quần chúng hỏi.
Thấy
thái độ ấy, đại đức Ananda hỏi:
- Các sư
huynh không nói gì hết, có lẽ các sư huynh đã có chủ ý?
- Sư
huynh Ananda, đúng như vậy. Chúng tôi có chủ ý, chúng tôi sẽ phụng sự Bụt và
giáo đoàn bằng những phương tiện khác.
Trong
giới quần chúng, có những người xì xào bàn tán cho rằng các vị khất sĩ tố cáo
giáo đoàn độc lập vì thù ghét và ganh tị, nhưng cũng có những người nghĩ rằng
có những lý do sâu kín bên trong mà họ chưa thấy được, những người này vẫn có
đức tin vững chải nơi Bụt và giáo đoàn.
Một buổi
sáng trong lúc trời còn mưa gió nặng nề, dân chúng ở thủ đô được tin là hoàng
thượng Bimbisara thoái vị và nhường ngôi cho con là hoàng thái tử Ajatasattu.
Lễ đăng quang của thái tử sẽ được tổ chức trong vòng mười hôm vào ngày trăng
tròn sắp tới. Tin này Bụt không được nghe trực tiếp tù quốc vương Bimbisara mà
đã nghe qua các vị khất sĩ. Từ trước đến nay, chưa bao giờ vua Bimbisara lấy
một quyết định quan trọng như thế mà không trực tiếp báo tin cho Bụt.
Mấy hôm
sau, Jivaka lên hầu Bụt, và xin phép được nói chuyện riêng với người. Bụt mời
ông đi thiền hành với Bụt trên sườn núi. Hai thầy trò im lặng đi và thở. Đến
cuối thiền lộ, Bụt chỉ một phiến đá mời Jivaka ngồi, người cũng ngồi xuống một
phiến đá khác.
Jivaka
cho Bụt biết là hoàng thái tử Ajatasattu đã ra lệnh nhốt vua Bimbisara trong
cung cấm và không cho ai ra vào thăm hỏi, trừ hoàng hậu Videhi.
Hoàng
thái tử cũng bắt giam hai vị đại thần thân tín nhất của vua, vì sợ những người
này âm mưu cản trở việc lên ngôi của hoàng thái tử. Ban đầu thì thái tử cấm
không cho hai người này vào thăm vua, nhưng sau đó vì chưa yên tâm nên thái tử
bắt giữ luôn họ, Gia đình các vị này được thông báo là các vị sự lưu lại ăn ngủ
trong cung để luận bàn chánh sự trong vòng bảy hôm. Sự thật thì họ đang bị nhốt
trong cung cấm, mỗi người một phòng riêng.
Y sĩ
Jivaka cho Bụt biết là những chuyện trên hoàn toàn được giữ bí mật. Sở dĩ ông
được biết là vì ông đã có cơ hội tới chữa trị cho hoàng hậu Videhi.
Hoàng
hậu đã thuật hết sự thật cho ông và nhờ ông lên núi bạch với Bụt tất cả tự sự.
Jivaka
kể cho Bụt nghe chi tiết của tất cả những gì đã xảy ra. Một hôm, cách đây gần
cả tháng, ngự lâm quân thấy thái tử đột nhập vào cung vua trong đêm khuya. Thấy
dáng dấp thái tử có vẻ khả nghi, ngự lâm quân đã chận thái tử lại để lục soát,
và tìm thấy một thanh gươm dấu trong áo của thái tử.
Họ đưa
thái tử vào gặp vua, trình lên vua thanh gươm và kể lại tự sự. Vua hỏi:
-
Ajatasattu, ban đêm con mang gươm vào cung để làm gì?
- Tâu
phụ vương, con muốn hành thích phụ vương.
- Tại
sao con lại muốn giết ta?
- Tâu
phụ vương, con muốn làm vua.
- Làm
vua thì làm vua, tại sao lại phải giết cha? Nếu con muốn làm vua, con chỉ cần
nói lên một tiếng là ta thoái vị lập tức, và con có thể làm vua ngay.
- Tâu
phụ vương, con không biết như vậy. Con đã lỡ lầm xin phụ vương tha tội cho con.
- Ai xúi
giục con làm chuyện này?
Thái tử
Ajatasattu im lặng. Vua gạn hỏi một hồi thì thái tử tiết lộ là đại đức
Devadatta.
Vua cho
gọi hai vị đại thần thân tín của vua vào cung, ngay lúc nữa đêm.
Vua
thuật lại cho họ nghe và hỏi ý kiến của họ. Một vị nói rằng tội ám sát vua là
tội xử trảm, và đề nghị đem chém đầu các tội phạm trong đó có thái tử Ajatasattu,
khất sĩ Devadatta và tất cả các vị khất sĩ liên hệ.
- Trẫm
không muốn giết Ajatasattu, vì nó là con trẫm, trẫm cũng không muốn giết các vị
khất sĩ, bởi vì các vị khất sĩ đã từng tuyên bố là họ không chịu trách nhiệm về
hành động của Devadatta. Trẫm thấy trong vụ này Bụt là người sáng suốt nhất.
Người đã tiên đoán được những gì sẽ xảy ra cho nên người đã cho công bố không
chịu trách nhiệm về Devadatta. Trẫm cũng không muốn giết Devadatta, vì dù sao
Devadatta cũng là một vị khất sĩ nổi tiếng và lại là em chú bác của Bụt.
Vị đại
thần thứ hai lên tiếng:
- Lòng
từ bi của bệ hạ thật không có ai sánh bằng. Bệ hạ thật xứng đáng là học trò của
đức Thế Tôn. Vậy bệ hạ định thu xếp như thế nào?
Vua nói:
Ngày
mai, trẫm sẽ hạ chiếu cho bàn dân thiên hạ biết là trẫm thoái vị, và nhường
ngôi cho con trẫm là Ajatasattu. Mười hôm sau, thái tử sẽ làm lễ đăng quang.
- Vậy
còn tội mưu sát?
- Trẫm
tha thứ cho con trẫm và cho khất sĩ Devadatta. Mong rằng hai người thấy được
tấm lòng của trẫm mà học được chút gì từ đức độ của trẫm.
Hai vị
đại thần lạy xuống. Thái tử Ajatasattu cũng lạy xuống. Vua dặn các quan giữ nội
vụ thật bí mật và thi hành ngay những quyết định của vua bắt đầu từ giờ phút
ấy.
Ngay sau
khi chiếu chỉ thoái vị của vua được ban hành, đại đức Devadatta đã về ngay kinh
đô để hội kiến với thái tử. Thái tử có nói với hoàng hậu Videhi là đại đức
Devadatta đã được thái tử mời về để bàn luận về lễ đăng quang của thái tử,
nhưng hoàng hậu cho biết là chỉ hai hôm sau cuộc đàm luận đó, thái tử ra lệnh
cô lập vua trong cung cấm và bắt giữ luôn hai vị đại thần.
Y sĩ
Jivaka nói:
- Lạy
Bụt, con mong là sau lễ đăng quang, Ajatasattu sẽ trả tự do cho thượng hoàng và
cho hai vị đại thần bị giam giữ.
Trình
xong mọi việc, Jivaka lạy Bụt và xuống núi.
Ngày mai
lại, Bụt tiếp sứ giả của triều đình mời Bụt và các vị khất sĩ tới dự lễ đăng
quang của thái tử. Chính quân đội đi tổ chức kết nghinh môn và treo cờ đèn ở
khắp nơi trên thủ đô, Bụt được cho biết là đại đức Devadatta và trên sáu trăm
vị khất sĩ theo thầy đều đã có mặt tại thủ đô để tham dự lễ đăng quang này.
Bụt cho
gọi đại đức Sariputta, người nói:
- Này
Sariputta, Như lai sẽ không về kinh dự lễ đăng quang và Như lai mong rằng tất
cả các vị khất sĩ của giáo đoàn cũng không nên về kinh dự lễ. Chúng ta không
nên can dự vào công việc ác đức này.
Đại đức
Sariputta nói:
- Lạy
Bụt, con hiểu. Con sẽ thông bạch với đại chúng là Thế Tôn sẽ không về dự lễ
đăng quang và Thế Tôn muốn các vị khất sĩ trong giáo đoàn cũng không về dự lễ
này.
Và đại
đức rút lui.
Ngày lễ
đăng quang của vua mới đã tới. Không thấy Bụt và các vị khất sĩ trong giáo đoàn
do người lãnh đạo, quần chúng bắt đầu đặt câu hỏi, và từ câu hỏi, họ tìm ra
được sụ thật. Họ biết thượng hoàng và hai vị đại thần đang bị giam giữ. Họ biết
được là sau lễ đăng quang, vua mới cũng không trả tự do cho thượng hoàng và hai
vị đại thần này. Họ bắt đầu hiểu được ý Bụt.
Trong
quần chúng, nổi lên một phong trào âm thầm chống đối đường lối thiếu nhân nghĩa
của triều đình mới. Quần chúng bắt đầu phân biệt được sự khác nhau giữa giáo
đoàn của Bụt và giáo đoàn của đại đức Devadatta.
Devadatta
đã bắt đầu tự xưng là một vị giáo chủ. Nhiều giới đàn việt, trước khi cúng
dường cơm vào bát vị khất sĩ, đã hỏi thăm là vị khất sĩ thuộc về giáo đoàn nào,
và họ từ chối không cúng dường cho những vị khất sĩ thuộc giáo đoàn độc lập.
Thái độ của họ là để đối kháng lại sự phản bội của Devadatta cũng như của ông
vua mới.
Vua
Ajatasattu được báo cáo về phong trào chống đối âm thầm này. Vua rất giận,
nhưng vua không thể dùng quyền lực để bắt giam Bụt hoặc đàn áp các vị khất sĩ
trong giáo đoàn. Vua biết nếu vua động đến Bụt và giáo đoàn một cách trực tiếp
thì không những vua sẽ bị dân chúng trong nước chống đối mà con có thể bị cô
lập ngoại giao đối với các nước lân bang nữa. Vua biết rõ là Bụt rất được
ngưỡng mộ ở các nước lân bang nữa. Vua biết rõ Bụt rất được ngưỡng mộ ở các
nước này, nhất là ở vương quốc Kosala. Quốc vương Pasenadi có thể đem quan sang
chinh phạt nếu ngài nghe vua động tới Bụt.
Vua
triệu đại đức Devadatta vào cung điện để vấn kế.
---o0o---
Chương 73
NHỮNG VẮT CƠM DẤU TRONG MÁI TÓC
Một đêm
nọ trong khi đang tọa thiền ngoài sân tịnh thất trên núi Linh Thứu.
Bụt mở
mắt và thấy có người đứng lấp ló sau cây đại thọ, Bụt lên tiếng mời người ấy
đến. Dưới ánh trăng vằng vặc, người ấy đặt gươm xuống sân đất và quỳ xuống lạy
Bụt như tế sao. Bụt hỏi:
- Ông là
ai, đến đây để làm gì?
- Con
xin lạy sa môn Gotama! Con xin lạy sa môn Gotama! Con vâng lệnh tới đây giết
ngài nhưng thấy ngài, con không dám. Con đã cầm gươm định bước tới có hơn mười lần
rồi mà không lần nào con dám bước tới. Con quyết định thôi không giết ngài nữa,
nhưng con lại sợ nếu con không giết ngài thì khi về, con cũng bị chủ tướng con
giết chết. Con chưa biết phải làm sao thì sa môn gọi con. Con xin lạy sa môn
Gotama! Con xin lạy sa môn Gotama!
Bụt hỏi:
- Ai đã
sai anh đến giết Như lai?
- Chủ
tướng của con, nhưng con không dám nói tên chủ tướng của con đâu.
- Anh
không nói cũng được, nhưng chủ tướng của anh nói với anh như thế nào?
- Bạch
sa môn, chủ tướng của con chỉ cho con con đường phải đi để lên núi và chỉ cho
con một con đường khác để trở về sau khi làm xong nhiệm vụ.
- Anh có
vợ con gì không?
- Bạch
sa môn, con chưa có vợ con gì cả. Con chỉ có một bà mẹ già.
- Anh
nghe đây. Nghe cho thật kỹ và làm theo cho thật đúng. Anh hãy về nhà ngay đi,
và đem mẹ anh vượt biên giới trốn sang nước Kosala ngay lập tức. Anh đưa mẹ
sang bên ấy tị nạn và sinh sống, nhưng anh đừng xuống núi bằng con đường mà chủ
tướng anh đã chỉ bày. Nếu xuống núi bằng đường ấy, anh sẽ bị mai phục giết chết
giữa đường. Anh xuống núi bằng một con đường khác. Anh đi ngay đi.
Người lạ
mặt lạy xuống một lạy nữa rồi đi mất, để lại thanh gươm trên nền đất.
Sáng hôm
sau, hai đại đức Sariputta và Moggallana tìm tới viếng Bụt. Hai vị bạch:
- Chúng
con nghĩ là đã đến lúc chúng con phải đi qua bên ấy để giúp các anh em khất sĩ
đã vì dại dột mà đi lầm đường lạc lối. Chúng con xin phép Bụt cho chúng con
vắng mặt một thời gian.
Bụt nhìn
hai vị đại đệ tử:
- Các
thầy đi thì đi, nhưng các thầy hãy giữ gìn cẩn thận và làm mọi cách để bảo toàn
thân mạng.
Vừa lúc
ấy đại đức Sariputta trông thấy thanh gươm trên nền đất. Đại đức đưa mắt nhìn
Bụt, không nói. Bụt gật đầu:
- Đúng
như thế. Hồi hôm có anh lính được lệnh lên ám sát Như lai, nhưng đã được Như
lai độ cho rồi. Thanh gươmg ấy cứ để đó, chừng nào cư sĩ Jivaka lên núi, Như
lai sẽ nhờ cư sĩ đem xuống núi.
Đại đức
Moggallana nhìn bạn:
- Bỏ Bụt
mà đi lúc này, đệ không được an tâm lắm. Sư huynh nghĩ sao?
Sariputta
chưa trả lời thì Bụt nói:
- Các
thầy cứ an tâm mà đi, Như lai có đủ tỉnh thức để tránh được những tai họa có
thể xảy tới.
Hai vị
đại đệ tử sụp lạy thầy trước khi xuống núi.
Chiều
hôm ấy có mấy vị khất sĩ từ tu viện Trúc Lâm lên thăm Bụt. Thấy Bụt họ không
nói năng gì cả. Họ chỉ đứng ôm mặt khóc.
Bụt hỏi:
- Này
các vị khất sĩ, tại sao các vị khóc?
Một vị
khất sĩ lau nước mắt và trả lời Bụt:
- Thế
Tôn, chúng con từ Trúc Lâm về, giữa đường chúng con gặp sư huynh Sariputta và
Moggallana. Chúng con hỏi hai sư huynh đi đâu. Hai sư huynh nói là đi qua Gayasisa.
Chúng con buồn quá nên chúng con khóc. Hơn năm trăm vị khất sĩ đã bỏ Bụt mà đi
rồi, bây giờ hai vị đệ tử lớn nhất của Bụt mà cũng bỏ Bụt đi nữa thì chúng con
không buồn sao được?
Bụt bật
cười. Người an ủi các thầy khất sĩ:
- Này
các vị, các vị đừng buồn nữa. Như lai biết là ở đâu, lúc nào, Sariputta và
Moggallana cũng không phản bội Như lai đâu.
Nghe Bụt
nói, các vị khất sĩ cảm thấy yên dạ hơn. Họ xin phép được ngồi im lặng một lát
dưới chân Bụt.
Ngày hôm
sau, Bụt được y sĩ Jivaka mời về tịnh xá riêng của ông trong vườn Xoài để thọ
trai. Đại đức Ananda cùng đi với người.
Bụt và
đại đức Ananda vừa thọ trai xong thì Jivaka thông báo có hoàng thái hậu Videhi
đến thăm ông và vì nghe nói có Bụt ở đây nên thái hậu xin vào viếng người. Bụt
biết cuộc viếng thăm này đã được y sĩ sắp đặt trước. Người cho mời thái hậu
vào.
Lạy Bụt
xong, thái hậu khóc nức nở.
Bụt để
yên cho thái hậu khóc. Một hồi sau, người nói:
- Có
chuyện gì xin thái hậu cho Như lai biết.
Thái hậu
nói:
- Bạch
Thế Tôn, tình trạng thượng hoàng rất nguy ngập. Ajatasattu quyết định bỏ đói
thượng hoàng cho đến chết. Nó không cho con đem thức ăn vào cho thượng hoàng
nữa.
Rồi bà
kể cho Bụt nghe rằng mới hôm đầu tháng, bà còn được phép mang cơm vào cho
thượng hoàng Bimbisara, nhưng sau đó mấy hôm, khi bà vào thăm thượng hoàng,
quân lính chặn lại và lấy mất thức ăn. Bà vào thăm thượng hoàng mà chỉ biết
ngồi khóc. Thượng hoàng an ủi ba, nói rằng người không oán giận Ajatasattu.
Ngài nói ngài nhịn đói mà băng cũng được, miễn là nước nhà không bị nội chiến
tàn phá. Sáng ngày hôm sau, bà dấu mấy vắt cơm nhỏ trong tóc của bà, và bà cũng
mang trên tay ít thực phẩm để vào thăm thượng hoàng. Bọn lính canh chặn bà lại,
lấy mất thức ăn trên tay bà nhưng không biết bà có dấu cơm trong mái tóc.
Thượng hoàng đã ăn cơm ấy. Bà đã làm như thế được tám hôm. Thấy thượng hoàng
không chết, Ajatasattu bắt quân lính khám xét bà rất kỹ. Chúng tìm thấy cơm
trong tóc bà. Vậy là bà không thể đem cơm vào cho thượng hoàng được nữa.
Ba hôm
sau bà nghĩ ra được một cách mới. Bà nấu một loại đề hồ gồm có sữa, mật ong và
bột. Bà tắm gội sạch sẽ, lau mình thật khô rồi trát một lớp đề hồ lên thân thể,
đợi cho ráo rồi mới mặc xiêm y. Quân canh không thấy có thức ăn và cơm dấu
trong tóc, liền để cho bà vào. Vào tới nơi, bà cởi áo và bóc lớp đề hồ ra để
thượng hoàng ăn tạm. Bà đã làm được hai lần như thế, nhưng bà rất sợ là trong
một vài tuần, mưu của bà sẽ bị khám phá và bà sẽ không còn được phép vào thăm
thượng hoàng nữa.
Kể tới
đây, thái hậu lại ôm đầu khóc.
Bụt lặng
thinh. Một lát sau, người hỏi về tình trạng sức khỏe của thượng hoàng, về thể
chất cũng như về tinh thần. Thái hậu nói thượng hoàng đã ốm đi nhiều, nhưng vẫn
còn khương kiện. Tinh thần thượng hoàng rất cao. Ngài không tỏ vẻ oán giận hay
buồn rầu gì cả. Thì giờ trong tù, ngài dùng vào việc thiền tọa và thiền hành.
Có một hành lang khá dài, ngài thường đi thiền hành dọc hành lang đó. Phòng
giam ngài có một cánh cửa có chấn song. Từ khung cửa ấy ấy ngài có thể nhìn
thấy núi Linh Thứu. Ngài ngồi trước cửa ấy để nhìn về núi Linh Thứu mỗi ngày,
ngồi rất lâu. Ngồi thiền, thượng hoàng cũng ngồi ở đấy, mặt xoay về núi Linh
Thứu.
Bụt hỏi
thái hậu xem bà đã đưa tin về vua Pasenadi chưa. Bà nói là bà chưa có phương
tiện, Bụt nói người sẽ nhờ một vị khất sĩ đưa tin về Savatthi giúp bà.
Thái hậu
tạ ơn Bụt. Bà kể cho Bụt nghe là hồi Ajatasattu chưa sinh, các chiêm tinh gia
đã đoán rằng Ajatasattu là người sẽ phản lại vua cha. Bà nói hồi bà có mang
thái tử, một hôm không biết vì cớ gì mà bà rất thèm cắn vào bàn tay vua
Bimbisara mà hút máu. Bà hoảng kinh, không ngờ rằng chính bà mà lại có được cái
ý tưởng và cái thèm khát ghê tởm đó. Từ nhỏ đến lớn chưa bao giờ bà dám nhìn
người ta giết một con gà hay một con cá, bà rất sợ khi thấy máu chảy, nhưng hôm
ấy thật sự là bà muốn cắn tay vua để hút máu trong tay ngài. Bà chống trả lại
sự thèm khát đó một cách tuyệt vọng. Cuối cùng bà ôm mặt khóc nức nở, và cảm
thấy tủi hổ vô cùng. Một hôm khác trong bữa ăn, vua Bimbisara cầm dao gọt trái
cây làm sao đó mà bị đứt tay, mấy giọt máu chảy ra, lập tức bà ôm ấy tay vua
đưa miệng mút máu chỗ bị thương, Vua rất lấy làm lạ, nhưng vẫn để cho bà hút.
Hút xong mấy giọt máu, bà nằm lăn khóc nức nở. Hoảng kinh, vua tới nâng bà dậy
hỏi han. Bà phải nói cho vua nghe cái thèm muốn ghê gớm đó của bà. Bà đã chống trả
một cách kịch liệt nhưng cuối cùng và đã bị thua. Bà biết cái thai trong bụng
bà đã là nguyên nhân đưa đến cái thèm khát kỳ dị đó.
Các
chiêm tinh gia được vua mời tới đều nói rằng đứa con trong bụng sau này sẽ làm
hại vua và đề nghị nên tiêu diệt nó. Vua Bimbisara không chịu, bà cũng không
chịu. Tuy nhiên khi sinh, thái tử đã được đặt tên là Ajatasattu. Tên này nghĩa
là “kẻ thù không sinh ra”.
Bụt
khuyên bà đừng nên vào thăm thượng hoàng mỗi ngày. Cứ hai hoặc ba ngày thì mới
nên vào một lần để vua Ajatasattu khỏi nghi. Mỗi lần vào thăm như thế, bà có
thể ở lại với vua thật lâu. Đề hồ bóc ra, nên để dành và ăn mỗi ngày ít thôi,
đề phòng bị trường hợp thái hậu bị cấm vào thăm viếng.
Dặn dò
thái hậu xong, Bụt từ giã Jivaka và trở về Thứu Lĩnh.
---o0o---
Chương 74
TIẾNG RÚ CỦA CON VOI CHÚA
Các đại
đức Sariputta và Moggallana đã trở về tất cả Trúc Lâm sau hơn một tháng cư trú
tại Gayasisa với đại đức Devadatta và giáo đoàn mới. Tất cả các vị khất sĩ khác
trong tu viện đều mừng rỡ khi thấy hai vị trở về. Họ hỏi thăm hai vị rối rít về
tình hình ở Gayasisa. Hai vị chỉ mỉm cười mà không trả lời.
Mấy hôm
sau, các vị khất sĩ trong giáo đoàn của đại đức Devadatta theo gót hai đại đức
Sariputta và Moggallana trở về Trúc Lâm rất đông. Đã có tới trên ba trăm vị bỏ
trung tâm Gayasisa để trở về với Bụt. Các vị khất sĩ thường trú tại tu viện vui
mừng khôn xiết. Họ tổ chức đón tiếp các vị từ Gayasisa về một cách nồng hậu.
Bốn hôm sau, đại đức Sariputta kiểm điểm lại số lượng các vị khất sĩ đã từ
Gayasisa trở về với Bụt. Đại đức đếm được ba trăm tám mươi lăm người. Cùng với
Moggallana, đại đức Sariputta hướng dẫn ngót bốn trăm vị khất sĩ này lên núi
Linh Thứu.
Đứng
trên sân tịnh xá, Bụt đã trông thấy đoàn khất sĩ do hai vị đệ tử lớn của Bụt
hướng dẫn đang leo dần các bậc đá để lên núi. Khi đoàn này leo tới nơi, đại
chúng thường trú trên núi Linh Thứu vui mừng khôn xiết. Họ xúm lại để hỏi thăm.
Trong khi đó hai đại đức Sariputta tiến về phía tịnh thất của Bụt.
Hai vị
đảnh lễ Bụt và được Bụt mời ngồi. Đại đức Sariputta mỉm cười:
- Lạy
Bụt, chúng con đã đem về được cho giáo đoàn gần bốn trăm vị khất sĩ đi lạc.
Bụt hỏi:
- Các
thầy giỏi lắm. Các thầy đã làm thế nào để mở mắt cho họ?
Đại đức
Moggallana nói:
- Bạch
Thế Tôn, khi chúng con đến thì sư huynh Devadatta đã thọ trai cong và đang sửa
soạn thuyết pháp. Devadatta bắt chước làm hệt như Thế Tôn.
Thấy
chúng con đến, Devadatta tỏ ý mừng rỡ. Devadatta gọi sư huynh con tới và mời sư
huynh con ngồi chung trên pháp tọa. Sư huynh con từ chối, và chỉ ngồi xuống một
bên, con ngồi phía bên kia. Devadatta nói với các vị khất sĩ:
- Hôm
nay, có các đại đức Sariputta và Moggallana đến với chúng ta. Đây là một tin
vui rất lớn. Đại đức Sariputta đã từng là một người bạn rất thân của ta. Nhân
có mặt đại đức ở đây, xin mời đại đức phụ trách nói buổi pháp thoại hôm nay.
Nói
xong, Devadatta hướng về phía sư huynh con và chắp tay mời. Sư huynh con nhận
lời, và bắt đầu thuyết pháp. Sư huynh nói về bốn sự thật mầu nhiệm. Sư huynh
thuyết pháp thật hay, khiến mọi người đều nghe một cách chăm chú. Con để ý thì
thấy Devadatta lim dim ngủ, có lẽ vì lo nhiều việc cho nên Devadatta mỏi mệt.
Nửa phần sau của pháp thoại, anh ta ngủ khì.
Chúng
con ở lại Gayasisa hơn một tháng và tham dự vào tất cả những hoạt động của giáo
đoàn bên đó. Cứ ba hôm một lần sư huynh con lại thuyết pháp và giảng dạy cho
các các vị khất sĩ. Sư huynh con dạy dỗ họ một cách tận tình. Có lần con thấy
Kokalita, người phụ tá số một của Devadatta, thì thào to nhỏ với Devadatta,
dường như có ý khuyên Devadatta đừng tin ở chúng con, nhưng hình như Devadatta
không đồng ý ấy. Devadatta rất thích khi thấy có người phụ trách dạy dỗ các vị
khất sĩ thay cho mình, nhất là khi người ấy là một người xuất sắc như sư huynh
con.
Một hôm,
sau buổi thuyết pháp nói về Tứ Niệm Xứ, sư huynh con nói với đại chúng như sau:
- Các
huynh đệ, chiều hôm nay tôi và sư đệ tôi sẽ từ giã các huynh đệ.
Chúng
tôi sẽ về với Bụt và với giáo đoàn khất sĩ do đức Thế Tôn lãnh đạo.
Thưa các
huynh đệ, chúng ta chỉ có một bậc chánh biến tri giác trên đời mà thôi, người
ấy là sa môn Gotama, Bụt là người sáng lập ra giáo đoàn khất sĩ, là nguồn gốc
của tất cả chúng ta. Tôi tin rằng nếu các huynh đệ trở về, các huynh đệ sẽ được
đức Thế Tôn mở rộng tầm tay mà đón vào lòng người như cũ. Thưa các huynh đệ,
không có điều gì làm đau nhức bằng việc giáo đoàn bị chia rẽ. Một đời tôi, tôi
chỉ thấy Bụt là bậc đạo sư chính đáng cho tất cả chúng ta. Hai anh em tôi xin
chào các huynh đệ. Nếu các huynh đệ muốn trở về với Bụt, thì các huynh đệ tìm
về tu viện Trúc Lâm. Chúng tôi sẽ chờ quý vị ở đấy, và sẽ đưa quý vị lên núi
Linh Thứu để gặp Bụt.
Thế Tôn,
hôm ấy Devadatta có công việc phải về kinh đô. Kokalita đứng dậy phản đối,
nhưng chúng con làm lơ đi như không nghe gì. Chúng con im lặng ôm y bát rời núi
Tượng Đầu và đi về tu viện Venuvana. Chúng con ở đó được năm hôm thì có tất cả
ba trăm tám mươi lăm vị từ Gayasisa tìm về.
Đại đức
Sariputta bạch:
- Thế
Tôn, ba trăm tám mươi lăm vị này có cần phải làm lễ xuất gia thọ đại giới lại
hay không? Nếu cần, con sẽ làm lễ cho họ trước khi đưa họ lên làm lễ Thế Tôn.
Bụt nói:
- Thôi,
Sariputta, đừng bắt họ làm lễ xuất gia và thọ đại giới trở lại. Cho họ làm lễ
phát lộ sám hối trước đại chúng là đủ.
Hai đại
đức cúi đầu làm lễ Bụt rồi rút lui.
Trong
những ngày kế tiếp, có ba mươi lăm vị khất sĩ nữa từ Gayasisa trở về với Bụt.
Đại đức Sariputta cũng cho họ làm lễ phát lộ sám hối rồi cho họ lên trình diện
Bụt. Số các vị khất sĩ trở về với giáo đoàn đã lên tới bốn trăm mười vị.
Đại đức
Ananda có đến nói chuyện với ba mươi lăm vị khất sĩ vừa mới từ Gayasisa trở về.
Đại đức hỏi về tình hình bên đó. Các thầy cho biết là khi từ Rajagaha trở về,
thấy bốn trăm đồ chúng đã bỏ đi về với Bụt, đại đức Devadatta giận tím mặt. Đại
đức không nói gì hết trong nhiều ngày liên tiếp.
Ananda
hỏi:
- Các sư
huynh Sariputta và Moggallana đã nói gì với các huynh đệ mà các huynh đệ bỏ
Devadatta về với Bụt đông như thế?
Một thầy
đáp:
- Các sư
huynh có nói gì đâu. Các sư huynh không hề động tới đại đức Devadatta, không hề
thốt ra một lời nào để nói xấu giáo đoàn bên ấy. Các sư huynh chỉ thuyết pháp
và dạy dỗ anh em chúng tôi hết lòng mà thôi. Phần lớn anh em chỉ mới có hai, ba
hoặc năm tuổi tu là cùng, thành ra anh em còn non yếu lắm. Nghe sư huynh
Sariputta thuyết pháp, được sư huynh Moggallana dạy dỗ, anh em mới thấy rằng giáo
pháp của Bụt cao siêu mầu nhiệm vô cùng. Đệ tử của Bụt như hai sư huynh mà đạo
đức còn cao viễn và học thức còn thâm uyên như thế huống gì là Bụt. Đại đức
Devadatta nói thì hay lắm nhưng làm thì không được bằng hai sư huynh đâu. Vì
vậy khi hai sư huynh đi rồi, anh em bàn luận với nhau và quyết định trở về với
Bụt.
- Thế
còn đại đức Kokalika?
- Đại
đức Kokalika thấy anh em bỏ đi lấy làm tức giận lắm. Đại đức lên tiếng nguyền
rủa hai sư huynh thậm tệ. nhưng điều này chỉ làm cho anh em chán đại đức thêm và
ý định quay về với Bụt lại mạnh mẽ hơn lên.
Một buổi
chiều trong khi Bụt đang đứng trên sườn núi ngắm cảnh trời chiều, thì bỗng có
tiếng một vị khất sĩ la hoảng lên: - Thế Tôn, coi chừng! Có đá lăn xuống phía
sau lưng!
Bụt
ngoảnh lui nhìn. Một tảng đá lớn bằng một chiếc xe bò đang từ trên đỉnh núi lăn
xuống hướng về phía người. Tảng đá lăn xuống với một tốc độ kinh khiếp. Bụt
bước mấy bước tránh sang phía bên. Chỗ người đứng toàn là những mô đá nên sự di
chuyển rất khó khăn, nếu không có đủ thì giờ. May quá, tảng đá lăn xuống gần
tới chỗ Bụt đứng thì bị hai tảng đá nhỏ chụm nhau chận lại, nhưng sự va chạm
giữa ba tấm đá làm văng ra một mảnh đá nhọn. Mảnh đá nhọn bay trúng vào chân
trái của Bụt và làm Bụt bị thương nơi ngón chân. Máu chảy thấm ướt chéo áo ca
sa của người.
Nhìn
lên, Bụt thấy bóng một người đang tìm cách chạy trốn.
Vết
thương nơi bắp chân làm Bụt đau lắm, người lấy áo sanghati xếp lại làm tư, trải
xuống đất, nằm nghiêng về bên mặt theo tư thế sư tử tọa, chân bị thương đặt lên
chân không bị thương, và theo dõi hơi thở để làm dịu xuống sự đau đớn.
Nhiều vị
khất sĩ chạy đến bên Bụt. Một người nói:
- Đây
chắc là Devadatta chớ không còn ai khác nữa!
Một
người khác:
- Các
huynh đệ phải chia nhau ra giữ bốn phía núi để bảo vệ cho Thế Tôn, mau đi.
- Các
thầy đừng la ó, đừng làm ồn ào. Không việc gì phải la ó, và làm ồn ào.
Như lai
không cần người anh giữ, Như lai không cần người bảo vệ. Tất cả các vị hãy trở
về liêu xá của mình đi. Ananda, thầy hãy nhờ chú sa di Cunda đi mời y sĩ
Jivaka.
Mọi
người làm theo lời Bụt dạy.
Chỉ
trong vài hôm, tin Bụt bị mưu sát hai lần được truyền đi khắp thủ đô.
Quần
chúng ngẩn ngơ và kinh hoàng. Quần chúng đang xôn xao thì đùng một cái có tin
thượng hoàng Bimbisara băng hà. Không biết vì kẻ hở nào mà dân chúng khắp nơi
biết được rằng thượng hoàng đã băng trong ngục thất.
Một niềm
xót thương dâng lên trong lòng người. Ai nấy đều nhìn về núi Linh Thứu như là
biểu tượng của một sự đối kháng đạo đức. Càng thương xót thượng hoàng bao nhiêu
thì thiên hạ càng mến phục Bụt bấy nhiêu. Bụt tuy không nói gì, nhưng người đã
nói thay được tiếng nói của lòng người.
Thượng
hoàng Bimbisara thọ sáu mươi bảy tuổi, thượng hoàng nhỏ hơn Bụt năm tuổi. Năm
quy y làm đệ tử Bụt, thượng hoàng mới có ba mươi mốt. Lên ngôi từ năm mười lăm
tuổi, thượng hoàng đã trị vị trong năm mươi hai năm.
Chính
thượng hoàng đã xây dựng lại kinh đô Vương Xá mới, sau khi kinh đô cũ bị hỏa
hạn tàn phá. Trong năm mươi hai năm, đất nước Magadha luôn luôn được hòa bình,
chỉ trừ có một lần lâm chiến với vương quốc Anga.
Trong
cuộc chiến tranh đó quốc vương Brahmadatta của xứ Anga đã thua trận, và xứ Anga
đã trở nên nội thuộc vương quốc Magadha. Khi quốc vương Taxila Pukkusati lên
cầm quyền ở Anga, quốc vương Bimbisara đã thiết lập liên lạc thân hữu với vua này
và đã đưa vua này đến với đạo Bụt.
Để có
hòa bình lâu dài với các nước, quốc vương Bimbisara đã thiết lập liên hệ thân
tộc với các hoàng gia. Vua cưới công chúa Kosaladevi em ruột của quốc vương
Pasenadi và lập làm chánh hậu, hiệu Videhi. Vua cũng có thứ hậu từ các hoàng
tộc Madra và Licchavi. Chị ruột của vua cũng đã được gã cho quốc vương Kosala
làm thứ hậu.
Vua
Bimbisara từng tỏ lòng thương kính Bụt bằng cách xây một chiếc tháp đựng tóc và
móng tay của người ngay trong vườn Ngự Uyển. Vua thường nhắc các công nhân đốt
hương trầm và thắp đèn nến quanh tháp để cúng dường và để tỏ lòng biết ơn giáo
hóa của Bụt. Vua lại giao cho cung nhân Srimatri trách vụ chăm sóc, quét dọn
tháp và vun bón hoa cỏ quanh tháp.
Một hôm
nọ, trong khi Bụt và một số các thầy đi khất thực trên con đường quen thuộc dẫn
về thủ đô, đại đức Ananda nhác thấy bóng một con voi lớn từ chuồng voi hoàng
gia xổng ra và đang chạy về phía mình. Đại đức hoảng kinh. Con voi này ai cũng
đã nghe tiếng. Đó là con voi dữ nhất trong vương quốc. Nó tên là Nalagiri. Tại
sao người ta lại để cho Nalagiri xổng chuồng ra như thế. Vừa lúc đó những người
đi đường cũng đã nhận ra sự nguy hiểm.
Họ hô
hoán lên và cùng nhau chạy núp ở hai bên vệ đường. Dân chúng hai bên đường phố
đều đã trông thấy con voi Nalagira. Con voi đưa vòi lên cao, đuôi và hai tai
thẳng đứng dậy, nó nhắm phía Bụt và các vị khất sĩ mà chạy tới.
Thấy
tình trạng nguy hiểm quá, Ananda vội nắm tay Bụt và đẩy người về phía vệ đường,
nhưng Bụt không theo Ananda, người đứng yên tại chỗ, một số các vị khất sĩ núp
sau lưng Bụt, một số khác chạy tứ tán tìm chỗ núp hai bên vệ đường. Dân chúng
hai bên đường phố la hoảng lên. Mọi người nín thở, Ananda vừa bước lên định
đứng chận trước mặt Bụt thì bỗng nghe Bụt hú lên một tiếng lớn và dài. Tiếng rú
vọng lên, nghiêm trang và oai vệ. Đây là tiếng hú của con voi chúa trong rừng
Rakkhita ở Parileyyaka. Bụt đã an cư một mình trong rừng này, và trong thời
gian ấy người đã học được tiếng hú của con voi chúa thường đem bầy voi con tới
uống nước bên bờ suối.
Voi
Nalagiri đã xông tới chỉ còn cách Bụt chừng mươi bước. Nghe tiếng hú vang dội,
nó tự nhiên khựng lại. Lập tức nó khuỵu hai chân trước xuống, rồi khuỵu luôn
hai chân sau, vòi nó hạ thấp xuống sát đất. Hai tai nó cụp xuống, đuôi nó cũng
vậy.
Bụt tiến
tới, người đưa tay phải sờ lên đầu voi với tất cả thương mến. Người ra hiệu cho
voi đứng dậy rồi người nắm lấy vòi của voi, dẫn nó đi trở về nơi xuất phát của
nó. Con voi ngoan ngoãn đi theo người.
Tiếng
hoan hô của dân chúng hai bên đường nổi lên vang dây. Thầy Ananda mỉm cười.
Thầy nhớ lại Bụt hồi còn trẻ tuổi, không một môn thể thao mà Siddhatta không
giỏi, từ bắn cung, cử tạ, đánh kiếm cho đến đua ngựa, cỡi voi. Bụt đã đối xử
với voi Nalagira như đối xử với một con người hay một con vật đã từng quen thuộc
lắm với người.
Đoàn
khất sĩ và hàng trăm dân chúng đi theo Bụt và con voi. Khi vào tới chuồng voi,
người nhìn vị quản voi với đôi mắt nghiêm nghị. Rồi với giọng từ bi, người bảo:
- Ai ra lệnh thả voi này ra, Như lai không cần biết, nhưng quý vị nên biết rằng
thả voi Nalagira ra giữa đường phố là một điều hết sức nguy hiểm. Voi này một
khi được thả ra có thể làm cho hàng chục hay hàng trăm người mất mạng. Từ nay
về sau quý vị không được làm như vậy nữa.
Vị quản
tượng và viên giám đốc chuồng voi lạy xuống để chịu tội. Bụt đỡ họ lên, và cùng
các vị khất sĩ rời khỏi chuồng voi. Bụt đỡ họ lên, và cùng các vị khất sĩ rời
khỏi chuồng voi. Người tiếp tục cuộc khất thực đang bị bỏ dở nửa chừng.
Đã đến
ngày làm lễ trà tỳ thượng hoàng, Bụt tự thân hành tới dự lễ, và bảo tất cả các
vị khất sĩ trong giáo đoàn cùng đi. Lễ trà tỳ được tổ chức rất long trọng. Quần
chúng tiếc thương vị vua đạo đức của họ đã đến tham dự rất đông đảo vòng trong
vòng ngoài chật ních. Riêng các vị khất sĩ trong xứ có mặt hôm đó cũng đã trên bốn
ngàn người.
Trên
đường dự lễ về, Bụt ghé lại vườn Xoài của y sĩ Jivaka nghỉ một đêm trước khi
lên núi. Y sĩ cho Bụt biết là cả tháng nay thái hậu Videhi bị cấm không được
vào thăm thượng hoàng. Thượng hoàng đã lìa đời trong nhà giam, bên cạnh không
có một người thân thích. Người đã xoay đầu về núi Linh Thứu để hơi thở thở cuối
cùng.
Một hôm
y sĩ Jivaka lên núi Thứu và tiến dẫn lên Bụt một người của hoàng gia muốn được
đi xuất gia. Đó là hoàng đệ Abhayarajakumara con của vua Bimbisara và của thứ
hậu Padumavati, thái tử Abhayaraja bạch với Bụt là sau cái chết của thượng
hoàng Bimbisara, thái tử không còn tha thiết gì nữa đến nếp sống phù hoa danh
lợi. Đã từng được nghe Bụt thuyết pháp nhiều lần, thái tử rất hâm mộ đạo lý
giải thoát và ước mong được sống nếp sống thảnh thơi va vô ưu của người khất
sĩ. Bụt chấp nhận lời thỉnh cầu của Abbhayaraja và cho thái tử được xuất gia.
---o0o---
Chương 75
NHỮNG GIỌT NƯỚC MẮT SUNG SƯỚNG
Đường
Xưa Mây Trắng - CỦA SUDATTA Mười hôm sau, Bụt khoác y, ôm bát và rời thành Vương
Xá. Người đi lên miền Bắc, vượt sông Hằng, tới thăm viếng chúng khất sĩ ở tu
viện Trùng Các, rồi người lại lên đường, hướng về thủ đô Savatthi. Mùa mưa sắp
tới, và người cần về tu viện Cấp Cô Độc để kịp thời chuẩn bị cho khóa an cư.
Theo người có đại đức Ananda, các đại đức Sariputta, Moggallana và khoảng ba
trăm vị khất sĩ khác.
Tới
Savatthi, Bụt về thẳng tu viện Jetavana. Các thầy chờ Bụt ở đây rất đông. Năm
nay các vị khất sĩ và nữ khất sĩ về an cư rất đông. Tin tức về những cuộc biến
động ở kinh đô Magadha ai cũng đã được nghe. Thấy Bụt về nguyên vẹn và khỏe
mạnh, mọi người đều tỏ vẻ mừng vui. Ni sư Khema lãnh đạo một đoàn nữ khất sĩ
đến thăm viếng Bụt. Năm nay bà được đưa lên làm vị lãnh đạo tối cao bên ni
giới. Ni sư Pajapati đã viên tịch mười năm về trước.
Quốc
vương Pesanadi nghe Bụt về cũng lập tức đến tu viện thăm người. Vua hỏi thăm
Bụt về tình hình ở Rajagaha. Bụt thuật cho vua nghe nhiều chuyện, trong đó có
buổi gặp gỡ giữa người và thái hậu Videhi em ruột của vua. Bụt cho vua biết là
thái hậu vẫn được bình yên nhưng chắc là trong lòng còn nhiều sầu khổ, vua cho
Bụt biết là vua đã gửi một sứ đoàn qua Rajagaha cách đây hơn một tháng, và yêu
cầu Ajatasattu Videhiputta giải thích tại sao có chuyện giam giữ quốc vương
Bimbisara và hai vị đại thần. Quốc vương Ajatasattu là cháu của vua. Vua bảo
nếu cần thì Ajatasattu phải về Savatthi để trình bày mọi sự. Hiện vẫn chưa thấy
sứ đoàn trở về. Vua cũng cho biết là để tỏ ý phản kháng hành động của quốc
vương xứ Magadha, vua đã lấy lại thục ấp mà thượng hoàng đã tặng nước Magadha
hơn sáu muơi mấy năm về trước, khi em gái vua về làm chánh hậu của vua
Bimbisara. Thục ấp này thuộc địa phận Baranasi xứ Kasi.
Ngày an
cư mùa mưa đã đến. Các trung tâm tu học ở vùng thủ đô và các vùng lân cận đều
có đầy các vị khất sĩ và nữ khất sĩ cư trú. Cứ mười lăm hôm Bụt lại nói pháp
thoại một lần tại Jetavana, và các giới khất sĩ cũng như nữ khất sĩ từ các
trung tâm khác đều được tới tham dự. Pháp thoại của Bụt thường được nói vào
buổi chiều, ngay sau giờ thọ thực, vì vậy các vị khất sĩ từ những trung tâm xa,
đến ngày có pháp thoại, phải nghỉ khất thực để có thì giờ đi thẳng về tu viện.
Các vị đại thích ở thủ đô cố gắng sắp đặt để cúng dường thực phẩm cho các vị
ngay khi các vị tới tu viện, để các vị có đủ thời gian thọ thực và nghe pháp.
Pháp
thoại đầu mà Bụt nói trong mùa an cư năm nay có đề tài là hạnh phúc.
Bụt dạy
hạnh phúc là có thật và ta có thể thực hiện được hạnh phúc ngay trong đời sống
này nếu ta biết hành theo chánh pháp.
Trước
hết Bụt cho biết hạnh phúc không phải là sự đam mê vào dục lạc. Dục làc có thể
cho người một ảo tưởng về hạnh phúc, và thật sự chỉ là khổ đau.
Người
lấy ví dụ của một người bị bệnh hủi, bị bắt buộc vào sống biệt lập ở trong
rừng. Người này luôn luôn cảm thấy ngứa ngáy xốn xang rất khó chịu.
Ông ta
đào một cái hố, chất cành khô và những gốc cây mục xuống hố và đốt cháy cho đến
khi hố đầy than hồng, rồi ông ta đứng bên cạnh hố, đưa mình mẩy tay chân lên
trên hố than để hứng lấy cái nóng của than lửa đang cháy. Trong khi làm như thế
ông ta thấy rất đã ngứa và cảm thấy bớt khổ.
Ngày nào
không được hơ mình trên hố than rừng này, ông ta rất làm đau khổ. May mắn cho
ông ta, mấy năm sau bệnh hủi của ông được chữa lành.
Ông trở
về sống đời sống bình thường trong thôn xóm. Một hôm ông ta vào rừng thấy mấy
người có bệnh hủi đang đưa mình mẩy của họ hơ trên hố than rừng của họ. Ông
thấy thương xót họ vô cùng. Hố than rừng nóng quá, tới gần ông chịu không nổi.
Nếu có ai tới trì kéo ông, bắt ông tới gần hố than để đưa mình mẩy hơ lên trên
than lửa, ông ta sẽ la tru tréo lên và phản đối kịch liệt. Cái mà ngày xưa ông
cho là làm cho ông sung sướng, bây giờ đã trở thành một mói khổ đau của ông.
Bụt nói: dục lạc cũng chỉ là một hố than hồng, chỉ có người bệnh mói thấy dục
lạc là vui, những người lành mạnh đều phải xa lánh hố than của dục lạc.
Nếu đam
mê dục lạc không phải là hạnh phúc thì cái gì là hạnh phúc? Bụt dạy: sống thư
thái, tự do, tiếp xúc được với những mầu nhiệm của cuộc sống tức là có hạnh
phúc, ý thức được những gì xảy ra trong giờ phút hiện tại; không tham đắm vào
bất cứ pháp nào mà cũng không ghét bỏ bất cứ một pháp nào.
Người có
hạnh phúc biết quý những gì mầu nhiệm đang xảy ra trong hiện tại; một làn gió
mát, một buổi sáng đẹp trời, một bông hoa vàng, một cấy trúc tím, một nụ cười
của trẻ thơ, một bữa com ngon. Ngưòi có hạnh phúc biết thưởng thức những thứ ấy
nhưng không bị ràng buộc vào những thứ ấy.
Thấy
được vạn pháp là vô thường và vô ngã. Người ấy không nhận thức các pháp như
những gì có thường và có ngã, do đó người ấy không bị ràng buộc bởi các pháp
kia, không bị tham đắm vào các pháp kia. Không bị ràng buộc, không tham đắm,
người ấy sống thảnh thơi, không lo âu, không sợ hãi. Biết rằng một bông hoa có
thể sớm nở tối tàn, người ấy thấy được tự tính sinh diệt vô thường của các pháp
cho nên không vì sự sinh diệt của vạn pháp mà sầu khổ và lo âu. Cũng vì thế nên
hạnh phúc của người ấy là hạnh phúc chân thật. Người ấy không lo âu và sợ hãi
ngay về sự sinh diệt của chính mình.
Có người
cho rằng muốn có hạnh phúc trong tương lai thì phải chịu khổ trong hiện tại, vì
vậy họ hy sinh hiện tại bằng cách chịu khổ chịu cực, về tâm não cũng như về thể
xác, để mua lấy hạnh phúc trong tương lai. Bụt dạy rằng sự sống chỉ có mặt
trong giây phút hiện tại, hy sinh hiện tại là phế bỏ sự sống, Có người nghĩ
muốn có an lạc và giải thoát trong tương lai thì phải hành hạ xác thân trong
hiện tại. Nghĩ như thế, họ áp dụng những phép tu khổ hạnh, chịu đói khát và đau
đớn trong thân xác và trong tâm tư, dùng khổ đau trong hiện tại, để mua hạnh
phúc trong tương lai. Bụt dạy lối tu hành đó không những làm cho người tu chịu
đau khổ trong hiện tại mà còn gây đau khổ trong tương lai nữa.
Có người
cho rằng đời sống quá ngắn ngủi, không nên nghĩ tới tương lai, phải tận lực
hưởng thụ những thú vui dục lạc ngay trong giờ phút hiện tại, Bụt dạy rằng tham
đắm vào dục lạc như thế cũng giống như nướng mình trên hố than rừng, hành động
này đem lại khổ đau ngay trong hiện tại và cho cả tương lai.
Phương
pháp tu học của Bụt vượt ra ngoài hai cách sống vừa kể. Bụt dạy rằng phép sống
khôn ngoan nhất là phép sống đem lại hạnh phúc trong hiện tại mà cũng sẽ đem
lại hạnh phúc trong tương lai.
Tu tập
theo đạo giải thoát không phải là ép xác khổ hạnh để cầu mong một hạnh phúc
tương lai. Khi vị khất sĩ ăn ngày một bữa, thực tập thiền tọa, thực tập thiền
hành, thực tập Tứ Niệm Xứ, thực tập Tứ Vô Lượng Tâm, thực tập phép Quán Niệm
Hơi Thở, vị khất sĩ ấy tạo hạnh phúc cho chính mình và cho những người xung
quanh ngay trong giờ phút hiện tại. Ăn mỗi ngày một bữa có thể giúp cho cơ thể
nhẹ nhàng, có thể cho ta nhiều thì giờ hơn để tu tập, để sống thoải mái và tự
do, và để giúp ích cho người khác. Không lập gia đình, không có vợ con không
phải là một sự ép xác khổ hạnh mà cũng là để có thể sống tự do và thoải mái để
có thời gian tu tập và giúp ích cho kẻ khác. Sống đời sống phạm hạnh, người
khất sĩ phải thấy được niềm vui và hạnh phúc trong giây phút của cuộc sống hàng
ngày. Nếu sống đời sống phạm hạnh mà thấy khổ đau, ép buộc, thiếu tự do, đó là
đã sống không đúng theo tinh thần chánh pháp. Nhìn vào một vị khất sĩ sống đời
sống phạm hạnh. Người ta phải thấy sự có mặt của sự thoải mái, sự thong dong và
niềm an lạc. Nếp sống này đem lại hạnh phúc trong hiện tại mà chắc chắn cũng
đem lại hạnh phúc trong tương lai.
Sau buổi
pháp thoại, nữ cư sĩ Punnalakkhana xin đến viếng Bụt. Bà là nội trợ của cư sĩ
Sudatta Anathapindika, người đã xây dựng tu viện Jetavana để cúng dường giáo
đoàn khất sĩ. Nữ cư sĩ báo tin cho Bụt biết là cư sĩ Sudatta bị ốm đã hơn mười
hôm nay, và rất khổ đau vì không đến dự được buổi pháp thoại này. Bệnh của cư
sĩ càng ngày càng tăng chứ không thấy giảm. Cư sĩ rất sợ sẽ không được nhìn
thấy mặt Bụt trước khi qua đời.
Ngày hôm
sau, Bụt đi thăm cư sĩ Sudatta, cùng đi với người có hai đại đức Sariputta và
Ananda, được thấy Bụt và hai đại đức, cư sĩ mừng rỡ. Ông ngồi trên một chiếc
ghế dựa, nét mặt xanh xao, Bụt bảo:
-
Sudatta, suốt đời ông đã sống một cuộc sống có ý nghĩa và có hạnh phúc.
Ông đã
làm vơi nổi khổ của biết bao nhiêu người. Danh từ Anathapindika mà thiên hạ
tặng cho ông là một trong những bằng chứng lớn của sự thành công của ông. Tu
viện Jetavana là một bằng chứng lớn khác. Ông đã đóng góp thật nhiều để pháp âm
của đạo giác ngộ được truyền đi khắp chốn. Ông đã sống theo chánh pháp, đã tạo
được hạnh phúc cho bản thân, cho gia đình và cho rất nhiều người trong xã hội.
Bây giờ ông nên tĩnh dưỡng, tôi sẽ nhờ đại đức Sariputta thỉnh thoảng tới thăm
ông và hướng dẫn sự tu học cho ông.
Ông
không nên cố gắng để tìm lên tu viện, bởi vì di chuyển như thế sẽ làm cho ông
mất sức nhiều quá.
Cư sĩ
Sudatta chắp tay tạ ơn Bụt.
Mười lăm
hôm sau, vào giờ pháp thoại, Bụt nói về đời sống người tại gia, về hạnh phúc
chân thực mà người cư sĩ có thể thực hiện ngay trong đời sống hiện tại.
Bụt ôn
lại những nguyên tắc sống “hạnh phúc trong hiện tại, hạnh phúc trong tương lai”
mà người đã diễn bày trong kỳ pháp thoại trước, rồi người nói:
- Vị
khất sĩ sống đời sống phạm hạnh là để có an lạc hạnh phúc ngay trong giờ phút
hiện tại, và nếp sống phạm hạnh ấy chắc chắn sẽ đem lại hạnh phúc hạnh trong
tương lai, nhưng không phải chỉ người xuất gia mới sống được theo nguyên tắc
ấy.
Những
người của sĩ sống ở thành thị và trong xóm làng cũng có thể theo nguyên tắc ấy
của chánh pháp mà làm cho đời sống càng ngày càng có thêm hạnh phúc. Trước hết
là đừng vì ước muốn làm giàu mà chúi đầu vào công việc, bỏ mất cơ hội tạo hạnh
phúc cho mình và cho gia đình mình trong giờ phút hiện tại. Hạnh phúc trước hết
là sự tỉnh thức. Một cái nhìn đầy hiểu biết, một nụ cười bao dung, một câu
chuyện nói thương yêu, một bữa cơm quây quầy trong đầm ấm và tỉnh thức ... đó
là hạnh phúc trong hiện tại. Nuôi dưỡng sự tỉnh thức trong hiện tại, ta sẽ
tránh không gây khổ đau cho ta và cho những người sống chung quanh, ta và bên
cạnh ta. Bằng cái nhìn, bằng lời nói, bằng nụ cười, bằng những cử chỉ săn sóc
nhỏ, ta tạo ra hạnh phúc cho ta và cho một người ngay trong giây phút hiện tại.
Hạnh phúc này không cần đến giàu sang và danh vọng.
Bụt kể
cho đại chúng nghe câu chuyện của Sigala, một người gia chủ trẻ tuổi mà Bụt gặp
ở thành phố Rajagaha nhiều năm về trước.
Buổi
sáng nọ, khoác y, mang bát và rời tu viện Trúc Lâm lúc trời mới rạng sáng.
Người gặp một chàng trai tên Sigala, con của một thương gia sống ở ngoại ô
thành phố. Sigala đang đứng ở ngoài trời và đang cúi lạy sáu phương Đông, Tây,
Nam, Bắc, Thượng và Hạ một cách cung kính.
Bụt tới
gần và hỏi chàng lạy như thế để làm gì, Sigala thưa là từ hồi còn bé, chàng đã
được thân phụ dạy mỗi buổi sáng phải ra lạy sáu phương. Chàng chỉ biết vâng lời
cha, sáng nào cũng ra lạy như thế, nhưng không biết để làm gì. Bụt nói: lạy như
thế là thực tập một lối sống có thể đưa tới hạnh phúc trong hiện tại và trong
tương lai. Người dạy rằng lạy phương Đông là để quán chiếu cách đối xử với ơn
cha mẹ, lạy phương Nam là để quán chiếu cách đối xử với ơn sư trưởng, lạy
phương Tây là để quán chiếu cách đối xử với tình vợ con, lạy phương Bắc là để
quán chiếu cách đối xử với tình bè bạn, lạy phương Hạ là để quán chiếu cách đối
xử với người cộng sự, lạy phương Thượng là để quán chiếu cách đối xử với những
bậc hiền nhân.
Bụt lại
dạy Sigala về phép thọ trì năm giới, phép quán chiếu để đừng vội vã hành động
khi trong tâm có tham dục, giận hờn, si mê và sợ hãi. Bụt dạy Sigala tránh xa
sáu loại hành động có thể đưa đến sự tán gia bại sản: không say sưa, không đi
lang thang trong thành phố vào giờ khuya khoắt, không lui tới những chốn cờ
bạc, không lui tới những nơi ăn chơi trác táng, không la cà với những bạn xấu
và không lười biếng ỷ lại.
Bụt lại
dạy cho Sigala biết phân biệt thế nào là một người bạn tốt. Người nói:
- Một
người bạn tốt là một người đối xử với mình một cách chung thủy, khi mình giàu
sang hoặc sa sút, hạnh phúc hay khổ đau, thành công hay thất bại, đắc thế hoặc
thất thế thì người bạn ấy vẫn không hề thay đổi. Người bạn ấy biết lắng nghe và
chia xẻ những buồn đau của mình, nói cho mình nghe những lo lắng và buồn vui
của người ấy. Một người bạn tốt là một người bạn biết vui cái vui của mình và
buồn cái buồn của mình.
Kể xong
chuyện Sigala, Bụt nói:
- Hạnh
phúc chân thật là một điều có thể thực hiện ngay trong đời này nếu ta quy tụ
được càng nhiều càng tốt những điều kiện sau đây:
1.- Được
thân cận với những người hiền đức, có khả năng xa lánh được những kẻ đang đi
trên con đường sa đọa.
2.- Được
sống trong một môi trường thuận tiện cho sự tu học và sự tạo tác những nhân
lành.
3.- Được
có cơ hội thêm về giáo pháp, về giới luật, về công nghệ và về ngôn ngữ văn
chương.
4.- Được
phụng dưỡng mẹ cha và có thời giờ để ý săn sóc vợ chồng con cái của mình.
5.- Được
chia xẻ thì giờ, tài vật và hạnh phúc với kẻ khác.
6.- Được
có cơ hội vun trồng đạo đức, xa lánh hẳn rượu chè cờ bạc.
7.- Được
thực tập un đúc các đức khiêm nhượng, biết ơn và tri túc của đạo giác ngộ.
8.- Được
thân cận với các vị khất sĩ mà học hỏi đạo lý.
9.- Được
sống một cuộc sống trong sạch theo nguyên tắc Bốn Sự Thật.
10.-
Được học cách thiền quán để tháo bỏ những phiền não và ưu sầu trong cuộc sống.
Tới đây,
Bụt mở lời khen những cư sĩ đã và đang sống theo chánh pháp trong cuộc sống
hàng ngày, trong gia đình và xã hội, Bụt đặc biệt nhắc tới cư sĩ Sudatta
Anathapindika. Bụt nói Sudatta là người đã quy tụ được nhiều điều kiện để làm
cho đời sống có ý nghĩa, có hạnh phúc và có lợi ích cho nhiều người. Đạo tâm
của Sudatta rất lớn và cuộc đời của Sudatta đã được hướng dẫn bởi những nguyên
tắc của chánh pháp, Bụt nhấn mạnh rằng có những người giàu có hơn Sudatta nhiều
gấp bội, nhưng đứng về phương diện hạnh phúc thì không thể nào so sánh được với
Sudatta.
Hôm ấy
nội trợ của cư sĩ Sudatta là Punnalakkhana cũng có mặt trong buổi pháp thoại.
Nghe Bụt nói, bà cảm động đến rơi nước mắt, bà đứng dậy và tắc bạch:
- Thế
Tôn, cuộc sống của người cư sĩ có nhiều khi thật bận rộn, nhất là khi mình được
thừa hưởng một gia sản lớn. Con thấy khi mình có một cơ nghiệp bình thường, sự
tu đạo sẽ dễ dàng hơn. Nhìều khi nhìn những vị khất sĩ không nhà, không cửa,
không vợ, không con, cầm một chiếc bình bát, đi thong dong trên nẻo đường khất
thực, chúng con thấy thèm muốn sự thảnh thơi ấy một cách lạ kỳ. Chúng con ước
muốn được sống như thế, nhưng mà chúng con có nhiều sợi dây ràng buộc quá, biết
làm sao?
Bụt dạy:
- Nữ cư
sĩ Punnalakkana! Vị khất sĩ cũng có nhiều trách nhiệm chứ không phải không. Nếp
sống phạm hạnh là nếp sống buộc vị khất sĩ phải an trú ngày đêm trong chánh
niệm, trong giới luật. Người khất sĩ lại còn phải nghĩ đến trách nhiệm độ sinh.
Các vị
cư sĩ! Như lai đã tìm ra một phương cách để quý vị có thể lâu lâu, hoặc nửa
tháng một lần, được sống giống như các vị khất sĩ. Phương cách đó là Bát Quan
Trai giới. Các vị có thể đến chùa thọ tám giới, sống trong thời gian trọn vẹn
một ngày một đêm, ngày ăn một bữa, thực tập thiền tọa, thiền hành, sống trong
phạm hạnh, tỉnh thức, tinh cần, thong dong và an lạc, giống hệt như các vị khất
sĩ. Sau thời gian một ngày, một đêm sống như thế, các vị lại xả giới và trở về
đời sống thế gian, chỉ giữ lại năm giới và ba sự quay về nương tựa.
Các vị
khất sĩ! Như lai sẽ báo tin để tất cả các vị khất sĩ biết về pháp chế Bát Quan
Trai này. Quý vị có thể tổ chức tu tập Bát Quan Trai tại chùa hay ngay trong
nhà quý vị, và các vị khất sĩ có thể được mời để tuyên giới, hướng dẫn và dạy
dỗ trong các ngày tu Bát Quan Trai.
Punnalakkhana
sung sướng hỏi Bụt:
- Bạch
Thế Tôn, tám giới của pháp chế Bát Quan Trai là tám giới nào, tại sao gọi là
quan, tại sao gọi là trai, xin Thế Tôn khai thị cho chúng đệ tử biết.
- Tám
giới là: không sát hại sinh mạng, không trộm cướp, không dâm dục, không vọng
ngữ, không uống rượu, không trang sức, không nằm và ngồi trên giường chiếu sang
trọng và không sử dụng tiền bạc. Tám giới ấy là để phòng ngừa sự phát sinh của
vọng niệm và tạp niệm trong thời gian tu tập nên gọi là quan. Quan có nghĩa là
phòng ngừa, còn trai có nghĩa là chỉ ăn một bữa trước giờ ngọ, để có thì giờ tu
tập.
Được
biết thiết chế phép Bát Quan Trai, giới cư sĩ hôm ấy rất lấy làm sung sướng.
Mười hôm
sau, người nhà của cư sĩ Sudatta tới tìm đại đức Sariputta, báo tin là bệnh
tình của cư sĩ trở nặng.
Đại đức
rủ đại đức Ananda cùng đi. Cư sĩ Sudatta nằm trên giường bệnh để tiếp hai vị
đại đức. Người nhà nhắc ghế để hai đại đức ngồi gần bên giường.
Biết cư
sĩ không sống được bao nhiêu ngày nữa, đại đức Sariputta khai thị:
- Cư sĩ
Sudatta, ông nên quán tưởng như sau: mắt, không phải là tôi, tai không phải là
tôi, mũi, lưỡi thân cũng không phải là tôi.
Đợi cư
sĩ quán tưởng xong, đại đức nói:
- Cư sĩ
tiếp tục quán tưởng; những gì tôi thấy không phải là tôi, những gì tôi nghe
không phải là tôi, những gì tôi ngửi, nếm, xúc chạm cũng không phải là tôi.
Rồi đại
đức dạy cho cư sĩ quán chiếu vô ngã trong sáu thức: cái thấy không phải là tôi,
cái nghe không phải là tôi, tri giác, vị giác, xúc giác và ý thức cũng không
phải là tôi. Đại đức nói:
- Sáu
căn, sáu trần và sáu thức không phải là tôi. Sáu đại là đất, nước, lửa, gió,
không gian và tâm thức cũng không phải là tôi. Tôi không bị ràng buộc và hạn
cuộc trong những yếu tố ấy. Tôi không bị sinh tử ràng buộc và hạn chế. Sinh tử
không chạm được tới tôi. Tôi mỉm cười, bởi vì tôi không sinh cũng không diệt.
Sinh không làm cho tôi có, tử không làm cho tôi không.
Thực tập
tới đó, cư sĩ Sudatta khóc. Nước mắt chảy ràn rụa trên hai má ông.
Đại đức
Ananda hỏi:
- Sao,
cư sĩ có tiếc nuối không, cư sĩ quán chiếu không thành công hả?
- Thưa
đại đức, Ananda, con không tiếc nuối, con quán chiếu rất thành công.
Con khóc
vì con cảm động quá. Con được phụng sự Bụt và gần gũi các vị khất sĩ đã hơn ba
mươi năm nay, vậy mà chưa bao giờ con được nếm giáo lý thậm thâm vi diệu như
hôm nay.
- Cư sĩ
Sudatta, giáo lý này các vị khất sĩ và nữ khất sĩ được nghe đức Thế Tôn giảng
dạy luôn.
- Thưa
đại đức, Ananda, đệ tử của cư sĩ chúng con có người cũng có thể nghe, hiểu và
hành được giáo lý thậm thâm này. Xin đại đức Ananda bạch với Bụt để người cho
phép giới cư sĩ chúng con được nghe, hiểu và thực hành giáo lý thậm thâm đó.
Cư sĩ
Sudatta từ trần ngay buổi chiều hôm ấy. Các đại đức Sariputta và Ananda đã ở
lại hộ niệm rất lâu cho cư sĩ.
Gia đình
của cư sĩ Anathapindika là một gia đình cư sĩ kiểu mẫu. Tất cả mọi người trong
gia đình từ cha mẹ đến con cái, người nào cũng có đức tin vững chải nơi Bụt,
người nào cũng siêng năng học hỏi giáo lý và đem áp dụng vào cuộc đời. Trước
đây mấy hôm, cư sĩ được biết tin rằng con gái út của mình là Sumagadha, lấy
chồng ở xứ Anga, đã hóa độ được rất nhiều dân chúng trong vùng theo Bụt. Chồng
của cô trước đó là một vị quan tổng trấn ở xứ Anga, tín đồ của phái du sĩ lõa
hình. Lần đầu được chồng ép đi thăm các vị du sĩ này, cô đã khéo léo từ chối.
Với sự hiểu biết vững vàng về đạo Bụt, cô đã từ từ cảm hóa được quan tổng trấn
và mang được giáo lý Bụt vào đời sống của dân chúng trong vùng.
---o0o---
Chương 76
HOA TRÁI CỦA NGÀY HÔM NAY
Mùa an
cư chấm dứt, các vị khất sĩ và nữ khất sĩ còn chưa kịp lên đường hành hóa thì
nghe chiến tranh bùng nổ giữa hai vương quốc Kosala và Magadha. Đại binh của
nước Magadha đã vượt sông Hằng đi vào xứ Kasi, thuộc lãnh thổ Kosala. Quốc
vương Ajatasattu Videhyputta tự tay thống lãnh binh tướng qua chinh phạt nước
Kosala. Tướng lãnh thống suốt cả voi, ngựa, xe và pháo, đang hướng về phía
thành Baranasi, thủ phủ xứ Kasi. Bên phía vương quốc Kosala sau khi được thám
tử thông báo, cũng đã chuẩn bị quân đội gồm đủ voi, ngựa, xe và pháp nhắm xứ
Kasi tiến tới. Việc binh quá cấp thúc, vua không kịp đến thông báo và từ giã
Bụt, vua nhờ thái tử Jeta tới trình mọi sự với Bụt thay vua.
Bụt đã
từng được thông báo rằng sau khi nghe tin Ajatasattu mưu sát cha để lên ngôi,
quốc vương Pasenadi đã tỏ ý phản kháng bằng cách lấy lại lãnh thổ của thục ấp
vùng Baranasi mà ngày xưa thượng hoàng đã tặng cho vua Bimbisara như vật hồi
môn của công chúa Kosaladevi, khi công chúa về nhà chồng. Thục ấp này từ gần
bảy mươi năm nay đã đem lại cho vương quốc Magadha mỗi năm một số tiền thuế trị
giá một trăm ngàn đồng vàng. Vua Ajatasattu không chịu đựng được hành động phản
kháng này cho nên đã cất binh sang đáng.
Đại đức
Sariputta thông báo cho các vị nam nữ khất sĩ ở đâu thì nên hành đạo ngay tại
đó, đừng di chuyển nhiều trong thơì buổi chiến tranh. Đại đức cũng xin Bụt ở
lại Savatthi cho đến khi tình hình yên tĩnh.
Hai
tháng sau dân chúng kinh hoàng nghe tin binh tướng Kosala đã thất trận tại
Kasi. Vua Pasenadi và các tướng phải rút tàn binh chạy về kinh đô. Tình hình
rất khẩn trương. May thay, hệ thống phòng thủ tại Savatthi rất là kiên cố. Binh
tướng của vua Ajatasattu đã đuổi theo và công kích ngày đêm mà cũng không hạ
được nổi thành. Sau đó, nhờ kế hoạch của tướng Bandhula, vua Pasenadi phối hợp
được quân trong thành và quân từ các địa phương kéo tới để mở một cuộc tổng
phản công. Lần này vua thắng lớn, vua Ajatasattu cùng các vị tướng soái dưới
quyền đều bị bắt sống. Quân Kosala bắt được trên một vạn tù binh. Số binh lính
còn lại, hoặc chết hoặc bỏ chạy tán loạn, có đến trên một vạn. Ngoài ra, quân
đội Kosala lại chiếm được rất nhiều voi, ngựa, xe và pháp của bên địch.
Chiến
tranh đã kéo dài hơn sáu tháng, dân chúng Savatthi được lệnh tổ chức và ăn mừng
thắng trận. Sau khi thu xếp công việc triều đình và binh đội, vua Pasenadi đến
thăm Bụt tại tu viện Trúc Lâm.
Vua kể
cho Bụt nghe những gian nan của cuộc chiến. Vua nói rằng quốc vương Ajatasattu
đã tỏ ý gây hấn; vua chỉ chiến đấu tự vệ thôi chứ không hề chịu trách nhiệm về
việc châm lửa chiến tranh. Vua trình với Bụt là có lẽ quốc vương Ajatasattu đã
nghe lời những vị mưu thần nhiều quá.
- Bạch
Thế Tôn, quốc vương Magadha dù sao cũng là cháu của trẩm, trẫm không nỡ giết,
cũng không nỡ bỏ nó vào chốn lao tù, xin Bụt chỉ dạy cho trẫm.
Bụt nói:
- Đại
vương, xung quanh đại vương có biết bao nhiêu người thần tử và bạn hữu trung
thành. Đại vương thắng trận này không có gì là lạ, nhưng xung quanh quốc vương
Ajatasattu có nhiều phần tử xấu, và vì vậy vua ấy đã đi lầm đường lạc nẻo. Như
lai xin đề nghị là đại vương nên lấy lẽ để tiếp đãi quốc vương Magadha cho đúng
cung cách của một ông vua đối xử với một ông vua, nhưng đại vương cũng phải có
thì giờ để dạy quốc vương Magadha như dạy một người cháu ruột. Đại vương hãy
nhấn mạnh đến sự cần thiết của những người bạn hữu tốt và những kẻ thần tử
trung kiên, và cuối cùng đại vương có thể đặt tiệc và đưa vua xứ Magadha về
nước, nền an binh của trăm họ tùy thuộc nơi sự khéo léo của đại vương.
Rồi Bụt
cho gọi một vị khất sĩ trẻ tên là Silavat lên và giới thiệu vị này với vua
Pasenadi. Khất sĩ Silavat vốn là một vị thái tử, con vua Bimbisara, em cùng cha
nhưng khác mẹ với vua Ajatasattu. Silavat là một người con trai khá thông tuệ;
từ mười sáu tuổi, chàng dã được theo học với đại đức Moggallana và đã là một
người đệ tử tại gia xuất sắc của đại đức. Sau cuộc chính biến xảy ra tại thủ đô
Rajagaha, chàng đã xin đại đức cho chàng xuất gia. Sau lễ xuất gia, khất sĩ
Silavat đã được gởi về tu viện Jetavana ở thủ đô Savatthi để tu học. Đại đức
Moggallana nghĩ rằng dù Silavat không có ý tranh dành quyền hành với vua
Ajatasattu, nhưng gởi vị khất sĩ này qua tu học ở nước Kosala vẫn là có an ninh
hơn.
Vua
Pasenadi hỏi thăm đại đức Silavat về tình trạng hoàng gia bên Rajagaha và thầy
đã cung kính nói hết cho vua nghe tất cả những gì thầy tai nghe mắt thấy.
Đại đức
cho vua biết là năm ngoái đã có một người từ thủ đô xứ Magadha tới với sứ mạng
ám sát đại đức, nhưng đại đức đã cải hóa được người ấy và độ cho người ấy được
xuất gia. Hiện vị khất sĩ kia đang được tu học ở một trung tâm không xa thành
phố.
Quốc
vương Pasenadi cung kính lạy tạ Bụt và trở về cung điện.
Vua
Ajatasattu sau đó được trả tự do và đưa về nước. Lấy tình thương để xóa bỏ hận
thù, vua Pasenadi lại đem công chúa Vajira mà gã cho vua Ajatasattu nữa. Quốc
vương Ajatasattu đã là cháu nay lại trở nên con rể của vua. Vua còn hứa sẽ trả
lại thục ấp ở Baranasi mà ngày xưa thượng hoàng Maha Kosala đã tặng cho xứ
Magadha. Quốc vướng sứ Kosala đã nghe lời Bụt một cách đúng mức.
Chiến
tranh đã kết thúc, các vị khất sĩ và nữ khất sĩ lại được phép lên đường hoằng
hóa.
Vua
Pasenadi truyền xây dựng một tu viện mới cho giáo đoàn khất sĩ tại ven thủ đô.
Tu viện này lấy tên là Rajakarama.
Bụt ở
lại vương quốc Kosala liên tiếp trong hai năm, an cư mùa mưa tại tu viện Jetava
và đi giáo hoá ở nội địa trong những thời gian còn lại. Thỉnh thoảng có tin tức
từ vương quốc Magadha do các vị khất sĩ du hành đem về cho Bụt. Các vị ấy kể
sau khi Bụt rời vương quốc, đại đức Devadatta không còn được vua Ajatasattu
kính nể nữa. Trong số hơn một trăm vị khất sĩ còn ở lại với đại đức, tám mươi
vị đã bỏ đại đức để trở về với giáo đoàn của Bụt và đều được đón nhận trở lại
tại tu viện Trúc Lâm. Đại đức càng ngày càng bị cô lập. Gần đây đại đức bị ốm
nằm liệt trên núi Gayasisa, không đi đâu được cả. Từ ngày chấm dứt chiến tranh
giữa hai nước Kosala và Magadha, vua Ajatasattu cũng không còn gặp gỡ đại đức
Devadatta. Vua cũng không có liên lạc nào giáo đoàn khất sĩ của Bụt. Vua chỉ
thân cận với các vị lãnh đạo của những giáo phái khác. Tuy vậy giáo đoàn khất
sĩ vẫn được tiếp tục hành đạo một cách yên ổn. Dân chúng cũng như các vị khất
sĩ rất mong ước được Bụt trở về. Núi Linh Thứu và tu viện Trúc Lâm vẫn còn chờ
đợi Bụt. Y sĩ Jivaka cũng rất tha thiết mong Bụt trở về.
Mùa lạnh
năm ấy hoàng hậu Mallika băng. Vua Pasenadi buồn quá, tìm tới Bụt để được an
ủi. Hoàng hậu là một người bạn đời rất xứng đáng của vua và đã được vua thương
yêu hết lòng. Hoàng hậu là một người theo Bụt thuần kính, thông minh, sáng
suốt, thông hiểu giáo pháp một cách sâu xa. Ngay trước khi vua được gặp Bụt và
tin Bụt, bà đã khuyên vua hành động cho phù hợp chánh pháp. Có lần vì nằm mộng
thấy những điều quái gỡ, vua Pasenadi nghĩ rằng sẽ có những việc rủi ro xảy đến
cho mình. Tin vào các vị Bà la môn và đạo sĩ ngoại đạo, vua đã cho chuẩn bị tổ
chức tế đàn, sát hại trâu bò để cầu thân linh phù hộ. Chính hoàng hậu đã can
gián vua, thuyết phục vua hủy bỏ dự án thiết lập tế đàn. Hoàng hậu còn tham dự
và bàn bạc về cả chính sự và soi sáng cho vua rất nhiều trong lúc vua đi tìm
những quyết định có liên hệ tới vận mạng của đất nước. Hoàng hậu là một trong
những nữ đệ tử tại gia xuất sắc của Bụt. Bà rất ham học hỏi về giáo lý. Bà có
thành lập một công viên với một hàng rào cây tinduka bao quanh, có hội trường
để tham cứu về giáo pháp. Bà đã có mời Bụt và các cao đức tới hội trường này để
thuyết pháp và hướng dẫn những cuộc thảo luận. Công viên này cũng mở cửa cho
những vị lãnh đạo các giáo phái khác.
Đau khổ
vì bị mất người bạn đời đã bốn mươi mấy năm sống chung, vua tìm đến Bụt. Ngồi
yên lặng thật lâu bên Bụt, vua cảm thấy tâm hồn an tịnh trở lại. Vua nghe lời
Bụt để thêm thì giờ vào việc tu tập thiền quán. Bụt nhắc lại lời vua nói trước
đây là khi tuổi về già, mình phải tinh cần sống đúng theo chánh pháp và tạo
hạnh phúc cho mọi người. Bụt khuyên vua tìm cách cải thiện guồng máy tư pháp và
kinh tế. Người nói những hành phạt như đánh đập, tra tấn, giam cầm và tử hình
không phải là biện pháp có hiệu lực nhất để ngăn chận trộm cướp. Gặp thời đói
kém và loạn lạc, những vụ trộm cướp và bạo động tự nhiên tăng lên bội phần, vì
vậy chánh sách an dân và giúp dân xây dựng lại kinh tế là chánh sách căn bản.
Những biện pháp cần làm là cấp thực phẩm, lúa giống và phân bón cho nông dân
nghèo để họ có thể sinh sống và sản xuất, cấp vốn cho nhà buôn, tăng lương bỗng
cho công tư chức, miễn thuế cho dân nghèo, phế bỏ phương pháp đe dọa, bắt buộc
và đàn áp người lao công, cho họ chọn làm những nghề mà họ thật sự ưa thích,
tạo cơ hội và phương tiện cho họ được hành những nghề ấy. Bụt nói chánh sách
kinh tế phải là một chánh sách tự nguyện. Những lời dạy về chính trị này, nhờ
ngồi bên Bụt, hôm ấy đại đức Ananda đã được nghe. Đại đức đã trùng tuyên lại
những ý này trong kinh Kutadanta.
Một buổi
chiều tại tu viện lộc Mẫu, đại đức Ananda thấy Bụt xoay lưng về phía mặt trời,
đại đức không hiểu tại sao, bởi vì Thế Tôn thường ưa nhìn cảnh mặt trời khuất
bóng, đại đức tới gần và hỏi Bụt. Bụt nói Bụt đứng như thế để cho ánh sáng mặt
trời sưởi ấm lưng người. Đại đức lấy tay xoa lưng Bụt một hồi lâu cho ấm, rồi
đại đức mời Bụt ngồi xuống ghế tre và xoa bóp hai chân cho Bụt.
Vừa xoa
bóp, đại đức vừa nói:
- Thế
Tôn, con đã được làm thị giả cho Thế Tôn mươì lăm năm nay, con nhớ những năm
trước, nước da của người còn vàng ánh và óng mướt, nay da Thế Tôn đã nhăn và
những bắp thịt nơi chân Thế Tôn đã teo lại rất nhiều, những lóng xương lộ ra
rất rõ.
Bụt
cười:
- Sống
lâu thì già, có sao đâu Ananda! Mắt và tai của Như lai cũng không còn được tinh
nhuệ như trước. Ananda! Thầy có nhớ núi Thứu và những khóm tre ở tu viện Trúc
Lâm không? Thầy có muốn về leo lên núi Thứu để nhìn cảnh mặt trời khuất bóng
không?
- Lạy
Bụt, nếu Bụt muốn về Linh Thứu, con xin đi theo hầu người.
Mùa nóng
năm ấy Bụt lên đường trở về thủ đô nước Magadha. Người đi thong thả: lộ trình
được chia ra nhiều chặng. Người ghé thăm những trung tâm tu học, dạy dỗ giới
xuất gia, thuyết pháp và nhắc nhở giới tại gia. Người đi qua nội địa các vương
quốc Sakya, Malla, Videha, Vajji, và cuối cùng vượt sông Hằng qua nước Magadha.
Trước khi về thủ đô, người ghé thăm trung tâm tu học tại Nalanda.
Tu viện
Trúc Lâm và núi Linh Thứu vui như ngày hội khi Bụt về tới. Dân chúng thủ đô và
các miền lân cận đổ xô về thăm Bụt rất đông. Cả một tháng sau khi Bụt về tới, y
sĩ Jivaka mới có dịp mời được Bụt về vườn Xoài của ông. Tại vườn Xoài xanh mát
này, y sĩ đã dựng được một giảng đường lớn đủ chỗ cho Bụt nói chuyện vớí khoảng
một ngàn vị khất sĩ.
Ngồi
trước tịnh thất của người tại vườn Xoài, Bụt nghe Jivaka kể lại những chuyện đã
xảy ra trong triều đình và vương quốc. Ông nói hiện thái hậu Videhi đã tìm lại
được nếp sống an tĩnh. Bà ăn chay, tập thiền, quán niệm về Tam Bảo một cách
thường xuyên Vua Ajatasattu đang bị khủng hoảng tâm lý trầm trọng, bị ám ảnh
bởi cái chết của thượng hoàng, bị lương tâm cắn rứt ngày đêm, vua sinh ra mất
ngủ. Thần kinh của vua suy nhược; vua hay mất bình tĩnh và thường nằm mơ thấy
những ác mộng, tỉnh dậy mồ hôi tháo chạy dầm dìa. Y sĩ đã đến chữa trị cho vua
gần nửa năm nay, nhưng tâm bệnh của vua vẫn còn là nguồn gốc của nhiều biến
chứng khác.
Vua đã
vời những vị đạo sĩ thuộc các giáo phái tới để tham vấn và chữa trị tâm bệnh
cho vua, nhưng không có vị nào đã giúp được gì. Những vị này thuộc về các giáo
phái Makkali Gosala, Ajita Kosakambali, Pakudha Kaccayana, Nigantha Nataputta
và cả Sanjaya Belatthiputa nữa. Vị nào cũng muốn làm vừa lòng vua để giáo phái
mình được thừa hưởng ân huệ nhưng không vị nào thành công.
Có một
hôm, vua vời thái hậu vào ăn cơm chung với hoàng hậu và thái tử Udayibhadda.
Thái tử Udayibhadda chưa đầy ba tuổi, nhưng tính tình đã khó khăn và không điềm
đạm chút nào. Vua thương yêu thái tử rất mực, thái tử đòi gì được nấy. Hôm đó
thái tử đòi đem con chó vào bàn ăn chung, Đây là một điều cấm kỵ, nhưng vì
chiều con, vua đã cho phép thái tử đem chó vào.
Trong
bữa ăn, hơi ngượng với thái hậu, vua nói:
- Đem
chó vào bàn ăn thật không dễ chịu tí nào.
Thái hậu
nói:
- Con
thương con của con, cho nên con để nó đem chó vào ngồi chung, điều này có gì là
lạ. Con nhớ ngày xưa cha con vì thương con mà mà hút máu mủ trong tay của con
không?
- Con
không nhớ, xin thái hậu kể lại cho con nghe.
- Một
hôm, ngón tay trỏ của con bị đau và sưng vù lên. Một cái nhọt đã mọc ngay dưới
móng tay, làm nhức nhối khiến con khóc suốt ngày đêm. Không có đêm nào con ngủ
được, cha và mẹ của con cũng không tài nào nhắm mắt.
Cha con
ẵm con để lên đầu gối, ngậm ngón tay đau của con trong miệng để chuyền hơi ấm
qua, một mặt để con đỡ đau, một mặt để cái nhọt nhờ sức ấm mà cương mủ sớm. Như
thế trong suốt bốn ngày đêm, khi cái nhọt đã cương mủ, và mủ đã chín, cha con
mới bắt đầu mút cho mủ thoát ra khỏi ngón tay.
Nhờ vậy
mà con lành bệnh, cha con mút hết mủ và máu độc rồi, nhưng không dám rút tay
con ra sợ con bị rát. Cha con cứ giữ mủ và máu trong miệng như thế cho đến khi
không chịu nổi thì cha con nuốt máu và mủ cho con đỡ rát. Mẹ nói như vậy để con
biết ngày xưa cha con thương con như thế nào. Bây giờ con thương của con, cho
nó đem chó vào bàn ăn, điều đó mẹ hiểu, mẹ có trách gì con đâu.
Nghe
thái hậu kể, vua ôm đầu chạy vào cung, bỏ cả bữa ăn. Từ đó tâm bệnh càng ngày
càng nặng.
Jivata
tới chữa trị cho vua, nghe vua kể đủ mọi thứ chuyện, kể cả chuyện tham vấn với
các vị Bà la môn và đạo sĩ, nhưng Jivaka vẫn không nói gì.
Vua hỏi:
-
Jivaka, tại sao anh không nói gì hết?
Jivaka
tâu:
- Tôi
chỉ muốn nói với bệ hạ một điều mà thôi, tôi nghĩ chỉ có sa môn Gotama mới giúp
được bệ hạ cởi bỏ được những khổ đau ẩn ức trong tâm.
Bệ hạ
nên tìm tới Bụt để được người chỉ dạy.
Vua im
lặng, một lát sau, vua nói:
- Trẫm sợ
sa môn Gotama còn thù ghét trẫm.
- Bệ hạ
đừng nói thế, sa môn Gotama không hề thù ghét ai cả, Bụt là thầy của thượng
hoàng, và cũng là người bạn thân thiết nhất của thượng hoàng, bệ hạ tới vớí Bụt
thì cũng như tới với thượng hoàng vậy. Bệ hạ tới với Bụt để tìm lại sự an ổn
trong tâm hồn và cũng là để hàn gắn lại những gì đã đổ võ trong quá khứ, tài y
khoa của tôi không bằng được một phần triệu tài chữa trị của Bụt, Bụt không
phải là một ông thầy thuốc mà là vua của những ông thầy thuốc. Có người đã gọi Bụt
là y vương.
Sau cuộc
đàm đạo đó, vua đã chấp nhận việc đi thăm Bụt.
Y sĩ
Jivaka xin Bụt nghỉ ngơi trên núi ít tháng và đi thăm hỏi các trung tâm tu học
trong vùng. Y sĩ mong ước sẽ được thỉnh Bụt về vườn Xoài an trú một tháng trong
mùa nóng.
Chính trong
vườn Xoài của ông mà y sĩ Jivaka đã sắp đặt cuộc gặp gỡ giữa vua và Bụt. Lần
đầu vua ngự giá tới Bụt là vào một đêm trăng. Vua cùng đi với hoàng gia và các
cung phi mỹ nữ, có quân lính đi hộ tống. Đi gần tới chỗ Bụt, bỗng nhiên vua
phát ra sợ hãi, tóc gáy dựng ngược, vua cảm thấy cảnh tượng an tĩnh quá, Jivaka
đã nói Bụt ở chung với gần một ngàn vị khất sĩ, vậy mà tại sao khung cảnh quá
im lặng như thế này? Vua sợ bị người ta lừa vua tới để đánh úp. Vua hỏi Jivaka
có phải là y sĩ đang lừa vua đi vào chỗ hiểm địa của kẻ thù không? Jivaka cười
ngất. Ông chỉ cho vua một ngôi nhà có cửa sổ tròn, từ đó có ánh sáng phát ra.
Ông nói: Bụt hiện đang ngồi trong giảng đường với các vị khất sĩ.
Vua
xuống voi, đi với Jivaka và những người hộ vệ, đuốc thắp sáng trưng, vào tới
cổng giảng đường, Jivaka chỉ cho vua thấy một người đang ngồi trên pháp tòa,
dựa lưng vào cột nhà chính giữa, trước mặt tòa các vị khất sĩ đang trang nghiêm
ngồi. Jivaka nói: Bụt là người ngồi chính giữa đó.
Vua rất
làm cảm phục. Gần một ngàn người ngồi mà im lặng không có một tiếng động nào,
cảnh tượng trang nghiêm quá đổi. Ngày xưa vua đã từng thấy Bụt trong cung,
nhưng đã có bao giờ vua tới tu viện để gặp Bụt và nghe thuyết pháp đâu?
Bụt mời
vua và hoàng gia ngồi. Thái hậu Videhi cũng có mặt đêm ấy. Vua lên tiếng hỏi
Bụt:
- Trẫm
chỉ được nghe Thế Tôn giảng đạo có một lần ỏ hoàng cung hồi trẫm còn nhỏ. Thế
Tôn, hôm nay trẫm muốn hỏi Thế Tôn câu hỏi này: tu hành không biết có kết quả
gì không mà trẫm thấy hàng ngàn, hàng chục ngàn, có khi cả hàng vạn người bỏ
nhà đi tu như thế?
Bụt hỏi
vua đã hỏi ai câu ấy chưa. Vua trả lời là vua đã hỏi nhiều vị chức sắc lớn
trong các giáo phái, nhưng chưa có câu trả lời nào làm vua vừa ý cả, kể cả câu
trả lời của đại đức Devadatta.
Bụt nói:
- Đại
vương, hôm nay Như lai sẽ nói cho đại vương nghe về những hoa trái của sự tu
học trong đạo pháp này, những hoa trái có thể thấy được trong hiện tại và những
hoa trái sẽ hái gặt được trong tương lai. Đại vương sẽ không cần đi vào các ngõ
ngách của lý luận: đại vương chỉ cần nhận xét cho tinh tường thì đã có thể thấy
được những hoa trái cấy của sự tu học, rõ ràng như thấy trái xoài để trên một
bàn tay.
Đại
vương, ví dụ một người nọ đang làm tôi tớ cho người ta, thức khuya dậy sớm hầu
hạ và làm theo mệnh lệnh của chủ, một hôm bỗng có tư tưởng như sau: chủ là
người, mình cũng là người, tại sao mình phải đày đọa mình như thế này? Nghĩ như
thế, người ấy từ bỏ thân phận tôi đòi, xin được xuất gia tu đạo, đi vào chánh
pháp, sống theo nếp sống phạm hạnh, tinh cần, tỉnh thức, ăn ngày một bữa, tập
thiền hành, thiền tọa, đi đứng trang nghiêm, trở nên một vị khất sĩ có uy nghi,
có dung hạnh, có đạo đức. Đại vương nghĩ sao?
Biết
được vị khất sĩ ấy ngày xưa vốn là thân phận tôi đòi, đại vương có gọi người ấy
tới và nói: “Này người kia, hãy lại đây, hãy làm nô bộc cho ta, hãy thức khuya,
dậy sớm và thi hành mọi mệnh lệnh của ta” hay không?
Vua nói:
- Thế
Tôn, trẫm sẽ không làm như vậy, sẽ không nói như vậy, trái lại trẫm sẽ cung
kính làm lễ người ấy, mời người ấy xuống để cúng dường, và sẽ ra lệnh bảo vệ
cho người ấy đúng theo luật pháp?
Bụt nói:
- Đại
vương, đó là hoa trái đầu tiên mà người sa môn khất sĩ gặt hái, người ấy thoát
được sự kỳ thị giai cấp, kỳ thị chủng tộc, kỳ thị giàu nghèo, và khôi phục được
phẩm cách của một con người.
Vua nói:
- Hay
lắm, Thế Tôn! Xin người dạy thêm.
Bụt nói:
- Đại
vương, nhân phẫm tuy vậy chỉ là những hoa trái đầu. Vị khất sĩ nhờ hành trì hai
trăm mươi giới mà được an trú trong một trạng thái vô ưu và thanh tịnh. Những
người không giữ giới có thể phạm vào các tội lỗi như giết người, trộm cắp, tà
dâm, dối gạt, say sưa và tự đưa mình tới những hình phạt đớn đau về thân thể
cũng như về tâm thần. Vị sa môn khất sĩ không những hành trì năm giới, không
sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không dối gạt, không say sưa, mà còn
hành trì trên hai trăm giới khác, vì vậy vị ấy sống trong một trạng thái thật
an ninh, thật nhẹ nhõm, trạng thái mà những người không giữ giới không thể nào
có được. Giới luật ngăn ngừa không để cho ta rơi rớt vào lỗi lầm, đem lại cho
ta một trạng thái an ninh và nhẹ nhõm. Đó là một loại hoa trái khác của sự tu
học, có thể gặt hái ngay trong thời gian hiện tại.
Vua nói:
- Hay
lắm! Thế Tôn, Xin người dạy tiếp cho!
Bụt nói:
- Đại
vương, vị sa môn khất sĩ không có gì ngoài ra ba chiếc áo ca sa và một chiếc
bình bát. Người ấy không gây thù oán, không sợ ai ban đêm tới hành thích mình.
Vị ấy có thể ngủ một mình trong rừng, dưới một gốc cây, thanh thản, vô ưu, lặng
lẽ. Không sợ hãi là một niềm hạnh phúc lớn. Đó là một loại hoa trái khác của sự
tu học, có thể gặt hái ngay trong thời gian hiện tại.
Vua rùng
mình, rồi vua nói:
- Hay
lắm, Thế Tôn! Xin người dạy tiếp cho trẫm.
Bụt nói:
- Đại
vương, vị sa môn khất sĩ sống đơn giản tới mức tối đa, mỗi ngày chỉ ăn một bữa,
bình bát một chiếc nhưng cơm ngàn nhà, không nghĩ đến chuyện làm giàu, không
chạy theo danh vọng, không tích trữ, không tom góp, sống đúng theo phép tri
túc, và không chạy theo một tham vọng hay một ước muốn nào. Sự thảnh thơi là
một niềm hạnh phúc lớn. Đó là cũng là một loại hoa trái của sự tu học, có thể
gặt hái ngay trong giờ phút hiện tại.
Vua nói:
- Hay
lắm, Thế Tôn! Kính xin người dạy tiếp cho trẫm.
Bụt nói:
- Đại
vương! Nếu đại vương biết quán niệm hơi thở, biết thực tập thiền quán thì đại
vương mới có được ý niệm về hạnh phúc của người tu. Hạnh phúc đó là thiền
duyệt. Vị sa môn khất sĩ biết giữ gìn sáu căn của cảm giác, biết đối trị lại
năm loại trở lực của tâm ý là tham dục, sân hận, hôn trầm, trạo cử và nghi ngờ;
trong khi sử dụng phép quán niệm hơi thở để thực tập thiền quán, vị ấy làm phát
sinh những trạng thái hỷ và lạc trong thân tâm mình để nuôi dưỡng thân tâm và
đi tới trên con đường ngộ đạo, những cảm giác dễ chịu do ngũ dục đem đến không
thể nào bì kịp với thứ hỷ lạc do thiền định thực hiện. Hỷ và lạc này thấm nhuần
thân tâm, trị lành tất cả những âu lo, sầu khổ, thất vọng, đưa người hành giả
tiếp xúc với những gì mầu nhiệm nhất của thực tại. Đại vương, đây là một loại
hoa trái quan trọng của sự tu học, loại hoa trái này cũng có thể gặt hái được ngay
trong giờ phút hiện tại.
Vua nói:
- Hay
lắm, Thế Tôn! Xin người cứ dạy tiếp cho trẫm.
Bụt nói:
- Đại
vương! Vị sa môn khất sĩ nhờ an trú tinh cần trong giới luật và chánh niệm mà
có định tâm, lấy định tâm ấy mà quán chiếu vạn pháp trên thế gian.
Nhờ quán
chiếu mà vị sa môn khất sĩ thấy được tính cách vô thường và vô ngã của vạn
pháp. Nhờ thấy được tự tính vô thường và vô ngã của vạn pháp nên vị sa môn khất
sĩ không bị tham đắm vào bất cứ pháp nào va không bị bất cứ pháp nào trói buộc.
Vị sa môn khất sĩ nhờ đó cắt đứt được những sợi dây phiền não thường trói buộc
con người, đó là những sợi dây tham, sân, si, mạn, nghi, thân kiến, biên kiến,
tà kiến, kiến thủ kiến và giới cấm thủ kiến.
Cắt đứt
được những sợi dây phiền não ấy rồi, vị sa môn khất sĩ đạt tới trạng thái giải
thoát, thảnh thơi. Đại vương! Giải thoát là một hạnh phúc lớn một loại hoa trái
lớn nhất của sự tu học. Đại vương! Trong số những vị khất sĩ ngồi ngay trong
thính chúng đây, có vị đã chứng đắc được thứ hoa trái đó.
Hoa trái
này, đại vương, cũng có thể gặt hái được ngay trong kiếp hiện tại.
Vua nói:
- Hay
lắm, Thế Tôn! Xin người tiếp tục dạy dỗ cho trẫm.
Bụt nói:
- Đại
vương! Vị sa môn khất sĩ nhờ quán chiếu về tự tính của vạn pháp thấy sâu vào
trong tự tính ấy và biết rằng các pháp là không sinh, không diệt, không dơ,
không sạch, không thêm, không bớt, không một, không nhiều, không đến, không đi.
Vị sa môn khất sĩ do đó đạt được cái thấy thanh tịnh, không phân biệt, nhìn vạn
pháp trong thế gian bằng con mắt tuyệt đối bình tĩnh, không sợ hãi, không lo
lắng, cỡi trên sóng sinh tử mà đi vào cuộc đời để cứu độ cho chúng sanh, chỉ
bày cho chúng sanh con đường chánh pháp để chúng sanh cũng được nếm hương vị
của giải thoát, của vô ưu và của hỷ lạc.
Đại
vương! Được giúp đỡ người khác, được dắt dẫn người khác ra khỏi vũng lầy của
tham vọng, hận thù và si mê, đó là một niềm vui lớn. Niềm vui này là một loại
hoa trái rất đẹp đẽ của sự tu học, có thể thực hiện ít ra là một phần nào đó
trong hiện tại và sẽ tiếp tục được thực hiện trong tương lai. Đại vương! Các vị
khất sĩ trong những tiếp xúc hàng ngày với dân chúng, có nhiệm vụ hướng dẫn dân
chúng đi trên con đường đạo đức và giải thoát. Đại vương! Các vị khất sĩ tuy
không làm chánh trị nhưng cũng đóng góp vào công trình xây dựng an lạc và đạo đức
cho xã hội. Hoa trái của sự tu học không phải là để riêng cho người sa môn tu
sĩ hưởng thụ mà là gia tài của cả quốc gia và nhân loại.
Vua đứng
dậy, chắp hai tay lại một cách cung kính, vua bạch:
- Vi
diệu thay, Thế Tôn! Bằng những lời đơn giản, Thế Tôn đã soi sáng cho trẫm đã
giúp trẫm thấy được giá trị chân thật của chánh pháp. Thế Tôn đã dựng lại những
gì đã ngã xuống, phơi bày ra những gì đã bị che kín, chỉ đường cho những kẻ lạc
hướng, đem ánh sáng rọi vào nơi tối tăm. Xin Thế Tôn nhận cho con làm đệ tử của
người, cũng như ngày xưa Thế Tôn đã nhận phụ hoàng và mẫu hậu con làm đệ tử của
Thế Tôn, và vua lạy xuống.
Bụt mỉm
cười, chấp nhận lời thỉnh cầu của vua. Người bảo đại đức Sariputta dạy cho vua
và hoàng hậu đọc ba lời quay về nương tựa. Lễ quy y xong, vua nói:
- Bây
giờ trời đã khuya, chúng con xin phép Thế Tôn để trở về cung an nghỉ.
Sáng mai
chúng con sẽ phải có buổi chầu rất sớm.
Bụt dạy:
- Đại
vương hãy làm những gì đại vương nghĩ là phải làm.
Tuy buổi
gặp gỡ này giữa vua và Bụt không phải là một buổi gặp gỡ riêng tư, và Bụt giảng
kinh Sa môn quả không phải chỉ để cho vua nghe mà cũng là để cho tất cả các vị
khất sĩ có mặt đêm ấy, nhưng sau buổi đó, bệnh tình của đã thuyên giảm đi quá
nửa. Đêm ấy vua nằm mơ thấy thượng hoàng nhìn vua mỉm cười, vua có cảm tưởng đã
nối lại được một cái gì đã gãy, dựng lên được một cái gì đã ngã xuống. Buổi gặp
gỡ đã làm đẹp lòng vua mà cũng làm đẹp lòng dân chúng.
Sau lần
gặp gỡ đó, vua thường đến thăm Bụt mà không cần qua sự sắp đặt của y sĩ Jivaka
nữa. Vua cũng không đem theo voi ngựa và binh sĩ hộ tống.
Vua cũng
đã trèo những bậc đá để lên núi Linh Thứu như vua Bimbisara ngày xưa. Trong
những buổi gặp gỡ riêng với Bụt, vua đã có dịp thố lộ tâm tình và sám hối với
Bụt về những tội lỗi của vua trong quá khứ. Bụt đối với vua ngọt ngào như đối
với một đứa con của người, Bụt khuyên vua nên dùng người có đạo đức trong giới
quần thần và cố vấn.
Cuối mùa
an cư năm ấy, y sĩ Jivaka xin Bụt được xuất gia. Ông được Bụt ban cho pháp danh
là Vimala Kondanna.
---o0o---
Chương 77
SINH TỬ LÀ HOA ĐỐM GIỮA HƯ KHÔNG
Mùa an
cư hoàn mãn, Bụt cùng Ananda đi hành hóa khắp nơi ở trong xứ Magadha. Những
chốn non xanh nước Bụt đều có tới, nhưng không có nơi nào người không dừng lại
để thăm viếng các trung tâm tu học để dạy dỗ và khích kệ các vị khất sĩ và nói
pháp thoại cho giới của sĩ. Đại đức Ananda thường được Bụt chỉ cho thấy những
cảnh tượng đẹp đẽ. Đại đức vốn ít để ý đến phong cảnh vì tâm trí mãi lo cho
Bụt, Bụt biết như thế nên thường nhắc thầy.
Đại đức
nhớ lại trong suốt gần hai mươi năm làm thị giả cho Bụt, Bụt đã chỉ cho thầy
xem biết bao nhiêu là cảnh đẹp. Người hay nói: “Nhìn đi, Ananda, núi Thứu đẹp
biết bao, khả ái biết bao!”, “Này Ananda, động Saptapanni đẹp quá!”, “Này
Ananda, Trúc Lâm tu viện dễ thương biết bao!”. Có một lần đứng trên đồi, Bụt đã
chỉ cho Ananda thấy những thửa ruộng chín vàng bao bọc những bờ cỏ xanh. Người
khen cảnh ấy đẹp và bảo đại đức nên phỏng theo mô thức ấy để may áo phước điền
sanghati cho các vị khất sĩ. Ananda thấy rõ rằng qua Bụt là người tu biết
thưởng thức những gì hay và đẹp, nhưng không vướng mắc vào bất cứ một cái đẹp
hay cái xấu nào.
Mùa mưa
năm sau, Bụt về tu viện Jetavana an cư. Vua Pasenadi đi du hành mãi tới giữa
mùa an cư mới về. Về tới kinh đô, biết Bụt hiện đang an cư, vua liền đến thăm
Bụt.
Vua nói
với là Bụt là vì tuổi đã lớn, vua không ưa ở hoài trong cung điện.
Vua ưa
đi đây đi đó để thấy được những cảnh đẹp của thiên nhiên. Giao công việc cho
các quan đại thần, vua đi rong chơi, đem theo một đoàn tùy tùng nhỏ. Không những
vua đi du ngoạn ở những nơi trong nước, vua còn đi rong chơi ở các nước ngoài,
không phải với tư cách một vị quốc vương cần phải được tiếp đón quốc lễ mà với
tư cách một kẻ hành hương. Vua đi dạo chơi mà cũng như để thực tập thiền hành.
Bỏ ra ngoài mọi ưu tư, vua bước từng bước thanh thản và chú ý đến cảnh vật. Vua
nói những cuộc du ngoạn như vậy làm ấm lòng vua.
- Thế
Tôn, trẫm năm nay đã bảy mươi tám tuổi. Thế Tôn cũng vậy. Trẫm nghe nói Thế Tôn
gần đây cũng ưa đi du sơn ngoạn thủy. Trẫm cũng lớn tuổi như Thế Tôn nhưng trẫm
không làm được lợi gì cho ai, còn Thế Tôn, thì đi đâu cũng dạy dỗ và hướng dẫn
cho mọi người tu học. Thế Tôn đến đâu là như mặt trời chiếu sáng đến đó.
Rồi vua
tâm sự với Bụt về một nổi đau thầm kín của vua. Số là trong một cuộc âm mư đảo
chánh xảy ra tại kinh đô bảy năm về trước, vua đã kết tội lầm vị tổng tư lẹnh
quân đội hoàng gia là tướng Bandhula và đã xử tử ông.
Mấy năm
sau vua mới biết là mình lầm. Vu ahối hận lắm. Vua đã tìm mọi cách để phục hồi
danh dự cho tướng Bandhula và đã bồi thường cho gia đình ông, vua cũng đã cất
nhắc cháu của ông là tướng Karayana lên chức tổng tư lệnh quân đội hoàng gia.
Có Bụt
an cư tại thủ đô, vua đến tu viện Jetavana hầu như mỗi ngày để hoặc nghe thuyết
pháp hoặc tham dự vào những cuộc pháp đàm hoặc được ngồi im lặng với Bụt. Mãn
mùa an cư, Bụt lại lên đường du hóa và vua cũng cùng đoàn tùy tùng của vua đi
rong chơi khắp chốn, gọi là đi tuần thú.
Năm sau,
cuối mùa an cư, Bụt đi lên xứ Kuru. Sau khi ở đó hai tháng, Bụt lại theo bờ
sông đi xuống Kosali, về Banarasi, ghé Vesali, rồi lại đi lên miền Bắc. Một hôm
nọ, đang cư trú hành đạo tại quận lỵ Medalumpa, một quận lỵ nhỏ trong vương
quốc Sakya quê hương của mình, Bụt tình cờ gặp vua Pasenadi.
Lần này
vua đi du hành có đem theo thái tử Vedudabha và tướng Karayana theo. Vua muốn
làm vui lòng vị cận thần mà ngày xưa vì lỗi lầm vua đã kết tội một cách oan
uổng người bác của ông ta. Đang đi du sơn ngoạn thủy vua chợt nhớ Bụt, và hỏi
thăm không biết Bụt hiện giờ ở đâu. Người ta cho vua biết là Bụt dang hành đạo
ở quận Medalumpa, Medalumpa chỉ cách Nagaraka nơi vua đang du ngoạn chỉ chừng
nửa ngày đường. Mừng quá, vua bảo Karayana thắng xe đưa vua tới thăm Bụt. Đoàn
tùy tùng của vua chỉ dem theo có bốn chiếc xe. Tới Medalumpa, vua hỏi thăm, và
biết được Bụt đang cư trú trong công viên quận lỵ. Xa giá của vua đậu lại ngoài
cổng. Để đoàn tùy tùng ở lại bên ngoài, vua bảo tướng Karayana cùng đi với vua
vào công viên. Thấy bóng các vị khất sĩ áo vàng qua lại, vua tìm tới một vị gần
nhất và hỏi thăm Bụt ở đâu, vị khất sĩ chỉ cho vua một ngôi nhà ẩn dưới bóng
cây bóng lá và nói:
- Tâu
hoàng thượng, Bụt đang ở trong ngôi nhà đó, cửa đóng, hoàng thượng cứ thong thả
đi tới đấy, rồi hoàng thượng ho lên một tiếng, và gõ hai tiếng.
Thế nào
đức Thế Tôn cũng mở cửa rước hoàng thượng vào.
Vua cởi
thanh gươm và tháo vương miện xuống trao cho vị tướng lãnh, bảo ông ta trở lại
với đoàn tùy tùng để đợi mình. Rồi vua một mình tiến về ngôi nhà nơi Bụt ở, Tới
trước cửa, vua đằng hắng và ho lên một tiếng. Chưa kịp gõ cửa thì cửa đã mở.
Bụt mừng rỡ khi thấy vua. Người cầm tay dắt vua vào trong nhà. Hai đại đức
Ananda và Sariputta hiện có mặt để hầu chuyện với Bụt trong tịnh thất cũng đứng
dậy chào vua.
Bụt mời
vua ngồi trên một chiếc ghế, rồi tự mình ngồi xuống trên chiếc ghế đối diện.
Hai vị đại đức đứng hầu sau lưng Bụt. Vừa ngồi xuống vua đã đứng dậy. Vua lạy
xuống dưới đất và ôm hôn hai bàn chân của Bụt. Vua quỳ trong tư thế ấy thật
lâu, hai tay vuốt ve bàn chân của Bụt, miệng nói:
- Thế
Tôn, trẫm là Pasenadi vua nước Kosala, trẫm xin kính làm lễ Thế Tôn.
Trẫm là
Pasenadi vua nước Kosala, trẫm kính xin làm lễ Thế Tôn.
Bụt đỡ
vua dậy. Người mời vua ngồi lại một lần nữa xuống ghế, rồi người nói:
- Đại
vương, sao hôm nay đại vương lại lễ lạy cung kính quá đáng như thế?
Chúng ta
không phải là một đôi bạn thân thiết hay sao?
Vua nói:
- Thế
Tôn, con có một vài điều mà con muốn tự miệng con nói ra để Thế Tôn nghe, con
sợ không có dịp.
Bụt dịu
dàng:
- Điều
gì, xin đại vương cứ nói.
- Thế
Tôn, con hoàn toàn tin tưởng nơi Thế Tôn, bậc toàn giác, con hoàn toàn tin
tưởng nơi giáo pháp của Bụt và nơi giáo đoàn khất sĩ của người.
Con đã
từng thấy và gặp những tu sĩ Bà la môn và các đạo sĩ các giáo phái: họ có thể
tu hành đứng đắn, có khi được mười, hai mươi, ba mươi hay bốn mươi năm, nhưng
sau đó con lại thấy họ bỏ cuộc và đi vào nếp sống ngũ dục. Ở trong đạo pháp của
Thế Tôn, con thấy các vị khất sĩ hầu hết đều tu phạm hạnh cho đến trọn đời.
Thế Tôn,
con từng thấy vua chống đối vua chúa, tướng sĩ âm mưu chống tướng sĩ, Bà la môn
chống Bà la môn, vợ cãi cọ với chồng, con cãi cọ với cha, anh cãi cọ với em, bè
bạn cãi cọ với bè bạn. Ở đây con thấy các vị khất sĩ sống trong hòa kính, an
vui, hợp nhau như nước với sữa. Con không thấy ở đâu có được cái thương yêu và
hòa điệu như trong giáo đoàn của người.
Thế Tôn,
khắp nơi con đã từng thấy giới đạo sĩ dáng điệu khắc khổ, mặt mày ủ rủ, âu sầu
và lo lắng, nhưng ở đây, các vị khất sĩ luôn luôn tỉnh táo, tươi cười, vui vẻ,
thong dong và tươi mát. Thế Tôn, điều đó khiến con càng tin tưởng nơi Thế Tôn
và giáo pháp của người.
Thế Tôn,
con là vua thuộc dòng dõi chiến sĩ: con có quyền ra lệnh chém đầu hoặc giam cầm
hoặc trừng phạt bất cứ ai nếu con muốn, vậy mà khi con ngồi trong một buổi họp,
thiên hạ vẫn dám cướp lời con, dù con có nói: “Quý vị không được cướp lời
trẫm”, họ cũng vẫn quên và cướp lời con như thường, không đợi đến khi con phát
biểu hết ý kiến. Vậy mà con thấy ở đây, trong giáo đoàn người, có khi có cả
ngàn vị khất sĩ ngồi nghe Bụt nói mà con không nghe lấy một tiếng động nhỏ, dù
là tiếng đắng hắng hay tiếng sột soạt của y áo, đừng nói có ai dám cướp lời
Bụt. Thế Tôn, con nghĩ: Thật là mầu nhiệm, Bụt chẳng cần quyền uy, chẳng cần
gươm giáo, chảng cần trừng phạt gì mà người ta kính yêu Bụt một cách tuyệt đối.
Thế Tôn, điều này cũng làm cho con càng tin tưởng ở Thế Tôn và giao pháp của
người.
Thế Tôn,
con đã từng thấy và nghe giới trí thức và giới học giả lừng danh bàn bạc với
nhau để soạn sẵn những câu hỏi bí hiểm có thể làm cho Bụt lúng túng, nhưng khi
đến gặp Thế Tôn và nghe Thế Tôn thuyết pháp, họ cứ há miệng ra nghe để rồi tất
cả đều bị Thế Tôn chinh phục, đến nổi không có cơ hội và thì giờ để hỏi những
câu hỏi hóc búa của họ, những câu hỏi mà sau cuộc gặp gỡ với Thế Tôn họ thấy là
ngây thơ. Thế Tôn, điều này cũng là điều làm cho con có thêm tin tưởng nơi Thế
Tôn và giáo pháp của người.
Thế Tôn,
con nhớ là con từng có hai thợ mộc rất khéo tay tên là Isidata va Purana: họ
thường làm việc trong cung điện, và con là người cung cấp lương bỗng cho họ,
thế mà họ đâu có thưong kính con bằng thương kính Thế Tôn.
Có lần
con đem họ đi theo trong một chuyến hành tẩu phương xa, và đêm đó vì mưa gió mà
cả vua cả tôi đều phải ngủ trong một chiếc lều tranh nhỏ bé.
Gần suốt
đêm, hai người thợ mộc của con ngồi trao đổi với nhau về giáo pháp học được của
Thế Tôn và khi họ mỏi mệt, họ nằm xuống ngủ, đầu hướng về phía núi Linh Thứu và
chân họ lại xoay về phía con. Thế Tôn có cho họ lương bỗng gì đâu, thế mà họ
quý kính Thế Tôn hơn con nhiều lắm lắm. Thế Tôn, điều này khiến con lại càng
tin tưởng nơi Thế Tôn và giáo pháp của người.
Thế Tôn!
Người thuộc về giai cấp vua chúa, con cũng thuộc về giai cấp vua chúa. Người
năm nay đã bảy mươi chín, con năm nay cũng đã bảy mươi chín, vì vậy con nghĩ
đây là cơ hội quý báu để con tỏ lòng quy kính Bụt hết mức và để con bày tỏ niềm
tri kỷ giữa con và Bụt, bây giờ con xin từ tạ Bụt để con đi.
Bụt nói:
- Đại
vương, đại vương hãy trân trọng giữ gìn sức khỏe. Và Bụt đứng dậy đưa tiễn vua
ra cửa.
Lúc Bụt
trở vào, hai đại đức Ananda và Sariputta đứng dậy chắp tay im lặng.
Hai đại
đức đã chứng kiến từ đầu đến cuối buổi gặp gỡ này giữa Bụt và vua, Bụt nói:
-
Sariputta va Ananda! Quốc vương Pasenadi đã nói những lời chân thành nhất của
quốc vương đối với Tam Bảo. Các thầy nên ghi nhớ lấy để làm vững mạnh thêm đức
tin của những người hậu học.
Tháng
sau, Bụt lên đường về miền Nam. Đi chừng nửa tháng, người về đến núi Linh Thứu,
về tới núi Linh Thứu, Bụt nhận được hai tin buồn cùng một lúc: vua Pasenadi đã
băng và đại đức Moggallana đã bị những người thuộc giáo phái lõa hình ám sát
ngay tại cổng tu viện Trúc Lâm.
Quốc
vương Pasenadi đã băng không không ở thủ đô Savatthi mà ở Rajagaha, trong một
tình trạng không được xứng đáng lắm đối với một người như vua. Theo tin tức
nhận được thì sau cuộc viếng thăm Bụt ở quận lỵ Medalumpa, vua đã trở ra với
đoàn tùy tùng, nhưng khi ra tới cổng vua chỉ còn thấy có một chiếc xe và một
người cung phi ở lại. Hỏi ra thì ba chiếc xe kia đã trở về Savatthi dưới sự
cưỡng ép của tướng Karayana, đem theo vương miện, ấn tín và thanh gươm báu của
vua. Karayana bảo thái tử Vidudabha phải trở về ngay Savatthi để lên ngôi vua,
đừng để một người quá già yếu ngồi trên ngai mãi mãi. Thái tử dùng dằng chưa
chịu thì Karayana dọa rằng nếu thái không chịu về làm vua, ông ta sẽ về kinh
tuyên bố đảo chánh và tự xưng vương. Dưới áp lực ấy, thái tử Vidudabha đã phải
vâng lệnh.
Vua
quyết định đi về thành Rajagaha để cầu viện với cháu là quốc vương Ajatasattu.
Suốt quãng đường dài, vua chỉ uống nước mà không ăn gì được.
Về tới
Rajagah thì trời đã khuya và cửa thành đã đóng; vua phải vào nghỉ đêm trong một
trạm nghỉ công cộng. Đêm ấy vua lên cơn bạo bệnh và chết trong tay vị cung phi.
Người cung phi này than khóc như mưa như gió cho số phận của vị hoàng đế. Sáng
ngày, sau khi hay tin, vua Ajatasattu vội vã cho rước long thể vào cung và ra
lệnh tổ chức một lễ quốc táng long trọng cho người bác của mình. Tang lễ hoàn
mãn, vua định cử binh trị tội quốc vương Vidudabha, nhưng vua đã bị y sĩ Jivaka
can gián. Jivaka nói rằng dù sao quốc vương Pasenadi cũng đã băng hà và vua mới
bên nước Kosala cũng là anh em cô cậu của vua, có cử binh chinh phạt cũng không
đưa đến được một giải pháp nào khác. Nghe lời Jivaka, vua đã cử sứ thần qua
Savatthi để thừa nhận quốc vương mới.
Đại đức
Moggallana là vị đại đệ tử thứ ba của Bụt đứng sau Kondanna và Sariputta. Đệ tử
lớn của Bụt có nhiều nhưng nhiều vị đã tịch trước Bụt. Đại đức Kondanna, thủ
lĩnh của năm vị khất sĩ đầu tiên được nghe Bụt thuyết pháp tại vườn Lộc Uyển đã
tịch. Đại đức Uruvela Kassapa và hai người em cũng đã tịch. Ni trưởng
Mahajapati cũng đã viên tịch từ lâu. Ni sư Yasodhara và đại đức Rahula cũng đã
nối tiếp nhau viên tịch. Đại đức Rahula viên tịch năm đại đức được năm mươi mốt
tuổi. Đại đức Moggallana là một vị đại khất sĩ có rất nhiều dũng khí. Người là
kẻ phát ngôn bạo dạn và cương trực nhất của giáo đoàn khất sĩ. Khi cần phải
tuyên bố lập trường của giáo đoàn hoặc của giáo pháp, đại đức bao giờ cũng nói
thẳng, không khi nào chấp nhận sự thỏa hợp. Cũng vì lý do này mà trong giới
ngoại đạo có nhiều kẻ thù ghét đại đức. Hôm ấy đại đức cùng ra đi với hai vị đệ
tử, lên đường rất sớm. Bọn sát nhân có dự tính trước cho nên đã mai phục bên
ngoài tu viện. Họ xông ra tấn công khi thấy đại đức. Họ tấn công bằng gậy gộc.
Ba thầy trò tay không, không thể nào chống lại được họ, vì họ quá đông, và cũng
vì họ có khí giới trong tay. Hai vị đệ tử bị đánh văng ra ngoài.
Họ la
lên kêu cứu, nhưng không kịp nữa, đại đức đã bị bọn bất lương hạ sát, đại đức
hét lên một tiếng vang động cả rừng cây trước khi bị bọn chúng đập xuống những
hèo cuối cùng. Khi các thầy trong tu viện chạy ra thì bọn sát nhân đã tẩu thoát
hết. Hai vị đệ tử bị đả thương khá nặng. Khi Bụt về tới thì nhục thân của đại
đức đã được trà tỳ. Tro xương của đại đức đã được thu góp trong một chiếc bình
và đặt sẵn bên ngoài tịnh xá của Bụt.
Bụt hỏi
thăm đại đức Sariputta, các thầy cho biết là đại đức Sariputta đã đóng cửa am
thất từ ngày đại đức Moggallana bị ám sát. Ai cũng biết hai vị đại đức này thân
với nhau còn hơn anh em ruột, đối với nhau luôn luôn như hình với bóng, Bụt
chưa kịp nghỉ ngơi đã phải đi tìm đến am thất của Sariputta để an ủi đại đức.
Đại đức Ananda đi theo người, đại đức nghĩ chắc thế nào Bụt cũng đang buồn.
Không buồn sao được khi mất một lần hai vị đệ tử lớn: vua Pasenadi và đại đức
Moggallana. Bụt đi an ủi đại đức Sariputta, nhưng ai sẽ an ủi Bụt? Như để trả
lời câu hỏi thầm kín của đại đức Ananda, Bụt quay lại nhìn thầy rồi lên tiếng:
-
Ananda, ai cũng nói thầy học nhiều và ghi nhớ nhiều về chánh pháp. Thầy không
nên lấy sự học nhiều và nhớ nhiều làm đủ. Chăm sóc cho Như lai và lo lắng cho
giáo đoàn, điều đó tuy cần thiết nhưng cũng không đủ, thì giờ còn lại có là bao
lăm, thầy phải nổ lực để vượt thoát sinh tử. Thầy phải bình thản trước sinh tử,
thấy sinh tử như những hoa đốm giữa hư không.
Đại đức
Ananda cúi đầu, đi im lặng.
Ngày hôm
sau, Bụt xuống núi, đến tu viện Trúc Lâm. Người đề nghị vị trí để xây tháp kỷ
niệm đại đức Moggallana và để an trí xá lợi của đại đức này.
---o0o---
Chương 78
HAI NGÀN CHIẾC ÁO VÀNG TRÊN NÚI
Đường
Xưa Mây Trắng - THỨU Một buổi chiều nọ, khi Bụt đang đi thiền hành trên triền
núi, có hai người võng đại đức Devadatta lên. Đại đức Devadatta ốm nặng đã mấy
năm nay.
Đại đức
muốn thấy mặt Bụt trước khi qua đời. Hai người đang khiêng đại đức là hai người
trong số sáu người đệ tử còn sót lại. Trong thời gian ngọa bệnh trên núi
Gayasisa, không mấy ai đến thăm đại đức, kể cả những người đã ủng hộ đại đức
tích cực nhất ngày xưa. Suốt thời gian ấy, đại đức đã có nhiều cơ hội nghĩ lại
về những đắc thất và về giá trị của hành động mình.
Được báo
là có đại đức Devadatta lên và xin được gặp, Bụt liền trở về tịnh thất. Đại đức
yếu lắm, không ngồi dậy được. Đại đức cũng không nói được nhiều, đại đức chỉ
nhìn Bụt, cố gắng chắp tay lại: “Con về nương tựa Bụt", đại đức cố gắng
lắm mới nói được những tiếng đó.
Bụt để
tay lên trán Devadatta và an ủi đại đức.
Chiều
hôm ấy đại đức qua đời. Bây giờ là mùa nắng, trời trong xanh, Bụt đang sắp sửa
đi du hành thì có sứ giả của vua Ajatasattu tới. Sứ giả là quan đại thần
Vassakara, một người thuộc giai cấp Bà la môn. Ông được lệnh vua tới đảnh lễ
Bụt và cho Bụt biết chủ định của vua và triều thần muốn cử binh đi đánh nước
Vajji ở phía Bắc sông Hằng. Vua muốn được nghe phản ứng của Bụt và đã dặn vị
đại thần ghi nhớ tất cả những gì Bụt sẽ phát biểu về vấn đề này.
Trong
khi Bụt tiếp quan đại thần Vassakara, đại đức Ananda đứng sau lưng Bụt và quạt
cho người. Bụt xoay lại hỏi thầy:
- Này
đại đức Ananda, thầy có nghe dân chúng Vajji thường hay hội họp đông đảo để bàn
bạc chính sự không?
Đại đức
Ananda đáp:
- Thế
Tôn, con nghe nói dân Vajji rất chuyên cần hội họp và hội họp rất đông đảo để
đàm luận về chính sự.
- Vậy
thì nước Vajji vẫn còn cường thịnh. Ananda, thầy có có biết khi họ hội họp với
nhau, họ có bày tỏ sự hòa hợp đoàn kết và có một lòng một dạ với nhau không?
- Bạch
Thế Tôn, con nghe họ rất hòa hợp và đoàn kết với nhau.
- Vậy
thì chắc chắn nước Vajji vẫn còn rất cường thịnh. Ananda, dân Vajji có tôn
trọng và có sống đúng theo những pháp chế đã được ban hành không?
- Bạch
Thế Tôn, con nghe họ rất tôn trọng những pháp chế đã được ban hành.
- Vậy
thì chắc chắn nước Vajjvẫn còn cường thịnh. Ananda, dân Vajji có còn biết tôn
trọng và nghe lời những bậc tôn trưởng của họ không?
- Thế
Tôn, con nghe họ rất biết tôn trọng và nghe lời những bậc tôn trưởng của họ.
- Vậy
thì nước họ vẫn còn cường thịnh. Đại đức Ananda, thầy có nghe trong xứ của họ
có những vụ bạo động và hãm hiếp không?
- Bạch
Thế Tôn, những vụ bạo động và hãm hiếp ít bao giờ xảy ra ở xứ họ.
- Vậy
thì nước Vajji vẫn còn cường thịnh. Ananda, thầy có nghe dân Vajji còn biết bảo
vệ tông miếu của tổ tiên họ không?
- Bạch
Thế Tôn, con nghe họ vẫn còn biết bảo vệ tông miếu của tổ tiên họ.
- Vậy
thì Ananda, nước Vajjia vẫn còn cường thịnh. Thầy có nghe là dân Vajji biết tôn
kính, cúng dường và chịu học hỏi theo các hàng tu sĩ đạt đạo không?
- Bạch
Thế Tôn, cho đến ngày nay họ vẫn rất tôn kính, cúng dường, và học hỏi với các
vị tu sĩ đạt đạo.
-
Ananda, vậy thì chắc chắn nước Vajji vẫn còn cường thịnh, chưa bị suy đồi,
Ananda, ngày xưa Như lai đã từng có dịp chỉ dạy cho giới lãnh đạo ở Vajji về
bảy yếu tố giữ gìn cho quốc gia không suy thoái, gọi là thất bất thoái pháp. Đó
là chuyên cần hội họp, hòa hợp và đoàn kết, tôn trọng pháp chế đã ban hành, tôn
trọng và nghe lời các bậc tôn trưởng, không bạo động và hiếp đáp, biết bảo vệ
tông miếu tổ tiên và tôn kính các các bậc đạo hạnh.
Ananda,
thì ra họ vẫn còn thi hành bảy phép bất thoái ấy, Như lai tin rằng quốc gia
Vajji vẫn còn cường thịnh, chưa bị suy nhược, và do đó Như lai nghĩ rằng nước
Magadha không thể đánh chiếm được nước họ.
Đại thần
Vassakara bạch:
- Thế
Tôn, dân Vajji chỉ cần thực hành một trong bảy phép đó thì cũng đủ làm cho nước
họ cường thịnh rồi, huống hồ là họ thực hành cả bảy phép.
Thế Tôn,
con nghĩ vua Ajatasattu không thể thắng được dân Vajji bằng sức mạnh vũ khí
đâu. Vua chỉ có thể thắng họ nếu vua gieo được sự chia rẽ trong giới lãnh đạo
của họ. Thế Tôn, con xin cảm tạ người, con phải về lo công việc.
Sau khi
đại thần Vassakara từ giã, Bụt than thở với Ananda:
- Vị đại
thần này có nhiều mưu chước lắm. Như lai ngại là trong tương lai, vua
Ajatasattu sẽ cử binh đánh chiếm nước Vajji.
Chiều
hôm ấy, Bụt nhờ đại đức Ananda đi triệu tập tất cả các vị khất sĩ có mặt ở thủ
đô Rajagaha và trong các vùng phụ cận về núi Thứu.
Chỉ trong
vòng bảy hôm các vị khất sĩ và nữ khất sĩ trong vùng đã quy tụ về đầy đủ. Gần
hai ngàn vị đã về tới, màu áo ca sa làm vàng rực cả năm ngọn đồi của Linh Thứu
sơn. Đến giờ đại hội, tất cả đều quy tụ về sân trước của giảng đường.
Đại
chúng được triệu tập đông đủ, Bụt từ tịnh thất thong thả đi xuống.
Người
bước lên pháp tọa cao. Đưa mắt nhìn đại chúng, Bụt mỉm cười và nói:
- Các vị
khất sĩ! Như lai sẽ chỉ dạy cho các vị bảy phương pháp để giữ gìn cho chánh
pháp và giáo đoàn không bị suy thoái. Các vị hãy lắng nghe.
Thứ nhất
là các vị nên thường xuyên gặp mặt nhau trong những buổi hội họp đông đủ để học
hỏi và luận bàn về chánh pháp. Thứ hai là các vị tới với nhau trong tinh thần
hòa hợp và đoàn kết, và chia tay nhau trong tinh thần hòa hợp và đoàn kết. Thứ
ba là cùng tôn trọng và sống theo giới luật và pháp chế một khi những những
giới luật và pháp chế ấy đã được ban hành. Thứ tư là biết tôn trọng và vâng lời
các bậc trưởng lão có đạo đức và kinh nghiệm trong giáo đoàn. Thứ năm là sống
một nếp sống thanh đạm và giản dị, đừng để bị lôi cuốn vào tham dục. Thứ sáu là
biết quý đời sống tĩnh mặc. Thứ bảy là biết an trú trong chánh niệm để thực
hiện an lạc và giải thoát, làm chỗ nương tựa cho các bạn đồng tu.
Này các
vị khất sĩ! Chừng nào mà các vị còn thực hành được bảy điều ấy, gọi là bảy phép
bất thối, thì đạo pháp còn hưng thịnh và giáo đoàn không bị suy thoái. Không
một yếu tố nào bên ngoài có thể phá hoại được giáo đoàn.
Chỉ có
những phần tử bên trong giáo đoàn mới có thể làm cho giáo đoàn tan rã mà thôi. Các
vị khất sĩ! Khi con sư tử chúa của mọi loài ở chốn sơn lâm ngã qụy, không có
một loài nào đám đến ăn thịt nó. Chỉ có những con trùng phát sinh từ bên trong
thân thể của sư tử mới ăn thịt được sư tử mà thôi. Các vị hãy bảo vệ chánh pháp
bằng cách sống theo bảy phép bất thối, đừng bao giờ tự biến mình thành những
con trùng trong thân thể của con sư tử.
Sau khi
đã chỉ dạy những vị khất sĩ về bảy phép bất thối, Bụt dặn các vị khất sĩ đừng
nên phí bỏ thì giờ quý báu của mình để la cà nói chuyện phiếm, để ngủ vùi, đừng
đánh mất mình trong danh lợi và tham dục, đừng thân cận với những người xấu ác
và biếng lười, đừng tự mãn với những kiến thức và những trình độ chứng đắc thấp
thỏi.
Bụt nhắc
lại giáo lý bảy yếu tố giác ngộ như con đường mà mỗi vị khất sĩ phải đi: yếu tố
chánh niệm, yếu tố quán chiếu vạn pháp, yếu tố tinh tiến, yếu tố hỷ lạc, yếu tố
nhẹ nhõm, yếu tố định và yếu tố hành xả.
Bụt lại
chỉ dạy về các phép quán vô thường, vô ngã, bất tịnh, buông bỏ, xa lìa tham dục
và giải thoát.
Hai ngàn
vị khất sĩ được sống với Bụt trên núi Linh Thứu được mười hôm.
Họ cư
trú khắp nơi trên năm ngọn đồi, nơi cội cây, hang đá, am thất, khe suối ... Mỗi
ngày các vị tụ tập một lần tại sân giảng đường để nghe Bụt giảng dạy. Thính
chúng ngồi thành nhiều bậc bởi vì sân không đủ rộng để chứa đủ số người. Qua
ngày thứ mười, Bụt từ giã các vị khất sĩ và khuyên họ xuống núi và trở về trú
sở để hành đạo. Chỉ có các vị thường trú ở Linh Thứu là còn ở lại mà thôi.
Các vị
khất sĩ xuống núi rồi, Bụt từ giã thủ đô Rajagaha, người hướng về Ambalatthika.
Ambalatthika là khu lâm viên nghỉ mát của vua Bimbisara, nơi Bụt và các vị khất
sĩ thường ghé trên đường đi Nalanda. Hai thầy trò Sariputta và Rahula ngày xưa
đã từng cư trú tại đây. Tại Ambalatthika, Bụt thăm viếng và ủy lạo các vị khất
sĩ, Bụt dạy cho họ thêm về giới, định và tuệ.
Rời
Ambalatthika, Bụt đi Nalanda. Đoàn khất sĩ đi theo Bụt có chừng một trăm vị.
Các đại đức Ananda, Sariputta, và Anurudha đi sát bên người. Tới Nalanda, Bụt
nghỉ ở vườn Xoài Pavarika.
Sáng
ngày hôm sau, đại đức Sariputta tới ngồi bên Bụt một hồi lâu, không nói gì.
Sau đó,
tự nhiên đại đức mở lời:
- Bạch
Thế Tôn, con thiết nghĩ trong quá khứ, trong hiện tại, và trong cả tương lai,
không có một vị đạo sư hay Bà la môn nào mà trí tuệ và sự chứng đắc siêu việt
hơn Thế Tôn.
Bụt nói:
-
Sariputta, lời nói đó của đại đức quả thật là mạnh bạo, quả thật là một tiếng
gầm sư tử. Thầy đã gặp và đã biết tất cả các bậc giác ngộ trong quá khứ, hiện
tại, và tương lai chưa mà dám nói như thế?
- Bạch
Thế Tôn, làm gì mà con đã gặp được tất cả các bậc giác ngộ trong ba thời, nhưng
có một điều con biết chắc. Con sống thân cận với Thế Tôn đã trên bốn mươi năm.
Không những con được nghe Thế Tôn dạy dỗ mà con còn được thấy Thế Tôn sống.
Nhìn vào Thế Tôn, con biết là Thế Tôn sống thường trực trong tỉnh thức và chánh
niệm. Sáu căn được Thế Tôn hộ trì một cách tuyệt hảo. Không bao giờ có vết nhỏ
của năm sự ngăn che là tham dục, oán giận, hôn trầm, trạo cử và hoài nghi được
nhận thấy trong sinh hoạt hàng ngày của Thế Tôn. Con nghĩ các bậc giác ngộ
trong quá khứ, hiện tại và tương lai, khi đạt tới chánh trí thì trí tuệ và sự
chứng đắc cũng chỉ bằng Thế Tôn thôi chứ làm sao cao hơn được.
Tại
Nalanda, Bụt giảng dạy thêm cho đại chúng ở đây về giới, định, tuệ. Rời
Nalanda, Bụt đi về Pataligama. Tới Pataligama, Bụt và các vị khất sĩ được rất
nhiều giới cư sĩ ra đón tiếp và đưa về trú sở của họ. Tại đây, họ cúng dường
cơm nước lên Bụt và các vị khất sĩ. Thọ trai xong, Bụt thuyết pháp.
Sáng hôm
sau, trước khi Bụt lên đường, đại đức Sariputta đến từ giã người.
Đại đức
được tin bà mẹ của đại đức đang bị ốm nặng, và đại đức muốn về thăm mẹ. Mẹ của
đại đức năm nay đã trên một trăm tuổi, Bụt và các vị khất sĩ ra tiễn đại đức
Sariputta về quê. Đại đức lạy Bụt ba lần và cùng với chú sa di Cunda đi ngược
về miền Nam, hướng về Nala.
Lúc Bụt
và đoàn khất sĩ ra tới cửa thành thì có hai vị đại thần xứ Magadha là Sunidha
và Vassakara tới trình diện. Họ là những người được vua Ajatasattu phái tới
nghiên cứu xây dựng đô thị Pataligama thành một đô thị lớn. Các vị đại thần
bạch:
- Cổng
thành mà Thế Tôn, và các vị khất sĩ sắp đi qua để rời khỏi thành phố, chúng con
sẽ đặt tên là cổng Gotama. Chúng con cũng sẽ đi theo để tiễn đưa Bụt. Bến đò mà
người và chư vị khất sĩ tới để vượt qua sông Hằng, chúng con cũng sẽ đặt tên là
bến đò Gotama.
Sông
Hằng nước đầy cho đến nổi một con quạ đứng trên bờ sông có thể chúi mỏ xuống
sông để uống nước được.
Năm
chiếc đò ngang chở Bụt và các thầy sang sông một lượt. Ra đến giữa dòng, đại
đức Ananda tìm lối bước tới gần Bụt và rón rén ngồi xuống bên người, Bụt đang
nhìn xuống nước. Đại đức Ananda đưa mắt nhìn dòng sông mêng mang rồi chuyển cái
nhìn về bên kia bờ. Đại đức nhớ năm xưa, cách đây đã trên hai mươi lăm năm, có
lần dân chúng Vesali đã kéo nhau ra tận bờ sông để đón Bụt, đông có đến mấy vạn
người. Năm ấy tại Vesali, có dịch hạch lan tràn, người lớn và trẻ em chết như
rạ. Những ông thầy thuốc giỏi nhất trong xứ đã chịu bó tay. Lễ đàn được thiết
lập liên tiếp để cúng tế và cầu nguyện, nhưng cũng không đem lại hiệu quả nào.
Cuối cùng dân chúng trong thành nghĩ đến việc đi cầu cứu với Bụt, Quan tổng
trấn Tomara được chỉ định đích thân qua tận Rajagaha để thỉnh Bụt về Vesali,
ước mong đạo đức của người có thể chuyển đổi được tình trạng. Bụt đã nhận lời
thỉnh cầu.
Vua Bimbisara,
hoàng hậu, các vị đại thần, và dân chúng đi tiễn Bụt tới tận bờ sông Hằng. Bên
kia sông, dân chúng Vesali đã tụ tập đông nghịt. Họ thiết lập nghênh môn, lễ
đài, treo cờ và kết hoa đầy cả bờ sông. Khi thuyền của Bụt qua tới, dân chúng
reo hò vang dậy, nhã nhạc nổi lên vang lừng, Hôm đó đi phụ tá cho Bụt ngoài các
vị đại đệ tử lớn còn có y sĩ Jivaka. Dân chúng đón tiếp Bụt như đón tiếp một vị
cứu tinh của họ, Bụt vừa đặt chân lên đất liền thì sấm chớp bống nổi dậy và
trời mưa xuống một trận mưa rất lớn. Đây là trận mưa đầu tiên sau nhiều tháng
ngày nắng cháy và hạn hán. Dân chúng mừng rỡ, nhảy múa, reo mừng, và ca hát
ngay dưới cơn mưa. Cơn mưa đem lại sự mát mẻ và hy vọng cho cả xứ. Bụt và các
vị khất sĩ đã được dân chúng rước về trung tâm thành phố. Tại công viên, Bụt đã
nói về Tam Bảo như ba viên ngọc quý, nơi nương tựa vững chãi của mỗi người. Sau
đó Bụt và các đại đức được rước về tu viện Trùng Các ở Mahavana. Kỳ đó, nhờ đức
độ của Bụt và tài chữa trị của y sĩ Jivaka, dịch hạch đã từ từ được đẩy lui và
cuối cùng mất dấu. Năm ấy Bụt đã lưu lại Vesali gần sáu tháng trước khi lên
đường về Savatthi.
Qua bên
kia sông, Bụt đi về Kotigama, các vị khất sĩ tại Kotigama đi đón Bụt rất đông.
Tại đây, Bụt giảng dạy về tứ diệu đế và về tam học giới, định, và tuệ. Sau khi
cư trú một thời gian tại Kotigama với các vị khất sĩ. Bụt lại ra đi, hướng về
Nadika, Bụt và các vị khất sĩ nghỉ tại một ngôi nhà xây bằng gạch gọi là
Ginjakavasatha.
Tại
Nadika, Bụt nhắc nhở đến những vị đệ tử của người đã mệnh chung tại vùng này,
trong đó có nữ khất sĩ Sundari Nanda, em gái của người, các vị khất sĩ Salha và
Nadika, nữ cư sĩ Sujata ngày xưa đã dâng sữa và thức ăn cho người trước khi
người thành đạo, và các cư sĩ Kakudha, Bhada, Subhadda ... Bụt nói các vị khất
sĩ này cùng khoảng năm mươi vị khác đã từng sinh sống trại đây đều đã chứng
được những quả vị nhập lưu, nhất hoàn và bất hoàn. Nữ khất sĩ Nanda đã chứng
quả nhất hoàn, hai vị khất sĩ đã đạt được quả vị la hán.
Bụt dạy:
người tu hành nào vững tin nơi Bụt, Pháp và Tăng, nhìn vào tâm ý mình có thể
biết được mình đã tham dự vào dòng giải thoát chưa, không cần hỏi đến một người
khác.
Một hôm
khác, Bụt lại dạy thêm cho các vị khất sĩ về giới, định, và tuệ.
Thăm
viếng và sách tấn đại chúng xong. Bụt cùng các vị khất sĩ lên đường đi Vesali.
Tới Vesali, Bụt và đại chúng nghỉ tại vườn Xoài của Ambapali.
Ngày hôm
sau Bụt giảng cho đại chúng về phép quán niệm về bốn lãnh vực thân thể, cảm
thọ, tâm ý và đối tượng tâm ý.
Nghe nói
Bụt đã về vườn Xoài của mình, bà Ambapali rất sung sướng, liền vội tới thăm
người. Bà thỉnh Bụt và chư vị khất sĩ tới thọ trai ngày hôm sau.
Ngày mai
lại, sau khi Bụt và các vị khất sĩ đã thọ trai xong, bà làm lễ dâng khu vườn
cho giáo đoàn khất sĩ. Bà cũng xin được xuất gia.
Mấy hôm
sau, Bụt lại giảng cho đại chúng nghe thêm về phép hành trì, giới, định và tuệ.
Sau khi
đã thăm viếng Vesali, Bụt đi tới làng Beluvagamaka ở vùng ngoại ô thành phố.
Mùa mưa đã đến, Bụt dự định an cư năm nay tại làng Beluva này.
Đây là
mùa an cư thứ bốn mươi lăm sau ngày Bụt thành đạo. Bụt nhắn với các vị khất sĩ
trong vùng hãy tới an cư ở ven đô thành phố Vesali, tại những trung tâm có bạn
bè, thân quyến đàn việt ủng hộ.
Giữa mùa
an cư, Bụt bị ốm nặng, thân thể người đau đớn vô cùng. Người nằm yên, không hề
rên siết, giữ vững chánh niệm và hơi thở. Mọi người nghĩ rằng Bụt sẽ không qua
khỏi cơn đau, nhưng không ngờ sau đó Bụt vượt thắng được, sức khỏe dần dần trở
lại với người. Mười hôm sau, Bụt dậy được và ra khỏi phòng, ngồi xuống trên một
chiếc ghế kê sát vào tường.
---o0o---
Chương 79
NẤM CHIÊN ĐÀN
Đại đức
Ananda tới gần Bụt, ngồi xuống bên người và bạch nhỏ:
- Thế
Tôn, bốn mươi năm nay con chưa từng thấy người ốm đau nặng nề như kỳ rồi. Hôm
Thế Tôn bệnh nặng, con cảm thấy bủn rủn cả chân tay. Đầu óc của con lúc ấy
không được sáng suốt và con không thấy được sự việc một cách rõ ràng. Hôm đó ai
cũng nghĩ rằng Thế Tôn sẽ không qua khỏi, nhưng con tự hỏi: Đức Thế Tôn chưa di
chúc gì hết cho giáo đoàn khất sĩ thì Thế Tôn chưa nhập Niết Bàn đâu. Nhờ nghĩ
như vậy mà con không đến nỗi nào.
Bụt nói:
- Náy
Ananda, giáo đoàn khất sĩ còn chờ đợi gì ở Như lai mà thầy bảo là Như lai phải
để lại di chúc? Chánh pháp đã được Như lai giảng bày cặn kẽ cho mọi người, có
điều gì mà Như lai còn dấu diếm chưa dạy qúy vị đâu?
Ananda,
chỗ nương tựa của giáo đoàn là chánh pháp; các vị đừng đi tìm một chỗ nương tựa
bên ngoài nào khác nữa. Mỗi người phải lấy chánh pháp làm nơi nương tựa, phải
sống theo chánh pháp; mỗi người phải là một hòn đảo cho chính mình. Ananda,
Bụt, Pháp và Tăng có sẵn trong mỗi người: khả năng giác ngộ là Bụt, pháp môn tu
học là Pháp, những yếu tố hỗ trợ cho sự tu tập là Tăng. Không ai cướp giật Bụt,
Pháp, và Tăng ra khỏi tự thân quí vị được, dù đất trời có nghiêng ngã, tự tính
Tam Bảo nơi nỗi người vẫn còn nguyên vẹn. Đó là nơi nương tựa an ổn nhất của
mỗi người. Vị khất sĩ trở về an trú trong chánh niệm, quán chiếu thân thể, cảm
thọ, tâm ý và đối tượng tâm ý, đó là vị khất sĩ đang làm hòn đảo cho chính
mình, đang có nơi nương tựa vững chãi nhất. Một người khác, dù là giáo chủ, dù
là thượng thủ, dù là thầy mình, cũng vẫn không phải là chỗ nương tựa vững chãi
hơn hòn đảo chánh niệm, hơn tự tính Tam Bảo sẵn có nơi mỗi người.
Vào cuối
mùa an cư, sức khỏe của Bụt đã được hồi phục. Một buổi sáng, chú tiểu Cunda, vị
thị giả của đại đức Sariputta tìm tới tịnh thất của đại đức Ananda, chú báo tin
thầy của chú, đại đức Sariputta đã viên tịch tại Nala, rồi chú trình lên đại
đức áo ca sa, bình bát và tro xương xá lợi của đại đức Sariputta, rồi chú ôm
mặt khóc. Đại đức Ananda cũng òa lên khóc. Cunđa kể là đại đức Sariputta đã về
đến Nala thăm mẹ và đã săn sóc bà cho đến khi bà lâm chung. Làm lễ trà tỳ mẹ
xong, đại đức triệu tập bà con và dân cư trong vùng lại, giảng giải pháp cho họ
nghe, làm lễ quy y cho họ và dặn dò hành trì theo chánh pháp, rồi đềm đó đại
đức ngồi lại trong tư thế kiết già và nhập diệt. Trước đó, đại đức đã dặn Cunda
rằng sau khi đại đức tịch thì chú phải đem y bát và xá lợi của đại đức về trình
Bụt và xin Bụt cho đi theo người.
Đại đức
có nói là đại đức muốn nhập diệt trước ngày đức Thế Tôn nhập diệt.
Đại đức
Ananda lau nước mắt đứng dậy và cùng chú tiểu Cunda đi gặp Bụt, đem theo ca sa,
bình bát và xá lợi của đại đức Sariputta.
Bụt lặng
yên nhìn ca sa, bình bát và xá lợi của vị đại đệ tử. Người không nói gì trong
một lúc lâu, rồi người xoa đầu chú Cunda.
Đại đức
Ananda lên tiếng:
- Lạy
Bụt, khi con nghe tin sư huynh đã viên tịch, con thấy bủn rủn cả chân tay và
đầu óc con mất hết sáng suốt, con buồn quá.
Bụt nhìn
đại đức Ananda:
- Này
Ananda, sư huynh của thầy khi nhập diệt có đem đi theo tất cả giới, định, tuệ
và sự giải thoát của thầy đâu?
Đại đức
Ananda trần tình:
- Không
phải như thế, bạch đức Thế Tôn, con nghĩ đến sư huynh con lúc sống đã phục vụ
chánh pháp đắc lực như thế nào, để nâng đỡ anh em chúng con như thế nào, đã dạy
dỗ, hướng dẫn, khích lệ chúng con như thế nào, bây giờ đây sư huynh không còn
với chúng con nữa, không có hai sư huynh Sariputta và Moggallana, chúng con
thấy giáo đoàn trống trải một cách lạ kỳ. Các sư huynh không còn đó để hướng
dẫn cho chúng con và chống đỡ cho giáo đoàn, chúng con không cảm thấy bơ vơ sao
được?
Bụt dạy:
-
Ananda, Như lai đã nhiều phen nhắc thầy rằng có sinh thì có diệt, có hội ngộ
thì có phân ly. Các pháp hữu vi là thế đó, cho nên ta đừng nên kẹt vào các pháp
hữu vi. Hãy vượt thoát lên khỏi thế giới của sinh diệt và của tụ tán.
Ananda,
Sariputta là một cành cây lớn đã làm xong bổn phận nuôi dưỡng một thân cây hùng
mạnh. Cành cây hiện có mặt trong thân cây. Thân cây ấy là giáo đoàn khất sĩ
đang tu tập theo giáo pháp giác ngộ. Nếu thầy mở mắt ra mà nhìn, thầy sẽ thấy
Sariputta trong thầy, trong Như lai, trong giáo đoàn khất sĩ, trong những người
được Sariputta giáo hóa, trong chú tiểu Cunda, và thầy sẽ thấy Sariputta một
nơi. Đừng nghĩ là Sariputta không còn nữa, Sariputta đang còn và sẽ còn mãi với
chúng ta.
Ananda,
Sariputta là một vị bồ tát, nghĩa là một người đã giác ngộ và đã biết đem trí
tuệ và tình thương của mình đi vào cuộc đời để hóa độ cho những người khác, đưa
họ cùng về bến bờ giác ngộ. Trong giáo đoàn khất sĩ, Sariputta đã từng được ca
ngợi như người có trí tuệ lớn, và vì thế, Sariputta sẽ được các thế hệ tương
lai tưởng niệm tới như một vị bồ tát đại trí.
Ananda,
trong giáo đoàn khất sĩ còn có nhiều vị bồ tát nữa có mặt trong cuộc đời để hóa
độ và những vị này cũng có hạnh nguyện lớn như Sariputta, khất sĩ Punna, nữ
khất sĩ Yasodhara, nam cư sĩ Sudatta đều là những người có lòng thương lớn và
hạnh nguyện lớn, luôn luôn dấn thân vào cuộc đời để cứu giúp chúng sanh, không
ngại gian khổ và khó khăn. Dó là những vị bồ tát đại bi. Nữ khất sĩ Yasodhara
và cư sĩ Sudatta đã viên tịch, nhưng đại đức Punna vẫn còn mãi trong hàng ngũ
những vị bồ tát đang tinh tiến và dũng mãnh trên con đường hóa độ. Nói đến dũng
mãnh, Như lai nhớ tới đại đức Moggallana, đó là một vị bồ tát đại dũng, chí khí
và can trường rất lớn, ít ai bì kịp, đại đức Mahakassapa với nếp sống đơn giản
và lành mạnh là một vị bồ tát tượng trưng cho hạnh tri túc. Đại đức Anurudha là
một vị bồ tát tượng trưng cho hạnh tinh tiến. Ananda, nếu các thế hệ tương lai
biết học hỏi và tu tập đạo lý giải thoát, các vị bồ tát như thế sẽ tiếp tục
xuất hiện trong đòi để nối đuốc chánh pháp và soi sáng cuộc đời. Ananda, tin
vào Bụt, tin vào Pháp và tin vào Tăng, tức là tin tưởng ở tương lai giáo đoàn.
Trong tương lai sẽ tiếp tục có thêm những vị bồ tát mới có tầm vóc lớn như
Sariputta, Moggallana, Punna, Anurudha, Yasodhara, Anathapindika ... Ananda,
thầy không nên buồn về việc sư huynh Sariputta viên tịch.
Trưa hôm
ấy trên bờ sông Ganga, bên thôn Ukkhacela, Bụt trầm tĩnh báo tin viên tịch của
đại đức Sariputta cho đại chúng các vị khất sĩ, Bụt khuyên đại chúng nên nổ lực
để mỗi người có thể trở nên Sariputta, mỗi người có thể mang khả năng và đại
nguyện của Sariputta trên đường tu tập và hành hóa, Bụt dạy:
- Này
các vị khất sĩ! Các vị hãy nương tựa vào chính mình, hãy tự mình làm một hòn
đảo cho chính mình, đừng nương tựa vào gì khác, đừng nương tựa vào ai khác, như
vậy các vị mới không bị đánh chìm bởi những đợt sóng của sầu đau, của thất
vọng, của chới với. Các vị, hãy lấy giáo pháp làm hòn đảo, làm chỗ nương tựa,
và đừng nương tựa vào gì khác, đừng nương tựa vào ai khác.
Này các
vị khất sĩ! Các vị hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi. Hãy lấy chánh pháp làm
đuốc.
Một buổi
sáng, Bụt cùng đại đức Ananda đi vào thành Vesali khất thực. Sau khi ra thọ
trai ở một cụm rừng, Bụt nói:
-
Ananda, chúng ta hãy về đền Capala để nghỉ trưa.
Trên
đường đi, Bụt dừng lại nhiều lần để nhìn phong cảnh và mây nước, Bụt nói:
-
Ananda, Vesali thật là đẹp, đền Udena cũng đẹp. Các ngôi đền khác trong vùng
như Gotamaka, Sattanbaka và Bahuputta cũng đều là những ngôi đền đẹp. Đền
Capala mà ta sắp đến để nghỉ ngơi cũng dễ thương lắm.
Sau khi
sắp đặt chỗ nghỉ cho Bụt, đại đức Ananda đi ra phía ngoài để thiền hành. Trong
khi đi thiền hành, đại đức thấy đại địa rung động dữ dội và tâm thần của thầy
cũng bị chấn động theo. Đại đức tìm về đền Capala và thấy Bụt đang ngồi yên
tĩnh trong đền. Đại đức Ananda trình ngài về hiện tượng động đất xảy ra, Bụt
nói:
-
Ananda, Như lai đã quyết định rồi, trong ba tháng nữa, Như lai sẽ diệt độ.
Đại đức
Ananda cảm thấy tay chân bủn rủn, mắt hoa, đầu choáng. Đại đức quỳ xuống trước
Bụt và năn nỉ:
- Xin
đức Thế Tôn đừng diệt độ sớm như thế. Xin đức Thế Tôn thương xót chúng con.
Bụt im
lặng, thầy Ananda lặp lại lời thỉnh cầu tới lần thứ ba, Bụt nói:
-
Ananda, nếu thầy có đức tin nơi Như lai, thì thầy nên biết rằng những quyết
định của Như lai là những quyết định hợp thời và hợp cơ. Như lai nói là Như lai
sẽ diệt độ trong ba tháng nữa. Ananda, thầy hãy cho mời tất cả các vị khất sĩ
trong vùng về quy tụ tại giảng đường Kutagara ở rừng Đại Lâm.
Bảy hôm
sau, trên một ngàn năm trăm vị khất sĩ và nữ khất sĩ tụ tập tại giảng đường
Trùng Các, Bụt được thỉnh vào ngồi trên pháp tọa. Người đưa mắt nhìn đại chúng,
rồi người nói:
- Các vị
khất sĩ! Những gì mà Như lai đã thực chứng và đã trao truyền lại cho quý vị,
quý vị hãy thận trọng và khéo léo mà học hỏi và giữ gìn, tu tập, chứng nghiệm
và truyền đạt lại cho những thế hệ tương lai. Nếp sống phạm hạnh cần được nối
tiếp vì an lạc và hạnh phúc của mọi người và mọi loài.
Các vị
khất sĩ! Những giáo pháp mà Như lai đã truyền đạt lại tuy nhiều nhưng có thể
được tóm tắt trong các pháp môn Tứ Niệm Xứ, Tứ Chánh Cần, Tứ Như Ý Túc, Ngũ
Căn, Ngũ Lực, Thất Bồ Đề và Bát Chánh Đạo. Các vị phải khéo léo học hỏi, tu
tập, thực chứng và truyền đạt lại những pháp môn ấy.
Này các
vị! Tất cả các pháp dều vô thường, có sinh, có diệt, có tụ, có tán.
Các vị
hãy tinh tiến lên để mà đạt tới giải thoát. Ba tháng nữa, Như lai sẽ diệt độ.
Hơn một
ngàn năm trăm vị khất sĩ im lặng nghe Bụt nói, uống những lời dạy dỗ trực tiếp
từ Bụt. Họ biết đây là cơ hội cuối cùng để được thấy Bụt và nghe Bụt. Nghe Bụt
nói sẽ diệt độ, ai nấy đều đau lòng.
Sáng hôm
sau, Bụt đi vào Vesali khất thực, Khất thực xong Bụt ghé vào một cụm rừng để
thọ trai. Sau đó Bụt cùng các vị khất sĩ rời thành Vesali.
Ngoái
nhìn lại thành Vesali với đôi mắt của một con voi chúa, Bụt nói với đại đức
Ananda:
- Này
Ananda, Vesali thật đẹp. Đây là lần cuốì Như lai nhìn thành phố này.
Và Bụt
nhìn trở lại phía trước. Người nói:
- Bây
giờ, chúng ta hãy đi về Bhandagama.
Chiều
hôm ấy tại Bhandagama, Bụt thuyết pháp cho trên ba trăm vị khất sĩ về giới,
định, tuệ và giải thoát.
Sau mấy
hôm nghỉ ngơi và thăm viếng, Bụt rời Bhandagama và đi Matthigama, rồi Bụt đi
Ambagama, Jambugama. Nơi nào Bụt cũng thăm viếng và sách tấn các vị khất sĩ.
Rồi
người cùng các vị khất sĩ đi Bhoganagara. Tại đây, Bụt nghỉ ở đền Ananda. Các
vị khất sĩ địa phương tới thăm Bụt rất đông. Trong thời gian thăm viếng ở đây,
Bụt có dặn dò các vị khất sĩ về sự cần thiết và phương pháp kiểm chứng những
điều nghe được về giáo pháp, Bụt dạy:
- Khi
nghe một ai nói về giáo pháp, dù người nói cho biết là đã trực tiếp nghe từ
những vị đạo cao đức trọng và có thẩm quyền, các vị cũng không nên vội cho ngay
đó là giới luậ và giáo pháp đích thực của Như lai giảng dạy. Các vị phải so
sánh những lời ấy với kinh và luật. Nếu những lời ấy trái chống với kinh luật
thì các vị nên bác bỏ, còn nếu những lời ấy phù hợp với kinh và luật thì các vị
hãy chấp nhận và thực hành theo.
Sau đó,
Bụt đi Pava. Tại Pava, người nghỉ trong vườn Xoài của nam cư sĩ Cunda, con của
một người thợ rèn. Được nghe Bụt thuyết pháp, Cunda rất lấy làm sung sướng.
Chàng thỉnh Bụt và các vị khất sĩ ngày mai đến nhà chàng thọ trai.
Các vị
khất sĩ đi theo rất đông, có đến ba trăm vị. Trong khi người nhà và bạn bè dâng
thức ăn vào bát của các vị khất sĩ, Cunda tới trước Bụt và dâng lên người một
thức ăn đặc biệt đã được làm riêng cho Bụt. Đó là nấm chiên đàn - Sukara
maddava.
Sau khi
thọ trai xong, Bụt gọi Cunda và bảo chàng:
- Cunda,
chỗ còn lại của món nấm chiên đàn này, con nên đào đất mà chôn đi, đừng để cho
ai ăn nữa.
Sau khi
mọi người đã thọ trai, Bụt thuyết pháp cho gia đình Cunda. Thuyết pháp xong,
Bụt và các vị khất sĩ trở về vườn Xoài nghỉ ngơi.
Tối hôm
ấy, một cơn đau bụng dữ dội nổi lên làm Bụt đau đớn vô cùng.
Người cố
gắng chịu đau. Suốt đêm người không ngủ. Sáng hôm sau, người bảo các vị khất sĩ
lên đường thật sớm, hướng về Kusinara.
Giữa
đường, cơn đau bụng lại nổi lên dữ dội. Người dừng lại và tới ngồi nghỉ dưói
một cội cây. Đại đức Ananda lấy áo sanghati của Bụt xếp lại thành tư và trải
xuống gốc cây để Bụt ngồi nghỉ. Bụt bảo Ananda đi kiếm cho Bụt ít nước để uống
vì người thấy khát.
Đại đức
Ananda nói:
- Lạy
Bụt, nước rạch ở đây đục lắm vì có một đoàn xe bò cả mấy trăm chiếc vừa đi qua.
Xin Bụt đợi đến khi mình tới sông Kakutha, nước ở đó trong mà ngọt lắm con sẽ
lấy để Bụt uống và rửa mặt cho mát.
Bụt bảo:
- Như
lai khát lắm, thầy cứ đi lấy nước ở đây đi.
Đại đức
Ananda vâng lời. Lạ quá, khi đại đức mang vò xuống tới con rạch thì nước rạch
đã trở lại trong vắt.
Uống
nước xong, Bụt ngồi nghỉ. Các đại đức Anuruddha và Ananda ngồi gần bên người.
Ba trăm vị khất sĩ cũng ngồi nghỉ ngơi đây đó, có nhiều vị ngồi vây quanh Bụt.
Lúc ấy có một người bộ hành đi từ Kusinara tới. Thấy Bụt ngồi giữa các vị khất
sĩ, ông ta tới khấu đầu đãnh lễ. Người này tên là Pukkusa thuộc bộ tộc Malla,
và ngày xưa cũng đã từng là đệ tử của đạo sĩ Alara Kalama, vị đạo sĩ mà vị sa
môn trẻ Siddhatta đã từng đến thọ giáo.
Pukkusa
đã nghe nói đến Bụt. Sau khi lạy Bụt, ông dâng lên Bụt hai tấm y mới để Bụt
dùng. Nể lời Pukkusa Bụt nhận một tấm và bảo Pukkusa cúng dường tấm kia cho đại
đức Ananda.
Sau đó,
Pukkusa xin được làm đệ tử Bụt. Bụt dạy đạo lý cho ông; Pukkusa sung sướng cảm
tạ rồi từ giã người.
Thấy y
của Bụt đang mặc đã lấm bùn, đại đức Ananda thay y mới cho người.
Sau đó,
Bụt và các vị khất sĩ cùng đứng dậy và đi về phía Kusinara.
Đến bờ
sông Kakuttha, Bụt đi xuống sông để tắm và uống nước. Tắm và uống nước xong,
Bụt lên bờ, Bụt đi về một vườn xoài gần đó. Người bảo khất sĩ Cundaka xếp áo và
trải xuống đất cho người nằm. Khất sĩ Cundaka ngồi hầu bên cạnh.
Bụt gọi
đại đức Ananda:
-
Ananda, bữa cơm sáng ngay tại nhà của cư sĩ Cunda là bữa cơm cuối cùng của Như
lai. Sau này có thể có người làm cho Cunda có mặc cảm là đã cúng dường bữa ăn
chót cho Như lai. Vậy thầy nên tìm dịp nói cho Cunda biết là những bữa cơm mà
Như lai nhớ mãi là bữa cơm Như lai thọ nhận trước khi thành đạo và bữa cơm Như
lai thọ nhận trước khi nhập niết bàn. Người cúng dường một trong hai bữa cơm ấy
phải vui mới đúng.
Sau khi
nghỉ ngơi một lát. Người nói:
-
Ananda, chúng ta hãy đi qua bên kia sông Hirannavati để vào rừng cây sala của
bộ tộc Malla. Rừng cây này rất đẹp, nó nằm ở chỗ ngã rẽ đi vào thành phố
Kusinara.
---o0o---
Chương 80
HÃY TINH TIẾN LÊN ĐỂ ĐẠT GIẢI THOÁT!
Khi Bụt
và các vị khất sĩ tới được rừng Sala thì trời đã xế chiều, Bụt bảo thầy Ananda
soạn chỗ nằm cho Bụt giữa hai cây sala, rồi Bụt nằm xuống trong thế sư tử tọa,
đầu hướng về phương Bắc. Các vị khất sĩ chia nhau ngồi bao quanh Bụt. Họ biết
nội trong đêm nay, tại rừng sala này, Bụt sẽ nhập niết bàn.
Bụt đưa
mắt nhìn rừng cây rồi nói với Ananda:
- Này
Ananda, thầy hãy nhìn xem, bây giờ đâu phải là mùa hoa, mà những cây sala này
đang nở hoa trắng xóa. Hoa rụng trên áo Như lai và trên cả áo các vị khất sĩ,
thầy thấy không? Rừng này đẹp quá thầy có thấy mặt trời đang ngã về phía Tây và
chân trời thật rạng rỡ hay không? Thầy có nghe gió nhẹ rì rào trong các cành
sala không? Vạn vật đối với Như lai dễ thương và đằm thắm quá. Này các vị khất
sĩ, nếu các vị muốn dễ thương với Như lai, muốn tỏ lòng cung kính và biết ơn
Như lai thì các vị chỉ có thể bày tỏ điều đó bằng cách sống đúng chánh pháp và
đi trong chánh pháp mà thôi.
Lúc đó
trời vẫn còn nóng và đại đức Upavana đang đứng trước mặt Bụt để quạt cho người.
Bụt bảo đại đức đứng qua một bên, có lẽ Bụt không muốn đại đức che khuất cảnh
rừng cây và cảnh trời chiều huy hoàng đang diễn ra trước mặt Bụt.
Bụt hỏi
đại đức Anuruddha:
- Ananda
ở đâu, Như lai không thấy?
Một vị
khất sĩ thưa:
- Con
thấy sư huynh Ananda đang đứng nấp và khóc sau một cội cây. Sư huynh nói một
mình: “Ta chưa thành tựu được đạo nghiệp mà thầy ta đã tịch. Có ai thương ta
bằng thầy ta thương ta đâu”.
Bụt bảo
vị khất sĩ đi gọi đại đức Ananda về.
Người an
ủi đại đức Ananda:
-
Ananda, đừng buồn khổ nữa, Như lai đã từng nhắc thầy là vạn pháp vô thường, có
sinh thì có diệt, có thành thì có hoại, có hợp thì có tan. Làm sao có sinh mà
không có diệt cho được? Làm sao có thành mà không có hoại cho được? Làm sao có
hợp mà không có tan cho được? Ananda, mấy mươi năm nay thầy đã thân cận Như
lai, săn sóc Như lai với tất cả tấm lòng thương mến của thầy. Thầy đã đem hết
lòng hết sức để giúp đỡ Như lai, Như lai rất cám ơn thầy, công đức của thầy rất
lớn nhưng Ananda, thầy có thể đi xa hơn, nếu thầy cố gắng thêm chút nữa thì
thầy sẽ thoát được sinh tử, đạt tới tự do, và vượt thoát mọi sầu khổ và bi ai.
Điều đó no tin chắc thầy làm được và cũng là điều sẽ làm cho Như lai vui lòng
nhất.
Xoay qua
các vị khất sĩ, Bụt nói:
- Làm
thị giả cho Như lai không ai bằng Ananda. Ngày xưa có những vị thị giả đã từng
làm rơi cả bát và y của Như lai xuống đất, nhưng với Ananda, những chuyện ấy
không bao giờ xảy ra, Ananda lo cho Như lai từng ly từng tí, từ việc nhỏ nhất
đến việc lớn nhất, Ananda biết nơi nào và lúc nào một vị khất sĩ, một vị nữ
khất sĩ, một vị cư sĩ, một vị quốc vương, một vị đại thần, hay một vị đạo sĩ
ngoại giáo có thể gặp Như lai, và Ananda sắp đặt những cuộc gặp gỡ đó một cách
thông minh, Như lai nghĩ là nếu các bậc giác ngộ trong quá khứ và trong tương
lai mà có được một vị thị giả giỏi thì vị thị giả ấy cũng chỉ giỏi bằng đại đức
Ananda là cùng.
đại đức
Ananda lau nước măt, bạch:
- Thế Tôn,
cin Thế Tôn đừng nhập niết bàn ở đây. Kurinara chỉ là một đô thị nhỏ, tường vôi
vách đất. Có nhiều nơi xứng đáng để Thế Tôn nhập niết bàn hơn như Sampa, như
Rajagaha, như Savatthi, như Sakata, như Kosambi, hay Banarasi. Xin đức Thế Tôn
chọn một nơi như thế để nhập diệt để cho đông đảo quần chúng có cơ duyên nhìn
mặt Thế Tôn một lần cuối. Bụt bảo:
-
Ananda, Kusinara cũng là một nơi quan trọng lắm, dù nó chỉ là một đô thị tường
vôi vách đất, Ananda, Như lai ưng ý khu rừng này lắm, Ananda, thầy có thấy hoa
sala tiếp tục rơi trên áo và trên người của Như lai không?
Rồi Bụt
bảo đại đức Ananda vào thành phố Kusirana báo tin cho những người trong bộ tộc
Malla biết rằng đêm nay vào canh cuối, Bụt sẽ nhập niết bàn trong rừng cây sala
của họ.
Những
người trong bộ tộc Malla nghe tin Bụt sắp nhập diệt liền vội vã đi ra.
Một du
sĩ ngoại đạo tên là Subhadda nghe nói có Bụt ở ngoài rừng cũng theo họ tìm ra.
Trong khi những người trong bộ tộc Malla thay phiên nhau tới ra mắt và làm lễ
Bụt thì du sĩ Subhadda tới thương thuyết với đại đức Ananda để ông được gặp và
hầu chuyện Bụt. Đại đức không cho, bảo là Bụt đang mệt không thể tiếp được ông.
Nghe
được những câu trao đổi giữa hai người, Bụt bảo Ananda:
- Thầy
cứ cho du sĩ Subhadda vào đi, Như lai có thể tiếp ông ấy.
Du sĩ
Subhadda ra trình diện trước Bụt, đã từng nghe nói tới đạo phong của Bụt, ông
sẵn có lòng mến mộ Bụt từ lâu, ông lạy xuống xuống và bạch:
- Thế
Tôn, con nghe nói tới các vị lãnh đạo các giáo phái như Purana Kassapa, Makhali
Gosala, Ajita Kesakambali, Pakudha Kaccayana, Sanjaya Belatthiputta và Nigantha
Nathaputta .. Con muốn hỏi Thế Tôn xem trong những vị đó có ai thật sự là người
đạt đạo không?
Bụt hỏi:
-
Subhadda, họ có đạt đạo hay không đạt đạo, việc đó không nên bàn tới bây giờ vì
không cần thiết. Subhadda, Như lai sẽ chỉ cho ông con đường tu học để tự ông có
thể đạt ngộ.
Rồi Bụt
dạy cho Subhadda về đạo lý Bát Chánh Đạo.
Và người
kết luận:
-
Subhadda, ở đâu trong đoàn thể nào mà có sự thực hành Bát Chánh Đạo là ở đó có
thể có người đạt đạo. Subhadda ống cố thực tập phép này đi rồi chính ông sẽ trở
nên người đạt đạo, không cần phải đặt câu hỏi người này hay người khác có thật
là người đạt đạo hay không.
Được Bụt
dạy, du sĩ Subhadda thấy tâm hồn mở rộng, ông sung sướng quá.
Ông xin
Bụt được xuất gia là đệ tử, Bụt chấp nhận. Người dạy Ananda làm lễ xuất gia tại
chỗ cho du sĩ Subhadda.
Subhadda
là người đệ tử cuối cùng của Bụt.
Sau khi
Subhadda đã được cạo đầu, thọ giới, khoác áo ca sa và được trao cho một bình
bát, Bụt đưa mắt nhìn các vị khất sĩ ngồi bao bọc quanh người.
Lúc bấy
giờ số lượng các vị khất sĩ đã tăng lên gần năm trăm vị, trong đó có các vị từ
địa phương mới tới, Bụt nói:
- Này
các vị khất sĩ! Nếu vị nào con thắc mắc điều gì về giáo pháp thì đây là lúc nên
hỏi Như lai. Đừng để dịp này đi qua để sau này hối hận rằng: “Hôm ấy tôi được
diện kiến Bụt vậy mà tôi quên không hỏi ...” Bụt lặp lại câu nói của người tới
ba lần, vẫn không có vị khất sĩ nào lên tiếng.
Đại đức
Ananda lên tiếng:
- Bạch
đức Thế Tôn, thật là vi diệu! Con có đức tin nơi giáo đoàn khất sĩ, con có đức
tin nơi Tăng đoàn, ai cũng thấy được những lời Thế Tôn nói và giáo pháp của Thế
Tôn dạy sáng tỏ như ban ngày, và không ai còn có thắc mắc nghi nan gì nữa về
giáo pháp ấy và về con đường thực hiện.
Bụt nói:
- Ananda,
đó là thầy nói từ niêm tin của thầy, Như lai thì thấy bằng cái thấy trực tiếp
của Như lai, Như lai thấy trong đại chúng khất sĩ ở đây ai cũng có đức tin vững
vàng nơi Tam Bảo, và trình độ thấp kém nhất trong số các các vị cũng đã là quả
vị nhập lưu.
Bụt đưa
mắt im lặng nhìn đại chúng, rồi người nói:
- Các vị
khất sĩ, hãy nghe Như lai nói đây: vạn pháp vô thường, có sinh thì có diệt, các
vị hãy tinh tiến lên để đạt tới giải thoát.
Nói
xong, Bụt nhắm mắt. Đó là lời nói cuối cùng của người.
Bỗng
nhiên đại địa rung động, hoa sala rụng xuống như mưa, mọi người tự nhiên thấy
tâm thần chấn động. Ai cũng biết là Bụt đã nhập niết bàn.
(Đọc tới
đây xin đọc giả tạm ngưng và thở thật nhẹ vài ba phút rồi hãy đọc tiếp).
Bụt đã
diệt độ. Một số các vị khất sĩ giang hai tay lên, nằm bò ra đất và khóc thương
thảm thiết. Họ rên rỉ:
- Bụt đã
nhập niết bàn! Thế Tôn đã diệt độ! Con mắt của thế gian không còn nữa! Chúng ta
biết nương tựa vào đâu?
Trong
khi những vị khất sĩ này lăn lộn và khóc than như thế thì một số các vị khất sĩ
khác ngồi bất động, theo dõi hơi thở và quán chiếu về những điều Bụt dạy. Đại
đức Anuruddha lên tiếng:
- Này
các huynh đệ! Các huynh đệ đừng khóc thương thảm não như thế!
Đức Thế
Tôn đã dạy có sinh thì có diệt, có thành thì có hoại, có hợp thì có tan. Nếu
các huynh đệ hiểu và vâng theo lời đức Thế Tôn, thì xin các huynh đệ đừng làm
náo loạn. Xin trở về chỗ ngồi của mình, và xin im lặng, theo dõi hơi thở. Hãy
tôn trọng sự im lặng của giờ phút này.
Mọi
người trở về chỗ ngồi theo lời chỉ dạy của đại đức Anuruddha. Đại đức hướng dẫn
đại chúng khất sĩ đọc lên những đoạn kinh kệ mà đa số đã thuộc lòng, những đoạn
nói về vô thường, vô ngã, buông thả và giải thoát. Không khí trở lại trang
nghiêm như cũ.
Những
cây đuốc đã được các bà con trong bộ tộc Malla thắp lên, bập bùng tỏa chiếu ánh
sáng trên khung cảnh huyền nhiệm. Tiếng tụng kinh trầm hùng, chỉ có tiếng tụng
kinh trầm hùng vang lên trong đêm tối. Mọi người để hết tâm ý vào lời kinh.
Sau thời
tụng kinh, đại đức Anuruddha bắt đầu nói pháp thoại. Pháp thoại của đại đức ca
ngợi công hạnh của Bụt, ca ngợi trí tuệ, từ bi và đức đại hùng, đại lực, đại hỷ
và đại xả của người. Đại đức Anuruddha nói xong thì đến lượt đại đức Ananda lên
tiếng. Đại đức kể lại những kỷ niệm đẹp đẽ đã xảy ra giữa Bụt và đại đức trong
suốt trên bốn mươi năm trời. Suốt đêm, hai đại đức thay nhau nói pháp thoại.
Đại chúng năm trăm vị khất sĩ và ba trăm vị cư sĩ đều ngồi im lặng lắng nghe.
Những cây đuốc gần tàn đã được nối tiếp bằng những cây đuốc khác. Cứ như thế
cho đến khi trời sáng.
---o0o---
Chương 81
ĐƯỜNG XƯA MÂY TRẮNG
Thấy
trời đã sáng, đại đức Anuruddha bảo đại đức Ananda:
- Su
huynh đãy đi vào thành phố Kusinara và báo cho những người hữu trách biết đức
đạo sư của chúng ta đã diệt độ, để họ làm những việc họ thấy cần làm.
Đại đức
Ananda vâng lời. Thầy khoác áo đi vào thành phố. Những vị chức sắc của bộ tộc
Malla đang họp bàn công việc tại trụ sở thị xã. Được đại đức cho biết Bụt đã
nhập diệt, tất cả đều lộ vẻ sầu khổ và luyến tiếc. Họ lập tức bỏ chương trình
nghị sự đang bàn và đề cập ngay tới công việc cần làm. Khi mặt trời lên tới
ngọn cây thì tất cả dân chúng trong thành phố đều biết tin Bụt đã nhập diệt tại
rừng Sala. Nhiều người đấm ngực than khóc, tiếc rằng đã không được nhìn mặt Bụt
và làm lễ người trước khi người nhập diệt. Dân chúng kéo nhau ra rừng, người
thì đem theo hoa, người thì đem theo hương, người thì đem theo nhạc khí, người
thì đem theo vải vóc. Ra tới rừng Sala, họ quỳ lạy và rải hương hoa lên thi thể
Bụt để cúng dường. Để cúng dường, họ cũng tổ chức trình diễn vũ và nhạc, vây
quanh chỗ nằm của Bụt. Vải lều ngũ sắc được căng lên khắp rừng. Dân chúng đã
đem theo thức ăn ra cúng dường cho năm trăm vị vị khất sĩ, Rừng Sala trở nên
nhộn nhịp như một ngày hội. Thỉnh thoảng đại đức Anurudda lại thỉnh một tiếng
cồng ra lệnh cho mọi người im lặng và đại đức hướng dẫn mọi người đọc những
đoạn trong kinh Pháp Cú.
Trong
suốt sáu ngày sáu đêm, dân chúng trong hai thị trấn Kusinara và Pava liên tục
cúng dường Bụt bằng hoa, hương, vũ và nhạc. Hoa Mandarava và các thứ hoa khác
đã phủ lấp giữa hai cây sala. Đến ngày thứ bảy, tám vị tộc trưởng của bộ tộc
Malla tắm gội bằng nước ngũ vị hương, mặc lễ phục và bắt đầu rước thi hài của
Bụt vào thành phố. Tất cả các vị khất sĩ rồi đến dân chúng đều đi theo đám
rước, đưa thi hài Bụt đến cửa Bắc mà vào thành.
Đám rước
đi vào trung tâm thành phố, rồi lại đi ra khỏi thành bằng cửa Đông và dừng lại
trước sân đền Makuta-bandhana, ngôi đền chính của bộ tộc Malla. Thi hài Bụt
được an trú ngay trước đền.
Các vị
chức sắc thành phố ra lệnh làm lễ hỏa táng Bụt theo nghi thức hỏa táng của một
vị Chuyển Luân Thánh Vương. Thi hài Bụt được vấn bằng vải mới, rồi đến bông
gòn, rồi đến vải mới, cứ như thế cho đến nhiều lớp vải và bông. Sau cùng thi
hài được đặt trong một áo quan bằng sắt, và áo quan này lại được đặt trong một
áo quan bằng sắt lớn hơn nữa.
Kim quan
được đưa lên một hỏa đàn vĩ đại chất toàn bàng các loại gỗ thơm.
Giờ châm
lửa hỏa đàn đã đến. Bốn vị tộc trưởng bộ tộc Malla tiến tới; họ vừa định làm lễ
châm lửa hỏa đàn thì bỗng có một vị sứ giả đi tới bằng ngựa.
Vị sứ
giả này cho biết đại đức Mahakassapa đang lãnh đạo năm trăm vị khất sĩ tiến về
Kusinara. Đại đức và các vị khất sĩ đang ở giữa chặng đường Pava và Kusinara.
Nghe nói thế. đại đức Anuruddha liền đề nghị hoãn lại giờ hành lễ để chờ đại
đức Mahakassapa và đoàn khất sĩ.
Đại đức
Maha kassapa đã khởi hành từ Campa để đi hành hóa miền Bắc. Tới Vesali, đại đức
được tin Bụt tuyên bố sẽ nhập niết bàn trong ba tháng và hiện người đang đi về
hướng Bắc. Đại đức liền lên đường đi tìm Bụt, tới đâu cũng có các vị khất sĩ
xin đi theo. Khi đại đức tới Bhandagama, số các vị khất sĩ đi theo đã lên tới
năm trăm vị.
Rời
Pava, đại đức gặp một khách bộ hành đi ngược chiều, túi áo có cài hoa sala.
Người này cho đại đức biết Bụt đã nhập diệt tại rừng Sala ở Kusinara từ bảy hôm
trước. Đóa hoa trên áo đã được nhặt lên từ trong rừng nơi chỗ Bụt nhập diệt.
Nghe tin, đại đức Mahakassapa không còn chần chừ nữa, liền tiếp tục hướng dẫn
đoàn khất sĩ đi về Kusinara. Nhân gặp một người đi ngựa cùng hướng, đại đức nhờ
người này phi nhanh tới trước và nhắn tin cho đại đức Ananda biết là đại đức và
năm trăm vị khất sĩ khác đang trên con đường tới dự lễ trà tỳ của Bụt.
Mặt trời
vừa đứng bóng thì đại đức Mahakassapa và đoàn khất sĩ tới được đền
Makuta-bandhara, nơi dựng hỏa đàn của lễ trà tỳ. Tới nơi, đại đức trật áo tăng
già lê bên vai bên phải, chắp tay, cung kính và im lặng và nhiễu quanh hỏa đàn
ba lần. Rồi đại đức dừng lại, chắp tay hướng về nhục thân Bụt để lạy xuống. Năm
trăm vị khất sĩ đi theo cũng đồng thời lạy xuống. Đại đức vừa lạy xong ba lạy
và đứng lên thì hỏa đàn tự nhiên bốc lửa. Tất cả các vị khất sĩ đều quỳ xuống
chắp tay hướng về hỏa đàn. Hằng ngàn người có mặt cũng đều làm như thế. Đại đức
Anuruddha lại thỉnh chuông và hướng dẫn mọi người đọc những đoạn kinh về vô
thường, vô ngã, xả ly và giải thoát. Giọng đọc kinh trầm hùng vang dội.
Sau khi
lửa đã cháy tàn, nước thơm được tưới lên giàn hỏa. Kim quan được thỉnh xuống,
mở ra và xá lợi của Bụt được các vị tộc trưởng thâu lượm và an trí trong một
chậu vàng đặt trên bàn thờ trung ương trong đền. Các vị khất sĩ lớn được thay
phiên canh giữ và bảo vệ xá lợi.
Tin Bụt
diệt độ ở Kusinara đã được báo tiệp về các thủ đô từ nhiều hôm trước. Sứ đoàn
các nước đã được cử đến chiêm bái và thính một phần xá lợi về dựng tháp. Đại
diện Magadha, Vesali, Sakya, Koliya, Bulaya, Pava và Vetha đều có mặt. Họ đồng
ý chia xá lợi Bụt ra làm tám phần để an trú trong tám chiếc bảo tháp mà họ sẽ
xây dựng tại địa phương họ: người Magadha sẽ xây tháp ở Rajagaha, dân Licchavi
sẽ xây tháp ở Vesali, dân Sakya sẽ xây tháp ở Kapilavatthu, dân Buli sẽ xây
tháp ở Allakappa, dân Koliya sẽ xây tháp ở Ramagama, dân Vetha sẽ xây tháp ở
Vethadipa, dân Malla sẽ xây tháp một tháp ở Kusinara và một tháp khác ở Pava.
Các sứ
đoàn đã ra về; một ngàn vị khất sĩ cũng tuần tự giải tán và trở về trú sớ của
mình để hành đạo. Các đại đức Mahakassapa, Anaruddha và Ananda cũng rước bình
bát của Bụt về tu viện Trúc Lâm.
Chưa đầy
một tháng sau, đại đức Mahakassapa quyết định triệu tâp một đại hội các vị khất
sĩ về thủ đô Rajagaha để ôn tụng và kết tập tất cả những kinh và luật mà Bụt đã
dạy. Đại hội gồm năm trăm vị khất sĩ có thật tu và thật học được chọn lựa trong
giáo đoàn khất sĩ. Đạihội sẽ khai mạc vào đầu mùa an cư tới và sẽ kéo dài trong
sáu tháng.
Đại đức
Mahakassapa thường được các vị khất sĩ trong giáo đoàn tôn trọng như vị đại đệ
tử thứ Bụt, sau các vị Kondanna, Sariputta, và Moggallana.
Đại đức
nổi tiếng là người ưa sống đơn giản và đạm bạc. Đại đức đã được Bụt tin tưởng
và thương mến không khác gì các đại đức Moggallana và Sariputta. Hơn hai mươi
năm trước, áo ca sa sanghati của đại đức là một chiếc áo bách nạp kết lại bằng
hàng ngàn mảnh vải vụn. Có lần đại đức đã xếp tư chiếc áo ấy và trải ra trong
rừng mời Bụt ngồi, Bụt khen chiếc ác của đại đức ngồi rất êm. Đại đức liền ngỏ
ý cúng dường Bụt chiếc áo bách nạp ấy. Bụt mỉm cười nhận lời và tặng lại đại
đức chiếc áo sanghati của chính người. Trong đại chúng, ai cũng biết chuyện
này. Đại đức là người đã mỉm cười khi Bụt đưa cành sen lên mà không nói gì ở
giảng đường Cấp Cô Độc, là người đã tiếp nhận được “kho tàng của con mắt chánh
pháp” do Bụt trao truyền.
Vua
Ajatasattu đứng ra bảo trợ đại hội kết tập kinh luật này. Trong đại hội, đại
đức Upali vốn nổi tiếng về luật học đã được mời lên ôn tụng giới luật.
Nhờ
những câu hỏi của đại đức Mahakassapa mà đại đức Upali nhắc lại được hết những
nhân duyên, do đó các giới luật được thiết lập.
Đại đức
Ananda được đại hội thỉnh lên trùng tuyên tất cả những bài pháp thoại của Bụt
nói, gọi là kinh. Nhờ những câu hỏi của đại đức Mahakassapa và của đại chúng mà
đại đức Ananda có dịp nói ra hết những chi tiết về thời gian, nơi chốn và cơ
duyên đã đưa tới mỗi bài pháp thoại của Bụt.
Cố nhiên
là các đại đức Upali và Ananda không thể nhớ hết được tất cả mọi chi tiết; vì
vậy sự có mặt của năm trăm vị khất sĩ có thật học và thật chứng trong đại hội
đã bổ túc cho hai đại đức rất nhiều. Tất cả những tài liệu về giới và luật sau
khi kết tập được gom lại thành một kho tàng luật học được gọi là Luật Tạng
-vinaya pitaka. Tất cả những tài liệu về giáo lý được gom thành một kho tàng
kinh giáo gọi là Kinh tạng -sutta pitaka. Các kinh Bụt nói được phân làm bốn
bộ, căn cứ trên sự dài ngắn của kinh và cũng được xếp đặt theo đề tài và pháp
số. Về luật, đại đức Ananda có báo cáo với đại hội là Bụt đã từng dặn rằng sau
khi người diệt độ, những giới điều nhỏ nhặt có thể được bỏ bớt. Đại hội hỏi đại
đức Ananda xem Bụt có nói rõ là những giới điều nhỏ nhặt ấy là những giới điều
nào không, đại đức trả lời và vì đại đức không hỏi nên Bụt đã không nói. Đại
hội thảo luận rất lâu về vấn đề này và cuối cùng quyết định giữ lại tất cả mọi
giới điều, trong giới bản khất sĩ cũng như trong giới bản nữ khất sĩ.
Nhớ lời
Bụt, đại hội không chấp nhận việc dịch các kinh văn ra cổ ngữ của truyền thống
Vệ Đà. Ngôn ngữ Ardhamagadhi được xem như là sinh ngữ chính của tạng kinh và
tạng luật. Đại hội khuyến khích việc phiên dịch kinh văn ra các sinh ngữ địa
phương để dân chúng các nước có thể học hỏi và hành trì giáo lý bằng tiếng mẹ
đẻ của họ. Đại hội cũng khuyến khích việc tăng cường số lượng các vị bhanaka,
có nhiệm vụ tụng đọc thường xuyên các kinh văn để phổ biến và truyền tụng trong
hiện tại và trong vị lai.
Đại hội
hoàn mãn, mọi người lại trở về trú sở để tu học và hành hóa.
*****
Trên bờ
sông Nejanjara, đại đức Svastika đứng nhìn dòng nước chảy. Mấy em bé chăn trâu
bên bờ bên kia đang lùa bầy trâu xuống sông để lội qua bên này. Mỗi em bé đều
có mang theo liềm và giỏ. Bên này sông, cỏ kusa đã lên xanh mướt. Các bé đang
làm y hệt như đại đức Svastika trước đây bốn mươi lăm năm. Chúng để trâu ăn cỏ
trong khi chúng dùng liềm cắt cỏ kusa nhận đầy những chiếc giỏ đem theo.
Dòng
sông này là dòng sông ngày xưa Bụt thường xuống tắm. Cây bồ đề vẫn xanh tốt như
bao giờ. Đại đức đã tới đây từ chiều hôm qua và đã ngủ đêm dưới cội cây thân
yêu đó. Rừng không còn hoang vu như xưa, bởi vì cây bồ đề đã trở nên nổi tiếng
quá. Cây bồ đề đã trở nên một nơi để thiên hạ đến chiêm bái, vì vậy khu đồi đã
được dọn dẹp sạch sẽ, không còn rậm rạp và nhiều gai góc như ngày xưa.
Đại đức
Svastika may mắn có mặt trong đại hội kết tập và đã có cơ duyên nghe lại hết
kinh luật. Đại đức năm nay đã năm mươi sáu tuổi. Người bạn tu thân nhất của đại
đức là đại đức Rahula đã viên tịch trước đây năm năm.
Rahula
đã được các đại đức lớn công nhận là một vị khất sĩ có chí nguyện và hành động
lớn. Tuy là con nhà vương giả, đại đức Rahula đã học được nếp sống đơn giản và
bình dị. Công đức hóa độ của Rahula rất lớn nhưng ít ai biết đến, vì đại đức
Rahula không hề có tính khoe khoang; trái lại đại đức rất kín đáo và khiêm
nhượng. Lón hơn đại đức Rahula, nhưng đại đức Svastika đã học được rất nhiều từ
người bạn của mình. Đại đức Svastika cũng đã được theo Bụt trong chuyến đi chót
của người từ Rajagaha đến Kusinara và đã được chứng kiến những ngày giờ cuối
cùng của Bụt.
Đại đức
còn nhớ trên đường từ Pava đến Kusinara, đại đức đã nghe đại đức Ananda hỏi Bụt
định đi tới đâu. Bụt trả lời: đi về phương Bắc. Lúc ấy, đại đức Svastika có cảm
tưởng là mình hiểu được Bụt. Suốt đời, Bụt đã đi, nhưng người chỉ đi mà không
cần tới. Vì vậy cho nên người đi thong thả, cho nên mỗi bước của người đưa
người tới giờ phút hiện tại. Sự sống chỉ có mặt trong giờ phút hiện tại, ngay ở
chỗ mình đứng. Đại đức Svastika thấy Bụt hướng về miền Bắc mà đi, cũng như một
một con tượng chúa hướng về quê hương của nó mà đi, khi nó biết giờ đã tới để
nó trở về. Bụt đâu có cần phải về tới Kapilavatthu hoặc vường Lumbini mới có
thể nhập niết bàn. Đi về miền Bắc là đủ. Kusinara cũng chính là vườn Lumbini
vậy.
Cũng
chính vì nghĩ như thế mà đại đức đã về đây. Bờ sông Neranjara này là quê hương
của đại đức. Đại đức thấy mình vẫn còn là em bé chăn trâu mười một tuổi, một
mình phải đi chăn trâu cho người khác để nuôi ba đứa em thơ.
Thôn
Uruvela vẫn còn đó với những cây đu đủ sây trái ở vườn trước mọi nhà. Những
cánh đồng lúa vẫn còn, con sông hiền lành vẫn chảy. Lũ trâu hiền từ và các em
bé chăn trâu vẫn còn giữ trâu, tắm trâu và cắt cỏ như những ngày nào. Tuy chị
Sujata không còn đây, tuy ba đứa em đã có chồng có vợ đi làm ăn tứ tán, thôn
Uruvela và bờ sông Neranjara vẫn là quê hương của đại đức. Đại đức nhớ lại thuở
còn là em bé chăn trâu mười một tuổi, nhớ lại lần đầu gặp vị sa môn trẻ
Siddhatta đi thiền hành trong rừng, nhớ lại những bữa cơm trưa được ăn chung
với vị sa môn và với các em bé khác trong làng dưới gốc cây pipala râm mát. Tất
cả những hình ảnh đó tuy đã qua đi nhưng vẫn còn hiện thực. Đại đức biết rằng
nếu muốn, đại đức có thể làm cho những hình ảnh đó trở thành hiện tại. Một lát
nữa đây, khi bọn trẻ đưa trâu sang tới bờ bên này, đại đức sẽ đến làm quen với
chúng. Đứa nào cũng đang là Svastika. Đại đức cũng còn là Svastika. Nếu một
ngày năm xưa đã đưa đại đức vào con đường an lạc giải thoát thì hôm nay đại đức
cũng sẽ đưa được các em bé này vào con đường an lạc giải thoát.
Đại đức
Svastika mỉm cười. Tháng trước tại Kusinara, thầy có nghe đại đức Mahakassapa
kể chuyện vị khất sĩ Subhada. Vị khất sĩ này cùng đi với đại đức từ trên đường
từ Pava tới Kusinara. Khi nghe tin Bụt nhập diệt, vị này đã tỏ ý mừng rỡ, ông
ta nói: “Ông già đã tịch rồi, không còn ai kiểm soát và rầy la mình nữa, sướng
quá”. Nghe nói như thế đại đức Mahakassapa đã ngạc nhiên mở tròn hai mắt nhìn
vị đại đức trẻ tuổi Subhada này. Sao mà trong giáo đoàn của Bụt lại có người
dại dột đến thế, đại đức nghĩ, nhưng cuối cùng, đại đức đã không rầy la vị khất
sĩ Subhada kia một lời nào.
Đại đức
Mahakassapa không rầy la thầy Subhada, nhưng đại đức nghe nói rằng đại đức
Mahakassapa đã rầy la đại đức Ananda, dù đại đức Ananda là một vị đại đức lớn,
trên đầu đã có hai thứ tóc. Ai cũng biết rằng trong đại hội kết tập kinh luật,
sự có mặt của đại đức Ananda là rất cần yếu, vậy mà chỉ ba hôm trước ngày khai
mạc đại hội, đại đức Ananda đã bị sư huynh Mahakassapa khiển trách và dự tính
sẽ không chấp nhận vào trong số năm trăm vị khất sĩ thành viên của đại hội. Lý
do đưa ra là đại đức Ananda tuy kiến thức về đạo lý uyên bác, nhưng sự chứng
đắc chưa được vững vàng. Ai cũng e ngại đại đức sẽ phật ý bỏ đi. Ai ngờ đại đức
Ananda đã đóng cửa tĩnh tu trong luôn ba ngày đêm. Ngay trong đêm cuối cùng
trước ngày khai mạc đại hội, đại đức đã hoát nhiên đại ngộ. Theo các bạn tu kể
lại, việc này xảy ra lúc giữa giờ Sửu. Thiền tọa đến gần sáng, đại đức mới chịu
ngã lưng xuống để nghỉ ngơi, chính vào lúc mà đại đức ngã lưng xuống thì đại đức
đạt tới giác ngộ. Sáng hôm đó khi gặp đại đức Ananda, nhìn vào mặt đại đức, đại
đức Mahakassapa biết ngay việc gì đã xảy ra. Đại đức mời ngay đại đức Ananda
vào tham dự đại hội mà không cần nói thêm một lời hỏi han nào khác.
Nắng lên
cao, những đám mây trắng nhỏ vẫn còn lơ lững trên nền trời xanh biếc. Bờ sông
bên kia vẫn xanh mướt cỏ non. Con đường bờ sông này ngày xưa Bụt đã qua lại
nhiều lần. Con đường bờ sông này có thể dẫn về Banarasi, có thể dẫn về thủ đô
Savatthi, có thể dẫn về thủ đô Rajagaha, mà cũng có thể dẫn đi khắp chốn. Bụt
đã ghi dấu chân trên mọi nẻo đường hành hóa. Đi đâu đại đức cũng sẽ dẫm lên dấu
chân của người. Đường xưa còn đó, những đám mây tráng vẫn còn, nếu mình bước
một bước trên con đường này, bước với tâm trạng an hòa và tỉnh thức, thì con
đường xưa và những đám mây trắng cũ sẽ mầu nhiệm biến thành con đường hôm nay
và những đám mây trắng trong hiện tại. Những đám mây trắng ngày xưa còn đó và
con đường ngày xưa hiện thực nằm dưới chân ta.
Bụt đã
nhập diệt, nhưng nhìn vào đâu đại đức cũng thấy sự có mặt của Bụt.
Hạt
giống Bồ đề đã gieo rắc khắp nơi trong việc lưu vực sông Ganga; những hạt giống
ấy đã nứt mầm và mọc lên tươi tốt. Bốn mươi mấy năm về trước đã có ai nghe nói
tới Bụt đâu, đã có ai nghe nói đến đạo lý tỉnh thức đâu; vậy mà bây giờ đây,
không nơi nào mà không có bóng dáng những người khất sĩ áo vàng, không nơi nào
mà không có những trung tâm tu học. Các bậc vua chúa cũng đã quy y. Các giới
trí thức và quyền quý cũng đã quy y, các giới nghèo khổ bị xã hội khinh miệt nhất
cũng đã quy y và đã tìm thấy trong đạo tỉnh thức con đường giải phóng cho thân
phận và cho tâm linh mình. Bốn mươi năm về trước, Svastika chỉ là một chú bé
chăn trâu nghèo khổ thuộc giới ngoại cấp. Bây giờ Svastika đã trở nên một vị
khất sĩ vượt thoát xích xiềng của giai cấp, của mặc cảm, đứng lên trên mọi sự
kỳ thị và bất công.
Svastika
đã từng được các quốc vương thỉnh mời và chào hỏi với tất cả niềm cung kính của
họ. Bụt là ai mà công năng giải phóng lớn lao như vậy? Đại đức Svastika vừa
nhìn các em bé chăn trâu đang cắt cỏ bên bờ sông vừa đặt câu hỏi ấy. Tuy một số
các đại đệ tử của Bụt đã nối tiếp nhau viên tịch, giáo đoàn khất sĩ vẫn còn đầy
dẫy những vị đại đức xuất sắc, trong đó có rất nhiều giới trẻ, Bụt như hạt
giống của một cây bồ đề vĩ đại; hạt giống đã nứt ra, và một cây bồ đề đã mọc
lên hùng mạnh, tươi tốt. Nhìn vào người ta có thể không thấy hạt giống ấy nhưng
người ta thấy được cây bồ đề. Hạt giống không mất; hạt giống chỉ trở nên cây bồ
đề. Bụt đã từng dạy không có gì từ có mà trở nên không. Bụt chỉ hóa thân mà hề
biến diệt. Người có pháp nhãn nhìn vào giáo đoàn là trong thấy Bụt. Người có
pháp nhãn nhìn vào các vị khất sĩ trẻ có đạo phong, có đức độ và có tuệ giác
thì trông thấy Bụt. Đại đức Svastika thấy mình có bổn phận phải chăm lo vun tưới
cho pháp thân Bụt.
Pháp
thân đó là giáo pháp và giáo đoàn. Chừng nào giáo pháp và giáo đoàn còn hưng
thịnh thì chừng đó Bụt còn hiển hiện giữa muôn loài.
Nhìn các
em bé đã qua đời tới bên này sông, đại đức lại mỉm cười. Nếu ta không tiếp tục
sự nghiệp của Bụt để đem lại bình đẳng, an lạc và giải phóng cho các em bé này,
thì ai sẽ làm? Bụt chỉ mới bắt đầu công cuộc chuyển đổi.
Môn đệ
của người sẽ phải gánh trách nhiệm kế tiếp sự nghiệp của người.
Những
hạt giống bồ đề mà Bụt đã gieo rắc sẽ còn tiếp tục nứt mầm và bén rễ trong cuộc
sống. Đại đức Svastika nhận thấy tâm mình là ruộng đất trên đó Bụt đã gieo muôn
vạn hạt giống nhiệm mầu. Đại đức thấy mình phải cẩn trọng gìn giữ và tưới tẩm
tâm điền để những hạt giống ấy được mọc lên thành những cây bồ đề tươi tốt.
Người ta nói Bụt đã nhập diệt nhưng thầy Svastika lại thấy Bụt hiện thực hơn
bao giờ hết. Chính thân tâm của thầy cũng mang theo sự có mặt của Bụt. Nhìn cây
bồ đề, nhìn dòng sông Neranjara, nhìn bờ cỏ mướt, nhìn đám mây trắng, nhìn
chiếc lá trên cây, đại đức thấy ở đâu cũng có Bụt. Những em bé chăn trâu đang
bắt đầu cắt cỏ bên bờ sông kia cũng là Bụt. Đại đức nhận thức được liên hệ giữa
mình và các em bé ấy, và biết là mình sẽ phải nói gì và sẽ phải làm gì để các
em bé ấy trở thành sự tiếp nối của Bụt. Đại đức Svastika thấy rõ rằng phương
cách tiếp nối sự nghiệp của Bụt là nhìn mọi vật một cách tỉnh thức như Bụt đã
nhìn, bước những bước chân thanh thản như Bụt đã bước, và mỉm cười nụ cười từ
bi như Bụt đã cười. Bụt là suối nguồn. Thầy Svastika và các em bé chăn trâu bên
bờ sông là dòng sông liên tục chảy từ suối nguồn đó. Dòng sông đi tới đâu là
Bụt đi tới đó.
Đường
Xưa Mây Trắng - Bản đối chiếu Tên người và tên xứ bằng tiếng Pali, Phạn và Hán
Việt.
Bị chú:
những danh từ tiếng Phạn đều có dấu hiệu (s). Ngoài ra là tiếng Pali và tiếng
Hán Việt.
Lời tác giả
Về giáo
lý và tư tưởng, những kinh điển được trích dẫn trong sách này hầu hết đều là
những kinh điển thuộc văn hệ Nikaya (tạng Pali) và văn hệ A hàm (tạng Hán). Tác
giả đã có chủ ý không sử dụng nhiều các kinh Đại Thừa, với mục đích chứng minh
rằng những tư tưởng lớn của các kinh Đại Thừa đều đã có mặt đầy đủ trong các
kinh Nikaya và A hàm, và chỉ cần đọc các kinh này với một thái độ cởi mở là có
thể nhận ra được các tư tưởng lớn kia trong ấy. Kinh điển nào cũng là kinh điển
của đạo Bụt, dù là kinh Bắc tông hay Nam tông.
Kinh
điển Đại Thừa cho ta một cái nhìn phóng khoáng hơn về giáo lý căn bản của đạo
Bụt, có thể giúp ta phòng ngừa sự co rút lại của giáo lý và của những phương
pháp hành trì giáo lý. Giáo lý Đại Thừa giúp ta khám phá được chiều sâu của các
nền văn học Nikaya và A hàm, giống như ánh sáng chiếu vào đối tượng quán sát
của kính hiển vi, một đối tượng quán sát đã hơi biến hình và méo mó vì những thủ
thuật cất giữ nhân tạo. Cố nhiên là các kinh điển Nikaya và A hàm gần với đạo
Bụt nghuyên thỉ hơn, nhưng các kinh điển này đã bị sửa chữa và biến hình ít
nhiều vì cách hiểu và cách hành trì của những truyền thống đã có công truyền
thừa và cất giữ những kinh điển ấy. Các thế hệ học giả và hành giả tương lai
cần căn cứ trên kinh điển của cả hai truyền thống Bắc tông và Nam tông để có
thể khôi phục lại tinh thần nguyên thỉ của đạo Bụt. Chúng ta phải sử dụng tất
cả các kinh điển của cả hai truyền thống.
Tác giả
đã cố ý không nhắc tới những phép thần thông mà kinh sách thường hay sử dụng để
tô điểm cho cuộc đời của Bụt, những phép thần thông mà chính Bụt đã khuyên môn
đệ không nên để thì giờ và tâm lực vào việc luyện tập và sử dụng. Tác giả lại
không ngần ngại nói tới những khó khăn mà Bụt thường gặp phải trong đời sống
hàng ngày, ngoài xã hội cũng như trong gEEi môn đệ của chính người. Nếu trong
sách này Bụt được hiện ra như một con người khá gần gũi với chúng ta, một phần
đó là cũng do các nguyên cơ đã kể.
Tên
người và tên xứ bằng tiếng Pali được sử dụng trong sách này bởi vì tiếng Pali
dễ đọc hơn. Cuối sách có bản đối chiếu những tên người và tên xứ bằng tiếng
Pali, Phạn và Hán Việt để bạn đọc tham khảo.
---o0o---
HẾT
MỤC LỤC
Đường
xưa mây trắng (Chương 1 – 20)
Đường
xưa mây trắng (Chương 21 – 40)
Đường
xưa mây trắng (Chương 41 – 80)
Đường
xưa mây trắng (Chương 61 – 81 end)