Trang

Thứ Hai, 24 tháng 6, 2019

Thép đã tôi thế đấy (Phần II Chương 5-9)



Thép Đã Tôi Thế Đấy Phần 2 - Chương 5

Chiếc tàu điện lao lên phố Phun-đúc-cơ-lép-scai- a, đầu máy rú hung hăng. Tàu dừng lại trước nhà hát. Một toán thanh niên từ trên tàu bước xuống và xe điện lại tiếp tục chạy lên phố trên.

Pan-cơ-ra-tốp giục những đồng chí đi chậm ở phía sau:

- Nhanh chân lên các cậu. Trễ đứt đuôi đi rồi.

Đến cửa nhà hát, Ô-cu-nhếp đuổi kịp Pan-cơ-ra-tốp.

- Cậu còn nhớ không, Pan-cơ-ra-tốp. Trước đây ba năm, chúng mình cũng đi đến đây như thế này. Lúc đó thằng Đu-ba-va cùng “nhóm đối lập thợ thuyền” trở về với chúng ta. Bữa tôi ấy vui lắm. Thế mà hôm nay chúng mình lại đến choảng nhau với Đu-ba-va.

Mọi người đều chìa giấy chứng minh cho ban kiểm soát đứng ở ngoài cửa phòng họp xem, rồi đi vào phòng.

Lúc đó Pan-cơ-ra-tốp mới trả lời Ô-cu-nhếp:

- Ừ chuyện với thằng Đu-ba-va lại tái diễn ở chỗ này đây.

Người ta “suỵt” đừng nói chuyện. Họ phải ngồi vào những chỗ gần ngay đấy vì phiên họp buổi tối của hội nghị đã bắt đầu rồi. Trên diễn đàn, một bóng phụ nữ.

Pan-cơ-ra-tốp lấy tay thích vào sườn Ô-cu-nhếp thì thào:

- Vừa đúng giờ. Cậu ngồi yên mà nghe xem mụ vợ cậu nói gì.

- ... Chúng ta đã mất nhiều sức lực vào cuộc tranh luận này, điều đó đúng. Song, ngược lại, anh chị em thanh niên tham gia tranh luận đã học tập được nhiều. Chúng ta rất hả dạ thấy trong tổ chức của chúng ta những bọn theo phe tơ-rốt-skít đã bị đập mất mặt. Chúng không thể than trách rằng người ta không để cho chúng nói hết, trình bày đầy đủ những quan điểm của chúng. Thực tế trái ngược hẳn thế. Quyền tự do hành động mà chúng ta đã cho phép chúng, chúng đã lợi dùng quyền tự do đó vi phạm nghiêm trọng và rất nhiều lần kỷ luật của Đảng.

Nói đến đây, Ta-li-a tức sôi người lên, một mớ tóc xòa xuống mặt làm chị vướng. Chị hất đầu một cái, đưa mớ tóc về phía sau:

- Chúng ta đã được nghe nhiều đồng chí đại biểu các quận, đồng chí nào cũng nói đến những phương pháp mà bọn Tờ-rốt-skít đã dùng. Trong cuộc hội nghị này, bọn họ được cử đại biểu đến khá đông. Các quận đã có ý cho họ giấy chứng nhận lên đây, lên hội nghị Đảng ở thành phố này để một lần nữa, họ được trình bày ý kiến của họ. Nếu bọn họ đến đây mà câm như hến thì điều đó không phải là lỗi ở chúng ta. Bị thất bại thảm hại ở các quận và các chi bộ cũng đã mở mắt cho họ một chút nào rồi. Bây giờ đây, ngay từ trên diễn đàn này, họ cũng thấy khó mà phát biểu và lắp lại những điều vừa mới hôm qua học còn nhai nhải nói.

Từ góc rạp bên phải, có giọng xấc xược ngắt lời Ta-li-a:

- Đến lúc nói, bọn này sẽ nói.

Ta-li-a quay lại:

- Thế thì lên ngay diễn đàn này nói đi, Đu-ba-va. Chúng tôi sẵn sàng nghe anh nói.

Đu-ba-va nhìn chị bằng cặp mắt nặng nề và bực tức mím môi lại:

- Đến lúc nói, chúng tôi sẽ nói! - Hắn trả lời lại và sực nhớ đến ngay sự thất bại cay đắng của hắn hôm qua ở quận hắn ở, nơi mọi người đều biết hắn.

Có tiếng ồn ào chạy khắp phòng họp. Pan-cơ-ra- tốp không nén được nữa:

- Sao, các anh định phá Đảng lần nữa à?

Đu-ba-va đã nhận ra tiếng Pan-cơ-ra-tốp, nhưng không quay lại, chỉ cắn chặt môi và cúi đầu xuống. Ta-li-a tiếp tục:

- Chính Đu-ba-va có thể là một trong những ví dụ rất rõ về cách bọn tờ-rốt-skít vi phạm kỷ luật Đảng như thế nào. Đu-ba-va là một cán bộ cũ của Đoàn thanh niên cộng sản, nhiều đồng chí đã biết, đặc biệt là các đồng chí ở quân khí. Đu-ba-va hiện nay là một sinh viên ở Trường đại học cộng sản Khác-cốp, thế mà tất cả chúng ta đều biết rằng Đu-ba-va cùng với Sum-ski có mặt ở đây đã ba tuần nay. Vì sao đang ở giữa thời kỳ bận học nhất họ lại đến đây? Không có quận nào mà bọn họ không đến diễn thuyết. Thật ra, trong những ngày gần đây, Sum-ski cũng đã bắt đầu tỉnh lại. Ai gửi họ đến đây? Ngoài họ ra, trong chúng ta còn có nhiều phần tử tờ-rốt-skít từ các tổ chức khác đến. Tất cả bọn chúng trước đây có lúc đã làm công tác ở vùng này và bây giờ lại đến đây để khêu lên ngọn lửa xung đột trong nội bộ Đảng. Tổ chức Đảng có biết hiện nay họ ẩn ở đâu không? Tất là không.

Hội nghị chờ đợi những phần tử tờ-rốt-skít lên phát biểu nhận những sai lầm của chúng. Ta-li-a định mở đường cho chúng nhận, và những lời của chị không phải là những lời từ diễn đàn nói xuống mà như là trong một cuộc nói chuyện giữa những đồng chí với nhau:

- Các đồng chí chắc còn nhớ, cách đây ba năm, cũng ở trong nhà hát này, Đu-ba-va cùng “nhóm đối lập thợ thuyền” cũ đã trở về với chúng ta. Các đồng chí hãy nhớ lại những lời của Đu-ba-va: “Chúng tôi sẽ không bao giờ để ngọn cờ của Đảng tuột khỏi tay chúng tôi nữa” và chưa được ba năm thì Đu-ba-va đã bỏ rơi ngọn cờ đó. Phải, tôi quả quyết rằng đã bỏ rơi rồi. Vì những lời của Đu-ba-va vừa nói, “đến lúc nói, chúng tôi sẽ nói”, tỏ ra rằng anh ta và những kẻ cùng tư tưởng tờ-rốt-skít với anh ta sẽ còn bước xa hơn nữa.

Từ những hàng ghế sau cùng có tiếng vang lên:

- Để cho Túp-ta nói về cái phong vũ biểu xem, anh ta là nhà khí tượng học của bọn họ đấy.

(Trong cuộc đấu tranh chống Đảng, bọn tờ-rốt-skít gọi thanh niên là cái “phong vũ biểu của Đảng” để nịnh thanh niên hòng lôi cuốn họ theo chúng chống lại Đảng)

Có tiếng người quá nóng giận nổi lên.

- Thôi, đừng có đùa nữa!

- Để cho họ trả lời xem họ có chịu ngừng cuộc đấu tranh chống Đảng hay không?

- Để cho họ nói xem ai đã thảo ra bản tuyên ngôn chống Đảng?

Lòng căm phẫn càng tăng lên. Chủ tịch phiên họp lắc chuông hồi lâu. Lời nói của Ta-li-a đã bị chìm trong tiếng ồn ào. Nhưng, một lát sau thì tiếng ồn ào đã như giông bão dịu đi, và phòng họp lại nghe tiếng Ta-li-a:

- Chúng tôi có nhận được thư của các đồng chí chúng ta từ các địa phương lân cận: Các đồng chí đó tuyên bố ủng hộ chúng ta và điều đó càng cổ vũ chúng ta. Tôi xin phép đọc một đoạn trong một bức thư. Đây là thư của Ôn-ga I-u-nhê-rê-va. Nhiều người có mặt ở đây biết nữ đồng chí ấy. Hiện nay, Ôn-ga phụ trách phòng tổ chức của Liên quận đoàn thanh niên cộng sản.

Ta-li-a rút trong tập giấy ra một lá thư, xem lướt qua một lượt rồi đọc:

“Công tác thực tế đều gác lại hết; Đã bốn ngày rồi, toàn thể ban thường vụ đều xuống các quận: Bọn tờ- rốt-skít đã mở rộng một cuộc đấu tranh gay gắt chưa từng có. Hôm qua đã xảy ra một chuyện làm cả tổ chức đều căm phẫn. Sau khi không giành được đa số trong bất cứ một chi bộ nào ở thành phố, bọn đối lập đã quyết định tập trung lực lượng khai chiến trong chi bộ của dân ủy quân sự liên quận. Chi bộ này còn gồm các đảng viên cộng sản trong ban kế hoạch và các cán bộ giáo dục. Trong chi bộ có bốn mươi hai người, nhưng tất cả bọn tờ-rốt-skít đều tập trung ở đấy. Chúng tôi chưa từng nghe những bài diễn thuyết nào mà lại chống Đảng ra mặt như những bài chúng nói trong cuộc họp ấy. Một trong những tên đại biểu của dân ủy quân sự đã lên phát biểu và tuyên bố trắng ra rằng:” Nếu bộ máy của Đảng không chịu hàng thì chúng tôi sẽ dùng sức mạnh để bẻ gãy nó “. Bọn đối lập vỗ tay hoan nghênh lời tuyên bố ấy. Lúc bấy giờ, Pa-ven lên phát biểu và nói:” Sao các đồng chí là những đảng viên của Đảng mà lại có thể vỗ tay hoan nghênh cái thằng phát-xít ấy được? “. Bọn chúng không cho Pa-ven nói tiếp, chúng xô đẩy ghế ầm ĩ, gào thét om sòm. Căm phẫn trước hành động lưu manh đểu cáng của chúng, các đảng viên trong chi bộ đã yêu cầu để cho Pa-ven nói hết. Song, khi Pa-ven vừa cất tiếng thì chúng lại phá. Pa-ven thét vào mặt chúng:” Cái thứ dân chủ của chúng bay mới đẹp chứ! Mặc, tao cứ nói “. Lúc đó có nhiều đứa xô lại túm lấy Pa-ven và định ẩy anh ra khỏi diễn đàn. Chúng hành động rất dã man. Pa-ven giãy ra được và vẫn tiếp tục nói nhưng bọn chúng lại lôi anh ra hậu trường và ẩy anh qua cửa nách ném xuống cầu thang. Một tên trong lũ khốn nạn đó đã đánh anh chảy máu mắt. Hầu hết chi bộ đều bỏ họp. Chuyện xảy ra ấy đã mở mắt cho nhiều người...”

Ta-li-a đọc xong bức thư, rời khỏi diễn đàn.

*

Đã hai tháng nay, đồng chí Xê-gan phụ trách công tác tuyên huấn của Tỉnh ủy. Ngồi trên bàn chủ tịch đoàn, cạnh Tô-ca-rếp, đồng chí chăm chú lắng nghe những lời tham luận của các đại biểu hội nghị. Chỉ mới có những thanh niên trong Đoàn thanh niên cộng sản lên phát biểu. Xê-gan nghĩ thầm:

“Mấy năm qua, họ đã trưởng thành thật!”.

Đồng chí nói với Tô-ca-rếp: “Trọng pháo hãy còn chưa dùng đến đấy, thế mà bọn đối lập đã bị ngạt rồi. Chỉ lực lượng thanh niên thôi cũng đã đủ quật tơi bời lũ tờ-rốt-skít”.

Túp-ta nhảy lên diễn đàn. Tiếng xì xào phản đối; Một trận cười ngắn nổi lên chế giễu hắn. Túp-ta quay mặt lại phía chủ tịch đoàn, định phản đối thái độ đó của hội nghị đối với hắn, nhưng trong phòng đã trở nên im lặng rồi. Hắn tuôn ra một mạch:

- Ở đây có người gọi tôi là nhà khí tượng học. Như thế là các đồng chí miệt thị những quan điểm chính trị của tôi đấy, các đồng chí đa số ạ.

(Trong cuộc đấu tranh chống Đảng, bọn tờ-rốt-skít bị thiểu số nên chúng gọi đảng viên của Đảng là phái đa số.)

Cả phòng họp cười ồ lên át lời hắn nói. Túp-ta bối rối quay lại phía chủ tịch đoàn, lấy tay chỉ phòng họp:

- Dù các người có cười, tôi vẫn nói một lần nữa rằng thanh niên là cái phong vũ biểu. Lê-nin đã nhiều lần viết như thế.

Phòng họp bỗng im ngay. Từ những hàng ghế, có tiếng đưa lên:

- Lê-nin viết thế nào?

Túp-ta hứng lên:

- Khi chuẩn bị cuộc khởi nghĩa tháng Mười, Lê-nin đã ra chỉ thị tập hợp lớp thanh niên công nhân kiên quyết cách mạng lại, vũ trang cho họ và phái họ cùng với lính thủy đến những chỗ xung yếu nhất. Các người có muốn, tôi xin đọc đoạn ấy cho mà nghe. Tôi có ghi đủ hết những đoạn trích lời Lê-nin ghi trong sổ tay đây.

Rồi hắn bắt đầu lục cặp.

- Biết cả rồi, không cần đọc nữa.

- Thế Lê-nin còn viết những gì về vấn đề thống nhất?

- Và vấn đề kỷ luật của Đảng?

- Có chỗ nào Lê-nin lại đem thanh niên đối lập với lớp đồng chí già không?

Túp-ta lúng túng liền nói sang vấn đề khác:

- Ta-li-a vừa rồi đã đọc bức thư của Ôn-ga. Chúng tôi không thể trả lời về một vài trường hợp không bình thường xảy ra trong cuộc tranh luận được.

Svê-tai-ép ngồi cạnh Sum-ski bực tức càu nhàu:

- Thật là làm đầy tớ thằng khôn còn hơn làm thầy thằng dại.

Sum-ski cũng khẽ đáp lại:

- Ừ, cái thằng ngốc này đến làm chúng ta bị ngụp chết ngấm mất.

Túp-ta vẫn nói nheo nhéo như khoan vào tai người ta:

- Nếu các người đã tổ chức ra phái đa số, thì chúng tôi cũng có quyền tổ chức ra phái thiểu số.

Một trận bão căm phẫn nổi lên trong phòng họp. Tiếng phản đối giận dữ như mưa đá tới tấp choảng vào đầu hắn làm Túp-ta đinh tai nhức óc.

- Thế nào? Lại diễn lại chuyện bôn-sê-vích và men-sê-vích ư?

(Trong cuộc đấu tranh bảo vệ đường lối cách mạng, Lê-nin được đa số ủng hộ, bọn chống Lê-nin bị thiểu số. Do đó có tên “bôn-sê-vích” là người phái đa số và “men-sê-vích” là người phái thiểu số)

- Đảng cộng sản Nga không phải là nghị viện đâu nhớ!

- Chúng nó làm đầy tớ không công cho bọn men-sê-vích từ Mi-a-sni-cốp cho đến Mác-tốp.

Túp-ta vùng hai tay lên không, như là kẻ định trườn ra bơi, rồi nói liến thoắng:

- Phải, cần phải có tự do tổ chức các nhóm. Nếu không thì khi chúng tôi không đồng ý kiến với các người, chúng tôi làm sao có thể đấu tranh bảo vệ những quan điểm của chúng tôi chống lại phái đa số có tổ chức, có kỷ luật gắn bó nhau của các người được?

Tiếng chế giễu nổi lên khắp phòng họp. Pan-cơ- ra-tốp đứng dậy la lên:

- Để cho hắn ta nói hết. Biết được cũng hay. Túp- ta đã xì ra những điều mà bọn khác còn giấu.

Im lặng trở lại. Túp-ta hiểu rằng mình đã quá đà. Chưa phải là lúc cho ra cái khoản đó. Ý nghĩ của hắn đã đi lạc đường và khi kết luận thì hắn lại tuôn ra một mớ lời rơi tõm vào phòng họp:

- Tất nhiên là các người có thể khai trừ và đẩy chúng tôi vào một xó. Chuyện ấy đã bắt đầu rồi. Người ta đã loại tôi ra khỏi tỉnh đoàn thanh niên cộng sản. Không can gì. Rồi sẽ biết chân lý về ai.

Và hắn từ trên diễn đàn bước xuống phòng họp.

Đu ba-va nhận được mảnh giấy của Svê-tai-ép:

“Đu ba-va, cậu lên phát biểu ngay đi. Thật ra, cậu cũng chẳng xoay chuyển được tình thế đâu. Sự thất bại của chúng ta đã sờ sờ ra rồi. Nhưng cần phải nói để chữa lại những lời phát biểu của Túp-ta. Nó thật là một thằng ba hoa, chúa ngốc”.

Đu-ba-va xin lên phát biểu. Người ta liền cho hắn nói ngay.

Khi hắn bước lên sân khấu, không khí im lặng căng thẳng trùm lấy phòng họp. Đu-ba-va cảm thấy lạnh người trong không khí im lặng rất thông thường trước khi có người nói, cái lạnh người của kẻ bị cô lập. Hắn không còn máu hăng của những lần lên nói ở các chi bộ nữa. Mỗi một ngày, ngọn lửa lại nhụt đi, và bây giờ đây, hắn như một đống củi đang cháy bị giội nước chỉ còn bốc lên một làn khí khét lèn lẹt: Khói ấy chính là bệnh tự ái ốm yếu của hắn khi bị chạm nọc, vì sự thất bại quá rõ rằng của bọn hắn, vì sức phản đối kiên quyết của các bạn cũ, khói ấy còn là thái độ ngoan cố của hắn không chịu nhận sai lầm của mình. Hắn định cứ thế phớt đi, cắm đầu bước, tuy biết rằng thái độ đó chỉ làm hắn càng xa thêm đa số. Hắn nói giọng khàn khàn nhưng rành rọt:

- Tôi yêu cầu đừng ngắt lời tôi và dùng những lời bắt bẻ uy hiếp tôi. Tôi muốn trình bày một cách đầy đủ quan điểm của chúng tôi tuy biết trước rằng có trình bày cũng vô ích, vì các người là đa số.

Hắn vừa nói dứt lời, phòng họp ầm ầm lên như có một quả lựu đạn nổ. Tiếng la ó như bão táp đổ xuống đầu Đu-ba-va. Người ta mắng, người ta chửi như roi ngựa quất vào mặt hắn!

- Thật nhục nhã!

- Đả đảo bọn chia rẽ!

- Thôi im đi! Trát bùn nhơ đã đủ rồi!

Tiếng cười chế giễu theo Đu-ba-va, khi hắn tự trên sân khấu bước xuống, và tiếng cười đó đã giết hắn. Nếu người ta giận dữ tức tối mắng hắn thì hắn còn thấy dễ chịu hơn. Nhưng đằng này người ta cười chế giễu hắn như chế giễu một ca sĩ hát lạc điệu, rồi tưng hửng đứng trơ ra.

Chủ tịch tuyên bố.

- Sum-ski lên phát biểu ý kiến.

Sum-ski đứng dậy:

- Tôi xin thôi phát biểu.

Từ những hàng ghế sau vang lên giọng ồ ồ của Pan-cơ-ra-tốp:

- Xin nói!

Nghe tiếng, Đu-ba-va đã hiểu ngay tâm trạng của Pan-cơ-ra-tốp. Chỉ khi nào có ai xúc phạm đến anh kịch liệt thì người công nhân khuân vác đó mới nói giọng như vậy.

Đu-ba-va đưa mắt tức tối nhìn theo bóng dáng cao cao hơi gù của Pan-cơ-ra-tốp đang rảo bước lên diễn đàn. Đu-ba-va đâm lo. Hắn biết trước những điều Pan-cơ-ra-tốp sẽ nói. Hắn sực nhớ đến cuộc gặp mặt hôm qua ở Xô-lô-men-ca với các bạn cũ. Cùng đi với hắn có Svê-tai-ép và Sum-ski. Họp mặt ở nhà Tô-ca- rếp. Ở đó có Pan-cơ-ra-tốp, Ô-cu-nhếp, Ta-li-a, Vô- lưn-xếp, Dê-lê-nốp, Sta-rô-vê-rốp, Ác-chu-khin. Trong cuộc nói chuyện thân mật, các bạn cũ đã muốn thuyết phục Đu-ba-va từ bỏ nhóm đối lập. Nhưng Đu- ba- va làm thinh như câm như điếc trước cố gắng của anh chị em muốn khôi phục lại sự thống nhất trong nội bộ. Giữa lúc thảo luận đang hăng thì Đu-ba-va cùng với Svê-tai-ép bỏ ra về, tỏ rõ thái độ không chịu công nhận sai lầm. Sum-ski ở lại. Và bây giờ Sum- ski từ chối không phát ngôn. Đu-ba-va căm giận nghĩ thầm: “Thật là một tên trí thức nhu nhược. Đúng là nó đã bị bọn đó thuốc cho rồi!”.

Trong cuộc đấu tranh quyết liệt này, Đu-ba-va đã mất hết các bạn thân. Ở trường đại học cộng sản, hắn đã cắt đứt tình bạn lâu đời với Giác-ki: Trong cuộc họp hiệu đảng ủy, Giác-ki đã kịch liệt chống lại lời tuyên bố của “bốn mươi sáu phần tử tờ-rốt-skít”. Càng về sau, khi sự phân hóa mỗi ngày một trở nên sâu sắc, Đu-ba-va cạch mặt, không chuyện trò gì với Giác-ki nữa. Nhiều lần, Đu-ba-va thấy Giác-ki đến nhà mình thăm An-na. An-na Bô-khac là vợ Đu-ba- va, lấy nhau đã một năm nay. Hai người đều ở buồng riêng. Đu-ba-va cho rằng những quan hệ gay go giữa mình và An-na là người không đồng quan điểm với hắn, càng ngày càng trở nên trầm trọng hơn lên, vì một lẽ nữa là Giác-ki hay đến thăm An-na. Không phải vì chuyện ghen tuông, nhưng thấy An-na thân với Giác-ki là người mà Đu-ba-va không muốn nói năng chuyện trò gì nữa thì hắn đâm ra tức tối. Đu- ba-va đã nói với An-na điều đó. Hai người cãi nhau kịch liệt và quan hệ hai bên lại càng căng thẳng thêm. Đu ba-va đến đây cũng chẳng nói gì cho An-na biết cả.

Những lời của Pan-cơ-ra-tốp làm đứt quãng luồng ý nghĩ thoáng qua nhanh trong đầu óc Đu-ba-va:

- Các đồng chí! - Pan-cơ-ra-tốp nói rành rọt mấy tiếng đó bằng một giọng chắc nịch. Anh bước lên diễn đàn và đứng ngay cạnh dãy đèn sân khấu:

- Các đồng chí! Trong suốt chín ngày chúng ta đã nghe tham luận của các đại biểu phái đối lập. Tôi nói thẳng ra rằng: Những lời phát biểu của họ không phải là lời của những chiến hữu, những chiến sĩ cách mạng, những người bạn cùng giai cấp và cùng chiến đấu của chúng ta. Những lời phát biểu ấy của họ là những lời của bọn thù địch không đội trời chung, những lời oán cừu, những lời vu khống. Phải, chính là những lời của bọn vu khống, các đồng chí ạ! Bọn chúng mưu định vu cho những người bôn-sê-vích chúng ta là những kẻ thi hành chế độ “dùi cui” trong Đảng, vu cho chúng ta là những người phản bội quyền lợi của giai cấp và của cách mạng. Đội ngũ ưu tú nhất, đội ngũ đã được thử thách nhất của Đảng ta, đội vệ quân già dặn gồm những người bôn-sê-vích quang vinh, lớp người đã rèn luyện và giáo dục nên Đảng cộng sản Nga, lớp người đã từng bị nền chuyên chế của Nga hoàng đày đọa điêu đứng trong các nhà tù, lớp người đứng đầu là đồng chí Lê-nin, đã tiến hành cuộc đấu tranh quyết liệt chống chủ nghĩ men-sê-vích quốc tế và tên Tơ-rốt-skit. Lớp người đó bị bọn đối lập âm mưu gọi là những đại biểu của chủ nghĩa quan liêu trong Đảng! Còn ai có thể nói được những lời đó, nếu không phải là kẻ thù của chúng ta? Đảng và bộ máy của Đảng lại không phải là một khối thống nhất hay sao? Tôi xin lỗi các đồng chí, âm mưu của họ giống âm mưu của bọn nào? Nếu có những kẻ đẩy các chiến sĩ trẻ của Hồng quân chống lại chỉ huy và chính ủy của mình, chống lại bộ tham mưu, ngay cả giữa lúc đội quân đang bị địch bao vây bốn phía, nếu có những kẻ hành động như thế, thì chúng ta gọi bọn chúng là hạng người gì? Đây nhé, hôm nay tôi còn là thợ nguội, vậy thì theo ý kiến của bọn tờ-rốt-skít, tôi có thể được xem là một người “trung thực”, nhưng nếu mai tôi trở thành bí thư Đảng ủy thì lập tức tôi là “thằng quan liêu”, là một tên “thơ lại” rồi! Các đồng chí ạ, thật là quái gở? Trong nhóm đối lập nổi lên chống chủ nghĩa quan liêu, đòi dân chủ, có những nhân vật như Túp-ta, là kẻ cách đây không lâu đã bị cách chức vì bệnh quan liêu, như Svê-tai-ép mà mọi người ở Xô-lô-men-ca đều biết cái thứ “dân chủ” của anh ta, hay là A-pha-na-xi-ếp mà Tỉnh ủy đã triệt chức ba lần vì anh ta quen thói chỉ tay năm ngón và hành động độc đoán trong quận Pô-đôn-ski. Sự thật đã hiển nhiên là tất cả những bọn bị Đảng đập cho, đã liên kết lại với nhau trong cuộc đấu tranh chống Đảng. Về “chủ nghĩa bôn-sê-vích” của Tơ-rốt- skit, thì cứ để cho các chiến sĩ bôn-sê-vích già nói cho mà nghe. Cần thiết phải cho thanh niên biết cái lịch sử của Tơ-rốt-skit đấu tranh chống những người bôn- sê-vích, biết những hành động nhảy hết từ phe này sang phe khác của hắn. Cuộc đấu tranh chống bọn đối lập đã càng thắt chặt hàng ngũ chúng ta, đã làm cho trình độ thanh niên ta mạnh thêm về mặt tư tưởng, về mặt lý luận. Trong cuộc đấu tranh chống những khuynh hướng tiểu tư sản, Đảng bôn-sê-vích và Đoàn thanh niên cộng sản đã lại được rèn luyện thêm một lần nữa. Những tên gây hoang mang điên rồ của phe đối lập tiên đoán là chúng ta sẽ phá sản hoàn toàn về kinh tế và về chính trị. Tương lai sẽ đánh giá lời tiên đoán đó đáng giá mấy xu. Bọn chúng đòi phải đuổi những đồng chí già của chúng ta, chẳng hạn như bác Tô-ca-rếp trở về với bàn thợ, còn chỗ của những đồng chí đó thì thay bằng cái “phong vũ biểu” đã long ốc, vào loại như Đu-ba-va là kẻ cho rằng đấu tranh chống Đảng là một thứ gì anh hùng lắm. Không đời nào, các đồng chí ạ. Không đời nào chúng ta làm như vậy. Các đồng chí già sẽ có lớp người mới lên thay thế, nhưng lớp người ấy không phải là bọn người mỗi lúc Đảng gặp khó khăn lại hầm hè tiến công dữ dội vào đường lối của Đảng. Chúng ta sẽ không cho phép kẻ nào phá hoại sự thống nhất của Đảng vĩ đại của chúng ta. Không thể nào chia rẽ được đội vệ quân già và đội vệ quân trẻ. Trong cuộc đấu tranh không điều hòa chống những khuynh hướng tiểu tư sản, dưới ngọn cờ của Lê-nin, chúng ta nhất định thắng.

Pan-cơ-ra-tốp rời khỏi diễn đàn. Anh được vỗ tay hoan hô sôi nổi.

*
Ngày hôm sau có mười hai người họp mặt ở nhà Túp-ta. Đu-ba-va nói:

- Hôm nay mình và Sum-ski đi Khác-cốp. Ở đây chúng mình không còn việc gì làm nữa. Các cậu gắng sức giữ vững, đừng phân tán. Bây giờ chúng ta chỉ còn nước đợi tình hình biến chuyển. Tất nhiên, Hội nghị toàn quốc sẽ lên án bọn mình. Nhưng định đàn áp chúng mình ngay thì mình thấy thế là sớm quá. Phái đa số đã quyết định còn kiểm tra thêm chúng ta trong công tác. Hiện thời, nếu đấu tranh công khai, nhất là sau Hội nghị toàn quốc, thì là làm mình bị bật ra khỏi Đảng mất, điều đó kế hoạch hành động của ta không muốn như thế. Giờ cũng khó dự đoán được về sau sẽ ra sao. Mình thấy cũng không còn gì nói thêm nữa.

Và Đu-ba-va đứng dậy, chực đi.

Sta-rô-vê-rốp người gầy, môi mỏng, cũng đứng lên. Giọng Sta-rô-vê-rốp vừa hơi ngọng, vừa nói lắp:

- Đu-ba-va ạ, mình vẫn không hiểu ý cậu. Sao, nghị quyết của hội nghị, chúng ta không bắt buộc phải phục tùng hay sao?

Svê-tai-ép cắt đứt lời Sta-rô-vê-rốp:

- Theo điều lệ thì là bắt buộc, nếu không thì người ta sẽ thu mất thẻ đảng viên của cậu. Còn chúng ta thì sẽ xem xem gió thổi chiều nào che chiều ấy. Bây giờ thì hãy giải tán.

Túp-ta ngồi không yên trên ghế, cựa quậy một cách nóng nảy. Sum-ski mặt tái, nhăn nhó, hai mắt quầng thâm vì những đêm mất ngủ, ngồi ở cửa sổ gặm móng tay. Nghe những lời cuối cùng của Svê-tai-ép, Sum- ski đột nhiên tức giận, thôi cắn móng tay, quay lại nói với mọi người, giọng ồm ồm:

- Mình phản đối cái lối tính toán như vậy. Riêng ý kiến cá nhân mình cho rằng nghị quyết của hội nghị đối với chúng mình là bắt buộc. Chúng mình đã bảo vệ những quan điểm của chúng mình, nhưng hội nghị đã quyết định, chúng mình phải phục tùng.

Sta-rô-vê-rốp nhìn Sum-ski tỏ ý tán thành và nói líu ríu:

- Mình cũng định nói thế.

Đu-ba-va nhìn chòng chọc vào Sum-ski và nói rít giữa hai hàm răng, cố ý mỉa mai:

- Thì có ai đề nghị với cậu phải làm gì đâu. Cậu vẫn còn khả năng để “ăn năn tự hối” ở cuộc hội nghị tỉnh kia mà.

Sum-ski nhảy phắt xuống.

- Đu ba-va, cậu nói giọng gì đấy? Mình nói thẳng ra rằng những lời nói của cậu đẩy mình xa cậu và bắt buộc mình phải xét lại quan điểm trước đây của mình.

Đu-ba-va giơ tay gạt đi một cách khinh bỉ:

- Cậu rút cuộc chỉ còn có cách ấy thôi. Đi mà ăn năn tự hối đi, hãy còn chưa muộn đâu.

Rồi Đu-ba-va bắt tay Túp-ta và những người khác, chào họ ra về.

Được một lát, Sum-ski và Sta-rô-vê-rốp cũng đi ra.

*

Năm một nghìn chín trăm hai mươi bốn bắt đầu bằng một trận rét cắt ruột. Trời tháng Giêng, gió rét căm căm trên đất nước ngập tuyết phủ, và suốt cả nửa tháng về cuối, bão tuyết và những trận cuồng phong rít lên từng đợt kéo dài.

Đường xe lửa Tây Nam, tuyết phủ chắn lấy đường sắt. Người ta đấu tranh chống cơn giận dữ của thiên nhiên. Chân vịt bằng thép của những máy quét tuyết thọc sâu vào những đống tuyết trắng để dọn đường cho xe lửa chạy. Băng giá và bão tuyết làm đứt tung những đường dây điện báo phủ băng. Trên mười hai đường dây chỉ còn làm việc được có ba: Đường điện báo từ Âu sang Ấn và hai đường dây trực tiếp với trung ương.

Trong phòng điện tín của ga Sê-pê-tốp-ca 1, ba cái máy “Moóc” không ngừng tiếng tạch tè, một thứ tiếng chỉ có tai quen nghề nghe mới hiểu.

Những cô điện báo viên trẻ tuổi, từ lúc vào nghề đến giờ dịch băng chữ điện tổng cộng chưa quá hai mươi cây số. Trong khi đó thì người đồng nghiệp già của các cô đã làm đến hai trăm cây số và đã bắt đầu sang trăm thứ ba rồi. Ông đọc điện không như các cô không phải nhăn trán vất vả, không phải đọc cả câu để đoán những chữ khó. Ông nghe tiếng tạch tè của máy và ghi ngay chữ nọ nối tiếp chữ kia ra tờ giấy chép điện in sẵn. Tai ông nhận được: “Toàn thể đồng bào, toàn thể đồng bào, toàn thể đồng bào”

Tay ghi, ông già điện báo viên nghĩ bụng: “Chắc lại thêm một thông tri nữa về cuộc đấu tranh gạt tuyết chắn đường”. Ngoài kia, bão lốc ném từng nắm tuyết vào cửa kính. Ông điện báo viên già có cảm tưởng như có ai gõ vào cửa kính. Ông quay đầu ra và mải ngắm trong giây lát những gợn băng in lên cửa kính những nét vẽ vui mắt. Bàn tay con người không thể nào khắc nên bức chạm tinh vi có nhiều cành lá kỳ lạ muôn hình muôn vẻ như thế được.

Ông già mải ngắm cảnh ấy nên đãng trí quên nghe tiếng máy truyền và khi cặp mắt của ông quay lại không nhìn cửa sổ nữa, ông cầm băng chữ lên tay để đọc những chữ từ nãy bỏ qua.

Máy truyền:

“Ngày hai mươi mốt tháng Giêng, lúc sáu giờ năm mươi phút”...

Người điện báo viên ghi lại rất nhanh hàng chữ vừa đọc. Rồi ông bỏ băng chữ xuống, lấy tay chống đầu, bắt đầu nghe:

“Hôm qua tại Gor-ki đã từ trần”... Ông già thong thả ghi lại. Trong đời ông, có biết bao nhiêu tin vui, tin buồn tai ông đã từng nghe. Ông là người đầu tiên biết nỗi đau khổ và niềm vui của người khác. Từ lâu, ông đã thôi không đi sâu làm gì vào ý nghĩa của những câu vắn tắt, rời rạc; Tai ông nghe và tay ông như cái máy viết lên giấy, không hề nghĩ đến nội dung nói gì.

Bây giờ, chắc là có ai chết, và người ta báo tin buồn cho người thân. Ông đã quên mất đầu bức điện: “Toàn thể đồng bào, toàn thể đồng bào, toàn thể đồng bào”. Cái máy kêu tách tách: “V-ơ-l-a-đ-i-m-i-a-I-l-i-t-sơ”. Và ông già phiên âm ra tiếng viết những tiếng gõ tạch tè của chiếc búa nhỏ ấy. Ông vẫn ngồi yên bình tĩnh, người hơi mệt - “Chắc là có người nào là Vơ- la-đi-mia I-lít-sơ vừa chết đâu đây” - ông già sẽ viết những chữ báo tin đau đớn cho người thân của họ; Người nhận sẽ thổn thức vì đau thương và thất vọng. Song đối với ông, chuyện ấy chẳng có gì liên quan đến cả, ông chỉ là người chứng kiến dửng dưng thôi. Máy điện truyền những cái chấm, những cái gạch, rồi lại những cái chấm, những cái gạch, và từ những dấu hiệu quen thuộc ấy, ông già đã viết ra chữ đầu tiên đưa lên băng. Đấy là chữ “L”. Rồi ông ghi tiếp sang chữ thứ hai, chữ “E”, bên cạnh, ông nắn nót chữ “N”, gạch đi gạch lại nét chéo ở giữa ngay sau đó ông thêm chữ “I” và sau đó, tay ông như máy ghi tiếp chữ cuối cùng, chữ “N”.

Cái máy dừng lại một lát và trong một phần mười giây đồng hồ, ông già trố mắt nhìn vào chữ ông vừa viết xong: “LÊ-NIN”.

Máy lại tiếp tục gõ, nhưng ý nghĩ của ông già điện báo bị cái tên thân thuộc đó làm chú ý lại trở lại suy nghĩ về cái tên Lê-nin. Ông nhìn lại một lần nữa chữ cuối cùng: “LÊ-NIN”. Sao?... Lê-nin?... Nhãn quan của ông dõi vào toàn văn bức điện. Ông nhìn tờ giấy một hồi và, trong ba mươi hai năm làm việc, đây là lần đầu tiên ông không thể nào tin điều mình đã viết.

Ông đưa mắt đọc những dòng chữ đến ba lần xem có thật là mình đã ghi đúng thế hay không; Song những chữ ấy vẫn cứ nhắc lại một cách ngang ngạnh: "Vơ- la-đi-mia I-lít-sơ Lê-nin đã từ trần. Ông già nhảy phắt xuống, nâng băng điện xoắn ốc lại ấy lên và nhìn chòng chọc. Đoạn băng dài hai thước đó đã khẳng định điều mà ông không có thể tin được! Ông quay lại phía các bạn đồng nghiệp của mình, mặt xanh nhợt đi. Họ đều nghe tiếng kêu kinh hoàng của ông:

- Lê nin mất rồi!

(Nguyên văn bức điện nhận được là: “Đã từ trần Vơ-la-di-mia I-lít-sơ Lê-nin”. Lối nói của ngữ pháp Nga như thế cho nên thoạt nghe mấy chữ trên, ông điện báo viên vẫn chưa ngờ đấy chính là Lê-nin từ trần.)

Tin cái tang lớn ấy đã từ phòng điện báo qua cửa lớn mở toang, và nhanh như cơn gió lốc, truyền đến nhà ga, hòa lẫn vào trận bão tuyết, quay cuồng trên các đường đi, trên các ngã ba và như một luồng hơi lạnh buốt, lùa vào một bên cửa bọc sắt mở hé của kho đầu máy.

Một đầu tàu đứng trên rãnh chữa thứ nhất: Đội tiểu tu đang chữa chiếc đầu tàu đó. Cụ già Pô-len- tốp-ski tự cho mình chui vào rãnh ngay dưới gầm chiếc đầu tàu và chỉ cho anh em thợ nguội những bộ phận bị dơ, bị hỏng. Bác Bơ-ru-giắc đang cùng với A-rơ-chom dàn bằng cái vỏ bọc bánh xe. Bác giữ thỏi sắt ra lò trên đe, lật đi lật lại cho A-rơ-chom nện búa.

Bác Bơ-ru-giắc đã già đi trong mấy năm gần đây. Những thử thách mà bác đã trải in sâu trên trán bác. Tóc bác hai bên thái dương đã nhuốm bạc, lưng bác đã còng đi, hai mắt bác đã trũng sâu vào như chứa đầy bóng chiều tàn.

Có bóng người thoáng qua kẽ hở sáng của cửa xưởng đầu máy rồi bị chìm ngay vào bóng tối nhá nhem. Tiếng đập sắt làm át tiếng kêu đầu tiên của người ấy nhưng khi người đưa tin ấy chạy tới đám công nhân đang làm việc trên chiếc đầu tàu thì A-rơ-chom đang giương búa lên, không đập búa xuống nữa.

- Các đồng chí! Lê-nin mất rồi!

Chiếc búa từ từ rơi thõng, tay A-rơ-chom hạ búa xuống sàn xi-măng không một tiếng động.

- Anh nói cái gì thế? - Tay A-rơ-chom như những gọng kìm nắm chặt lấy cái áo tơi da cừu của người vừa đem tin kinh hoàng kia đến.

Và người kia, mình đầy tuyết bám, thở hổn hển, nhắc lại, nhưng lần này giọng nghẹn ngào, nức nở:

- Phải, các đồng chí ạ, Lê-nin đã từ trần...

Và chính vì lần này, người ấy không kêu lên nữa, A-rơ-chom mới hiểu sự thật ghê gớm đã xảy ra và nhìn mặt người báo tin, nhận ra là đồng chí bí thư Đảng bộ.

Từ trong rãnh, anh em công nhân bò lên, im lặng nghe tin về cái chết của người mà toàn thế giới đều biết tiếng.

Ở ngoài cửa, một chiếc đầu máy rúc còi rú lên làm mọi người rùng mình. Có tiếng rú nữa ở đầu nhà ga đáp lại rồi tiếng thứ ba... Trong tiếng kêu mạnh và bi thảm của những dịp còi tàu, có lẫn cả tiếng thét vút cao, xé trời xé đất của còi máy cái nhà máy điện, nghe như tiếng trái phá nổ tung lên. Tất cả những tiếng ấy bị át trong tiếng còi đồng lanh lảnh của chiếc đầu máy đẹp hiệu chữ “S” ở chuyến tàu tốc hành sắp sửa lên đường đi Ki-ép.

Đồng chí nhân viên Cục chính trị Nhà nước giật nảy mình và ngạc nhiên: Người thợ máy chuyến xe tốc hành Ba Lan “Sê-pê-tốp-ca - Vác-sa-va”, sau khi đã biết nguyên nhân tiếng còi báo động, lắng tai nghe đến một phút, rồi từ từ giơ tay và kéo dây xích nhỏ mở nắp còi tàu ra.

Anh công nhân ấy hiểu rằng đây là lần kéo còi cuối cùng của anh, anh sẽ không còn được làm trên chuyến tàu này nữa, nhưng bàn tay anh không thể rời dây còi được. Và tiếng còi rú trên đầu tàu anh lái đã làm cho những giao thông viên và bọn ngoại giao Ba Lan sợ hãi đứng dậy khỏi các ghế đi-văng mềm trong các ngăn của toa.

Các cửa mở toang, người ùn ùn kéo vào đầy xưởng đầu máy nhà ga. Khi tòa nhà rộng lớn đã chật ních người, trong không khí im lặng đau đớn của tang chung, bật lên những lời nói đầu tiên, lời nói của người đảng viên bôn-sê-vích già, đồng chí Sa-ra-bơ-rin, bí thư đảng ủy Sê-pê-tốp-ca:

- Các đồng chí! Lãnh tụ của vô sản toàn thế giới, đồng chí Lê-nin đã mất. Đồng chí mất đi, tổn thất của Đảng ta không lấy gì hàn gắn được. Người đã sáng lập ra Đảng bôn-sê-vích, Người đã giáo dục Đảng tinh thần đấu tranh không thỏa hiệp trước quân thù... Người hôm nay không còn nữa... Lãnh tụ của Đảng ta và của giai cấp mất đi, cái chết của Người gọi vào hàng ngũ của Đảng những người con ưu tú nhất của giai cấp vô sản.

Âm nhạc cử bài mặc niệm, hàng trăm con người đứng bỏ mũ, và A-rơ-chom cảm thấy nghẹn ngào trong cổ đôi vai khỏe run lên. Mười lăm năm nay, giờ anh mới khóc là một.

Tường dày của câu lạc bộ công nhân đường sắt dường như không chịu nổi sức xô đẩy của khối người. Ngoài kia, tuyết rơi buốt giá. Đôi cây thông rậm cành lối cửa đi vào bám đầy tuyết và tuyết đóng thành băng nhô ra như kim tua tủa. Thế mà trong phòng thì ngột ngạt vì hơi nóng giá của lò sưởi và hơi thở của sáu trăm con người tha thiết muốn được tham dự lễ truy điệu do Đảng bộ tổ chức.

Trong phòng họp không có tiếng ồn ào, không có tiếng trò chuyện như mọi khi hội họp. Đau buồn đã làm những giọng nói khàn đi; Người ta khẽ nói, và trong hàng trăm cặp mắt đều lộ vẻ ngẩn ngơ vì thương tiếc đau đớn. Dường như đây là tập hợp cả đoàn thủy thủ của một con tàu đã bị sóng cồn biển cả cướp đi mất người cầm lái dày dạn kinh nghiệm của mình.

Những ủy viên của ban thường vụ Đảng ủy cũng lặng lẽ ngồi vào ghế chủ tịch đoàn. Đồng chí bí thư Xi rô-tên-cô từ từ cầm cái chuông và lắc rất nhẹ, rồi đặt ngay xuống bàn. Thế cũng đủ rồi. Im lặng nặng trĩu lòng người dần dần chiếm lấy cả gian phòng.

Vừa đọc xong diễn văn truy điệu, đồng chí Xi-rô- tên-cô đã đứng dậy nói. Vấn đề đồng chí nêu lên thật là khác hẳn lệ thường trong một buổi lễ truy điệu, vậy mà nghe đồng chí nói, không ai lấy làm ngạc nhiên cả.

Đồng chí Xi-rô-tên-cô nói như thế này:

“Ba mươi bảy đồng chí công nhân đề nghị chúng ta trong buổi họp này xét đơn xin gia nhập Đảng của các đồng chí ấy”.

Và Xi-rô-tên-cô đọc to:

“Kính gửi Đảng bộ Đảng cộng sản bôn-sê-vích của nhà ga Sê-pê-tốp-ca, khu vực đường sắt Tây-nam. Lãnh tụ mất đi, cái chết của Người đã gọi chúng tôi đến gia nhập đội ngũ những người bôn-sê-vích Chúng tôi mong được thẩm tra lý lịch ngay trong cuộc họp hôm nay và được kết nạp vào Đảng của Lê-nin”.

Sau những hàng chữ vắn tắt ấy có hai cột chữ ký.

Xi-rô-tên-cô đọc tên những chữ ký ấy, sau mỗi tên lại dừng lại mấy giây để mọi người có mặt có thể nhớ lấy những tên mà họ đều biết cả:

- Pô-len-tốp-xki Sta-nhi-láp, thợ máy xe lửa, ba mươi sáu năm làm nghề.

Tiếng xôn xao tán thành lan khắp phòng họp.

- A-rơ-chom Ca-rơ-sa-ghin, thợ nguội, mười bảy năm làm nghề.

- Bơ-ru-giắc Gia-kha-rơ thợ máy xe lửa, hai mươi mốt năm làm nghề.

Càng đọc, càng nghe thấy tiếng xì xào bàn tán nổi lên trong phòng. Xi-rô-tên-cô đứng cạnh bàn cứ tiếp tục đọc tên này kế tiếp tên khác. Phòng họp lắng nghe tên những người công nhân con nhà thợ gốc của ngành đường sắt.

Ai nấy đều im bặt khi người ký tên đầu tiên xin vào Đảng đi gần lại bàn.

Kể lại lịch sử đời mình, cụ già Pô-len-tốp-ski có thể nào không xúc động được?

- ... Các đồng chí, tôi biết nói gì hơn nữa bây giờ? Cuộc đời người thợ trong chế độ cũ có thế nào, ai mà chẳng biết. Sống thì sống y như nô lệ mà tuổi già chết đi thì chết cùng chết khổ. Tôi xin thú thực rằng khi Cách mạng đến, tôi tự cho mình già lão rồi. Gánh gia đình nặng trĩu hai vai nên tôi đã bỏ lỡ dịp đi con đường vào Đảng. Tuy trong đấu tranh, tôi đã không bao giờ làm lợi cho kẻ thù, song tôi thật ít tham gia vào cuộc chiến đấu. Năm 1905, khi làm ở các xưởng tại Vác-sa-va, tôi cũng có chân trong ủy ban bãi công và cùng đi theo với các anh em bôn-sê-vích. Hồi bấy giờ tôi còn trẻ, trong lòng hăng hái. Nhưng thôi, nhắc lại chuyện cũ làm gì? Lê-nin mất đi, lòng tôi đau xót. Mất Người là mãi mãi từ đây anh em ta mất một người bạn, mất người bênh vực giai cấp chúng ta. Và bây giờ tôi không còn nói được rằng tôi đã già!... Thôi để anh em khác lên nói hay hơn tôi, tôi không phải là người ăn nói. Tôi chỉ nói chắc một điều rằng: Con đường những người bôn-sê-vích đi là con đường của tôi và không thể khác được.

Cái đầu bạc của người thợ máy già lắc một cách quả quyết và dưới đôi mày xám, mắt cụ nhìn phòng họp, vững vàng thẳng thắn, không chớp, như chờ đợi quyết định chung của mọi người.

Không ai giơ tay phản đối việc kết nạp cụ già thấp bé, tóc đã hoa râm ấy vào Đảng. Khi Đảng ủy đề nghị quần chúng ngoài Đảng cho ý kiến thì ai cũng tán thành.

Cụ già Pô-len-tốp-ski rời diễn đàn trở về chỗ, từ nay đã là một đảng viên cộng sản rồi.

Mỗi người dự lễ hôm nay đều hiểu giờ phút này có một cái gì khác thường. Chỗ cụ thợ máy vừa đứng nói lúc nãy bây giờ đã hiện ra bóng dáng đồ sộ của A-rơ-chom. Người thợ nguội ngượng ngùng không biết giấu hai cánh tay dài đi đâu, vò trong bàn tay chiếc mũ có bịt tai. Chiếc áo tơi lông cừu mòn gấu để hở khuy, cổ áo va-rơ nhà binh màu xám cài khuy đồng cẩn thận làm cho hình dáng anh nghiêm chỉnh, trịnh trọng. A-rơ-chom quay mặt lại phía phòng họp và thoáng nhận ra khuôn mặt phụ nữ quen thuộc: Đấy là Ga-li-na, người con gái bác thợ đá, ngồi trong đám thợ xưởng khâu. Trong nụ cười đầy khoan thứ của chị, có chiều khuyến khích đồng tình và còn có một cái gì chưa nói hết nữa ẩn trên làn môi. Người thợ nguội nghe tiếng Xi-rô-tên-cô nhắc:

- Đồng chí A-rơ-chom, báo cáo với hội nghị lý lịch của đồng chí đi!

Bắt đầu nói thật là khó. A-rơ-chom không quen nói ở các cuộc họp lớn. Mãi bây giờ anh mới cảm thấy một đời người làm lụng khó nhọc chồng chất bao nhiêu ý nghĩ trong đầu nói ra thế mà khó thật. Khó tìm ra lời mà nói, lại cảm động nữa, làm sao mà nói được. Chưa bao giờ anh thấy mình như hôm nay. Anh nhận thấy rất rõ cuộc đời mình đến một chỗ ngoặt hẳn hoi đây anh sắp sửa bước lên một bước cuối cùng, có bước lên như thế thì cuộc đời khô khan cằn cọc của anh mới ấm áp lên được và mới có ý nghĩa.

- Mẹ tôi có bốn người con...

A-rơ-chom bắt đầu. Trong phòng im phăng phắc. Sáu trăm con người chăm chú nghe lời tự thuật của anh thợ cao lớn mũi khoằm khoằm, mắt nấp dưới lớp lông mày đen rậm.

- Mẹ tôi đi ở nấu bếp. Còn cha tôi thế nào tôi không nhớ rõ nữa: Tôi chỉ biết hai người ăn ở với nhau không hợp. Cha tôi hay rượu chè quá chén. Mẹ tôi làm ăn vất vả để nuôi ngần ấy miệng ăn. Bọn chủ trả cho mẹ tôi bốn rúp một tháng với cơm nuôi; Lấy được bốn đồng rúp mẹ tôi phải nai lưng ra làm từ sáng bảnh mắt đến tối mịt. Tôi hãy còn may, thuở bé được đi học trường sơ học được hai năm biết đọc, biết viết. Nhưng năm tôi lên mười thì nhà hết gạo, không còn cách nào khác, mẹ tôi phải đưa tôi vào học việc ở nhà một lão thợ khóa. Ở ba năm không một đồng công, chỉ có cơm nuôi... Lão chủ - người Đức - tên là Phéc-stơ. Hắn không muốn nhận tôi vào làm, bảo tôi còn bé quá. Nhưng tôi là một đứa bé sức lực, mẹ tôi nói tăng cho tôi thêm hai tuổi nữa. Tôi ở với hắn được ba năm. Hắn chẳng dạy gì nghề cả mà chỉ sai vặt và bắt chạy đi mua rượu vốt-ca cho hắn: Hắn ta nghiện rượu, nốc bao nhiêu cũng không vừa. Người ta sai tôi đi xách than, khiêng sắt... Mụ chủ biến tôi thành thằng hầu của mụ: Nào đi đổ bô cho mụ, nào là đi gọt khoai cho mụ. Ai cũng đá tôi được, lắm lúc tự nhiên vô cớ cứ quen chân là đá. Hễ mụ chủ bực mình cái gì là cứ lôi tôi ra vả vào mặt. Hễ thằng chồng say rượu là mụ bực dọc với cả mọi người. Mụ đánh một lần, mụ đánh hai lần. Tôi bỏ đi. Nhưng biết đi đâu? Biết kêu ai? Nhà mẹ thì ở xa đến bốn mươi dặm, mà trốn ở nhà cũng không yên được... Ở xưởng cũng chẳng hơn gì. Em mụ chủ làm vương làm tướng ở đấy. Cái thằng khốn nạn ấy thích hành hạ tôi. Hắn bảo: “Mày cầm cục kia đưa cho tao”. Và hắn chỉ xuống đất, chỉ vào một góc gần lò rèn. Tôi vào đấy lấy cục sắt. Cục sắt ấy vừa hắn vừa nung, mới rút ra khỏi lò. Cục sắt nằm đen đen trên đất nhưng mó tay vào là bỏng cháy thịt lòi xương. Tôi bị đau thét lên. Còn hắn thì phá ra cười khoái trá. Tôi không thể chịu được nơi tù ngục ấy, nên bỏ về với mẹ. Mẹ cũng không biết đưa vào đâu, lại dẫn đến thằng Đức ấy, dọc đường mẹ tôi khóc mãi. Làm được hai năm thì chúng cũng bắt đầu dạy nghề bập bõm cho, nhưng vẫn cứ tiếp tục đánh đập. Tôi lại bỏ trốn đi đến Sta-rô-công-stan-ti-nốp, xin vào làm một nhà hàng bán thịt và chịu khổ chịu nhục ở đấy cạo rửa ruột lợn đến một năm rưỡi trời. Thằng chủ đánh bạc nướng mất cơ nghiệp và quịt của chúng tôi bốn tháng lương, không trả lấy một hào, rồi bỏ đi đằng nào mất. Thế là tôi lại ra khỏi cái xó ấy. Lên tàu xuống Giơ-mê-rin-ca đi tìm việc làm. May có một bác thợ xưởng kho thông cảm tình cảnh của tôi. Bác ấy biết tôi bập bõm tí nghề thợ nguội, bèn nhận tôi làm cháu và xin việc với lão chủ. Trông mặt, nó cho tôi đã mười bảy tuổi và do đó được vào làm phụ thợ nguội. Tôi làm ở xưởng ta đây được chín năm rồi. Cuộc đời đã qua của tôi là như thế. Còn về cuộc đời hiện tại thì các đồng chí đều biết cả rồi.

A-rơ-chom lấy mũ thấm mồ hôi trán và trút ra một hơi thở dài. Anh thấy phải nói điều cốt yếu nhất, khó nói nhất, không cần đợi ai hỏi, phải nói ngay. Và cau mày lại, anh kể tiếp:

- Mỗi người có thể hỏi rằng: Tại sao tôi không vào Đảng bôn-sê-vích ngay từ khi bùng nổ: Hỏi thế thì tôi biết trả lời thế nào? Tôi chưa già gì cho cam, thế mà mãi đến bây giờ tôi mới nhận ra đường đi. Tôi không giấu giếm gì cả. Phải, chúng tôi đã bỏ lỡ dịp đi vào con đường ấy. Đáng lẽ chúng tôi phải giác ngộ từ cái năm 1918, dạo bãi công chống Đức ấy. Hồi đó, đồng chí lính thủy Giu-khơ-rai đã nói chuyện với chúng tôi nhiều lần. Thế mà mãi đến năm 1920 tôi mới cầm súng đi bộ đội. Hết đánh nhau, ném hết bọn trắng xuống Hắc Hải rồi thì lại về nhà. Tôi lập gia đình, sinh con đẻ cái... Cứ lúi húi vào việc nhà. Nhưng giờ đây, đồng chí Lê-nin của chúng ta mất đi và Đảng ra lời kêu gọi, tôi nhìn lại cuộc đời tôi và tôi hiểu rằng đời tôi thiếu mất một cái gì. Bảo vệ chính quyền Xô-viết cũng chưa đủ. Tất cả chúng ta phải hưởng ứng lời kêu gọi, chúng ta phải đồng tâm hiệp lực mà bù lại chỗ trống của đồng chí Lê-nin, để chính quyền Xô viết của chúng ta vững mạnh như một núi thép. Chúng ta phải trở thành những đảng viên bôn-sê- vích vì Đảng chính thật là Đảng của chúng ta!

A-rơ-chom lúng túng vì cách nói không quen của mình. Anh kết thúc lời phát biểu một cách giản dị, nhưng thật là chân thành. Nói xong, anh thấy như đã trút được gánh nặng trên vai, anh đứng thẳng người lên, đợi chờ anh em hỏi lại.

Xi-rô-tên-cô phá tan không khí im lặng:

- Có ai muốn chất vấn gì không?

Hàng người cựa quậy, nhưng không ai lên tiếng ngay. Một bác thợ đốt lò người đen như củ súng, vừa rời đầu máy xe lửa đi thẳng đến đây dự lễ ngay, nghe hỏi thì đáp lại bằng giọng quả quyết:

- Còn chất vấn làm gì nữa? Chúng ta lại còn không biết đồng chí đó hay sao. Phát cho đồng chí ấy cái thẻ đảng viên đi thôi.

Bác thợ rèn Ghi-li-a-ca người thâm thấp, mặt đỏ lên vì nóng và óc nghĩ căng thẳng, giọng nói khàn khàn, run run:

- Tay như thế chẳng bao giờ xuống dốc cả, một đồng chí vững đấy. Cho biểu quyết đi thôi, đồng chí Xi rô-tên-cô ạ!

Ở những hàng cuối, chỗ các đoàn viên thanh niên cộng sản ngồi, có một người đứng dậy, trong bóng tối không rõ là ai. Người ấy nói:

- Đề nghị đồng chí A-rơ-chom cho biết tại sao đồng chí lại quá dính chặt với ruộng đất? Cơ sở nông thôn của đồng chí có làm đồng chí xa rời tư tưởng vô sản không?

Trong phòng hơi có tiếng xì xào, không tán thành câu hỏi đó. Có tiếng phản đối.

- Nói cho giản dị! Đây không phải lúc nói chữ...

Song A-rơ-chom đã trả lời rồi:

- Không sao cả, các đồng chí ạ! Đồng chí vừa rồi nói là tôi đã quá dính chặt với ruộng đất. Đồng chí ấy nói đúng đấy. Thật vậy, nhưng có điều là tôi không vì thế mà mất được ý thức giai cấp của người thợ đâu. Kể từ ngày hôm nay, tôi xin dứt khoát. Tôi sẽ cùng gia đình dọn đến ở gần sở đầu máy, như thế chắc con người hơn. Bởi vì, cái mảnh ruộng ấy cũng làm tôi vất vả khó thở lắm.

Lòng A-rơ-chom lại bồi hồi lần nữa khi anh nhìn thấy cả rừng cánh tay cùng giơ lên. Anh thấy nhẹ hẳn người, thân vươn lên, bước về chỗ. Đằng sau anh nghe tiếng Xi-rô-tên-cô tuyên bố.

- Nhất trí tán thành.

Người thứ ba lên cạnh bàn chủ tịch là bác Bơ-ru- giắc người “ét” cũ tính ít nói của ông già Pô-len-tốp- ski, từ lâu cũng đã ra đứng đầu máy. Bác kể về cuộc đời lao động của mình. Khi kể đến những ngày gần đây, giọng bác hạ thấp xuống, nhưng rõ ràng, để ai cũng nghe rõ được.

- Tôi phải làm cho xong sự nghiệp mà các con tôi đã bắt đầu. Thằng Xéc-gây và con Va-li-a nhà tôi hy sinh không phải là để cho tôi ngồi chết dúi trong xó bếp với nỗi đau khổ của mình. Chúng nó chết đi, tôi đã không biết đứng lên thế vào chỗ chúng nó bỏ lại, nhưng ngày nay lãnh tụ mất đi, cái chết của Người đã mở mắt cho tôi. Các đồng chí đừng hỏi tôi về dĩ vãng làm gì. Bắt đầu từ ngày hôm nay đây, chúng tôi mới thật là sống cho ra sống.

Bác Bơ-ru-giắc nói đến đây thì rầu nét mặt, nghĩ đến hai con mà lòng quặn lại. Nhưng khi mấy trăm cánh tay đều nhất trí giơ lên nhận bác vào Đảng, không ai chất vấn điều gì, thì đôi mắt bác sáng lên và mái đầu hoa râm không cúi gằm xuống ngực nữa.

Đến tận đêm khuya, trong xưởng đầu máy, người ta vẫn tiếp tục bình nghị những đảng viên mới. Chỉ những người ưu tú nhất mới được nhận vào Đảng, những người mà ai nấy đã hiểu rõ, tất cả cuộc đời của họ là một bảo đảm.

Cái chết của Lê-nin đã dẫn đến với Đảng hàng trăm ngàn công nhân. Lãnh tụ mất đi, không hề lầm đội ngũ của Đảng tan tác. Đảng ví như cây to, bám chặt rễ sâu vào đất, dù cho ngọn có gãy đi, cây vẫn không tàn héo.

Thép Đã Tôi Thế Đấy Phần 2 - Chương 6

Hai người đứng gác ở cửa phòng hòa nhạc của khách sạn. Người cao lớn mang kính kẹp mũi, trên tay áo có cái băng đỏ đề chữ: “Phụ trách trật tự”.

Ri-ta hỏi:

- Đoàn đại biểu U-crơ-ren họp ở đây phải không?

Người đó trả lời, giọng hách dịch:

- Phải, chị muốn gì?

- Xin phép cho tôi vào.

Anh ta chắn ngang lấy lối ra vào, mắt nhìn Ri-ta và hỏi:

- Chị cho xem giấy chứng minh. Chỉ có các đại biểu có thẻ chính thức và dự thính mới được vào đây.

Ri-ta rút từ trong ví tay ra một cái thẻ viết chữ vàng. Người kia cầm lấy đọc: “Ủy viên Ban chấp hành Trung ương”. Giọng hách dịch của người đó bỗng biến đi ngay, và anh ta lập tức trở nên lễ phép và “thân mật”.

- Xin mời đồng chí vào. Mời đồng chí đi sang bên phải, còn nhiều chỗ chưa ai ngồi.

Ri-ta đi qua giữa các hàng ghế, tìm được chỗ không, ngồi xuống. Cuộc họp của các đại biểu gần xong. Chị lắng nghe diễn văn của chủ tịch phiên họp, nhận ra hình như giọng nói quen quen.

- Các đồng chí, thế là chúng ta đã cử xong đại biểu vào các bộ phận công tác của Đại hội. Còn hai tiếng đồng hồ nữa thì Đại hội sẽ khai mạc. Tôi xin phép kiểm tra lại lần nữa danh sách các đại biểu đã đến dự Đại hội.

Ri-ta nhận ta A-kim: Chính anh đang đọc vội bản danh sách.

Mỗi lần A-kim gọi tên, có những bàn tay cầm thẻ đỏ hay trắng giơ lên để đáp lại. Ri-ta hết sức chú ý nghe. Đây là một tên quen thuộc:

- Pan-cơ-ra-tốp.

Ri-ta quay nhìn về phía bàn tay vừa giơ lên, nhưng trong dãy các đại biểu ngồi, chị không thể phân biệt được nét mặt quen của người công nhân khuân vác. Những tên người nối tiếp nhau và trong số đó có tên “Ô-cu-nhếp”, liền sau đấy lại một tên khác cũng quen nữa: “Giác-ki”.

Ri-ta trông thấy Giác-ki. Giác-ki ngồi ngay gần, mặt quay nghiêng về chỗ chị. Anh ta kia, nét mặt lâu ngày chị đã quên mất rồi. Phải, Giác-ki đấy. Đã bao nhiêu năm trời, chị chưa gặp lại Giác-ki.

Những tên trong danh sách cứ tiếp nhau đọc lên rồi qua đi và bỗng nhiên có tên một người làm cho Ri-ta giật thót mình.

- Pa-ven Ca-rơ-sa-ghin.

Mãi tận xa, đằng hàng ghế trước, một bàn tay giơ lên và hạ xuống. Và có điều rất lạ, không hiểu tại sao Ri-ta thấp thỏm khao khát được thấy mặt ngay người có tên trùng với tên người bạn cũ của chị đã hy sinh. Chị chăm chăm nhìn về phía lúc nãy có bàn tay giơ lên, chị nhìn không rời mắt, nhưng nào có thấy gì, những đầu người dường như đều giống nhau cả. Ri-ta đứng dậy đi men rìa tường, lại gần mấy hàng ghế đầu. A-kim đã đọc hết. Tiếng ghế xô đẩy ầm ầm, các đại biểu bắt đầu nói chuyện to, tiếng cười của tuổi trẻ vang lên và A-kim cố nói át tiếng ồn trong phòng:

- Bây giờ tại Nhà hát lớn! Các đồng chí nhớ đừng đến trễ đấy?

Ngoài cửa, người ùn ùn đi ra, bị nghẽn lại.

Ri-ta hiểu rằng giữa cái thác người này, khó tìm cho được một ai quen thuộc trong số những người mà chị vừa nghe đọc tên. Chỉ còn cách đừng bỏ mất bóng A-kim, nắm được A-kim thì có thể tìm được những bạn khác. Chị nhường cho nhóm đại biểu cuối cùng đi trước rồi bước về phía A-kim.

Bỗng phía sau chị có tiếng nói:

- Thế nào Pa-ven? Cùng đi thôi chứ, mày?

Rồi có tiếng rất quen thuộc, thoạt nghe chị đã nhận ra ngay, nhớ ra ngay:

- Ta cùng đi.

Ri-ta quay lại. Trước mặt chị là một thanh niên cao lớn, da ngăm ngăm, mặc áo va-rơ màu ka-ki, có thắt một dây da Cô-ca-dơ mỏng, và mặc quần đi ngựa màu xanh thẫm.

Ri-ta trố mắt nhìn người thanh niên ấy, và khi đôi tay bạn thân thiết ôm chặt, và giọng bạn run run kêu khẽ “Ri-ta”, thì chị đã hiểu thanh niên ấy chính là Pa-ven Ca-rơ-sa-ghin.

- Pa-ven còn sống ư?

Mấy tiếng đó đã nói với Pa-ven tất cả! Ri-ta không hề biết rằng cái tin Pa-ven hy sinh là một tin nhầm.

Phòng họp đã vắng hẳn. Từ phố Tơ-véc-scai-a, phố lớn nhất của thành phố, tiếng ồn ào vọng vào cửa sổ mở toang. Đồng hồ treo tường đã điểm sáu tiếng rồi, nhưng hai người có cảm tưởng như vừa mới gặp nhau cách đây vài phút. Tiếng chuông đồng hồ giục hai người đi đến nhà hát lớn. Khi đi xuống cầu thang rộng ra cửa, Ri-ta còn đưa mắt nhìn lại Pa-ven một lượt nữa. Bây giờ Pa-ven đã đứng cao hơn Ri-ta một nửa đầu người rồi. Nhưng trông Pa-ven vẫn như xưa, chỉ khác là cứng cỏi hơn, trầm tĩnh, vững vàng hơn.

- Đấy Pa-ven thấy không, Ri-ta quên mất cả không hỏi bây giờ Pa-ven công tác ở đâu?

- Pa-ven là Bí thư Đoàn thanh niên cộng sản liên quận, hay là nói như Đu-ba-va thường nói: Làm “thơ lại” rồi. - Và Pa-ven mỉm cười.

- Pa-ven gặp anh ta à?

- Có gặp. Và cuộc gặp ấy đã để lại cho tôi một kỷ niệm khó chịu.

Hai người bước ra. Ngoài phố, tiếng còi xe hơi inh ỏi phố xá nhộn nhịp, ồn ào. Dọc đường đến Nhà hát lớn, hai người đều im lặng, hầu như không nói chuyện với nhau, nhưng đều nghĩ về một chuyện như nhau. Cả một biển người huyên náo, dữ dội, vây lấy Nhà hát lớn. Biển người ấy kéo tới tòa nhà đá đồ sộ của nhà hát, định ùa vào những cửa có anh em bộ đội Hồng quân đứng gác, nhưng những người gác rất hắc kia chỉ cho các đại biểu vào thôi. Những ai được vào đều lấy làm hãnh diện đưa giấy chứng minh ra, khi bước qua hàng dây ngăn cửa.

Biển người bao quanh nhà hát toàn là những đoàn viên thanh niên cộng sản. Những anh chị em đó không có giấy mời, nhưng tha thiết muốn được đến dự cho được lễ khai mạc Đại hội. Có những anh láu cá đi lẫn vào giữa nhóm đại biểu và cũng giơ lên một miếng giấy gì đo đỏ, miễn là phải thật đúng màu giấy chứng minh của đại biểu, thế là họ có lúc vào được gần cửa trong. Một vài người lọt được vào cửa. Nhưng đến đây họ lại đụng phải đồng chí ủy viên Trung ương hoặc người phụ trách trật tự đứng túc trực, chờ dẫn khách mời lên gác, còn đại biểu thì đi vào tầng dưới. Và mấy anh láu cá kia liền bị đuổi ra ngoài làm cho những tay “không vé” khác khoái chí.

Nhà hát không thể chứa được một phần hai mươi tổng số những người muốn vào dự.

Ri-ta và Pa-ven chen vất vả lắm mới đến được cửa. Các đại biểu đến mỗi lúc một đông: Xe điện, xe hơi đưa họ tới. Ngoài cửa, người xô đẩy nhau. Các đồng chí bộ đội gác, cũng là những đoàn viên thanh niên cộng sản, bị một mẻ gay go. Các đồng chí bị xô ép đến tận tường. Có tiếng kêu to lên gần cửa vào:

- Ê! Các cậu khu Bâu-man chen vào đi nhé.

- Chen vào đi các cậu, thế nào cũng vào được đấy.

- Vào này!...

Cùng lúc ấy, Pa-ven và Ri-ta đi vào cửa, có một cậu bé mắt sắc, đeo huy hiệu thanh niên cộng sản, lừa lúc bất thần lẻn vào cửa. Cậu ta tránh được mặt người “phụ trách trật tự”, liền lẩn vào phía trong. Chỉ một nháy mắt là cậu ta đã biến vào thác người đi họp.

Ri-ta và Pa-ven đi vào tầng dưới; Ri-ta chỉ dãy ghế bành ở cuối, nói với Pa-ven:

- Chúng ta ngồi đây.

Hai người ngồi vào một góc.

- Ri-ta muốn Pa-ven trả lời một câu hỏi. Tuy là chuyện cũ, song Ri-ta tin rằng Pa-ven sẽ trả lời: Tại sao hồi ấy Pa-ven lại bỏ dở việc học tập và cắt đứt tình bạn của chúng ta như thế?

Pa-ven đã chờ đợi câu hỏi ấy ngay từ phút đầu tiên gặp gỡ; Vậy mà anh vẫn cứ lúng túng. Hai cặp mắt bắt gặp nhau và Pa-ven hiểu rằng Ri-ta đã biết tất cả rồi.

- Tôi tưởng rằng Ri-ta đã hiểu tất cả. Đã ba năm rồi đấy nhỉ và bây giờ đây Pa-ven chỉ còn có thể trách cậu Páp-ca về cách xử sự lúc bấy giờ. Chính Pa-ven là người đáng trách trong chuyện này. Pa-ven trong đời mình đã có nhiều sai lầm, lớn có, nhỏ có, và một trong những sai lầm đó chính là điều Ri-ta vừa hỏi.

Ri-ta mỉm cười:

- Pa-ven vào đề khéo lắm. Nhưng Ri-ta chờ một câu trả lời kia!

Pa-ven hạ thấp giọng:

- Trong chuyện này, không phải chỉ riêng Pa-ven có lỗi. Mà đấy cũng là lỗi ở truyện Ruồi trâu nữa, ở cái lãng mạn cách mạng của nhà hiệp sĩ này. Những cuốn sách tả các chiến sĩ cách mạng dũng cảm đầy quyết tâm và ý chí, không biết sợ sệt, đem cả thể lực lẫn tinh thần hiến cho sự nghiệp của chúng ta, những cuốn sách đó để lại cho tôi một ấn tượng không bao giờ phai nhòa, nuôi trong người tôi cái mong muốn noi gương những anh hùng ấy. Và trong tình cảm đối với Ri-ta, tôi đã bắt chước Ruồi trâu nén tình cảm xuống. Ngày nay thì nhận ra thái độ đó thật buồn cười, hơn thế, lại còn rất là đáng tiếc nữa.

- Thế nghĩa là bây giờ ý kiến của Pa-ven về Ruồi trâu đã khác đi rồi hay sao?

- Không, Ri-ta ạ! Về căn bản thì không! Tôi chỉ muốn tước bỏ đi cái phần bi kịch vô ích, đem ý chí mình thử thách vào những việc không cần đến, tự mình gây cho bản thân mình đau đớn không lợi gì. Nhưng còn cái phần căn bản, chủ yếu trong Ruồi trâu thì tôi rất tán thành, tán thành đức tính dũng cảm, tinh thần kiên nhẫn không bờ bến của Ruồi trâu, tán thành con người biết chịu đựng được đau khổ, không kêu ca, không hề ngỏ cho một ai biết. Tôi rất tán thành, rất hâm mộ hình ảnh đó của con người cách mạng, con người thấy được rõ ràng so với sự nghiệp chung, thì bất cứ cái gì thuộc cá nhân mình thật không đáng là bao.

Ri-ta tư lự mỉm cười nói với Pa-ven:

- Pa-ven ạ, giờ chỉ còn biết tiếc là câu chuyện này đáng lẽ phải nói với nhau cách đây ba năm rồi kia, thế mà bây giờ mới nói.

- Sao lại tiếc, hở Ri-ta? Phải chăng vì Pa-ven đối với Ri-ta không bao giờ có thể đi quá tình đồng chí không hơn không kém ư?

- Không. Đáng lẽ Pa-ven đã có thể đi xa hơn thế nhiều lắm, Pa-ven ạ.

- Bây giờ còn có thể nối lại được.

- Hơi muộn rồi, đồng chí Ruồi trâu ạ.

Ri-ta mỉm cười về câu đùa của chính mình và nói cho Pa-ven rõ:

- Ri-ta đã có một cháu bé, cháu bé gái xinh xắn lắm. Cháu bé có bố nó, bố cháu là một người bạn lớn của Ri-ta. Ba người sống với nhau thân lắm và bây giờ đây tay ba không thể nào rời nhau ra được.

Những ngón tay của Ri-ta nắm lấy bàn tay Pa-ven tỏ vẻ lo ngại cho Pa-ven. Song Ri-ta hiểu là lo ngại vô ích. Phải, ba năm qua, Pa-ven đã lớn hẳn lên rồi, không những chỉ thân thể lớn lên không thôi. Ri-ta biết giờ đây Pa-ven đang đau đớn: Mắt Pa-ven để lộ ra vẻ đau đớn ấy. Nhưng Pa-ven đã chân thành nói với Ri-ta:

- Dù sao Pa-ven vẫn còn giữ được một cái gì muôn ngàn lần quý hơn cái Pa-ven vừa mất đi.

Pa-ven và Ri-ta đứng dậy. Đã đến lúc phải tìm chỗ ngồi gần hơn. Hai người đi lại dãy ghế của đoàn đại biểu U-cơ-ren. Nhạc nổi lên. Những băng khẩu hiệu đỏ chói mang những hàng chữ sáng ngời “Tương lai thuộc về chúng ta”. Hàng ngàn đại biểu ngồi kín tầng dưới và các ghế “lô”, các dãy ghế hai bên gác. Hàng ngàn con người ấy hòa vào đây thành một cái máy biến thế điện mạnh với một sức điện không bao giờ tắt được Tòa nhà hát lớn khổng lồ đã nhận vào lòng mình tất cả tinh hoa của lớp vệ quân thanh niên trong đạo quân công nghiệp vĩ đại. Hàng ngàn cặp mắt sáng lên đổ dồn vào nhìn hàng chữ chói lọi chăng ở phía trên cái màn sân khấu: “Tương lai thuộc về chúng ta”. Những tiếng nói chuyện vẫn ồn lên. Còn vài phút nữa. Và cái màn nhung nặng từ từ giãn ra. Đồng chí bí thư Ban chấp hành Trung ương Đoàn thanh niên cộng sản Nga bắt đầu nói. Đồng chí xúc động quá, trong giây lát mất tự chủ, đứng yên một lúc lâu trước cảnh tượng trang nghiêm không tả xiết của giờ phút này.

- Đại hội lần thứ sáu Đoàn thanh niên cộng sản Nga khai mạc.

Chưa bao giờ như hôm nay, Pa-ven cảm thấy rõ ràng, sâu sắc sức hùng mạnh và vĩ đại của cách mạng, lòng tự hào không lời nào diễn đạt nổi và niềm vui sướng không gì bằng mà cuộc đời đã cho anh hưởng, cuộc đời đã đưa anh, người chiến đấu và xây dựng, tới đây đến chỗ thắng lợi huy hoàng này của lớp vệ quân thanh niên bôn-sê-vích.

Đại hội làm việc căng thẳng, chiếm hết cả thời giờ của các đại biểu, từ sáng sớm đến khuya, Pa-ven chỉ gặp lại Ri-ta ở một trong những phiên họp cuối cùng. Pa-ven nhận ra Ri-ta đang đứng với một nhóm đại biểu U-cơ-ren, Ri-ta nói với anh:

- Ngày mai, sau khi Đại hội bế mạc, Ri-ta sẽ đi ngay. Không biết chúng ta còn có dịp trò chuyện và chào biệt nhau không. Vì vậy hôm nay, Ri-ta đưa cho Pa-ven hai tập nhật ký riêng của Ri-ta liên quan đến chuyện ngày xưa và một bức thư nhỏ. Pa-ven xem xong rồi gửi lại theo đường bưu điện cho Ri-ta nhớ. Pa-ven đọc nhật ký của Ri-ta sẽ hiểu tất cả những điều Ri-ta nói với Pa-ven.

Pa-ven bắt tay Ri-ta và nhìn bạn hồi lâu như để khắc sâu nét mặt bạn vào tâm trí mình.

Ngày hôm sau, đúng hẹn, hai người gặp nhau ở cửa chính. Ri-ta trao cho Pa-ven một gói cuộn tròn và một phong bì dán kín. Chung quanh đông người, nên cả hai chỉ kín đáo chào biệt nhau. Chỉ riêng trong đôi mắt hơi rơm rớm lệ của Ri-ta là Pa-ven thấy rõ lòng trìu mến sâu xa và một thoáng buồn rầu.

Ngày hôm sau, hai con tàu đưa mỗi người về mỗi ngả. Những người U-cơ-ren ngồi ở nhiều toa. Pa-ven ở trong nhóm đại biểu thành Ki-ép. Tối đến, khi mọi người đã đi ngủ, và Ô-cu-nhếp đã nằm ngáy như kéo gỗ ở giường bên, Pa-ven lại gần ánh đèn bóc thư ra:

"Pa-vơ-lu-sa thân yêu ơi!

Đáng lẽ Ri-ta có thể trực tiếp nói thẳng với Pa- ven, nhưng Ri-ta nghĩ là viết cho Pa-ven thế này thì hơn. Ri-ta chỉ muốn một điều: Sao cho những chuyện chúng ta nói với nhau trước khi bắt đầu Đại hội không để lại vết tích nặng nề trong đời Pa-ven. Ri-ta biết Pa-ven có nghị lực, nên Ri-ta tin ở điều Pa-ven đã nói với Ri-ta. Ri-ta không nhìn đời một cách hình thức, giáo điều đâu: Đôi khi, tuy đấy thật ra là những trường hợp đặc biệt rất hiếm, người ta có thể ra ngoài lẽ thường trong quan hệ giữa cá nhân và cá nhân, nếu điều đó là do một thứ tình cảm rất lớn, rất sâu chi phối. Pa-ven xứng đáng được như thế. Gặp lại Pa-ven, lúc đầu Ri-ta đã định đền bù lại mối tình của thuở mười tám đôi mươi ấy, song Ri-ta đã cưỡng lại. Ri-ta cảm thấy làm thế không cho chúng ta có được một niềm vui lớn trong tâm hồn. Pa-ven ạ, không nên khe khắt quá với mình đến thế. Trong cuộc đời chúng ta, không phải chỉ có đấu tranh không thôi mà còn có niềm vui của một tình cảm tốt đẹp nữa.

Về cuộc đời tương lai của Pa-ven, nghĩa là về nội dung chủ yếu của đời Pa-ven, Ri-ta hoàn toàn không cảm thấy có gì đáng lo ngại cả. Bắt tay Pa- ven rất chặt.

Ri-ta".

Pa-ven nghĩ ngợi, xé vụn bức thư. Thò tay ra ngoài cửa sổ, anh cảm thấy gió dứt khỏi ngón tay từng mảnh thư nát vụn.

Đến sáng thì Pa-ven đã đọc xong hai cuốn nhật ký. Anh lại lấy giấy gói và buộc lại. Đến Khác-cốp, một số các đồng chí U-cơ-ren xuống tàu, trong đó có Ô-cu-nhếp, Pan-cơ-ra-tốp và Pa-ven. Ô-cu-nhếp phải đi Ki-ép đón Ta-li-a hiện đang ở nhà An-na. Pan-cơ- tốp mới được bầu vào Ban chấp hành Trung ương Đoàn thanh niên cộng sản U-cơ-ren thì có việc bận phải đi giải quyết ngay. Pa-ven quyết định cùng đi với họ đến Ki-ép, tiện thể vào thăm Giác-ki và An- na. Anh nán ở lại sở bưu điện nhà ga, gửi hai cuốn nhật ký trả lại Ri-ta. Khi anh ra tàu thì các bạn không còn ai nữa. Xe điện đưa anh tới nhà An-na và Đu- ba-va ở. Pa-ven leo thang lên tầng hai, gõ cửa bên phải - chỗ buồng An-na. Nhưng không có tiếng đáp lại Còn sớm thế này, An-na chưa thể nào đã đi đến cơ quan làm việc được. Pa-ven nghĩ thầm: “Chắc lại còn đang ngủ”. Cửa buồng bên hé ra, và Đu-ba-va ngái ngủ lừ đừ bước ra cầu thang. Mặt hắn xám ngắt, mắt quầng thâm. Pa-ven vốn thính mũi nhận ra ngay cả mùi rượu nữa. Qua cánh cửa hé mở, Pa-ven nhìn thấy trên giường có người đàn bà beo béo, hay nói đúng hơn là nhìn thấy cái cẳng chân để hở và đôi vai nung núc của người ấy.

Đu-ba-va thấy Pa-ven nhìn vào buồng liền lấy chân đá khép kín cửa lại. Hắn hỏi giọng khàn khàn, mắt nhìn chằm chằm vào một góc nào ở ngoài sân:

- Cậu đến tìm nữ đồng chí An-na Bô-khác chứ gì? Bà ấy bây giờ không ở đây nữa. Cậu lại còn không biết chuyện hay sao?

Pa-ven cau mày nhìn thẳng vào mặt Đu-ba-va:

- Mình không biết, thế An-na dọn đi đâu?

Đu-ba-va cáu lên ngay:

- Cái đó chẳng liên quan gì đến đây cả, - và sau khi ợ một cái, hắn nói thêm, giọng đầy tức tối: - Cậu đến an ủi cô ả chứ gì? Thật là đúng dịp! Chỗ trống rồi đấy. Làm đi. Nó chẳng chê cậu đâu. Nó nhiều lần nói với đây là nó thích cậu đấy. Hay nói thế nào nhỉ, như bọn đàn bà thường nói ấy mà... Tóm lấy thời cơ đi, cô cậu thông cảm với nhau cả phần hồn lẫn phần xác.

Pa-ven cảm thấy nóng má. Anh cố nén, nói khẽ:

- Đu-ba-va, cậu sa ngã quá đi mất rồi. Mình không ngờ lại thấy cậu đểu cáng đến như thế được. Bởi vì, dù sao trước đây đã có hồi cậu cũng là một thanh niên không đến nỗi nào. Tại sao cậu sinh ra đốn mạt đến như vậy?

Đu ba-va dựa lưng vào tường. Hắn đi chân không trên sàn xi-măng. Trông thấy hắn rét ra mặt, người hắn run lên. Cánh cửa mở, một người đàn bà má núng na núng nính, vẻ còn ngái ngủ, ló ra.

- Vào đây, mình ơi. Mình cứ đứng ngoài ấy làm gì thế?

Đu-ba-va không để cho con mụ ấy nói hết câu, đóng sập cửa lại, rồi lấy lưng đứng chắn.

Pa-ven nói:

- Bước đầu hay đấy... Bây giờ, cậu tiếp những hạng người thế nào và rồi cậu sẽ đi đến tận đâu?

Đu-ba-va nghe chuyện rõ ràng là thấy chán tai lắm rồi. Hắn quát lên:

- Có phải mày đến đây để chỉ thị cho tao là phải ngủ với hạng ngườii nào hay sao? Cái thói lên lớp ấy, tao xin đủ rồi. Ớ đâu dẫn xác đến đây thì cút vế đấy đi! Mày cứ đi mà rêu rao là thằng Đu-ba-va rượu chè be bét và ngủ với gái nhà thổ.

Pa-ven lại gần hắn, nói những lời xúc động:

- Đu-ba-va, cậu hãy đuổi người đàn bà ấy đi, mình muốn nói với cậu một lần cuối...

Mặt Đu-ba-va sa sầm lại. Hắn quay gót và lui vào buồng.

- Đồ khốn! - Pa-ven lẩm bẩm trong miệng và thong thả bước xuống cầu thang.

*

Hai năm qua thời gian vô tình đã cuốn dần ngày tháng trôi đi. Nhưng cuộc sống băng băng, mãnh liệt, rực rỡ muôn màu đã chứa chất lên mỗi một ngày qua (trông bề ngoài tưởng như đều đều phẳng lặng) những nhân tố mới, khác hẳn với ngày hôm trước. Một trăm sáu mươi triệu người của nhân dân vĩ đại này, lần đầu tiên trên thế giới đã trở thành chủ nhân của đất nước bao la, chủ nhân của những tài nguyên thiên nhiên phong phú không sao kể xiết, một trăm sáu mươi triệu người đó đã đem sức lao động anh hùng, được phát huy đến cao độ, ra khôi phục lại nền kinh tế quốc dân đã bị chiến tranh tàn phá. Đất nước đã hồi sức lại, trở nên cường tráng và những nhà máy, mới gần đây thôi, còn bỏ hoang, trông ảm đạm nhà như nhà máy chết, không còn thấy những ống khói tắt ngấm nữa.

Pa-ven đã trải qua hai năm ấy trong cái đà đi lên không gì cưỡng nổi. Chính anh cũng không còn kịp để ý là đã hai năm qua nữa. Anh là người không thể sống bằng lặng, anh ghét cái lối sống sáng sáng ra uể oải ngáp dài và tối đến đúng mười giờ đi ngủ. Anh sống hối hả. Và không những chỉ bản thân mình hối hả sống mà còn thúc đẩy kích thích những người khác nữa.

Anh hà tiện giờ ngủ. Thường cửa sổ phòng anh, ánh đèn sáng cho đến tận đêm khuya, người ta năng trông thấy những bóng người châu đầu vào nhau quanh chiếc bàn. Họ đang học tập. Trong vòng hai năm qua, họ đã nghiên cứu xong cuốn thứ ba của bộ sách Tư bản luận. Bây giờ đây họ đã thấu hiểu được bộ máy tinh vi của chế độ bóc lột tư bản.

Ra-dơ-va-li-khin lại đến liên quận mà Pa-ven công tác. Tỉnh ủy phái hắn đến đấy, đề nghị để hắn làm bí thư một quận đoàn thanh niên cộng sản. Hồi đó Pa-ven đi công tác biệt phái. Trong lúc Pa-ven đi vắng ban thường vụ liền điều động Ra-dơ-va-li-khin xuống một quận. Pa-ven về, biết chuyện ấy, nhưng không nói gì.

Một tháng sau, Pa-ven bất thình lình về quận của Ra-dơ-va-li-khin. Anh phát hiện được một số không lấy gì làm nhiều những sự việc, nhưng trong những sự việc đó có những sự việc này: Ra-dơ-va-li-khin nào uống rượu say bí tỉ luôn, nào tụ tập quanh mình bọn xu nịnh và đàn áp những đoàn viên tốt. Pa-ven đem những việc ấy về trình bày với ban thường vụ. Khi tất cả mọi người đã tỏ ý tán thành nghiêm khắc cảnh cáo Ra-dơ-va-li-khin thì Pa-ven nói đốp:

- Phải khai trừ vĩnh viễn khỏi Đoàn và tước hẳn quyền gia nhập lại.

Điều đó làm cho ai nấy đều ngạc nhiên, thấy kỷ luật dường như quá nặng, nhưng Pa-ven nhắc lại:

- Phải khai trừ thằng khốn kiếp ấy. Thằng học sinh ly-xê mất dạy ấy đáng lẽ có thể trở nên người. Nhưng nó không thể. Nó chỉ tìm cách len lỏi vào tổ chức ta cầu lợi mà thôi.

Rồi Pa-ven kể cho mọi người biết tư cách của Ra- dơ-va-li-khin ở Bê-rê-dơ-đốp.

Ra-dơ-va-li-khin kêu lên:

- Tôi cương quyết phản đối những lời tuyên bố của Pa-ven. Đây là những chuyện tư thù cá nhân, không ít kẻ có thể cứ đặt điều nói xấu tôi. Pa-ven nói thế thì tài liệu đâu, chứng cớ đâu, sự việc đâu? Tôi cũng có thể bịa ra rằng anh ta buôn lậu. Vậy thì có phải khai trừ anh ta ra không? Không thể được. Đề nghị Pa-ven nói thì tài liệu đâu, trình bày đi.

Pa-ven đáp lại hắn:

- Được tôi sẽ có tài liệu.

Ra-dơ-va-li-khin đi ra. Nửa giờ sau, Pa-ven đã được mọi người tán thành thông qua nghị quyết: “Khai trừ Ra-dơ-va-li-khin, một phần tử lạc loài, ra khỏi hàng ngũ của Đoàn thanh niên cộng sản”.

*

Hè đến, tất cả các bạn Pa-ven đều lần lượt thay nhau đi nghỉ. Ai yếu sức thì đi ra bờ biển. Đến mùa này là mọi người đều nghĩ đến nghỉ mát. Và Pa-ven để các đồng chí đi, xoay xở cho anh em giấy vào nghỉ ở các nhà an dưỡng và giúp anh em tiền nong đi nghỉ. Anh em ra đi, người xanh xao, mệt mỏi nhưng mặt mày tươi tỉnh. Công việc của anh em ở nhà lại trút lên vai Pa-ven và anh gánh tất cả, như một con ngựa thuần nai lưng kéo xe lên dốc. Sau một thời gian nghỉ, anh em trở về, da rám nắng, tràn đầy nghị lực và lòng yêu đời. Lại đến lượt tốp khác đi. Suốt vụ hè có vắng mặt ai thì cuộc sống vẫn không ngừng bước tiến. Pa-ven làm việc không nghỉ một ngày nào. Anh vắng mặt một ngày trong phòng làm việc là một điều không thể có được.

Hè đã đi qua như vậy.

Pa-ven không thú mùa thu, cũng chẳng thú mùa đông: Hai mùa ấy đến là anh lại có thể đau nặng.

Mùa hè này, anh đặc biệt sốt ruột mong đợi nó đến. Anh thú nhận với mình là sức khỏe mỗi năm một suy và điều đó làm anh đau buồn. Có hai cách giải quyết: Hoặc là tự nhận mình không đủ sức chịu được nữa những khó khăn của hoàn cảnh công tác căng thẳng, nhận mình là người tàn phế, hay là vẫn đứng vững ở cương vị công tác cho đến khi nào không kham được nữa mới thôi. Và anh đã chọn cách giải quyết thứ hai.

Một hôm, trong cuộc họp của ban thường vụ Đảng ủy liên quận, Pa-ven ngồi gần bác sĩ Ba-rơ-tê-lích, trưởng ty y tế, một người bôn-sê-vích già đã hoạt động bí mật lâu năm.

- Anh Pa-ven này, tôi trông anh yếu quá. Anh thấy trong người thế nào? Anh đã đến cho ban y tế khám chưa? Chắc là chưa phải không? Đúng như thế, tôi không nhớ là đã có lần nào khám cho anh. Thế nào anh cũng phải để cho tôi khám. Thứ năm này, vào chập tối, đến tôi xem cho nhé.

Pa-ven không đến ban y tế. Anh bận việc. Song bác sĩ Ba-rơ-tê-lích vẫn không quên; Một hôm bác sĩ kéo Pa-ven vào phòng thăm bệnh của mình. Buổi khám bệnh rất cẩn thận ấy, có sự tham gia của Ba-rơ-tê- lích vốn là nhà chuyên môn về bệnh thần kinh, đã đi đến kết luận như sau:

“Ban y tế nhận thấy cần thiết phải cho ngay Pa- ven đi nghỉ chữa bệnh một thời gian lâu ở Cơ-rưm, cần theo dõi điều trị cẩn thận, nếu không, không thể tránh khỏi hậu quả nghiêm trọng”.

Lời kết luận ấy còn kèm theo một tràng dài kể tỉ mỉ những tên bệnh bằng tiếng la-tinh. Xem giấy khám đó, Pa-ven chỉ hiểu được một điều: Bệnh đáng ngại nhất, không phải là hai chân mà là ở thần kinh, chính là trong não bị đau nặng.

Ba-rơ-tê-lích trình thẳng ban thường vụ kết quả chẩn bệnh ấy. Toàn thể đồng ý cho Pa-ven đi nghỉ ngay. Nhưng chính Pa-ven lại đề nghị hãy đợi Sbít- nhếp là trưởng phòng tổ chức của liên quận đoàn về đã. Pa-ven sợ liên quận ủy hết người, vắng cán bộ.

Các đồng chí đành phải đồng ý đề nghị của Pa-ven, tuy rằng Ba-rơ-tê-lích có phản đối.

Còn ba tuần nữa thì đến chuyến đi nghỉ đầu tiên trong đời của Pa-ven. Cái giấy vào nhà điều dưỡng ở Ơ-pa-tô-ri-a đã nằm chờ sẵn trong ngăn kéo.

Trong những ngày đó, Pa-ven gấp rút giải quyết mọi công việc. Anh chuẩn bị một cuộc hội nghị toàn thể chấp ủy liên quận thanh niên cộng sản. Anh làm không tiếc sức, cố giải quyết hết mọi vấn đề còn dở cho xong để yên tâm mà đi.

Song trước khi đi nghỉ và được ra biển mà suốt đời anh chưa từng được thấy bao giờ thì xảy ra ngay một chuyện vô lý, bất bình anh không ngờ tới.

Sau khi làm việc xong, Pa-ven đi đến ban tuyên huấn: Anh ngồi ở khung cửa sổ bỏ mở, sau cái tủ sách để chờ họp ban. Khi anh tới thì chưa có ai. Một lát sau, nhiều người vào. Ngồi sau tủ, anh không nhìn thấy họ, song nhận ra giọng nói của một người. Đấy là Phai-lô làm trưởng ban kinh tế của liên quận. Người hắn cao gọn, trông bảnh trai, dáng đi ra vẻ quân sự. Đã nhiều lần, Pa-ven được nghe nói hắn là một tay nghiện rượu và thích chim gái.

Trước đây Phai-lô có thời kỳ là du kích và bây giờ hễ có dịp là hắn vừa cười ha hả, vừa kể lại chuyện hắn chặt đầu bọn phỉ Ma-khơ-nô, mỗi ngày một chục cái đầu. Pa-ven không thể chịu được hắn ta. Một hôm, có một nữ đoàn viên thanh niên cộng sản đến gặp Pa-ven vừa khóc vừa báo cáo chuyện Phai-lô lừa cô ta: Phai-lô hứa hôn với cô ta, nhưng ăn ở với nhau được một tuần thì bỏ rơi, thậm chí gặp cô ta hắn cũng phớt đi không chào hỏi nữa. Ban kiểm tra đem ra xét nhưng Phai-lô thoát được vì người con gái không có tang chứng. Song Pa-ven tin lời cô ta nói.

Pa-ven lắng tai nghe, bọn mới đến không ngờ rằng có Pa-ven ngồi ở đây:

- Kìa Phai-lô, dạo này thế nào? Gần đây người anh em có làm thêm được món nào ly kỳ không?

Người hỏi là Gơ-ri-bốp, một trong những bạn của Phai-lô, cùng một phường như hắn cả. Gơ-ri-bốp là một đứa hết sức chậm tiến, vừa dốt vừa ngu, thế mà không hiểu tại sao người ta lại cho hắn làm tuyên truyền viên. Hắn rất lấy làm hãnh diện với danh nghĩa đó, bạ đâu hắn cũng mang ra phô.

- Cậu có thể chúc mừng tớ được. Hôm qua tớ đã tốc được váy con Cô-rô-ta-ê-va rồi đấy. Thế mà cậu trước kia cứ bảo là không ăn thua gì đâu. Ông anh ạ, khi mà Phai-lô này đã đuổi con bé nào, thì các bạn cứ yên trí...

Và Phai-lô chêm vào một câu rất tục.

Pa-ven cảm thấy nổi gai trong người, căm tức đến tột bậc. Cô-rô-ta-ê-va là đồng chí phụ trách ban phụ vận. Chị đến đây cùng một thời gian với Pa-ven. Và trong công tác chung, Pa-ven đã quen thân với người nữ cán bộ dễ có cảm tình ấy. Chị vốn tính rất thảo, thường ân cần chăm sóc đến tất cả những chị em nào tìm đến nhờ chị khuyên bảo hay giúp đỡ. Chị được anh chị em cán bộ chung quanh liên quận đoàn rất tín nhiệm. Chị chưa có chồng. Không còn nghi ngờ gì nữa, thằng Phai-lô này đang nói về chị đây.

- Phai-lô, cậu không lòe chúng tớ đấy chứ? Chúng tớ nghi lắm, vì con mụ Cô-rô-ta-ê-va không có như cậu nói tí nào đâu.

- Tớ lại nói dối các cậu à? Thế các cậu cho tớ là hạng người thế nào? Tay này đã chài được khối đứa rồi. Chỉ cần biết cách tán thôi. Mỗi một con, mình phải có một chiến thuật tiếp cận riêng. Có con thì chỉ một ngày là ăn câu, nhưng hạng ấy thật tình chẳng lý thú gì lắm. Có con phải lẵng nhẵng đến hàng tháng. Chủ yếu là nắm chắc được tâm lý. Mỗi đứa một khác. Cả một khoa học đấy, mày ạ, nhưng trong khoa học này thì tao là bậc thầy. Hô hô hô!

Phai-lô đắc chí cười lên ha hả. Đám người nghe lại khích cho hắn nói: Bọn họ nóng lòng muốn biết cho được những chi tiết.

Pa-ven đứng dậy, bàn tay nắm chặt, tim đập mạnh. Phai-lô vẫn bô bô:

- Phỗng được con Cô-rô-ta-ê-va mà không chịu vất vả thì đừng có hòng. Nhưng vất vả thì vất vả, tao không muốn nhả, với lại thằng Gơ-ri-bốp đã cuộc với tao mười hai chai rượu poóc-tô. Thế là tao bắt đầu nghi binh, dương đông kích tây. Tao đến tìm cô ta một lần, hai lần, cô ả có vẻ lườm nguýt tao. Nhiều chuyện đồn đại về tao đến con bé... Tóm lại, tấn công chính diện không được, tao mới xoay đánh vòng sau lưng. Ha ha! Chúng mày biết không, tao nịnh con bé: “Em ạ, anh đã từng tham gia chiến đấu, đã từng giết bao nhiêu quân địch, anh đã đi khắp thế gian, đã vào sống ra chết”, đấy là cách tao nói cho con bé hiểu là đời tao đã ba đào chìm nổi, thế mà vẫn không tìm được người ý hợp tâm đầu. “Em ơi, anh sống như con sói cô đơn, không kẻ yêu chiều, không người âu yếm...”. Tao cứ cái điệu ấy mà tuôn ra, nịnh con bé phổng cả mũi. Tóm lại, mình đánh vào tình cảm của nó. Mà con bé cũng gớm lắm, nó quay lại tao, làm tao mướt mồ hôi. Có lúc tao đã tưởng đi đời nhà ma, cho hạ màn sớm tấn hài kịch mất. Nhưng, đây là một vấn đề nguyên tắc, vì vấn đề nguyên tắc, tao nhất định không có chịu buông. Cuối cùng, tao thắng. Có kiên nhẫn cũng có lãi thật. Tưởng là một con mụ nạ dòng, hóa ra vớ được một con bé trinh nguyên. Ha ha, buồn cười thật.

Và Phai-lô cứ tiếp tục kể cái câu chuyện nhơ bẩn đó.

Pa-ven cũng không còn nhớ là anh đã sấn đến chỗ Phai-lô lúc nào không biết. Tiếng anh rít lên:

- Đồ khốn nạn!

- Tao khốn nạn hay mày khốn nạn, đồ mật thám đi rình nghe trộm chuyện người ta.

Chắc Pa-ven còn nói gì nặng lời nữa, cho nên Phai- lô túm lấy ngực anh.

- À à, mày chửi tao phải không?

Và hắn ta vốn đang say rượu, đấm vào Pa-ven túi bụi.

Pa-ven liền vớ lấy cái ghế gỗ sến và giáng cho một cái quật Phai-lô xuống sàn nhà. Trong túi Pa-ven lúc đó may mà không mang súng ngắn, nếu có súng thì Phai-lô đã mất mạng rồi.

Tuy thế, việc vô lý vẫn xảy ra: Đúng ngày định lên đường đi Cơ-rưm nghỉ thì Pa-ven bị gọi ra trước tòa án của Đảng.

Toàn thể tổ chức Đảng họp ở nhà hát thành phố. Chuyện xảy ra ở ban tuyên huấn đã làm chấn động dư luận. Vụ án đã gây một cuộc luận chiến gay go về vấn đề tác phong sinh hoạt. Tác phong sinh hoạt, những quan hệ giữa cá nhân và cá nhân, đạo đức cộng sản, những vấn đề đó đã làm mờ bản thân sự việc mà vụ án đang xét. Vụ án trở nên dấu hiệu của một vấn đề tư tưởng. Trước tòa án Đảng, Phai-lô đã có một thái độ khiêu khích, hắn vênh mặt cười khẩy. Hắn nói việc này phải đưa ra toà án nhân dân và đòi Pa-ven sẽ phải đi tù khổ sai vì đã can tội đánh hắn vỡ đầu. Hắn khăng khăng một mực từ chối, không đáp lại những câu tòa hỏi. Toàn thể tổ chức Đảng họp ở nhà hát thành phố. Chuyện xảy ra ở ban tuyên huấn đã làm chấn động dư luận. Vụ án đã gây một cuộc luận chiến gay go về vấn đề tác phong sinh hoạt. Tác phong sinh hoạt, những quan hệ giữa cá nhân và cá nhân, đạo đức cộng sản, những vấn đề đó đã làm mờ bản thân sự việc mà vụ án đang xét. Vụ án trở nên dấu hiệu của một vấn đề tư tưởng. Trước tòa án Đảng, Phai-lô đã có một thái độ khiêu khích, hắn vênh mặt cười khẩy. Hắn nói việc này phải đưa ra toà án nhân dân và đòi Pa-ven sẽ phải đi tù khổ sai vì đã can tội đánh hắn vỡ đầu. Hắn khăng khăng một mực từ chối, không đáp lại những câu tòa hỏi.

- Các đồng chí định nhúng mõm vào đời tư của tôi à? Xin lỗi các đồng chí. Tha hồ các đồng chí cứ gán cho tôi đủ các chuyện, song nếu giống cái chồm chồm lên với tôi thì chẳng qua vì tôi chẳng coi các mụ ra quái gì. Mà việc này chẳng ra làm sao, không đáng cái vỏ trứng. Năm nay chứ năm 1918 thì tôi đã giải quyết việc này theo cách của tôi với cái thằng loạn óc Pa-ven ấy rồi. Bây giờ thì chẳng cần tôi ở đây nữa. - Nói rồi hắn bỏ đi ra.

Khi chủ tọa bảo Pa-ven trình bày chuyện ẩu đả, thì Pa-ven kể lại bình tĩnh, nhưng ai cũng cảm thấy rằng Pa-ven đã dùng nhiều nghị lực lắm mới tự chủ được mình như vậy.

- Tất cả câu chuyện hôm nay phải xét xử ở đây đã xảy ra là do tôi đã không trấn tĩnh được. Tôi biết rằng, thời kỳ tôi làm việc bằng hai cánh tay đã qua, mà giờ phải làm việc bằng óc. Nhưng tôi đã mất tỉnh táo và khi tôi đã kịp nhận rõ ra điều đó rồi thì Phai- lô đã bị ghế của tôi đập vào đầu. Trong vòng mấy năm gần đây, lần này là lần độc nhất mà tôi phạm phải một hành động mang tác phong du kích và tôi tự trách mình về hành động đó, tuy rằng tên Phai- lô là một hiện tượng ghê tởm trong sinh hoạt cộng sản của chúng ta. Tôi không thể hiểu và không khi nào có thể công nhận được một người cách mạng cộng sản có thể đồng thời là là một tên súc sinh nhơ bẩn, một thằng chó đểu. Việc này đề ra cho chúng ta phải bàn đến vấn đề tác phong sinh hoạt, và tất cả câu chuyện chỉ có khía cạnh ấy là có tính chất xây dựng mà thôi.

Tuyệt đại đa số Đảng bộ biểu quyết khai trừ Phai- lô ra khỏi Đảng. Gơ-ri-bốp bị nghiêm khắc khiển trách có kèm theo cảnh cáo vì đã làm chứng gian. Những người khác đã tham gia vào cuộc nói chuyện với Phai- lô hôm trước, vì đã thành thật kiểm thảo, nên chỉ bị khiển trách.

Ba-rơ-tê-lích trình bày tình trạng bệnh thần kinh của Pa-ven. Khi đồng chí dự thẩm của toà án Đảng đề nghị khiển trách Pa-ven thì toàn thể Hội nghị nhao nhao phản đối. Đồng chí dự thẩm phải rút lui ý kiến. Pa-ven được trắng án.

Sau đó mấy ngày, con tàu vụt đưa Pa-ven đến Khác-cốp. Đảng ủy liên quận đồng ý với đề nghị tha thiết của Pa-ven, giao anh thuộc quyền điều động của Ban chấp hành Trung ương Đoàn thanh niên cộng sản U- cơ-ren. Đảng ủy ghi những lời nhận xét rất tốt vào lý lịch và Pa-ven lên đường. Trong số các bí thư của Ban chấp hành trung ương Đoàn có A-kim. Pa-ven tìm đến gặp anh và kể lại hết mọi chuyện.

Trong bản nhận xét, sau những chữ “Tuyệt đối trung thành với Đảng”, A-kim đọc thấy: “Có đức tính tự chủ của con người đảng viên. Trong những trường hợp cá biệt, có nóng nảy và không kiềm chế được mình. Khuyết điểm ấy là tại thần kinh bị đau nặng”.

- Thế ra họ cũng vẫn ghi cả chuyện ấy vào bản lý lịch vốn tốt của cậu. Cậu đừng vì thế mà buồn nhé! Nói ngay những người khỏe hẳn hoi, đôi khi cũng còn phạm phải kia mà. Thôi cậu thu xếp đi miền Nam nghỉ, lấy lại sức. Bao giờ về ta sẽ bàn đến công tác của cậu.

Và A-kim bắt tay Pa-ven rất chặt.

*

An dưỡng đường “Người công xã” của Trung ương. Những lẵng hoa hồng, những tia nước sáng óng ánh ở bể phun nước, những tòa nhà có giàn nho phủ trong vườn áo dài trắng và quần áo tắm biển của những người đi nghỉ mát. Một nữ y sĩ trẻ tuổi ghi họ tên những người đến nghỉ. Pa-ven ở một gian phòng rộng trong tòa nhà góc vườn, giường đệm trắng tinh, ở đây sạch không một mảy bụi, im không một tiếng động nhỏ. Tắm xong, mát tỉnh người, Pa-ven thay quần áo đi ra bãi biển.

Trước mắt là cả khoảng bao la biển lặng, cảnh tượng hùng tráng thăm thẳm một màu xanh đen như cẩm thạch đánh nhẵn bóng. Không biết đâu là bờ bến, xa xa màu nước biển lẫn với màu trời nhòa trong sương biếc. Mặt trời đỏ rực như nung sắp chảy ra, phản chiếu vào mặt nước, bắt đầu mọc lên như một đám cháy. Xa tít, qua làn sương sớm, dãy núi chạy dài nhô dần lên từng khối lớn. Pa-ven căng ngực cố hít thật nhiều không khí tươi mát khỏe người của gió biển, mắt anh không thể nào rời được cái khoảng trời yên lặng xanh man mác kia.

Sóng uể oải dạt dào, âu yếm trườn đến tận chân Pa-ven, liếm lên lớp cát vàng óng của bờ biển.

Thép Đã Tôi Thế Đấy Phần 2 - Chương 7

Mé cạnh nhà an dưỡng của Trung ương là khu vườn lớn của bệnh viện bách khoa. Những “công xã viên” mỗi lần ở ngoài biển về thường đi qua khu vườn đó. Trong vườn này, Pa-ven ưa đến ngồi nghỉ dưới bóng một cây ngô đồng cành lá um tùm, gần một bức tường đá màu xám. Ở đây, ít khi có người đến quấy rầy. Ngồi đấy, có thể nhìn thấy tất cả đám dân nghỉ mát đi đi lại lại náo nhiệt trên những đường lớn và lối mòn của khu vườn; Tối đến, ngồi đấy lại có thể nghe hòa nhạc mà vẫn xa lánh được cái cảnh chen chúc bực mình của một nơi tắm biển lớn.

Ngày hôm ấy, Pa-ven cũng vào ngồi dưới bóng cây ngô đồng. Anh khoan khoái nằm dài trên ghế chao bằng mây; Tắm biển và tắm nắng mệt, anh thiu thiu ngủ. Khăn tắm bông và cuốn “Phiến loạn” của Phua- rơ-ma-nốp đọc chưa xong để trên mặt ghế chao bên cạnh. Những ngày mới đến nhà an dưỡng, Pa-ven vẫn luôn luôn bị căng thẳng trong thần kinh, bệnh nhức đầu liên miên không khỏi. Các giáo sư tiếp tục nghiên cứu căn bệnh phức tạp và kỳ lạ của anh. Bắt mạch, nghe tim suốt ngày làm anh mệt phờ và phát cáu. Bác sĩ điều trị là một người đàn bà có cái tên rắc rối lạ lùng: I-ê-ru-xa-lim-sích, một nữ đảng viên dễ có thiện cảm, vui tính. Bác sĩ khó nhọc đỡ Pa-ven dậy và bền tâm thuyết phục anh chịu khó theo bà sang cho các bác sĩ chuyên khoa khám. Pa-ven bảo lại bác sĩ:

- Thú thật với bác sĩ là tôi ngấy lắm rồi. Ngày năm lần bảy lượt cứ bắt trả lời những câu hỏi, lần nào cũng giống như lần nào. Bà ngoại đồng chí có loạn óc không? Cụ bốn đời về đằng họ nội đồng chí có đau bệnh tê thấp không? Tôi làm thế quái nào mà biết được các cụ đau bệnh gì. Tôi có trông thấy các cụ bao giờ đâu! Rồi mỗi vị lại muốn tôi thú nhận là mắc bệnh lậu hay một bệnh gì còn xấu xa hơn nữa. Còn tôi thì xin thú thật với bác sĩ rằng cái cảnh này khiến tôi cứ muốn gõ thẳng vào đầu họ. Xin các bác sĩ để cho tôi được yên. Nếu các vị cứ khám đi khám lại suốt cả tháng rưỡi trời tôi ở đây thì tôi đến hóa điên hóa rồ mất.

Bác sĩ I-ê-ru-xa-lim-sích nghe Pa-ven nói chỉ cười, tìm câu nói đùa vui đáp lại, nhưng mấy phút sau bà đã cầm tay Pa-ven dắt đi được rồi. Vừa dìu anh đi, vừa kể một câu chuyện lý thú, bà đưa anh đến cho bác sĩ phẫu thuật khám.

Ngày hôm ấy không phải khám gì cả. Còn một giờ nữa mới đến bữa cơm trưa, Pa-ven đang thiu thiu ngủ thì nghe thấy tiếng bước chân đi vào. Anh không mở mắt: “Người ta tưởng mình ngủ thì người ta sẽ đi thôi”. Pa-ven tính nhầm: Tiếng ghế bên kêu ken két, có ai ngồi xuống. Thoang thoảng mùi nước hoa nhẹ. Pa-ven đoán người vừa ngồi xuống là đàn bà...

Anh mở mắt ra nhìn. Điều anh trông thấy trước tiên là một tấm áo dài trắng toát, đôi chân nâu rám nắng đi dép nhỏ bằng da dê, rồi một cái đầu xinh xinh, tóc cắt ngắn kiểu giả trai, hai mắt rất to và hàm răng nhọn nhọn như răng chuột nhắt. Người con gái mỉm cười, xấu hổ.

- Đồng chí thứ lỗi. Tôi có làm phiền đồng chí không ạ?

Pa-ven không đáp. Kể làm như thế thì không lịch sự tí nào, song anh vẫn hy vọng rằng mình im không nói, thì người con gái sẽ bỏ đi.

- Quyển sách này có phải của đồng chí không?

Chị lật lật từng tờ, giở xem cuốn “Phiến loạn”.

- Phải.

Một phút im lặng.

- Tôi hỏi khí không phải, đồng chí có phải là ở bên nhà an dưỡng “Người công xã” không?

Pa-ven cựa mình, bực bội “Cơm gió tai ác nào xui con bé đến đây? Hừ, mình đang nằm nghỉ, chẳng có nói gì hết. Nó lại sắp hỏi mình đau bệnh gì đây. Đi quách đi cho rảnh”. Anh càu nhàu nói:

- Không.

- Vậy mà hình như tôi có gặp đồng chí ở bên ấy.

Pa-ven sắp sửa đứng dậy thì có giọng trầm trầm của đàn bà hỏi:

- Đô-ra vào làm gì ở đấy?

Một người con gái tóc vàng, da rám nắng, mặc quần áo tắm biển lại ngồi bên mép ghế mây. Cô ta đưa mắt liếc nhìn Pa-ven.

- Tôi gặp đồng chí ở đâu rồi thì phải. Đồng chí công tác ở Khác-cốp có phải không?

- Phải, ở Khác-cốp.

- Hồi ấy đồng chí làm công tác gì nhỉ?

Pa-ven nhất định chấm dứt câu chuyện xem chừng sắp sửa kéo dài này.

- Làm ở sở đổi thùng.

Hai người con gái cười ồ lên làm anh cũng phải giật mình.

- Người ta không thể nói rằng đồng chí quá hòa nhã đấy, đồng chí ạ.

Thế là bắt đầu quen nhau. Sau này, Đô-ra Rốt- ki-na, ủy viên thường vụ thành ủy Khác-cốp, thường hay nhắc lại cái buổi đầu mới làm quen nhau ngộ nghĩnh này.

*

Pa-ven sang khu vườn nhà an dưỡng “Ta-la-xa” chơi để nghe hòa nhạc buổi chiều. Bỗng gặp Giác-ki. Thật là kỳ ngộ. Chính là cái điệu kèn “phốc-tơ-rốt” đã làm cho hai người trông thấy nhau.

Trong buổi hoà nhạc, sau khi mụ nữ ca sĩ phốp pháp đã hoa chân múa tay như điên để chơi bản tình ca “Đêm ngây ngất ngát hương tình say đắm” thì một cặp nhảy lên sân khấu. Vai nam ăn mặc nửa kín nửa hở, đội mũ ống cao đỏ chót, đeo nhạc sắt bên hông, ngực thì lại đeo yếm áo sơ-mi trắng bốp, lủng lẳng chiếc cà-vạt. Tóm lại, y như biếm họa một người mọi. Vai nữ trông cũng kháu, trên người cũng chỉ che độc có vài mảnh vải. Trông thấy cặp đó thì cả đám “nép- man” béo ú, cổ bự như cổ bò, ngồi sau những ghế bành và ghế dài của những người bệnh nhà an dưỡng, xì xào tán phục. (Nép-man: Nép gọi tắt “chính sách kinh tế mới” áp dụng ở Liên Xô vào những năm 1921-1923 thừa nhận quyền tự do thương mại và cho phép mở mang xí nghiệp tư doanh nhỏ. Nép-man là chỉ bọn làm giàu trong thời kỳ đó).

Cặp đó ngoáy một điệu “phốc-tơ-rốt” vẹo hông. Không thể nào tưởng tượng được một trò kinh tởm hơn nữa. Tên đàn ông béo, đội cái mũ ống sao hết sức lố lăng, và đứa con gái dính lấy thịt nhau, uốn éo như kiểu khiêu dâm mất dạy. Ngồi sau Pa- ven, một lão bụng phệ khoái trá thở hổn ha hổn hển. Pa-ven quay mặt sắp đi ra thì ở hàng đầu, ngay sát sân khấu có người đứng dậy thét lên giận dữ:

- Các người chưa hết nghề đánh đĩ hay sao? Cút đi ngay lập tức.

Pa-ven nhận ra người nói là Giác-ki.

Người đánh pi-a-nô thôi không chơi nữa, cây vi- ô-lông rít lên một tiếng lần cuối rồi im bặt. Cặp nọ trên bục cao cũng ngay người, thôi không uốn éo. Sau những hàng ghế dựa, có tiếng “suỵt, suỵt” giận dữ phản đối người đã thét lên kia:

- Rõ thật là đồ vô giáo dục! Phá đám một tiết mục của người ta!

- Cả châu Âu người ta nhảy như thế!

- Thật là loạn!

Nhưng trong đám những người nghỉ ở nhà an dưỡng “Người công xã” đến xem ở đây, có Xê-ri-ô-gia Gi-ba- nốp, bí thư Đoàn thanh niên liên quận Sê-rê-pô-vét, đang thọc bốn ngón tay vào mồm huýt sáo ầm ĩ. Nhiều người khác ủng hộ anh. Cặp nọ biến, như có trận gió thổi bay vù đi. Gã ba hoa giữ việc giới thiệu chương trình, giống như một tên đầy tớ láu cá, tuyên bố với người xem là ban hát đó sẽ đi khỏi ngay đây thôi.

- Cút đi đâu thì cút. Chẳng ai giữ.

Một chàng trẻ tuổi, mặc áo ngủ nhà an dưỡng còn chửi mát theo chúng mấy câu, khiến bà con ai nấy cười phá lên.

Pa-ven tìm đến hàng ghế đầu gặp Giác-ki. Hai người về buồng Pa-ven trò chuyện rất lâu. Giác-ki làm công tác tuyên truyền viên ở một đảng ủy liên quận. Giác- ki nói:

- Cậu biết mình lấy vợ chưa nhỉ? Mình sắp có con rồi đấy. Chẳng biết sẽ là trai hay gái.

- Thế à. Cậu lấy ai đấy?

Giác-ki rút ở túi ra một tấm ảnh, đưa cho Pa-ven xem.

- Cậu có nhận ra ai không?

Người trong ảnh: An-na Bô-khác.

- Thế Đu-ba-va giờ ở đâu? - Pa-ven hỏi lại, trong lòng càng ngạc nhiên thêm.

- Đu-ba-va hiện ở Mát-xcơ-va. Khi nó bị khai trừ khỏi Đảng thì cũng thôi không học Trường đại học cộng sản nữa. Giờ học Trường cao đẳng kỹ thuật. Theo tin đồn thì hắn đã được phục hồi. Nhưng phục hồi nó là sai lầm. Nó là một phần tử thối nát... Cậu có biết Pan-cơ-ra-tốp giờ ở đâu không? Giờ nó làm phó giám đốc một xưởng đóng tàu biển. Còn tin tức những đứa khác, tớ không biết mấy. Anh em mỗi thằng một ngả, công tác ở khắp mọi chỗ trong nước. Nhưng được gặp nhau, kể lại chuyện xưa thì thú thật.

Đô-ra đi vào cùng với mấy đồng chí khác. Giác- ki khép cửa lại. Đô-ra nhìn huân chương trên ngực Giác-ki hỏi Pa-ven:

- Bạn anh đấy à? Đảng viên chứ? Công tác ở đâu đấy?

Pa-ven không hiểu chuyện gì, giới thiệu vắn tắt Giác-ki với Đô-ra.

Đô-ra giải thích:

- Vậy thì Giác-ki cứ ngồi lại đây. Có những đồng chí mới ở Mát-xcơ-va đến, cho biết tin tức mới của Đảng. Định mượn buồng anh họp kín.

Trừ Pa-ven và Giác-ki ra, những người có mặt hầu hết là đảng viên bôn-sê-vích lâu năm. Bác-ta-ép, ủy viên ban kiểm tra Mát-xcơ-va nói chuyện về phe đối lập mới do nhóm tờ-rốt-skít Di-nô-vi-ếp và Ca-mê- nhếp đứng đầu. Đồng chí kết luận:

- Giữa lúc tình hình nghiêm trọng như thế này, chúng ta không thể vắng mặt. Mai tôi về đây.

Ba ngày sau, nhà an dưỡng chưa hết hè đã vắng ngắt. Cả Pa-ven nữa, không nghỉ hết thời hạn đã quy định, cũng bỏ về.

Đảng không giữ anh lâu ở Trung ương Đoàn, chỉ định anh làm bí thư liên quận ủy một vùng công nghiệp. Một tuần sau, anh đọc bài diễn văn đầu tiên trước các cán bộ địa phương.

Dạo ấy đã về cuối thu rồi. Chiếc xe hơi của liên quận ủy đi về một quận bị rớt xuống vực bên đường. Trên xe có Pa-ven và hai cán bộ nữa.

Cả ba cùng bị thương nặng. Pa-ven bị giập đầu gối bên phải. Mấy ngày sau, anh được chuyển đi chữa ở một viện giải phẫu ở Khác-cốp. Các bác sĩ khám đầu gối bị sưng của anh và chiếu điện, đều tuyên bố là phải mổ ngay.

Pa-ven đồng ý.

Bác sĩ cao lớn đứng đầu hội đồng chẩn bệnh, kết luận:

- Vậy thì sáng mai sẽ mổ.

Rồi bác sĩ đứng dậy và tất cả các bác sĩ khác cũng đứng dậy theo đi ra.

Một phòng nhỏ sáng sủa cho một người bệnh nằm. Trong phòng sạch như lau như li và có mùi đặc biệt của nhà thương, cái mùi ấy Pa-ven lâu không ngửi đã quên khuấy rồi. Pa-ven nhìn chung quanh phòng. Một chiếc bàn nhỏ trải khăn trắng bong và một chiếc ghế đẩu sơn trắng. Chỉ có thế thôi.

Một chị hộ lý mang cơm tối vào.

Pa-ven từ chối không ăn. Anh đang ngồi ngả người trên giường viết thư. Chân đau làm anh không nghĩ ngợi gì được. Bụng anh không muốn ăn.

Viết xong lá thư thứ tư thì thấy cửa buồng hé mở. Một người đàn bà trẻ tuổi, mặc áo khoác trắng và mũ trắng, lại đầu giường anh. Bóng tối nhá nhem, anh chỉ nhận ra đôi mày rất mỏng và đôi mắt to mà anh đoán là mắt đen. Người đàn bà một tay đỡ cặp da, một tay cầm lấy tờ giấy và cái bút chì, tự giới thiệu với Pa-ven:

- Tôi là bác sĩ điều trị của đồng chí. Hôm nay đến phiên tôi trực. Tôi sắp hỏi cung đồng chí đây, dù muốn hay không đồng chí thế nào cũng phải kể cho tôi nghe hết tất cả những điều bệnh viện cần biết về đồng chí đấy nhé.

Bà bác sĩ cười niềm nở. Nụ cười làm buổi “hỏi cung” đỡ nặng nề. Suốt một giờ liền, Pa-ven nói chuyện về mình và nói chuyện cả về những bà cụ tổ bốn đời nhà mình nữa.

Trong phòng mổ, đông người làm việc, ai nấy đều có lượt băng mỏng bịt lấy mồm và mũi.

Đồ mổ bằng kền sáng bóng, một chiếc bàn dài hẹp bề ngang và dưới mặt bàn một chiếc chậu to. Pa-ven nằm trên bàn, giáo sư chuyên về phẫu thuật cũng vừa rửa tay xong. Phía sau, những người giúp việc vội vàng sắp xếp đồ mổ. Pa-ven quay mặt đi. Một nữ y tá đang xếp dao mổ. Bác sĩ Ba-gia-nô-va cởi băng vết thương ở chân Pa-ven, nói rất nhỏ bảo anh:

- Đồng chí quay đi chỗ khác, nhìn thấy dễ xúc động, không lợi đến thần kinh.

- Bác sĩ bảo xúc động thần kinh của ai cơ?

Pa-ven mỉm cười có vẻ khinh thường.

Mấy phút sau, mặt nạ dày úp chụp lấy mặt anh.

Giáo sư giải phẫu nói:

- Đồng chí bình tĩnh nhớ. Chúng tôi sắp đánh thuốc mê. Đồng chí thở đi, thở chậm đường mũi và đếm một, hai, ba, bốn...

Tiếng người bị nghẹt dưới cái mặt nạ, bình thản trả lời:

- Được, nếu tôi mê đi, có văng lời chửi tục thì xin lỗi các đồng chí trước.

Bác sĩ không nhịn được, hé môi mỉm cười.

Mấy giọt thuốc mê đầu tiên, mùi ngột ngạt, nôn nao.

Pa-ven hít thở mạnh và chậm, cố dằn từng tiếng, bắt đầu đếm: Một, hai, ba, bốn... Anh bước vào màn đầu tấn bi kịch của đời anh như thế đấy.

A-rơ-chom mở như xé đôi phong bì và không hiểu sao lòng bồi hồi, giở thư ra đọc. Mắt ngốn mấy dòng đầu rồi đọc lướt một mạch cả thư.

"Anh A-rơ-chom!

Em với anh rất ít khi viết thư cho nhau. Mỗi năm chỉ một hai lần. Nhưng cốt nội dung thư, chứ cần gì viết nhiều, anh nhỉ? Trong thư trước, anh cho em hay tin anh đã đem gia đình rời Sê-pê-tốp-ca đến làm ở một kho đầu máy nhà ga Ca-da-chin, để “dứt cho đứt rễ”. Em hiểu: Rễ ấy là chị Schi-ô-sa, là ông bà sinh ra chị, là cái tư tưởng tư hữu nhỏ lạc hậu của họ... Cải tạo những người như chị Schi-ô-sa chẳng phải chuyện dễ. Em lo là đến anh cũng không cải tạo được chị ấy đâu. Anh cứ bảo: “Không còn tuổi thanh niên thì học khó vào”. Vậy mà anh học tiến bộ lắm đấy. Anh cứ khăng khăng không chịu bỏ sản xuất để nhận công tác chủ tịch Xô-viết thành phố. Như thế không đúng, anh ạ. Anh đã chiến đấu giành chính quyền có phải không, anh? Vậy thì anh phải nắm lấy chính quyền. Ngay ngày mai, anh nhận trách nhiệm ấy đi và bắt tay vào công tác.

Giờ nói đến em. Có chuyện không hay, anh ạ. Em phải đi nằm bệnh viện. Bác sĩ làm thịt hai lần, đổ mất khá máu, sức mất đi nhiều, thế mà đến tận bây giờ, không ai dám nói là bao giờ em khỏi.

Em phải bỏ công tác, tìm ra được một cái nghề mới, cái nghề “con bệnh”. Em chịu trăm sự đau đớn giày vò và kết quả là đầu gối bên phải tê liệt, trên người bao nhiêu là sẹo và sau hết, sự khám phá cuối cùng của các thầy thuốc: Cách đây bảy năm, em bị đá giáng vào xương sống. Ngày nay, thầy thuốc bảo vết thương ấy gay cho em lắm. Em sẵn sàng chịu đựng hết thảy, quý hồ sẽ được trở về vị trí của em trong đội ngũ.

Đối với em, trong đời không gì đáng kinh sợ hơn là sẽ phải xa rời đội ngũ. Thậm chí em cũng không dám nghĩ đến cảnh ấy nữa. Cho nên em đề nghị các bác sĩ tha hồ làm thế nào thì làm. Chữa mãi chẳng ăn thua gì mà mây đen kéo đến lại càng dày hơn trước. Lần mổ thứ nhất đã khỏi, em vừa chập chững đi được em đã lại công tác ngay. Nhưng chẳng bao lâu lại quy lại bị đưa vào bệnh viên. Hiện nay em đã có giấy đi nghỉ tại nhà an dưỡng “Mai-nắc” ở Ơ- pa-tô-ri-a. Mai em sẽ lên đường. Anh đừng lo, anh A-rơ-chom ạ, chẳng dễ mà đem em đi chôn được đâu. Em đủ sức để sống ba đời người. Chúng ta sẽ thắng cuộc đời lần nữa, anh ạ! Anh giữ gìn sức khỏe, anh nhớ. Đừng có làm gì quá sức kẻo sau đó lại phải chữa chạy tốn kém cho Đảng. Năm tháng cho ta kinh nghiệm với hiểu biết, không phải để ta mang kinh nghiệm với hiểu biết đó vào nằm dài ở nhà thương.

PA-VEN CA-RƠ-SA-GHIN"

Trong khi A-rơ-chom cau đôi mày rậm, đọc bức thư này thì Pa-ven từ giã bác sĩ Ba-gia-nô-va. Bác sĩ bắt tay Pa-ven và hỏi anh:

- Mai đồng chí mới đi Cơ-ri-mê? Vậy ngày hôm nay đồng chí định đến chơi đâu?

Pa-ven trả lời:

- Chị Đô-ra chốc nữa sẽ đến đón tôi. Tôi đến ở chơi nhà Đô-ra qua đêm nay, và sáng mai chị ấy sẽ đưa tôi ra tàu.

Bác sĩ Ba-gia-nô-va biết Đô-ra là người con gái thường đến thăm Pa-ven.

- Đồng chí Pa-ven, ta đã đồng ý với nhau là trước khi đi, đồng chí sẽ đến gặp cha tôi, đồng chí có nhớ không? Tôi đã nói chuyện với cha tôi về đồng chí, đã trình cha tôi hiểu cặn kẽ về bệnh của đồng chí rồi đấy. Tôi rất muốn được ông khám bệnh cho đồng chí. Tối nay, đồng chí có thể đến để ông xem cho được.

Pa-ven đồng ý ngay.

Ngay tối hôm đó, nữ bác sĩ Ba-gia-nô-va đưa Pa- ven vào phòng thăm bệnh rộng lớn của cha.

Trước mặt con gái, nhà phẫu thuật nổi tiếng chăm chú khám bệnh cho Pa-ven, Ba-gia-nô-va đã đem ở bệnh xá về những ảnh chiếu điện cho những bản phân tích về bệnh của Pa-ven. Ông cụ bỗng nói một tràng dài bằng tiếng la-tinh. Pa-ven nhận thấy Ba-gia-nô- va đột nhiên tái mặt. Anh nhìn chăm chăm chiếc đầu hói của ông cụ, cố đoán một điều gì trong đôi mắt sắc của vị giáo sư già. Song ông cụ Ba-gia-nốp hết sức điềm tĩnh không lộ một vẻ gì.

Khi Pa-ven mặc lại quần áo rồi thì bác sĩ Ba-gia- nốp chào biệt anh; Ông cụ phải đến dự một cuộc họp và ủy cho con gái nói để Pa-ven biết nhận xét của ông về bệnh của anh.

Trong gian phòng của Ba-gia-nô-va, đồ đạc bày biện cầu kỳ, Pa-ven nằm ra đi-văng nghỉ, đợi Ba-gia-nô- va nói. Nữ bác sĩ không biết bắt đầu thế nào và nói gì bây giờ, nên rất lúng túng. Cha của bác sĩ vừa tuyên bố: Y học hiện thời chưa có phương tiện ngăn được sức tàn phá của chứng viêm ngày một phát triển trong cơ thể Pa-ven. Ông cụ không tán thành chủ trương dùng giải phẫu để trị bệnh này. “Chàng trẻ tuổi này chẳng chóng thì chầy sẽ bị tê liệt một cách bi đát. Thầy thuốc chúng ta bất lực, không có cách gì ngăn được đâu”.

Bác sĩ Ba-gia-nô-va tự nghĩ mình vừa là thầy thuốc, vừa là bạn, không thể nào nói hết sự thật cho Pa- ven nghe được, chỉ tìm lời nhẹ nhàng thuật cho Pa- ven một phần nhỏ sự thật mà thôi.

- Tôi tin chắc là bùn nóng vùng Ơ-pa-tô-ri-a sẽ có tác dụng quyết định và chỉ mùa thu này thôi đồng chí sẽ có thể trở lại làm việc.

Bác sĩ quên là có đôi mắt sắc đang chăm chú nhìn bác sĩ.

- Theo những lời bác sĩ nói, hay đúng hơn theo những lời bác sĩ không nói hết, tôi đoán hiểu bệnh của tôi trầm trọng đến mức nào. Bác sĩ chẳng còn nhớ tôi đã yêu cầu bác sĩ bao giờ cũng cứ nói thật hết với tôi. Đừng giấu tôi điều gì. Tôi nghe điều dữ chẳng đến nỗi ngất đi đâu và cũng chẳng cắt cổ họng tự tử đâu. Song tôi nhất định muốn biết tương lai bệnh tình của tôi sẽ ra sao? - Pa-ven nói dằn từng tiếng.

Ba-gia-nô-va dùng một câu bông đùa để đánh trống lảng.

Thế là tối hôm ấy, Pa-ven vẫn không làm sao tìm được sự thật. Khi hai người chia tay, nữ bác sĩ thủ thỉ:

- Đồng chí chớ quên có tôi là bạn của đồng chí, đồng chí Pa-ven ạ; Cuộc đời đồng chí rồi đây phải đề phòng tất cả mọi sự bất thần xảy ra. Nếu đồng chí cần tôi giúp đỡ hay tham gia ý kiến, xin cứ viết thư. Tôi có thể làm được việc gì, xin làm hết sức.

Nữ bác sĩ ngó qua cửa sổ, nhìn theo bóng người cao lớn, mặc áo bành-tô da đang khó nhọc chống gậy bước chân xuống thềm đi ra xe ngựa.

*

Lại về Ơ-pa-tô-ri-a. Trời phương Nam nóng nực. Người miền Nam da rám nắng, đội mũ nồi nhỏ thêu chỉ vàng, tính tình ưa náo động. Chỉ mươi phút, xe ca đã đưa hành khách tới tòa nhà hai tầng xây bằng đá màu xám, nhà an dưỡng “Mai-nắc”.

Bác sĩ thường trực phân phối bệnh nhân vào buồng. Khi bác sĩ đến trước phòng số 11, bác sĩ quay hỏi Pa-ven:

- Cơ quan nào gửi đồng chí đến đây?

- Trung ương Đảng cộng sản U-cơ-ren.

- Nếu vậy thì chúng tôi xếp đồng chí vào ở buồng này với đồng chí Ép-ne. - Bác sĩ giải thích thêm: - Đồng chí ấy người Đức, có đề nghị được ở chung với một đồng chí người Nga.

Bác sĩ gõ cửa. Có tiếng Nga lơ lớ trả lời.

- Cứ vào!

Pa-ven đặt va-li xuống sàn và quay ra nhìn người nằm trên giường có mái tóc vàng hoe, có một đôi dép màu xanh biếc. Đồng chí người Đức cười hồn nhiên đón chào Pa-ven.
- Gúd moóc-ghen, ghê-nô-xen (Tiếng Đức: Chào đồng chí). Tôi muốn nói: Chào đồng chí. - Rồi giơ bàn tay xanh xao, ngón tay thon thon ra bắt tay Pa-ven.

Mấy phút sau, Pa-ven đến ngồi đầu giường Ép-ne và đôi bên trò chuyện sôi nổi bằng tiếng “quốc tế”, thứ tiếng mà chữ nghĩa chỉ là phụ, mỗi câu nói không hiểu thì lại dùng thêm óc đoán, tay chỉ trỏ và nét mặt làm điệu bộ - nói tóm lại, dùng thêm đủ mọi phép của một thứ quốc tế ngữ không văn tự.

Pa-ven đã hiểu ngay được là Ép-ne vốn là thợ bên Đức trong cuộc khởi nghĩa năm 1923 ở Hăm-bua, đồng chí bị đạn vào hông; Vết thương cũ bây giờ lại loét ra, bắt đồng chí nằm liệt giường. Tuy bị đau đớn như vậy, đồng chí vẫn tươi tỉnh, và đức dũng cảm đó được Pa-ven rất lấy làm kính nể.

Pa-ven không thể nào mơ ước một người bạn nằm cạnh tốt như thế. Một người bạn “láng giềng” như vậy sẽ chẳng nói nhiều về bệnh mình và chẳng than thở luôn mồm từ sáng đến tối đâu. Trái lại, ở cùng buồng với một người như vậy, có thể quên hết nỗi đau buồn của chính bản thân mình. Pa-ven thầm nghĩ “Tiếc thật, mình chẳng biết một tiếng Đức quái nào cả”.

Trong một góc vườn có kê nhiều ghế mây, một chiếc bàn tre, hai ghế bành có xe đun. Bộ “năm” mà anh em gọi đùa là “ban chấp hành của Quốc tế cộng sản” thường ra đấy nghỉ sau mỗi lần làm thuốc.

Ép-ne ngả người trên một chiếc ghế bành; Pa-ven thì bác sĩ không cho đi lại cũng ngồi trên chiếc ghế bành kia. Ba người bệnh nữa là đồng chí Vai-man béo phục phịch, người Ét-stô-ni, cán bộ giúp việc ở Bộ dân ủy thương mại nước cộng hòa Cơ-ri-mê; Nữ đồng chí Ma-giơ-ta La-u-rin, người Lét-tô-ni, còn trẻ, mắt nâu, trông tưởng chừng như con gái mười tám, và đồng chí Lét-đê-nhếp, người Xi-bê-ri cao lớn, tóc ở thái dương đã hoa râm. Thế là năm người thuộc năm dân tộc: Một người Đức, một người Ét-stô-ni, một người Lét-tô-ni, một người Nga và một người U- cơ-ren. Ma-rơ-ta và Vai-man nói tiếng Đức, hai người làm phiên dịch cho Ép-ne và Pa-ven thân nhau vì ở cùng buồng, Ép-ne gần với Ma-rơ-ta và Vai-man vì nói chuyện được với nhau bằng tiếng Đức. Còn Pa- ven và Lê-đê-nhếp thân nhau vì cùng thích đánh cờ.

Trước khi Lê-đê-nhếp chưa đến đây thì Pa-ven là “vô địch” ở nhà an dưỡng. Anh đã đấu kịch liệt với Vai-man mới giành được chức đó. Vì thua cờ, anh chàng người Ét-stô-ni lầm lì này phát cáu. Anh ta từ lâu nuôi hận với Pa-ven vì trận thua cờ này. Nhưng rồi có một ông cụ già cao lớn đến nhà an dưỡng. Ông lão năm mươi tuổi mà trông trẻ lạ lùng, ông cụ ấy là Lê-đê-nhếp. Một hôm, Lê-đê-nhếp gạ Pa-ven đánh một ván cờ. Pa-ven có ngờ đâu ông cụ là tay lợi hại, đấm tốt đầu. Pa-ven là tay “vô địch” nên được ra đương đầu với bất cứ tay cờ nào mới đến nhà an dưỡng. Những trận như thế, người ta thường xúm lại xem đông. Đến nước đi thứ chín thì Pa-ven nhận ra Lê-đê-nhếp đi rất chắc, đã bắt đầu thế công, anh hiểu rằng anh đang đương đầu với một đối thủ nguy hiểm. Lúc ấy anh mới thấy anh đã ra quân không kín nước là dại.

Ván cờ ròng rã ba tiếng. Mặc dù đem hết cố gắng, đem hết tâm lực, Pa-ven cũng phải xin thua. Anh đã thấy, trước tất cả năm người chầu rìa, là mình thua mất. Nhìn sang đối thủ: Ông cụ Lê-đê-nhếp tủm tỉm cường một cách độ lượng. Lẽ tất nhiên ông cụ cũng thấy là Pa-ven thua rồi. Nhưng người xem vẫn chưa biết thắng bại về ai, cả Vai-man là người mong Pa-ven thua ra mặt, cũng chưa hề biết.

- Tôi bao giờ cũng kháng cự đến quân cuối cùng. - Pa-ven nói thế. Và Lê-đê-nhếp gật đầu đáp lại câu nói mà chỉ có riêng cụ hiểu.

Pa-ven đánh với cụ Lê-đê-nhếp mười ván trong năm ngày: Thua bảy, được hai, hòa một.

Vai-man khoái quá.

- Cám ơn đồng chí Lê-đê-nhếp nhé! Đồng chí già hay thật! Đáng đời cu cậu Pa-ven lắm! Nó đã đánh bại những tay lão tướng chúng tôi. Giờ thì nó cũng lại bị một lão tướng đánh bại, ha, ha, ha!

Rồi anh ta quay ra trêu người đã thắng mình nay thất trận.

- Sao cậu, thua có thú không, cậu?

Pa-ven đành phải nhường chức “vô địch” cờ, song mất cái danh vọng trẻ con đó, anh đã được làm quen với Lê-đê-nhếp và ông cụ đối với anh sau này rất thân, rất quý. Pa-ven thua cờ là phải. Anh mới chỉ đi nước nào biết nước ấy, nên phải chịu thua bậc thầy đã nắm được hết phép bí truyền của cờ thế.

Rồi lại thêm một ngày kỷ niệm chung làm đồng chí già và đồng chí trẻ càng thêm gần gũi. Pa-ven sinh năm mà Lê-đê-nhếp vào Đảng. Cả hai là tiêu biểu rất điển hình của lớp vệ quân trẻ và lớp vệ quân già bôn-sê-vích. Một người giàu kinh nghiệm về đời và kinh nghiệm chính trị, đã từng qua nhiều năm đấu tranh bí mật, ra vào ngục tù của Nga hoàng và sau đó đã từng làm công tác chính quyền, giữ trọng trách của nhà nước. Một người thì mới qua một thời thanh niên sôi nổi và mới chỉ có tám năm tuổi đấu tranh thôi, nhưng sống thời thanh niên và tám năm ấy tốn sức hơn cả một đời người. Cả hai người, già cũng như trẻ, lòng còn hăng, máu còn nóng, nhưng sức khỏe đã hư rồi.

Tối đến ở phòng 11 là phòng của Ép-ne và Pa-ven, ồn ào, ầm ĩ như một câu lạc bộ vậy. Từ đấy truyền đi các tin tức thời sự chính trị. Thường thường Vai- man tìm cách tương vào một câu chuyện tiếu lâm tục tĩu mà anh rất lấy làm thú, nhưng cứ mở mồm kể thì bị Ma-rơ-ta và Pa-ven trừng mắt nhìn lại ngay. Ma-rơ-ta dùng lời mỉa mai tế nhị và sâu sắc bắt anh ta im và nói mỉa không xong, thì Pa-ven lại phải dính vào.

- Vai-man, anh tưởng chúng tôi thưởng thức cái lối pha trò của anh đấy phỏng? - Pa-ven cất giọng đùng đùng nổi giận: - Tôi không hiểu làm sao anh có thể dung hoà những quan điểm...

Vai-man bĩu làn môi dày, mắt ti hí liếc nhìn mọi người có vẻ chế nhạo:

- Ta phải lập một cơ quan thanh tra đạo đức bên cạnh cơ quan Tổng giám đốc giáo dục quốc dân và đề cử đồng chí Pa-ven làm tổng thanh tra mới được. Ma-rơ-ta chọi lại thì còn có lý. Chị và phe phụ nữ, đối lập nhà nghề với tôi rồi. Còn Pa-ven lại làm ra bộ ngây thơ cụ hay như người ta thường nói, làm ra bộ tí nhau của Côm-xô-môn... Tôi ấy à, tôi không ưa cái lối trứng đòi dạy khôn vịt.

Sau cuộc tranh cãi về đạo đức cộng sản ấy, vấn đề tục tĩu được đưa ra thảo luận về nguyên tắc. Ma- rơ-ta dịch cho Ép-ne nghe những quan điểm khác nhau. Ép-ne tuyên bố.

- Chuyện tục tĩu không tốt. Tôi tán thành ý kiến của Pa-ven.

Vai-man phải rút lui ý kiến, nói dăm câu bông phèng để đánh trống lảng, nhưng rồi thôi không kể những chuyện tủ ấy của anh nữa.

Pa-ven tưởng Ma-rơ-ta cũng là Côm-xô-môn. Anh trông mặt Ma-rơ-ta đoán mới mười chín tuổi. Anh rất đỗi ngạc nhiên, một hôm nói chuyện với Ma-rơ- ta biết chị vào Đảng từ năm 1917, chị đã ba mươi mốt tuổi rồi và chị là một trong những cán bộ đắc lực nhất của Đảng cộng sản Lét-tô-ni. Năm 1918 chị đã bị bọn trắng kết án tử hình, song nhờ Chính phủ Xô-viết trao đổi tù binh, chị được lấy về cùng nhiều đồng chí khác. Hiện chị công tác ở báo “Sự thật” và đồng thời học nốt đại học. Hai người trở nên thân thiết lúc nào Pa-ven cũng không biết: Ma-rơ-ta thường hay sang chơi bên buồng Ép-ne, bắt đầu không rời “bộ năm” ra nữa.

Đồng chí Ê-gơ-lít, cán bộ bí mật, cũng người Lét- tô-ni, thường chế chị một cách tinh nghịch:

- Này Ma-rơ-ta, thế còn anh chàng Ô-dôn tội nghiệp ở lại Mát-xcơ-va một mình thì sao đây? Không được đâu nhớ!

Sáng sáng, cứ trước khi có chuông một phút thì có tiếng gà gáy lên giòn giã. Ép-ne bắt trước gà gáy rất tài. Nhân viên nhà ăn cứ nháo lên đi tìm con gà nào lạc vào trong các phòng, song tìm mãi không ra, Ép-ne lấy làm thú vị về chuyện đó lắm.

Đến cuối tháng, Pa-ven thấy bệnh nặng thêm lên. Thầy thuốc bắt anh nằm. Ép-ne thương bạn, rất buồn. Anh thấy quý người thanh niên bôn-sê-vích giàu sức sống, sôi lên sùng sục không hề chán nản bao giờ, mà đã sớm mất sức lực. Đến khi Ma-rơ-ta kể cho Ép- ne nghe là các thầy thuốc đều nói bệnh Pa-ven sẽ phát triển đến chỗ bi đát thì Ép-ne đau đớn rụng rời.

Suốt cả thời gian nằm điều trị Pa-ven bị cấm không được đi lại.

Pa-ven giấu được những cơn đau bệnh của mình để chung quanh không ai thấy. Chỉ có Ma-rơ-ta trông thấy mặt anh tái mét là đoán được anh đau lắm. Một tuần trước khi rời nhà an dưỡng này anh nhận được thư của Trung ương đoàn thanh niên U-cơ-ren cho phép anh nghỉ thêm hai tháng và căn cứ vào kết luận của các thầy thuốc nhà an dưỡng, Đoàn nhận thấy tình hình sức khỏe anh không cho phép anh trở về nhận lại công tác được. Kèm theo thư, Đoàn gửi cho anh một món tiền.

Pa-ven chịu đựng cái cú đầu tiên này như xưa kia anh đã từng chịu đựng những cú của Giu-khơ-rai dạy anh học quyền Anh: Xưa kia bị Giu-khơ-rai đấm, anh ngã khuỵu, nhưng rồi lại dậy ngay được.

Bỗng anh nhận được thư mẹ. Bà cụ viết cho anh bảo là ở hải cảng ngay cạnh Ơ-pa-tô-ri-a, bà cụ có bà bạn cũ tên là An-bi-na Quýt-xam đã mười lăm năm nay không gặp lại. Mẹ nhắn Pa-ven thế nào cũng sang thăm bà bạn. Bức thư ấy đã đóng một vai trò quan trọng đối với cuộc đời Pa-ven.

Một tuần sau, Hội ái hữu của nhà an dưỡng tiễn chân Pa-ven ra tận bến tàu. Ép-ne ôm chặt lấy Pa- ven, hôn anh như hôn em trai của mình. Còn Ma- rơ-ta thì biến đâu mất. Pa-ven đi không gặp được Ma-rơ-ta để chào biệt.

Sáng hôm sau, Pa-ven lên bến, đáp xe ngựa, xe đỗ trước một căn nhà nhỏ có vườn chung quanh, Pa- ven nhờ bác xà-ích vào hỏi thăm, đúng là gia đình bà Quýt-xam ở nhà này.

Gia đình Quýt-xam có năm người: Bà cụ An-bi- na, người đẫy đà, có cái nhìn chậm chạp lờ đờ của đôi mắt đen, trên khuôn mặt nhăn nheo còn tàn dư của vẻ đẹp thời con gái, ông lão Quýt-xam, dáng người thô lỗ, khinh khỉnh, trông y như lợn ỉn.

Ông lão làm hợp tác xã; Cô gái út là Thai-a thì ở nhà trông nom bếp nước, cô gái lớn là Li-ô-la trước kia đi đánh máy chữ, gần đây li dị với chồng là một tên vô lại say rượu bí tỉ. Hiện chị không có việc làm, ở nhà trông con và giúp mẹ chăm lo việc trong nhà.

Ông bà Quýt-xam còn có cậu con trai tên là Gioóc-giơ, xong Gioóc-giơ hiện ở Lê-nin-gơ-rat.

Nhà Quýt-xam niềm nở đón Pa-ven. Chỉ có ông lão nhìn khách một cách hằn học, nghi kỵ.

Pa-ven kiên nhẫn ngồi kể hết chuyện nhà cho bà cụ An-bi-na nghe và hỏi thăm lại về cảnh gia đình bà cụ.

Li-ô-la hai mươi hai tuổi. Tính tình rất đơn giản, tóc màu hạt dẻ cắt ngắn, nét mặt nở nang, cởi mở, cô thân ngay được với Pa-ven và không ngần ngại cho anh biết hết những chuyện uẩn khúc trong gia đình. Pa-ven nhờ đó biết được lão già Quýt-xam hành hạ cả nhà như một tên ác chúa, động ai có ý kiến gì hay ý định gì là lão ta đàn áp ngay. Lão ta ngu xuẩn, thiển cận, ti tiện, cả ngày gieo rắc khủng bố trong gia đình, cho nên con cái hờn oán, và bà cụ đã hai mươi năm trời nay phải đấu tranh với tính độc đoán ấy cũng sinh ra thù ghét lão. Các con gái luôn đứng về phía mẹ, chuyện lục đục, liên tiếp xảy ra trong gia đình làm cả nhà đều khổ sở. Ngày nào cũng như ngày nào, rặt những chuyện bực mình lớn, nhỏ.

Còn một con quỷ nữa trong gia đình là Gioóc-giơ. Cứ theo chuyện Li-ô-la kể thì nó thật là một thằng chẳng làm được trò trống gì, mà cứ lên mặt ta đây, huênh hoang hết sức, chỉ thích ăn ngon mặc đẹp, uống rượu chết thôi. Học hết trường chín năm, Gioóc- giơ cậy là con út được cưng, đòi mẹ cho tiền ra thủ đô học.

- Tôi muốn học lên đại học. Li-ô-la bán nhẫn đi. Còn mẹ bán quần áo, đồ đạc. Tôi cần tiền tiêu. Các người làm thế nào cho tôi thì làm.

Gioóc-giơ biết mẹ không từ chối mình bao giờ, và hắn lợi dụng mẹ chiều, thẳng tay đục khoét. Đối với hai chị thì khinh bỉ ra mặt, tự coi như bề trên nhìn xuống kẻ dưới. Thôi thì bà cụ bòn được ông lão đồng nào và Thai-a làm ra được đồng nào là bà gửi cho con trai tất. Thằng con thì thi gì cũng trượt liểng xiểng, vậy mà chẳng buồn tí nào. Nó ở trọ nhà chú nó, đánh dây thép liên tiếp về đòi mẹ gửi tiền ra, làm bà cụ phát hoảng.

Cô gái út là Thai-a, Pa-ven tới khuya mới trông thấy cô ta. Mẹ Thai-a đón ở cửa, khẽ nhắc con nhà có khách. Thai-a bối rối chìa tay ra bắt tay Pa-ven và trước mặt người khách lạ còn trẻ, cô thẹn đỏ chín má. Tay Pa-ven không buông ngay bàn tay nhỏ, cứng rắn, có nốt chai ấy.

Thai-a năm nay mới vừa mười chín tuổi. Người không lấy gì làm đẹp, song có đôi mắt nâu, cặp lông mày nhỏ xếch, cái mũi dọc dừa, cặp môi tươi và bậu khiến cho ai cũng ưa nhìn. Ngực trẻ của Thai-a bó căng trong chiếc sơ-mi cộc tay kẻ dọc.

Hai chị em ở hai buồng nhỏ xíu liền nhau. Buồng Thai-a có cái giường sắt hẹp, một chiếc tủ đứng đựng đồ vật bề bộn, với một gương con và trên tường treo chừng ba chục tấm ảnh chụp và ảnh in. Ở mặt cửa sổ hai chậu hoa tươi: Hoa hương diệp và hoa thúy cúc hồng nhạt, màn cửa bằng tuyn có buộc băng xanh màu da trời.

- Thai-a không thích để cho đàn ông vào buồng mình đâu, nhưng đối với anh, anh xem, thật là đặc biệt đấy. - Li-ô-la nói đùa cô em như thế.

Tối hôm sau cả nhà ngồi uống trà bên buồng ông bà già, Thai-a ở lại phòng riêng, ngồi đấy, lắng nghe mọi người nói chuyện. Lão Quýt-xam vừa đưa tay quấy đường trong cốc nước, vừa nghếch mắt qua cặp kính nhìn khách ngồi trước mặt một cách chẳng ưa lành gì.

- Tôi không tán thành luật hôn nhân gia đình thời bây giờ. Muốn lấy nhau thế nào thì lấy tùy thích. Muốn bỏ nhau thì bỏ, chẳng ai ngăn được. Tha hồ là tự do.

Lão già cầm ngang thìa húp trà và lên một cơn ho. Khi đã ngớt cơn lão lại lấy tay chỉ mặt Li-ô-la:

- Như con bé này đây chẳng hạn. Nó ăn ở với nhân tình nó chẳng có phép tôi, rồi nó bỏ nhau cũng chẳng nói qua gì với tôi. Giờ thì mới sung sướng chứ, phải rước lấy mà nuôi cả cô ả lẫn thằng con chẳng biết bố là đứa nào. Đẹp mặt thật!

Li-ô-la đỏ nhừ mặt và quay nhìn Pa-ven mắt trào lệ. Pa-vẹn trừng cặp mắt nảy lửa, giặn dữ nhìn lão già hỏi lại:

- Sao cụ lại nói thế? Theo ý cụ thì bắt cô ấy ở đời với thằng ăn hại ấy hay sao?

- Lấy chồng thì cũng phải xem cái mặt thằng chồng nó thế nào đã chứ!

Bà cụ An-bi-na phải nói chen vào. Bà cụ giận quá không sao nén hết giận được, nói bằng một giọng hổn hển:

- Ông lão này, sao lại đem chuyện ấy mà nói trước mặt khách! Thiếu gì chuyện để nói cơ chứ!

Lão già cũng chồm lên:

- Tao biết tao nói gì, không phải dạy! Người nhà này dám mở mồm mắng lại tao từ lúc nào thế?

Đêm hôm ấy, Pa-ven nghĩ mãi về cảnh nhà Quýt- xam. Anh vô tình đến đây, tự nhiên bị tham gia vào tấn bi kịch gia đình này mà nào anh có muốn dây vào làm gì. Anh nghĩ cách giúp bà cụ và hai cô gái thoát cảnh áp chế của lão già. Cuộc đời riêng của chính bản thân anh khiến anh phải bó tay: Bao nhiêu vấn đề không giải quyết được nảy sinh trong óc. Lúc này hơn lúc nào hết, anh thấy hành động quyết liệt khó khăn thật.

Chỉ có một biện pháp - tách gia đình này ra, mẹ với hai cô gái phải từ bỏ hẳn không bám vào lão già nữa. Nhưng cách đó chẳng đơn giản đâu. Ở tình thế anh, anh không thể dính đến cuộc cách mạng gia đình này được; Vài ngày nữa thôi, anh sẽ đi khỏi đây, có lẽ chẳng còn bao giờ gặp lại những người trong nhà này nữa. Thôi, đành để cho đời mặc sao hay vậy, mà chẳng nên khuấy động bụi bặm cái nhà bé bằng lỗ mũi này lên làm gì. Nhưng cái mặt lão già cứ ám ảnh anh. Pa-ven vạch hết kế hoạch này đến kế hoạch khác kế hoạch nào cũng thấy không thể thực hiện được.

Hôm sau là ngày chủ nhật, khi Pa-ven ra phố về, thì thấy ở nhà chỉ còn một mình Thai-a. Cả nhà đã đi sang chơi bên nhà người họ.

Pa-ven vào buồng Thai-a, người mệt, ngồi xuống một cái ghế dựa, Pa-ven hỏi:

- Sao cô không đi chơi đâu cho khuây khỏa?

Thai-a thỏ thẻ trả lời:

- Em chẳng muốn đi đâu cả.

Pa-ven sực nhớ đến những kế hoạch nằm nghĩ đêm qua và định bụng thử xem kế hoạch của mình thế nào. Anh liền bắt đầu nói thẳng vào đề ngay, nói vội vã để nhỡ có ai vào khỏi đứt quãng:

- Thai-a ơi, chúng ta sẽ xưng hô với nhau bằng “anh em” cho thân mật. Việc gì phải giữ cái kiểu lễ phép phương Đông làm gì! Anh sắp đi khỏi đây. Anh đến nhà em giữa lúc tình cảnh anh cũng đang lúc khó khăn, chứ không anh đã làm cho câu chuyện xoay hẳn chiều hướng khác. Trước đây một năm thì anh đã đem cả bà cụ và hai em đi nơi khác. Đối với những bàn tay như em và Li-ô-la thế nào cũng kiếm được việc làm. Không tài nào làm ông lão chuyển được đâu. Nhưng bây giờ thì anh không thể giải quyết như thế được. Chính anh cũng chẳng biết đời anh sẽ ra sao, cho nên thật như người ta nói, anh đã bị tước khí giới trước cuộc đời rồi. Giờ thì làm thế nào? Anh sẽ thử về xin được đi công tác xem sao. Các thầy thuốc viết về bệnh anh những cái quái gì ấy và các đồng chí của anh bắt anh phải nghỉ chữa bệnh mãi không biết đến bao giờ. Nhưng ta phải làm thay đổi ngược cảnh này ngay tại đây... Anh sẽ viết thư cho mẹ anh và sẽ nghĩ cách chấm dứt tình cảnh này. Anh thế nào cũng không bỏ mặc cụ với hai em. Nhưng Thai- a này, anh hỏi em nhớ: Cảnh sống của nhà này và nhất là riêng đời em cần phải đảo lộn lại tất cả. Em có đủ can đảm làm như thế không và em có muốn làm thế không?

Thai-a ngẩng mặt lên và khẽ trả lời:

- Muốn thì em muốn lắm, nhưng không biết em có đủ can đảm không.

Pa-ven hiểu vì sao Thai-a trả lời còn lưỡng lự.

- Không sao, em ạ. Quý hồ em cũng muốn như thế thì ta sẽ thu xếp được thôi. Nhưng anh hỏi em, em có nặng tình gia đình ràng buộc không?

Thai-a bị hỏi đột ngột, không trả lời ngay. Mãi sau mới nói:

- Em rất thương đẻ em. Thầy em làm khổ đẻ em suốt một đời người. Thằng Gioóc-giơ lại bòn rút hết của đẻ. Em nghĩ tội cho đẻ em lắm... Tuy đẻ quý thằng Gioóc-giơ hơn em...

Hai người nói chuyện với nhau nhiều lắm. Khi cả nhà đi chơi gần về, Pa-ven hỏi đùa:

- Cũng lạ thật! Làm thế nào mà ông lão chưa bắt em lấy chồng nhỉ?

Thai-a giãy nảy:

- Em không lấy. Em cứ trông chị Li-ô-la là đủ biết rồi. Em thế nào thì thế, nhất định chẳng bao giờ lấy chồng đâu!

Pa-ven cười:

- Ra cô thề suốt đời ở vậy phải không? Thế nếu có người hiền lành dễ thương thì sao?

- Em không lấy! Khi còn lượn qua cửa nhà mình ve vãn thì anh nào cũng hiền lành dễ thương lắm.

Pa-ven làm lành đặt tay lên vai người con gái:

- Thôi, chẳng nói nữa. Chẳng lấy chồng, đời người ta vẫn có thể sống được. Nhưng em đã quá giận đám thanh niên đấy. May quá anh lại không bị em ngờ là anh có ý hỏi em, không thì anh cũng rất khó xử lý - Nói rồi, Pa-ven thân ái đặt lòng bàn tay lạnh ngắt của mình lên mu bàn tay người con gái đang bối rối thẹn thùng.

Thai-a dịu dàng:

- Những người như anh chọn những đám khác, chứ chọn những đứa con gái như em làm gì?

Mấy hôm sau, Pa-ven đáp xe lửa về Khác-cốp. Thai- a, Li-ô-la, bà cụ An-bi-na và em bà cụ là bà Ra-da đi ra ga tiễn anh. Lúc chia tay, bà cụ nhắc, và Pa- ven hứa không quên hai cô em, sẽ giúp hai cô thoát khỏi cái vũng lầy gia đình này. Đám người ra tiễn Pa-ven từ biệt anh như từ biệt một người nhà thân thiết. Thai-a ứa nước mắt. Tàu đi đến xa, Pa-ven còn trông thấy Li-ô-la vẫy khăn tay trắng và cái áo cộc kẻ sọc của Thai-a.

Đến Khác-cốp, Pa-ven không muốn phiền Đô-ra, vào nhà bạn quen là Pê-chi-a Nô-vi-cốp. Anh nghỉ ở đây và tới trụ sở Trung ương gặp A-kim. Đến lúc trong phòng chỉ có hai người, Pa-ven đề nghị giao ngay công tác cho anh. A-kim lắc đầu:

- Không được, Pa-ven ạ. Chúng mình đã nhận được kết luận của ban y tế và của Trung ương Đảng ghi rõ như sau: “Vì bệnh Pa-ven trầm trọng, phải đưa đồng chí ấy vào viện thần kinh học để được điều trị và không thể cho đồng chí ấy công tác được”.

- Bao giờ họ chẳng viết thế, anh A-kim ạ. Tôi tha thiết đề nghị anh cho tôi được làm việc. Tôi lang thang trong các bệnh viện mãi cũng vô ích thôi.

A-kim từ chối:

- Đã có quyết định thì bọn mình không thể nào không thi hành. Cậu nên hiểu, Pa-ven ạ, như thế chỉ là tốt cho cậu thôi.

Nhưng Pa-ven cố tình đòi mãi, khiến A-kim không nỡ chối từ, đành phải đồng ý.

Ngày hôm sau, Pa-ven đã làm ở văn phòng mật của ban bí thư Trung ương Đảng. Anh tưởng cứ bắt tay vào việc là đủ cho sức khỏe đã mất đi có thể dần dần trở lại. Nhưng mới ngày đầu, anh đã nhận thấy là mình nhầm. Anh ngồi bàn giấy tám giờ liền không ăn uống gì, vì không đủ sức từ tầng ba đi xuống ăn bữa sáng và bữa trưa ở nhà ăn bên cạnh: Chốc chốc, lúc thì tay bại hẳn, lúc thì chân liệt đi. Đôi khi cả người bại liệt và ngây ngấy sốt. Có hôm đã đến giờ đi làm mà anh không làm sao bước chân xuống giường được. Mãi mới nhấc được người dậy, đến cơ quan, anh thất vọng nhận ra mình đi chậm mất một tiếng đồng hồ. Nhiều lần như thế, anh em mới phê bình anh, và anh hiểu: Đấy là bước đầu đi đến những điều anh ghê sợ nhất trong đời anh - phải xa rời đội ngũ.

A-kim còn cố giúp anh hai lần nữa, giao cho anh công tác khác. Nhưng điều không tài nào tránh khỏi đã xảy ra: Đến tháng thứ hai thì anh phải nằm liệt trên giường. Anh mới nhớ đến bác sĩ Ba-gia-nô-va lúc chia tay và viết thư cho bác sĩ. Bác sĩ ngay hôm ấy đến thăm anh. Anh được bác sĩ cho biết điều cốt yếu nhất đối với anh: Anh đau như thế không nhất thiết phải đưa vào nhà thương.

- Vậy ra đời tươi đến nỗi tôi không cần đi chữa bệnh nữa. - Anh cũng nói đùa một câu cho vui, song không lòng nào cười được.

Vừa hơi lại người một chút, Pa-ven đã lại đến Trung ương đề nghị trao công tác. Nhưng lần này thì A-kim rất nghiêm. Anh cương quyết bắt Pa-ven vào nhà thương. Pa-ven giọng nghẹn ngào:

- Tôi không đi đâu hết, đi là vô ích, tôi biết có ý kiến chuyên môn bảo thế. Tôi chỉ còn một cách: Xin Đảng cấp cho tiền trợ cấp và xin thôi công tác. Nhưng tôi nhất định không làm thế. Các đồng chí không có quyền cắt đứt công tác của tôi. Tôi mới có hai mươi bốn tuổi đầu, tôi không muốn lang thang mãi trong các nhà thương mà sống nốt cuộc đời tàn tật, trong khi biết rằng nằm nhà thương mãi cũng không đi đến đâu. Các đồng chí phải cho tôi một công tác thích hợp tình cảnh của tôi. Tôi còn có thể làm việc tại nhà riêng hay ở hẳn một cơ quan nào đó... Có điều là đừng bắt làm một anh cạo giấy, ghi sổ công văn đi đến. Công việc phải làm cho tôi vui thích, để tôi khỏi cảm thấy mình bị bỏ rơi.

Giọng Pa-ven càng nói càng vang lên và càng xúc cảm. A-kim thấu hiểu những tình cảm sôi nổi trong lòng người thanh niên mới gần đây còn tràn đầy biết bao lửa sống. Anh hiểu tấn bi kịch của Pa-ven; Anh biết rằng nếu phải xa rời chiến đấu và lùi tít về hậu phương, đối với Pa-ven, một người đã từng hiến cả cuộc đời ngắn ngủi của mình cho Đảng, điều đó ghê sợ đến nhường nào. Anh quyết định dùng mọi biện pháp thuộc phạm vi anh giải quyết để cứu Pa-ven.

Thôi được, Pa-ven ạ, cậu đừng lo nữa. Mai ban bí thư sẽ họp. Mình sẽ đặt vấn đề cậu. Mình hứa với cậu hết sức cố gắng giải quyết.

Pa-ven nặng nề đứng dậy và chìa tay ra bắt tay A-kim.

- Anh A-kim ơi, anh có thể nào đinh ninh được rằng cuộc đời tôi sẽ dồn tôi vào một góc và sẽ đè bẹp tôi không? Trái tim tôi còn đập ngày nào - nói đến đây anh nắm tay A-kim kéo đặt lên ngực mình và A-kim thấy rõ tiếng tim đập thình thịch và gấp. - Không ai bắt được tôi xa rời Đảng. Chỉ có cái chết mới làm tôi từ bỏ đội ngũ mà thôi. Anh nhớ thế cho, anh A-kim nhé.

A-kim im không nói. Anh biết những lời Pa-ven vừa nói không phải là những câu nói thường, mà là tiếng kêu của một chiến sĩ bị thương nặng. Anh hiểu rằng những người như Pa-ven không thể nào nói và làm khác được.

Hai hôm sau, A-kim báo tin cho Pa-ven biết là đã xếp cho anh một công tác phụ trách ở bộ biên tập báo của Trung ương; Nhưng muốn được nhận công tác ấy cần phải kiểm tra trình độ văn hóa, xem có thể phục vụ trên địa hạt văn học được không. Bộ biên tập báo niềm nở tiếp anh. Phó tổng biên tập là một nữ chiến sĩ già, công tác bí mật lâu năm, nay là ủy viên Ban kiểm tra Trung ương Đảng U-cơ-ren. Đồng chí ấy hỏi Pa-ven mấy điểm:

- Đồng chí đã theo học đến đâu?

- Chỉ có ba năm tiểu học thôi.

- Đồng chí đã theo học ở Trường Đảng nào chưa?

- Chưa ạ.

- Điều đó không quan trọng, có nhiều trường hợp không học ở một trường nào mà vẫn trở nên một người viết báo giỏi. Đồng chí A-kim đã nói chuyện với chúng tôi về đồng chí. Chúng tôi có thể trao công tác cho đồng chí, không phải việc ở đây, mà việc mang về nhà làm được và nói chung chúng tôi sẽ tạo những điều kiện làm việc thích hợp với hoàn cảnh đồng chí. Song muốn làm được công tác ấy, phải hiểu nhiều, biết rộng mới được. Nhất là về mặt văn học và ngôn ngữ học.

Mới nghe mấy câu mào đầu, Pa-ven cũng có linh cảm thấy không xuôi rồi. Trong nửa giờ nói chuyện với đồng chí phó tổng biên tập, anh thấy đã rõ mình thiếu nhiều hiểu biết quá. Đồng chí phó tổng biên tập đưa anh viết thử một bài, Pa-ven viết xong, đồng chí ấy lấy bút chì đỏ gạch đít có đến ba mươi chỗ văn viết sai mẹo luật và nhiều lỗi về chính tả nữa.

- Đồng chí Pa-ven Ca-rơ-sa-ghin ạ, đồng chí có nhiều khả năng lắm. Nếu đồng chí chịu khó tích cực học tập thì tương lai có thể trở nên một cán bộ trợ lý văn học. Nhưng hiện thời đồng chí viết chưa thạo. Xem bài đồng chí viết thấy là đồng chí chưa nắm được văn Nga. Điều đó không lạ: Đồng chí đâu có thời giờ học. Nhưng có điều rất tiếc là chúng tôi không xếp công tác cho đồng chí được. Tuy nhiên, tôi cũng nhắc thêm lại lần nữa: Đồng chí rất có khiếu về văn. Nếu bài đồng chí viết, vẫn nội dung ấy mà đem chữa văn đi thì sẽ là một bài báo rất hay. Song ở đây thì chúng tôi lại cần người có trình độ chữa được bài người khác kia.

Pa-ven chống gậy đứng dậy. Lông mày mắt phải mấp máy giậm giật.

- Đồng chí nói, tôi rất đồng ý. Văn hay chữ tốt gì tôi ấy! Tôi đốt lò giỏi, chữa điện được, biết cưỡi ngựa tài, huấn luyện thanh niên thạo, nhưng trên mặt trận của các đồng chí thì tôi là một tên vũ dũng không hợp.

Pa-ven cáo từ ra về.

Đến chỗ hành lang rẽ sang bên, anh suýt ngã. Một bà đang cầm cặp ở tay lại đỡ anh.

- Đồng chí sao thế? Trông đồng chí mặt tái xanh quá.

Mất mấy giờ đồng hồ, anh mới hồi lại được. Anh khẽ ẩy bà kia ra, rồi nặng nhọc chống gậy lê chân đi.

Từ ngày hôm ấy đời Pa-ven xuống dốc. Không còn nghĩ đến công tác được nữa. Càng ngày anh càng phải nằm liệt giường, có khi suốt cả mấy ngày, không bước đi đâu được. Trung ương miễn công tác cho anh và đề nghị cơ quan bảo hiểm xã hội Trung ương phát trợ cấp cho anh. Anh nhận tiền trợ cấp cùng với giấy chứng nhận tàn phế không lao động được. Trung ương cũng cấp cho anh một số tiền và bản lý lịch của anh cùng với giấy phép đi đâu tùy anh chọn. Anh nhận được thư Ma-rơ-ta mời anh về nghỉ ở nhà mình. Anh cũng có ý định lên Mát-xcơ-va với hy vọng mong manh là đề nghị với cơ quan Trung ương Đảng toàn Liên Xô cho anh một công tác nào không phải đi lại. Nhưng đến Mát-xcơ-va, các đồng chí cũng lại bảo phải nghỉ mà chữa cho khỏi và hứa đưa anh vào nằm một bệnh viện tốt. Anh từ chối.

Mười chín ngày sống ở nhà Ma-rơ-ta trôi qua lúc nào không biết, Ma-rơ-ta có bạn là Na-đi-a Pê-tác- sơn. Ban ngày, Pa-ven ở nhà một mình, Ma-rơ-ta và Na-đi-a sáng sáng đi làm, mãi đến tối mới về. Pa-ven đọc liên miên không lúc nào rời sách. Nhà Ma-rơ-ta nhiều sách. Tối đến, có các bạn lại chơi.

Anh nhận được nhiều thư ở dưới cảng miền Nam gửi lên. Gia đình Quýt-xam mời anh về chơi: Cuộc đời lại càng siết chặt thêm cái dây thòng lọng, bà cụ và hai cô con gái cầu cứu anh.

Một buổi sáng Pa-ven từ giã căn nhà yên tĩnh ở phố Gút-xi-át-nhi-xốp ra đi. Con tàu tốc hành đưa anh về phương Nam, đi ra miền duyên hải ấm áp ở Nam Cơ-ri-mê, tránh cho anh cái mùa thu ẩm ướt, mưa sùi sụt của phương Bắc. Ngồi trên tàu, anh nhìn qua cửa sổ, trông những cột dây thép chạy qua. Đôi mày cau nhíu lại và trong đôi mắt ủ dột của anh thầm ẩn ý chí cưỡng lại số mệnh.

Thép Đã Tôi Thế Đấy Phần 2 - Chương 8

Dưới chân núi, sóng biển vỗ bì bõm vào một đám đá mọc lởm chởm. Gió hanh từ bên Thổ Nhĩ Kỳ xa xôi thổi đến mơn vào mặt. Cảng này, có tường chắn sóng bằng bê-tông cốt sắt ngăn với biển cả, chạy khoằm vào đất liền theo hình vòng cung gãy góc. Đèo cao của rặng núi tràn lên mặt biển. Và những nếp nhà quét vôi trắng của ngoại ô thành phố này, mọc trèo lên lưng đèo thoai thoải.

Khu vườn tàn tạ của ngoại ô yên ả không một tiếng động. Cỏ mọc lấp lối đi lâu ngày không dọn bỏ hoang. Gió thu dứt lá những cây phong vàng úa lả tả rơi xuống dần dần phủ lên lối đi ấy.

Một ông già Ba Tư đánh xe ngựa đưa Pa-ven từ trong phố ra đấy. Khi đỗ cho người khách lạ lùng này xuống xe, ông lão xà-ích không nhịn được nói ra miệng điều ông nghĩ bụng:

- Tại sao ông lại đến đây, hở ông? Ở đây chẳng có gái đẹp, chẳng có rạp hát. Chỉ có độc giống sói lang đi rình mò... Ông đến đây làm gì? Tôi không hiểu sao ông lại đến đây. Thôi, quay về đi, ông đồng chí ạ.

Pa-ven trả tiền, và ông lão xà-ích lại đánh xe đi.

Khu vườn vắng tanh, vắng ngắt. Pa-ven tìm thấy một tấm ghế dài kê trên mỏm đá trông thẳng ra biển. Anh ngồi xuống, ngửa mặt đón ánh nắng lúc bấy giờ đã tàn rồi.

Anh đến đây, đến chốn tịch mịch này, để suy nghĩ xem nên tổ chức đời sống của mình ra sao và dùng đời mình làm việc gì bây giờ. Đây là lúc kiểm điểm lại cuộc đời và phải quyết định mọi bề.

Từ lúc anh trở lại, những mâu thuẫn trong gia đình Quýt-xam trở nên sâu sắc đến cực độ. Khi biết tin anh đến thì lão già đùng đùng nổi trận lôi đình, ầm ĩ cửa nhà lẽ tất nhiên, có sự phản kháng trong gia đình này chống lại lão già là do Pa-ven lãnh đạo. Lão già đột nhiên bị hai con gái và vợ cưỡng lại một cách quyết liệt, và ngay hôm đầu tiên Pa-ven đến nhà, gia đình này liền chia làm hai phe đối địch, thù ghét nhau. Cửa vào buồng ông bà già đã đem chắn lại; Một phòng nhỏ của nhà ngang thì cho Pa-ven thuê. Pa-ven đưa tiền nhà trước cho lão già và chẳng bao lâu lão thậm chí cũng có vẻ yên lòng, vì các con gái rời lão ra như thế, chẳng có đòi lão cung cấp cho đồng nào để sống.

Để cho người ngoài khỏi nói, bà cụ An-bi-na vẫn ở lại bên nhà lão già, chồng bà. Lão ta không bước chân sang bên bọn trẻ bao giờ, không muốn trông thấy mặt cái anh chàng mà lão chí ghét. Ngược lại, ra đến sân thì lão thở hồng hộc như cái đầu tàu xe lửa để tỏ ra rằng lão là chủ cái nhà này.

Trước khi vào làm ở hợp tác xã, lão có hai nghề: Nghề thợ khâu giày và nghề thợ mộc. Đến nay, lúc rỗi rãi, lão cũng làm thêm hai nghề ấy kiếm ra tiền; Chỗ làm của lão trước đặt ở nhà dưới, sau lão vác bàn thợ đến làm ngay bên cửa sổ buồng Pa-ven để chọc tức anh chơi. Mỗi lần đóng đinh, lão ra tay đập búa chan chát, như điên, như giận, và lấy thế làm thích thú lắm. Lão hiểu lão làm thế thì Pa-ven có ngồi đọc sách cũng khổ với lão.

Lão rối rít lên trong chòm râu.

- Rồi biết tay ông, ông sẽ tống cổ mày đi cho mà xem.

*

Xa xa, mãi tít gần chân trời có con tàu đi qua, nhả làn khói đặc như một thoáng mây đen. Một đàn chim hải âu vừa bay vừa kêu, chúc đầu xuống mặt biển.

Pa-ven, tay ôm đầu, triền miên suy nghĩ. Chuỗi hình ảnh của đời anh, từ tấm bé đến bây giờ diễu qua trước mặt. Hai mươi bốn năm qua anh có sống trọn hay chăng cái đạo làm người? Như một vị quan tòa công minh, anh kiểm điểm lại trong trí nhớ cuộc đời mình từng năm một. Đời anh sống cũng không đến nỗi hỏng lắm, anh nhận thấy như thế và thâm tâm lấy làm hài lòng với mình. Đành rằng anh cũng sai lầm không phải ít, vì ngu xuẩn, vì bồng bột, nhưng sai lầm nhất là vì anh không hiểu biết. Song về căn bản không đến nỗi nào. Anh đã không bỏ trôi qua những ngày nồng cháy nhất, anh đã chọn ngay chỗ đứng của anh trong cuộc chiến đấu thép lửa để giành chính quyền và trên lá cờ đỏ chói của cách mạng cũng có vài giọt máu của anh nhuộm thắm.

Còn chút sức lực nào thì anh vẫn chưa chịu rời đội ngũ. Giờ đây, bị thương nặng, anh không đấu tranh ở tiền tuyến được. Anh chỉ còn có cách lùi về những bệnh viện hậu phương. Anh nhớ lại cái ngày Hồng quân ào ào như sóng cuộn tiến quân vào gần thành Vác-xô-vi. Quân đang tiến thì đạn thù bắn trúng một chiến sĩ. Chiến sĩ ngã lăn ra đất, nằm dưới chân ngựa. Anh em đồng đội hối hả băng bó lại, rồi trao chiến sĩ cho quân y và xông tiếp lên, mải truy kích quân thù. Mất một chiến sĩ, đơn vị không vì thế mà ngừng xông lên đuổi địch. Trong cuộc đấu tranh vì sự nghiệp chung cao cả, thường như thế đấy, mà phải như thế đấy. Đành rằng có những trường hợp đặc biệt. Như anh đã từng trông thấy những chiến sĩ bắn súng máy cụt chân, ngồi trên xe ngựa ta-san-ca. Đấy là những con người làm quân thù khiếp sợ: Súng máy của họ vẫn gieo chết chóc và tàn phá vào hàng ngũ địch. Họ bắn rất vững, mắt nhắm rất trúng, khiến cho cả trung đoàn lấy làm tự hào. Nhưng, những con người như vậy, hiếm lắm.

Con người anh phải làm gì bây giờ, sau cuộc thất trận này, khi anh chẳng còn chút hy vọng gì trở về chỗ anh trong đội ngũ. Anh đã làm cho bác sĩ Ba- gia-nô-va chẳng có lần đã phải nói thật với anh là trong tươi lai, anh phải đề phòng mọi sự bất thần ghê khiếp hơn nữa xảy ra đấy ư? Làm gì bây giờ? Câu hỏi đề ra không cách giải quyết này hiện ra trước mắt anh như một vực thẳm đen ngòm ghê sợ.

Khi đã mất thứ quý báu nhất là khả năng chiến đấu thì còn sống làm gì nữa? Ngày hôm nay và ngày mai đây đầy u ám, làm thế nào để chứng minh là đời mình còn đáng sống? Lấy gì lấp được nỗi trống trải của cuộc đời? Hay đành là chỉ biết ăn, biết uống và biết thở hít khí trời mà thôi? Chỉ còn cách khoanh tay trố mắt đứng nhìn các đồng chí của mình chiến đấu và tiến lên hay sao? Như thế để rồi sống báo cô tập thể ư? Rồi đến phải huỷ quách tấm thân tàn phế phản phúc này đi thôi? Một viên đạn vào giữa tim và thế là xong, đời hết vướng! Đã biết sống phải đạo làm người thì cũng cần phải biết chết đi vào đúng lúc nên chết. Ai dám kết tội người chiến sĩ không muốn kéo dài cơn hấp hối của mình?

Bàn tay anh sờ vào túi, nắn khẩu Bơ-rao-ninh dèm dẹp; Ngón tay anh, theo thói quen, nắm lấy báng súng. Anh từ từ rút khẩu súng ngắn ra.

- Có ai ngờ mi lại sống đến một ngày tận số như thế này?

Nòng súng nhìn thẳng vào mắt anh khinh bỉ. Pa- ven đặt súng lên đầu gối và thốt ra một câu chửi giận dữ.

- Thế chỉ là anh hùng rơm đây thôi mi ạ! Tự sát như thế, một thằng khốn nạn bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu cũng làm được. Đấy là lối thoát dễ nhất mà cũng là hèn nhất. Sống có khó khăn thì làm một phát cho xong đời. Nhưng mi đã thử chiến thắng cuộc đời hóc hiểm ấy chưa? Mi đã làm hết cách để dứt ra khỏi vòng đai thép đang chịt lấy cổ mi chưa? Mi quên rồi sao, trước thành Nô-vô-gơ-rát - Vô-lưn-ski, mi và đồng đội của mi đã từng tung mười bảy đợt xung phong một ngày và đã biết chống lại tất cả để chiếm kỳ được lấy thành? Thôi hãy cất súng đi và đừng có hở chuyện này với ai. Hãy biết sống cả những khi cuộc đời trở nên không thể chịu được nữa. Hãy làm cho đời mi còn có ích.

Anh đứng dậy và đi theo con đường cái. Một đồng bào ở núi cho anh lên ngồi nhờ xe ngựa và đáp về phố. Về đến phố, anh xuống một ngã tư mua tờ báo tỉnh. Báo đăng tin có họp toàn thể Đảng bộ thành tối nay ở câu lạc bộ Đê-mi-an Bét-đơ-ni.

Pa-ven đi họp đến khuya mới về. Trong buổi họp ấy anh đã lên nói chuyện và nào có hay đấy là lần nói cuối cùng của anh trước một hội nghị lớn.

Thai-a không ngủ được. Pa-ven đi mãi không về làm cô lo ngại. Có việc gì xảy ra với anh ấy? Anh Pa- ven ở đâu bây giờ? Hôm ấy, Thai-a thấy trong mắt nhìn của Pa-ven, trước kia anh nhanh nhẹn bao nhiêu, giờ có một cái gì lạnh lùng và khắc khổ. Pa-ven ít nói đến anh, song Thai-a đoán là anh đang trải qua một thử thách ghê gớm.

Lúc có tiếng cổng con ngoài vườn đóng sập, lại thì bên phòng mẹ, đồng hồ vừa buông hai tiếng. Thai- a khoác áo ngoài lên vai, chạy ra mở cửa. Chị Li-ô- la ngủ ở buồng, nói mê lẩm bẩm. Thai-a thấy Pa-ven đã về thì mừng quá; Khi Pa-ven bước vào nhà, Thai- a nói thầm:

- Thế mà em cứ lo cho anh mãi.

- Anh còn sống thì không có việc gì mà phải lo cho anh đâu, em ạ, Li-ô-la ngủ rồi à, hở em? Em biết không, anh chẳng muốn ngủ tí nào. Hôm nay anh muốn nói với em. Thôi, ta sang buồng ngủ đi em, kẻo lại làm thức giấc chị Li-ô-la mất. - Pa-ven nói, giọng cũng thì thào.

Thai-a lưỡng lự. Như thế là thế nào? Đêm hôm khuya khoắt nói chuyện với anh ấy ư? Nhỡ mẹ biết thì sao? Nhưng nói thế nào để anh Pa-ven hiểu điều ấy nhỉ? Không nên, anh ấy giận mất. Mà anh ấy định nói chuyện gì thế nhỉ?

Nghĩ thế, Thai-a vẫn đi về phòng.

Khi hai người đã ngồi trong phòng tối, mặt đối mặt, gần sát nhau đến nỗi Thai-a nghe rõ hơi thở của anh, thì Pa-ven bắt đầu nói, giọng khàn khàn:

- Chuyện thế này, Thai-a ạ. Chuyện đời xoay ra đến chỗ anh cũng lấy làm lạ quá. Những ngày gần đây anh thấy hết sức khó chịu trong người. Có một điều anh cứ luẩn quẩn nghĩ mãi không biết nên thế nào: Anh làm thế nào mà tiếp tục sống được bây giờ! Anh chưa bao giờ gặp cơn đen vận bĩ như thế. Nhưng hôm nay, anh đã họp “bộ chính trị” trong đầu anh và anh đã quyết nghị một điều rất là quan trọng. Em đừng lấy làm lạ, anh nói em nghe đây.

Anh kể cho Thai-a nghe tất cả những điều anh cảm thấy trong những tháng gần đây và một phần lớn những điều anh đã suy nghĩ ngoài khu vườn ngoại ô.

- Hiện tình thì như thế này. Anh nói ngay vào điểm chính. Câu chuyện ngang trái trong gia đình em hiện nay chỉ mới là bước đầu thôi. Ta phải bỏ đi, đến nơi không khí tươi lành, tránh được càng xa càng hay cái hang đen tối này. Ta phải làm lại cuộc đời. Đời của riêng em cũng như đời của anh lúc này đều đang bi cả. Anh định đốt lửa lên sưởi nóng cuộc đời hai đứa chúng ta. Em hiểu như thế nghĩa là như thế nào không? Anh hỏi em làm vợ của anh thì em có đồng ý không, em?

Thai-a nghe Pa-ven nói từ đầu đến giờ, trong lòng hết sức xúc động. Nghe đến câu sau cùng thì Thai- a giật mình sửng sốt.

- Anh không bảo em phải trả lời anh ngay bây giờ đâu Thai-a ạ. Em nghĩ cho kỹ. Em có lẽ không hiểu tại sao anh có thể nói với em điều đó mà không ướm ý em trước, không tán tỉnh em, v. V... Những trò ấy đều chẳng cần. Em bé ơi, anh đưa tay cho em cầm nhé, tay anh đây, em này. Nếu em tin anh thì em sẽ không bao giờ phải lo là bị lừa dối đâu. Ở anh, có nhiều điều mà em cần đến, và ngược lại, anh cũng thấy ở em như thế. Anh quyết định như thế này nhớ: Chúng mình ước với nhau, cho đến ngày em lớn, em trưởng thành nên người - anh sẽ giúp em tiến bộ, nếu anh không giúp thế thì con người anh chẳng đáng một đồng kẽm nhỏ giữa chợ phiên đâu. Cho đến ngày ấy ta không được bội ước với nhau. Khi nào em lớn rồi thì tha hồ tùy em quyết định. Biết trước thế nào được? Có thể lúc bấy giờ thì anh đã hóa ra thân tàn ma dại. Nếu như gặp cảnh ngộ ấy thì em nên nhớ rằng, anh chẳng nỡ cột đời em vào đời anh đâu.

Anh im một lát, rồi lại âu yếm và nồng nàn:

- Ngay giờ đây, anh mong em hãy nhận ở anh tình bạn thân và lòng yêu thương em.

Anh không buông những ngón tay của Thai-a mà anh vẫn giữ trong tay anh, lòng bình tĩnh dường như là Thai-a đã ưng ý rồi.

- Anh có giữa đường bỏ em không?

- Không thể bằng vào lời nói miệng được. Thai- a. Em chỉ cần hiểu rằng: Những con người như anh không có bội bạc đâu. Quý hồ người ta đừng có bội bạc với anh.

Anh nói hết câu mà lòng chua xót.

Thai-a đáp lại:

- Hôm nay, em chưa trả lời anh được: Tất cả chuyện này đối với em thật đột ngột quá.

Pa-ven đứng dậy:

- Thôi, em đi ngủ đi. Trời sắp sáng rồi.

Anh về phòng riêng, không cởi quần áo, cứ thế mà lăn ra giường. Đầu vừa áp gối đã ngủ say.

Trong phòng Pa-ven, ở mặt bàn, gần cửa sổ, có những chồng sách lấy ở thư viện Đảng về, một chồng báo và nhiều sổ tay viết chi chít. Một chiếc giường, hai cái ghế và trên cánh cửa thông sang buồng Thai- a treo một tấm bản đồ Trung Hoa, khổ rất rộng, trên lấm chấm những lá cờ nhỏ tí, đen và đỏ. Pa-ven đến Đảng ủy điều đình được với văn phòng gửi cho anh sách văn nghệ. Ngoài ra, các đồng chí còn hứa chỉ thị cho đồng chí phụ trách thư viện lớn nhất của cảng liên lạc với anh, làm “người đỡ đầu” về văn hóa cho anh. Chẳng bao lâu, thư viện cảng bắt đầu gửi đến cho anh từng bó sách nguyên. Li-ô-la lấy làm lạ, thấy hôm nào Pa-ven cũng miệt mài đọc sách và ghi sổ tay trong suốt ngày, từ sáng sớm cho đến chiều tối, chỉ nghỉ một chốc lát ăn cơm sáng và trưa, tối đến thì chị em Li-ô-la lại sang buồng Pa-ven ngồi chơi. Pa-ven kể lại cho chị em Li-ô-la những điều mình đọc được ban ngày.

Thường quá nửa đêm, lão già Quýt-xam đi ra sân, lần nào cũng thấy kẽ cửa sổ buồng anh chàng ở thuê đáng ghét có vệt đèn sáng. Lão rón rén năm đầu ngón chân bước lại gần nhìn qua kẽ cửa sổ, thấy cái đầu kia cứ cúi xuống bàn.

“Mọi người thì ngủ, còn nó thì cứ chong đèn suốt đêm. Nó thức canh nhà, làm như nó là chủ ở đây. Mấy con bé nghe nó đã giở quẻ rồi”. Lão già nghĩ bụng thế, lấy làm bực tức và bỏ đi.

Tám năm nay, lần đầu tiên Pa-ven mới có dịp được thư thả thời giờ và không mắc một công việc gì hết. Anh đọc một cách say sưa, thèm khát như một cậu thiếu niên chưa bước vào đời. Ngày làm việc mười tám tiếng. Cứ cái đà làm việc như thế thì ảnh hưởng đến sức khỏe của anh như thế nào, nếu một hôm, Thai-a không buột miệng nói ra những lời này:

- Em đã kê dịch cái tủ chặn cửa buồng em ra rồi. Anh có muốn nói chuyện với em thì mở cửa sang thẳng bên em, không cần qua phòng chị Li-ô-la nữa.

Pa-ven đỏ ửng mặt. Thai-a mỉm cười, vui sướng: Thế là đã hẹn ước với nhau.

Lão già đêm đêm không thấy ánh sáng lọt qua khe cửa sổ ở góc nhà nữa. Và bà cụ An-bi-na thì nhận ra đôi mắt của Thai-a có long lanh một niềm vui không giấu hết được. Quanh cặp mắt ánh rực lửa lòng nồng cháy, mờ mờ có quẳng thâm vì những đêm không ngủ. Trong căn nhà nhỏ lại thường văng vẳng tiếng đàn ghi-ta và tiếng hát của Thai-a.

Thai-a lòng xuân đã động, cảm thấy đau đớn vì tình yêu hình như có chiều lén lút vụng trộm. Nghe tiếng động nhỏ cũng giật mình, lúc nào cũng ngỡ là có tiếng chân bà mẹ. Thai-a rất khổ tâm mỗi lần nghĩ đến: Nếu nhỡ ai hỏi tại sao đêm lại đóng cửa buồng mình, cài then kỹ thế thì sẽ trả lời thế nào? Pa-ven hiểu nỗi lòng của Thai-a, lựa lời âu yếm, làm người yêu yên lòng.

- Em làm sao mà sợ kia chứ? Anh với em hoàn toàn làm chủ ở đây. Em cứ ngủ yên. Không ai bước chân được vào đời tư của chúng mình cả.

Thai-a áp má vào ngực anh, và vững lòng hơn, ôm ghì lấy người yêu mà ngủ. Anh để tai nghe Thai-a thở một lúc lâu, nằm yên không động, để cho Thai- a được ngon giấc. Anh thấy lòng thương quá, mến quá người con gái đã gửi gắm tất cả đời mình vào anh rồi.

Li-ô-la là người đầu tiên hiểu duyên cớ vì đâu cặp mắt Thai-a bừng sáng. Từ hôm ấy, chị em đối với nhau có chiều hướng xa cách. Bà mẹ rồi cũng biết, hay nói đúng hơn, bà cũng đoán ra. Bà để ý đề phòng. Bà cụ có ngờ đâu Pa-ven lại thế. Một hôm, bà cụ nói với Li-ô-la:

- Con bé Thai-a không xứng đôi được với cậu ta đâu chẳng biết rồi sẽ ra sao?

Bà thấy lo. Nhưng không lần nào dám hỏi thẳng Pa-ven cả.

Bọn thanh niên bắt đầu lui tới phòng Pa-ven. Đôi khi anh em ngồi đông chật gian phòng nhỏ tí. Lão già nghe cứ ồn ồn như đàn ong vỡ tổ. Nhiều lần, cánh trẻ lại hát đồng thanh:

"Biển của ta quang vắng

Ngày đêm có tiếng sóng gầm"

Và bài hát mà Pa-ven thích nhất:

“Thế gian bao la này tràn đầy nước mắt”.

Đấy là anh chị em cán bộ Đảng đến họp Câu lạc bộ công nhân. Đảng ủy địa phương từ khi nhận được thư của Pa-ven đòi được làm công tác tuyên truyền đã giao cho anh phụ trách câu lạc bộ đó. Ngày tháng của Pa-ven cứ như thế mà trôi qua.

Thế là anh đã lại hai tay giữ vững được lái con thuyền và sau đôi lúc ngả nghiêng, anh đã hướng đời anh vào đích mới. Anh mơ ước lấy việc nghiên cứu học hỏi và công tác văn học để trở về chỗ đứng của anh trong đội ngũ.

Nhưng cuộc đời cừ dồn dập hết trở lực này đến trở lực này khác. Anh thấy trở lực hiện ra mà lo: Trở lực sẽ ngăn trở anh đến độ nào trên đường tiến tới đích của mình?

Bỗng nhiên Gioóc-giơ, anh chàng sinh viên thi trượt vào đại học từ Mát-xcơ-va dẫn xác về với con vợ. Nó xuống ở nhà bố vợ làm luật sư, rồi cứ từ bên ấy mà về bòn tiền của bà mẹ.

Gioóc-giơ về làm mọi quan hệ trong gia đình càng rắc rối thêm. Nó chẳng do dự, vào phe ngay với bố, rồi thông đồng với nhà vợ, vốn sẵn có tư tưởng bài Xô-viết bắt đầu phá đám, tìm cách đuổi bằng được Pa-ven đi, bắt Thai-a phải lìa anh.

Mười lăm hôm sau, khi Gioóc-giơ về đến nhà, thì Li-ô-la kiếm được việc làm ở một quận bên cạnh. Chị đem mẹ già và con thơ ở với nhau bên ấy. Còn Pa- ven và Thai-a cũng đem nhau đi đến một thành phố xa ở gần biển.

A-rơ-chom ít khi nhận được thư Pa ven. Nhưng mỗi lần anh thấy trên mặt bàn giấy của anh ở Xô- viết thành phố có chiếc phong bì màu xám, đề chữ viết gãy góc quen thuộc, thì anh lật lật trang giấy, lòng không giữ nổi bình tĩnh như thường nữa. Lần này cũng thế, tay mở phong bì, anh nghĩ thầm trong bụng, với nhiều cảm động âu yếm mà anh cố không để lộ ra mặt: “Pa-vơ-lu-sa, Pa-vơ-lu-sa ơi! Giá lúc này em ở gần anh, thì thằng bé em của anh sẽ giúp ý kiến cho anh, tốt biết mấy”.

"Anh A- rơ-chom!

Em muốn kể cho anh nghe cảnh ngộ của em bây giờ. Những thư thế này chỉ có gửi cho anh, em mới viết thôi. Anh biết tính em và sẽ hiểu rõ từng chữ em viết.

Trên mật trận đấu tranh giành lại sức khỏe của em, cuộc đời vẫn bi lắm, anh ạ. Chưa khỏi chứng này đã sinh ra tật nọ. Em vừa mới khỏi trận này đã lại bị giáng một trận khác bi đát hơn. Mà ghê sợ nhất là em không sao gắng gượng được nữa. Tay trái em liệt, em đã khổ lắm, giở lại thêm hai chân nó phản em. Và giờ em chỉ có thể hơi nhích được người đi (nhích trong bốn bức tường phòng em thôi) em khó nhọc lắm mới lê được từ giường em nằm ra bàn viết. Thế chưa phải là hết tội đâu, em chắc thế. Mai kia của nợ còn sinh ra thế nào nữa em chưa biết được.

Em ru rú ở nhà không đi đâu cả, chỉ ngày ngày nhìn qua cửa sổ trông ra được một góc biển. Có thể nào có một tấn kịch thảm hơn là bi kịch của một người như em, thân thể thì bại liệt không sao sai khiến được nữa mà trái tim người bôn-sê-vich ở em thì cứ lôi cuốn em không thể nào cưỡng lại được, lôi cuốn về với công tác, về với anh em, về với đội quân chiến đấu đang tiến trên khắp mặt trận, đang xung phong tiến công như một dòng thác thép?

Em vẫn còn tin em sẽ trở về đứng trong đội ngũ, tin mũi súng của em sẽ xuất hiện trong hàng trận xung phong. Em không thể nào không tin như thế, em không có quyền không tin như thế. Mười năm giáo dục của Đảng và Đoàn đã rèn cho em nghệ thuật chống chọi với cuộc đời, và lời của lãnh tụ cũng đúng cả vào trường hợp của em nữa: “Không có thành trì nào mà người bôn-sê-vích không đánh chiếm được”.

Đời em bây giờ là học tập, là đọc sách, đọc sách nhiều và đọc sách nữa. Em đã học được khá rồi, anh A-rơ-chom ạ. Em đã đọc kỹ được hết các sách văn học cổ điển của ta. Em đã học xong năm thứ nhất của Trường đại học cộng sản hàm thụ. Tối tối em lãnh đạo một nhóm nghiên cứu gồm các đồng chí đảng viên trẻ. Chính qua đám đồng chí trẻ ấy mà em liên hệ được với công tác thực tế của tổ chức. Rồi đời em còn có Thai-a nữa. Thai-a tiến bộ trong học tập, tiến tới trong công tác, và sau hết là chúng em yêu nhau, người bạn đời bé bỏng của em chiều em thắm thiết. Chúng em sống hợp nhau lắm. Kinh tế gia đình em cũng giản dị thôi: Chúng em có 32 rúp trợ cấp của em và tiền lương tháng của Thai-a, Thai-a đi vào Đảng cũng theo con đường như em. Thai-a cũng đi làm chân dọn dẹp bếp nước và bây giờ làm nghề rửa bát trong một quán cơm (nơi em không có nhà máy nào).

Mấy hôm gần đây, Thai-a khoe với em tấm giấy chứng nhận đầu tiên của mình, thẻ hội viên chi hội phụ nữ. Đối với Thai-a, chứng minh thư không phải là chỉ một mẩu bìa. Em để ý xem ở Thai-a đang thoát thai ra một con người mới. Em cố giúp cho Thai-a tiến. Rồi sẽ có ngày nhà máy lớn với anh chị em thợ sẽ làm cho Thai-a thành hẳn một con người mới. Chúng em còn ở đây thì Thai-a vẫn còn phải đi theo con đường duy nhất có thể đó.

Bà mẹ Thai-a hai lần đến tìm. Bà mẹ, vì thương con, đã vô tình tìm cách kéo Thai-a tụt lại, lôi về với cuộc đời nhỏ nhen, với những suy tính cá nhân bần tiện. Em đã cố cắt nghĩa cho bà cụ An-bi-na hiểu, để bà ta đừng đem bóng tối của đời bà ta che tối con đường Thai-a đã chọn. Nhưng nói mãi cũng vô ích. Em cảm thấy thế nào cũng có ngày bà ta ngáng trở con đường Thai-a tiến đến một cuộc đời mới. Và phải đấu tranh với bà ta, không thể nào tránh khỏi được.

Em bắt tay anh.

Em Pa-ven của anh".

Nhà an dưỡng số5 Ở phố Sta-rai-a Ma-xét-sta. Một toà nhà hai tầng xây bằng đá, trên miếng đất bằng, đẽo vào sườn núi. Chung quanh là rừng; Con đường chữ chi chạy xuống dốc. Cửa sổ các buồng đều mở, gió hiu hiu thổi tạt vào mùi nước có chất diêm sinh của những con suối dưới chân núi bốc lên. Pa-ven ở một mình trong buồng. Mai sẽ có nhiều đồng chí khác đến và anh sẽ có bạn láng giềng. Ngoài kia có tiếng chân đi và. Giọng ai quen thuộc. Có tiếng nhiều người nói chuyện với nhau, nhưng cái giọng trầm và sang sảng kia, anh đã nghe thấy ở đâu ấy nhỉ? Anh bắt trí nhớ làm việc căng thẳng và moi trong óc ra một cái tên chôn sâu trong ký ức chứ không phải là quên mất: “Lê-đê-nhếp In-nô-ken-ti Páp-vơ-lít-sơ. Chắc là đồng chí ấy thôi”. Pa-ven không nghi ngờ gì nữa. Anh gọi to lên. Một phút sau, Lê-đê-nhếp đã ngồi ở đầu giường anh và mừng rỡ lắc mãi tay anh.

- A chú bé, còn sống cơ à? Có chuyện gì vui kể cho lão nghe đi chú? Sao chú có vẻ muốn ốm thật sự nhỉ? Lão không đồng ý chú như thế đâu nhớ? Chú hãy theo gương lão. Các thầy thuốc cũng định cho lão ra rìa đấy. Nhưng lão vững lắm, cứ nhất định không nghe làm họ tức điên lên - Và cụ già Lê-đê-nhếp cười rất hồn nhiên.

Pa-ven nhận thấy trong nụ cười có ẩn chút lòng thương hại và lo buồn.

Hai người nói chuyện với nhau suốt hai tiếng đồng hồ. Cụ già Lê-đê-nhếp kể tin tức Mát-xcơ-va. Nhờ ông cụ, Pa-ven mới biết được hai nghị quyết trọng yếu nhất của Đảng về tập thể hóa nông nghiệp và tổ chức lại nông thôn. Pa-ven nghe thèm khát, uống từng lời một.

- Thế mà lão cứ tưởng chú đang hoạt động ở đâu dưới U-cơ-ren nhà chú cơ mà. Bực nhỉ. Nhưng, không việc gì mà buồn, cảnh lão còn bi hơn. Lão đã tưởng nằm liệt rồi cơ đấy. Bây giờ, chú xem, lão cố cưỡng lại. Không thể nào đang lúc này cứ khoanh tay để mặc cho nước chảy bèo trôi được, chú hiểu không. Không thể thế được! Có lúc lão nghĩ: Mình phải nghỉ thôi để lấy lại sức Lão còn trẻ đâu nữa, mà làm ngày mươi, mười hai tiếng cũng khá gay. Nhưng mỗi lần lão nghĩ như thế, lão xem lại công việc để giải quyết nốt, thì lần nào cũng thế, hễ lão định “giải quyết nốt” thì lại chúi đầu vào đến quá mười hai giờ đêm cũng chưa về đến nhà được. Bộ máy càng chạy khỏe, bánh xe lại càng phải quay nhanh. Ở nước chúng ta như thế đấy. Nhịp điệu công việc mỗi ngày một dồn dập, cho nên bọn già như lão, dù muốn hay không, cũng cứ phải sống như hồi còn thanh niên.

Lê-đê-nhếp đưa tay lên vuốt cái trán cao và nói ân cần như cha với con:

- Thôi bây giờ chú kể cho lão nghe về chú đi.

Lê-đê-nhếp nghe Pa-ven kể những trận thử thách của anh, và Pa-ven thấy người bạn già nhìn anh bằng cặp mắt long lanh ra chiều khuyến khích.

Ở góc sân, dưới bóng cây rậm rạp, một nhóm người bệnh của nhà an dưỡng ngồi chơi. Khơ-ri-xan Séc- nô-cô-dốp ngồi đọc báo “Sự thật” bên chiếc bàn nhỏ, cặp mày rậm nhíu lại. Sơ-mi anh bằng xa-tanh đen, mũ cát-két đã sờn, mặt anh gầy gò, rám nắng, râu lâu ngày không cạo, mắt xanh sâu hoắm, trông rõ ra vẻ một người thợ mỏ chính tông. Mười hai năm trước đây, anh đã từ bỏ cuốc chim, được điều động ra làm công tác lãnh đạo vùng này. Thế mà xem dáng anh đi, cách anh nói và những tiếng anh dùng, người ta tưởng anh vừa mới ở mỏ ra.

Sec-nô-cô-dốp là ủy viên thường vụ xứ ủy Đảng và có chân trong Chính phủ. Một ác bệnh - chứng hoại thư ở chân - làm người anh kiệt sức. Anh căm thù cái chân đau đã bắt anh nằm liệt giường nửa năm nay.

Trước mặt anh là Gi-ghi-rê-va đang ngồi hút thuốc nghĩ ngợi. A-lêc-xan-đơ-ra A-lếch-xê-ep-na Gi-ghi-rê- va năm nay ba mươi bảy tuổi. Chị vào Đảng đã mười chín năm nay. Lúc ấy “Su-rốt-ca, cô thợ kim khí” - đấy là bí danh của chị hồi hoạt động bí mật ở Pê-téc- bua - còn trẻ măng, gần như là một cô bé con, thế mà đã phải nếm mùi đi đày ở Xi-bê-ri rồi.

Người thứ ba cùng ngồi ở bàn là Pan-cốp. Anh nghiêng nghiêng cái đầu đẹp như một bức tượng thời cổ đọc một tờ tạp chí tiếng Đức, chốc chốc lại sửa đôi kính to tướng bằng đồi mồi trên mũi. Thật quái lạ người thanh niên ba mươi bảy tuổi ấy to lớn như một lực sĩ, thế mà khó nhọc mới nhích được cái chân bại liệt. Pan-cốp là biên tập viên báo kiêm nhà văn, cán bộ của Bộ dân ủy quốc gia giáo dục. Anh đã từng ở châu Âu đọc được nhiều tiếng nước ngoài. Trong óc anh có cả một kho kiến thức giàu có, cho nên đến cả Séc-nô-cô-dốp, vốn tính dè dặt, cũng phải tỏ ra kính nể anh.

Gi-ghi-rê-va hất đầu chỉ chiếc ghế bành và bánh xe đun mà Pa-ven đang ngồi, khẽ hỏi Séc-nô-cô-dốp:

- Đồng chí ấy ở cùng buồng với anh có phải không?

Séc-nô-cô-dốp ngừng đọc báo, nét mặt anh bỗng chốc tươi hẳn lên:

- Phải, Pa-ven Ca-rơ-sa-ghin đấy. Chị nên làm quen với cậu ta, Su-ra ạ. Bệnh tật đã thọc một đống gậy vào bánh xe của cậu ta rồi. Chứ không thì cậu bé ấy sẽ đắc lực ra trò ở những nơi đang gặp khó khăn ấy. Một tay thanh niên cộng sản thuộc lớp đầu tiên. Nói tóm lại, nếu ta hết sức nâng đỡ cậu ấy - mà tôi thì nhất định giúp đấy - cậu ta còn có thể làm việc được.

Pan-cốp để tai nghe. Su-ra Gi-ghi-rê-va vẫn giọng khe khẽ hỏi tiếp:

- Đồng chí ấy đau bệnh gì đấy?

- Hậu quả của năm một nghìn chín trăm hai mươi. Xương sống cậu ấy bị làm sao ấy. Tôi đã hỏi thăm các thầy thuốc. Họ ngại là vết giập ở xương sống làm cậu ta có thể sinh ra bại liệt toàn thân. Chị trông mà xem?

- Để tôi đem ghế đồng chí ấy lại đây.

Thế là quen nhau. Lúc ấy Pa-ven có ngờ đâu Gi- ghi-rê-va và Séc-nô-cô-dốp sau này đã trở nên những người bạn thân của anh, những người đầu tiên nâng đỡ tinh thần cho anh trong những năm bệnh hiểm nghèo sắp đến với anh.

Đời cứ thế mà trôi. Thai-a đi làm, Pa-ven ngồi đọc sách. Hôm ấy, anh chưa đến giờ lãnh đạo nhóm nghiên cứu thì một tai họa mới ngầm đến hại anh. Cả hai chân anh bị liệt. Giờ chỉ có tay phải giơ lên giơ xuống được nữa thôi. Anh cắn môi đến chảy máu cho đến khi cố gượng mãi cũng chẳng ăn thua gì, anh hiểu ra rằng thế là từ nay không nhúc nhích được nữa rồi. Thai-a can đảm chịu đựng, cố giấu không để lộ ra mặt nỗi thất vọng trong lòng và niềm chua xót không sao giúp đỡ chồng được. Còn Pa-ven cười gượng như một kẻ có tội, bảo Thai-a:

- Thai-a ơi, chúng mình nên li dị thôi. Khi hai đứa đính ước với nhau có ngờ đâu có chuyện thế này. Hôm nay anh đã nghĩ kỹ rồi mới nói với em như thế, em bé gái của anh ạ.

Thai-a không để cho Pa-ven nói. Nhưng cũng không sao cầm được nước mắt. Chị khóc nức nở, áp đầu Pa- ven vào ngực mình.

A-rơ-chom được tin về chuyện không may mới của em; Anh viết thư nhắn mẹ. Thế là mẹ bỏ mặc nhà cửa đấy, đến ở với con út. Bà cụ và Thai-a ăn ở rất thích hợp tính nết với nhau.

Pa-ven vẫn tiếp tục học tập.

Một buổi tối mùa đông, Thai-a đem về cho anh xem thành tích đầu tiên của Thai-a: Tấm thẻ đại biểu Xô-viết thành phố. Từ đấy, Pa-ven ít khi trông thấy mặt vợ. Thai-a thôi không làm chân rửa bát ở ban cấp dưỡng nhà an dưỡng này nữa. Chị sang Xô-viết công tác ở ban phụ vận mà tối nào cũng khuya mới về nhà, người mệt nhưng phấn khởi lắm. Đã gần đến ngày được kết nạp làm đảng viên, Thai-a hết sức hồi hộp phấn khởi thì một tai họa mới nữa giáng xuống gia đình Pa-ven. Bệnh tật cứ phát triển sức tàn phá ác độc của nó. Mắt phải Pa-ven bị sưng đau nhức nhối không thể nào chịu được, rồi đau lại truyền sang cả mắt trái. Lần đầu tiên trong đời, Pa-ven hiểu thế nào là bị mù, tất cả chung quanh bị một tấm màn đen phủ kín.

Thế là trên con đường đời, có một trở lực ghê gớm, không thể nào vượt qua được, đã lẳng lặng trồi lên, chẹn lấy lối đi. Mẹ và Thai-a thất vọng đến cùng cực. Nhưng Pa-ven kiên tĩnh tự bảo mình:

“Phải chờ xem thế nào đã. Nếu quả thật là mình không sao ngoi lên được nữa, cái bệnh mù này ngăn hết đường không cho mình cố gắng để làm việc được, nếu thật sự từ nay mình không còn hy vọng gì trở về chỗ đứng của mình trong đội ngũ thì phải kết liễu cuộc đời”.

Pa-ven viết thư cho các bạn thân. Anh nhận được thư của các bạn trả lời, khuyến khích anh kiên trì và vững lòng phấn đấu.

Vào những ngày thật là cay đắng cho anh này, Thai-a sung sướng vui mừng báo tin cho anh biết:

- Anh Pa-vơ-lu-sa ơi, em được kết nạp làm đảng viên dự bị rồi.

Và Pa-ven nghe vợ kể chi bộ kết nạp nữ đồng chí mới như thế nào, cũng gợi lại cho vợ nghe những bước đầu tiên của mình đi vào con đường của Đảng. Anh nắm tay vợ:

- Nữ đồng chí Ca-rơ-sa-ghin-na này, thế là hai vợ chồng mình họp thành một đảng đoàn cộng sản trong nhà này rồi đấy!

Ngày hôm sau, anh viết thư mời đồng chí bí thư quận ủy địa phương đến cho anh gặp. Tối hôm ấy, một chiếc xe hơi lấm bê bết bùn đỗ trước nhà anh. Đồng chí Von-me, một người Lét-tô-ni đã đứng tuổi, râu quai nón, bắt tay Pa-ven:

- Sao, anh thấy trong người có khá không? Sao anh cứ nằm lì mãi thế? Đấy, có xe hơi đây, dậy đi thôi. Quận ủy phái anh đi công tác ngay lập tức ở nông thôn. - Và đồng chí cười cố làm cho vui.

Đồng chí bí thư quận ủy ở chơi với Pa-ven hai giờ liền, quên khuấy là tối nay có họp. Đồng chí người Lét-tô-ni ấy đi đi lại lại trong phòng nghe câu chuyện thật cảm động của Pa-ven. Cuối cùng, đồng chí nói:

- Thôi, anh đừng nói đến nhóm nghiên cứu nữa nhớ. Anh phải nằm nghỉ cho khỏe. Với lại, phải quyết định thế nào về chuyện đôi mắt đi. Có thể là chưa đến nỗi hỏng cả đâu. Hay là về Mát-xcơ-va chữa, anh thấy thế nào?

Pa-ven ngắt lời:

- Tôi thì tôi chỉ cần được tiếp xúc với những con người, đồng chí Von-me ạ, những người đang sống kia kìa! Nếu để tôi lẻ loi, mình tôi sống với tôi thôi, thì tôi đến tắt ngấm mất. Lúc này hơn lúc nào hết, tôi cần có người làm bạn. Đồng chí cho bọn trẻ đến đây. Bọn trẻ ở nông thôn thì dễ “tả” lắm, nông trang tập thể chưa vừa ý, đòi đến công xã ngay. Nếu để mặc không người chỉ bảo, thì Côm-xô-môn dễ tiền phong chủ nghĩa. Tôi hiểu, vì chính tôi lúc trẻ cũng y như thế.

Von-me dừng bước lại:

- Ai nói mà anh biết được tình hình ấy thế. Mãi hôm nay người ta mới cho tôi hay tin có tình hình ấy xảy ra trong quận đấy.

Pa-ven cười:

- Đồng chí có lẽ không nhớ ra vợ tôi? Hôm qua vợ tôi được kết nạp vào Đảng. Cô ấy cho tôi biết tin ấy đấy.

- À chị Ca-rơ-sa-ghin-na, làm nghề rửa bát có phải không? Vợ anh đấy à? Thế mà tôi không biết đấy!

Suy nghĩ một lát, Von-me mới vỗ trán nói:

- Thôi, để chúng tôi bảo Lép Béc-xê-nhếp sang đây làm bạn với anh. Không có đồng chí nào tốt hơn để đi lại với anh hơn đồng chí đó! Hai người lại rất hợp tính nhau nữa. Thật là hai cái máy biến thế điện cao. Ấy là vì tôi trước kia có làm thợ điện nên ví von như thế. Với lại, Lép sang đây sẽ mắc giúp anh cái ra-đi-ô. Anh ấy rất cừ về môn này. Nhiều khi tôi ở lì bên nhà anh ta nghe ra-đi-ô đến hai giờ đêm. Đến nỗi mụ nhà tôi sinh ra ngờ vực; Mụ ấy truy tôi: Đêm hôm khuya khoắt la cà đi đâu đấy, hở cái nhà ông lão quỷ khập khiễng này?

Pa-ven mỉm cười hỏi lại Von-me:

- Béc-xê-nhếp? Đồng chí ấy là ai thế nhỉ?

Von-me đi đi lại lại cũng mệt, ngồi xuống một cái ghế dựa, kể lai lịch Béc-xê-nhếp cho Pa-ven nghe.

- Béc-xê-nhếp là công chứng viên ở tòa án đây. Nhưng kiểu anh ấy lâm công chứng viên cũng như tôi làm nhà vũ đạo ấy mà. Cách đây không lâu, anh giữ một chức vụ quan trọng. Vốn là một chiến sĩ cách mạng kỳ cựu, tham gia từ 1912 và vào Đảng từ tháng Mười. Trong nội chiến, làm ở tòa án cách mạng quân đoàn kỵ binh thứ hai. Đã tham gia diệt bọn rệp trắng ở Cô-ca-dơ. Đã từng ở Xa-ri-xưn và ở mặt trận Nam. Sang Viễn Đông, làm chủ tịch tòa án quân sự tối cao nước Cộng hoà. Cũng đã trải lắm mùi đời. Anh ta bị bệnh lao quật ngã. Được đổi từ Viễn Đông sang đây. Thoạt đầu về Cô-ca-dơ, làm chánh án tỉnh, phó chánh án xứ. Song phổi bị rữa hết rồi. Giờ mới đổi về đây, để khỏi nghoẻo mất. Lịch sử đồng chí công chứng viên kỳ lạ của chúng ta là như thế. Công tác công chứng viên đỡ mệt; Cũng để cho anh ấy thở một tí. Nhưng rồi người ta cứ từ từ giao cho anh ấy phụ trách một chi bộ, rồi nhét cho anh ấy phụ trách trường Đảng, rồi lại cử vào ban kiểm tra; Anh ấy là ủy viên thường trực của các tiểu ban điều tra về các vụ án hóc búa và phức tạp. Ngoài ra lại là một tay đi săn và chơi ra-đi-ô rất ham. Anh ấy chỉ còn một bên phổi thôi thế mà chẳng ai tưởng là anh lao cả. Sức sống anh ta trào ra khắp mọi lỗ chân lông. Thế nào rồi cũng có hôm chết giữa đường chạy từ quận ủy về tòa án cho mà xem.

Pa-ven gắt lên ngắt lời Vôn-me:

- Sao các đồng chí dồn cho anh ấy lắm việc thế! Công tác đồng chí ấy lại nặng hơn trước.

Von-me lấy mắt nguýt Pa-ven.

- Ấy thế đấy, khi tôi giao đồng chí nhóm học tập với thêm một công tác gì nữa thì Lép bấy giờ cũng kêu lên: “Cậu ấy có phải là ngựa thồ đâu”. Nhưng chính anh ấy lại bảo là: “Thà sống một năm, làm cho ra làm, còn hơn sống mòn mỏi năm năm, cứ ốm ngoặt, ốm ngoẹo”. Chỉ có xây đựng chủ nghĩa xã hội xong rồi thì mới nói đến chuyện con người ta thôi phải làm việc quá sức được.

- Đúng như thế. Tôi cũng tán thành sống cho ra sống một năm còn hơn sống vật vờ năm năm. Nhưng nhiều khi chúng ta phung phí sức lực của chúng ta một cách tội lỗi vô cùng. Tôi bây giờ mới hiểu rằng cái tính bồng bột liều lĩnh không suy nghĩ, chẳng lấy gì làm anh hùng lắm. Mãi bây giờ tôi mới nhận ra tôi không có quyền phá hoại không thương tiếc sức khỏe của tôi. Làm như thế có phải là anh hùng đâu. Nếu đừng có sống cái cách khắc khổ cực đoan thì có phải bây giờ tôi còn đứng vững được nhiều năm nữa. Nói tóm lại, một trong những nguy cơ chính sinh ra cái tình cảnh tôi bây giờ là cái bệnh ấu trĩ tả khuynh ấy.

“Giờ thì anh chàng nói vậy. Nhưng mà giá đứng dậy đi được thì lại quên ngay cả trời đất mà thôi”. Vôn-me nghĩ vậy, nhưng không nói ra.

Tối hôm sau Lép đến tìm Pa-ven. Mãi nửa đêm, hai người mới chia tay nhau. Khi từ biệt người bạn mới, Lép có cảm tưởng như gặp lại một đứa em trai đã lâu năm biệt tăm.

Sáng ngày ra, anh em đến trèo lên mái nhà Pa- ven trồng cột dây ăng-ten; Lép mắc máy ra-đi-ô trong buồng Pa-ven, vừa làm vừa kể chuyện những bước đường say mê đã qua của đời mình. Pa-ven không trông thấy Lép, nhưng nhờ Thai-a tả, anh biết là Lép có tóc vàng, có mắt sáng, người dong dỏng cao, dáng dấp nhanh nhẹn, nghĩa là đúng y như Pa-ven tưởng tượng trong óc, ngay từ những phút đầu tiên mới gặp nhau.

Chiều đến, mở máy ra-đi-ô. Lép trịnh trọng đưa Pa-ven khoác vào tai cái ống nghe. Không gian ồn ào ầm ĩ trăm ngàn tiếng động lộn xộn. Tiếng máy điện báo ngoài cảng ríu rít như chim (chắc biển đâu gần đây); Ngoài biển cả, một chiếc máy phát thanh trên tàu biển truyền đi, báo hiệu. Trong đám tiếng động và âm thanh chằng chịt, máy bắt được luồng điện và phát ra tiếng nói bình tĩnh và vững tin:

- Đây là đài phát thanh Mát-xcơ-va.

Dây ăng-ten máy nhỏ này bắt được sáu mươi đài trên khắp thế giới. Cuộc sống ngoài kia mà Pa-ven đã phải xa lìa, nhờ cái màng thép đó mà ập vào phòng này, Pa-ven cảm thấy hơi thở mãnh liệt của cuộc sống ấy.

Thấy mắt bạn có tia sáng rọi lên, Béc-xê-nhếp tuy mệt, cũng mỉm cười.

Trong tòa nhà lớn này, ai nấy ngủ yên cả. Thai- a ngủ mê, nói lẩm bẩm. Đêm nào cũng đến khuya, chị mới về, mệt lả, rét run. Pa-ven không mấy khi gặp vợ. Thai-à bị hút vào công việc, bận tíu tít thì càng ít có tối rỗi ở nhà. Pa-ven nhớ lời Béc-xê-nhếp nói với mình:

- Nếu vợ một người bôn-sê-vích mà cũng là một đồng chí Đảng thì hai người thật ít có dịp trông thấy nhau. Như thế có hai cái lợi: Không bao giờ chán nhau được mà cũng không có thời giờ cãi nhau nữa!

Pa-ven có thể lấy điều đó làm phàn nàn không? Không, anh phải chịu như thế. Có một hồi Thai-a tối nào cũng về với anh. Dạo ấy gần gũi hơn, âu yếm hơn. Nhưng dạo ấy Thai-a chỉ có là bạn trăm năm, là vợ của anh thôi. Bây giờ thì Thai-a còn là học trò anh và đồng chí Đảng của anh.

Anh hiểu Thai-a càng tiến thì càng ít có thời giờ săn sóc đến anh. Anh nhận như thế, điều đó tất nhiên.

Đảng giao anh lãnh đạo một nhóm nghiên cứu.

Tối đến, nhà lại huyên náo. Những tối họp với bọn trẻ làm cho nghị lực của anh như được tôi luyện lại.

Ngoài những lúc ấy ra, anh chỉ mắc ống nghe vào tai, bà mẹ vất vả mới bảo anh bỏ ra được để ăn cơm.

Anh mù không đọc được sách thì nay ra-đi-ô lại giúp anh học tập. Lòng ham học không gì thắng nổi làm anh quên hết đau đớn quằn quại của cơ thể tàn tạ quên đôi mắt nhức hỏng và quên tất cả cuộc đời anh thật lắm gian truân mà ít được trìu mến.

Khi qua làn dây ăng-ten, máy phát ra tiếng nói từ công trường xây dựng Ma-gơ-nhi báo tin những thành tích mới của lớp trẻ dưới ngọn cờ Đoàn đang xông lên thay thế cho thế hệ của những Pa-ven, thì Pa-ven cảm thấy vui sướng sâu xa.

Anh tưởng tượng cơn bão tuyết, hung hãn như đàn sói dữ, những trận rét ghê người ở vùng U-ran. Gió gầm thét và trong đêm sâu, mưa tuyết dưới ánh đèn than cháy rực, một đơn vị thanh niên cộng sản thuộc thế hệ thứ hai đang gội tuyết trèo lên lợp kính trên những tòa nhà khổng lồ, để bảo vệ những xưởng đầu tiên mới xây dựng của khu công nghiệp lớn vào hạng nhất thế giới này, chống lại bão tuyết và gió lạnh. So với chiến công của họ, cuộc đấu tranh chống lại bão táp của lớp thanh niên cộng sản đầu tiên thành Ki-ép ở công trường trong rừng sâu ngày trước thật chẳng thấm vào đâu.

Đất nước đã lớn lên, những con người cũng lớn lên.

Trên sông Đơ-nhi-ép, thác lũ đổ về, cuốn băng những đập chôn xoáy người và máy móc. Những thanh niên cộng sản lao mình vào trấn ngự cơn nước lũ tràn bờ. Đấu tranh hai ngày ác liệt, không ngủ, không nghỉ qua một phút, họ mới dẫn được dòng nước lũ lui về nép mình trong bờ thép. Thế hệ thanh niên cộng sản mới lại đi hàng đầu trong cuộc đấu tranh vĩ đại. Trong danh sách những anh hùng được đọc tên ở máy truyền thanh, Pa-ven sung sướng đón nghe cái tên chí thân chí thiết: Pan-cơ-ra-tốp.

Thép Đã Tôi Thế Đấy Phần 2 - Chương 9

Gia đình Pa-ven dọn về ở Mát-xcơ-va đã khá lâu, ở một buồng kho lưu trữ công văn của một cơ quan; Đồng chí thủ trưởng cơ quan đó ra sức giúp Pa-ven, tìm cách đưa anh vào chữa ở một bệnh viện chuyên khoa.

Mãi đến giờ Pa-ven mới hiểu rằng, thân còn cường tráng, máu còn thanh niên mà đứng vững thì hãy còn là chuyện tương đối dễ và thường thôi. Nhưng giờ bị cuộc đời dồn ép vào một vòng đai thép như thế này, mà vẫn không nao núng, thì đấy mới là tiết tháo.

Mười tám tháng đau liên miên.

Ở bệnh viện, giáo sư A-véc-bác đã nói thẳng với Pa-ven là không thể nào chữa cho anh khỏi mù được. Nếu sau này, mắt anh không sưng nữa - nào biết bao giờ khỏi được sưng - thì sẽ thử dùng cách giải phẫu mổ con ngươi xem sao. Trong khi chờ đợi, để cho mắt khỏi sưng tấy lên nữa, thầy thuốc đề nghị mổ chỗ mắt đau.

Hỏi ý kiến Pa-ven thì Pa-ven cho phép muốn làm gì thì làm, tùy các thầy thuốc xét thấy cần thiết.

Anh nằm trên bàn mổ hàng giờ, trong khi dao mổ rạch thịt cổ và cắt hạch lấy tuyến giáp thì cánh đen của thần chết ba lần suýt quệt vào anh. Nhưng sự sống vẫn bám chắc rễ trong người Pa-ven. Thai-a chờ đợi lo hãi từng giờ, lúc được vào thăm thì thấy anh tái mét như người chết, nhưng Pa-ven vẫn còn sống và vẫn bình tĩnh, dịu dàng như mọi khi.

- Em đừng lo, em ạ, làm anh ngoẻo được không phải là dễ đâu. Anh còn sống hằng năm và anh sẽ nhảy múa nữa cho mà xem, dù chỉ để cải chính những tính toán máy móc của các thầy lang thông thái ấy chơi. Bảo cơ thể anh suy kiệt thì các thầy đều có lý cả, nhưng bảo anh trăm phần trăm là một người tàn phế thì nhầm quá lắm. Rồi mà xem.

Pa-ven quyết tâm chọn con đường đưa anh trở về hàng ngũ nhũng con người xây dựng cuộc đời mới.

Mùa đông qua. Mùa xuân đã tới, mở toang các cửa sổ ra, và Pa-ven gầy rộc đi qua lần mổ vừa rồi, thấy rằng không thể ở bệnh viện lâu hơn được nữa. Sống bằng ấy tháng trời, chung quanh toàn là những con người đau đớn bệnh tật, giữa tiếng kêu la rên xiết của những người bệnh tuyệt vọng, anh thấy khổ hơn là chịu đựng những đau đớn của riêng bản thân mình.

Khi thầy thuốc bảo nên mổ nữa thì anh trả lời, lạnh lùng và dứt khoát:

- Tôi không mổ nữa đâu. Mổ thế là đủ. Tôi đã hiến cho khoa học một phần máu của tôi rồi. Chỗ máu còn lại tôi còn phải để dùng vào việc khác.

Ngay ngày hôm ấy, Pa-ven viết thư đề nghị Trung ương thu xếp cho anh ở lại Mát-xcơ-va, sợ sau này phải đi lại mất công, vả chăng vợ anh cũng có công tác ở đấy rồi. Đây là lần đầu tiên anh phiền đến Đảng, xin Đảng giúp anh. Đáp lại lời đề nghị đó, Xô-viết Mát-xcơ-va xếp cho anh một căn phòng. Pa-ven liền ra viện với một mong ước độc nhất là không bao giờ phải trở lại đấy nữa.

Nhà anh chỉ là một căn phòng giản dị ở ngõ rẽ ra phố Cơ-rô-pốt-kin. Anh cho thế là đã sang trọng nhất rồi. Thỉnh thoảng giữa đêm, Pa-ven thức dậy, anh vẫn không tin là mình chỉ vừa mới rời khỏi bệnh viện.

Thai-a được công nhận là đảng viên chính thức. Chị làm việc bền bỉ, tuy cả tấn bi kịch của đời tư cứ đè trĩu trên người, chị vẫn không kém các nữ công nhân xung kích; Và tập thể theo dõi người nữ công nhân ít nói ấy, đem lòng tín nhiệm chị và bầu chị vào ủy ban công xưởng. Lòng tự hào về vợ nay đã trở thành một chiến sĩ bôn-sê-vích cũng làm cho Pa-ven dịu bớt đau buồn về cảnh ngộ.

Ba-gia-nô-va có công tác đi qua, vào thăm Pa-ven. Hai người nói chuyện với nhau lâu. Pa-ven nói với bạn một cách say sưa về con đường trong một tương lai gần đây sẽ đưa anh về hàng ngũ chiến đấu.

Ba-gia-nô-va nhận thấy tóc ở thái dương Pa-ven đã bạc. Chị dịu dàng nói:

- Tôi thấy anh đã trải nhiều gian khổ mà vẫn giữ được lòng hăng hái không gì dập tắt được. Cuốn sách mà anh nghĩ đã năm năm, giờ anh định bắt đầu viết phải không? Nên lắm anh ạ. Nhưng anh làm thế nào mà cầm bút viết được.

Pa-ven mỉm cười, nói cho bạn khỏi lo:

- Mai người nhà sẽ làm cho tôi một thứ bìa để kê giấy viết. Không có bìa kê ấy, không viết được, dòng chữ sẽ lên xuống, đè lên nhau. Tôi nghĩ mãi mới tìm ra cách ấy. Những mảnh bìa ấy sẽ làm cho tôi không đưa chệch ngọn bút chì ra khỏi dòng thẳng. Viết mà không trông thấy điều mình viết thì khó viết lắm, nhưng không phải là không viết được. Tôi tin như thế. Tôi tập viết đã lâu mà không được. Nhưng giờ thì tôi rút kinh nghiệm, tôi viết chậm thôi, tôi nắn nót từng chữ, và kết quả thì cũng khá.

Pa-ven bắt đầu làm việc.

Anh dự định viết một truyện về sư đoàn anh dũng Cô-tốp-ski. Tên cuốn sách do ngay chủ đề cuốn sách mà ra:

“Ra đời trong bão táp”.

Từ hôm ấy, anh sống chỉ để mà viết cuốn sách đó. Dần dần mọc ra hết dòng này đến dòng khác, hết trang này đến trang khác. Anh quên hết mọi việc, chỉ miệt mài với những hình tượng. Lần đầu tiên anh biết cái đau đớn của sáng tác, khi anh thấy mình không tài nào ghi hết lên giấy được những cảnh đời rực rỡ không sao quên được, hồi tưởng lại rất nồng cháy, thế mà viết ra thì nhợt nhạt, thiếu lửa, thiếu tình.

Tất cả những điều anh đã viết, anh phải nhẩm trong óc, nhớ từng chữ một. Đôi khi anh quên khuấy mất dòng văn thì công việc dừng cả lại. Bà mẹ nhìn con hí hoáy viết cả ngày thì rất đỗi kinh sợ.

Anh phải đọc lại bằng trí nhớ hàng trang sách, có khi hàng cả chương sách nữa, mới có thể lại tiếp tục viết được nữa. Những lúc ấy bà mẹ ngỡ là con hóa dại. Trong khi con còn đang mải viết, bà mẹ không dám lại gần. Nhưng khi nào bà cụ đến nhặt những tờ giấy vương rơi dưới đất thì ngập ngừng, rồi ngần ngại khẽ bảo Pa-ven:

- Con đừng viết thế nữa, Pa-vơ-lu-sa ạ. Mẹ chẳng trông thấy ai viết lắm như thế bao giờ.

Thấy mẹ lo, anh bật cười vui và nói cho mẹ vui và nói cho mẹ yên tâm là anh chưa đến nỗi hóa rồ hẳn đâu.

Ba chương cuốn sách anh định xây dựng đã viết xong. Pa-ven gửi đi Ô-đét-xa cho mấy đồng chí cũ trong sư đoàn Cô-tốp-ski đọc để lấy ý kiến. Ít lâu sau, anh nhận được thư họ trả lời tỏ ý khen ngợi. Song bản thảo gửi trả lại lạc mất. Toi công sáu tháng trời. Anh rụng rời điếng người, tiếc cay tiếc đắng sao lại gửi đi bản thảo duy nhất của cuốn sách mà không chép lại một bản giữ ở nhà. Anh nói chuyện với Lê- đê-nhếp về việc mất bản thảo đó.

- Ai lại vô ý đến thế. Nhưng, đừng buồn bực, chú ạ. Bực tức giờ cũng vô ích. Thôi, chú lại chịu khó viết lại đi.

- Nhưng, bác Lê-đê-nhếp ơi, thế là cướp không mất của tôi sáu tháng trời, quần quật làm căng óc tám giờ một ngày. Trời ơi, chúng nó là đồ ăn hại, ba lần chết tiệt!

Lê-đê-nhếp tìm lời khuyên nhủ cho anh nguôi lòng.

Phải viết lại từ đầu. Lê-đê-nhếp kiếm giấy cho anh viết. Bản thảo viết ra, đồng chí lại đem đi nhờ đánh máy lại. Được sáu tuần thì làm sống lại được chương thứ nhất.

Gia đình Pa-ven ở chung nhà với gia đình A-lêc-xê-ép. Gia đình này có con trai lớn là A-lêc-xan-đơ- rơ, làm bí thư quận Đoàn thanh niên. Em gái A-lêc- xan-đơ-rơ là Ga-li-a, mười tám tuổi, đã tốt nghiệp trường dạy nghề của nhà máy.

Ga-li-a đang tuổi chan chứa lòng yêu đời. Pa-ven nhờ mẹ hỏi xem cô ấy có ưng giúp làm “thư ký” cho anh không. Ga-li-a vui vẻ nhận lời. Cô niềm nở, vui cười sang gặp Pa-ven. Khi cô em được biết là anh đang viết một cuốn tiểu thuyết, thì bảo với anh rằng:

- Em vui lòng giúp anh lắm, đồng chí Pa-ven ạ. Chép tiểu thuyết cho anh còn thú vị hơn là thảo cho thầy em những thông tri về việc giữ gìn vệ sinh trong các phòng.

Từ hôm ấy, công việc tiến hành nhanh gấp đôi. Qua một tháng thì viết được đã khá, đến Pa-ven cũng phải lấy làm lạ. Ga-li-a, với tính tình vui tươi và giàu lòng trắc ẩn, đã làm cho công việc sáng tác của anh đỡ vất vả nhiều. Ngọn bút chì của cô nhẹ nhàng đưa sột soạt trên mặt giấy; Những đoạn cô thú nhất, cô thường đọc đi đọc lại, thấy Pa-ven viết được thành công như thế, thì cô lấy làm vui thích lắm. Có lẽ, trong nhà này, cô là người duy nhất tin tưởng vào công việc của Pa-ven làm. Những người khác thì cho là viết thế chẳng đi đến đâu, chẳng qua bị bắt buộc phải ngồi không thì Pa-ven vẽ ra làm cho đời đỡ trống trải.

Lê-đê-nhếp có công tác trở lại Mát- xcơ-va. Đồng chí đọc xong những chương đầu, nói với Pa-ven:

- Cứ viết đi chú ạ. Nhất định là thành công đấy. Đồng chí Pa-ven ơi, đồng chí sẽ còn được sống những niềm vui lớn. Tôi tin tưởng chắc chắn là mộng ước của chú trở về trong đội ngũ sẽ thực hiện được. Đừng ngã lòng, con ạ.

Đồng chí già ra về rất hài lòng: Đồng chí nhận thấy Pa-ven đang tràn đầy nghị lực.

Ngày ngày, Ga-li-a lại sang, bút chì của cô siết trên giấy, những hàng chữ mọc lên kể lại dĩ vãng không bao giờ quên được. Những khi Pa-ven nghe thấy những kỉ niệm cũ trào lên, lặng suy nghĩ thì mi mắt mấp máy, mắt như động đậy phản ánh những ý nghĩ trôi qua. Những lúc ấy, Ga-li-a khó mà tin được là mắt anh không nhìn thấy, bởi vì ở đôi con ngươi trong vắt không có lòng đen kia trông có tinh thần, có sự sống.

Mỗi ngày viết xong, Ga-li-a đọc lại, Pa-ven lắng nghe, nét mặt đăm chiêu, mày cau lại.

- Sao anh lại cau mày, hở anh? Đoạn này viết hay lắm cơ mà!

- Không hay đâu Ga-li-a ạ. Còn tồi lắm.

Những trang không vừa ý thì anh lại tự tay viết lại. Tay bị bó trong những mảnh bìa kê chật hẹp, lắm lúc anh viết chệch ra ngoài dòng: Anh liền bỏ cả không viết nữa. Những lúc ấy, anh tức giận như điên, như dại, giận thân, giận đời đã bắt anh mù. Anh bẻ gãy bút chì, và trên môi cắn chặt rớm mấy giọt máu.

Công việc gần xong, nhưng những tình cảm tiêu cực càng hay đến trong lòng, mặc dù ý chí của anh lúc nào cũng tỉnh táo cố kìm những tình cảm ấy lại. Đấy là nỗi buồn vô hạn vì những tình cảm nồng cháy, tha thiết, những tình cảm mà con người ai cũng có, ai cũng có quyền được hưởng, thế mà riêng anh không được Nếu anh không biết tự chủ, dù chỉ để cho một trong những tình cảm kia lôi cuốn, thì cuộc đời sẽ kết thúc bằng một tấn thảm kịch mất.

Thai-a đi làm mãi khuya mới về, nói chuyện thầm với mẹ dăm ba câu, rồi đi ngủ ngay.

Chương cuối cùng đã viết xong. Suốt mấy hôm, Ga-li-a đọc lại cuốn tiểu thuyết cho Pa-ven nghe.

Mai là ngày gửi bản thảo đi Lê-nin-gơ-rát cho Ban tuyên huấn của Đảng ủy khu. Nếu ở đấy người ta cấp cho cuốn sách “giấy thông hành vào đời” - và đưa sang nhà xuất bản cho in thì...

Pa-ven những nghĩ mà hồi hộp. Nếu được thế thì... Thế sẽ là bắt đầu một cuộc đời mới, giành lại được bằng bao nhiêu năm khó nhọc, làm cật sức và bất chấp gian nan.

Số phận cuốn sách sẽ quyết định số phận Pa-ven. Nếu bản thảo bị từ chối, không in được thì đấy sẽ là cảnh chiều tàn cuối cùng của đời anh. Song nếu không bị bỏ đi tất cả, thì còn có phương có chữa, anh sẽ tiếp tục sửa đi sửa lại, bắt tay vào ngay một trận tiến công mới..

Mẹ đem ra nhà dây thép gửi đi một gói giấy nặng. Những ngày lo lắng đợi chờ... Trong đời chưa bao giờ anh đợi thư đến một cách sốt ruột khắc khoải đau xót như lúc này. Cuộc đời anh trông vào ngày hai buổi sớm chiều phát thư của nhà dây thép. Lê-nin- gơ-rát vẫn tuyệt vô âm tín.

Sự im hơi lặng tiếng của nhà xuất bản làm anh phát lo.

Càng ngày càng đinh ninh là thất bại đến nơi rồi, và Pa-ven thú thật với mình rằng nếu cuốn sách bị bác đi, thì đời anh thế là hết: Anh chẳng còn sống làm gì nữa.

Những lúc nghĩ thế, anh lại nhớ tới cái buổi chiều hôm nào ở khu vườn ngoại ô bên bờ biển, và một lần nữa anh tự hỏi:

“Để trở về chỗ đứng của mi trong đội ngũ, làm cho đời mi còn có ích, mi đã làm hết cách để giựt tung vòng đai thép đang chịt lấy cổ mi chưa?”

Và lần này anh tự trả lời:

“Lần này thì ta đã cố hết phép rồi!”

Ngày lại ngày, cảnh chờ đợi đau đớn đến cùng cực.

Bỗng một hôm, mẹ chạy vào phòng, mẹ cũng cảm động như con, mẹ kêu lên:

- Có dây thép ở Lê-nin-gơ-rát đánh về! Dây thép của Đảng ủy khu.

Mấy chữ vắn tắt trên một bức điện trả lời có mẫu sẵn: “Tiểu thuyết được nhiệt liệt tán thành xuất bản. Bắt đầu in. Xin có lời chúc mừng thắng lợi của đồng chí”.

Tim Pa-ven đập gấp. Mong ước thế là thành! Anh đã giựt tung được vòng đai thép. Với vũ khí mới, anh đã giành lại được chỗ của anh trong đội ngũ và trong cuộc sống.

- Hết -

Phụ lục:


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét