Trang

Thứ Ba, 25 tháng 6, 2019

Ruồi Trâu (Chương 1-13)


Tác giả: Ethel Lilian Voynich 
Thể loại: Khác, Phương Tây

Ruồi trâu là một tác phẩm văn học nổi tiếng trên thế giới. Với số lượng hàng triệu bản, đã được xuất bản nhiều lần tại việt Nam và nhiều nước trên thế giới, được bạn đọc Việt Nam và thế giới hết sức yêu quý và mến mộ. Xuất bản chính thức lần thứ năm này tại Việt Nam, dịch giả Hà Ngọc và NXB Văn học đã đầu tư rất nhiều công sức để biên tập, hiệu đính lại nội dung cho sát với tình hình thực tế hiện nay để đáp lại sự mếm mộ của bạn đọc gần xa.

...Những cuốn sách tả các chiến sĩ cách mạng dũng cảm đầy quyết tâm và ý chí, không biết sợ sệt, đem cả thể lực lẫn tinh thần hiến cho sự nghiệp của chúng ta, những cuốn sách đó để lại cho tôi một ấn tượng không bao giờ phai nhoà, nuôi trong người tôi một ý chí noi gương những anh hùng ấy.... (Trích giới thiệu của cố nhà văn, nhà báo Thép Mới)

“Ruồi trâu” là một tác phẩm rất đáng đọc. Câu chuyện diễn ra vào thế kỉ 19 tại Ý. Thời đó, đất nước này đang bị chia cắt. Dưới quyền kiểm soát của đế quốc Áo, các phong trào cách mạng nhằm thống nhất nước Ý đều bị đàn áp. Một thanh niên Ý kiên cường đã dành cả cuộc đời mình để đấu tranh cho lí tưởng giải phóng đất nước.
Cuộc đời anh chứa đựng những bí mật khiến anh bị giằng xé giữa tình yêu và nỗi tức giận, chịu đựng những nỗi đau cả về thể xác và tinh thần. Nhưng vượt lên tất cả anh đã luôn tiến về phía trước. Anh đã sống với ý chí và nghị lực đáng khâm phục.
“Ruồi trâu” gửi tới người đọc một thông điệp: Cuộc sống dù ngắn ngủi nhưng vẫn có ý nghĩa khi ta sống có lí tưởng.
“Ruồi Trâu là một cuốn tiểu thuyết rất lạ, theo cả nghĩa thông thường của tên ấy. Tác giả là một nữ sĩ người Anh đã từng hoạt động cách mạng ở Nga và cuốn tiểu thuyết của bà lại nói về những nhà hoạt động cách mạng bí mật ở Ý cách đây trên một thế kỷ. Cả cuốn sách chứa chan một thế giới quan nhân đạo, lòng yêu và quý trọng phẩm chất con người. Từng nhân vật trong cuốn truyện, từ Ruồi Trâu đến những nhân vật phụ, những bạn chiến đấu gần và xa của anh, không nhân vật nào là không có cá tính sâu sắc của mình.
Bản thân nhân vật Ruồi Trâu không phải là một con người khô cứng, mà ở anh, người đọc thấy rõ một con người cách mạng giàu tình cảm nhất. Tình cảm của Ruồi Trâu rất mãnh liệt. Chính vì thế, cho đến chết, anh vẫn không dứt tình yêu đối với Môntaneli.

Thương yêu có thể là mê đắm mà không yếu đuối, không một chút nào yếu đuối. Quan hệ giữa Ruồi Trâu và Môntaneli phát triển hết sức kỳ dị mà cũng hết sức logic và chân thật. “Cha hãy chọn đi, hoặc Giêsu hoặc con”. Cuộc gặp gỡ cuối cùng giữa hai người cùng dòng máu, tưởng không thể nào sống không có nhau mà lại là hai kẻ thù không đội trời chung về tư tưởng, là những trang sách có sức nổ lớn trong tâm trí người đọc. “

RUỒI TRÂU
Chương 1

Áctơ ngồi trong thư viện trường dòng thánh Pidơ (1), đang lần giở từng tập bản thảo những bài giảng đạo. Đó là một chiều tháng sáu oi ả. Khung kính các cửa sổ đều mở toang, cửa chớp khép nửa chừng. Môngtaneli, cha giám đốc trường, ngừng viết và âu yếm nhìn mái tóc đen cặm cụi trên những trang giấy.

- Không tìm thấy ư, carino (2)? Không sao. Phải viết lại thôi. Chắc cha xé tờ ấy đi rồi làm con

phải phí công ngồi lại.

Tiếng Môngtaneli cất lên khe khẽ, nhưng rất lắng sâu và du dương. Giọng trong như bạc làm cho tiếng nói có một sức quyến rũ lạ thường. Đó là tiếng nói của một nhà hùng biện bẩm sinh, một thứ tiếng nói uyển chuyển giàu âm điệu. Mỗi khi cha giám đốc nói với Áctơ thì lúc nào tiếng nói ấy cũng đượm vẻ trìu mến.

- Không, thưa cha (3), con sẽ tìm thấy. Con chắc chỉ ở đâu đây thôi. Nếu cha có viết lại thì cũng chẳng được như cũ đâu.

Môngtaneli lại tiếp tục công việc đang bỏ dở. Một con bọ dừa vo ve độc điệu ở đâu ngoài cửa sổ. Từ ngoài đường phố vọng lại tiếng rao kéo dài và não nuột của một người bán hoa quả : “Dâu tây đây! Dâu tây đây!” (4)

- “Giảng về chúa và những người tật phong” (5) đây rồi.

Áctơ tiến lại gần Môngtaneli với những bước đi nhẹ nhàng. Những bước đi ấy lúc nào cũng làm cho người nhà Áctơ bực bội. Dáng người mảnh khảnh yếu ớt, Áctơ giống như người Ý vẽ trong tranh thế kỷ mười sáu hơn một chàng trai trẻ của những năm ba mươi (6) sinh trưởng trong một gia đình tư sản Anh. Mọi vẻ ở anh đều hết sức xinh đẹp như tạc vậy. Đôi hàng lông mày dài như hai mũi tên, đôi môi mỏng, chân tay nhỏ nhắn. Khi anh ngồi yên người ta có thể cho anh là một cô gái yêu kiều giả trai; những cử chỉ mềm dẻo của anh lại làm cho người ta nhớ tới một con báo đã thuần, một con báo không nanh vuốt.

- Tìm thấy thật ư? Áctơ ạ, không có con thì cha chẳng biết làm thế nào. Có lẽ rồi lúc nào cha cũng đánh mất đồ đạc... Thôi chẳng viết nữa. Đi ra vườn đi, cha sẽ giúp con học bài. Chỗ nào không hiểu, hở con?

Họ bước vào một khu vườn im ả, đầy bóng mát của trường dòng. Ngày xưa, ngôi trường vốn là một tu viện rất cổ kính của dòng Thánh Đôminích (7), nên hai trăm năm trước đây khu vườn vuông vắn này được chăm bón rất chu đáo. Đôi bờ hoàng dương đều đặn viền lấy khu đất trồng cỏ thơm và cắt xén gọn ghẽ. Những tu sĩ mặc áo trắng xưa kia chăm bón những cây cỏ này đã bị chôn vùi và lãng quên từ lâu rồi, nhưng giờ đây trong những buổi chiều hè êm dịu cỏ thơm vẫn cứ ngào ngạt mặc dù không còn ai lấy cỏ về làm thuốc nữa. Ngày nay những nhánh cần dại Hà Lan và rau sam đã mọc lởm chởm giữa những kẽ đá trên lối đi. Giếng nước giữa vườn mọc đầy cỏ lưỡi mèo. Những gốc hồng bỏ thành hoang dại; những cành hồng dài chằng chịt lan theo mọi lối đi. Những đoá mào gà đỏ choé giữa những bụi hoàng dương. Những nhánh mao địa hoàng cao lớn ngọn loà xoà trên thảm cỏ. Còn cây nho không người tỉa bón và cằn cỗi thì cũng rung rinh lả ngọn trên cành một cây sơn trà đang buồn bã gật gù chiếc chỏm um tùm.

Ở góc vườn sừng sững một cây mộc lan với chòm lá xum xuê, xanh thẫm, lơ thơ điểm hoa màu trắng sữa. Cạnh thân cây mộc lan là một chiếc ghế gỗ thô sơ. Môngtaneli ngồi xuống chiếc ghế ấy.

Áctơ học triết học ở trường đại học. Hôm ấy gặp một đoạn khó trong sách, anh đến xin cha giảng giúp. Tuy Áctơ không học ở trường dòng song đối với anh Môngtaneli là cả một pho từ

điển bách khoa.

Khi nghe cha giảng xong những đoạn khó hiểu, Áctơ nói:

- Thôi, xin phép cha, con về thôi. Chẳng hay cha còn có điều gì cần đến con không?

- Thôi, cha không làm việc nữa đâu. Nếu con có thì giờ thì ở lại với cha một chút.

- Tất nhiên con có thì giờ!

Áctơ tựa lung vào thân cây, và qua đám cành lá um tùm anh ngắm nhìn những vì sao đầu tiên run rẩy trong bầu trời yên tĩnh và sâu thẳm. Dưới hàng mi đen, đôi mắt xanh biếc của anh mơ màng và bí ẩn. Đôi mắt ấy là di sản của bà mẹ người miền Coócuên (8). Môngtaneli quay mặt đi để tránh phải nhìn đôi mắt ấy.

Môngtaneli nói:

- Sao con có vẻ mệt mỏi thế, carino?

- Biết làm sao được, thưa cha.

Môngtaneli cảm thấy ngay vẻ mệt mỏi chứa chất trong giọng nói của Áctơ.

- Con vội vào đại học như thế làm gì, hở con? Thời gian chăm sóc mẹ con ốm và những đêm không ngủ đã làm con kiệt sức. Lẽ ra cha phải bắt con nghỉ ngơi đầy đủ rồi mới rời khỏi Livoócnô (9).

- Nghỉ làm gì thưa cha? Sau khi mẹ con mất đi, con không thể nào ở lại ngôi nhà thảm hại đó được. Giuli làm cho con phát điên mất.

Giuli là vợ người anh cả cùng bố khác mẹ và từ lâu đối với Áctơ là một chiếc gai nhọn.

Môngtaneli nói:

- Cha cũng không muốn con ở với anh em bà con đâu. Cha biết điều đó làm con rất đau lòng. Nhưng sao con không nhận lời mời của người bạn bác sĩ người Anh, đến đó chơi một tháng rồi hãy về học?

- Không, thưa cha! Con cũng chẳng muốn thế. Gia đình nhà Uaren tuy đối xử tốt và thân tình, nhưng họ cũng không sao hiểu được con. Họ có vẻ thương hại con. Trông mặt họ cũng đủ biết. Đến đấy họ sẽ lại khuyên dỗ, lại nhắc đến mẹ... Giêma thì chắc chắn không thế đâu. Giêma bao giờ cũng cảm thấy được chuyện gì là không nên nhắc tới. Ngay từ lúc chúng con còn bé, Giêma đã thế rồi. Còn những người khác thì không được như vậy đâu. Nhưng cũng chẳng phải vì thế mà thôi...

- Vậy còn vì sao nữa, con của cha?

Áctơ ngắt mấy bông hoa trên cành mao địa hoàng lả ngọn, và bực bội vò nát trong tay.

Sau giây lát yên lặng, Áctơ nói tiếp:

- Sống trong thành phố đó, con không sao chịu nổi nữa. Con không muốn nhìn thấy những cửa hàng xưa kia mẹ con đã đến mua đồ chơi cho con và cả con đường bờ sông mà con vẫn đưa mẹ con đi chơi khi mẹ con chưa ốm nặng. Đi đến đâu cũng gặp cảnh như vậy. Các cô gái bán hoa trong chợ lại cứ mời con mua hoa như xưa... Họ tưởng đâu bây giờ con vẫn cần mua hoa thì phải? Rồi cả khu nghĩa trang nữa... Không, con nhất định phải rời khỏi thành phố đó! Nhìn thấy cảnh cũ con đau lòng lắm.

Áctơ nín lặng. Anh ngồi, tay xé nhỏ từng chiếc chuông nhỏ trên nhánh hoa mao địa hoàng. Phút im lặng kéo dài nặng trịch khiến Áctơ phải đưa mắt nhìn cha, không hiểu sao cha lại không trả lời. Bóng chiều dần tắt dưới những cành mộc lan. Mọi vật đều trở nên u ám mơ hồ, nhưng ánh sáng vẫn chưa đủ để trông thấy bộ mặt trắng bệch như da người chết của Môngtaneli. Môngtaneli ngồi, đầu cúi gục, tay phải nắm lấy mép ghế, Áctơ quay mặt đi. Anh cảm thấy lạ lùng và kinh hãi, dường như đã vô tình lọt vào nơi đất thánh vậy.

Áctơ thầm nghĩ:

“Trời ơi! Sao so với cha thì ta bé nhỏ, yếu hèn và ích kỷ đến thế! Nếu nỗi khổ của ta không phải là nỗi khổ của cha thì cha đâu đến nỗi cảm thương đến như vây”.

Môngtaneli ngẩng đầu nhìn xung quanh rồi âu yếm nói:

- Thôi, bây giờ cha không ép con phải trở về đấy nữa. Nhưng con phải hứa với cha rằng dịp nghỉ hè này con sẽ nghỉ ngơi thực sự, mà nghỉ ở nơi nào xa Livoócnô thì tốt hơn. Cha không muốn để con hao phí sức khoẻ.

- Trường dòng đóng cửa nghỉ thì cha đi đâu, thưa cha?

- Cũng như mọi lần, cha sẽ dẫn học sinh lên nghỉ trên núi. Cha phó giám đốc đi nghỉ mát đến trung tuần tháng tám sẽ về. Lúc ấy cha sẽ đi du ngoạn trên dãy núi Anpơ. Ừ nhỉ! Hay là con đi với cha? Cha sẽ đưa con đi rong chơi trong núi sâu và con sẽ có dịp tìm hiểu các loài rêu trên núi Anpơ. Nhưng cha chỉ sợ đi với cha con sẽ chán thôi.

- Thưa cha! – Áctơ nắm chặt tay. Thói quen ấy Giuli gọi là “cái lối kiểu cách của người ngoại quốc” – Con có thể từ bỏ mọi thứ trên đời này để đi với cha! Nhưng con không tin rằng...

Áctơ ngưng bặt.

- Con sợ anh Bớctơn không cho phép con đi chăng?

- Tất nhiên anh sẽ không hài lòng nhưng anh không cản được con và cha. Con đã mười tám tuổi đầu, con muốn làm gì con làm. Hơn nữa anh ấy với con chỉ là anh em khác mẹ, con không nhất thiết phải phục tùng anh ta. Đối với mẹ con, anh ấy bao giờ cũng tỏ ra không tốt.

- Nhưng dù sao nếu anh Bớctơn không thuận thì cha thiết tưởng con nên nhịn là hơn. Tình cảnh của con trong gia đình có thế khó xử hơn nhiều nếu...

- Khó xử hơn ư? Chưa chắc! – Áctơ nóng nảy ngắt lời – Họ đã ghét con thì dù con làm gì đi nữa họ cũng vẫn ghét. Vả lại, con đi với cha... là cha linh hồn của con thì anh ấy phản đối sao được?

- Con nên nhớ rằng anh ấy theo đạo Tin lành! Cứ nên viết thư hỏi anh ấy thì hơn. Xem anh ấy trả lời ra sao. Đừng nóng vội con ạ! Thái độ của ta đối với mọi người không thể chỉ vì rằng người yêu ta hoặc ghét ta.

Lời thuyết phục ấy thốt ra một cách nhẹ nhàng đến nỗi nghe xong Áctơ đỏ mặt. Anh thở dài đáp:

- Vâng, con biết. Nhưng làm được như vậy thật là khó.

- Cha rất tiếc là thứ ba vừa qua con đã không đến được – Môngtaneli đột nhiên lảng sang chuyện khác – Cha định đẻ con biết mặt đức giám mục từ Arétxô (10) đến.

- Hôm đó con đã trót hứa đến chơi nhà một người bạn học. Ở đấy có cuộc họp, mọi người đều đợi con.

- Họp gi?

Áctơ dưòng như luống cuống vì câu hỏi đó.

- Có lẽ... có lẽ, gọi là cuộc họp thì không đúng – Áctơ có phần lúng túng – Một sinh viên ở Giênôva (11) đến diễn thuyết. Gọi là nghe nói chuyện thì đúng hơn.

- Nói chuyện về vấn đề gì?

Áctơ do dự:

- Cha. cha đừng hỏi tên người đó nhé! Vì con đã hứa...

- Thôi cha cũng chẳng hỏi gì thêm. Nếu con đã hứa là phải giữ bí mật thì đừng nên nói. Nhưng cha thiết tưởng đến nay hầu như con có thể tin cha.

- Tất nhiên là con tin, thưa cha. Ngưòi ấy nói về... chúng con và nhiệm vụ chúng con trước nhân dân, nói về nghĩa vụ của chúng con trước nhân dân... và trước bản thân mình. Và nói về vấn đề chúng ta phải làm gì để phụng sự...

- Phụng sự ai? Cho ai?

- Nhân dân (12) và...

- Và?

- Nước Ý.

Một hồi im lặng kéo dài.

Rồi Môngtaneli quay lại về phía Áctơ và hết sức nghiêm giọng hỏi:

- Áctơ, con nói cho cha hay. Con nghĩ đến điều đó từ hồi nào?

- Từ mùa đông vừa qua.

- Trước khi mẹ con mất ư? Và mẹ con có biết không?

- Không. Lúc đó con chưa nghĩ tới.

- Thế bây giờ?

Áctơ ngắt thêm một nắm chuông hoa mao địa hoàng. Mắt nhìn xuống đất anh bắt đầu kể:

- Thưa cha, sự việc xảy ra đầu đuôi như thế này: Mùa thu năm ngoái con chuẩn bị thi vào đại học. Chắc cha còn nhớ lúc ấy con có quen với nhiều bạn học. Trong bọn họ có một vài người nói với con tất cả những chuyện trên... Họ cho con mượn cả sách. Nhưng lúc bấy giờ con chưa để ý. Con chỉ vội về để trông mẹ. Lúc ấy tình cảnh của mẹ ở Livoócnô thật là cô đơn! Nhà y như nhà tù vậy. Chỉ một miệng lưỡi của Giuli cũng đủ giết chết mẹ con rồi. Kế đến mùa đông khi mẹ con bắt đầu ốm nặng thì con cũng chẳng nhớ gì đến bạn bè và những cuốn sách họ đưa cho con. Và chắc cha cũng biết là con không hề bước chân vào thành Pidơ nữa. Lúc ấy con nghĩ tới những vấn đề trên thì con đã kể cho mẹ nghe rồi. Nhưng quả thực là nó biến đi đâu mất cả. Sau, con biết là mẹ con sắp chết... Chắc cha cũng biết là con không rời mẹ con cho tới phút chót, lúc mẹ con qua đời con cứ thức thâu đêm bên giường bệnh. Tới sáng Giêma đến con mới đi ngủ... Chính trong những đêm trường đó con bắt đầu suy nghĩ tới những điều mình đã đọc và những điều bạn học nói với con. Con cố gắng tìm xem họ nói có đúng không... Con nghĩ: Thế thì đối với những điều Đức chúa Giêsu sẽ nói như thế nào?

- Con có cầu xin Chúa không? – Giọng nói của Môngtaneli có phần run rẩy.

- Thưa cha, con luôn luôn cầu xin Chúa. Con đã cầu xin Chúa chỉ dẫn cho con hoặc cho con

chết theo với mẹ... nhưng con không được Chúa phán bảo.

- Áctơ, vậy mà con không cho cha hay! Còn cha thì cha cứ tưởng con tin cha!

- Thưa cha, chắc cha cũng biết là con tin cha. Nhưng có những điều con không thể thổ lộ với ai được. Con có cảm tưởng rằng về việc này cả cha và mẹ con đều không thể nào giúp đỡ con được. Con muốn được nghe lời phán truyền trực tiếp của Chúa. Vì cả sinh mệnh của con, cả linh hồn con sống thác đều là ở đó.

Môngtaneli quay mặt đi và chăm chú nhìn vào bóng tối dày đặc bao trùm lên rạng mộc lan. Hoàng hôn quá âm u làm cho thân hình Môngtaneli biến thành một bóng ma đen xịt giữa những cành lá tối om.

Môngtaneli chậm rãi hỏi:

- Rồi sau thế nào?

- Rồi sau... mẹ con chết. Chắc cha cũng biết là ba đêm cuối cùng con không hề rời xa mẹ con.

Áctơ ngừng nói nhưng Môngtaneli vẫn ngồi im không nhúc nhích.

- Hai ngày trước khi an táng mẹ con, con không nghĩ được gì cả, – Áctơ khe khẽ nói tiếp – Rồi sau khi an táng xong con ốm. Chấc cha còn nhớ là con không đến xưng tội được!

- Phải, cha còn nhớ.

- Đêm hôm ấy con trở dậy và vào buồng mẹ con. Thật là trống trải. Chỉ có một cây thánh giá to trên bàn thờ. Con có cảm giác rằng đêm nay Chúa sẽ giúp đỡ con. Con quỳ xuống và đợi thâu đêm. Đến sáng khi con hồi tỉnh thì... Không, thưa cha! Những điều đã thấy con cũng không thể cắt nghĩa mà cũng không thể kể cho cha nghe được. Chính con cũng không biết nữa. Nhưng con chỉ biết rằng Chúa đã phán truyền cho con. Và con không thể làm trái ý Chúa được.

Họ ngồi mấy phút im lặng trong đêm tối; sau đó Môngtaneli quay lại về phía Áctơ và đặt tay lên vai anh:

- Con của cha! Cha không được phép nói rằng Chúa không phán truyền cho linh hồn con. Nhưng con phải nhớ rõ tâm trạng của con lúc ấy thế nào, và đừng lẫn lộn ảo tưởng do đau thương và ốm yếu của mình với lời kêu gọi cao cả của Chúa. Nếu thực sự là Chúa đã phán truyền thánh ý của người cho con trong khi sự chết đang đến nhà con, thì con hãy nghĩ để khỏi hiểu sai lời Chúa. Tiếng gọi của lòng con xui con đến chỗ nào?

Áctơ đứng dậy và trả lời một cách nghiêm trang như khi đọc kinh thánh:

- Hiến dâng đời mình cho nước Ý, giải phóng nước Ý khỏi cảnh nô lệ lầm than, đánh đuổi người Áo, lập nên một nước cộng hòa tự do mà không kẻ nào ngự trị được ngoài Chúa Giêsu!

- Áctơ, hãy suy nghĩ một chút những lời con nói! Con đâu có phải là người Ý!

- Điều đó không can hệ gì. Dù sao con cũng vẫn là con, con đã hiểu rõ sự nghiệp đó, và đã là một con người của sự nghiệp đó.

Lại một hồi im lặng.

- Con vừa nói rằng đức Chúa Giêsu đã dạy... – Môngtaneli chậm rãi nói.

Nhưng Áctơ không để cho Môngtaneli dứt lời:

- Đức Chúa Giêsu đã dạy rằng: “Kẻ nào vì ta hãy hy sinh sự sống của mình, kẻ ấy giữ được sự sống đời đời!”

Môngtaneli tựa khuỷu tay vào cành mộc lan, bàn tay che lấy đôi mắt. Cuối cùng, ông nói:

- Con của cha, hãy ngồi lại một chút đã.

Áctơ ngồi xuống ghế dài và Môngtaneli nắm chặt lấy đôi tay anh. Ông nói:

- Hôm nay cha chưa có thể tranh luận với con được. Sự việc xảy ra đột ngột quá... cha chưa kịp suy nghĩ. Sau này chúng ta sẽ nói chuyện với nhau rõ ràng hơn. Nhưng lúc này cha chỉ xin con ghi nhớ một điều là: Nếu con gặp tai nạn, nếu con... chết đi thì lòng cha sẽ tan nát.

- Cha!

- Con đừng ngắt lời cha, để cha nói cho cạn đã, có lần cha đã nói với con là ngoài con ra trên thế gian này cha chẳng còn có ai nữa. Chưa chắc con đã hiểu hết được lời cha nói. Điều đó đối với con rất khó hiểu, con còn trẻ lắm. Ví thử cha bằng tuổi con thì cha cũng không hiểu nổi. Áctơ, cha coi con như... như con đẻ của cha. Hiểu không con? Con là hy vọng của lòng cha! Cha sẵn sàng chết để giữ cho con khỏi lạc bước, vì nếu lạc bước thì sinh mệnh của con sẽ tan vỡ! Nhưng cha không làm gì được cả. Cha không bắt con phải hứa với cha. Cha chỉ xin con: Hãy nhớ lời cha và phải thận trọng. Trước khi quyết định một việc gì quan trọng, con hãy đắn đo cho kĩ. Hãy để linh hồn mẹ con được yên vui trên thiên đàng và hãy vì cha.

- Vâng, thưa cha, con sẽ suy nghĩ... còn cha… cha... hãy cầu nguyện cho con và cho nước Ý.

Áctơ lặng lẽ quỳ xuống. Môngtaneli cũng lặng lẽ đặt tay lên mái đầu cúi gục. Một lát sau, Áctơ đứng dậy, hôn tay linh mục và êm ái bước đi trên thảm cỏ đầy sương. Môngtaneli vò võ ngồi dưới gốc mộc lan, đăm đắm nhìn vào bóng tối trước mặt.

Môngtaneli nghĩ:

“Đó là Chúa đã trừng phạt ta như đã trừng phạt vua Đa-vít (13). Ta đã làm ô danh Chúa, ta đã làm phép mình thánh bằng đôi tay ô uế. Lòng nhẫn nại của Đức Chúa Trời rất cao cả, nhưng đã đến lúc Chúa không nhẫn nại được nữa rồi. “Mày đã làm điều đó một cách thầm vụng, còn tao sẽ làm sự này trước toàn dân Israel và trước mặt trời. Vì thế, đứa con trai sinh ra cho mày nhất định sẽ chết” (14)”

Chú thích:
(1) Trường dòng thánh Pidơ: trường đào tạo các linh mục và các nhà truyền đạo do Toà thánh La mã lập ra ở Pidơ, một trung tâm văn hoá lớn ở Ý.
(2) Carino (tiếng Ý) nghĩa là “con thân yêu”. Tác giả muốn nhấn mạnh Môngtaneli là người Ý.
(3) Nguyên văn tiếng Ý: Padre, nghĩa là cha cố.
(4) Nguyên văn tiếng Ý: “Fragola! Fragola!”
(5) Một sự tích trong Kinh Thánh về việc chúa Giêsu làm phép chữa bệnh hủi.
(6) Ý nói những năm ba mươi của thế kỉ mười chín (1830 – 1840).
(7) Dòng thánh Đôminích (Dominique, còn gọi là thánh Đaminh) là dòng tu lấy tên thánh Đôminích, một dòng tu của Thiên chúa giáo, được lập ra năm 1215.
(8) Coócuên: một quận ở tây nam nước Anh, dân ở đó thuộc giống người Xentơ, thường là mắt xanh tóc sẫm.
(9) Livoócnô: một hải cảng lớn của nước Ý, gần thành Pidơ.
(10) Arétxô: một thị trấn ở Tôxcan.
(11) Giênôva: một thành phố cảng lớn ở bắc Ý, nằm trên bờ Địa Trung Hải.
(12) Nguyên văn tiếng Ý “contadini”, nghĩa là nông dân.
(13) Vua Đavít, một nhân vật trong kinh thánh, vua nước Israel, đã bị Chúa trời quở phạt vì đã phản bội một trong những tướng lĩnh của mình, lấy vợ người đó.
(14) Một đoạn trong Kinh Thánh: lời của Chúa trời quở phạt Đavít.

RUỒI TRÂU
Chương 2

Ý của người em cùng cha khác mẹ muốn cùng với Môngtaneli “dạo chơi Thuỵ Sĩ” chẳng làm cho Giêmxơ Bớctơn hài lòng chút nào. Nhưng ông cấm đoán sao được khi cuộc du chơi ấy là một cuộc du chơi vô hại mà bạn đường là một vị giáo sư thần học, vả lại còn để nghiên cứu về vạn vật học nữa. Áctơ sẽ không hiểu được những nguyên nhân sâu xa vì sao ông từ chối và có thể cho ông là độc đoán, cực đoan, cho ông là thành kiến về tôn giáo hoặc chủng tộc mà họ hàng nhà Bớctơn thì lại rất tự hào về đức tính rộng lượng tân tiến của mình. Mọi người trong họ đều là người gốc đạo Tin lành và những nhà Bảo thủ trung kiên từ hơn một thế kỉ nay, kể từ khi công ty thương thuyền “Bớctơn và con, Luân Đôn – Livoócnô” ra đời.

Nhưng họ hàng nhà Bớctơn chủ trương rằng người quý phái nước Anh phải có thái độ vô tư cả với những người theo đạo Thiên chúa, một giáo mẫu xinh đẹp của những đứa con nhỏ của mình, thì những đứa con lớn như Giêmxơ và Tômatxơ cũng chỉ đành nuốt giận mà tuân theo ý trời, vì thực ra họ không chịu nổi việc mẹ kế của họ chỉ xấp xỉ tuổi họ.

Sau khi người cha mất, và nhất là sau khi người con cả lấy vợ thì không khí nặng nề trong gia đình lại càng rắc rối thêm. Nhưng khi Gơlêđixơ còn sống thì cả hai người anh cũng cố hết sức bênh vực bà, chống lại miệng lưỡi độc ác của Giuli. Họ cố gắng làm tròn nhiệm vụ của họ đối với Áctơ. Họ không thích cậu bé và cũng không giấu điều đó. Tất cả tình cảm của họ đối với em trai chỉ là đưa nhiều tiền cho em tiêu vặt và để cho em phóng khoáng tự do.

Trả lời bức thư của Áctơ là một ngân phiếu để chi tiền đi đường và dăm câu nói nhạt nhẽo, cho phép Áctơ muốn đi nghỉ hè đâu thì đi. Áctơ trích một nửa số tiền thừa để mua các sách vạn vật học và một số cặp bìa để đựng các vật mẫu, rồi chẳng bao lâu cùng các vị linh mục lên đường bắt đầu cuộc du lịch đầu tiên trên dãy núi Anpơ.

Từ lâu Áctơ chưa bao giờ thấy cha nhẹ nhõm như những ngày ấy. Sau câu chuyện làm cho Môngtaneli xúc động lần đầu tiên trong khu vườn hôm nọ, đến nay sự thăng bằng đã dần dần trở lại và bây giờ Môngtaneli đã bình tĩnh trước chuyện đó. Môngtaneli cho rằng Áctơ còn non dại lắm. Quyết định của Áctơ chắc chưa phải là đã dứt khoát. Cũng chưa đến nỗi muộn. Với những lời khuyên bảo nhẹ nhàng và những lí lẽ đúng mức còn có thể làm cho Áctơ quay lại, rời bỏ con đường mà Áctơ vừa mới bước chân vào.

Họ định ở Giơnevơ vài hôm. Nhưng khi Áctơ vừa trông thấy những đường phố chói nắng và những đám người du lịch đứng đầy trên các nẻo đường bụi bặm ven hồ, thì anh nhăn nhó ngay. Môngtaneli theo dõi thái độ của Áctơ với một nụ cười bình tĩnh.

- Sao? Con không thích nơi này ư, carino?

- Chính con cũng không biết nói thế nào nữa. Con vẫn chờ đợi được nhìn một khung cảnh khác hẳn như thế này, kể ra thì cảnh hồ rất đẹp và đồi núi cũng xinh tươi đấy... – Họ đứng trên đảo Rútxô (1), và Áctơ đưa tay chỉ lên những nét dài và khắc khổ của rặng núi Anpơ Xavoa...

– Nhưng thành phố thì câu nệ và vuông vắn quá, như đượm một vẻ gì… của đạo Tin lành. Nó có vẻ tự mãn. Không, con không ưa thành phố này, nó giông giống như Giuli vậy.

Môngtaneli bật cười:

- Thật không may, con đáng thương của cha! Nhưng không hề gì, ta đi du lịch chỉ để tìm thú vui mà thôi, cũng chả cần ở đây lâu. Thôi, hôm nay ta hãy dạo thuyền buồm chơi trên hồ, và sáng mai ta sẽ lên núi.

- Nhưng thưa cha, chắc cha còn muốn ở đây chơi?

- Con yêu quý, cha đã từng qua đây hàng chục lần rồi. Cha chỉ cốt sao cho con được vui trong cuộc đi chơi này với cha. Thế con muốn đi chơi đâu?

- Nếu cha đi đâu cũng được thì con và cha sẽ đi ngược dòng sông , đi tới tận nguồn!

- Đi ngược dòng sông Rôn ấy ư?

- Không, ngược sông Ácvơ. Sông ấy chảy xiết lắm.

- Thế ta đi Samôni vậy.

Suốt buổi chiều họ lênh đênh trên một chiếc thuyền buồm nhỏ. Những người thanh niên vẫn thích dòng sông Ácvơ xám đục hơn là cảnh hồ mĩ lệ. Áctơ lớn lên bên bờ Địa Trung Hải nên đã quen nhìn những làn sóng biếc xanh. Những dòng sông nước chảy xiết bao giờ cũng lôi cuốn tâm hồn Áctơ và vì thế, dòng nước cuồn cuộn của sông Ácvơ từ vùng băng giá chảy về làm anh say mê hết sức.

Áctơ nói:

- Thế này mới thật là sông chứ. Chảy như thế này mới thật say mê!

Sáng sớm hôm sau, họ lên đường đi Samôni. Con đường chạy qua một thung lũng phì nhiêu. Nhìn cảnh vật chung quanh, Áctơ cảm thấy lòng mình phơi phới. Nhưng gần tới Cờluydơ thì họ phải ngoặt vào một quãng đường núi quanh co. Những ngọn núi lớn hình răng cưa vây chặt lấy họ. Áctơ trở nên nghiêm nghị và trầm ngâm. Từ Xanh Máctanh họ chầm chậm leo đèo. Họ nghỉ đêm trong những mái nhà gỗ ven đường hoặc ở những xóm làng nhỏ bé rồi lại tiếp tục lên đườn, không bó mình theo một hành trình nhất định. Cảnh thiên nhiên của vùng núi Anpơ để lại một ấn tượng sâu sắc trong tâm trí Áctơ, và khi gặp con thác đầu tiên anh đã cảm thấy rộn ràng vui sướng. Nhưng càng tới gần những ngọn núi tuyết bao nhiêu thì Áctơ càng trở nên say sưa mơ mộng bấy nhiêu. Tâm trạng này của Áctơ, Môngtaneli mới thấy lần này là lần đầu tiên. Hình như giữa chàng thanh niên và những ngọn núi này có một sợi dây liên lạc thần bí nào. Áctơ có thể yên lặng hàng giờ giữa tiếng âm vang của nhưng cây thông âm u, bí ẩn, đưa mắt theo dõi những thân cây cao thẳng mà nhìn vào thế giới chan hoà ánh nắng đang nhuộm vàng những ngọn núi sáng long lanh và những vách đá trơ trụi. Môngtaneli theo dõi Áctơ một cách buồn rầu, thèm muốn.

Một hôm Áctơ đã nằm hơn một tiếng đồng hồ trên mặt đất đầy rêu, mở to mắt chăm chú nhìn mãi những ngọn núi cao óng ánh và khoảng trời xanh thăm thẳm. Môngtaneli bèn rời trang sách, nhìn Áctơ mà hỏi:

- Cha muốn biết con trông thấy cái gì ở đó, carino?

Họ định nghỉ đêm trong một xóm làng tĩnh mịch cách thác nước Điôdơ không xa, nên đến chiều họ không đi theo đường lớn mà leo lên mỏm núi mọc đầy thông để ngắm cảnh hoang hôn buông dần trên nhưng ngọn núi lô nhô và trên đỉnh Mông Bờlăng. Áctơ ngẩng đầu say sưa nhìn khung cảnh huyền ảo trước mặt và trả lời Môngtaneli:

- Con trông thấy gì ư, thưa cha? Con tưởng như nhìn thấy qua một bức màn pha lê sẫm một sinh linh vĩ đại mặc quần áo trắng trên khoảng không gian xanh thẳm vô cùng tận ấy. Bao thế kỉ nay, sinh linh ấy đã chờ đợi ơn thiêng liêng của Chúa soi sáng cho.

Môngtaneli thở dài.

- Xưa kia cha cũng đã từng thấy những cảnh tượng như con nói.

- Thế hiện nay?

- Nay thì không. Không bao giờ cha còn thấy những cảnh tượng như thế nữa. Cha biết rằng những cảnh tượng ấy chưa biến mất, nhưng đối với những cảnh tượng ấy mắt cha đã nhắm lại không còn nhìn thấy nữa rồi. Bây giờ cha nhìn thấy những cảnh tượng khác hẳn.

- Vậy cha nhìn thấy gì?

- Nhìn thấy gì ư, carino? Trên cao cha nhìn thấy khoảng trời xanh và đỉnh núi tuyết trắng xoá, nhưng ở dưới kia cha nhìn thấy một cảnh khác hẳn thế – Môngtaneli chỉ tay xuống dưới chân đèo.

Áctơ quỳ gối cúi người trên bờ vực nhìn xuống những cây thông to lớn thu mình dưới ánh hoàng hôn, đứng thẳng tắp trên các bờ sông như những người lính gác. Một lát sau, mặt trời đỏ như cục than hồng đã khuất mình sau mỏm đá lô nhô và mọi vật như ngừng đọng lại và mờ mịt cả. Một cái gì đen tối, dữ tợn trùm lên khắp thung lũng. Những mỏm đá lô nhô ở phía tây mọc thẳng lên trời như những chiếc vuốt nhọn của một hung thần sắp sửa nhảy xuống vồ mồi mà đem xuống cửa miếng há hốc của vực thẳm nơi rừng rú đương rên rỉ trong gió. Những ngọn thông cao lớn vươn lên như những lưỡi dao nhọn, thầm thì trong tiếng reo vi vút: “Hãy rơi xuống đây!” Suối nước réo ầm ầm trong đêm tối, tuyệt vọng xô mình vào những vách đá đứng sừng sững như vách nhà tù.

- Cha! Áctơ nhỏm dậy rùng mình lui khỏi bờ vực thẳm – Thật giống địa ngục!

- Không, con ạ! – Môngtaneli nhẹ nhàng nói – Nó giống như linh hồn con người.

- Linh hồn của những kẻ đang chơi vơi trong tăm tối và dưới bóng đen của tử thần ư?

- Linh hồn của những kẻ mà hàng ngày con vẫn gặp trên đường phố!

Áctơ co rúm mình, nhìn vào bóng đêm phía dưới. Sương mù mờ trắng trôi giữa rừng thông, dừng lại chầm chậm trên dòng suối đang giãy chết tuyệt vọng, thật giống như một bóng ma ủ rũ, không đủ sức thốt ra một lời an ủi.

Bỗng Áctơ nói:

- Trông kìa! Những kẻ chơi vơi trong tăm tối đã nhìn thấy ánh sáng mặt trời rồi!

Đằng đông ánh hoàng hôn đốt cháy những đỉnh núi tuyết. Nhưng rồi, ngay sau khi những tia nắng mờ đó tắt đi, thì Môngtaneli quay lại đặt tay lên vai Áctơ:

- Thôi về đi, carino. Trời đã tối, khéo lạc đường.

- Mỏm đá kia thật giống như một người đã chết. – Áctơ nói như vậy, mắt rời khỏi đỉnh núi tuyết còn lóng lánh ở đằng xa trong ánh hoàng hôn.

Họ từ từ xuống núi, len lỏi giữa những hàng cây đen tối và tiến về phía nhà trọ.

Khi bước vào phòng ăn, nơi Áctơ đang ngồi đợi, Môngtaneli thấy rằng cậu bé đã lãng quên những cảnh đen tối ảm đạm vừa qua và dường như đã biến thành một con người khác hẳn.

- Cha, mời cha lại đây! Cha xem con chó ngộ nghĩnh chưa này! Nó nhảy nhót được bằng hai chân sau đấy!

Cậu bé say mê con chó và những bước nhảy tung tăng của nó, chẳng khác gì một giờ trước đây cậu đã say mê cảnh hoàng hôn trên núi Anpơ.

Bà chủ nhà, một người đàn bà má đỏ mặc bộ cánh trắng, hai tay đẫy đà chống ngang hông, mỉm cười nhìn Áctơ đùa với con chó.

Bà nói với con gái bằng tiếng địa phương:

- Trông cậu ấy nô nghịch như thế thì chắc chắn cậu ấy chẳng phải lo nghĩ nhiều. Cậu ấy xinh trai quá.

Áctơ đỏ mặt như một cô học trò, còn bà chủ thấy anh hiểu câu nói của mình thì liền bỏ đi, buồn cười vì nỗi thẹn thò của anh.

Trong bữa cơm anh chỉ bàn về chương trình đi chơi sắp tới, bàn chuyện leo núi, chuyện tìm cây cỏ. Những hình ảnh huyền ảo vừa qua dường như chẳng có gì ảnh hưởng đến tâm tình cũng như khẩu vị của anh cả.

Sáng sớm hôm sau, khi tỉnh dậy Môngtaneli đã không thấy Áctơ đâu nữa. Trước lúc rạng đông, Áctơ đã lên trên đồng cỏ cao để “giúp Gátsparu chăn dê” rồi.

Nhưng sắp tới giờ ăn sáng thì Áctơ chạy xổ vào buồng đầu không mũ, vai công kênh một cô bé chừng ba tuổi và tay ôm một bó hoa dại lớn.

Môngtaneli nhìn Áctơ mỉm cười. Thật hoàn toàn khác hẳn với Áctơ nghiêm nghị trầm lặng tại Pidơ và Livoócnô trước đây.

- Đi đâu về thế, quái con? Chưa ăn gì cả mà đã chạy khắp núi rồi.

- A, thưa cha, trên ấy hay lắm! Mặt trời mọc trên đỉnh núi, tráng lệ biết bao! Sương xuống nhiều quá. Này, cha trông!

Áctơ nhấc chân giơ chiếc giày ướt át và lấm bùn lên.

- Lúc đi chúng con chỉ mang theo một ít bánh và phomát, nhưng đến đồng cỏ chúng con được uống sữa dê... Khiếp lắm cơ! Nhưng con lại đã đói rồi. Với lại con cũng muốn cho cô bé này ăn một tí gì nữa cơ. Này, có muốn uống mật không, Anét?

Áctơ ngồi xuống, đặt cô bé vào lòng rồi xếp gọn hoa lại cho nó.

Môngtaneli vội ngăn:

- Thôi, thôi! Thế rồi lại cảm đấy. Đi thay quần áo đi... Anét, lại đây cháu... Con thấy con bé này ở đâu Áctơ?

- Ở tận cuối làng ạ. Nó là con gái của ông thợ giày mà chúng ta gặp hôm qua đấy. Cha trông nó có đôi mắt xinh kháu khỉnh chưa! Trong túi nó lại có một con rùa tên là Carôlina.

Sau khi Áctơ thay bít tất ướt và xuống ăn lót dạ, thì thấy cô bé ngồi trong lòng vị linh mục. Nó liến thoắng kể chuyện con rùa. Nó đặt con rùa nằm ngửa trong lòng bàn tay mũm mĩm để “monsieur” (2) thấy cẳng rùa ngọ nguậy.

Nó nói với giọng người lớn:

- Monsieur trông này! Carôlina nó đi giày đây này!

Môngtaneli ngồi chơi với Anét, vuốt mái tóc của nó, xem con rùa ngộ nghĩnh và kể cho nó nghe những chuyện cổ tích thật hay.

Bà chủ nhà vào dọn bàn thấy Anét đang móc túi của vị mặc quần áo cố đạo nghiêm trang thì rất đỗi ngạc nhiên.

Bà nói:

- Thật là trời xui con trẻ nhận ra người tốt bụng. Anét tính hay sợ người lạ, thế mà bây giờ thấy cha, nó lại chẳng sợ sệt gì cả kia. Kể cũng thật lạ lùng! Anét, cháu quỳ xuống xin cha ban phép lành cho. Cha sẽ ban phúc cho cháu đấy cháu ạ...

Một giờ sau, khi hai người đi trên đồng cỏ chói nắng, Áctơ nói:

- Thưa cha, con thật không ngờ cha lại khéo vui đùa với con trẻ thế. Con bé cứ nhìn cha chằm chặp. Thưa cha, con...

- Sao?

- Con định nói rằng... rất tiếc tại sao Giáo hội lại cấm không cho các cha kết hôn. Con thật không hiểu vì sao. Giáo dục trẻ con – đó là một việc rất quan trọng lắm chứ! Ngay từ lúc lọt lòng, nếu trẻ em được sống giữa những ảnh hưởng tốt thì hay biết bao. Con tưởng rằng, người nào sự nghiệp càng cao quý bao nhiêu, cuộc sống càng trong sạch bao nhiêu thì người đó càng xứng đáng làm nhiệm vụ người cha bấy nhiêu. Thưa cha, con tin rằng nếu cha không bị ràng buộc bởi lời thề, mà cha lập gia đình thì con cái của cha chắc sẽ rất...

- Im đi con!

Câu nói ấy thốt ra bằng một giọng thì thầm vội vã nên càng làm sâu sắc thêm sự im lặng.

Thấy nét mặt Môngtaneli sa sầm, Áctơ rất buồn và nói tiếp:

- Thưa cha, con nói như thế có gì sai đâu? Cũng có thể con lầm nhưng con nghĩ như thế nào thì nói như thế ấy...

Môngtaneli dịu dàng đáp:

- Có lẽ con chưa thật hiểu rõ những lời con nói. Vài năm nữa con sẽ biết nhiều. Bây giờ ta hãy nói chuyện khác thì hơn.

Đó là vết rạn nứt đầu tiên trong không khí thoải mái và hoà hợp hoàn toàn giữa hai người từ lúc nghỉ hè đến nay.

Từ Samôni, Môngtaneli và Áctơ vượt qua đỉnh Tếttơnoa. Đến Máctinhi thì họ tạm dừng chân vì thời tiết rất oi ả.

Sau bữa cơm trưa, họ bước lên sân thượng khuất nắng của khách sạn. Một cảnh núi rừng mĩ lệ mở ra trước mắt. Áctơ đem hộp mẫu cây cỏ ra và say sưa nói chuyện với Môngtaneli về thực vật học. Họ nói với nhau bằng tiếng Ý.

Hai họa sĩ người Anh cũng đang ngồi ở sân thượng. Một người khác thì phác họa phong cảnh, còn người kia thì tán dóc. Người này không ngờ rằng hai người kia hiểu được tiếng Anh.

Hắn nói:

- Thôi, Uyli, xếp cái trò vẽ phong cảnh lăng nhăng ấy đi! Vẽ anh chàng người Ý đẹp trai đang ngồi mải mê với mấy cái lá mèo lười kia kìa! Mày hãy trông đôi lông mày của nó! Thay chiếc kính lúp trong tay nó bằng một cây thánh giá, thay chiếc quần soóc và chiếc áo ngắn bằng một bộ áo La Mã thì mày sẽ vẽ nên một tín đồ Thiên chúa giáo hết sức điển hình của những thế kỉ đầu tiên.

- Thiên chúa thiên chiếc gì! Khi ăn cơm tao ngồi cạnh nó. Nó thích gà rán như thích đám cỏ kia vậy. Còn nói gì nữa, thằng bé kháu lắm, nước da màu ôliu thật tuyệt. Nhưng ông bố nó còn đáng vẽ hơn nhiều.

- Bố nó ấy à, ai thế?

- Bố nó ngồi ngay trước mặt mày ấy, mày không chú ý à? Khuôn mặt ông ta thật là đẹp.

- Chà cái thằng mêtôđít (3) này, mày đần thật! Mày không nhận ra cả cố đạo Thiên chúa giáo à!

- Cố đạo ư! Ừ nhỉ! Chết chưa! Tao quên mất, họ thề không phá giới và không gì gì nữa cơ mà... Thôi, thế thì ta cũng có thể thương hại ông ta một tí, cho thằng bé là cháu gọi bằng bác vậy.

Đôi mắt tươi cười đung đưa nhìn Môngtaneli, Áctơ nói thầm:

- Sao họ ngu thế! Dù sao họ cũng còn tốt là nhận thấy con giống cha lắm. Con cũng muốn làm cháu thực của cha... Cha, sao thế! Sao mặt cha tái đi?

Môngtaneli đứng dậy, lấy tay sờ trán. Giọng khàn khàn và yếu ớt, ông nói:

- Cha hơi chóng mặt. Chắc sáng nay cha dãi nắng nhiều quá. Cha đi ngả lưng một tí đây, Carino ạ. Vì nóng quá đấy thôi.

*

* *

Sau hai tuần du ngoạn bên bờ hồ Luyxécnơ, Áctơ và Môngtaneli vượt đèo Xanh Gôta trở về Ý. Tiết trời lúc nào cũng thuận lợi nên cuộc chơi nào cũng đều thú vị cả. Nhưng niềm vui trong lòng họ những ngày đầu tiên bây giờ đã biến mất.

Môngtaneli luôn luôn băn khoăn nghĩ cách nói với Áctơ câu chuyện nghiêm trang mà

Môngtaneli tưởng rằng kì nghỉ hè này dễ nói hơn cả. Trên đồi Ácvơ, Môngtaneli cố ý tránh nhắc tới câu chuyện mà họ đã bàn với nhau trong vườn, dưới cây mộc lan. Môngtaneli nghĩ rằng nếu đem câu chuyện nặng nề ấy làm đen tối những nguồn vui đầu tiên mà thiên nhiên vùng Anpơ đã đem lại cho một tâm hồn nghệ sĩ như Áctơ thì thật tàn nhẫn quá. Nhưng từ ngày ở Máctinhi đến nay, cứ mỗi buổi sáng Môngtaneli tự nhủ thầm:

“Hôm nay phải nói với nó mới được”, nhưng cứ đến tối thì lại “Thôi, để mai”. Nghỉ hè sắp hết mà Môngtaneli vẫn tự nhủ thầm “Mai, mai”. Điều kìm hãm Môngtaneli chính là một cảm nghĩ mờ mờ tê lạnh, thấy rằng quan hệ giữa hai người không còn như cũ nữa, mà dường như có một tấm màn vô hình ngăn cách họ. Mãi đến buổi chiều cuối cùng của vụ hè Môngtaneli mới đột nhiên hiểu rằng nếu muốn nói thì chỉ có nói ngày hôm nay.

Họ ở lại Luganô để nghỉ đêm sáng hôm sau sẽ lên đường về Pidơ. Môngtaneli định ít nhất cũng tìm xem đứa con yêu của mình đã sa vào vũng lầy tai hoạ của tình hình chính trị nước Ý tới mực nào.

Sau khi mặt trời đã khuất, Môngtaneli nói:

- Tạnh mưa rồi, carino ạ. Bây giờ là lúc đi ngắm cảnh hồ. Đi đi, cha muốn nói chuyện với con.

Họ men theo bờ hồ, tới một nơi vắng vẻ tĩnh mịch, rồi ngồi lên bức tường đá thấp, cạnh tường là một bụi hồng dại chi chít đầy quả đỏ tía. Trên cành cao còn run rẩy một vài đoá hồng nhỏ muộn màng màu trắng sữa đã phai tàn và đầm đìa giọt mưa, như đang rưng rưng khóc. Lướt trên mặt hồ phẳng lặng và xanh rờn là một con thuyền nhỏ với cánh buồm trắng nhẹ nhàng rung rinh trong làn sương ấm. Con thuyền mảnh khảnh trông thật giống cánh hoa màu bạc buông trên mặt nước. Cao cao trên ngọn Môngtơ Sanvato, cửa sổ một chiếc nhà cô quạnh của dân mở rộng, trông giống như một con mắt vàng. Những đoá hồng cúi đầu mơ ngủ dưới bầu trời đầy mây của tiết tháng chín; nước hồ rì rào xô từng đợt lên những viên cuội ven bờ.

Môngtaneli bắt đầu nói:

- Đã lâu nay, chỉ tới giờ phút này cha mới có thể bình tĩnh nói chuyện được với con. Rồi đây con sẽ trở về với công việc nhà trường, với chúng bạn, còn cha thì cũng sẽ rất bận trong suốt mùa đông tới. Cha muốn biết rõ, rồi đây cha và con sẽ ăn ở ra sao. Và nếu con...

Môngtaneli ngừng một chút rồi chậm rãi nói:

- Và nếu con cảm thấy rằng vẫn có thể tin cha được như xưa thì cha muốn con không nên nói với cha như trong vườn trường dòng dạo nọ, mà nên nói thật cho cha hay rằng con sẽ đi xa tới mức độ nào.

Áctơ nhìn mặt nước lăn tăn, bình tĩnh lắng nghe và im lặng.

Môngtaneli tiếp:

- Nếu con có thể trả lời được thì con cho cha rõ là con đã ràng buộc mình bằng một lời thề hoặc... bằng một cái gì khác.

- Cha thân yêu, con chẳng có gì nói với cha cả, con chẳng ràng buộc gì mình cả, nhưng con vẫn bị ràng buộc.

- Cha không hiểu...

- Những lời thề có ý nghĩa gì? Ràng buộc con người không phải là lời thề. Chỉ cần mình tự cảm thấy thiết tha với một điều nào đó, thế là đủ rồi. Ngoài cái đó ra, chẳng có gì ràng buộc được mình cả.

- Thế nghĩa là điều đó... điều đó không thể thay đổi được ư? Áctơ, con đã nghĩ kĩ về những lời con nói chưa?

- Thưa cha, cha hỏi con có tin cha không. Vậy thì cha cũng có thể tin con không? Bởi vì nếu có gì thì con đã nói cho cha nghe. Nhưng những chuyện ấy nói cũng chẳng ích gì. Con vẫn không quên và sẽ không bao giờ quên những lời cha nói với con chiều hôm ấy. Nhưng con phải đi theo con đường của con đi, tới phía ánh sáng đang bừng lên trước mặt con.

Môngtaneli ngắt một đoá hoa nhỏ khỏi bụi hồng, bứt từng cánh hoa và ném xuống nước.

- Con đã nói đúng, carino. Thôi đủ rồi, ta đừng nói chuyện ấy nữa. Mà nói nhiều cũng chẳng ích gì... Thôi, ta về đi.

Chú thích:
(1) Đảo Rútxô: hòn đảo có dựng tượng của nhà tư tưởng và nhà văn Giăng Giắc Rútxô (1712 – 1778), người Pháp, sinh ở Giơnevơ.
(2) Monsieur: tiếng Pháp nghĩa là ông. Tác giả muốn nhấn rõ con bé Anét là người vùng Anpơ (vùng nói tiếng Pháp).
(3) Méthodiste: tín đồ hội giám lí – một môn phái của đạo Cơ đốc, xuất hiện hồi thế kỉ 18 ở Anh


RUỒI TRÂU
Chương 3

Thu và đông trôi qua không có việc gì xảy ra. Áctơ học rất chăm nên chẳng mấy lúc rỗi. Tuy vậy mỗi tuần một hoặc hai lần, anh vẫn bớt thời giờ tới thăm cha Môngtaneli. Đôi khi Áctơ mang sách đến nhờ giảng những đoạn khó, và những lúc ấy câu chuyện chỉ xoay quanh nội dung của đoạn văn thôi. Cảm thấy một hàng rào vô hình đã ngăn cách hai người, Môngtaneli cố tránh mọi cái gì tỏ ra mình muốn giữ lại sự thân mật xưa kia. Việc Áctơ đến thăm bây giờ chỉ đem lại cho Môngtaneli nhiều đắng cay hơn là sung sướng. Chịu đựng tình trạng luôn căng thẳng, làm ra vẻ bình tĩnh và đối xử y như không có việc gì xảy ra thì thật là khó. Áctơ cũng nhận thấy là sự thay đổi tế nhị trong cách đối xử của cha và phảng phất cảm thấy rằng điều đó có liên quan gì tới câu chuyện nặng nề về “những tư tưởng mới” của mình, nên cũng tránh nhắc tới điều mình hằng suy nghĩ ấy.

Nhưng dù sao Áctơ vẫn chưa bao giờ yêu Môngtaneli một cách thắm thiết như bây giờ. Trước kia, khi cảm thấy vướng mắc và trống rỗng trong tâm hồn thì Áctơ dốc sức nghiên cứu khoa học thần học, làm đúng lẽ đạo dạy để xua tan những cảm giác ấy. Nhưng từ khi tiếp xúc với “nước Ý trẻ” (1) thì cảm giác ấy đã tan đi không để lại vết tích nào.

Tính mơ mộng ốm yếu do nỗi cô đơn và do những đêm săn sóc mẹ bên giường bệnh cùng với những mối hoài nghi trước kia, Áctơ dùng khấn cầu để lẩn trốn, nay cũng không còn nữa. Cùng một lúc với sự say mê mới, với một lí tưởng mới và rõ hơn về tôn giáo (vì trong phong trào sinh viên, Áctơ không chỉ thấy cơ sở chính trị mà còn thấy nhiều hơn về cơ sở tôn giáo), Áctơ còn có một cảm giác bình tĩnh, thấy lòng thoải mái, tâm hồn thảnh thơi, yêu mến mọi người. Đối với Áctơ toàn thế giới chói loà ánh sáng mới. Áctơ đã tìm thấy những khía cạnh mới rất đáng yêu trong con người, ngay cả ở những người mà trước kia Áctơ lấy làm khó chịu. Năm năm qua, Môngtaneli đối với Áctơ là một người anh hùng lí tưởng thì ngày nay Áctơ có cảm tưởng rằng Môngtaneli là một nhà tiên tri tương lai của tín ngưỡng mới, đang mang theo một đạo hào quang mới trên đầu. Áctơ say sưa nghe cha giảng đạo, cố tìm ra mối quan hệ huyết mạch của những câu giảng đạo ấy và những lí tưởng cộng hoà. Áctơ cố gắng nghiên cứu kinh thánh và rất vui sướng với khuynh hướng dân chủ của đạo Cơ đốc sơ kì.

Một ngày tháng giêng, Áctơ đến trường dòng để trả sách. Thấy cha giám đốc đi vắng, anh bèn vào phòng làm việc riêng của Môngtaneli. Áctơ đặt sách lên giá, định bước ra thì bỗng thấy một quyển sách nằm trên bàn giấy. Đó là tuyển tập “De Monarchia” (2) của Đăngtơ. Áctơ cầm lấy đọc và phút chốc đã mê mải đến nỗi cửa mở ra rồi đóng lại mà anh vẫn không hay. Chỉ mãi tới khi sau lưng vang lên tiếng nói của Môngtaneli thì Áctơ mới ngừng đọc.

Cha liếc nhìn tên sách rồi nói:

- Không ngờ hôm nay con lại đến. Cha vừa định cho người hỏi xem tối nay con có đến được không.

- Có gì quan trọng hở cha? Tối nay con có hẹn nhưng nếu...

- Thôi, mai cũng được. Cha muốn được gặp con. Thứ ba này cha đi rồi. Cha được triệu về La Mã.

- Về La Mã ư? Có lâu không?

- Trong thư chỉ nói là “tới sau lễ phục sinh” thôi. Thư của Vaticăng. Cha đã định cho con biết, nhưng lúc thì cha bận, lúc thì chuẩn bị đón giám đốc mới.

- Thưa cha, con chắc cha không rời bỏ trường này?

- Đành phải đi thôi. Nhưng cha còn về Pidơ nữa. Ít nhất là về một thời gian.

- Nhưng tại sao cha lại bỏ trường?

- Ấy... Bề trên định phong cha làm giám mục, nhưng lệnh đó còn chưa được công bố chính thức!

- Nhưng cha được bổ nhiệm ở đâu cơ?

- Chính vì thế mà phải về La Mã mới biết được. Chưa quyết định hẳn là cha sẽ làm giám mục ở địa phận vùng núi Apenanh hay làm giám mục tại đây.

- Thưa cha, cha giám đốc mới được bổ nhiệm chưa?

- Rồi, đó là cha Cácđi. Mai sẽ đến.

- Thật là đột ngột quá!

- Ừ... nhưng quyết định của Vaticăng thường đến phút cuối cùng mới được công bố.

- Cha có quen cha giám đốc mới không?

- Cha không quen biết riêng, nhưng nghe người ta khen cha ấy lắm. Đức giám mục Belôni viết thư cho cha, nói cha Cácđi học vấn rất uyên thâm.

- Cha đi thì trường sẽ thiệt thòi nhiều lắm.

- Cha không biết trường sẽ ra thế nào, nhưng con thân yêu, chắc con sẽ cảm thấy thiếu cha. Có lẽ cũng gần như cha cảm thấy thiếu con vậy.

- Vâng. đúng thế. Nhưng dù sao con cũng mừng cho cha.

- Mừng ư con? Còn cha thì cha không biết cha có mừng không.

Môngtaneli ngồi vào bàn, vẻ mặt bơ phờ như thực sự không vui mừng gì về chức trọng quyền cao mà mình sắp được thụ phong, bổ nhiệm.

Sau giây lát yên lặng. Môngtaneli bắt đầu nói:

- Áctơ, chiều nay con có bận gì không? Nếu không con hãy ở lại với cha, vì tối nay con không đến thăm cha được. Cha thấy bứt rứt trong người. Cha muốn trước khi đi còn được gần con nhiều hơn.

- Được ạ. Nhưng đến 6 giờ con sẽ phải đi...

- Đi họp phải không?

Áctơ gật đầu, Môngtaneli vội chuyển ngay đầu đề câu chuyện:

- Cha muốn nói đến việc của con. Khi cha không ở đây con cần có một cha linh hồn cho con.

- Khi nào cha trở về thì con sẽ có thể xin cha giải tội cho cơ mà?

- Sao con lại nói thế, carino? Đây là cha chỉ nói thời gian ba tháng bốn tháng mà cha đi vắng. Con có ưng một cha ở nhà thờ Đức bà Catarina (3) giải tội cho con không?

- Xin vâng.

Họ nói chuyện với nhau chút ít về những việc khác. Rồi Áctơ đứng dậy:

- Thưa cha, con đi đây. Anh em họ đang đợi con.

Một vẻ thẫn thờ lại hiện trên gương mặt Môngtaneli.

- Đã đi ngay ư? Thế mà vừa rồi cha tưởng đã thoát khỏi những ý nghĩ đen tối. Thôi được con đi.

- Kính chào cha. Nhất định mai con sẽ đến.

- Con có thể đến sớm một chút để cha kịp gặp riêng con. Mai cha Cácđi tới... Áctơ yêu quý, cha xin con hãy thận trọng, điều gì chưa nghĩ kĩ thì chưa nên làm, ít nhất là cho tới khi cha trở lại. Con chưa rõ lòng cha lo cho con biết chừng nào khi cha không ở đây!

- Thưa cha, cha đừng lo. Vạn sự đều bình yên cả, và còn bình yên lâu.

- Thôi, con đi.

Môngtaneli giật giọng nói như vậy rồi cúi đầu trên bàn viết.

*

* *

Bước vào phòng họp của sinh viên, người mà Áctơ trông thấy đầu tiên chính lại là con gái bác sĩ Uaren, bạn gái của Áctơ từ thời còn để chỏm. Cô ngồi bên cửa sổ tận góc phòng, đang chăm chú nghe một thanh niên cao lớn mặc bộ quần áo cũ kiểu Lômbácđi, nói chuyện. Anh ta là một trong “những người khởi xướng” của phong trào. Mới qua mấy tháng mà cô bé khác hẳn trước: lớn lên và trở thành một thiếu nữ đến thì. Chỉ còn đôi bím tóc to và đen sau lưng cô là gợi lại hình ảnh một nữ sinh thuở bé. Cô bận toàn đen, đầu cũng quàng một chiếc khăn đen vì gió lạnh lùa manh vào phòng họp. Trên ngực cô đeo một cành bách nhỏ, huy hiệu của “Nước Ý trẻ”. Anh thanh niên người Lômbácđi đang say sưa nói về những nỗi đói khổ của nông dân Calabơri (4). Còn cô gái thì ngồi nghe, tay chống cằm, mắt nhìn xuống sàn. Nhìn cô, Áctơ thấy hiện ra trước mắt một cảnh đau buồn. Thần Tự do đang khóc than nền cộng hoà đã mất. (Vậy mà Giuli cứ chê bai nào là một cô gái cao quá khổ, nào mặt tái, mũi dô, nào chiếc áo ngoài đã cũ và ngắn cũn cỡn.)

Khi có người gọi chàng thanh niên Lômbácđi ra đầu phòng kia, Áctơ lại gần cô gái nói:

- Dim, cũng ở đây à?

Dim – đó là tên hồi nhỏ và là tên gọi tắt của Diniphơ, tên đặt lúc rửa tội. Bạn gái người Ý thường gọi cô ta là Giêma.

Dim ngẩng đầu và ngạc nhiên:

- Áctơ! Ồ, tôi không biết là anh cũng ở đây!

- Tôi cũng không ngờ lại gặp Dim ở đây. Dim ạ! Từ hồi nào...

Cô vội ngắt lời:

- Không, anh ạ. Tôi chưa phải là đảng viên. Tôi mới làm được vài ba công tác nhỏ thôi. Tôi có quen với Bini... Anh chắc biết Cáclô Bini chứ?

- Tất nhiên có.

Bini là người lập ra chi bộ Livoócnô, trong “nước Ý trẻ” ai cũng biết anh ta.

- Ấy, chính Bini nói chuyện với tôi về việc này. Tôi liền yêu cầu Bini cho dự cuộc hội nghị sinh viên. Sau Bini có viết thư đến Phơlorăngxơ (5) cho tôi... tôi có dự lễ Nôen tại Phơlorăngxơ, anh có biết không nhỉ?

- Không, dạo này tôi ít được tin nhà lắm.

- À, ừ nhỉ... Thế là tôi liền đi Phơlorăngxơ để gặp chị em Raitơ (chị em Raitơ là bạn học cũ của Giêma). Khi đến nơi Bini lại viết thư cho tôi lúc về thì ghé qua Pidơ, vì thế hôm nay tôi mới đến đây... Kìa bắt đầu rồi...

Bản báo cáo nói về nền Cộng hoà lí tưởng và nói rằng thanh niên phải sẵn sàng phấn đấu cho nền cộng hoà Ý. Bản báo cáo cũng còn đôi chút mơ hồ nhưng Áctơ vẫn nghe với một lòng cảm phục chân thành. Trong thời kì này điều gì Áctơ cũng tin theo, và bất cứ cái gì là lí tưởng luân lí mới, anh cũng đều nốc cạn một hơi, không hề nghĩ ngợi.

Bản báo cào và phần thảo luận dài tiếp theo đã xong, các sinh viên bắt đầu giải tán thì Áctơ trở lại chỗ Giêma lúc nãy vẫn ngồi trong góc phòng.

- Tôi đưa Dim về nhé. Dim ở với ai?

- Tôi ở nhà Marietta.

- Bà quản gia cũ nhà Dim đấy ư?

- Phải, cũng khá xa đấy.

Họ đi trầm ngâm một hồi lâu. Áctơ bỗng hỏi:

- Dim bao nhiêu tuổi rồi, mười bảy phải không?

- Tháng mười năm qua mười bảy tuổi tròn.

- Lúc nào tôi cũng nghĩ rằng khi lớn lên Dim chẳng say mê nhảy nhót như các cô gái khác đâu.

Dim thân yêu, tôi luôn tự hỏi không biết Dim sẽ có trong hàng ngũ của chúng ta không nhỉ?

- Tôi cũng nghĩ như thế đấy.

- Dim nói Bini đã giao công tác cho Dim. Vậy mà tôi không hề biết là Dim có quen cả Bini.

- Có phải tôi làm giúp Bini đâu, làm giúp người khác kia.

- Giúp ai?

- Giúp Bôla, người nói chuyện với tôi lúc nãy.

- Dim có quen Bôla lắm không?

Giọng nói của Áctơ có chút ghen tị. Anh chẳng ưa người ấy. Hai người ganh nhau làm một công tác, nhưng sau ban chấp hành “nước Ý trẻ” giao cho Bôla làm vì cho rằng Áctơ còn quá trẻ và thiếu kinh nghiệm.

- Cũng khá thân. Tôi mến anh ấy lắm. Anh ấy có ở Livoócnô.

- Tôi biết... Anh ấy đến Livoócnô vào khoảng tháng một.

- Phải, đến đợi tàu (6). Áctơ, chắc dùng chỗ nhà anh ở để làm việc này thì an toàn hơn. Không ai nghi ngờ một nhà chủ hãng tàu giàu có như nhà anh. Với lại anh còn quen biết mọi người trên bến nữa.

- Khẽ chứ, đừng nói to thế, Dim thân yêu! Thế ra tài liệu từ Mácxây tới vẫn giấu ở nhà Dim ư?

- Chỉ để ở đấy một ngày thôi... Nhưng có lẽ không nên nói với anh chuyện này thì phải nhỉ?

- Sao lại không? Dim cũng biết tôi là người của đoàn thể kia mà. Giêma thân yêu, nếu Giêma và… đức cha cùng đi theo chúng tôi thì tôi không có gì sung sướng hơn trên đời này!

- Đức cha của anh ấy à, chẳng lẽ ông cũng...

- Không, cách nghĩ của đức cha khác hẳn. Nhưng đôi khi tôi vẫn nghĩ... Tôi hi vọng rằng…

- Áctơ, ông ấy là cố đạo kia mà!

- Thì đã sao? Trong tổ chức của chúng ta cũng có cả các cha chứ. Có hai cha đang viết báo cho chúng ta (7). Mà như thế có sao đâu! Vì sứ mệnh của giáo sĩ là dẫn thế gian tới những lí tưởng và mục đích cao cả. Xã hội chúng ta chẳng nhằm tiến tới đó hay sao? Rốt cuộc chính là vấn đề tôn giáo và luân lí hơn là vấn đề chính trị. Vì nếu người ta muốn trở thành công dân tự do và có trách nhiệm thì không ai có thể nô dịch họ được.

Giêma nhíu mày lại:

- Áctơ, tôi có cảm tưởng là luân lí của anh có chỗ nào lầm lẫn đấy. Cha cố cổ động học

thuyết tôn giáo. Tôi thấy cái đó chẳng dính dáng gì đến việc chúng ta tự giải phóng mình khỏi ách nước Áo cả.

- Các cha là người cổ động cho đạo chúa Giêsu; mà chúa Giêsu là người vĩ đại nhất trong các nhà cách mạng.

- Anh biết không, tôi có nói chuyện với cha tôi về vấn đề cha cố, ngay cả cha tôi cũng...

- Nhưng cha Giêma theo đạo Tin lành kia mà.

Sau khoảnh khắc im lặng, cô mạnh dạn nhìn thẳng vào mắt Áctơ:

- Thôi đừng nói chuyện ấy nữa thì tốt hơn. Hễ nói về đạo Tin lành là bao giờ anh cũng có vẻ khó chịu lắm.

- Không phải thế đâu. Chính người theo đạo Tin lành khó chịu khi nghe nói tới người theo đạo

Thiên chúa thì có.

- Thôi thì cứ coi là như thế. Nhưng chúng ta đã tranh cãi quá nhiều vấn đề này rồi, không cần trở lại nữa... Anh có thích buổi nói chuyện hôm nay không?

- Thích lắm, nhất là đoạn cuối. Hay nhất là lúc báo cáo viên nhấn mạnh: chúng ta không nên chỉ mơ ước một nền cộng hoà, mà phải hiện thực những lí tưởng cộng hoà! Điều đó đúng với học thuyết của chúa Giêsu: “Thiên đàng là ở trong lòng chúng ta”.

- Chính đoạn ấy tôi lại không thích. Báo cáo viên nói quá nhiều về những điều kì diệu mà chúng ta phải cảm nghĩ, nhưng không vạch ra cụ thể những cái mà chúng ta phải làm.

- Khi thời cơ đến chúng ta sẽ có khối việc mà làm. Chúng ta phải kiên nhẫn. Những biến cố vĩ đại không thể xảy ra ngay trong một ngày được.

- Nhiệm vụ càng lâu dài càng phức tạp thì càng có lí do để bắt đầu ngay từ lúc này. Anh nói cần phải chuẩn bị mình đầy đủ để hưởng tự do. Thế nhưng có ai là người đầy đủ để hưởng tự do hơn mẹ anh? Bà chẳng phải là một người hiền hậu bậc nhất đó sao? Nhưng lòng tốt của bà đã đưa bà đến đâu? Bà chỉ là một người nô lệ cho tới ngày cuối cùng của đời mình. Vì vợ chồng anh Giêmxơ mà bà đã phải chịu đựng bao nhiêu dằn vặt, đay nghiến. Nếu bà không dịu dàng, không kiên nhẫn chịu đựng đến thế thì chắc bà đã sống dễ chịu hơn, người ta không dám đối xử với bà tệ bạc đến thế! Đối với nước Ý cũng vậy: không phải là nhẫn nhục mà phải là đứng lên bảo vệ quyền lợi của mình.

- Dim thân yêu, nếu tức giận và nhiệt tình có thể cứu vãn được nước Ý thì nước Ý đã tự do từ lâu rồi. Nước Ý không cần hận thù mà cần tình yêu.

Máu bỗng bốc mạnh lên mặt anh rồi lại lắng xuống, khi anh nói lên câu cuối cùng. Nhưng Giêma không nhận thấy. Nàng nhìn thẳng về phía trước, nhíu mày, mím môi.

Sau giây lát im lặng, Giêma nói:

- Áctơ, chắc anh cho là tôi sai. Nhưng không, tôi đúng chứ không sai đâu. Rồi một ngày kia anh sẽ rõ... Tới nhà Marietta rồi. Anh có vào chơi không?

- Không, khuya rồi. Thôi, chào Dim thân yêu!

Anh đứng ở thềm, hai tay anh nắm chặt lấy tay Giêma.

- “Vì thượng đế và nhân dân...”

Và Giêma cũng chậm rãi và trịnh trọng đọc tiếp câu khẩu hiệu:

- “…trung thành suốt đời”.

Rồi nàng rút tay ra, chạy vào nhà. Khi cánh cửa đã khép lại, Áctơ cúi nhặt cành bách nhỏ vừa rơi xuống từ ngực nàng.

Chú thích:
(1) Nước Ý trẻ: tên một đảng cách mạng của tiểu tư sản, dưới sự lãnh đạo của Giudéppê Mátdini lập ra năm 1831 ở Thuỵ Sĩ để đấu tranh giải phóng nước Ý khỏi ách thống trị của Áo, thống nhất đất nước và lập ra nền cộng hoà Ý.
(2) Luận về chính thể quân chủ: tác phẩm của nhà thơ người Ý Alighêri Đăngtơ (1265 – 1321), chủ trương thủ tiêu tình trạng phong kiến phân quyền của nước Ý, bằng cách lập một nền quân chủ thống nhất, và công kích Giáo hoàng La Mã định can thiệp vào chính quyền trong xã hội. Trong thế kỉ XIX, sách này bị Giáo hoàng cấm.
(3) Nhà thờ Đức bà Catarina (tiếng Pháp: Sainte Catherine) Nhà thờ bà thánh Catơrin ở Pidơ.
(4) Calabơri: Vùng núi trong vương quốc Nêapôn, miền nam nước Ý.
(5) Phơlôrăngxơ: thủ đô của công quốc Tôxcan, thành phố đẹp nổi tiếng nước Ý.
(6) Hồi ấy Mátdini xuất bản tờ báo “Nước Ý trẻ” tại Mácxây (Pháp). Báo này và những tài liệu chính trị do tổ chức bí mật xuất bản ngầm đưa từ Mácxây về Livoócnô.
(7) Tức là tờ “Nước Ý trẻ”.

RUỒI TRÂU
Chương 4

Lòng lâng lâng nhẹ nhàng như đôi cánh chim, Áctơ trở về nhà. Áctơ cảm thấy tràn ngập một niềm vui trong sáng không gợn một chút mây lo buồn. Tại hội nghị, người ta đã có ý nói tới chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa. Và Giêma giờ đây đã là đồng chí của Áctơ, và Áctơ đã yêu Giêma. Hai người sẽ cùng nhau công tác và có lẽ sẽ cùng nhau hi sinh trong cuộc đấu tranh cho nền cộng hoà đang tiến tới nền cộng hoà, mùa nở hoa của hi vọng đã đến kia rồi! Đức cha sẽ thấy và sẽ tin.

Nhưng sáng hôm sau, khi Áctơ bừng tỉnh dậy, lòng anh đã tỉnh táo hơn. Anh sực nhớ rằng Giêma sắp đi Livoócnô còn đức cha sẽ đi La Mã.

Giêng, hai, ba... còn ba tháng dài nữa mới tới lễ Phục sinh! Giêma trở về với gia đình, lỡ ra lại rơi vào ảnh hưởng của đạo Tin lành thì sao? (trong ngữ vựng của Áctơ, “tín đồ Tin lành” và “Philistanh” (1) chỉ là một nghĩa)... Không, khác hẳn thế, Giêma sẽ không đua đòi thói mơn trớn, làm đỏm để hòng quyến rũ các tay du lịch và những chủ tàu hói trán, như những tiểu thư Anh khác ở Livoócnô. Nhưng Giêma chắc sẽ rất khổ tâm. Tươi trẻ như vậy, lại không có bạn bè, Giêma hẳn sẽ cảm thấy rất cô đơn giữa những con nguời gỗ đá ấy... Ồ, giá mẹ mà còn sống nhỉ!

Đến chiều, Áctơ vào trường dòng thấy Môngtaneli đang nói chuyện với cha giám đốc mới. Vẻ mặt Môngtaneli vừa mệt mỏi vừa cau có. Thấy Áctơ, Môngtaneli không tươi vui lên như mọi khi mà sa sầm nét mặt.

Khi giới thiệu Áctơ với cha giám đốc mới, Môngtaneli nói bằng một giọng khô khan:

- Đây là cậu sinh viên tôi vừa nói với cha. Cha cứ cho cậu ấy dùng sách của thư viện như trước thì tôi rất đội ơn.

Cha Cácđi là một giáo sĩ có tuổi, vẻ mặt phúc hậu. Cha nói chuyện ngay với Áctơ về trường học. Giọng nói tự nhiên thân mật của cha chứng tỏ cha rất hiểu sinh hoạt của sinh viên. Câu chuyện chuyển rất mau lẹ tới một vấn đề nóng hổi trước mắt bấy giờ là những chế độ quá nghiêm ngặt của nhà trường đại học.

Điều làm Áctơ hết sức vui mừng là cha giám đốc mới phê bình kịch liệt ban giám đốc nhà trường đã hạn chế sinh viên những đìều hết sức vô lí khiến cho sinh viên công phẫn.

Cha nói:

- Về việc hướng dẫn thanh niên, tôi có nhiều kinh nghiệm. Nguyên tắc của tôi là bất cứ việc gì không có lí do xác đáng thì nhất định không nên cấm. Nếu đối xử tốt với thanh niên, tôn trọng nhân cách của họ, thì số thanh niên làm cho bề trên phải phiền lòng cũng rất ít thôi. Con giun xéo lắm cũng quằn nữa là.

Áctơ tròn xoe mắt. Anh không ngờ cha giám đốc mới lại bênh vực quyền lợi của sinh viên đến thế. Môngtaneli không tham gia câu chuyện, hình như ông không quan tâm gì đến vấn đề ấy.

Trông ông phờ phạc chán ngán đến nỗi cha Cácđi phải đột nhiên nói:

- Thưa đức cha, chắc tôi làm đức cha mệt lắm nhỉ. Đức cha thứ lỗi cho, tính tôi hay nói nhiều, tôi quá chú tâm vào vấn đề này thành thử không để ý đến việc người khác có thể thấy chán.

- Trái lại, vấn đề ấy tôi rất quan tâm.

Môngtaneli chẳng bao giờ tỏ vẻ khách sáo cả, nên giọng nói của ông làm Áctơ khó chịu.

Khi cha Cácđi đi khỏi, Môngtaneli quay về phía Áctơ, nhìn anh với vẻ lo lằng đăm chiêu suốt buổi chiều hôm nay. Ông chậm rãi nói:

- Áctơ, con thân yêu, cha có việc cần nói với con.

Áctơ lo ngại nhìn bộ mặt đờ đẫn của Môngtaneli, óc vụt nghĩ: “Chắc lại có tin chẳng lành đây”.

Im lặng hồi lâu.

Môngtaneli bỗng hỏi:

- Con có thích cha giám đốc mới không?

Câu hỏi đột nhiên đến nỗi Áctơ không biết trả lời ra sao cả.

- Con... con rất thích... Con nghĩ... ít nhất là... à không con cũng chưa biết chắc là con có thích cha ấy không. Nhưng mới gặp lần đầu thì cũng khó nói.

Ngồi gõ tay vào ghế, một cử chỉ rất quen thuộc mỗi khi có điều gì phải lo nghĩ, Môngtaneli nói

tiếp:

- Còn về việc cha đi, nếu con không đồng ý... Ờ... Áctơ nếu con muốn, thì cha sẽ viết thư về La Mã và nói rằng không thể đi được.

- Thưa cha! Nhưng Vaticăng...

- Vaticăng sẽ tìm người khác. Cha sẽ viết thư xin lỗi.

- Nhưng sao lại thế? Con không hiểu được.

Môngtaneli đưa tay lên vuốt trán.

- Cha lo cho con lắm. Cha không thể không nghĩ rằng... Vả lại cũng chẳng cần thiết phải đi

nữa...

- Thế còn chức giám mục thì sao?

- Ồ, Áctơ! Còn sung sướng nỗi gì nếu cha được thăng chức giám mục mà lại mất mất...

Môngtaneli bỗng ngừng bặt, Áctơ thấy bối rối vô cùng. Chưa bao giờ Áctơ thấy cha như vậy cả.

Anh luống cuống nói:

- Con chẳng hiểu thế nào cả... Cha, cha nói rõ đi, cha cho con biết cha lo lắng điều gì?

- Có gì đâu. Cha bị một mối lo khủng khiếp ám ảnh. Con cho cha hay, con có gặp một mối nguy hiểm đặc biệt nào không?

Áctơ nhớ tới những lời xì xào bàn tán về chuẩn bị khởi nghĩa và nghĩ thầm: “Chắc cha nghe thấy rồi đây?”

Nhưng biết rằng không thể lộ bí mật, Áctơ chỉ trả lời bằng một câu hỏi:

- Có gì đặc biệt được thưa cha?

- Đừng hỏi, hãy trả lời đi – Vì xúc động Môngtaneli nói gần như gay gắt. – Có gì đe dọa con không? Cha không muốn biết những bí mật của con đâu. Con chỉ trả lời cho cha điều ấy thôi.

- Thưa cha, tất cả chúng ta đều ở trong tay Chúa cả. Điều gì cũng có thể xảy ra. Nhưng con thấy rằng không có lí gì con lại không thể bình yên vô sự cho đến khi cha trở về.

- Cho tới khi cha trở về... hãy nghe đây, carino. Cha để cho con quyết định lấy. Cha không cần con giải thích nhiều. Chỉ cần con nói: “Cha hãy ở lại” là cha sẽ từ chối không đi nữa. Điều đó chẳng có hại cho ai và con, cha tin rằng có cha ở đây thì con sẽ bằng an.

Tâm trạng kì quặc của Môngtaneli hôm nay làm Áctơ nhìn ông với một vẻ hết sức lo âu.

- Cha, cha ốm mất rồi. Cha phải đi La Mã mà tĩnh dưỡng cho khỏi bệnh mất ngủ và nhức đầu đi thôi...

- Được lắm. – Môngtaneli cắt ngang câu chuyện hình như đã chán ngấy rồi. – Sáng mai cha sẽ

đi chuyến xe ngựa chở khách đầu tiên.

Áctơ ngơ ngác nhìn Môngtaneli:

- Hình như cha còn điều gì muốn nói với con?

- Không, không, không có gì nữa... Không có gì quan trọng nữa cả.

Trong đôi mắt sững sờ của Môngtaneli là một vẻ lo âu, gần như hoảng sợ.

*

* *

Vài ngày sau khi Môngtaneli ra đi, Áctơ đến thư viện trường dòng để mượn sách, gặp cha

Cácđi ở cầu thang. Cha giám đốc kêu:

- A, cậu Bớctơn. Tôi đang cần cậu đây. Mời cậu lên phòng tôi. Tôi có việc khó khăn đang định nhờ cậu giúp.

Ông mở cửa phòng làm việc, và Áctơ bước theo ông ta với một cảm giác khó chịu ngấm ngầm. Nhìn căn phòng làm việc thân yêu, nơi thánh thất của cha Môngtaneli nay bị người khác chiếm mất, Áctơ cảm thấy chua xót trong lòng.

Cha giám đốc nói:

- Tôi là một con mọt sách đấy. Tôi đến đây, việc đầu tiên là xem thư viện. Đó là một việc hứng thú, nhưng tôi chẳng hiểu bản kê sách sắp xếp theo hệ thống nào cả.

- Bản thư mục chưa được đầy đủ, phần lớn các sách quý đều mới đưa đến.

- Cậu có thể để độ nửa giờ giảng giúp tôi hệ thống thư mục không?

Hai người bước vào thư viện, và Áctơ tỉ mỉ nói rõ, mọi điều cần thiết. Khi Áctơ cầm mũ định đi ra thì cha giám đốc ngăn lại với một nụ cười:

- Không, không. Tôi không thể cho cậu vội về như thế đâu. Hôm nay thứ bảy, để đến sáng thứ hai học cũng được. Cậu ở lại đây, ăn cơm với tôi, đằng nào cũng muộn rồi còn gì. Bây giờ tôi chỉ có một mình thôi, thêm cậu tôi vui lắm.

Thái độ xởi lởi và đon đả của cha làm cho Áctơ thấy dễ chịu ngay từ phút đầu. Sau mấy câu chuyện phiếm, cha giám đốc hỏi Áctơ biết Môngtaneli từ lâu chưa.

- Gần bảy năm. Năm đức cha ở Trung Quốc về, con mới mười hai tuổi.

- À phải. Bên ấy cha nổi tiếng là một nhà truyền đạo xuất sắc. Và từ đó trở đi cha hướng dẫn cho cậu học ư?

- Một năm sau đức cha mới dạy con học, vào khoảng con bắt đầu nhận cha là cha linh hồn. Khi con vào đại học Xapiênđa thì cha tiếp tục bảo con học những môn không có trong chương trình đại học. Cha đối xử với con tốt lắm! Tốt không thể tưởng tượng được!

- Tôi sẵn lòng tin lắm. Con người ấy ai mà chẳng mến phục, thật là một tâm hồn đẹp đẽ cao quý hết sức. Nhiều lần tôi có dịp gặp các nhà truyền giáo đã từng làm việc với đức cha tại Trung Quốc. Họ cũng tìm đủ lời để khen ngợi nghị lực, tinh thần dũng cảm trong những giờ phút khó khăn và lòng thành không gì lay chuyển nổi của đức cha. Cậu nên cảm ơn số mệnh đã cho cậu một người như thế để dìu dắt cậu trong thời niên thiếu. Nghe đức cha nói hình như cậu mồ côi từ sớm.

- Thưa vâng, cha con mất từ khi con còn bé, mẹ con qua đời cách đây một năm.

- Cậu có anh chị em gì không?

- Không, chỉ có hai anh cùng cha khác mẹ thôi... Nhưng khi con còn phải ẵm các anh ấy đã lập nghiệp cả rồi.

- Chắc rằng vì cậu mồ côi từ nhỏ nên cậu mới càng thêm quý mến lòng tốt của đức cha Môngtaneli như vậy. Thế khi đức cha Môngtaneli đi vắng thì cậu có cha nào giải tội không?

- Nếu các cha xứ Đức bà Catarina không có nhiều người đến xưng tội quá thì con định xin một cha giải tội cho.

- Thế cậu có muốn tôi giải tội cho không?

Áctơ trố mắt ngạc nhiên:

- Thưa cha kính mến, tất nhiên, con... con rất sung sướng, nhưng chỉ sợ...

- Chỉ sợ cha giám đốc trường dòng thường không giải tội cho người ngoài đời phải không? Đúng thế, nhưng tôi biết là Môngtaneli rất chăm sóc cậu và nếu tôi không lầm, cha rất lo lắng cho sự bằng an của cậu thì phải. Nếu tôi phải xa học trò yêu của tôi thì tôi cũng lo lắng như vậy. Nếu đức cha Môngtaneli biết rằng có đồng nghiệp chăm sóc cho phần hồn của cậu thì chắc cha vui lòng lắm. Hơn nữa, con của cha, cha nói thật với con là cha ưa con lắm. Điều gì giúp được con thì cha vui lòng giúp.

- Nếu vậy thì tất nhiên con rất đội ơn cha.

- Thế đến tháng sau cha sẽ đợi con tới xưng tội nhé...? Tốt lắm! Ngoài ra chiều nào rảnh rang con cứ lại đây với cha, con của cha ạ!

*

* *

Trước lễ phục sinh không lâu, có tin chính thức Môngtaneli bổ nhiệm làm giám mục và đi cai quản địa phận Brixighêla, một khu nhỏ vùng núi Apênanh Êtơrút (2). Đọc những lời lẽ bình tĩnh và phấn khởi trong thư ông gửi cho Áctơ từ La Mã cũng thấy nỗi u buồn của ông đã qua rồi. Môngtaneli viết: “Mỗi kì nghỉ hè con phải đến thăm cha và cha hứa sẽ luôn đến thành Pidơ. Thế nào cha cũng phải gặp con, dù không được gặp nhiều như cha mong muốn cũng được.”

Bác sĩ Uơren mời Áctơ đến ăn mừng lễ Phục sinh ở nhà ông chứ không phải ở toà lâu đài cổ lỗ, âm u và đầy chuột mà Giuli hiện nay đã độc chiếm. Trong thư có kèm theo một mẩu giấy con với nét chữ viết vội, nguệch ngoạc như trẻ con của Giêma. Giêma khẩn khoản rằng nếu có điều kiện thì Áctơ đến chơi vì “Giêma có chuyện cần nói với Áctơ”.

Tin đồn đại trong đám sinh viên càng làm cho Áctơ phấn khởi. Mọi người đều chờ đợi những

biến cố lớn sau lễ Phục sinh.

Tất cả những điều đó đem đến cho Áctơ một tâm trạng hân hoan chờ đợi, và Áctơ tưởng chừng như tất cả những điều vô lí hết sức kì lạ mà sinh viên thì thào với nhau đều rất tự nhiên và sắp trở thành hiện thực đến nơi trong vòng hai tháng tới.

Áctơ định đến thứ năm trong tuần Thánh (3) sẽ về nhà nghỉ ngơi mấy ngày đầu để nỗi vui gặp gỡ Giêma khỏi ảnh hưởng tới tâm niệm nghiêm trang mà giáo hội khuyên răn bổn đạo phải giữ trong những ngày lễ ấy. Tối thứ tư, Áctơ viết cho Giêma báo tin sẽ tới vào ngày thứ hai, sau ngày lễ Phục sinh rồi Áctơ đi ngủ, lòng rất thư thái.

Áctơ quỳ trước Thánh giá. Cha Cácđi hứa sáng mai sẽ giải tội cho nên lúc này Áctơ phải đem

hết lòng thành cầu nguyện rất lâu để dọn mình ăn năn lần cuối cùng trước lễ Phục sinh. Quỳ gối, chắp tay, Áctơ cúi đầu ôn lại từng ngày trong tháng qua, nhớ lại từng tội lỗi nhỏ nhặt đã làm vẩn đục tâm hồn trong trắng của mình như sốt ruột, cẩu thả, không cầm trí. Ngoài những điều ấy, Áctơ chẳng tìm thêm được gì cả: trong những ngày hạnh phúc như thế làm gì có nhiều tội lỗi được? Áctơ làm dấu thánh giá đứng dậy và bắt đầu cởi quần áo.

Khi cởi áo sơ mi một mảnh giấy từ trong áo rơi ra. Đó là thư của Giêma mà Áctơ ấp ủ trong ngực suốt tuần lễ nay. Áctơ nhặt lên, mở ra, hôn những dòng chữ nguệch ngoạc yêu quý rồi gấp lại, và bỗng dưng lấy làm hổ thẹn vì cử chỉ buồn cười của mình. Giở nhìn mặt sau, Áctơ bỗng thấy bức thư có thêm mấy dòng tái bút, mà anh chưa hề đọc tới: “Áctơ, thế nào cũng đến nhé, càng sớm càng hay; Giêma sẽ giới thiệu Áctơ với Bôla. Bôla ở đây, ngày nào hai đứa chúng tôi cũng làm việc với nhau”.

Một làn máu nóng trào lên mặt khi Áctơ đọc những dòng chữ đó.

Lại vẫn Bôla: Y còn đến Livoócnô làm gì nữa? Mà tại sao Giêma lại nghĩ ra chuyện cùng làm việc với y? Y lại đem những sách báo riêng ra để mê hoặc Giêma chăng? Ngay trong buổi họp hồi đầu tháng giêng đã thấy ngay được là Bôla yêu Giêma. Chắc vì thế nên lúc ấy y mới nói hăng đến thế! Và bây giờ y lại tìm cách ở cạnh Giêma, hàng ngày ở cạnh Giêma...

Áctơ gạt mạnh bức thư ra một bên rồi lại quỳ trước mặt thánh giá.

Và đó lại là một linh hồn sẵn sàng ước ao được giải tội, sẵn sàng chịu lễ trong ngày Phục sinh, sẵn sàng sống bằng an với Chúa, với mình và với toàn thế giới! Thế nghĩa là linh hồn ấy vẫn có thể ghen tuông nghi ngờ một cách thấp hèn, vẫn có thể kèn cựa và tức giận nhỏ nhen với cả đồng chí của mình nữa! Áctơ tự trách mình một cách cay đắng và đưa hai bàn tay bưng lấy mặt. Vừa cách đây năm phút mơ tưởng tới sự tuẫn tiết vì đạo mà bây giờ anh lại phạm tội với những ý nghĩ xấu xa, thấp hèn như vậy!

Sáng thứ năm, khi bước chân tới nhà nguyện của trường dòng thì Áctơ thấy cha Cácđi đang ở đó một mình. Đọc xong kinh ăn năn tội, Áctơ kể ngay tội lỗi mình mới phạm tối qua.

- Lạy cha, con là kẻ có tội, con có tội ghen tuông, tức giận và có những ý nghĩ không xứng đáng đối với một người không làm gì sai với con cả.

Thừa hiểu mình đang giải tội cho ai, cha Cácđi dịu dàng nói:

- Này con, con chưa cáo mình cùng cha hết mọi sự.

- Lạy cha! Con đã có những ý nghĩ không Cơ đốc đối với một người mà đáng lẽ con phải đặc biệt yêu mến và kính trọng.

- Một người mà con có quan hệ thân thiết như ruột thịt ư?

- Hơn cả ruột thịt nữa.

- Hỡi con, vậy thì sự gắn bó của con với người ấy?

- Tình đồng chí.

- Tình đồng chí ư? Đồng chí về việc gì?

- Tình đồng chí trong sự nghiệp vĩ đại và thiêng liêng.

Một thoáng im lặng.

- Và con tức giận... đồng chí đó, con ghen tị vì người đó làm việc có nhiều thành tích hơn con ư?

- Vâng... một phần như vậy. Con thèm muốn kinh nghiệm và tài năng của người ấy... Và rồi... con nghĩ... con sợ rằng người ấy cướp mất trái tim một thiếu nữ... mà con yêu.

- Thế người yêu của con có phải là con cái Hội Thánh chúa không?

- Không, cô ta là tín đồ Tin lành.

- Kẻ khác đạo ư?

Áctơ nắm chặt hai tay, lúng túng đến cực độ.

Anh nhắc lại:

- Vâng, khác đạo. Chúng con cùng lớn lên với nhau. Mẹ chúng con là bạn của nhau và con... con ghen ghét người ấy vì con thấy rằng người ấy cũng yêu cô ta và vì... vì...

Sau giây lát yên lặng cha Cácđi bắt đầu nói, từ tốn và trang nghiêm:

- Hỡi con, con chưa xưng hết mọi điều. Trong linh hồn con còn một sự gì nặng nề làm vậy?

- Thưa cha, con...

Áctơ lúng túng rồi lại nín bặt. Người giải tội im lặng chờ.

- Con ghen ghét người ấy là vì đoàn thể “Nước Ý trẻ” của chúng con...

- Vậy ư?

- ...đã giao cho người ấy một việc mà con muốn đoàn thể giao cho con... Con tự cho mình đủ sức làm việc đó hơn.

- Việc đó là việc gì?

- Nhân sách báo, sách báo chính trị, ở trên tàu xuống, rồi... tìm chỗ cất giấu trong thành phố.

- Việc ấy, đảng đã giao cho kẻ tình địch của con ư?

- Vâng, giao cho Bôla... và con ghen tị với anh ta.

- Vậy về phía anh ấy có làm gì để con khó chịu không? Con có trách anh ấy coi thường nhiệm vụ đã giao phó cho không?

- Không, thưa cha. Bôla hoạt động rất dũng cảm và hi sinh. Anh là một người yêu nước chân chính, và lẽ ra con phải yêu mến kính trọng.

Cha Cácđi đắn đo suy nghĩ.

- Hỡi con, nếu ánh sáng mới đã chiếu rọi vào tâm hồn con, nếu trong tâm hồn con đã nảy nở một khát vọng làm việc vì hạnh phúc của đồng bào, nếu con có ước mong giảm nhẹ gánh nặng cho những người cùng khổ bị áp bức thì đó là một của quý Đức Chúa Lời đã ban cho con mà con phải suy nghĩ mà sử dụng cho nên. Mọi sự tốt lành đều bởi Chúa ban ra, việc sinh ra con trong một cuộc đời mới cũng là nhờ ơn Chúa, nếu con đã chọn con đường hi sinh, đã tìm được lối đi tới hoà bình, nếu theo các đồng chí thân yêu để giải phóng cho những kẻ đang than khóc và đau thương âm thầm, thì con hãy cố gắng để linh hồn con thoát khỏi tham muốn và dục vọng, để lòng con là một bàn thờ thánh mà ngọn lửa thiêng liêng sẽ đời đời không tắt. Con hãy nhớ rằng đó là một sự nghiệp cao cả và thiêng liêng, và trái tim nào đã thấm nhuần sự nghiệp ấy thì phải tẩy sạch mọi tính toán ích kỉ. Sứ mệnh đó giống với sứ mệnh các đấng giảng đạo. Họ không thể phụ thuộc vào tình yêu đối với một người đàn bà hoặc những dục vọng nhất thời. Sứ mệnh đó là: vì Thượng đế và vì nhân dân, là: trung thành suốt đời.

- Ồ! – Áctơ xiết chặt hai tay sửng sốt.

Nghe khẩu hiệu quen thuộc, Áctơ suýt phát khóc.

- Thưa cha, cha đã ban cho chúng con sự chuẩn y của Nhà thờ! Đức chúa Giêsu là ở phía chúng ta...

Cha Cácđi trịnh trọng đáp:

- Hỡi con, Đức chúa Giêsu đã đuổi lũ gian thương ra khỏi Đền thánh vì Đền thánh là nơi cầu nguyện, mà bọn chúng đã biến thành hang kẻ cướp!

Sau một hồi lâu im lặng, Áctơ run run nói khẽ:

- Và khi đuổi được bọn chúng đi rồi thì nước Ý sẽ là đền thờ của Chúa...

Áctơ im lặng. Một giọng trả lời êm ru vọng lại:

- Đức Chúa Lời đã phán truyền rằng: “Mặt đất này và của cải bởi đất mà ra đều thuộc về Ta cả”.

Chú thích:
(1) Philistanh: tên Do Thái cũ. Theo thiên kiến trước đây thì họ là hạng người “phàm phu tục tử”, trục lợi, nhỏ nhen, thiếu văn hoá.
(2) Apênanh Êtơrút: dãy núi phía đông thành phố Phơlôrăngxơ.
(3) Tuần thánh: tuần lễ kỉ niệm chúa Giêsu chịu nạn, ngày thứ sáu tuần đó bị đóng đinh trên cây thánh giá.

RUỒI TRÂU
Chương 5

Chiều hôm ấy Áctơ cảm thấy muốn đi chơi một chuyến xa. Anh giao đồ đạc cho một người bạn học, rồi đi bộ về Livoócnô.

Trời ẩm thấp đầy mây, nhưng không lạnh. Áctơ cảm thấy mình đang đi trên một vùng đồng bằng tươi đẹp hơn bao giờ hết. Cỏ ướt mịn dưới chân; và nhìn những bông hoa dại mùa xuân mỉm cười thẹn thò mà duyên dáng ở bên đường, Áctơ thấy vô cùng khoan khoái. Một con chim đang làm tổ trong bụi gai xiêm vàng nơi ven rừng nhỏ hẹp. Thấy bóng Áctơ đi qua, chim hốt hoảng kêu, bay vụt lên không trung, vỗ đôi cánh nhỏ màu nâu sẫm.

Áctơ cầm trí suy nghĩ những ý nghĩ đạo đức, đúng với ý nghĩa bước sang ngày thứ sáu chịu nạn (1). Nhưng hình ảnh Môngtaneli và Giêma luôn hiện ra, cho nên cuối cùng Áctơ đành phải bỏ ý nghĩ ép mình làm như thế. Tính chất kì diệu và quang vinh của cuộc khởi nghĩa sắp tới, ý nghĩa về vai trò gắn cho hai thần tuợng của mình trong cuộc khởi nghĩa ập đến rất nhanh. Trong trí tưởng tượng của của Áctơ, đức cha sẽ là lãnh tụ, là thánh tông đồ, là đấng tiên tri mà mọi thế lực đen tối phải chạy trốn trước sự giận dữ thiêng liêng của người. Dưới chân Người, những vệ sĩ trẻ tuổi của tự do sẽ phải học lại niềm tin và những chân lí cũ trong ý nghĩa mới mà từ trước đến nay chưa ai khám phá ra.

Còn Giêma? Ồ, Giêma sẽ chiến đấu trên chiến lũy. Giêma sinh ra để trở thành nữ anh hùng. Đó là một đồng chí tốt hoàn toàn. Đó sẽ là một thánh nữ trong sáng và dũng cảm mà biết bao thi sĩ hằng mơ ước. Giêma sẽ đứng bên anh, vai kề vai cùng anh chia sẻ niềm vui dưới đôi cánh của bão táp sinh tử. Và họ sẽ cùng nhau hi sinh, hi sinh trong giờ phút thắng lợi vì họ không nghi ngờ gì rằng thắng lợi nhất định sẽ tới. Áctơ sẽ không thổ lộ cho Giêma biết tình yêu của mình, sẽ không ngỏ một lời nào, để khỏi phá cõi lòng yên tĩnh và tình cảm đồng chí êm đẹp của Giêma. Đối với Áctơ, Giêma là một vật linh thiêng, một của lễ thanh khiết hiến dâng lên bàn thờ để sẵn sàng chịu hoả thiêu vì tự do của nhân dân. Vậy mà Áctơ lại dám len vào nơi đất Thánh trong trắng của một tâm hồn chưa biết tình yêu nào khác ngoài tình yêu Thượng đế và nước Ý hay sao?

Thượng đế và nước Ý... Nhưng anh đã thốt nhiên rơi xuống từ chín tầng mây khi anh bước vào ngôi nhà đồ sộ và âm thầm ở “phố Cung điện”. Ngay ở cầu thang anh đã chạm trán với Ghípbơn, người quản gia của Giuli. Y vẫn ăn mặc hết sức sạch sẽ, thái độ vẫn bình thản, và

vẫn khinh khỉnh một cách lễ phép như mọi lần.

- Chào bác Ghípbơn, các anh tôi có nhà không?

- Thưa cậu có ông Tômátxơ ở nhà và bà Bớctơn nữa. Hai vị đang ngồi trong phòng khách.

Áctơ bước vào phòng với một cảm giác nặng nề và khó thở. Sao căn nhà ảm đạm thế! Nó chẳng dính dấp gì với cuộc sống sôi nổi như một dòng sông chảy xiết bên ngoài. Trong phòng không hề thay đổi mảy may: vẫn những con người ấy, vẫn những bức ảnh gia đình ấy, vẫn những đồ đạc nặng trịch và những bộ ấm chén khó coi ấy, vẫn một vẻ khoe của kệch cỡm ấy, vẫn một trạng thái không sức sống nằm trong tất cả mọi vật... Ngay đến những bông hoa tươi cắm trong lọ đồng chạm bằng kim khí và phủ một lớp sơn cũng y như hoa giả. Có lẽ trong những ngày xuân ấm áp, nhựa non cũng chẳng bao giờ trào lên hoa cả.

Giuli ngồi trong phòng ấy, nơi trung tâm cuộc sống của mình, đương đợi khách đến ăn cơm. Bộ quần áo dự lễ, nụ cười trơ trẽn, những búp tóc hung, một con chó nhỏ nằm gọn trên đùi – đúng là tranh vẽ trong tờ báo quảng cáo mốt ăn mặc.

- Chào chú Áctơ!

Giuli cất giọng khô khan, thò vội mấy ngón tay cho Áctơ bắt rồi rụt ngay lại để vuốt ve bộ lông mượt của con chó cho thích thú hơn.

- Chắc chú vẫn khoẻ và học được đấy chứ!

Áctơ lầm rầm mấy câu qua quýt vừa thoáng nghĩ ra rồi im lặng một cách gượng gạo. Gã Giêmxơ đã tới với bộ cánh sang trọng và với một viên đại lí hàng tàu đã có tuổi nhưng chải chuốt đi cạnh. Nhưng sự có mặt của họ cũng chẳng làm cho không khí được khá hơn. Mãi đến khi Ghípbơn lên báo cơm chiều đã sửa soạn xong, Áctơ mới đứng dậy khe khẽ thở dài khoan khoái.

- Chị Giuli, hôm nay em không ăn cơm chiều. Xin chị thứ lỗi cho em về phòng đây.

Tômátxơ nói:

- Chú giữ chay quá mức rồi đấy. Tôi dám chắc rằng như vậy chính chú lại tự làm ốm mình đấy thôi.

- Ồ, không đâu! Xin chào anh chị.

Gặp người đầy tớ gái ở hành lang, Áctơ dặn sáu giờ sáng mai đánh thức hộ.

- Mai cậu chủ (2) đi lễ nhà thờ ư?

- Phải. Thôi, chào chị Têrêda.

Áctơ bước vào buồng của mình. Buồng này trước kia là của mẹ Áctơ. Cửa tò vò đối diện với cửa sổ dùng làm nơi cầu kinh khi bà đang ốm liên miên. Một cây thánh giá đặt trên chiếc bệ đen ở giữa bàn thờ. Trước cây thánh giá treo một cây đèn La Mã nhỏ (3). Chính mẹ Áctơ đã qua đời trong buồng này. Một bức chân dung của bà treo trên tường ở một bên giường. Trên bàn, một di vật khác của bà là chiếc bát sứ, trong cắm đầy hoa lan tím, một thứ hoa bà rất ưa thích. Bà Gơlêđixơ mất đã tròn một năm nhưng những người Ý làm trong nhà vẫn chưa quên bà.

Áctơ lấy trong bọc hành lí ra một bức tranh đóng khung bọc cẩn thận. Đó là bức chân dung truyền thần của Môngtaneli gửi từ La Mã về cách đây vài hôm. Áctơ vừa định giở vật quý ấy ra thì thấy một người hầu nhỏ của Giuli bưng vào một chiếc khay. Trên khay, bà ở nấu bếp già người Ý, người đã phục vụ bà Gơlêđixơ mãi cho đến ngày bà chủ mới khắc nghiệt xuất hiện trong nhà này, đã dọn đầy những thức ăn ngon mà theo bà cậu chủ quý mến có thể ăn, không phạm giới răn của Hội Thánh. Áctơ từ chối hết thảy, chỉ nhón một chiếc bánh nhỏ. Cậu hầu nhỏ là cháu Ghípbơn, mới ở Anh sang. Cậu cười một cách láu lỉnh, bưng khay ra khỏi phòng. Cậu đã gia nhập phe Tin lành dưới bếp.

Áctơ bước vào cửa tò vò, quỳ trước thánh giá, cố sức định thần để cầu kinh và suy nghĩ về Chúa. Nhưng qua một hồi rất lâu, Áctơ vẫn chưa định thần được. Đúng như Tômátxơ nói, Áctơ thực quá khắc khổ. Những nỗi kham khổ mà anh tự gây cho mình đã có tác dụng như rượu mạnh. Áctơ hơi rùng mình, tự thấy cây thánh giá như chơi vơi trong sương mù. Nguyện kinh một hồi lâu anh mới cầm trí được để ăn năn tội. Cuối cùng, sự mệt mỏi cực độ của cơ thể đã áp đảo sự căng thăng của thần kinh. Áctơ thiu thiu ngủ, tâm hồn yên tĩnh, thoát khỏi được những ý nghĩ xao xuyến và nặng nề.

Áctơ đương ngủ say thì có tiếng đập cửa phòng rất mạnh và gấp.

“Lại Têrêda chứ ai”, anh nghĩ như vậy và uể oải trở mình thì lại có tiếng đập cửa. Áctơ giật thót, bừng tỉnh. Một giọng đàn ông gọi bằng tiếng Ý: “Cậu ơi! Cậu! Dậy ngay đi, trời ơi!”

Áctơ nhảy khỏi giường:

- Cái gì thế! Ai đấy?

- Tôi đây, Gian Batítstơ đây ạ. Lạy Đức mẹ đồng trinh phù hộ cho cậu, xin cậu dậy nhanh lên!

Áctơ vội vã mặc quần áo và mở khoá cửa. Anh còn đang ngơ ngác nhìn bộ mặt tái xanh tái xám của người xà ích thì đã nghe thấy tiếng bước chân và tiếng sắt loảng xoảng ngoài hành lang và tức khắc anh hiểu hết mọi việc xảy ra.

Áctơ bình tĩnh hỏi:

- Họ đến tìm tôi phải không?

- Họ đến tìm cậu đấy! Nhanh lên, cậu ơi! Cần cất giấu gì không? Tôi xin giúp cậu...

- Tôi chẳng có gì phải cất giấu cả, các anh tôi đã biết chưa?

Ở đầu hành lang, bộ quần áo lính sen đầm đầu tiên đã hiện ra.

- Ông nhà đã bị gọi dậy. Cả nhà đều dậy cả rồi. Khổ chưa, khổ biết chừng nào lại nhằm vào ngày thứ sáu tuần Thánh nữa chứ. Xin các Thánh phù hộ cho chúng con!

Gian Batítstơ oà lên khóc. Áctơ tiến lên mấy bước về phía những tên sen đầm đang gươm giáo loảng xoảng tiến vào phòng. Theo sau họ là đám người ở, quần áo xộc xệch, run lẩy bẩy. Lũ sen đầm vây lấy Áctơ. Đi cuối cùng đoàn người lạ lùng ấy là ông bà chủ nhà. Ông đi dép lê, mặc áo ngủ, bà quấn chiếc áo choàng dài, đầu đầy giấy uốn tóc. “Thật y như bầy súc vật chạy đi tìm thuyền để lánh nạn đại hồng thủy thứ hai vậy (4); kìa, lại thêm một đôi vợ chồng thú vật ngộ nghĩnh đến nữa kia!” Ý nghĩ ấy thoáng hiện khi Áctơ thấy những bộ mặt ngây ngô đó. Nhưng hiểu rằng cười trong giờ phút nghiêm trọng này là không đúng lúc nên anh cố bấm bụng nhịn.

- “Ave, Maria, Regina, Coeli...” (5)

Áctơ thầm cầu nguyện và quay mặt đi để khỏi trông thấy và khỏi phì cười về những mảnh giấy uốn tóc đang phập phồng trên đầu Giuli.

Bớctơn tiến lại gần viên sĩ quan sen đầm nói:

- Xin ông cho biết tại sao các ông lại dùng vũ lực xông vào nhà riêng như thế này? Tôi xin báo cho các ông biết trước là nếu các ông không giải thích được thoả đáng thì tôi buộc đi thưa ông đại sứ Anh.

Viên sĩ quan lạnh lùng nói:

- Tôi chắc lời giải thích của chúng tôi sẽ thoả mãn được cả ông và đại sứ Anh nữa.

Hắn đưa cho Giêmxơ giấy ra lệnh bắt chàng sinh viên khoa triết học tên là Áctơ Bớctơn.

- Nếu ông cần giải thích gì thêm thì tôi khuyên ông đến hỏi ông chánh sen đầm.

Giuli giật tờ giấy trong tay chồng, đọc lướt qua rồi xỉa xói vào mặt Áctơ với một vẻ thô bỉ của một mụ quý phái lịch thiệp lúc nổi cơn tam bành.

- Mày làm nhơ nhuốc gia đình tao! – mụ ta tru tréo – Bây giờ hàng phố kẻ chợ phỉ nhổ vào

mặt chúng tao như thế nào? Lòng ngoan đạo của chúng mày dẫn mày tới đâu? Vào tù à? Không ngờ con mẹ đi đạo Thiên chúa lại đẻ ra cái giống con như mày...

Viên sĩ quan cắt ngang:

- Thưa bà, bà không được phép nói chuyện bằng tiếng nước ngoài với kẻ bị bắt.

Nhưng câu nói của viên sĩ quan bị át đi bởi những lời kết tội mà Giuli tuôn ra hàng tràng tiếng

Anh.

- Tao đã biết trước mà! Ăn chay, đọc kinh, cầu nguyện, rặt một thứ che đậy! Tao biết tỏng từ lâu mà!

Có lần bác sĩ Uơren đã ví Giuli như một món xà lách đổ nhiều dấm. Áctơ thấy lợm giọng vì giọng nói the thé của Giuli và chợt nhớ đến lời so sánh ấy.

Áctơ nói:

- Chị không cần phải nói thế. Chị không việc gì mà sợ lôi thôi. Ai cũng biết anh chị chẳng dính dáng gì đến việc này đâu...

Quay về những tên sen đầm anh nói:

- Chắc các ông muốn khám đồ đạc của tôi? Tôi chẳng có gì giấu giếm cả.

Trong khi lính sen đầm khám phòng, lục ngăn kéo, đọc thư, xem sổ ghi bài ở trường đại học, thì Áctơ ngồi ở mép giường. Anh hơi xúc động nhưng không lo lắng gì.

Việc khám xét chẳng làm cho Áctơ lo ngại. Những thư từ nào có thể liên luỵ đến người khác, Áctơ đều đã đốt cả. Giờ đây, ngoài mấy bài thơ chép tay nửa cách mạng, nửa thần bí và hai ba số “nước Ý trẻ”, lính sen đầm chẳng tìm thấy cái gì có thể thưởng công được cho việc lục soát của chúng cả.

Sau một hồi kèo nhèo trước những lời khuyên của Tômátxơ, Giuli mới chịu đi ngủ. Vẻ đài các khinh bỉ, Giuli lướt qua mặt Áctơ. Giêmxơ ngoan ngoãn theo sau.

Từ nãy đến giờ Tômátxơ vẫn đi đi lại lại trong phòng cố làm ra vẻ thản nhiên. Khi vợ chồng Giêmxơ ra rồi, Tômátxơ tiến lại chỗ viên sĩ quan xin phép nói chuyện với kẻ bị bắt. Viên sĩ quan gật đầu đồng ý. Tômátxơ tới chỗ Áctơ, khàn khàn nói:

- Chuyện xảy ra thật lôi thôi quá! Tôi rất lấy làm phiền lòng.

Áctơ ngước nhìn Tômatxơ với đôi mắt trong như một buổi trưa hè tươi nắng. Anh nói:

- Lúc nào anh cũng tốt với em. Anh không có gì phải phiền lòng. Em chẳng sao đâu.

Tômátxơ giật mạnh ria mép và ra cái điều quyết định nói thẳng:

- Chú Áctơ, nghe tôi bảo! Việc này có dính dáng đến tiền nong không? Nếu có thì tôi...

- Sao lại có thể tiền nong được? Tất nhiên, không.

- Vậy thì chính trị phải không? Tôi chắc thế. Thôi thì biết làm thế nào bây giờ... Chú đừng thất vọng và cũng đừng chấp chị Giuli làm gì. Chắc chú cũng đã biết miệng lưỡi chị ấy rồi. Nếu cần tôi giúp tiền nong hoặc gì đó, thì chú cứ cho tôi biết.

Áctơ chìa tay cho Tômatxơ bắt, và Tômatxơ bước ra khỏi phòng. Y cố làm ra vẻ phớt đời nên bộ mặt y lại càng thêm thộn hơn lúc nào hết.

Trong khi đó, bọn sen đầm đã khám xét xong. Viên sĩ quan bảo Áctơ mặc áo khoác ngoài. Áctơ định bước ra khỏi phòmg nhưng bỗng dừng lại và ngập ngừng ở ngưỡng cửa, anh thấy khổ tâm phải từ giã phòng cầu kinh của mẹ trước mặt bọn sen đầm.

Anh nói:

- Các ông có thể ra phòng ngoài một chút không? Tôi không chạy trốn được, mà cũng chẳng có gì giấu giếm cả.

- Tiếc rằng chúng tôi không có quyền để kẻ bị bắt ở lại một mình.

- Thôi thế cũng được.

Áctơ bước vào cửa tò vò, quỳ gối, hôn chân thánh giá và khấn cầu:

- Lạy chúa hãy cho con có đủ sức để trung thành đến cùng.

Viên sĩ quan đứng cạnh bàn ngắm nhìn bức ảnh của Môngtaneli, rồi hất hàm hỏi:

- Người thân thuộc của anh đấy à?

- Không, đó là cha linh hồn của tôi, đức giám mục mới tại Brixighêla.

Những người Ý làm trong nhà lo sợ và buồn rầu đứng đợi Áctơ ở thang gác. Cũng như mẹ, anh được mọi người trong nhà yêu mến. Giờ đây những người làm xúm lại quanh Áctơ, buồn thương hôn tay và áo Áctơ. Gian Batítstơ cũng đứng đó, nước mắt trào ra và rỏ cả xuống chòm râu bạc. Người nhà Bớctơn chẳng có ai ra tiễn cả. Sự lạnh nhạt đó càng làm nổi bật lòng trung thực và tình yêu thương của những người ở khiến Áctơ suýt phải khóc trong khi nắm lấy bàn tay đang giơ ra cho anh.

- Thôi chào bác Gian Batítstơ, nhờ bác hôn giùm các cháu nhé! Chị Têrêda ở lại nhé! Hãy cầu nguyện cho tôi, và mong Chúa phù hộ cho mọi người! Thôi chào tất cả, tôi đi đây...

Áctơ chạy nhanh xuống cầu thang.

Một lát sau, chiếc xe ngựa chuyển bánh, trên bậc cửa chỉ còn lại một nhóm đàn ông thẫn thờ và đàn bà khóc thút thit đứng trông theo.

Chú thích:
(1) Ngày thứ sáu chịu nạn: ngày thứ sáu trước ngày chủ nhật của lễ Phục sinh, ngày Giêsu bị đóng đinh trên cây thánh giá.
(2) Nguyên văn tiếng Ý: signorio, tiếng đầy tớ gọi con cái chủ nhà.
(3) Cây đèn kiểu La Mã xưa, thường đặt trước ảnh thờ.
(4) Một điều trích trong Kinh Thánh. Khi có đại hồng thuỷ trên khắp thế gian, súc vật do Nôê dẫn đầu lên chiếc thuyền đi lánh nạn.
(5) Câu đầu trong một kinh đạo Thiên chúa bằng tiếng La tinh: Kính mừng nữ vương Maria trên trời.

RUỒI TRÂU
Chương 6

Áctơ bị giải tới một pháo đài lớn thời trung cổ, ở ngay cạnh bến tàu. Đời sống trong tù thế mà cũng chẳng đến nỗi. Xà lim ẩm thấp và đen tối, nhưng Áctơ đã từng lớn lên trong toà nhà ở phố Cung điện, nên ngột ngạt, hôi thối và chuột bọ đối với anh cũng chẳng lấy gì làm lạ. Trong tù cho ăn rất ít và kém nhưng chẳng bao lâu Giêmxơ đã xin phép được gửi mọi thứ cần dùng đến cho cậu em. Áctơ bị giam một mình trong xà lim. Tuy canh gác chẳng nghiêm ngặt lắm nhưng anh vẫn không hiểu rõ mình bị bắt vì cớ gì. Dù sao từ khi vào tù đến nay tâm hồn anh vẫn bình tĩnh. Trong tù không được đọc sách nên anh luôn luôn cầu kinh và suy nghĩ về đạo, kiên nhẫn chờ đợi mọi việc xảy ra.

Một hôm, lính gác mở cửa xà lim và nói:

- Mời ra!

Áctơ hỏi lai hai ba lần nhưng chỉ nghe một câu trả lời: “Không có quyền nói chuyện”. Anh đành chịu phép, đi theo người lính đi vào mảnh sân, những hành lang và thang gác ngoắt ngoéo và hôi hám. Cuối cùng anh bị dẫn vào một căn phòng lớn sáng sủa, trong đó có ba người mặc binh phục đang ngồi tán chuyện uể oải sau một chiếc bàn dài chất đầy giấy. Thấy Áctơ bước vào họ liền ra vẻ quan trọng. Người cao tuổi nhất trong bọn họ là một viên đại tá có tuổi nhưng rất bảnh bao, ria mép đã bạc. Y chỉ cho anh chiếc ghế phía bên kia bàn rôi bắt đầu thẩm vấn.

Áctơ chắc họ sẽ doạ dẫm, rỉa rói chửi mắng nên đã sẵn sàng kiên nhẫn đối phó cho xứng với phẩm chất của mình. Nhưng sự thật thì ngược lại, và anh cảm thấy dễ chịu. Viên đại tá tỏ ra rất đường bệ, lạnh lùng một cách quan liêu nhưng lại vô cùng lễ phép.

Đầu tiên là những câu hỏi thường lệ: tên gì, bao nhiêu tuổi, quốc tịch gì, địa vị xã hội ra sao:

họ ghi đều đều từng câu trả lời một.

Áctơ đã bắt đầu thấy chán ghét và sốt ruột thì viên đại tá chợt hỏi:

- Nào, cậu Bớctơn, thế cậu biết gì về “Nước Ý trẻ”?

- Theo chỗ tôi biết thì đó là một đoàn thể chính trị, xuất bản báo tại Mácxây, phát hành báo ở

Ý để cổ động nhân dân khởi nghĩa và đánh đuổi quân đội Áo ra khỏi biên giới.

- Cậu có đọc báo ấy chứ?

- Phải, tôi có quan tâm đến vấn đề đó.

- Vậy khi đọc báo cậu có nghĩ mình đã làm điều bất hợp pháp không?

- Tất nhiên có,

- Mấy tờ báo thấy trong phòng cậu lấy ở đâu ra?

- Tôi không thể nói với ông được.

- Cậu Bớctơn, đây không phải chỗ nói “tôi không thể”. Cậu phải trả lời mọi câu hỏi của tôi.

- Nếu chữ “tôi không thể” không vừa ý ông thì tôi nói là “tôi không muốn” vậy.

- Nếu cậu cứ nói kiểu đó với tôi thì cậu sẽ phải lấy làm hối tiếc.

Không thấy Áctơ trả lời, y tiếp:

- Tôi có thể nói thêm rằng, theo tài liệu trong tay chúng tôi thì quan hệ giữa cậu với đoàn thể

đó gần hơn nữa chứ không chỉ đọc sách báo quốc cấm mà thôi đâu. Tốt hơn là cậu cứ thẳng

thắn thú nhận cả đi. Đằng nào chúng tôi cũng sẽ biết sự thật và cậu sẽ thấy rằng dù chống chế và chối cãi để ẩn núp thì không có ích gì.

- Tôi chẳng muốn ẩn núp. Các ông muốn biết điều gì?

- Trước hết, cậu hãy nói cho tôi biết: cậu là người nước ngoài thì cậu đã làm cách nào mà

dính dáng vào chuyện này?

- Tôi nghĩ nhiều về những vấn đề ấy và tôi đã đi đến những kết luận nhất định.

- Ai thuyết phục cậu vào đoàn thể này?

- Chẳng ai thuyết phục cả. Đó là do ý muốn của cá nhân tôi.

- Đừng giở trò loanh quanh với tôi – Viên đại tá xẵng giọng. Chắc y đã bắt đầu mất kiên nhẫn – Không có ai tham gia hội kia mà không có người giới thiệu. Anh nói với ai để xin vào tổ chức đó?

Im lặng.

- Anh có sẵn lòng trả lời không?

- Nếu ông hỏi kiểu đó thì tôi sẽ không trả lời.

Giọng Áctơ có vẻ bực bội. Một cơn giận kì lạ xâm chiếm Áctơ. Lúc ấy anh đã biết có nhiều vụ bắt bớ tại Livoócnô và Pidơ, mặc dầu chưa hình dung được phạm vi của tai hoạ đã thực sự lên tới mức nào. Nhưng những tin đến tai Áctơ cũng đủ làm anh bồn chồn lo lắng cho số phận của Giêma và các bạn khác.

Thái độ lễ phép giả dối của viên sĩ quan, cách nói ngoắt ngoéo, lối hỏi thâm độc tẻ ngắt và những câu trả lời đánh trống lảng làm cho Áctơ nôn nao bực tức. Thêm vào đó, tiếng giày đinh lộp cộp của tên lính gác ngoài cửa lại càng làm cho anh thêm khó chịu.

Bỗng viên đại tá hỏi:

- Vậy lần cuối cùng anh gặp Giôvani Bôla vào lúc nào? Ngay trước khi anh dời Pidơ phải không?

- Tôi không quen ai có tên như vậy cả.

- Sao? Không quen Giôvani Bôla hả. Anh quen hắn lắm chứ! Người thanh niên, cao lớn, râu cạo

nhẵn, hắn là bạn học của anh mà.

- Tôi quen làm sao với tất cả sinh viên được.

- Ồ, nhưng nhất định là anh biết Bôla. Nhìn đây, chữ hắn viết đây. Thấy không? Hắn quen anh lắm.

Và viên đại tá hờ hững đưa cho Áctơ một tờ giấu trên đề 2 chữ “Biên bản”, dưới kí “Giôvani Bôla”. Áctơ đưa mắt lướt nhanh từ trên xuống dưới – và bắt gặp tên mình. Anh ngước mắt nhìn một cách ngạc nhiên.

- Ông bắt tôi phải đọc ư?

- Lẽ tất nhiên. Việc đó có dính líu đến anh.

Áctơ bắt đầu đọc, các viên sĩ quan thì im lặng theo dõi nét mặt của anh. Tài liệu đó là những lời khai trả lời một loạt câu hỏi. Rõ ràng, Bôla cũng đã bị bắt! Những lời đầu tiên rất thông thường. Tiếp đó là một lời khai ngắn về quan hệ giữa Bôla với đoàn thể, về việc phát hành sách báo cấm tại Livoócnô và các cuộc họp sinh viên. Tiếp nữa, Áctơ đọc thấy: “Trong số những người theo chúng tôi có cả một thanh niên người Anh tên là Áctơ Bớctơn, con một chủ hãng tàu giàu có ở Livoócnô”

Máu trào lên mặt Áctơ. Thế là Bôla đã cung khai anh! Chính gã Bôla đã nhận trách nhiệm khởi xướng trọng yếu ấy, chính cái tay đã tổ chức Giêma… và đã yêu Giêma ấy! Áctơ buông tờ giấy và đăm đăm nhìn xuống sàn nhà.

Viên đại tá lễ phép nói:

- Tôi mong tài liệu nhỏ ấy có thể làm sáng trí nhớ anh ra.

Áctơ lắc đầu. Anh lạnh lùng và cứng cỏi nhắc lại:

- Tôi không hề biết người này. Chắc đây chỉ là một sự nhầm lẫn.

- Lầm lẫn ư? Láo! Anh Bớctơn, anh nên hiểu rằng phong độ hiệp sĩ và tinh thần Đông Kisốt (1) là rất tốt theo nghĩa của nó nhưng nếu đi quá mức thì lại chẳng có ích lợi gì. Đó là một sai lầm mà thanh niên các anh thường mắc phải. Anh thử nghĩ lại xem: có nên vì chuyện cỏn con ấy mà làm liên luỵ tới mình và phá hoại tương lai của mình không? Anh thương hại một kẻ cung khai anh. Anh thấy chưa? Khi đã khai thì nó có kiêng nể gì anh đâu!

Giọng viên đại tá nói như châm chọc. Một dự đoán chợt loé ra trong óc Áctơ, làm anh giật mình.

Áctơ thét:

- Đó là sự dối trá! Đó là một sự bịa đặt! Trông mặt các người ta đủ biết! Các người hèn nhát… Các người định hãm hại một trong những kẻ đã bị các người bắt hoặc là các người định đưa ta vào tròng! Đồ bịa đặt, đồ ăn gian nói dối, đồ khốn nạn…

- Câm ngay! – Viên đại tá điên cuồng bật khỏi ghế hét lên. Cả bè lũ hắn cũng đứng phắt dậy.

Viên đại tá nói với một tên trong bọn:

- Đại uý Tômaxi, gọi lính gác vào đây. Quẳng thằng này vào ngục tối, giam liền mấy ngày. Tôi phải cho nó một bài học đích đáng, phải dạy cho nó biết điều mới được.

Ngục tối là một chiếc hầm nhỏ âm u, ẩm ướt, bẩn thỉu, ở sâu dưới đất. Viên đại tá định dạy cho Áctơ biết điều, nhưng điều đó lại làm cho Áctơ tức giận đến cực độ. Sinh trưởng trong một gia đình giàu có, Áctơ quen tính sạch sẽ trong mọi việc. Viên đại tá bị xúc phạm kia hoàn toàn có thể thoả mãn về cảm giác đầu tiên mà những bức tường nhầy nhụa, lúc nhúc ròi bọ, mặt đất đầy rác rưởi bẩn thỉu, mùi rêu mốc, mùi nước cống rãnh và gỗ mục hôi thối đem đến cho Áctơ. Chúng đẩy Áctơ vào hầm rồi đóng sập cửa lại. Áctơ giơ hai tay lò dò bước về phía trước, anh rùng mình vì ghê tởm khi ngón tay đụng phải bức tường nhầy nhụa. Trong bóng tối,

anh lần mò tìm chỗ đỡ bẩn nhất để ngồi.

Suốt ngày Áctơ ngồi trong ngục tối im lìm không một tiếng động; đêm trôi qua mà chẳng thấy biến chuyển gì. Cách biệt hẳn với thế giới bên ngoai, Áctơ dần dần mất ý niệm về thời gian. Và sáng hôm sau, khi tiếng chìa khoá tra vào ổ kêu lách cách, những con chuột hốt hoảng chạy rúc vào chân, thì Áctơ bàng hoàng nhỏm dậy. Tim anh đập rộn ràng, tai ù lên như đã xa rời ánh sáng và tiếng động hàng mấy tháng ròng.

Cửa mở, một ánh đèn yếu ớt le lói rọi vào hầm cũng đủ làm cho Áctơ chói mắt. Cai ngục đem vào một mẩu bánh và một bát nước. Áctơ tiến lên chắc mẩm thế nào cũng được ra khỏi nơi này. Nhưng anh chưa kịp nói gì, thì người cai ngục đã giúi cho anh mẩu bánh mì với bát nước rồi quay người lặng lẽ bước ra và khoá chặt cửa lại.

Áctơ dậm chân. Lần đầu tiên trong đời anh cảm thấy mình điên tiết. Giờ phút càng trôi qua, ý niệm của anh về không gian và thời gian càng thêm mờ mịt. Đối với anh, bóng tối là vô cùng vô tận, cuộc sống như ngừng hẳn lại.

Chiều thứ ba cai ngục lại vào lần này có thêm một tên lính. Đầu choáng váng, mắt hoa, Áctơ nhìn lên, anh phải che lấy mắt để tránh làn ánh sáng không quen thuộc ấy. Anh cố tình xem mình đã ở trong nhà mồ này bao nhiêu tuần lễ, nhưng cảm thấy mờ mịt, không sao tính được.

Cai ngục lạnh lùng khô khan noi:

- Mời ra…

Áctơ đứng dậy bước theo như một cái máy. Anh choáng váng một cách kì lạ, chân nam đá chân chiêu như người say rượu. Cai ngục định dìu Áctơ leo lên cầu thang nhỏ và dốc ngược để chui ra khỏi hầm. Áctơ gạt tay y ra. Nhưng, đến bậc cuối cùng thì Áctơ bỗng thấy chóng mặt, lảo đảo. Nếu cai ngục không nắm vội lấy vai anh thì anh đã ngã lộn xuống.

*

* *

Một giọng vui vẻ cất lên:

- Không sao, khỏi ngay thôi. Anh nào chui ra cũng đều thế cả.

Khi được té nước vào mặt lần thứ hai, Áctơ cũng vẫn phải cố vùng vẫy rất khó nhọc mới thở

được. Đêm tối hình như đã bị rũ sạch khỏi mình anh, vỡ loảng xoảng ra từng mảnh một.

Áctơ tỉnh ngay. Anh gạt cai ngục ra, bước vững vàng ra hành lang và cầu thang. Họ dừng lại giây lát trước một cánh cửa. Khi cánh cửa mở ra, Áctơ bị dẫn vào căn phòng đèn đuốc sáng choang, nơi anh đã bị hỏi cung lần đầu. Nhưng Áctơ chưa nhận ra ngay. Anh bỡ ngỡ nhìn chiếc bàn giấy tờ đầy ngộn và những viên sĩ quan vẫn ngồi ở chỗ cũ.

Viên đại tá nói:

- A, cậu Bớctơn. Chắc lần này chúng ta nói chuyện với nhau dễ hơn nhỉ! Sao, cậu có thích ngục tối không? Chắc chẳng được sang trọng như phòng khách của ông anh cậu nhỉ?

Nhìn bộ mặt tươi cười của y, một ý muốn điên rồ xui giục Áctơ nhảy xổ vào lão ria bạc chải chuốt ấy mà cắn vào cổ y.

Chắc viên đại tá thấy được điều đó trên nét mặt Áctơ nên y đổi giọng ngay:

- Anh Bớctơn, ngồi xuống và uống nước đi. Anh đang xúc động lắm, tôi biết.

Áctơ đẩy cốc nước mà người ta đưa cho anh, tựa khuỷu tay vào bàn, tay bóp trán, anh cố định thần. Viên đại tá chăm chú nhìn Áctơ. Cặp mắt từng trải của lão ta nhìn thấy tay anh run lẩy bẩy, môi run rẩy, mái tóc ướt sũng và đôi mắt lờ đờ. Tất cả những cái đó chứng tỏ thể lực anh đã suy nhược, não cân anh đã rối loạn rồi.

Sau mấy phút im lặng, viên đại tá lại ôn tồn:

- Anh Bớctơn, bây giờ chúng ta trở lại vấn đề hôm trước. Lần ấy giữa chúng ta đã xảy ra một vài chuyện không vui. Nhưng bây giờ tôi phải nói ngay với anh trước rằng nguyện vọng duy nhất của tôi là khoan hồng. Nếu anh tỏ ra thoả đáng và biết điều thì tôi cam đoan là sẽ không có gì quá khắc nghiệt với anh cả.

- Các ông muốn gì tôi?

Áctơ nói với giọng cục cằn, uất ức khác hẳn ngày thường.

- Tôi chỉ muốn anh nói thẳng, nói thật những điều anh biết về đảng ấy và những đảng viên của đảng ấy. Trước hết, anh quen với Bôla từ bao giờ?

- Tôi chưa bao giờ gặp người ấy trong đời. Tôi hoàn toàn không biết một tí gì về anh ta.

- Thật chứ? Thôi được, ta trở lại vấn đề này sau. Vậy anh có biết người thanh niên nào là

Cáclô Bini không?

- Chưa bao giờ tôi nghe nói tới người ấy.

- Thế thì lạ thật. Còn Phơransetscô Neri, anh có biết không?

- Lần đầu tiên tôi nghe nói đến tên ấy.

- Nhưng chẳng phải bức thư chính tay anh viết gửi cho hắn là gì đây! Nhìn xem

Áctơ ngó qua bức thư rồi gạt qua một bên.

- Bức thư ấy anh biết chứ?

- Không.

- Anh chối không nhận là chữ của anh à?

- Tôi chẳng chối gì cả. Tôi không nhớ bức thư ấy là gì.

- Vậy anh có nhớ bức thư này không?

Chúng đưa bức thư thứ hai, Áctơ nhận ra đấy là thư mình viết cho một người bạn học dạo mùa thu vừa rôi.

- Không.

- Và anh cũng không biết người nhận thư là ai nữa à?

- Không biết.

- Trí nhớ anh kém lạ!

- Tôi mắc tật ấy từ lâu rồi.

- Thế à! Nhưng có hôm tôi nghe một giáo sư đại học nói anh chẳng có kém gì đâu, trái lại, thông minh nữa là khác.

- Chắc tại các ông xét trí thông minh của người ta bằng con mắt mật thám. Các giáo sư đại học dùng chữ nói trên theo một nghĩa khác.

Giọng bực tức mỗi lúc một tăng rõ rêt trong những câu trả lời của Áctơ. Đói, không khí ngột ngạt và những đêm mất ngủ đã hút kiệt sức khỏe của anh. Anh đau rời rã từng khớp xương một mà lời nói của viên đại tá thì không ngừng chà xát cân não anh, khiến hai hàm răng anh siểt chặt lại như phấn cứng xiết vào bảng đen.

Viên đại tá ngả lưng vào ghế nghiêm nghị nói:

- Bớctơn, anh lại quẫn rồi. Tôi cảnh cáo anh một lần nữa là kiểu nói ấy không tốt lành gì đâu.

Anh đã nếm mùi ngục tối, chắc không muốn nếm lần thứ hai nữa.Tôi nói thẳng cho anh biết: nếu xử nhũn không ăn thua thì tôi phải xử tệ. Anh nên nói rằng tôi có đủ chứng cớ và chắc chắn rằng một vài thanh niên trong số những người mà tôi đọc tên đã bí mật đưa sách báo cấm qua hải cảng này. Anh có liên lạc với bọn chúng. Vậy anh có tự khai hết ra không?

Áctơ càng cúi gục đầu xuống. Một nỗi uất ức điên cuồng, mù quáng cựa quậy trong người anh như một sinh vật. Và Áctơ sợ mình mất bình tĩnh hơn là sợ những sự hăm doạ. Lần đầu tiên Áctơ cảm thấy rõ rằng sự thận trọng theo lối quân tử và sự nhịn nhục kiểu đạo Thiên chúa có thể phản lại anh, nên anh đâm ra ghê sợ cả bản thân mình.

Viên đại tá nói:

- Tôi đợi anh trả lời.

- Tôi chẳng có gì trả lời ông cả.

- Vậy anh nhất định không chịu trả lời chứ?

- Tôi chẳng nói gì hết.

- Nếu thế thì tôi lại phải buộc lòng ra lệnh nhốt anh vào hầm tối cho tới khi nào anh tỉnh ngộ mới thôi. Nếu anh càng không chịu biết điều thì tôi sẽ hạ lệnh cùm anh lại.

Áctơ ngẩng đầu, toàn thân run lên, và chậm chạp nói:

- Các ông muốn làm gì thì làm nhưng đối xử với một kiều dân Anh như vậy lại không có chứng

cứ gì về tội lỗi của người ta thì liệu vị đại sứ Anh có để cho các ông yên không?

Sau cùng, Áctơ bị dẫn về xà lim cũ và anh lăn ra giường ngủ ngay một mạch đến sáng hôm sau. Chúng không cùm mà cũng chẳng nhốt Áctơ vào cái lỗ ngục tối đáng sợ ấy, nhưng qua mỗi lần thẩm vấn thì mối thù giữa anh và tên đại tá ngày một sâu thêm.

Mặc dù Áctơ luôn cầu xin Chúa cho anh đủ sức tự chiến thắng sự giận dữ trong lòng, mặc dù Áctơ suy nghĩ thâu đêm về đức nhẫn nhục và tính khiêm nhường của Đức chúa Giêsu nhưng đều vô hiệu quả. Mỗi khi người ta dẫn Áctơ vào căn phòng dài và trống trải nơi cái bàn phủ dạ xanh vẫn đứng nguyên chỗ cũ, mỗi khi Áctơ trông thấy bộ ria nhuộm của viên đại tá, thì tinh thần phi cơ đốc lại xâm chiếm lòng Áctơ, thúc đẩy anh thốt ra những câu trả lời hiểm hóc và khinh mạn. Áctơ ngồi tù chưa được một tháng mà anh và viên đại tá căm thù nhau đến nỗi cứ trông thấy nhau là nổi giận.

Cuộc chiến tranh nhỏ nhưng luôn luôn gay gắt ấy đã ảnh hưởng sâu sắc đến thần kinh Áctơ. Áctơ biết chúng theo dõi anh rất chặt. Áctơ nhớ lại những câu chuyện ghê gớm kể rằng người ta thường cho ngầm những kẻ bị bắt ăn cà độc dược (2) để nghe họ nói mê nên Áctơ hầu như không ăn ngủ gì cả. Đêm đến, hễ nghe tiếng chuột chạy bên mình, Áctơ lại toát mồ hôi vùng dậy tưởng chừng có kẻ manh tâm nào núp trong phòng để nghe ngóng xem anh có nói mê gì không.

Rõ ràng bọn sen đầm cố bắt nọn Áctơ để kết tội Bôla. Áctơ rất lo hớ hênh bị mắc lừa chúng đến nỗi thần kinh quá căng thẳng, làm anh rất có thể lại thực sự rơi vào nguy cơ đó. Tên của Bôla vang lên văng vẳng trong tai Áctơ suốt ngày đêm; Áctơ đọc ra tên Bôla ngay cả lúc cầu kinh. Đáng lẽ đọc “Maria” thì anh lại thốt ra “Bôla”. Nhưng nguy hơn cả là đức tin tôn giáo cùng với thế giới bên ngoài mỗi ngày một xa rời anh. Anh cầu nguyện suy tưởng hàng mấy tiếng đồng hồ liền để gắng hết sức bấu víu lấy chỗ dựa cuối cùng ấy. Nhưng ý nghĩ của anh lại càng luôn luôn trở về với Bôla và anh chỉ nhai đi nhai lại các câu kinh một cách máy móc.

Người cai ngục già là nguồn an ủi lớn nhất của Áctơ. Lúc đầu, ông lão người nhỏ bé, hơi béo và hói trán ấy cố làm ra vẻ nghiêm khắc. Nhưng tính hiền lành toả ra từ mỗi nét trên bộ mặt đầy đặn của cụ đã dần dần lấn át cả sự chăm lo về chức vụ. Chẳng bao lâu cụ đã chuyển giúp thư từ phòng giam nọ sang phòng giam kia.

Một buổi chiều giữa tháng năm, cai ngục bước vào phòng với vẻ âm thầm, buồn bực làm cho

Áctơ phải ngạc nhiên.

Áctơ hỏi:

- Cụ Enricô, cái gì thế? Hôm nay cụ làm sao thế?

- Chẳng sao cả.

Cụ Enricô cáu kỉnh trả lời rồi tới bên giường Áctơ lật đệm lên.

- Sao cụ lại lấy đệm của cháu đi? Chúng bắt cháu sang phòng khác à?

- Không, họ sắp thả cậu ra.

- Thả ra? Hôm nay à? Thả tất cả chứ?... Cụ Enricô?

Áctơ cảm động níu lấy tay cụ, nhưng cụ giận dữ gạt tay ra.

- Cụ Enricô, cụ làm sao thế? Sao cụ không trả lời cháu? Cụ cho bíết, chúng cháu có được thả ra cả không?

Cụ Enricô chỉ đáp lại một tiếng “sì” khinh bỉ.

Áctơ cười, nắm lấy tay cụ.

- Cụ nghe cháu, cụ đừng trêu cháu. Cháu chẳng tức đâu, cụ cứ nói cho cháu biết, các anh em khác thế nào?

Cụ Enricô đang gấp áo cho Áctơ bỗng đặt xuống bàn lẩm bẩm:

- Anh em nào khác? Bôla ấy ư?

- Vâng, Bôla và các anh em khác nữa. Cụ Enricô, cụ làm sao thế?

- À, một đồng chí đã phản anh ta thì làm sao anh ta được thả sớm thế được, thật đáng thương, hừ!

Và cụ Enricô bực dọc lại cầm chiếc áo lên.

Áctơ trợn tròn mắt:

- Một đồng chí làm phản anh ấy ư? Ồ, thật kinh khủng!

Cụ Enricô quay ngoắt lại phía Áctơ:

- Thế, không phải anh phản bội à?

- Cháu ư? Cụ Enricô, cụ tỉnh đấy chứ? Cháu mà phản bội ư?

- Hôm qua khi hỏi cung, người ta nói với Bôla như thế đấy. Nếu thật anh không phản bội thì tôi rất hài lòng. Xưa nay tôi vẫn cho anh là người thanh niên tốt. Thôi, chúng ta đi!

Cụ Enricô bước ra hành lang, Áctơ theo sau. Bỗng một tia sáng loé lên trong óc anh:

- Chúng nó bảo Bôla là cháu khai anh ấy! Lẽ tất nhiên là như thế, cụ Enricô ơi! Với cháu thì chúng lại nói là Bôla khai cháu ra. Nhưng Bôla chẳng đến nỗi khờ dại mà tin lời chúng đâu.

Cụ Enricô dừng bước bên cầu thang, nhìn Áctơ bằng con mắt thử thách:

- Thật không phải như thế chứ?

Áctơ nhún vai:

- Tất nhiên, đó chẳng qua chỉ là nói láo!

- Vậy à! Thế thì lão vui lòng lắm, con ạ. Lão nhất định sẽ tin cho Bôla nhưng con nên biết chúng nói với Bôla... rằng là... con khai Bôla vì con ghen. Hình như hai đứa chúng mày cùng yêu một người con gái thì phải.

Áctơ gấp gáp, khẽ nhắc lại:

- Chúng nó nói láo! Cùng yêu một người con gái!... Ghen! Tại sao chúng nó biết? Tại sao chúng nó biết hở cụ?

- Con đợi lão một chút! – Cụ Enricô dừng chân ở đầu hành lang dẫn tới phòng thẩm vấn và thì thào:

– Lão tin con, nhưng hãy cho lão hay một điều này nữa. Lão biết con theo đạo Thiên chúa.

Vậy lúc xưng tội con có nói gì không?

- Chúng nó nói láo! – Lần này giọng Áctơ như rít lên thành một tiếng nức nở.

Cụ Enricô nhún vai rồi lại tiến bước.

- Dĩ nhiên là con hiểu rõ hơn lão. Nhưng chẳng phải một mình con là người thanh niên dại dột

ăn phải bả của chúng nó đâu. Giờ đây người ta đang đồn đại rất nhiều về một tên cố đạo nào đó ở Pidơ. Anh em bạn con đang vạch mặt nó. Họ lại còn rải truyền đơn báo cho mọi người biết rằng đó là một tên mật thám.

Cụ mở cửa phòng thẩm vấn. Thấy Áctơ cứ đứng lặng, sững sờ nhìn về phía trước, cụ khẽ đẩy

anh bước qua cửa.

Viên đại tá nhoẻn miệng cười nhe cả hai hàm răng ra, nói:

- Chào cậu Bớctơn. Tôi rất vui lòng chúc mừng cậu. Phơlôrăngxơ đã ra lệnh thả cậu ra. Mời

cậu kí vào tờ giấy này.

Áctơ tiến lại gần viên đại tá. Anh cất giọng trầm trầm, khô khan:

- Tôi muốn biết kẻ nào đã khai tôi ra.

Viên đại tá nhướn mày, nhăn nhở cười:

- Cậu không đoán được à, thử nghĩ xem.

Áctơ lắc đầu. Viên đại tá giơ hai tay tỏ vẻ ngạc nhiên một cách lễ phép:

- Cậu mà không đoán ra thật à? Chính cậu đấy, cậu Bớctơn ạ! Còn ai mà biết được chuyện yêu đương của cậu?

Áctơ lặng lẽ quay mặt đi. Một cây thánh giá bằng gỗ lớn treo trên tường. Áctơ từ từ ngước

nhìn mặt Giêsu. Nhưng đôi mắt anh chẳng tỏ vẻ khẩn cầu, mà chỉ mờ mờ ngạc nhiên tại sao Đấng nhân lành và vô tư này không có sấm sét để quật chết tên thầy cả đã tiết lộ cả bí mật của phép giải tội ấy đi.

Viên đại tá nhã nhặn nói:

- Xin cậu kí nhận giấy tờ cho, chúng tôi sẽ không giữ cậu làm gì nữa. Chắc cậu muốn về nhà cho nhanh, mà tôi thì cũng rất bận. Cả ngày phải đánh vật với vụ thằng Bôla điên rồ này. Chính hắn đã làm cho lòng dạ khoan dung của người ngoan đạo như cậu phải qua một cơn thử thách tàn nhẫn. Chắc hắn sẽ bị kết án nặng... Thôi, chào cậu!

Áctơ kí nhận tờ giấy rồi bước ra không nói nửa lời. Anh lẳng lặng đi theo cụ Enricô ra tới chiếc cổng to lớn và nặng nề đó. Rồi cũng không cả một lời từ biệt cụ, anh bước xuống phía kênh đào có người lái đò đã chờ sẵn. Khi Áctơ đang bước lên bậc đá để ra phố thì một thiếu nữ mặc bộ đồ vải, đội mũ rơm, chìa tay lại đón anh:

- Áctơ! Ôi, sung sướng quá, sung sướng quá!

Áctơ run bắn lên, rụt tay lại.

Mãi sau anh mới cất tiếng gọi, giọng lạc hẳn đi:

- Dim! Dim!!

- Em đợi ở đây đã nửa tiếng rồi. Nghe nói đến bốn giờ thì chúng thả anh ra. Áctơ, sao cứ nhìn em chằm chặp thế? Có điều gì chăng? Làm sao thế? Kìa, anh hãy khoan đi chứ!

Áctơ quay lưng, chầm chậm bước trên đường phố. Thấy vậy, Giêma hốt hoảng chạy theo nắm lấy tay anh:

- Áctơ!

Áctơ dừng bước, ngước đôi mắt kinh hoàng nhìn Giêma.

Nàng khoác tay anh và hai người sánh bước cùng đi, không nói một lời.

Giêma dịu dàng bắt chuyện:

- Áctơ thân mến, nghe Dim nhé. Việc gì mà cứ phải khổ tâm về chuyện hiểu lầm vớ vẩn ấy?

Dim biết anh đau lòng lắm, nhưng mọi người đều hiểu cả...

Áctơ vẫn giọng trầm trầm khô khan:

- Chuyện hiểu lầm nào?

- Ấy, Dim nói bức thư của Bôla ấy mà.

Hai tiếng Bôla làm cho gương mặt Áctơ quắt lại đau đớn.

Giêma nói tiếp:

- Chắc là anh chưa được đọc bức thư ấy? Nhưng có lẽ họ đã nói với anh rồi. Nếu Bôla tưởng

tượng ra những chuyện đó thì thật điên rồ.

- Chuyện gì thế?

- Thế anh không biết thật à? Bôla viết thư nói rằng Áctơ đã lộ ra chuyện tàu bè làm Bôla bị bắt. Thật là bậy! Điều đó ai mà chẳng rõ. Chỉ có người nào không biết Áctơ thì mới tin. Chính vì thế mà Dim đến đây. Dim muốn nói để anh biết rằng trong nhóm của Dim chẳng ai tin bức thư ấy một tí nào cả.

- Giêma! Nhưng việc đó... việc đó có thật đấy!

Giêma từ từ lùi xa Áctơ và đứng lặng người; đôi mắt nàng trợn tròn và tối sầm lại vì sợ hãi.

Mặt nàng trắng bệch như chiếc khăn quàng ở cổ. Một làn không khí im lặng lạnh buốt bủa vây lấy họ như một bức tường bít kín không cho họ nghe tiếng ồn ào và nhìn thấy cảnh nhộn nhịp trên đường phố nữa.

Cuối cùng Áctơ khẽ nói:

- Phải. Tàu bè... Tôi có nói về tàu bè và cả tên Bôla nữa... Ôi! Trời ơi! Trời ơi! Làm thế nào

bây giờ?

Nhưng Áctơ chợt tỉnh và hiểu rằng người đang đứng chết lặng sững sờ nhìn anh là người nào. Dĩ nhiên là Giêma đang nghĩ rằng...

Áctơ bước lại phía nàng, kêu lên:

- Giêma! Giêma chưa hiểu tôi!

Nàng lùi lại, hét:

- Đừng có chạm vào người tôi!

Với một sức mạnh đột ngột, Áctơ nắm lấy tay nàng:

- Trời ơi, Giêma hãy nghe tôi, vì chúa! Không phải tại tôi! Tôi...

- Buông ra! Buông tay tôi ra! Buông ra!

Nàng giật tay ra khỏi tay Áctơ rồi tát vào mặt anh. Một màn sương bao phủ lấy mắt Áctơ. Trong giây lát, anh chỉ còn nhìn thấy bộ mặt tái xám, đau buồn vô hạn của Giêma và thấy nàng chùi tay phải vào váy áo. Rồi màn sương tan đi… Áctơ ngước nhìn chung quanh và chỉ thấy có mình đang đứng trơ ra đó.

Chú thích:
(1) Nhân vật chính trong tác phẩm nổi tiếng “Đông Kisốt” của nhà văn Tây Ban Nha Xécvăngtét (1547 – 1616)
(2) Cà độc dược: một thứ thuốc độc, nuốt vào thì thần kinh sẽ rối loạn, đồng tử trương to.

RUỒI TRÂU
Chương 7

Trời đã tối từ lâu, khi Ác-tơ bấm chuông gọi cửa tòa nhà ở Vi-a Bô-ra. Anh nhớ mình đã lê chân khắp đường phố nhưng chẳng biết đã đi đâu, tại sao lại đi và đi trong bao lâu nữa. Tên hầu nhỏ của Giu-li ra mở cửa ngáp dài rồi nhăn răng ra cười hóm hỉnh, khi thấy vẻ mặt bơ phờ lặng ngắt của anh : ngộ nghĩnh nhỉ, cậu chủ nhà ở tù ra trông chẳng khác gì một gã hành khât say bi tỉ, sống với áo thế kia !

Ác-tơ bước lên cầu thang. Đến tầng thứ nhất anh gặp Gip-bơn đang đi xuống, vẻ chê trách trang nghiêm và khinh khỉnh. Anh lẩm bẩm : " Chào bác". Rồi định lướt tránh qua. Nhưng người như Gíp-bơn đâu có dễ để ai chạm mặt mà đi luôn được. Hắn soi mói nhìn từ mái tóc bù xù đến bộ quần áo lếch thếch của anh và nói :

- Thưa cậu, các ông chủ không có nhà. Các ông đã đi dự dạ hội với bà chủ, chắc phải quãng nửa đêm mới về.

Ác-tơ nhìn đồng hồ : mới chín giờ. À, được! Còn giờ...đủ chán...

- Thưa cậu, bà chủ dặn tôi hỏi cậu có muốn dùng bữa tối không. Bà còn dặn nhắc lại cậu là hãy chờ bà về, bà có chuyện cần nói với cậu tối nay.

- Cám ơn, tôi không ăn. Bác cứ nói với bà ấy là tôi còn thức. Ác-tơ đi lên phòng mình. Không có gì thay đổi. Từ ngày anh bị bắt, chân dung Mông-ta-ne-li anh để trên bàn hôm ấy vẫn y nguyên, thánh giá vẫn dựng trên bàn thờ. Anh ngừng giây lát tại ngưỡng cửa nghe ngóng : ngôi nhà hoàn toàn im ắng, hiển nhiên sẽ chẳng có ai đến quấy rầy anh. Anh nhẹ nhàng bước vào phòng, khóa trái cửa lại.

Thôi, thế là xong. Sẽ chẳng có gì phải lo âu suy nghĩ . Chỉ cần làm sao rũ sạch cái ý thức phiền nhiễu và vô dụng kia đi là xong. Dù sao việc này cũng có vẻ vô mục đích và xuẩn ngốc thật !

Tự tử : óc anh chưa hình thành một quyết định nào, mà cũng chẳng cần phải suy nghĩ nhiều, sự việc đã quá hiển nhiên và tất yếu rồi. Anh cũng chưa xác quyết xem phải chọn cách chết nào, miễn là tất cả kết thúc nhanh chóng...cho xong rồi quên đi. Trong phòng chẳng có một thứ vũ khí, đến một lưỡi dao cũng không. Nhưng không cần gì, một tấm khăn hoặc một tấm vải trải giường xé nhỏ cũng đủ.

Ngay trên cửa sổ có môht chiếc đinh lớn. Được đấy, nhưng phải thật vững chắc, nhỡ mình nặng quá. Anh leo lên ghế thử lại : cũng chưa được chắc chắn lắm. Anh lại bước xuống lục ngăn kéo lấy búa ra đóng đinh lại. Sắp lôi vải trải giường ra anh sực nhớ mình chưa đọc kinh. Dĩ nhiên, người Công giáo ai cũng phải cầu kinh trước khi chết chứ ! Có cả những kinh dọn linh hồn chịu chết mà !

Anh bước đến bàn thờ, quỳ trước thánh giá :

- Lạy Chúa toàn năng và lòng lành...

ANh đọc to, thế rôi ngưng bặt. Thật ra, trần thế đã quá ê chề, còn gì để cầu khẩn cho được hoặc tránh được nữa. Vả lại, Giê-su làm sao biết được nỗi niềm này...Giê-su đã phải chịu đựng thế đâu? Cũng như Bô-la, anh là kẻ bị phản bội chứ có phải anh ta bị mắc lỡm mà đi phản bội đồng chí mình đâu !

Ác-tơ đứng dậy, làm cây thánh giá theo thói quen từ bé. Đến gần bàn, anh thấy một lá thư của Mông-ta-ne-li viết bằng bút chì :

" Con thân yêu của Cha,

Cha rất buồn vì không được gặp con ngày con được tha. Cha phải đi làm phúc cho một người đang hấp hối. Chắc khuya lắm cha mới về. Sáng mai con đến gặp cha sớm vậy. Gấp lắm.

LM "

Anh đặt thư xuống thở dài : chắc Padre khổ tâm vì chuyện này lắm.

Dưới đường phố thiên hạ vẫn cười đùa rộn rã ! Chẳng có gì thay đổi từ giây phút anh thấy mình còn sống. Cuộc sống tủn mủn quanh anh không mảy may thay đổi, cho dù đã có linh hồn một con người đang sống bị đánh chết gục. Tất cả vẫn như cũ. Những vòi nước vẫn phun đều, bầy chim sẻ vẫn ríu rít dưới mái hiên. Hôm qua đã vậy và ngày mai sẽ vẫn thế. Về phần anh, anh đã chết...chết hẳn rồi.

Ác-tơ ngồi xuống mép giường, tay khoanh lên thành giường rồi gục đầu lên tay. Còn chán thì giờ. Đầu anh nhức như búa bổ, nhức tận cùng trung tâm não bộ. Mọi cái sao mà mù mịt, xuẩn ngốc...sao mà vô nghĩa đến thế...

Chuông trước cửa reo lên đinh tai, Ác-tơ vùng dậy hoảng sợ đến nghẹt thở, nhói đau, anh đưa hai tay sờ cổ họng Họ đã về...thế mà nãy giờ anh vẫn ngồi đó nghĩ ngợi vớ vẩn để thì giờ quý báu vụt qua...Giờ đây anh lại phải giáp mặt, nghe giọng nói độc địa của họ...những hằn học, xỉa xói...anh chỉ cần một lưỡi dao thôi mà...

Ác-tơ tuyệt vọng đảo mắt quanh phòng. Giỏ đồ khâu của mẹ còn trên tủ nhỏ, trong ấy ắt phải có kéo, anh có thể rạch đứt mạch máu. Không, vải trải giường và chiếc đinh an toàn hơn, giá anh có đủ thì giờ...

Anh giật tấm vải trải giường cố xé lấy một đoạn dài. Đã có tiếng chân lên cầu thang. Không được, đoạn vải rộng quá, khó thắt chặt được, phải làm nút thòng lọng cơ mà. Anh xé nhỏ thêm. Tiếng bước chân càng gần, anh càng thêm luýnh quýnh. Mạch máu giần giật hai bên thái dương, tai anh ù đi. Nhanh lên...nhanh nữa lên ! Chúa ơi ! Năm phút nữa trôi thôi !

Tiếng gõ cửa đã vang lên. Đoạn vải rời khỏi tay anh . Anh ngồi lặng người, nín thở lắng nghe. Nắm cửa xoay xoay, rồi tiếng Giu-li réo : - Ác-tơ !

- Ác-tơ, mở cửa nào ! Chúng tao đợi đây !

Anh vo vội miếng vải trải giường rách ném vào ngăn kéo, hấp tấp sửa lại giường.

- Ác-tơ ! - Đó là tiếng Giêm-xơ. Hắn sốt ruột giật quả nắm - Chú ngủ à ?

Ác-tơ thấy căn phòng đã ngăn nắp, mới mở khóa cửa ra. Giu-li lồng lộn nhảy xổ vào buồng hét váng lên :

- Ác-tơ, tao tưởng mày ít nhất cũng phải nghe lời tao, đợi chúng tao về đã chứ ! Mày làm chúng tao phải đợi hàng nửa tiếng đồng hồ thế à ?

Giêm-xơ bước theo đuôi váy sa tanh hồng của vợ, vội nhẹ nhàng chữa lời :

- Mới bốn phút thôi, mình ạ ! Ác-tơ, anh thấy lẽ ra chú phải nên...

Ác-tơ ngắt lời :

- Anh chị muốn gì ?

Ác-tơ đứng tỳ tay vào nắm cửa. Và như một con thú dữ mắc bẫy, Ác-tơ gườm gườm tráo nhìn Giêm-xơ rồi nhìn Giu-li. Nhưng Giêm-xơ thì quá đần độn mà Giu-li thì đã điên tiết lên rồi nên chẳng ai nhận thấy cái nhìn ấy của Ác-tơ. Giêm-xơ đưa ghế cho vợ ngồi. Rồi ông cũng tự kiếm ghế ngồi, kéo lại cẩn thận đôi ống quần mới.

Ông ta giáo đầu :

- Anh và chị Giu-li thấy có trách nhiệm phải nói chuyện đứng đắn với chú...

- Tối nay tôi chưa nghe được. Tôi...tôi mệt. Tôi nhức đầu...Anh chị hãy đợi bữa khác.

Ác-tơ nói với một giọng là lạ, nghe lí nhí, rời rạc và lộn xộn. Giêm-xơ ngạc nhiên đảo mắt nhìn bốn xung quanh.

Sực nhớ là Ác-tơ mới chui ở hang đầy bệnh truyền nhiễm ra, Giêm-xơ lo lắng hỏi :

- Chú làm sao thế ? Không ốm chứ ? Trông chú như sốt rét ấy.

Giu-li đanh đá ngắt lời :

- Chẳng sao cả! Cứ giở trò hề mãi. Chắc thấy người ta thì sướng mặt đấy thôi...Ác-tơ lại ngồi đây.

Ác-tơ từ từ đi sang phía bên kia ngồi xuống mép giường, rôi uể oải nói :

- Anh chị bảo gì ?

Giêm-xơ đằng hắng, vuốt bộ râu vốn đã mượt, và lên giọng đọc một bài diễn văn đã chuẩn bị kỹ càng từ trước :

- Anh thấy có trách nhiệm...có trọng trách phải nói chuyện nghiêm chỉnh với chú về hạnh kiểm kỳ quặc của chú và về việc chú đã liên lạc với những kẻ thành tích bất hảo. Anh chắc chú dại dột quá chứ không phải hư hỏng...

Ông ngừng lời.

- Sao nữa ạ !

Thấy vẻ thẫn thờ, mệt mỏi hiện ra trong mỗi cử chỉ của Ác-tơ, Giêm-xơ tự nhiên phải dịu giọng hơn :

- Vì thế anh cũng không muốn quá nghiêm khắc với chú. Anh chắc rằng những bạn bè hư hỏng đã lôi kéo chú, chứ anh thì anh biết là chú còn non trẻ, thiếu chín chắn và nông nổi, và có lẽ đó là những tính mà chú đã phải chịu ảnh hưởng của mẹ chú trước kia...Ác-tơ từ từ ngước mắt nhìn ảnh mẹ rồi lại nhìn xuống, nhưng vẫn nín lặng.

Giêm-xơ lại tiếp :

- Nhưng chắc chú cũng hiểu rằng anh không thể chứa mãi trong nhà một kẻ đã làm nhơ nhuốc thanh danh của một gia đình như gia đình ta được. Ác-tơ lại nói gọn lỏn :

- Sao nữa ạ ?

Giu-li gấp cái quạt đánh phạch, đặt ngang đầu gối rồi gân cổ hét :

- Ô hay ! Mày không biết nói gì nữa hay sao mà cứ "sao nữa ạ" mãi thế ?

Ác-tơ không nhúc nhích đủng đỉnh trả lời :

- Anh chị muốn gì thì cứ làm. Tôi thì thế nào cũng được.

- Thế nào cũng được à ?- Giêm-xơ sửng sốt về câu trả lời của Ac-tơ, còn vợ hắn thì đứng dậy cười gằn :

- Thế nào cũng được phải không ?...Thôi, anh Giêm-xơ, chắc bây giờ anh đã hiểu là chúng ta đừng hòng nó biết ơn chúng ta nữa rồi. Tôi đã bảo mà, làm phúc đức mãi với những kẻ giang hồ công giáo ấy và với cái đứa mà chúng...

- Chớ, chớ ! Mình chớ nói cái đó..

- Chớ chớ cái gì nữa ? Chúng ta đã có quá đủ cái thứ tình cảm hờ ấy rồi. Mà để thương yêu ai? Để thương yêu một đứa con hoang lộn sòng vào gia đình ta ư ? Cần phải bảo cho nó biết mẹ nó là ai rồi ! Tại sao chúng ta lại cứ phải hầu hạ thằng con riêng của lão cố đạo thiên chúa giáo ? Này, đọc xem !

Giu-li rút một mảnh giấy nhàu nát trong túi ra, quẳng qua bàn cho Ác-tơ. Mở ra, Ác-tơ nhận ra chữ của mẹ. Theo như ngày tháng đề trong giấy thì mẹ Ác-tơ đã viết giấy này trước khi sinh Ác-tơ bốn tháng. Đó là một tờ giấy thú nhận với chồng. Bên dưới có hai chữ ký.

Ác-tơ đưa mắt lần đọc từng dòng, cuối cùng thấy tiếp sau nét chữ run run của mẹ chữ ký chắc nét, quen thuộc " Lô-ren-xô Mông-ta-ne-li". Anh dán mắt vào chữ ký ấy tới mấy phút đồng hồ. Không nói một lời, anh gập tờ giấy lại và đặt lên bàn.

Giêm-xơ đứng dậy, cầm tay vợ :

- Thôi, Giu-li, thế là đủ, đi xuống đi. Khuya rồi. Anh cần nói chuyện công việc với Ác-tơ. Mình ở lại đây nghe chẳng lí thú gì đâu.

Giu-li lườm chồng rồi lườm Ác-tơ. Ác-tơ lặng lẽ ngồi nhìn xuống sàn,

Giu-li lầm bầm :

- Như thằng mất hồn ấy.

Sau khi Giu-li cuốn váy bước ra khỏi phòng. Giêm-xơ đóng chặt cửa lại rồi ngồi vào cạnh bàn.

Ác-tơ vẫn ngỗi yên như pho tượng, không hé răng nói nửa lời.

Giêm-xơ lại bắt đầu nói, giọng dịu dàng hơn vì bây giờ không còn sợ Giu-li nghe lỏm nữa.

- Ác-tơ, chuyện vỡ lở ra thật đáng tiếc. Lẽ ra chú cũng không nên biết. Nhưng thôi chuyện đã qua rồi ! Tôi rất vui lòng thấy chú tỏ ra điềm tĩnh như thế. Chị Giu-li hơi quá xúc động. Đàn bà thường hay thế...Dù sao tôi cũng không muốn xử tệ với chú....

Hắn ngừng nói để thăm dò xem những lời lẽ ngọt nhạt đã tác động đến Ác-tơ như thế nào, nhưng Ác-tơ vẫn không nhúc nhích.

Một lát im lặng, Giêm-xơ tiếp :

- Chú ạ, tất nhiên câu chuyện ấy đáng buồn lắm, đừng nhắc tới nữa thì hơn. Cha tôi cũng thật rộng lượng. Khi mẹ chú đã thú nhận tội lỗi của mình thì cha tôi không đòi ly dị mà chỉ đòi kẻ quyến rũ mẹ chú phải rời bỏ ngay nước Ý. Như chú đã biết, người ấy đã đi sang Trung quốc để truyền giáo. Khi người ấy về, tôi phản đối việc để chú gặp người ấy. Nhưng tới phút lâm chung, cha tôi lại thuận để người ấy giúp chú học tập với điều kiện duy nhất là người ấy không được tìm cách gặp mẹ chú. Cũng phải nhận rằng cả hai người đều đã theo đúng điều kiện ấy đến cùng. Tất cả những việc ấy thật đau lòng, nhưng...

Ác-tơ ngẩng đầu, gương mặt anh không còn một nét sống một biểu lộ nào mà chỉ còn như một chiếc mặt nạ bằng sáp.

Anh nói khẽ và không hiểu sao lại hơi lắp bắp :

- Theo a..anh thì ch..chắc là câu ch..chuyện ấy b..buồn cười lắm nhỉ !

- Buồn cười à ?

Giêm-xơ đẩy lùi chiếc ghế ra khỏi bàn. Hắn quên cả giận dữ, sửng sốt nhìn Ac-tơ chòng chọc :

- Buồn cười ư ? Ác-tơ ! Chú điên rồi à !

Ác-tơ bỗng ngửa mặt lên trời cười sằng sặc.

Ông chủ hãng tàu bệ vệ đứng dậy, kêu lên :

- Ác-tơ ! Tôi rất lấy làm lạ về sự nhẹ dạ của chú.

Một chuỗi cười lại vang lên. Tiếng cười sặc sụa làm Giêm-xơ ngờ ngợ không biết đấy có phải chỉ vì nhẹ dạ hay là vì một cớ gì khác nhiều hơn thế.

Hắn khinh bỉ nhún vai, sốt ruột đi bách bộ trong phòng và lẩm bẩm :

- Như một con điên vậy. Ác-tơ, chú thật còn tồi hơn cả Giu-li. Đừng cười nữa ! Tôi hơi sức đâu mà ngồi đây suốt đêm được !

Nói như thế mà ăn thua thì có lẽ Giêm-xơ đã mời được tượng gỗ bước xuống đất. Ác-tơ chẳng nghe thấy những lời khuyên nhủ và dạy dỗ ấy. Anh chỉ cười, cười mãi không thôi.

Cuối cùng, Giêm-xơ dừng bước nói :

- Thật là điên rồ. Chắc chú xúc động quá nên đã mất cả lý trí lành mạnh. Thế thì tôi chẳng thể nói với chú nữa. Sáng mai ăn sáng xong chú đến chỗ tôi. Bây giờ chú đi ngủ thì hơn. Chào chú !

Giêm-xơ đi ra, đóng sầm cửa lại, vừa nện chân xuống cầu thang hăn vừa hậm hực :

- Bây giờ lại đến cảnh điên ở nhà dưới đây. Chắc lại có cả nước mắt.

Chuỗi cười điên dại bỗng ngừng bặt trên môi Ác-tơ. Anh giật lấy chiếc búa con trên bàn và nhảy xổ tới cây thánh giá.

Sau nhát búa đầu tiên, anh tỉnh ngay. Nằm trơ trước mặt anh là chiếc bệ trống không. Tay anh còn giữ chặt búa. Những mảnh thánh giá vỡ tan tành văng trên sàn. Ác-tơ quẳng búa sang một bên. Dễ dàng thế thôi ư ?- anh lầu bầu một mình và quay đi - Sao ta lại ngốc đến thế !

Ác-tơ thở hổn hển, ngồi thụp xuống ghế, hai tay bưng chặt lấy thái dương. Rồi anh đứng dậy, bước tới bồn rửa mặt, lấy một bình nước lạnh dội lên đầu. Thấy đã bình tĩnh hơn, anh trở về chỗ cũ, ngồi trầm ngâm suy nghĩ.

Chính vì những con người giả dối và nô lệ ấy, chính vì những thần thánh không hồn và câm như hến ấy mà anh đã phải chịu mọi giày vò của nhục nhã, giận dữ và đau buồn, chính tại chúng mà anh đã sửa soạn dây chuẩn bị treo cổ tự tử chỉ vì rằng có một cố đạo đã ăn gian nói dối. Làm như không phải tất cả bọn họ đều đã ăn gian nói dối ấy ! Nhưng thôi, thế là được rồi ! Từ nay anh sẽ khôn hơn. Chỉ cần rũ sạch ròi bọ khỏi mình và bắt đầu làm lại cuộc đời.

Có nhiều tàu buôn cập bến, trốn lên trên một chiếc tàu ấy và đi biệt tăm, đi tới bất cứ nơi nào đó như Canada, Úc, hoặc Nam Phi thì khó gì !

Đi đâu, điều đó không quan trọng, chỉ cốt lánh xa chốn này. Còn như sinh sống thế nào thì cái đó tuỳ tình hình, nơi này không thích hợp thì lại đi nơi khác.

Anh móc ví. Chỉ còn ba mươi pa-ô-li. Nhưng còn một chiếc đồng hồ đáng giá nữa. Nó có thể giúp ích không ít. Và dù sao cũng chẳng có gì quản ngại, thế nào anh cũng sống qua ngày đoạn tháng được. Nhưng còn lũ người đó, họ sẽ đi tìm anh, sẽ ra bến hỏi dò. Không, phải đánh lạc hướng mới được. Làm cho họ tưởng rằng anh đã chết. Và lúc đó anh sẽ được tự do, hoàn toàn tự do. Tưởng tượng tới lúc nhà Bớc-tơn đi tìm xác anh, Ác-tơ cười thầm. Thật là một trò cười !

Anh lấy mảnh giấy nhỏ và viết ngay ý nghĩ của mình.

" Tôi đã tin ông như đã tin Đức chúa Lời. Nhưng Đức chúa Lời chỉ là một tượng đất, đập một búa là tan, còn ông thì ông đã lừa dối tôi suốt đời ".

Ác-tơ gập mảnh giấy lại đề tên Mông-ta-ne-li, và lấy một mảnh giấy khác viết :

" Tìm xác tôi ở bến Đác-xen-na"

Rồi anh đội mũ, bước khỏi phòng. Qua nức ảnh mẹ, anh lướt nhìn, nhún vai cười khẩy. Chính mẹ cũng lừa dối anh kia mà !

Anh bước nhẹ nhàng qua hành lang, đẩy chốt cửa và ra đến cầu thang gác lớn và tối tăm lát bằng đá hoa mà cứ mỗi khi có tiếng sột soạt lại âm vang lên. Thang gác há rộng miệng dưới chân anh như một vực thẳm đen sì. Ác-tơ rón rén bước qua sân để khỏi đánh thức ông già Gian Ba-tit-stơ đang ngủ ở nhà dưới. Trong kho củi ở cuối vườn có một chiếc cửa sổ chấn song nhỏ. Cửa sổ trông ra kênh đào và ở cách mặt đất chừng một thước hai. Ác-tơ chợt nhớ rằng chấn song cửa sổ han gỉ đã gãy mất một bên, chỉ cần lay nhẹ là có thể phá được một lỗ vừa lọt người chui.

Nhưng chấn song lại chắc hơn là anh tưởng. Anh lay đến sướt da và rách cả tay áo. Nhưng có hề chi. Anh nhìn ra phố, không một bóng người. Kênh đào đen ngòm và lặng ngắt trông như một cái hang khủng khiếp chạy ngoằn ngoèo giữa hai bức tường trơn dựng đứng.

Thế giới trước mắt mà anh chưa bước chân tới có thể là 1 hố sâu mù mịt , nhưng trong thế giới ấy chưa chắc đã nhiều đê tiện và nhơ nhốc như ở sau lưng anh . Ko thương tiếc gì nữa , ko nhìn lại làm gì nữa . Đó là 1 thế giới nhỏ nhen , ôn dịch , thối nát , đầy lừa lọc đê hèn và lường gạt bỉ ổi - đó là 1 vũng bùn lầy nước đọng thối tha , nông cạn đến nỗi 1 người cũng ko thể trẫm mình ở đó được .

Áctơ men theo bờ kênh , rồi rẽ về phía quảng trường nhỏ cạnh cung điện Mêđitri. Chính nơi đấy Giêma đã chạy đến đón anh và hớn hở chìa 2 tay cho anh . Những bậc đá ướt nối dài xuống tận mặt nước còn đó. Toà pháo đài cau có nhìn xuống dòng nước bẩn thỉu còn đây . Cho đến nay anh vẫn ko ngờ nó thấp lùn , ti tiện như vậy .

Dọc theo những đường phố chật hẹp , Áctơ đi tới bến tàu Đácxenna. Anh ném mũ xuống nước. Khi họ mò tìm xác ắt sẽ thấy chiếc mũ. Anh men theo bờ biển, và suy nghĩ lung tung ko biết nên làm gì nữa .Bây giờ phải tót lên chiếc tầu nào đó.Nhưng ko dễ.Chỉ còn cách duy nhất là rẽ về phía con đê chắn sóng Mêđitri cao lớn và lâu đời kia.Ở tận cuối chân đê có 1 quán rượu tồi tàn . May ra vớ được 1 gã thuỷ thủ nào mình có thể đút lót được.

Nhưng cửa bến tàu khoá mất rồi . Làm thế nào qua được, mà lại thoát khỏi tay lính đoan nữa ? Với số tiền ít ỏi ko thể nghĩ tới chuyện hối lộ để tráo qua cửa bến lúc ban đêm được , nhất là lại ko có hộ chiếu . Hơn nữa lính đoan cũng có thể nhận ra anh .

Khi Áctơ đảo qua trước mặt tượng đài " Bốn người Môrơ " bằng đồng đen , phía bên kia đường , từ 1 ngôi nhà cổ lỗ , 1 người mở cửa lù lù bước ra . Người ấy đi về phía cầu.Áctơ vội lẩn vào bóng tối, nép mình vào bệ tượng đen ngòm , len lén nhìn ra.

Đó là 1 đêm xuân ấm áp , trời đầy sao.Sóng vỗ vào kè đá và xô tới gần các bậc đá thành những xoáy nước xinh xinh với một tiếng rì rào êm ái giống như 1 tiếng cười. Đâu đây , 1 đoạn xích sắt từ từ đưa võng , kêu kẽo kẹt. Một chiếc cần trục lớn buồn rầu đứng sững trong đêm tối . Dưới bầu trời đầy sao lấp lánh in bóng những làn mây như những vòng hạt trân châu , là 4 người nô lệ bị gông cùm đang vật lộn và vươn lên phản đối số phận tàn nhẫn 1 cách kịch liệt nhưng tuyệt vọng.

Người ấy bước loạng choạng trên bờ biển , vừa đi vừa nghêu ngao 1 bài hát Anh rẻ tiền . Chắc là 1 tay thuỷ thủ vừa nhậu nhẹt ở quán rượu về. Chung quang chẳng có 1 ai . Khi người đó tới gần , Áctơ ra đứng ở giữa đường. Người thuỷ thủ ngừng hát , chửi đổng 1 câu rồi đứng lại.

Áctơ nói tiếng Ý :

- Tôi muốn nói chuyện với anh . Anh có hiểu ko ?

Người kia lắc đầu :

- Đằng ấy nói y a y ô , đây chẳng hiểu gì hết.- Rồi hắn quay lại và nói ấm ớ tiếng Pháp , hỏi bằng 1 giọng bực tức : - Đằng ấy muốn gì ? Tại sao đằng ấy lại chắn lối tớ đi ?

- Anh vào chỗ tối kia 1 lúc, Tôi cần nói chuyện với anh.

- Úi chao ! Vào chỗ tối à ! Đằng ấy có thủ dao găm ko đấy ?

0 Ko , ko ai thủ dao găm làm gì ! Anh ko thấy tôi đang cần giúp đỡ đây ư ? Tôi sẽ biếu anh tiền.

- Sao ? Cái gì ? Ừ mà đằng ấy diện kẻng nhỉ!- Người thuỷ thủ nói như vậy bằng tiếng Anh , rồi bước vào bóng tối , tựa lưng vào hàng rào chắn quanh tượng đài.

- Nào ! - Hắn lại nói bằng thứ tiếng Pháp chối tai ấy - Đằng ấy muốn gì ?

- Tôi muốn đi khỏi nơi này.

- À ra thế ! Chuồn hả ? Đằng ấy muốn tớ chở lậu chứ gì ? Giở trò gì rồi hả ? Mổ bụng thằng nào rồi ? Ông bạn ngoại quốc đếch nào ở đây cũng vậy. Thế đằng ấy định tẩu đi đâu ? Chắc chả đi vào bốt cảnh sát nhỉ ?

Hắn cười hềch hệch và nháy Áctơ :

- Anh ở tàu nào ?

- Tàu Cáclốtta. Từ LIvoócno đi Buênốt Airét . Chở da thú về bên này và chở dầu ăn sang bên kia. Tàu kia kìa ! - Và hắn trỏ tay về phía đê chắn sóng - Tàu cà là khổ hết sức.

-Buênốt Airét à ! Vậy anh giấu tôi trên tàu anh nhé.

-Đằng ấy cho bao nhiêu ?

- Ko nhiều đâu. Chỉ còn vẻn vẹn mấy đồng paôlô thôi.

- Ko được.Dưới 5 chịch là đây ko màng.Diện kẻng như đằng ấy thế là đã hời rồi.

-Anh nói diện kẻng nghĩa là làm sao ? Nếu anh thích bộ quàn áo của tôi , tôi có thể đổi cho anh.Nhưng tiền thì tôi chỉ có thế , ko thể nào biếu anh hơn được.

-Đằng ấy có cái đồng hồ kia.Đưa đây!

Áctơ rút ra chiếc đồng hồ bỏ túi vàng kiểu phụ nữ , chạm trổ và tráng men rất tinh vi , có 2 chữ tắt "G.B" ở nắp sau.Đấy là đồng hồ của mẹ anh , nhưng bâu giờ điều đó cũng còn nghĩa lý gì nữa đâu !

Người thuỷ thủ liếc nhìn , kêu lên :

-A!Xoáy được chứ gì ? Đưa xem nào !

Áctơ rụt tay lại :

-Không . Chưa bước xuống tàu thì chưa thể trao được.

- Té ra cũng lõi đời nhỉ ? Nhưng đánh cuộc này : chắc đằng ấy lần đầu tiên phải ba đào nhỉ ? Đúng ko ?

-Đó là chuyện của tôi.Kìa , lính gác đã đến!

Hai người nồi núp sau tượng đài, chờ cho lính gác đi qua. Rồi người thuỷ thủ đứng dậy, bảo Áctơ đi theo vừa bước vừa cười hềnh hệch một mình.Áctơ im lặng và theo sau.

Người thuỷ thủ dẫn anh trở lại quảng trường nhỏ bé và méo mó cạnh cung điện Mêđitri và dừng lại trong xó tối. Hắn nói ồ ồ , và tưởng chừng như thế là khẽ lắm .

-Đằng ấy đợi đây kẻo lính nó trông thấy.

-Anh định làm gì ?

-Đi tìm cho đằng ấy 1 bộ cánh khác.Tay áo vấy máu thế kia thì đưa đằng ấy xuống tàu làm sao được.

Áctơ nhìn tay ái bị chấn song xé rách , cánh tay bị sướt , máu thấm ra tay áo.Chắc vì thế người thuỷ thủ nọ cho anh là 1 kẻ giết người. Cũng chẳng sao ! Hắn cho mình là ngươid thế nào , điều đó bây giờ cũng chẳng can hệ gì nữa!

Phút chốc người thuỷ thủ đã trở lại.Hắn tỏ vẻ đắc ý , nách cắp 1 gói nhỏ.

Hắn thì thào :

- Thay đi , nhanh lên.Đã đến giờ xuống tàu rồi mà lão Do Thái bán đồ cũ cứ bắt mặc cả mãi đến nửa tiếng đồng hồ.

Áctơ thay quần áo.Anh bất giác rùng mình ghê sợ khi chạm tay phải chiếc áo cũ. Nhưng may sao , chiếc áo tuy thô cứng nhưng cũng còn khá sạch sẽ .Khi anh bước ra chỗ sáng , người thuỷ thủ nhìn anh với bộ điệu nghiêm trang của người say rượu và gật đầu ưng ý.

Hắn nói :

-Được đấy!Đi thôi ! Khe khẽ chứ nhé!

Áctơ nhặt lấy chiếc áo vừa thay ra.Anh bước theo người thuỷ thủ qua những kênh đào ngoắt ngoéo , những ngỏ hẻm khúc khuỷu , đen tối giữa những xóm nhà lụp sụp thời Trung cổ , nơi mà những người Livóocnô gọi là " Vênêtxia mới ".Giữa những căn nhà điêu tàn và những mảnh sân nhếch nhac, giữa 2 đường hào sâu hôi thối , đây đó 1 toà lâu đài cũ kĩ và âm thầm còn ngạo nghễ vươn lên 1 cách cô độc , hoài công phí sức giữ lấy vẻ uy nghiem cổ kín xa xưa . Mấy ngõ hẻm này là sào huyệt của trộm cướp , giết người và buôn lậu; mấy ngõ hẻm khác là thế giới của khốn khổ và bần cùng.

Người thuỷ thủ dừng bước cạnh chân cầu nhỏ.Hắn đảo mắt nhìn quanh rồ bước xuống bậc đá, đi về phía bến thuyền chật hẹp.Dưới cầu , dập dềnh 1 chiếc thuyền nát , bẩn thỉu.Hắn sỗ sàng ra lệnh cho Áctơ nhảy xuống nằm tận đáy thuyền , rồi tự cầm lấy mái chèo , bơi về phía cửa bến.Áctơ nằm im thin thít trên ván thuyền trơn ướt. Giấu mình dưới mớ quần áo cũ người thuỷ thủ vừa quẳng lên người anh , Áctơ lét nhìn những mái nhà và những đường phố quen thuộc.

Thuyền bơi qua cầu tớip hần kênh đào nằm dưới 1 pháo đài đồ sộ. Những bức tường thành , dưới rộng trên thót lại thành những tháp canh chật hẹp và âm thầm , sừng sững nhô lên mặt nước. Cách đây mấy tiếng đồng hồ, đối với anh , những bức tường ấy kiên cố và đáng sợ biết bao ! Nhưng giờ đây...Nằm dưới đáy thuyền anh cười lên khe khẽ.

Người thuỷ thủ thì thào :

- Im đi ! Che đầu lại cho kín. Nhà đoan ở ngay cạnh đây này.

Áctơ kéo mớ quần áo cũ lên che kín đầu.Chiếc thuyền dừng lại trước hàng cột có xích sắt giằng lại với nhau , chắn ngang mặt kênh nhỏ hẹp giữa nhà đoan với pháo đài. Một gã viêc chức nhà đoan đang ngái ngủ, cầm đèn bước ra khỏi nhà , vừa ngáp vừa nói chõ xuống nước:

- Cho xem hộ chiếu.

Người thuỷ thủ đưa giấy tờ lên cho y xem. Áctơ cố gắng nín thở lắng nghe.

Gã viên chức nhà đoan càu nhàu:

- Về tàu lúc nửa đêm gà gáy này mới thật đúng giờ chứ nhỉ ! Lại đi bê tha trác táng về phải ko ? Cái gì trong thuyền kia?

- Quần áo cũ. Vừa đi mia rẻ về đấy mà.

Vừa nói người thuỷ thủ vừa giơ chiếc gilê của Áctơ lên cho gã viên chức nhà đoan xem. Y hạ thấp đèn, cúi xuống căng mắt nhìn.

- Thôi được. Cho đi.

Y cất gióng gỗ lên và chiếc thuyền nhè nhẹ bập bềnh trôi qua mặt nước đen ngòm và đang dâng lên. Di được 1 quãng ngắn Áctơ ngồi dậy, tung mớ quần áo cũ ra.

Người thuỷ thủ thì thào :

- Đây, tàu tớ đây rồi.Cứ theo tớ, nhưng cốt nhất phải ngậm tăm ko được nói gì.

Hắn leo lên boong của con quái vật khổng lồ đen sì ấy. Vừa leo hắn vừa khẽ mắng Áctơ " kẻ trên cạn hậu đậu ", mặc dù Áctơ ko đáng trách như vậy hơn ai hết, vì xưa nay anh rất khéo léo và nhanh nhẹn. Hai người lò rò lách giữa những đống dây cáp và những máy móc tối thui rồi lần mãi đến 1 cửa hầm tàu. Người thuỷ thủ khẽ mở nắp hầm.

Hắn rỉ tai Áctơ :

- Bò xuống ! Tớ lại ngay bây giờ.

Hầm tàu ẩm ướt, vừa tối , lại vừa ngột ngạt ko chịu được. Áctơ thốt nhiên lùi lại, nghẹn họng vì mùi da tươi và dầu thối. Nhưng nhớ ngay tới hầm ngục tối, anh nhún vai , bước xuống bậc thang. Có lẽ cuộc sống đâu đâu cũng như vậy : thối tha , ghê tởm , lúc nhúc giòi bọ , đầy bí hiểm nhơ nhuốc và ngoắt ngoéo tối tăm. Nhưng cuộc sống là cuộc sống - và vẫn phải tìm lấy ở cuộc sống tất cả những gì còn là có thê có ích hơn cả.

Mấy phút sau , người thuỷ thủ trở lại , tay mang 1 vật gì mà Áctơ ko nhìn rõ vì trời tối.

- Nào ! Bây giờ đằng ấy đưa tiền và đồng hồ đây.Nhanh lên !

Lợi dụng hầm tối Áctơ bớt lại mấy đồng tiền.

Anh nói :

- Có gì mang cho tôi ăn với. Tôi đói lắm rồi.

-Mang tới rồi. Đây , cầm lấy.

Người thuỷ thủ trao cho anh một bình nước , mấy miếng bánh quy rắn như đá và 1 mẩu thịt lợn muối.

- Thế này nhé. Sáng mai lính đoan sẽ lên khám tàu. Chui vào cái thùng rỗng này mà núp. Nằm im như chuột ấy , ra khơi hẵng hay. Khi nào bò ra được, đây sẽ báo cho biết. Để cho chúa tàu nó trông thấy thì đừng có trách. Thế thôi! Chưa làm đổ bình nước chứ ! Chào đằng ấy nhé !

Nắp hầm đóng sập lại. Áctơ tìm chỗ chắc chắn đặt bình nước quý giá. Leo lên 1 chiếc thùng rỗng , anh mở thịt muối và bánh quy ra ăn. Rồi anh nằm cuộn tròn trên sàn bẩn; và, từ thuở nhỏ đến giờ, lần đầu tiên anh đi ngủ ko đọc kinh. Chuột chạy quanh mình anh trong đêm tối. Nhưng dù tiếng chuột rúc rích thâu đêm , dù con tàu ngả nghiêng trên mặt sóng, dù là mùi dầu lợm mửa , dù là ngày mai những cơn say sóng đang chờ đợi , anh vẫn say sưa trong giấc ngủ ngon lành. Tất cả những cái đó càng ko làm cho anh xao xuyến, cũng như những thần tượng uy nghiêm mà hôm qua anh còn cúi lạy tôn thờ, thì nay chúng đã bị vứt bỏ, bị đập vỡ tan tành và ko còn làm cho lòng anh rạo rực nữa.

RUỒI TRÂU
Chương 8

Một chiều tháng 7 năm 1846 ở Phôlơrăngxơ , 1 số người quen biết cùng nhau nhóm họp tại nhà giáo sư Phabơritxi để bàn bạc kế hoạch công tác chính trị sắp tới.

Một vài người thuộc Đảng Mátdini nhất định đòi ít nhất fải thành lập 1 nước Cộng hoà dân chủ và fải thống nhất nước Ý. Còn những nguêòi khác thì thuộc phái quân chủ lập hiến và phái tự do nhiều màu sắc khác nhau . Nhưng tất cả đèu giống nhau ở 1 điểm là bất mãn với cơ quan kiển duyệt của Tôxcan . Vị giáo sư nổi tiếng Phabơritxi triệu tập cuộc họng với hy vọng rằng , khi thảo luận vấn đề này may ra sẽ ko nảy sinh cãi lộn giữa đại diện các phe phái.

Từ khi Giáo hoàng Piô IX lên ngôi , tuyên bố đại xá cho tù chính trị tại các lãnh địa của Giáo hoàng tới nay mới được 2 tuần lễ , mà làn sóng tự do chủ nghĩa do sự kiến vang dội ấy gây ra đã lan tràn khắp nước Ý. Ở Tôxcan , lênhk đại xá của Giáo hoàng đã tác động đến cả chính phủ. Giáo sư Phabơritxi và 1 số lãnh tụ các chính đảng ở Phơlôrăngxơ cho rằng đó là cơ hội thuận lợi hơn cả đẻ đòi cải cách luật báo chí.

Khi nghe nói thế , nhà soạn kịch Lêga phát biểu :

- Lẽ dĩ nhiên , chừng nào chưa sửa đổi luật báo chí hiện hành thì chưa thể xuất bản báo được. Phải hoãn số báo đầu tiên lại. Nhưng có lẽ chúng ta cũng có cơ hội khiến cho 1 số các bài châm biếm có thẻ lọt lưới kiểm duyệt được. Chúng ta càng làm sớm được điều đó bao nhiêi thì càng chóng sửa đổi được luật báo chí bấy nhiêu.

Ngồi trong phòng đọc sách của giáo sư Phabơritxi , nhà soạn kịch Lêga trình bày quan điểm lập trường của mình mà theo ý ông , những nhà văn tự do phải theo trong lúc này .

Một người tham dự buổi họp , nhà luật sư tóc bạc, bắt đầu phát biểu với 1 giọng kéo lê thê :

- Hiển nhiên là chúng ta fải cướp ngay thời cơ. Sau này ko thể có những điều kiện thuận lợi như thế để tiến hành những cải cách ra trò được . Nhưng chắc gì những bài châm biếm đã làm nên chuyện. Nó chỉ có thể chọc tức và làm cho chính phủ hoảng sợ thôi chứ ko thể giúp ta tranh thủ được chính phủ. Mà tranh thủ được chính phủ mới chính là điều chúng ta định đạt tới. Nếu nhà đương cục có cảm tưởng chúng ta là những kẻ phiến động nguy hiểm thì chúng ta ko thể nào có được sự hiệp trợ của họ.

- Vậy ông định thế nào ?

- Phải đề ra yêu sách.

- Yêu sách Đại công tước ư ?

- Phải , yêu sách mở rộng quyền tự do báo chí.

Một người nước da sẫm , vẻ mặt sắc sảo , ngồi cạnh cửa sổ , nhìn nhà luật sư , cười khẩy và nói :

- Ông đi yêu sách chắc được nhiều kết quả lắm nhỉ ! Tôi tưởng rằng vụ Rentxi đã chữa cho ông thoát khỏi những ảo tưởng ấy rồi.

- Thưa ngài ! Về chuyện chúng ta ko ngăn cản được việc Renxti bị bắt giao cho Giáo hoàng, tôi cũng rất lấy làm tiếc ko kém gì ngài . Tôi ko muốn làm mếch lòng các quý vị có mặt ở đây , nhưng dù sao tôi vẫn nghĩ rằng sở dĩ chúng ta thất bại trong việc này , chủ yếu là do 1 số người trong chúng ta đã sốt ruột và nóng nảy , mà nếu ở cương vị tôi , tôi đã ko vội quyết định...

Người da sẫm cắt ngang 1 cách sỗ sàng :

-Nghĩa là ông sẽ do dự như dân Piêmôntê chứ gì ? Tôi ko hiểu ông thấy sốt ruột và nóng nảy ở chỗ nào. Cóp hải những yêu sách rụt rè mà chúng ta cứ ra hết cái này đến cái khác hay ko ? Có lẽ ở Tôxcan hoặc Piêmôntê người ta mới cho cái đó là nóng nảy , chứ ở Napôli thì ko ai nghĩ như thế cả.

Người miến Piêmôntê cũng chẳng chịu lép :

- May thay, chỉ Napôli mới có thứ nóng nảy của Napôli mà thôi.

Giáo sư Phabơritxi xen lời :

- Thôi , thôi , xin các ông. Tập quán của người Napôli và Piêmôntê đều có cái hay riêng. Nhưng hiện nay chúng ta đang ở Tôxcan mà tập quán Tôxcan là nắm chắc công việc trước mắt. Ông Gơrátxini tán thành yêu sách , mà ông Gali thì fản đối. Vậy ý kiến bác sĩ Ricácđô thế nào ?

- Tôi thấy yêu sách cũng chẳng có gì hại cả và nếu ông Gơrátxini thảo ra yêu sách thì tôi rất vui lòng ký tên ngay. Tuy nhiên tôi cũng nghĩ rằng , nếu chỉ yêu sách ko thôi thì chẳng kết quả bao nhiêu. Tại sao chúng ta lại ko có thể vừa đề ra yêu sách lại vừa cho xuất bản cả các bài châm biếm ngắn ?

Gơratxini nói :

- Dễ hiểu thôi , là vì các bài châm biếm ngắn ấy sẽ làm cho chính phủ hẳn học chúng ta và ko chấp nhận yêu sách của chúng ta.

Người miền Napôli đứng bật dậy , tiến tới cạnh bàn :

- Có các bài báo ấy hay ko , chính phủ cũng ko đếm xỉa tới yêu sách đâu. Thưa các vị , các vị đã đi lầm đường rồi! Thoả hiệp với chính phủ là vô ích. Chúng ta phải kêu gọi nhân dân vùng dậy.

- Việc ấy nói thì dễ , nhưng làm thì khó. Ông định làm gì để kêu gọi nhân dân ?

- Hỏi ông Gali điều ấy thì thật vớ vẩn. Tất nhiên là trước hết ông ấy sẽ đánh vỡ đầu viên kiểm duyệt ra!

Gali vững vàng đáp lại :

- Không phải thế đâu. Các ông cứ tưởng rằng người miền Nam chúng tôi thì chẳng có lý lẽ gì khác ngoài dao găm hay sao ?

- Vậy ông bảo nên làm thế nào ? Thưa các vị , hãy im lặng 1 chút để nghe ong Gali trình bày 1 kiến nghị.

Mọi người từ nãy tới giờ túm 5 tụm 3 ở các góc phòng bây giờ quây lại quanh bàn để nghe Gali nói. Nhưng ông ta giơ 2 tay tỏ vẻ muốn thanh minh :

- Không , thưa các vị, ko phải là kiến nghị mà chỉ là 1 ý kiến thôi. Tôi cho rằng sự hân hoan hiện nay về việc Giáo hoàng mới tấn phong có chứa đựng 1 nguy cơ thực tế. Giáo hoàng theo 1 đường lối chính trị mới , ban ra lệnh đại xá và do đó , làm cho nhiều người kết luận rằng mọi người dân nước Ý chúng ta , ai ai cũng fải đổ xô vào lòng giáo hoàng để được ngài dẫn tới " miền đất hứa ". Bản thân tôi cũng thán phục Giáo hoàng ko kém người khác. Đại xá - đó là 1 nước cờ cao!

Gơrátxini khinh bỉ tiếp luon :

- Được tán tụng như thế chắc Đức Thánh Cha cũng mát ruột lắm....

Đến lượt Ricácđô ngắt lời :

- Thôi đi , ông Gơrátxini ! Để ông ấy nói hết đã! Lạ thật , sao ông với ông Gali lúc nào cũng cứ cào cắn nhau như chó với mèo ấy!...Nào , ông Gali , ông cứ nói tiếp đi.

Ông người Napôli lại nói :

- Ý kiến là tôi như thế này. Tôi chắc rằng Đức Thánh Cha làm như thế là xuất phát từ những ý định tốt đẹp. Còn như Đức Thánh Cha có thể cải cách rộng rãi đến mức nào - đó lại là vấn đề khác. Bây giờ thì mọi việc đều đang thuận buồm xuôi gió cả. Vì thế , bọn phản động trên khắp nước Ý sẽ ngồi yên chừng một hai tháng, chờ cho cơn sốt hân hoan nguội dần đi sau khi ân xá . Nhưng chưa chắc chúng đã chịu để mất quyền lực mà ko có 1 phản ứng nào. Theo tôi thì : đến giữa mùa đông , những bọn Giêduýt , Grêgoariêng , Xanphêđích và cả bè lũ chúng sẽ bày ra mọi mưu ma chước quỷ mới , rồi tất cả những người ko chịu mua chuộc sẽ bị chúng đưa vào tròng hết.

- Rất có thể là như thế.

- Tốt lắm ! Vậy thì chúng ta có nên cứ gửi hết đơn yêu sách này đến đơn yêu sách khác , và đợi đến lúc Lambruxkini và phe lũ thuyết phục đại công tước bắt chúng ta giao cho chính quyền phái Giêduýt hoặc kéo kỵ binh Áo đến tuần tiễu trên các đường phố và bắt chúng ta phải nằm yên , hay là chúng ta nên đánh phủ đầu , lợi dụng chúng đang tạm thời thất thế mà tấn công trước?

- Trước hết mong ông hãy nói rõ " tấn công trước " là thế nào ?

- Tôi đề nghị trước hết chúng ta tuyên truyền và cổ động có tổ chức để chống lại phái Giêduýt

- Thế nghĩa là tuyên chiến bằng các bài văn châm biếm chứ gì !

-Phải , chúng ta sẽ vạch trần mưu ma chước quỷ của bọn chúng , và kêu gọi nhân dân đoàn kết đấu tranh chống phái Giêduýt.

- Nhưng ở đây có kẻ Giêduýt nào đâu mà vạch trần ?

- Ko có à ? Thử đợi chừng 3 tháng , rồi các ngài sẽ thấy. Lúc ấy e rằng ko làm gì nổi bọn chúng đâu.

-Phải . Nhưng chắc ông cũng hiểu rằng , nếu muốn động viên nhân dân chống phái Giêduýt thì chúng ta phải nói toạc móng heo ra. Vậy ông làm cách nào để tránh kiểm duyệt ?

- Tôi chẳng cần tránh gì cả. Tôi thách thức cả sự kiểm duyệt nữa.

- Nghĩa là ông sẽ cho xuất bản những bài châm biếm ngắn nặc danh ư ? Chuyện ấy nghe thì hay đấy , nhưng chúng tôi cũng đã từng in sách báo bí mất , chúng tôi biết rằng...

- Ko ! Tôi đề nghị in các bài châm biếm ngắn ấy 1 cách công khai, có đề tên và đề rõ địa chỉ của chúng ta hẳn hoi. Nếu họ có đủ can đảm thì họ cứ việc truy tố.

Gơrátxini kêu lên :

- Thật là 1 chủ trương hết sức điên rồ. Thế có nghĩa là cả gan lao đầu vào hàm sư tử .

Gali gắt ngay :

- Ồ , ông việc gì phải sợ. Chúng tôi cũng chẳng mong ông ngồi tù chuộc tội cho chúng tôi kia mà!

Ricácđô nói :

- Thôi đừng nói quá lời nữa, ông Gali ! Đâu phải vấn đề sợ hay ko sợ. Chúng tôi cũng như ông , sẵn sàng ngồi tù nếu có lợi cho sự nghiệp của chúng ta. Nhưng nếu vì những chuyện ko đâu mà dấn thân vào chỗ hiểm nghèo thì lại thật quá ngây thơ. Tôi muốn bổ sung vào kiến nghị vừa rồi.

- Bổ sung gì ?

- Tôi tưởng có thể nghĩ cách đấu trang với phái Giêduýt mà khoit đụng chạm đến cơ quan kiểm duyệt.

- Tôi ko hiểu ông định làm thế nào?

- Có thể tìm cách nguỵ trang những ý kiến mà chúng ta phát biểu , dùng cách nói quanh co để...

-....Để viên kiểm duyệt ko hiểu được chăng ? Nhưng ông tưởng rằng bất cứ người thợ thủ công hoặc 1 công nhân nghèo khổ và trình độ học thức thấp nào cũng đoán hiểu được đúng ý nghĩa của những bài ông viết hay sao ? Như thế là ko sát thực tế lắm đâu.

Giáo sư Phabơritxi quay sang 1 người vai rộng , râu rậm màu nâu , ngồi cạnh ông , hỏi :

- Ông Máctini , ý kiến ông thế nào ?

- Cho tới khi chưa có nhiều sự việc thực tế thì tôi chưa muốn phát biểu vội. Phải thí nghiệm độ vài lần xem kết quả ra sao dã.

- Còn ông , ông Sáccôni ?

- Tôi muốn nghe xem ý kiến bà Bôla thế nào , vì ý kiến của bà thường rất có giá trị.

Mọi người đều dồn mắt về phía 1 người đàn bà duy nhất trong phòng. Bà ngồi trên ghế xô pha, tay chống cằm , im lặng nghe tranh luận. Cặp mắt vốn đen , sâu thẳm và nghiêm nghị của bà bây giờ đang ánh lên 1 tia giễu cợt.

Bà nói :

- Tôi e rằng ý kiến của tôi khác hẳn ý kiến các ông/

Ricácđô xen lời :

- Thường là thế đấy , nhưng khốn nỗi , ý kiến của bà lại thường là đúng.

- Tôi hoàn toàn đồng ý rằng chúng ta phải đấu tranh với phái Giêduýt bằng cách này hay cách khác. Thứ vũ khí này ko dùng được ta dùng thứ khác . Nhưng , thách thức bọn chúng thì chưa đủ , mà lẩn tránh kiểm duyệt lại cũng rất khó khăn...Còn yêu sách thì chỉ là 1 trò trẻ con.

Vẻ mặt hết sức trịnh trọng , Gơratxini nói :

- Thưa bà , tôi mong rằng bà ko đề nghị những thủ đoạn chém giết chứ ?

Nghe câu ấy , Máctini phải đưa tay lên rứt bộ râu rậm , còn Gali thì phá lên cười. Ngay cả người thiếu phụ nghiêm trang kia cũng phải tủm tỉm cười .

Bà nói :

- Các ông hãy tin rằng , nếu tôi là kẻ hung hãn đến như thế , thì chắc hẳn tôi ko đến nỗi ấu trĩ mà đem ra nói công khai ở đây. Thứ vũ khí lợi hại nhất mà tôi biết là sự giễu cợt. Nếu chúng ta đả lích được phái Giêduýt 1 cách sâu cay , làm cho nhân dân chê cười bọn chúng cùng với những tham vọng của bọn chúng , thì chúng ta sẽ thằng mà ko fải đổ máu.

Phabơritxi tiếp lời :

- Tôi thấy bà nói đúng. Nhưng tôi ko hiểu bà sẽ thực hiện bằng cách nào.

Máctini hỏi :

- Tại sao chúng ta lại ko thực hiện được việc đó? Một bài báo châm biếm dễ lọt lưới kiểm duyệt hơn là 1 bài báo nghiêm trang. Nếu có phải nói bóng gió xa xôi thì ngay trong những câu hái hước có vẻ ngớ ngẩn ấy , người đọc thông thường vẫn có thể tìm ra nghĩa kép 1 cách dễ dàng hơn là hiểu nội dung 1 bài luận văn khoa học hoặc kinh tế ?

- Thưa bà , như vậy ý kiến của bà là chúng ta phải xuất bản những sách châm biếm nhỏ hoặc ra 1 tờ báo hài hước chứ gì ? Tôi dám chắc rằng rốt cục cơ quan kiểm duyệt cũng chẳng bỏ qua đâu.

- Ý của tôi ko hẳn phải là một loại nào trong 2 loại ấy. Nếu chúng ta in và bán rẻ hoặc phát ko những tờ truyền đơn châm biếm bằng thơ hoặc bằng văn xuôi thì rất có lợi . Nếu chúng ta lại tìm được 1 hoạ sĩ giỏi nào hiểu được ý chúng ta thì chúng ta có thể còn in những tờ truyền đơn có minh hoạ nữa.

- Nếu ý đó được thực hiện thì thật tuyệt diệu.Nhưng đã chủ trương làm thì phải làm cho ra trò. Chúng ta cần có 1 nhà châm biếm hạng nhất.Vậy tìm đâu ra ?

Nhà soạn kịch Lêga nói thêm :

-Các vị thừa hiểu rằng số đông chúng ta đều là những nhà văn cừ khôi cả. Tôi hết sức tôn trọng cử toạ ở đây. Nhưng tôi e rằng chúng ta mà đóng vai khôi hài thì chẳng khác gì con voi nhay điệu tanrantenla cả thôi.

- Tôi ko hề nói rằng tất cả chúng ta đều phải đi làm 1 việc ko hợp với khả năng của mình. Tôi chỉ nói rằng chúng ta phải cố tìm cho được 1 nhà châm biếm thật sự có tài , mà ở Ý chắc có. Và phải chuẩn bị đầy đủ quỹ đài thọ cho ông ta. Dĩ nhiên , chúng ta phải hiểu người đó và phải chắc chắn rằng người đó theo đúng hướng của chúng ta.

- Nhưng tìm đâu ra ? Tôi có thể đếm đầu ngón tay tất cả những nhà trào phúng ít nhiều có tài , nhưng đó mà kiếm được người thích hợp. Giútxi chắc chẳng thuận đâu , ông ta cũng quá bận việc rồi . Có 1 hoặc 2 nhà văn Lômbácđia có thể làm được , nhưng họ lại viết bằng phương ngữ Milan.

Gơrátxini nói :

- Hơn nữa , chỉ dùng những biện pháp cao siêu hơn thì mới có tác dụng đối với dân Tôxcan. Nếu dùng hình thức bông đùa mà đề cập tới 1 vấn đề nghiêm trang như vấn đề tự do chính trị và tự do tôn giáo thì e rằng ít nhất người ta cũng cho là chúng ta thiếu " savoir faire " về chính trị. Phơlôrăngxơ ko phải là 1 thành phố mở xưởng kiếm lời như Luân Đôn , mà cũng ko phải là ổ xa hoa đàng điếm như Pari . Nó là thành phố có lịch sử vĩ đại...

Bà Bôla mỉm cười , ngắt lời :

- Thì thành phố Aten cũng thế. Nhưng thành phố này " đã trở thành quá lớn và trở thành quá lười nhác mất rồi , cần phải có 1 con ruồi trâu nó đốt cho thì mới thức tỉnh được họ "....

Bác sĩ Ricácđô đập tay xuống bàn :

- Ruồi trâu ! Thế mà chúng ta quên khuấy đi mất ! Đó chính là người chúng ta đang cần!

- Là ai thế ?

- Ruồi trâu - Phêlitrê Rivarét. Các vị ko nhớ ư ? Ông ta thuộc nhóm Muratôri. Ba năm trước , nhóm ấy đã từng tràn từ tren núi xuống đây.

- Ông biết nhóm ấy ư ? Phải rồi , tôi còn nhớ là ông đã tiễn họ đi Pari!

- Phải, tôi cùng Rivarét đến Livóocnô , rồi ở đó tôi tiễn ông ta đi Mácxây. Ông ta ko muốn ở lại Tôxcan . Ông ta nói rằng khời nghĩa thất bại rồi thì chỉ còn biết cười nữa mà thôi, vì vậy tốt nhất là đi Pari. Chắc ông ta cũng đồng ý với ông Gơrátxini rằng Tôxcan ko fải là chỗ để cười. Nhưng nếu chúng ta mời Rivarét và nếu ông ta biết được hiện đã có điều kiện hoạt động ở Ý thì chắc ông ta sẽ trở về. Điều đó tôi có thể tin chắc.

- Ông vừa nói tên là gì nhỉ ?

- Ri-va-rét. Hình như người Bơ-rê-din thì phải. Nói chung là đã từng sống ở Bơ-rê-din. Có lẽ tôi chưa thấy người nào sắc sảo như thế. Lúc bấy giờ ở Li-voóc-nô chúng tôi buồn lắm ! Cứ nghĩ đến Lam-béc-ti-ni đã hy sinh, cũng đủ đau lòng rồi !...Nhưng mỗi khi Ri-va-rét bước vào phòng thì không ai nhin được cười ! Dường như lúc nào ông ta cũng có thể kể mãi được những câu chuyện dí dỏm ! Tôi nhớ nhất là trên mặt ông ta có một vết dao chém rất đáng sợ. Ông ta là người rất kỳ quặc... Nhưng tôi tin rằng những câu chuyện khôi hài của ông ta đã giúp rất nhiều người đau thương lúc đó khỏi tuyệt vọng.

- Có phải ông ta đã viết những bài tiểu luận chính trị trong các báo Pháp ký tên là Le taon ( Le taon : ruồi trâu ) không ?

- Phải, phần lớn những bài báo ngắn và những bài tiểu luận châm biếm. Những kẻ buôn lậu vùng A-pe-nanh gọi ông ta là Ruồi trâu vì miệng lưỡi ông ta cay độc lắm. Và từ đó ông ta lấy cái tên ấy làm biệt hiệu.

Vẫn với giọng trang trọng và chậm rãi, Gơ-rát-xi-ni tham gia bàn luận :

- Tôi cũng có biết qua người ấy. Nhưng tôi không thể nói rằng mọi điều tôi nghe thấy về Ri-va-rét đều là những lời khen ngợi cả. Tất nhiên Ri-va-rét có một trí sắc sảo hấp dẫn bề ngoài nào đó, nhưng tôi có cảm tưởng rằng người ta đã thổi phồng tài cán của ông ta. Rất có thể ông ta không thiếu dũng cảm. Nhưng thanh danh ông ta ở Pa-ri và Viên chưa phải đã là tòan vẹn. Có lẽ ông ta có một cuộc đời đầy phong ba chìm nổi nhưng người ta không hiểu thân thế ông ta ra sao cả. Nghe nói hình như đội thám hiểm Đuy-pơ-rê đã thương hại và thâu nạp ông ta vào đội ở đâu vùng xích đạo Nam Mỹ hoang vu. Lúc ấy ông ta thật là thân tàn ma dại. Theo chỗ tôi biết thì ông ta chưa bao giờ giải thích được rõ rằng tại sao ông ta lưu lạc đến bước ấy. Còn về vụ A-pe-nanh, thì có lẽ không còn ai là người không biết rằng có đủ mọi hạng người phức tạp tham gia cuộc khởi nghĩa thất bại đó. Mọi người đều biết, những kẻ bị xử tử ở Bô-lô-nhơ đều là những kẻ bất lương. chính cống cả. Còn những kẻ đang bỏ trốn thì phẩm chất của nhiều tên trong bọn đó có lẽ cũng chẳng cần nói tới làm gì. Dĩ nhiên, vẫn có vài người thật là có phẩm chất cao quý...

Ri-các-đô ngắt lời Grat-xi-ni, giọng đã có vẻ bực dọc :

- Và những người ấy lại rất thân với nhiều người có mặt tại đây nữa ! Ông Grat-xi-ni ạ, phân biệt tỉ mỉ không vơ đũa cả nắm là những đức tính rất đáng khen, nhưng ông không nên quên rằng những kẻ "kẻ bất lương chính cống" ấy đã hy sinh vì những lý tưởng của mình, thế cũng đủ hơn những cái mà ông hoặc tôi chưa làm được.

Ga-li chêm vào :

- Lần sau hễ có kẻ nào đem những chuyện nhảm nhí ở Pa-ri kể lại với ông thì xin ông nói hộ tôi rằng họ hiểu lầm rất nhiều về đội thám hiểm Đuy-pơ-rê. Tôi có quen người phụ tá của Đuy-pơ-rê tên gọi là Mác-ten. Ông ta kể cho tôi nghe tình đầu, bảo rằng đội thám hiểm đã gặp Ri-va-rét lưu lạc ở nơi nói trên, điều đó đúng. Ri-va-rét đã chiến đấu cho nước cộng hòa Ác-giăng-tin, bị bắt làm tù binh nhưng đã trốn thoát. Sau ông ta cải trang, bôn ba khắp nơi và tìm mọi cách trở về Buênôt Airét. Còn chuyện đội thám hiểm thấy thương hại mà mộ ông vào đội chỉ là một điều hoàn toàn bịa đặt. Thực ra lúc ấy người thông ngôn của đội thám hiểm bị ốm phải trở về nước; những người Pháp thì không hiểu được tiếng địa phương nên họ đề nghị Ri-va-rét giúp làm thông ngôn. Ông ta theo đội thám hiểm đi điều tra các nhánh sông Amadôn suốt ba năm trời. Theo lời Mac-ten, nếu lúc ấy không có Ri-va-rét thì họ không sao hoàn thành được cuộc thám hiểm.

Pha-bơ-ri-xi cũng pha lửng :

- Mặc dù ông ta là người thế nào nhưng đến những nhà thám hiểm từng trải như Mac-ten và Đuy-pơ-rê cũng phải cảm phục thì con người ấy chắc hẳn phải có cái gì xuất sắc. Bà nghĩ thế nào thưa bà ?

- Tôi không biết tí gì về ông ta cả. Khi họ chạy trốn qua Tôs-can thì tôi càng đang ở bên Anh. Nhưng nếu những người bôn ba khắp nơi với Ri-va-rét suốt ba năm trời và cả những đồng chí đã tham gia khởi nghĩa cũng đều nhận thấy ông ta tốt thì tôi thiết tưởng thế là đủ, cần gì phải đếm xỉa tới những xó chợ đầu đường.

Ri-cac-đô nói :

- Về ý kiến các đồng chí của ông ta thì chẳng phải bàn nữa. Từ Mu-ra-tô-ri đến Dăm-béc-ca-ri cho chí những dân miền núi thô lỗ nhất, ai ai cũng hết lòng kính phục ông ta. Ngoài ra ông ta còn là bạn thân của Ooc-xi-ni ( Ooc-xi-ni Phê-li-trê (1819-1858)- Một nhà hoạt động của phong trào giải phóng dân tộc ở Ý, sau khi ám sát hụt vua Napôlêông III của Pháp thì bị xử tử tại Pari ). Mặt khác, cũng đúng là ở Pari người ta bàn tán nhảm nhí đủ điều về ông ta, những kẻ nào thù hằn cá nhân thì sao viết được văn châm biếm về chính trị.

Lê-ga nói :

- Tôi không nhớ rõ lắm, nhưng hình như khi những người lánh nạn chính trị chạy qua đây đã có lần thấy ông ta. Có lẽ ông ta hơi gù, hơi khập khiễng hoặc là có một tật gì đó.

Nhà giáo sư liền rút ô kéo bàn viết lấy ra một tập giấy, lật hết tờ nọ đến tờ kia rồi nói :

- Hình như tôi có giữ một tờ cáo thị truy nã của sở cảnh sát tả nhận dạng ông ta. Chắc các ông còn nhớ là khi họ chạy trốn lên núi thì đâu đâu cũng dán đầy cáo thị tả nhận dạng họ. Còn lão giáo chủ...tên thằng cha khốn nạn ấy là gì nhỉ ?...À, lão Spi-lô-na ! ( Spi-lô-na - Hồng y giáo chủ, một trong những tay chân đắc lực của giáo hoàng đàn áp rất dã man những người tham gia các cuộc khởi nghĩa 1830-1840 ) Chính lão đã treo giải thưởng lấy đầu nghĩa quân. Về việc này, người ta kể một câu chuyện rất lý thú về Ri-va-rét. Chuyện kể rằng Ri-va-rét mặc một bộ đồ lính cũ đi lang thang khắp nơi, vờ như làm một kỵ binh bị thương đi tìm đồng đội. Đang đi thì đụng ngay phải một đội lính mà Spi-nô-la phái đi lùng bắt ông. Ông ta ngồi suốt ngày với bọn lính trên một chiếc xe, kể cho chúng nghe những chuyện khiếp vía, nào là bọn phiến loạn bắt ông làm tù binh, nào là chúng đưa ông lên sào huyệt ở trên núi và tra tấn ông ghê gớm. Bọn lính có thị tả nhân dạng cho ông xem, thế mà ông cứ điềm nhiên kể cho chúng nghe đủ mọi thứ chuyện hoang đường về tên quỷ sứ ruồi trâu mãi. Đến đêm, khi bọn lính đi ngủ cả rồi, Ri-va-rét đổ một thùng nước lớn vào túi thuốc đạn của chúng, nhét đầy lương thực và đạn vào túi mình rồi tẩu thoát...À, tờ cáo thị ấy đây rồi ! Pha-bơ-ri-xi ngừng chuyện - " Phê-li-trê Ri-va-rét, biệt hiệu Ruồi trâu. Tuổi gần ba mươi. Nguyên quán và gia đình : Không rõ, nhưng có thể là ở Nam Mỹ. Nghề nghiệp : Làm báo. Người thấp. Tóc đen, râu đen, da ngăm ngăm, mắt xanh. Trán cao và vuông. Mũi, mồm, cằm.." À còn nữa : " Đặc điểm chân phải đi khập khiễng, cánh tay trái khòng khoèo, bàn tay trái mất hai ngón. Có vết dao chém trên mặt. Nói lắp". Chỗ này có chú thích thêm : Bắn rất giỏi - khi bắt phải coi chừng".

- Kể cũng thật lạ lùng ! Nhân dạng tả kỹ như thế mà làm sao ông ta vẫn bịp được cả một đội lính ?

- Dĩ nhiên ông ta phải là người gan dạ phi thường nên mới thoát được. Chỉ cần bọn chúng tình nghi một chút là chết ngay. Sở dĩ ông ta thoát được mọi hiểm nghèo là vì ông ta làm ra vẻ ngời nghệch hết sức khéo...Thưa các vị, vậy các vị nghĩ sao ? Té ra nhiều người chúng ta biết rõ Ri-va-rét cả nhỉ ? Thế thì ta viết thư mời ông ta đến giúp chứ ?

Pha-bơ-ri-xi nói :

- Tôi nghĩ trước hết cũng vẫn nên cho ông ta biết kế hoạch của chúng ta và thăm dò xem ông ta có tán thành không.

- Còn phải xem điều gì nữa, cứ nói đến vấn đề đấu tranh chống phái Giê-dúyt là Ri-va-rét tán thành ngay. Tôi chưa thấy người nào chống phá giáo hội kịch liệt như vậy. Về phương diện ấy ông ta thật hăng máu.

- Vậy ông Ri-cac-đô viết thư nhé ?

- Được, tôi sẽ viết. Nhưng để tôi nhớ xem bây giờ ông ta ở đâu đã. Hình như ở Thụy sĩ thì phải. Thật là một con người ham hoạt động : suốt đời bôn ba đây đó. À, thế còn vấn đề các bài báo châm biếm...

Cuộc tranh luận kéo dài và sôi nổi. Khi mọi người sắp sửa giải tán, Mác-ti-ni tiến lại gần người thiếu phụ trầm mặc đó.

- Giê-ma, tôi đưa Giê-ma về nhé.

- Cám ơn Mac-ti-ni. Tôi cũng có việc muốn bàn với anh.

Mác-ti-ni khẽ hỏi :

- Vấn đề địa chỉ lại có gì lôi thôi phải không ?

- Không có gì nghiêm trọng lắm. Nhưng tôi thấy đã đến lúc cần thay đổi đi đôi chút. Tuần này bưu điện có giữ lại hai bức thư. Cả hai đều không có gì cả, và có lẽ ngẫu nhiên họ giữ lại thôi. Nhưng không thể mạo hiểm được. Nếu cảnh sát tình nghi một trong những địa chỉ của chúng ta là lập tức phải đổi ngay tất cả mọi địa chỉ khác.

- Sáng mai tôi sẽ đến chỗ Giê-ma. Bây giờ không nên bàn việc nữa. Trông Giê-ma có vẻ mệt mỏi rồi.

- Tôi không mệt đâu.

- Thế chắc lại lo nghĩ gì rồi ?

- Ồ, không có gì đâu.

RUỒI TRÂU
Chương 9

- Kê-ti, bà Bô-la có nhà không ?

- Dạ thưa ông có, bà con đang mặc áo, mời ông vào phòng khách, bà con xuống bây giờ.

Kê-ti đón khách với thái độ thân tình niềm nở đặt biệt của các cô gái vùng Đi-vô-sơ. Mac-ti-ni là một trong những người được Kê-ti đặc biệt quý mến. Mác-ti-ni nói tiếng Anh lẽ dĩ nhiên là như người ở nước ngoài nói tiếng Anh, nhưng nói rất giỏi - khác với mọi người khách, ông không bao giờ ngồi tới một giờ đêm, bàn chính trị oang oang, chẳng kể gì đến sự mệt nhọc của bà chủ. Hơn thế nữa, trong khi bà Bô-la đương gặp lúc đau khổ nhất là con chết, chồng hấp hối thì Mac-ti-ni đã tới Đi-vôn-sơ để giúp đỡ bà . Từ đó trở đi con người cao lớn, vụng về và ít nói đó đối với Kê-ti đã trở thành "người nhà" giống như con Pát - con mèo đen lười biếng đang nằm phục trên lòng ông ta. Còn con Pát thì cũng xem Mac-ti-ni như một thứ đồ đạc gì đó rất có ích trong nhà này. Ông khách này không bao giờ dẫm vào đuôi nó, không thở khói thuốc vào mắt nó và nói chung là một giống vật đi hai chân rất dễ dãi. Ông cư xử đúng như một con người : ông cho phép nó tự do nằm rù rù trên lòng ông; khi ngồi vào bàn ăn, ông luôn nhớ rằng mèo không chỉ thích ngồi nhìn người ta ăn cá. Tình bạn giữa mèo và ông đã có từ lâu. Khi Pát còn là mèo con, thì Mac-ti-ni đã chăm sóc nó, bỏ nó vào giỏ mang từ Anh sang Ý vì lúc đó bà chủ đang ốm không thể chăm nom nó được. Và từ đó trở đi, Pát đã có nhiều dịp để thấy rằng con gấu người vụng về ấy là một người bạn chí tình của nó.

Giê-ma bước vào phòng vừa nói :

- Cả mèo lẫn người cùng ngồi ấm cúng gớm nhỉ ! Dễ thường định ngồi như thế suốt buổi chiều đấy chắc ?

Mac-ti-ni nâng niu mèo ra khỏi lòng. Ông nói :

- Tôi đến sớm xin một cốc nước trà trước khi lên đường. Chỗ Grát-xi-ni hôm nay chắc đông người và ăn kém lắm. Những nhà kiểu cách như thế thường cho ăn uống chẳng ra làm sao.

Giê-ma bật phì cười :

- Úi chà ! Miệng anh cũng ác chẳng kém gì Ga-li. Rõ khổ, bao nhiêu tội vạ đổ lên đầu Grát-xi-ni chưa đủ hay sao mà còn bắt ông ta chịu tội thay cho bà vợ kém đảm đang nữa ! Trà có ngay bây giờ. Kê-ti đặc biệt làm cho anh một ít bánh ga-tô Đi-vôn-so đấy.

- Cô Kê-ti hẳn là tốt rồi, phải không Pát nhỉ ? Với lại, cả Giê-ma cũng tốt nữa, Giê-ma ạ ! Giê-ma đã mặc chiếc áo đẹp mà tôi thích. Thế mà tôi cứ lo Giê-ma quên mất đấy !

- Chiều nực thế này mặc nó hơi nóng, nhưng đã hứa với anh rồi thì phải mặc.

Chả sao đâu, đến Phê-dô-lê sẽ mát hơn nhiều. Giê-ma mặc thứ vải casơmia trắng ấy đẹp lắm. Tôi mang mấy bông hoa đến cho hợp với bộ quần áo đấy.

- Thích quá ! Những bông hồng tuyệt đẹp ! Nhưng để cắm lọ thì tốt hơn. Tôi không thích cài hoa vào áo đâu.

- Lại mê tín rồi !

- Không phải thế đâu. Tôi chỉ sợ mình vô duyên thế này mà cài hoa vào thì chỉ làm cho hoa buồn uổng công suốt tối nay thôi.

- Tôi cũng lo tất cả chúng ta đều buồn uổng suốt cả tối nay, và e rằng những câu chuyện tối nay thế nào cũng sẽ vô duyên không chịu nổi.

- Sao thế ?

- Một phần là bởi hễ Grát-xi-ni mó tới đâu là vô duyên tới đấy, vô duyên như bản thân hắn vậy.

- Chớ nên ghét bỏ người ta như thế ! Đến thăm người ta lại nói xấu người ta như thế mà không biết thẹn à !

- Thưa bà chị, bà chị nói bao giờ cũng đúng. Vậy nói thế này nhé : vô duyên là vì đa số những người nói chuyện thú vị chiều nay lại không đến được.

- Tại sao ?

- Người thì đi vắng, người thì ốm, người thì bận gì đó tôi không rõ nữ. Chắc chỉ còn hai ba vị sứ thần, vài học giả Đức, mấy vương tước Nga là đám người đủ màu sắc ta thường thấy. Ngoài ra còn một hai người trong giới văn học và vài văn võ quan người Pháp. Theo chỗ tôi biết thì chẳng còn ai nữa ngoài một nhà văn châm biếm mới tới. Có lẽ ông ta sẽ đóng vai trò chính.

- Nhà văn châm biếm mới à ? Sao ? Ri-va-rét ấy ư ? Nhưng hình như Grat-xi-ni cũng muốn mọi người gặp vị danh nhân ấy ở nhà mình trước tiên. Chắc Ri-va-rét chưa ngờ tới Grat-xi-ni đối với ông ta như thế nào. Nhưng rồi cũng đoán ra vì ông ta cũng tinh lắm.

- Ông ấy đã đến đây rồi mà tôi không biết nhỉ !

- Mới đến hôm qua...Trà đây rồi. Không, chị đừng đứng dậy, tôi sẽ tự lấu bình trà đến.

Mac-ti-ni cảm thấy không đâu dễ chịu bằng trong phòng khách nhỏ này. Giê-ma đối với anh rất thân mật, chị hoàn toàn không biết rằng đối với anh, chị có một sức hấp dẫn rất lớn, chị lại giản dị và chân thành trong tình đồng chí - tất cả những điều đó chiếu sáng cuộc đời không lấy làm vui vẻ gì của Mac-ti-ni . Mỗi lần Mac-ti-ni thấy buồn tẻ khác thường thì anh lại đến đây ngồi sau giờ làm việc , thường thường là để im lặng nhìn Giê-ma căm cụi khâu vá hoặc chuyện trò. Giê-ma không hỏi gì Mac-ti-ni , mà cũng không biểu lộ một cảm tình nào qua lời nói cả. Tuy vậy, mỗi khi giã từ Giê-ma, Mac-ti-ni vẫn thấy mình hăng hái hơn, yên tâm hơn và cảm thấy, như lời anh nói, "còn có thể sống qua một hai tuần lễ nữa". Giê-ma có tài an ủi hiếm có, mặc dù chị không biết rằng mình có tài ấy. Hai năm trước đây, khi các bạn thân của Mac-ti-ni bị phản bội ở Ca-la-bơ-ri và bị bắn chết như một bầy chó sói, thì lúc ấy chỉ có lòng tin vững mạnh không gì lay chuyển nổi của Giê-ma mới cứu được Mac-ti-ni thoát khỏi tuyệt vọng.

Những ngày chủ nhật, thỉnh thoảng Mac-ti-ni lại đến nhà Giê-ma vào buổi sáng để "bàn việc", nghĩa là, để bàn công tác của Đảng Mat-di-ni mà cả hai đều là những Đảng viên đắc lực và trung thành. Trong những giờ phút ấy, Giê-ma biến đổi hẳn, chị trở nên sắc bén, trầm tĩnh, lập luận vững chắc, rất chính xác và công bằng. Những người chỉ biết Giê-ma qua công tác chính trị đều cho rằng chị là một nhà cách mạng bí mật dày dặn kinh nghiệm, có kỷ luật, đáng tin cậy, dũng cảm, là một đảng viên đáng quý về mọi phương diện, nhưng có phần nào ít hiểu biết về cuộc sống và thiếu cá tính rõ rệt. Ga-li nói : " Chị ta là một nhà cách mạng bí mật bẩm sinh , đáng giá bằng hàng chục những người như chúng ta, nhưng ngoài những điều đó chị ta chẳng có gì khác cả ". Mac-ti-ni rất hiểu Giê-ma. Nhưng đối với nhiều người khác thì con người của chị vẫn còn rất khó hiểu.

Vừa mở tủ, Giê-ma vừa ngoái nhìn Mác-ti-ni và hỏi :

- Vậy nhà Xê-da ạ, có kẹo mạch nha và mứt hộp cho anh đây. Tại sao những người cách mạng đều thích của ngọt cả thế nhỉ

- Người khác cũng thích đấy chứ, nhưng vì thể diện nên họ không dám đấy thôi...Còn nhà châm biếm mới ư ? Đó là một kiểu người mà những người phụ nữ bình thường rất dễ ưa thích, nhưng chắc Giê-ma thì chẳng ưa đâu. Đó là một con người chuyên sống về nghề nói những câu châm chọc, bôn tẩu khắp nơi với một vẻ khổ đau và với một cô vũ nữ ba lê xinh đẹp đi theo sau.

- Có vũ nữ thật không, hay vì không bằng lòng nên anh lại muốn bắt chước những lời châm chọc đấy ?

- Lạy trời phù hộ ! Vũ nữ có thật lắm chứ, và cũng thật xinh đẹp nữa chứ ! Những người nào thích vẻ đẹp cay độc thì chắc ưa cô ta lắm. Nhưng sở thích của tôi thì lại khác. Theo lời Ri-cac-đô thì đâu cô ta là người tsi-gan Hungari thì phải. Ri-va-rét xin được cô ta ra khỏi gánh hát tỉnh nhỏ ở Ga-la-xi. Chàng Ruồi trâu của chúng ta thật là trơ tráo, đi đâu cũng giới thiệu người vũ nữ ấy như một bà cô vậy.

- Thì đã sao. Đưa được cô ấy ra khỏi cảnh sống tối tăm là một cử chỉ rất đẹp của ông ta.

- Nhưng với chuyện ấy, xã hội người ta quan niệm khác, chứ có như Giê-ma đâu. Chắc trên đời này ít ai cho rằng làm quen với cô ta là một vinh dự lớn khi biết rõ đó là tình nhân của ông ta.

- Tại sao họ biết cô ta là tìn nhân hay không tình nhân ? Có phải ông ta nói thế không ?

- Còn nghi ngờ gì nữa, thoáng trông cô ta cũng đủ rõ. Nhưng tôi cứ cho rằng Ri-va-ret không dám cả gan đưa cô ta đến nhà Grat-xi-ni đâu.

- Mà cũng chưa chắc họ đã tiếp cô ấy. Bà Grat-xi-ni không phải là người phụ nữ dễ chịu để cho những chuyện phá giới như thế trong nhà mình đâu. Nhưng tôi muốn biết Ri-va-ret về tài châm biếm hơn là đời tư của ông ta. Pha-bơ-ri-xi nói đã nhận được thư của Ri-va-ret và ông ta đã đồng ý tới đây gây phong trào chống phái Giê-duýt. Ngoài ra tôi không được biết gi hơn. Tuần qua công việc bề bộn quá....

- Tôi cũng chẳng biết gì hơn. Về vấn đề tiền nong thì không đến nỗi khó khăn như trước đây đã tưởng. Hình như ông ta không túng thiếu gì và sẵn sàng làm việc không lấy tiền.

- Thế có nghĩa là ông ta có tài sản riêng chứ gì ?

- Chắc thế. Kể ra thì cũng lạ thật. Chắc Giê-ma còn nhớ tối hôm đó khi họp ở nhà giáo sư Pha-bơ-ri-xi có người kể chuyện là khi đội thám hiểm Đuy-pơ-rê mời ông ta vào làm gì thì ông ta tang thương lắm. Nhưng giờ lại nghe nói ông ta có cổ phần ở vùng mỏ Bơ-rê-din, ngoài ra ông ta lại thành công rất lớn trong nghề đoản văn ở Pa-ri, Viên và Luân đôn. Hình như ông ta thông thạo tới năm sáu thứ tiếng. Cho nên, mặc dù ở đây, ông ta vẫn có thể tiếp tục liên lạc được với báo chí nước ngoài như thường. Chửi bới bọn Giê-duýt cũng chẳng mất hết thời giờ của ông ta.

- Đúng đấy...nhưng đến giờ đi rồi, Xê-da ạ. Tôi cài mấy bông hồng đã nhé. Anh chờ tôi một lát.

Giê-ma lên gác và phút chốc trở xuống, mấy bông hồng cài trước ngực, đầu quấn một chiếc khăn thêu đen dài kiểu Tây Ban Nha. Mác-ti-ni nhìn chị với con mắt hoạ sĩ và nói :- Giê-ma thật là một bà chúa, Giê-ma ạ, bà chúa Siba vĩ đại và sáng suốt .

Giê-ma cười , chối nguyây nguẩy :

- Sao lại nói năng tệ bạc thế, nhất là anh biết rằng tôi đã tốn bao nhiêu công phu mới làm được ra vẻ một bà lịch thiệp đấy chứ. Làm cách mạng bí mật mà giống như bà chúa Siba thì hoạt động sao được. Chỉ tổ cho mật thám chú ý mà thôi !

- Giê-ma làm thế nào cũng chẳng thể giống mấy mụ quen thói xã giao ăn không ngồi rồi được đâu. Nhưng không can chi. Giê-ma rất đẹp nên mật thám trông thấy cũng chẳng ngờ tới chính kiến của Giê-ma cho dù Giê-ma không biết bắt chước bà Grat-xi-ni đi đâu cũng lấy quạt che miệng cười khúc khích đi nữa.

- Thôi, Xê-da, anh đừng làm tội người đàn bà đáng thương ấy nữa. Để miệng lưỡi ấy mà nếm kẹo mạch nha cho dịu bớt độc ác đi...Xong chưa ? Nào, giờ ta đi thôi.

Mác-ti-ni đoán rất đúng. Buổi gặp mặt tối hôm ấy vừa đông lại vừa vô duyên. Mấy nhà văn tán hươu tán vượn một cách rất khách sáo, xem chừng rất ngán ngẩm. Còn đám người du lich và vương tước Nga đủ màu sắc thì hết mò hết phòng nọ sang phòng kia gặp ai cũng hỏi thăm các danh nhân để cố nói cho được những câu chuyện văn hoa.

Grat-xi-ni tiếp khách với một thứ lễ độ cũng trơn bóng như đôi giày của ông ta vậy. Nhưng khi trông thấy Giê-ma thì bộ mặt lạnh lùng của ông ta sáng hẳn lên. Thật ra Grat-xi-ni không ưa gì Giê-ma và trong thâm tâm còn có phần e sợ nàng nữa là khác. Nhưng ông ta hiểu rằng nếu không có người thiếu phụ ấy thì phòng khách của ông sẽ mất sức hấp dẫn đi nhiều lắm. Grat-xi-ni làm ăn phát tài, phất rất nhanh trong nghề nên bây giờ đâm ra giàu có và nổi danh. Ông định biến nhà riêng thành nơi trung tâm của giới trí thức tự do. Nhiều lần ông cay đắng thừa nhận rằng người vợ mà ông trót lấy thời trẻ chỉ là một người đàn bà thấp bé diêm dúa và vô vị, ăn nói vô duyên mà sắc đẹp đã phai tàn, không thể làm chủ một phòng khách văn học lớn như thế. Khi được tin Giê-ma đến ông rất yên tâm tin rằng buổi gặp mặt sẽ thành công rực rỡ. Những cử chỉ khoan thai và thanh tú của người thiếu phụ ấy đem đến cho mọi người cảm giác nhẹ nhàng thoải mái và chỉ riêng sự có mặt của nàng cũng xua tan được bầu không khí dung tục mà theo ông tưởng tượng vẫn lẩn quất trong căn nhà này.

Bà Grat-xi-ni đón tiếp Giê-ma rất thân tình :

- Trông bà hôm nay xinh quá !

Bà vừa bô bô nói thầm với Giê-ma như thế vừa nhìn bộ áo bằng vải casơmia của chị với con mắt xoi mói ghen tị.

Bà Grat-xi-ni ghét cay ghét đắng Giê-ma chính là ở những nét Mac-ti-ni lại yêu mến : từ tính điềm đạm, thẳng thắn cho đến tâm trí lành mạnh và cả nét mặt của chị nữa. Nhưng khi bà Grat-xi-ni căm ghét một phụ nữ thì thái độ của bà ta lại tỏ ra quá mức niềm nở. Giê-ma thừa hiểu giá trị những lời khen sởi lởi ấy và không vì thế mà bận tâm. Đối với chị, việc đi vào xã hội như thế là một nhiệm vụ nhọc nhằn, không lấy gì làm thích thú, mà người cách mạnng bí mật phải làm tròn một cách có ý thức để tránh sự chú ý của mật thám. Chị cho công tác đó mệt óc không kém gì công tác mật mã và biết rằng muốn khỏi bị tình nghi thì điều đó có giá trị thực tế là phải làm cho mình nổi tiếng như một người đàn bà khéo ăn mặc. Vì thế chị đã phải nghiên cứu các báo quảng cáo mốt ăn mặc tỉ mỉ không khác gì việc nghiên cứu cách đọc mật mã cả.

Nghe tin Giê-ma tới, mặt các danh sĩ đang tẻ ngán bỗng sáng sủa hẳn lên vì Giê-ma vốn rất nổi danh trong giới này. Các nhà báo cấp tiến xô cả lại phía chị. Nhưng Giê-ma là nhà hoạt động bí mật kinh nghiệm có thừa nên chị không chịu để cho mình bị họ độc chiếm. Phe cấp tiến thì ngày nào mà chẳng gặp được họ ! Vì thế chị nhẹ nhàng bảo họ nên đi làm nhiệm vụ trước mắt của họ, mỉm cười nhắc họ không nên uổng phí thời gian đi tuyên truyền giác ngộ cho chị mà nên đi nói chuyện với biết bao khách du lịch tới thăm. Còn chị thì tìm đến nói chuyện với một nghị sĩ nước Anh vì sự đồng tình của ông này là rất cần thiết cho đảng Cộng hoà. Biết ông ta chuyên về vấn đề tài chính , nên đầu tiên Giê-ma hỏi ý kiến ông ta về một vần đề chuyên môn có liên quan đến tiền tệ nước Áo, rồi sau đó khéo léo lái câu chuyện sang vấn đề ngân sách của vùng Lôm-bac-đi và vùng Vơ-ni-dơ. Nhà nghị sĩ nước Anh vốn chờ đợi một câu chuyện xã giao thông thường và tẻ ngắt nhìn Giê-ma một cách lo ngại, dáng chừng sợ mắc phải cạm bẫy của một nhà văn kiêu kỳ. Nhưng sau khi bắt chuyện với người thiếu phụ ấy, ông ta thấy hứng thú chẳng kém gì ngắm chị nên đành chịu hàng phục hoàn toàn và bàn bạc rất sâu về tình hình tài chính nước Ý, chẳng khác gì người đang tiếp chuyện ông chính là Met-te-nich vậy và khi - Tôi cũng chẳng biết gì hơn. Về vấn đề tiền nong thì không đến nỗi khó khăn như trước đây đã tưởng. Hình như ông ta không túng thiếu gì và sẵn sàng làm việc không lấy tiền.

- Thế có nghĩa là ông ta có tài sản riêng chứ gì ?

- Chắc thế. Kể ra thì cũng lạ thật. Chắc Giê-ma còn nhớ tối hôm đó khi họp ở nhà giáo sư Pha-bơ-ri-xi có người kể chuyện là khi đội thám hiểm Đuy-pơ-rê mời ông ta vào làm gì thì ông ta tang thương lắm. Nhưng giờ lại nghe nói ông ta có cổ phần ở vùng mỏ Bơ-rê-din, ngoài ra ông ta lại thành công rất lớn trong nghề đoản văn ở Pa-ri, Viên và Luân đôn. Hình như ông ta thông thạo tới năm sáu thứ tiếng. Cho nên, mặc dù ở đây, ông ta vẫn có thể tiếp tục liên lạc được với báo chí nước ngoài như thường. Chửi bới bọn Giê-duýt cũng chẳng mất hết thời giờ của ông ta.

- Đúng đấy...nhưng đến giờ đi rồi, Xê-da ạ. Tôi cài mấy bông hồng đã nhé. Anh chờ tôi một lát.

Giê-ma lên gác và phút chốc trở xuống, mấy bông hồng cài trước ngực, đầu quấn một chiếc khăn thêu đen dài kiểu Tây Ban Nha. Mác-ti-ni nhìn chị với con mắt hoạ sĩ và nói :- Giê-ma thật là một bà chúa, Giê-ma ạ, bà chúa Siba vĩ đại và sáng suốt .

Giê-ma cười , chối nguyây nguẩy :

- Sao lại nói năng tệ bạc thế, nhất là anh biết rằng tôi đã tốn bao nhiêu công phu mới làm được ra vẻ một bà lịch thiệp đấy chứ. Làm cách mạng bí mật mà giống như bà chúa Siba thì hoạt động sao được. Chỉ tổ cho mật thám chú ý mà thôi !

- Giê-ma làm thế nào cũng chẳng thể giống mấy mụ quen thói xã giao ăn không ngồi rồi được đâu. Nhưng không can chi. Giê-ma rất đẹp nên mật thám trông thấy cũng chẳng ngờ tới chính kiến của Giê-ma cho dù Giê-ma không biết bắt chước bà Grat-xi-ni đi đâu cũng lấy quạt che miệng cười khúc khích đi nữa.

- Thôi, Xê-da, anh đừng làm tội người đàn bà đáng thương ấy nữa. Để miệng lưỡi ấy mà nếm kẹo mạch nha cho dịu bớt độc ác đi...Xong chưa ? Nào, giờ ta đi thôi.

Mác-ti-ni đoán rất đúng. Buổi gặp mặt tối hôm ấy vừa đông lại vừa vô duyên. Mấy nhà văn tán hươu tán vượn một cách rất khách sáo, xem chừng rất ngán ngẩm. Còn đám người du lich và vương tước Nga đủ màu sắc thì hết mò hết phòng nọ sang phòng kia gặp ai cũng hỏi thăm các danh nhân để cố nói cho được những câu chuyện văn hoa.

Grat-xi-ni tiếp khách với một thứ lễ độ cũng trơn bóng như đôi giày của ông ta vậy. Nhưng khi trông thấy Giê-ma thì bộ mặt lạnh lùng của ông ta sáng hẳn lên. Thật ra Grat-xi-ni không ưa gì Giê-ma và trong thâm tâm còn có phần e sợ nàng nữa là khác. Nhưng ông ta hiểu rằng nếu không có người thiếu phụ ấy thì phòng khách của ông sẽ mất sức hấp dẫn đi nhiều lắm. Grat-xi-ni làm ăn phát tài, phất rất nhanh trong nghề nên bây giờ đâm ra giàu có và nổi danh. Ông định biến nhà riêng thành nơi trung tâm của giới trí thức tự do. Nhiều lần ông cay đắng thừa nhận rằng người vợ mà ông trót lấy thời trẻ chỉ là một người đàn bà thấp bé diêm dúa và vô vị, ăn nói vô duyên mà sắc đẹp đã phai tàn, không thể làm chủ một phòng khách văn học lớn như thế. Khi được tin Giê-ma đến ông rất yên tâm tin rằng buổi gặp mặt sẽ thành công rực rỡ. Những cử chỉ khoan thai và thanh tú của người thiếu phụ ấy đem đến cho mọi người cảm giác nhẹ nhàng thoải mái và chỉ riêng sự có mặt của nàng cũng xua tan được bầu không khí dung tục mà theo ông tưởng tượng vẫn lẩn quất trong căn nhà này.

Bà Grat-xi-ni đón tiếp Giê-ma rất thân tình :

- Trông bà hôm nay xinh quá !

Bà vừa bô bô nói thầm với Giê-ma như thế vừa nhìn bộ áo bằng vải casơmia của chị với con mắt xoi mói ghen tị.

Bà Grat-xi-ni ghét cay ghét đắng Giê-ma chính là ở những nét Mac-ti-ni lại yêu mến : từ tính điềm đạm, thẳng thắn cho đến tâm trí lành mạnh và cả nét mặt của chị nữa. Nhưng khi bà Grat-xi-ni căm ghét một phụ nữ thì thái độ của bà ta lại tỏ ra quá mức niềm nở. Giê-ma thừa hiểu giá trị những lời khen sởi lởi ấy và không vì thế mà bận tâm. Đối với chị, việc đi vào xã hội như thế là một nhiệm vụ nhọc nhằn, không lấy gì làm thích thú, mà người cách mạnng bí mật phải làm tròn một cách có ý thức để tránh sự chú ý của mật thám. Chị cho công tác đó mệt óc không kém gì công tác mật mã và biết rằng muốn khỏi bị tình nghi thì điều đó có giá trị thực tế là phải làm cho mình nổi tiếng như một người đàn bà khéo ăn mặc. Vì thế chị đã phải nghiên cứu các báo quảng cáo mốt ăn mặc tỉ mỉ không khác gì việc nghiên cứu cách đọc mật mã cả.

Nghe tin Giê-ma tới, mặt các danh sĩ đang tẻ ngán bỗng sáng sủa hẳn lên vì Giê-ma vốn rất nổi danh trong giới này. Các nhà báo cấp tiến xô cả lại phía chị. Nhưng Giê-ma là nhà hoạt động bí mật kinh nghiệm có thừa nên chị không chịu để cho mình bị họ độc chiếm. Phe cấp tiến thì ngày nào mà chẳng gặp được họ ! Vì thế chị nhẹ nhàng bảo họ nên đi làm nhiệm vụ trước mắt của họ, mỉm cười nhắc họ không nên uổng phí thời gian đi tuyên truyền giác ngộ cho chị mà nên đi nói chuyện với biết bao khách du lịch tới thăm. Còn chị thì tìm đến nói chuyện với một nghị sĩ nước Anh vì sự đồng tình của ông này là rất cần thiết cho đảng Cộng hoà. Biết ông ta chuyên về vấn đề tài chính , nên đầu tiên Giê-ma hỏi ý kiến ông ta về một vần đề chuyên môn có liên quan đến tiền tệ nước Áo, rồi sau đó khéo léo lái câu chuyện sang vấn đề ngân sách của vùng Lôm-bac-đi và vùng Vơ-ni-dơ.

Nhà nghị sĩ người Anh vốn chờ đợi một câu chuyện xã giao thông thường và tẻ ngắt , nhìn Giê-ma một cách lo ngại, dáng chừng sợ mắc phải cạm bẫy của một nhà văn kiêu kỳ. Nhưng sau khi bắt chuyện với người thiếu phụ ấy, ông ta thấy hứng thú chẳng kém gì ngắm chị nên đành chịu hàng phục hoàn toàn và bàn bạc rất sâu về tình hình tài chính của nước Ý, chẳng khác gì người đang tiếp chuyện với ông là Mét-to-nich vậy

(Met-tô-nich (1773-1859 : tể tướng " sắt và máu" nước Áo, người đại diện tiêu biểu nhất của liên minh phong kiến phản động châu Âu, người Ý rất căm thù vì hắn đã ra lệnh thi hành một chính sách khủng bố và đàn áp dã man những năm 1815-1848) Và khi Grat-xi-ni dẫn tới chỗ Giê-ma một người Pháp muốn tìm hiểu thành lập Đảng nước Ý trẻ thì viên nghị sĩ Anh đứng dậy, với một cảm giác hầu như tin tưởng rằng người Ý có đủ lý do để bất mãn hơn là ông tưởng trước đây.

Khi buổi gặp mặt sắp kết thúc, Giê-ma nhẹ nhàng rời phòng khách lẩn ra sân ngoài. Chị muốn ngồi một mình trong giây lát dưới rặng trà hoa và trúc đào cao lớn.. Không khí ngột ngạt và dòng người tấp nập làm cho chị nhức đầu, choáng váng.

Ở cuối sân ngoài là một dãy thùng gỗ trồng cây dừa và cây lưỡi mèo cao. Chung quanh dãy thùng lại là môjt hàng hoa bách hợp và những cây hoa khác. Tất cả những cái đó kết thành một tấm bình phong dày đặc. Sau tấm bình phong ấy là một khoảng trống nhìn ra khung cảnh tuyệt vời của vùng thung lũng phủ đầy hoa cuối mùa rủ xuống lối đi hẹp giữa hai rặng cây.

Giê-ma len lỏi vào trong góc ấy để cho chẳng ai tìm được mình nữa. Chị muốn nghỉ ngơi yên tĩnh một mình để đỡ nhức đầu. Đêm ấy rất ấm áp, tĩnh mịch và dịu đẹp nhưng Giê-ma vừa ở trong phòng tiếp khách ra nên chị cảm thấy trời có vẻ lạnh. Chị lấy khăn mang theo quấn lên đầu.

Chị đang thiu thiu chợp mắt thì bỗng tiếng người nói và tiếng chân lại gần làm chị bừng tỉnh. Chị lui nữa vào bóng tối để khỏi bị người ta trông thấy và để giành thêm mấy phút yên tĩnh quý giá trước khi trở vào phòng khách với những câu chuyện làm căng thẳng cân não đã mệt mỏi. Nhưng khốn thay, những bước chân đã dừng lại ngay cạnh tấm bình phong cây lá. Tiếng nói nhỏ nhẻ thanh thanh đang tuôn ra như suối của bà Grat-xi-ni chợt im bặt. Tiếp đó là một tiếng người đàn ông nghe êm ái và du dương; nhưng người đó có thói nói kéo dài nên đôi chút khó nghe. Tại sao lại nói kéo dài thế ? Phải chăng đó là vì kiểu cách hoặc là vì phải cố gắng thường xuyên để che giấu một tật gì trong giọng nói ? Nhưng dù sao người nghe vẫn có một cảm giác rất khó chịu

Tiếng nói đó hỏi :

- Người Anh à ? Nhưng tên bà ấy lại là tên Ý. Bà nói tên là Bô-la phải không ?

- Phải. Bà ta là vợ goá của ông Giôvani Bôla đã bất hạnh từ trần đấy mà. Ông còn nhớ không, ông ta chết ở Anh cách đây khoảng bốn năm. Phải rồi, thế mà tôi cứ quên : ông sống nay đây mai đó thì làm sao nhớ hết được tên những liệt sĩ mà Tổ quốc bất hạnh của chúng tôi. Hàng bao nhiêu người ấy chứ.

Bà Grat-ci-ni thở dài. Hễ cứ nói chuyện với người nước ngoài là bà ấy giở cái giọng ấy ra. Bà đóng vai một người yêu nước đau buồn vì cảnh ngộ nước Ý. Bà khéo phối hợp vai trò ấy trong những điệu bộ nữ sinh và với vẻ mặt buồn sịu theo lối trẻ con của mình.

Tiếng người đàn ông nhắc lại :

- Chết ở Anh... Vậy ra ông ta là người lưu vong à ? Tôi có nghe nói tên ấy. Có phải Bôla đã gia nhập đảng nước Ý trẻ ngay từ năm mới thành lập không ?

- Phải, Bôla và một trong những người thanh niên bất hạnh khác bị bắt năm 1833. Ông chắc còn nhớ vụ án bi thảm ấy chứ ? Mấy tháng sau đó Bôla được thả, nhưng rồi qua hai ba năm lại có lệnh bắt nên ông ta phải bỏ trốn sang Anh. Sau đó có tin đồn là ông ta kết hôn bên đó. Thật là một câu chuyện lãng mạn hết sức, nhưng được cái là ông Bôla tội nghiệp của chúng ta lại cũng là một người thích lãng mạn.

- Bà nói là rồi sau đó ông ấy chết ở Anh ư ?

- Phải, chết vì lao. Ông ta chịu không nổi khí hậu nghiệt ngã ở Anh . Khi ông ta sắp tắt thở thì bà ta lại mất đứa con một . Thằng bé chết vì bệnh đậu. Câu chuyện kể cũng thật đáng buồn ông nhỉ. Nhưng chúng tôi ai nấy đều quý Giê-ma lắm. Tội nghiệp cho bà ấy ! Bà ta phải cái hơi cứng rắn như mọi người dân nước Anh vậy. Mà lại phải chịu bao điều bất hạnh ! Thành thử cứ rầu rĩ và...

Giê-ma đứng dậy, rẽ cành thạch lựu. Không thể ngôi yên nghe người ta nói chuyện phiếm mà thóc mách tới những nỗi đau khổ trong đời tư của mình, chị bước ra chỗ sáng, mặt không giấu nổi vẻ bực tức.

Bà Grát-xi-ni kêu lên một tiếng giọng thản nhiên như không có việc gì xảy ra :

- Ô kìa, bà ấy đây rồi ! Bà Giê-ma thân yêu ơi, thế mà tôi cứ lấy làm lạ chẳng biết bà biến đâu mất. Ông Phi-lê-trê Riva-ret muốn được làm quen với bà đấy.

Giê-ma nhìn Rivảet với con mắt hiếu kỳ và nghĩ bụng : " À, Ruồi trâu đây rồi "

Ri-va-ret lễ phép nghiêng mình, nhưng chăm chú nhìn Giê-ma với đôi mắt mà Giê-ma cảm thấy sắc sảo, ngạo mạn và như dò hỏi điều gì. Ri-va-ret liếc nhìn tấm bình phong cảnh lá xanh rờn, nói :

- Vâng, chỗ tốt lắm. Tôi ra đây để hít thở không khí trong lành.

- Đêm đẹp thế này mà ngồi trong phòng thì thật phụ lòng nhân từ của chúa ban cho ! - Bà chủ nhà vừa nói vừa ngước mắt nhìn lên những ngôi sao. (Bà ta có đôi hàng lông mi đẹp nên thường thích khoe) - Kìa, ông thử nhìn xem, nước Ý thân yêu của tôi chẳng phải là một thiên đường hay sao ? Ước gì nước tôi được tự do ! Đất nước có những đoá hoa với những bầu trời đẹp nhường này mà lại là một đất nước nô lệ !

Ruồi trâu kéo dài giọng một cách uể oải, khẽ nói :

- Và lại có những người phụ nữ yêu nước nhường này nữa !

Giêma giật mình nhìn Ri-va-ret : ăn nói sỗ sàng như vậy ai mà chẳng nhận thấy ! Nhưng quả là chị còn đánh giá quá thấp tính ưa phỉnh nịnh của bà Grat-xi-ni. Người đàn bà đáng thương ấy hạ làn mi xuống thở dài :

- Chao ôi, phụ nữ chúng tôi thật làm được ít việc quá ông ạ ! Nhưng biết đâu một ngày kia tôi lại chẳng có thể làm cho mọi người thấy rằng tôi có quyền làm một người phụ nữ Ý...Tuy thế bây giờ tôi hãy trở lại nhiệm vụ của tôi đã . Ông đại sứ Pháp mới nhờ tôi giới thiệu con gái nuôi của ông ta với các bậc danh tiếng ở đây. Ông và bà cũng nên gặp cô ta một chút. Thật là một cô gái yêu kiều...Bà Giêma thân yêu ạ, tôi dẫn ông Ri-va-ret đến đây để ông ta ngắm phong cảnh mĩ lệ nơi này. Tôi giao ông ấy cho bà nhé. Tôi chắc bà sẽ hết sức giúp đỡ ông ta, giới thiệu ông ta với mọi người...Kìa vị vương tước đáng mến người Nga đã tới kia rồi ! Ông và bà đã gặp ông ta chưa ? Nghe nói ông ta là sủng thần của Sa hoàng Ni-cô-lai đấy. Ông ta chỉ huy đồn binh ở một thành phố Balan, tên là gì khó gọi chết đi được ấy. Quelle nuit magnifique ! N est ce pas, mon prince ? (Đêm tuyệt quá, fải không ông hoàng của tôi ?)

Bà ta nhún nhẩy tiến lại nói chuyện liến thoắng với một người đàn ông cổ to như cổ bò, cằm bạnh đầy mề đay trên bộ quân phục. Rồi những lời than vãn rằng tổ quốc bất hạnh chốc chốc lại chen lấn trong những tiếng khen " charmant" (đáng yêu) và "mon prince" tắt dần ở đằng xa.

Giêma lặng lẽ đứng dưới cây thạch lựu. Chị cảm thấy khó chịu vì sự sỗ sàng của Ruồi trâu và thấy thương hại người đàn bà ngu ngốc đáng thương ấy. Ruồi trâu nhìn theo bà Grat-xi-ni và vị vương tước người Nga với một con mắt làm Giêma rất bực bội; người ta đáng thương như thế mà nhìn với con mắt nhạo báng như vậy thì bụng dạ thật hẹp hòi .

Ruồi trâu quay lại phía chị, mỉm cười nói :

- Đấy bà xem, đó là lòng yêu nước của người Ý và người Nga đấy. Khoác tay nhau đi hể hả lắm ! Giữa hai lòng yêu nước ấy bà ưa lối nào hơn ?

Giêma hơi cau mày, nín lặng .

Ri-va-ret nói tiếp :

- Tất nhiên, tuỳ sở thích từng người . Nhưng theo tôi thì tôi thích cái lối yêu nước của người Nga hơn, vì nó thực sự làm đến nơi đến chốn ! Nếu nước Nga không dựa vào thuốc súng và đại bác mà dựa vào hoa và bầu trời thì "ông hoàng của tôi" ngồi yên trong pháo đài Balan được mấy nả !

Giêma lạnh nhạt nói :

- Ông có thể phát biểu quan điểm của mình nhưng tại sao lại nhân đó mà chế nhạo bà chủ nhà như thế !

- Ồ phải ! Ở Ý người ta rất mến khách, thế mà tôi không nhớ ! Người Ý thật là một dân tộc mến khách tuyệt trần ! Tôi chắc người Áo cũng nhận thấy thế...Mời bà ngồi nhé !

Ruồi trâu khập khễnh bước qua sân, mang ghế lại cho Giê-ma ngồi, rồi đứng trước mặt chị, tì khủyu tay vào lan can. Ánh sáng từ cửa sổ chiếu ra rọi thẳng vào mặt anh. Bây giờ Giêma mới ngắm nhìn Ruồi trâu được cẩn thận.

Giêma rất thất vọng. Chị tưởng rằng diện mạo của người ấy, nếu không dễ ưa thì cũng phải có gì đáng ghi nhớ và gân guốc. Nhưng trái lại điểm nổi bật nhất trong con người ấy lại là khuynh hướng diện sang và một sự ngạo mạn che giấu nhưng rõ nét trong tháo độ và cử chỉ. Da ông ta ngăm ngăm và như da người Muy-lat (người lai do bố da trắng và mẹ da đen sinh ra). Và mặc dù khập khễnh nhưng ông ta vẫn nhanh nhẹn như một con mèo.

Tòan bộ dáng điệu của ông làm cho người ta rất dễ liên tưởng đến một con báo đen vùng châu Phi. Trán và má bên trái sâu hoắm một vết sẹo dài hình móc câu của nhát gươm chém làm cho bộ mặt méo mó đi một cách đáng sợ. Giêma nhận thấy, cứ mỗi khi ông ta nói lắp bắp thì đường gân lạo giần giật khắp nửa mặt bên trái . Nếu không có những khiếm khuyết ấy thì có lẽ ông ta cũng là một con người đẹp đẽ đấy, nhưng bây giờ thì diện mạo của ông ta chẳng có gì là hấp dẫn cả.

Ruồi trâu lại cất tiếng, giọng êm ái, nhỏ nhẹ và mơ hồ (Giêma càng thấy bực bội, nghĩ thầm : " Thật giống như một con báo biết nói và đang nói giữa lúc nó hiền lành nhất".)

- Tôi có nghe bà nói rất quan tâm đến báo chí cấp tiến và cũng có bài viết cho các báo ấy nữa.

- Thỉnh thoảng tôi có viết. Phải cái tôi ít thì giờ rỗi lắm.

- À, vâng ! Điều đó tôi có biết : bà Grat-xi-ni nói rằng bà bận nhiều việc quan trọng khác.

Giêma ngước mắt nhìn. Chắc cái bà Grat-xi-ni ngờ nghệch ấy lại dại dột ba hoa với con người không đáng tin cậy này rồi, một người mà hiện nay chị thấy bắt đầu thực sự không ưa.

Chị trả lời bằng một giọng khô khan :

- Vâng, bận thì quả có bận. Nhưng bà Grat-xi-ni đã quá quan trọng hóa công việc tôi làm. Thực ra những việc ấy phần lớn là những việc rất nhỏ mọn.

- Thưa bà, nếu tất cả chúng ta chỉ biết có than khóc nước Ý thì thế giới này sẽ thật nguy hiểm. Tôi thiết tưởng tiếp xúc nhiều với cái xã hội của ông bà chủ nhà này dễ làm cho người ta trở thành phù phiếm, dù chỉ là phù phiếm để tự vệ. Phải, phải. Tôi biết ý của bà lắm. Đúng, đúng ! Nhưng lối yêu nước của họ làm cho tôi không nhịn cười được !...Bà muốn trở về phòng ư ? Về làm gì ?Ở đây dễ chịu thế kia mà ?

- Không, tôi phải về. À, chiếc khăn quàng của tôi..Cảm ơn ông.

Rivaret nhặt chiếc khăn, đứng thẳng dậy, nhìn Giêma với cặp mắt vô tội và xanh biếc như những đóa hoa lưu ly bên bờ suối.

Anh nói với giọng hối lỗi :

- Tôi biết bà giận tôi vì tôi đã cười những con rối sặc sỡ đó. Nhưng làm thế nào mà không cười cho được ?

- Ông đã hỏi thì tôi xin thưa : Theo ý tôi, chế nhạo sự tàn tật về tinh thần của người khác là thiếu độ lượng, thậm chí là hèn nhát, cũng như chế nhạo một người què quặt hoặc...Rivaret đột nhiên nín thở , vẻ đau đớn hiện lên nét mặt. Anh lùi bước, đưa mắt nhìn cái chân khập khễnh và cánh tay tàn tật của mình. Nhưng anh trấn tĩnh ngay được và cười vang :

- Thưa bà, so sánh như thế thì không được sát lắm: những người què quặt chúng tôi chẳng hề khoe khoang sự tàn tật của mình như bà chủ nhà vẫn hay khoe khoang sự ngu ngốc cuả bà ấy ! Vả lại, chúng tôi cũng công nhận rằng bị méo mó về vật chất cũng khổ sở chẳng kém gì bị méo mó về tinh thần...Đây có bậc thang, bà hãy vịn vào tay tôi.

Giêma lặng lẽ bước cạnh Rivaret, sự nhạy cảm đột nhiên của anh đã làm Giêma lúng túng, ngượng ngiụ. Rivaret vừa mở rộng cánh cửa vào phòng khách lớn, Giêma liền hiểu ngay rằng một sự gì không bình thường đã xảy ra khi chị không có mặt ở đây. Các ông thì lộ vẻ vừa bực tức vừa bối rối, còn các bà thì xúm lại bên cửa ra vào, mặt đỏ gay, tuy cố làm ra vẻ bình thản. Ông chủ chốc chốc lại sửa lại cặp kính cố giấu vẻ giận dữ, còn nhóm người du lịch lại tò mò nhìn về phía cuối phòng. Rõ ràng là ở đó đã có việc gì xảy ra làm các nhà du lịch cảm thấy buồn cười, còn những người khác thì cảm thấy bị lăng nhục. Chỉ có mỗi bà Grat-xi-ni là hình như không hay biết gì cả. Vừa phe phẩy chiếc quạt , bà vừa tán gẫu với một viên bí thư sứ quán Hà Lan. Ông này vừa nghe vừa tóet miệng cười.

Giêma dừng bước giây lát ở ngưỡng cửa. Chị liếc nhìn xem Ruồi trâu có nhận thấy sự xôn xao trong phòng không. Thấy ông ta đảo mắt nhìn từ phía bà chủ nhà sang chiếc đi văng ở cuối phòng với một vẻ đắc thắng ác độc, Giêma đoán biết ngay : ông ta đã đưa tình nhân của mình đến với danh nghĩa giả dối và chỉ đánh lừa được bà Grat-xi-ni mà thôi.

Cô gái tsi-gan ngồi ngả lưng vào chiếc đi văng. Chung quanh chị ta là một đám thanh niên và sĩ quan kị binh. Họ tiếp chuyện chị ta nhưng vẫn không giấu những nụ cười nhạo báng. Bộ cánh đắt tiền màu vàng đỏ sặc sỡ theo kiểu phương Đông và những đồ trang sức đeo đầy người nổi bật lên trong cảnh xalông văn học này của Phơ-lô răng - xơ, chị ta giống như một con chim vùng nhiệt đới lạc vào giữa đàn chim sẻ vậy. Chắc chị ta cũng cảm thấy mình không hợp với cảnh này nên luôn luôn cau mày một cách khinh bỉ và dữ dội nhìn vào các bà đang khó chịu vì sự có mặt của chị. Thấy Ruồi trâu đang cùng với Giêma bước vào phòng, chị đứng bật dậy, chạy tới và tuôn ra một tràng tiếng Pháp văn phạm sai bét :

- Rivaret, tôi tìm ông khắp nơi khắp chốn. Bá tước Xan tư cốp hỏi tối mai ông có đến đằng biệt thự không ? Hình như có khiêu vũ đấy.

- Rất tiếc rằng tôi không đi được. Hơn nữa, dù có đi được thì tôi lại không thể nhảy được...Bà Bôla, cho phép tôi giới thiệu với bà đây là Di-ta Rê-ni.

Cô gái tsigan ném một cái nhìn hầu như muốn khiêu khích Giêma và lạnh nhạt nghiêng mình. Mac-ti-ni nói rất đúng : cô ta đẹp thật, nhưng trong vẻ đẹp đó có một cái gì đấy sống sượng , thô lỗ và muông thú. Cô ta có những cử chỉ rất nhịp nhàng tự nhiên, trông rất vui mắt, nhưng trán thì thấp hẹp, mũi thì nhỏ một cách vô duyên và trông có vẻ dữ tợn. Sự ngượng ngiụ vừa qua của Giêma khi nói chuyện với ruồi trâu nay lại càng tăng khi chị đứng trước mặt cô gái tsi gan này; vì thế khi ông chủ nhà đến mời chị sang phòng bên kia nói chuyện với các nhà du lịch thì cảm thấy nhẹ nhõm lạ thường.

Đến tận khuya, Giê-ma và Mac-ti-ni trở về Phơ-lô-răng-xơ, Mác-ti-ni hỏi :

- Sao chị thấy Ruồi trâu thế nào ? Anh chàng trâng tráo quá ! Ai ngờ anh ta lại đánh lừa bà Grat-xi-ni đáng thương như thế bao giờ !

- Anh nói về cô vũ nữ ba lê ấy ư ?

- Còn gì nữa ! ! Vậy mà anh ta lại còn khoe rằng cô ấy sẽ là ngôi sao của mùa biểu diễn này đấy ! Còn bà Grat-xi-ni thì thật hết lòng đối với các bậc tài danh.

- Làm như vậy thật chẳng đẹp mà cũng chẳng tốt tí nào cả. Ông ta đã đưa chủ nhân vào thế bị hớ, và hơn nữa, lại làm tội cả người con gái ấy. Tôi chắc cô ta cũng chẳng thoải mái gì.

- Hình như chị nói chuyện với ông ta thì phải. Cảm tưởng chị thế nào ?

- Xê-da ạ, không có cảm tưởng gì khác ngoài nỗi vui mừng khi thoát khỏi nói chuyện với ông ta ! Lần đầu tiên trong đời tôi gặp một người làm cho mình mệt óc một cách đáng sợ như thế. Mới nói chuyện chừng mươi phút mà đã nhức cả đầu. Ông ta thực giống quỷ sứ không biết yên tĩnh là gì.

- Tôi chắc chị cũng không ưa ông ta được. Người đâu mà giảo hoạt, trơn như lươn vậy. Tôi không tin được con người ấy.

RUỒI TRÂU
Chương 10

Ruồi trâu thuê một ngôi nhà ở ngoài cửa La mã, cách nhà Di-ta không xa. Anh ta hẳn là một người hào hoa. Thật ra căn phòng của anh ta cũng không có gì là quá xa xỉ nhưng trong mọi chi tiết đều thấy nổi bật lên một khuynh hướng thích lộng lẫy, môt khiếu thẩm mỹ tế nhị làm cho Ga-li và Ri-cac-đô rất đỗi ngạc nhiên. Họ tưởng con người đã sống lâu năm ở vùng Amadôn hoang dại ấy chắc sẽ có những sở thích đơn giản lắm vì thế khi nhìn thấy những chiếc cavat sạch bong và những giày dép đủ kiểu của Ruồi trâu, trên bàn viết lại luôn luôn cắm nhiều hoa tươi thì họ càng thêm ngơ ngác. Nói chung, sự tiếp xúc của họ với Ruồi trâu là rất tốt đẹp. Đối với ai, Ruồi trâu cũng đều tỏ ra niềm nở và thân mật, nhất là đối với những đảng viên đảng bộ địa phương của đảng Mat-di-ni. Tuy vậy, hình như Giêma lại bị gạt ra ngoài quy luật đó; từ lần gặp đầu tiên Ruồi trâu đã có vẻ không ưa chị, cố tránh mặt chị và đã hai ba lần tỏ thái độ cục cằn đối với chị làm cho Mac-ti-ni hết sức phản đối. Ngay từ lúc đầu Ruồi trâu và Mac-ti-ni đã không ưa nhau vì tính tình của họ khác hẳn nhau đến mức độ không thông cảm được với nhau một chút nào. Nhưng ở Mac-ti-ni thì chẳng bao lâu sự không ưa đó biến thành thù ghét ra mặt.

Một hôm, Mac-ti-ni cáu kỉnh nói với Giêma :

- Ông ta không ưa tôi thế nào điều đó tôi không quan tâm lắm. Chính thôi cũng không thích ông ta, nên chẳng ai mếch lòng cả. Nhưng thái độ của ông ta đối với chị thì tôi thật không thể chịu được. Tôi đã định cùng ông ta tính món nợ đó, buộc ông ta phải giải thích việc này nhưng lại sợ thành to chuyện, mang tiếng rằng tự mình mời người ta rồi lại cãi cọ với người ta.

- Xê-da, kệ ông ta . Chẳng có gì quan trọng cả đâu. Hơn nữa chính tôi cũng có lỗi không kém ông ta.

- Chị có lỗi gì ?

- Tôi có lỗi ở chỗ làm ông ta không ưa tôi đến thế. Khi tôi gặp ông ta lần đầu tại nhà Grat-xi-ni tối hôm đó, tôi đã trót nặng lời với ông ta.

- Chị nặng lời à ! Tôi không tin.

- Chuyện đó xảy ra cũng là vô tình thôi và lúc đó tôi đã lấy làm hối hận. Lúc đó tôi có nói rằng chế nhakp người tàn tật là không tốt và ông ta tưởng tôi ám chỉ ông ta. Thật tôi không hề có ý nghĩ cho ông ta là người tàn tật, ông ta cũng chẳng đến nỗi đui què mẻ sứt.

- Dĩ nhiên là không đến nỗi. Chỉ có vai bên nọ cao hơn vai bên kia, tay trái bị tật nặng thôi chứ còn ông ta không gù mà cũng không què. Ông ta hơi khập khiễng nhưng điều đó cũng không có gì đáng nói.

- Tôi còn nhớ lúc ấy ông ta run bắn người và tái mặt đi. Tất nhiên lúc ấy tôi nói một câu rất hớ, nhưng cũng rất lạ là tại sao ông ta nhạy cảm đến thế. Có lẽ ông ta đã nhiều lần đau khổ vì những lời nhạo báng độc địa như vậy.

- Nhưng rất có thể bản thân ông ta cũng đã từng chế nhạo người khác độc ác như vậy. Ông ta có những cử chỉ lịch thiệp, nhưng bản chất thì lại tàn nhẫn thành thử càng làm cho tôi hết sức khó chịu.

- Xê-da, anh nói như thế không hay đâu. Tôi cũng không ưa Rivarét đâu nhưng thổi phồng khuyết điểm của ông ta để làm gì. Đã đành ông ta có thói kênh kiệu làm cho người khác bực mình. Điều đó có thể là do được người ta tán tụng quá gây nên. Và thói châm chọc ấy quả thật hết sức khó chịu. Nhưng tôi vẫn không cho rằng ông ta không có ý định xấu đâu.

- Tôi chẳng biết ông ta có ý định gì nhưng một con người cái gì cũng nhạo báng thì tâm địa cũng chẳng trong sạch gì. Một lần trong cuộc họp ở nhà Pha-bơ-ri-xi tôi đã chối tai về những lời nhạo báng của ông ta đối với những sự cải cách vừa qua tại La mã. Cái gì ông ta cũng cố tìm cho ra những động cơ xấu xa, đê tiện.

Giêma thở dài :

- Tôi e rằng về điểm này tôi lại đồng ý với Rivaret hơn là đồng ý với anh. Là những người tốt bụng, đầu óc các anh lúc nào cũng chứa chan những hy vọng và chờ đón êm đẹp. Lúc nào các anh cũng sẵn sàng cho rằng nếu một vị nào trạc trung tuần lòng đầy thiện ý mà lên ngôi Giáo hoàng thì mọi việc đều ổn cả, vị đó sẽ mở cửa nhà tù ban phước lành cho mọi người chung quanh, và độ vài ba tháng sau là thời đại hoàng kim của chúa Giê-su đến. Hình như các anh không hiểu rằng dù Giáo hoàng kia có muốn hết sức đi nữa, ông ta cũng không thể lập nên chính nghĩa trên trần gian này được. Vấn đề là nguyên tắc sai chứ không phải là ở thái độ của một cá nhân này hay một cá nhân khác.

- Cái gì là nguyên tắc sai ? Quyền lực của giáo hoàng đối với cuộc sống thế tục của các tín đồ là nguyên tắc sai à ?

- Đâu phải chỉ có thế ? Đó chỉ là một phần trong sai lầm chung mà thôi. Chủ yếu là ở chỗ để cho một người có quyền sinh sát đối với tính mạng con người . Trên cơ sở sai lầm đó không thể xây dựng được những quan hệ tốt đẹp giữa người với người.

Mac-ti-ni giơ hai tay lên. Anh vừa cười vừa nói :

- Thôi, xin chị tha cho, cái thuyết "đạo đức ngoại trừ" (một thuyết tôn giáo chủ trương chỉ cần tin vào Phúc âm là đủ, không cần nói gì tới đạo đức luân lý nữa) ấy tôi không sao kham nổi. Tôi chắc rằng các cụ nhà ta xưa hẳn là những người theo chủ nghĩa bình đẳng xã hội ( một thuyết của phái cấp tiến trong thời kỳ cách mạng tư sản Anh ) ở Anh trong thế kỷ 17. Hơn nữa tôi đến đây không phải để tranh luận, mà để đưa chị xem bản thảo này.

Mac-ti-ni rút trong túi ra mấy tờ giấy.

- Lại một bài văn châm biếm mới nữa à ?

- Vâng, lại một chuyện dại dột nữa mà Rivaret mới đưa ra phiên họp ban chấp hành hôm qua. Tôi cảm thấy rằng chẳng bao lâu chúng ta sẽ đi tới đến chỗ đánh nhau với hắn ta mất.

- Chuyện gì thế ? Xê-da, anh thành kiến với người ta rồi. Rivaret có thể là một người khó gần nhưng ông ta không dại dột gì đâu.

- Tôi cũng không hề phủ nhận rằng bài này viết khá, nhưng chị cứ đọc qua thì đủ rõ.

Bài văn đả kích sự hân hoan rầm rộ do vị Giáo hoàng mới lên ngôi hiện còn tiếp diễn ở Ý. Cũng như mọi tác phẩm khác của Ruồi trâu, bài này viết bằng giọng văn hằn thù cay độc. Nhưng mặc dù lối văn của Ruồi trâu làm cho Giêma khó chịu đến thế nào chăng nữa, tự trong thâm tâm, chị vẫn không thể không nhận rằng sự phê phán của Ruồi trâu là xác đáng.

Chị đặt bản thảo lên bàn và nói :

- Tôi rất đồng ý với anh rằng lời văn bài báo cáo này cay độc một cách đáng ghét. Nhưng, khốn thay, nội dung lại đều là đúng sự thật cả.

- Giêma !

- Phải, đúng như thế đấy. Anh có thể gọi Rivaret một con lươn máu lạnh hay là gì gì đi nữa tuỳ thích, nhưng sự thật vẫn ở phía ông ta. Cố chứng minh rằng bài văn này không đánh trúng đích là vô ích, nó đánh rất trúng đích.

- Vậy chắc ý kiến của chị là nên in bài ấy ?

- Đấy lại là vấn đề khác. Tôi không cho rằng cứ đem in ngay nguyên văn như thế. Để thế thì nhất định nó sẽ làm mất lòng người đẩy mọi người xa rời chúng ta chứ chẳng đem lại lợi ích gì cả. Nhưng nếu Rivaret sửa lại một chút, vứt bỏ những lời đả kích cá nhân thì bài báo sẽ là một tác phẩm có giá trị thật sự. Còn về phần phê phán chính trị thì bài văn viết rất hay. Tôi không ngờ Rivaret viết giỏi đến thế. Ông ta nói đúng những điều cần nói và nói những điều chúng ta chưa ai dám nói. Chẳng hạn, Rivaret ví nước Ý như một người say rượu khóc lóc van xin một thằng ăn cắp, để cho hắn tha hồ nắn túi. Chỗ ấy thật là hay tuyệt.

- Giê-ma ! Nhưng chính chỗ ấy lại là chỗ dở nhất trong toàn bài văn ! Tôi không sao chịu nổi thái độ cắn càn tất cả mọi người và tất cả mọi việc như thế !

- Tôi cũng vậy. Nhưng vấn đề không phải ở đó. Lối văn của Rivaret rất khó chịu và bản thân ông ta củng rất khó gần. Nhưng khi Rivaret bảo rằng chúng ta quá say sưa với những đám rước tôn giáo với những cử chỉ trìu mến với những lời kêu gọi về tình yêu và hoà giải để cho phái Giê duýt và phái Xan phê đích tha hồ lợi dụng thì ông ta đã một ngàn lần đúng. Tiếc rằng tôi không dự buổi họp mặt ban chấp hành hôm qua. Thế cuối cùng các anh quyết định ra sao ?

- Chính vì thế nên hôm nay tôi đến gặp chị, Ban chấp hành yêu cầu chị đến gặp Rivaret để thuyết phục ông ta sửa lại lời văn cho nhẹ bớt.

- Tôi đến ư ? Nhưng tôi gần như hoàn toàn không quen biết gì ông ta. Hơn nữa hiện nay ông ta lại đang ghét tôi. Tại sao cứ phải tôi đi, người khác đi không được hay sao ?

- Chỉ vì hôm nay ai cũng bận cả. Hơn nữa, trong bọn chúng ta chỉ có chị là người ăn nói có lý lẽ hơn cả : chị biết tránh những lập luận không cần thiết và sẽ không mất thời giờ cãi vã với ông ta như chúng tôi.

- Tất nhiên tôi chẳng cãi vã với ông ấy làm gì. Thôi được, nếu các anh muốn thì tôi sẽ đi. Nhưng tôi nói trước là ít hy vọng lắm đấy !

- Tôi tin rằng nếu chị cố gắng thì nhất định sẽ trị được ông ta. Và chị nên nói cho Rivaret biết rằng , đứng về quan điểm văn học, ban chấp hành rất hoan nghênh bài văn châm biếm của ông ấy. Chắc nói thế ông ta rất thích, mà điều đó cũng hoàn toàn đúng thôi.

Ruồi trâu ngồi cạnh bàn viết cắm đầy hoa và cỏ phượng vĩ, lơ đãng nhìn xuống sân. Trên lòng anh là một bức thư ngỏ. Một con chó thuộc giống chó chăn cừu Scot-len xù lông nằm cuộn tròn trên thảm, cạnh chân anh. Khi Giêma gõ vào cánh cửa còn bỏ ngỏ thì nó cất đầu lên sủa. Ruồi trâu vội vã đứng dậy, nghiêng mình chào khách một cách cứng nhắc và trang trọng. Gương mặt bỗng nhiên sắt lại và phớt tỉnh như không, anh hết sức lạnh lùng nói :

- Bà rất có nhã ý. Nếu bà cho biết trước là muốn nói chuyện gì với tôi thì tôi xin lại nhà ngay.

Ruồi trâu lại nghiêng mình và đẩy chiếc ghế lại. Thấy Ruồi trâu tỏ ý đuổi mình một cách tế nhị như thế Giêma liền đi ngay vào câu chuyện :

- Tôi đến đây theo sự uỷ thác của ban chấp hành. Trong ban chấp hành có những ý kiến khác nhau về bài văn châm biếm của ông.

- Tôi cũng nghĩ thế.

Ruồi trâu mỉm cười ngồi xuống trước mặt Giêma và đẩy lọ hoa cúc lớn trên bàn che cho ánh sáng khổ chiếu vào mặt

- Phải nói rằng đứng về quan điểm văn học đa số uỷ viên trong ban chấp hành rất hoan nghênh bài ấy, nhưng mọi ngưòi đều nhận thấy nếu cứ để nguyên như thế mà in thì không lợi. Giọng văn quá kịch liệt có thể làm mất lòng và đẩy xa những người mà lúc nàu sự giúp đỡ và ủng hộ của họ đối với đảng rất quan trọng.

Ruồi trâu rút một bông cúc ra khỏi lọ, ngắt dần từng cánh hoa trắng. Đôi mắt Giêma ngẫu nhiên dừng lại trên bàn tay phải nhỏ nhắn của Ruồi trâu đang bứt từng cánh hoa một. Chị thấy rạo rực. Hình như ngày xưa chị đã nhìn thấy những cử chỉ ấy ở đâu rồi.

Ruồi trâu lại nói, giọng khẽ khàng và lạnh lùng :

- Đứng về mặt văn học thì bài văn của tôi chẳng có giá trị gì. Chỉ những người không hiểu gì về văn học thì mới hoan nghênh nó về phương diện ấy. Còn nói là làm mất lòng người thì chính là tôi muốn như thế.

- Điều đó tôi rất hiểu. Nhưng vấn đề là ở chỗ ông đả kích không trúng những kẻ mà chúng ta cần đả kích.

Ruồi trâu nhún vai nhấm nháp cánh hoa vừa bứt khỏi đài .

- Theo tôi thì bà lầm rồi. Vấn đề là thế này : Ban chấp hành của các ông các bà mời tôi đến đây làm gì ? Tôi hiểu là để lột mặt nạ và phản kích Giê duýt. Tôi hiện đang dốc hết khả năng để chấp hành nhiệm vụ đó.

- Tôi có thể cam đoan với ông rằng không một ai nghi ngờ về tài năng và thiện ý của ông. Nhưng ban chấp hành e rằng bài văn sẽ làm mất lòng đảng Tự do và làm cho chúng ta mất sự ủng hộ về tinh thần của công nhân viên chức trong thành phố này. Bài văn của ông nhằm chống phá Xan phê đích, nhưng nhiều bạn đọc có thể sẽ cho rằng ông muốn đả kích cả giáo hội lẫn giáo hoàng mới. Điều đó về mặt sách lược thì ban chấp hành cho là không nên.

- Bây giờ tôi mới hơi hiểu. Khi tôi công kích các giáo sĩ có quan hệ xấu với đảng thì người ta cho phép tôi tha hồ nói thẳng thừng. Nhưng khi tôi vừa chạm vào các giáo sĩ mà ban chấp hành vì nể thì hoá ra là "chân lý giống như một con chó, nó nhất định phải bị nhốt vào cũi. Nhưng nó có thể bị roi quất đuổi ra ngoài nếu như Đức thánh cha đứng bên cạnh lửa và..."(lời vai hề trong bi kịch của Shakespeare " Vua Lia" - King Lear màn 1 cảnh 4). Phải, vai hề nói thế mà đúng. Nhưng thà làm cái gì còn hơn làm vai hề. Tất nhiên tôi phải phục tùng quyết định của ban chấp hành, nhưng tôi vẫn cho rằng ban chấp hành chỉ chú ý đến những tên lính hầu mà bỏ qua vao chủ yếu nhất trong đó là đức...đức...giám...giám ...mục Mông...Mông-ta-ne-li.

Giê-ma nhắc lại :

- Mông-ta-ne-li ư ? Tôi không hiểu ý ông thế nào cả....Ông muốn nói tới giám mục địa phận Bơ-ri-xi-ghê-la ấy ư ?

- Phải, vị tân giáo hoàng vừa mới cử ông ta làm Hồng y giáo chủ. Đây là một bức thư nói về ông ta. Thư của một anh bạn ở vùng bên kia biên giới viết cho tôi. Bà có muốn nghe không ?

- Biên giới lãnh địa của giáo hoàng ấy ư ?

- Phải. Anh ta viết như sau .

Ruồi trâu với lấy bức thư mà anh cầm trong tay lúc Giêma bước vào nhà và cất tiếng đọc to, líu cả lưỡi :

- " Anh....anh sắp...sắp được hân hạnh đương ...đương đầu với một trong những kẻ thù độc ác nhất của chúng ta là Hồng ...Hồng y giáo chủ Lô...Lô-ren-xô Mông-ta-ne-li , tức là giám mục địa phận Bờ-ri-xi-ghê-la. Hắn..."

Rivaret ngừng bặt và im lặng trong giây lát. Rồi anh lại đọc tiếp, rất chậm chạp và hết sức kéo dài, nhưng không líu giọng nữa :

- " Hắn định tới kinh lý Tô-scan trong tháng sau với một sứ mệnh đặc biệt quan trọng là "hoà giải". Trước tiên, hắn sẽ giảng đạo tại Phơ-lô-răng-xơ, ở đó độ ba tuần rồi đi Xi-ê-na, Phi-dơ, và cuối cùng qua Pi-stôi-a để trở về Rô-ma-nha. Bề ngoài hắn thuộc phái Tự do trong giáo hội, nhưng hắn ta là bạn thân của giáo hoàng và Hồng y giáo chủ Phê-rét-ti. Trong thời giáo hoàng Gơ-rê-goa hắn là kẻ thất sủng nên bị đổi đến một vùng hẻo lánh nào đó tại A-pe-nanh. Hiện nay Mông-ta-ne-li đột nhiên thăng chức rất mau. Về thực chất, tất nhiên hắn cũng bị phái Giê duýt giật dây như mọi tên Xan phê đích khác. Sứ mệnh mà hắn đang chấp hành là do ý kiến của các cha cố Giê duýt xúi giục. Hắn là một trong những tay truyền giáo xuất sắc nhất của Giáo hội và thủ đoạn cũng thâm độc không kém gì Lam-bơ-ru-tri-ni. Nhiệm vụ hiện nay của hắn là duy trì càng lâu càng tốt lòng hân hoan của mọi người đối với giáo hoàng mới, dùng cách đó để đánh lạc hướng dư luận cho đến khi đại công tước kí tên vào một đạo dụ do bè lũ tay sai của pháo Giê duýt thảo ra. Tôi chưa tìm được cách gì để dò biết nội dung của đạo dụ đó". Rồi bức thư viết tiếp : " Hiện nay tôi cũng chưa rõ Mông-ta-ne-li có biết lý do vì sao hắn được phái đến Tô-scan không hay hắn chỉ là công cụ trong tay bọn Giê duýt. Hắn có thể là một tên vô cùng giảo hoạt hoặc là một con lừa ngu xuẩn nhất. Nhưng có một điều hết sức kỳ lạ là theo chỗ tôi biết thì Mông-ta-ne-li không ăn hối lộ và không có tình nhân. Thật là một trường hợp hiếm có ! "

Ruồi trâu đặt bức thư xuống mắt lim dim, ngồi nhìn Giêma đợi xem chị nói gì :

Sau một lát im lặng, Giêma hỏi :

- Ông tin chắc rằng người bạn viết thư cho ông nói đúng sự thật chứ ?

- Nói về đời tư trong sạch của ngài Mông-ta-ne-li ấy ư ? Không, chính anh ta cũng không tin chắc điều đó. Bà còn nhớ là anh ta đã viết một cách dè dặt " Theo chỗ tôi biết " chứ ?

Giêma lạnh lùng ngắt lời :

- Không phải vấn đề đời tư. Điều tôi muốn biết là vấn đề sứ mệnh của Mông-ta-ne-li .

- Vấn đề đó thì tôi có thể hoàn toàn tin cậy anh ta. Anh ta là bạn cũ của tôi, một trong những đồng chí năm 1843. Hiện nay công tác mà anh ta phụ trách có nhiều thuận lợi đặc biệt cho phép anh ta tìm hiểu những vấn đề đó.

Giê-ma sực nghĩ " Chắc là một viên quan lại nào ở Va-ti-căng đây", và chị nói :

- Ông có nhiều đầu mối liên lạc bí mật như thế ư ? Tôi cũng đã đoán chừng là như vậy.

Ruồi trâu nói tiếp :

- Tất nhiên bức thư đó chỉ có tính chất riêng mà thôi. Chắc bà cũng hiểu rằng không nên cho một người nào biết nội dung của nó ngoài các ủy viên trong ban chấp hành của bà

- Điều đó khỏi phải nói. Nhưng chúng ta hãy trở lại vấn đề bài văn. Liệu tôi có thể nói với các đồng chí trong ban chấp hành rằng ông đã vui lòng sửa đổi đôi chút, làm cho lời lẽ được dịu nhẹ hơn, hay là...

- Thế bà không thấy rằng nếu sửa thì không những sẽ có thể làm yếu sức châm biếm đi mà còn có thể làm mất cả cái đẹp của "tác phẩm văn học" hay sao ?

- Đấy là ông hỏi ý kiến riêng tôi. Còn tôi đến đây nói chuyện với ông là nhân danh ban chấp hành.

- Như vậy có nên kết luận rằng cá...cá nhân bà không đồng ý với ý...ý kiến của ban chấp hành không ?

Ruồi trâu nhét bức thư vào túi, hơi cúi mình và nhìn Giê-ma với đôi mắt chăm chú, khẩn thiết làm cho nét mặt anh bỗng dưng đổi khác.

- Bà cho rằng...

- Nếu ông muốn biết ý kiến cá nhân tôi, thì tôi cũng xin vâng : tôi không đồng ý với số đông về cả hai điểm. Tôi hoàn toàn không hoan nghênh bài văn về quan điểm văn học, nhưng tôi thấy bài văn ấy chân thực về trình bày sự việc và khôn khéo về thể hiện sách lược.

- Thế nghĩa là...

- Tôi hoàn toàn đồng ý rằng nước Ý đang bị lóa mắt bởi những ánh sáng huyễn hoặc và tất cả những niềm hân hoan vui sướng hiện nay sẽ dẫn nó tới một vũng lầy ghê gớm. Tôi sẽ rất sung sướng nếu điều đó được nói ra một cách công khai và mạnh dạn dù cho như thế có làm mất lòng hoặc đẩy xa một vài bạn hiện đang ủng hộ chúng ta đi nữa. Nhưng là một thành viên của đoàn thể tôi không thể kiên trì ý kiến cá nhân của mình trong khi số đông đang có ý kiến đối lập. Và, lẽ dĩ nhiên, tôi cũng cho rằng nếu đã nói, thì phải nói cho ôn hòa và bình tĩnh chứ không nên nói như giọng bài văn này.

- Xin bà chờ một phút cho tôi xem lại bản thảo.

Ruồi trâu cầm lấy bài văn đọc lướt từ đầu đến cuối, rồi cau mày tỏ vẻ không vừa ý :

- Phải, thật vậy, bà hoàn toàn đúng. Thật là một bài đoản văn kêu mà rẻ tiền, chứ không phải là một bài văn châm biếm chính trị. Nhưng làm thế nào được ? Nếu không viết cho tao nhã thì công chúng sẽ không hiểu được. Nếu không viết cho cay độc thì bài văn sẽ tẻ ngán.

- Thế ông không thấy rằng nếu cay độc quá mức thì cũng làm cho bài văn tẻ ngán hay sao ?

Ruồi trâu nhìn chị một cách sắc bén và lanh lợi rồi phá lên cười :

- Thưa bà, có lẽ bà thuộc về một hạng người rất đáng sợ là lúc nào nói cũng đúng. Nhưng nếu tôi không đứng vững trước sự quyến rũ, không nói cho thâm độc thì có lẽ tôi cũng sẽ thành một người buồn tẻ như bà Grat-xi-ni mất. Trời ! Nếu số kiếp đưa mình đến bước ấy thì khổ biết bao nhiêu ! Không, xin bà chớ cau mày ! Tôi biết rằng bà không ưa tôi nên tôi xin trở lại vấn đề. Tình hình hiện nay như sau : Nếu tôi vứt bỏ mọi chỗ đả kích cá nhân mà giữ nguyên phần chủ yếu của bài văn thì ban chấp hành sẽ tỏ ý tiếc rằng không thể chịu trách nhiệm in bài văn được; nhưng nếu tôi hy sinh chân lý chính trị và dốc toàn lực công kích một vài kẻ cá biệt của đảng, thì ban chấp hành sẽ tâng bốc bài văn lên tận mây xanh, còn tôi với bà thì sẽ lại thấy rằng bài văn đó không đáng in. Vấn đề thật hoàn toàn siêu hình. In mà không cần biết tới giá trị hay là giữ nguyên giá trị mà không in, đằng nào hơn ? Thưa bà Bô-la ?

- Theo tôi thì vấn đề không nhất thiết phải đặt như vậy. Nếu ông bỏ những đọan nói về cá nhân thì ban chấp hành sẽ đồng ý in dù sẽ có nhiều người phản đối. Và tôi tưởng như vậy sẽ rất có ích. Nhưng ông phải làm dịu lời văn đi mới được. Nếu đã muốn cho người đọc uống một liều thuốc nặng như thế thì ngay lúc đầu không nên dùng hình thức quyết liệt làm người ta sợ không dám uống.

Ruồi trâu nhún vai và thở dài khuất phục :

- Thưa bà, tôi xin phục tùng ý kiến của bà, nhưng phục tùng với một điều kiện. Hiện nay bà có thể tước quyền cười của tôi, nhưng trong tương lai gần đây phải để cho tôi sử dụng quyền đó. Khi nào đức ngài Hồng y giáo chủ trong sạch ấy ló mặt ra ở Phơ-lo-răng-xơ thì cả bà lẫn ban chấp hành không được ngăn tôi, tôi muốn nói cay độc bao nhiêu thì nói ! Đó là quyền của tôi !

Anh buông thõng với một giọng hết sức lạnh lùng, chốc chốc lại rút những bông cúc ra khỏi bình, giơ lên cao để ngắm nhìn ánh sáng xuyên qua những cánh hoa trắng muốt. Thấy những bông hoa rung rinh xiêu vẹo, Giê-ma nghĩ : - Sao ông ta run rẩy thế ? Chắc không phải là ông ta say rượu !"

Chị vừa đứng dậy vừa nói :

- Vấn đề ấy ông nên bàn với các ủy viên khác trong ban chấp hành. Tôi không thể đoán trước được ý kiến của họ.

Ruồi trâu cũng đứng dậy, tì tay lên bàn và áp những đóa hoa vào mặt :

- Còn bà, ý kiến của bà thế nào ?

Giê-ma ngập ngừng. Vấn đề ấy làm cho chị đau khổ và gợi lên những kỷ niệm cay đắng xưa kia.

Cuối cùng chị nói :

- Thật tôi cũng không rõ. Cách đây nhiều năm tôi có được biết phần nào về ông Mông-ta-ne-li. Lúc ấy ông ta là cố đạo và là giám đốc trường dòng trong tỉnh mà tôi sống thủa nhỏ. Một người rất gần Mông-ta-ne-li kể cho tôi nghe nhiều chuyện về ông ta. Tôi chưa hề nghe nói điều gì xấu về ông ta cả và tôi tin rằng ít nhất là lúc bấy giờ ông ta thực sự là một nhân vật rất đáng tôn kính. Nhưng đã lâu lắm rồi và từ đó đến nay ông ta có thể thay đổi. Quyền hành vô tội vạ đã làm hỏng biết bao con người !

Ruồi trâu ngẩng đầu, nét mặt kiên quyết, nhìn thẳng vào mắt chị và nói :

- Dù sao đi nữa, nếu bản thân ông Mông-ta-ne-li không phải là một kẻ khốn nạn thì ông ta cũng là một công cụ trong tay bè lũ khốn nạn. Nhưng đối với tôi và các bạn hữu của tôi ở bên kia biên giới thì khốn nạn hay công cụ của kẻ khốn nạn cũng chỉ là một. Tảng đá nằm trên đường có thể có những ý định hết sức tốt đẹp nhưng thế nào người ta cũng phải hất nó đi... Thưa bà, xin bà cho phép...

Anh bấm chuông rồi khập khiễng bước ra mở cửa cho Giê-ma.

- Thưa bà, bà đã rất có nhã ý đến thăm tôi. Xin bà để cho người đi gọi xe ngựa nhé?...Bà không cần ư? Vậy xin chào bà...Bi-an-ca, chị làm ơn mở giùm cửa ngoài.

Giê-ma bước ra đường phố với bao nhiêu ý nghĩ xao xuyến.

" Các bạn hữu của tôi ở bên kia biên giới". Họ là những người nào? Và ông ấy định hất tảng đá ra khỏi đường bằng cách nào ? Nếu có phải chỉ bằng châm biếm không thôi, thì tại sao mắt ông ta lại lóe lên một cách dữ dội như vậy ?

RUỒI TRÂU
Chương 11

Hồng y giáo chủ Mông-ta-ne-li tới Phơ-li-răng-xơ vào tuần đầu tháng mười. Việc ông đến đã gây nên một làn sóng dư luận sôi nổi trong thành phố. Ông là một nhà truyền đạo nổi danh và là đại diện của triều đại giáo hoàng mới cách tân. Mọi người khao khát mong mỏi ông trình bày "học thuyết mới", nói lên những tình thương và hòa giải đặng điều trị những nỗi đau thương của nước Ý. Việc bổ nhiệm Hông y giáo chủ Gi-tsi làm Quốc vụ khanh Tòa thánh La mã để thay Lam-bơ-ru-tri-ni mà mọi người đều căm ghét, đã nâng sự hân hoan lên đến cực điểm. Và Mông-ta-ne-li chính là người có năng lực duy trì tâm trạng hân hoan đó. Đời tư liêm khiết của ông ta là một hiện tượng ít có trong hàng giáo phẩm cao cấp của giáo hội La mã. Do dó, Mông-ta-ne-li đã thu hút được nhiều cảm tình của dân chúng vì xưa nay dân chúng vẫn cho rằng gian lận, tham nhũng và dâm ô đen tối là những đặc điểm hầu như không thể thiếu được của các giáo sĩ cao cấp. Hơn thế, ông ta thật có tài ba của một nhà truyền đạo.

Giọng nói uyển chuyển và phong cách dễ thu hút lòng người như đá nam châm, đó là những điều thường làm cho ông thành công ở bất kỳ nơi nàp và vào lúc nào.

Cũng như mọi lần, lần này Grat-xi-mi hết sức xoay xở để mời được bậc tài danh mới tới ấy. Nhưng điều đó không phải dễ : đối với mọi lời mời của Grat-xi-ni, Mông-ta-ne-li từ chối rất lich thiệp mà kiên quyết, lấy cớ kém sức khỏe và bận việc.

Một buổi sớm chủ nhật lạnh trời và chói nắng, Mac-ti-ni cùng Giêma đi qua quảng trường Xi-nhô-ri-a. Mac-ti-ni khinh miệt nói :

- Vợ chồng lão Grat-xi-ni thật là những con vật tạp thực, bạ cái gì cũng nuốt. Chị có thấy họ cúi rạp đầu trước xe ngựa của Hồng y giáo chủ không ? Bất kể ai họ cũng vơ cả, miễn là kẻ đó nổi tiếng. Từ thủa bé đến giờ thật tôi chưa thấy ai hám danh như thế. Mới dạo tháng tám đón Ruồi trâu nay lại rước Mông-ta-ne-li. Chắc là đức cha phổng mũi lắm về sự quan tâm đó. Mà tất cả bè lũ đầu cơ cũng chia ngọt sẻ bùi với đức cha về sự quan tâm này.

Mác-ti-ni và Giêma vừa đi nghe Mông-ta-ne-li giảng đạo ở nhà thờ. Ngôi nhà thờ lớn này chật ních những người háo hức được nghe nhà truyền đạo nổi tiếng giảng thuyết đến nỗi Mac-ti-ni sợ Giêma nhức đầu phải khuyên chị bỏ buổi lễ ra về trước khi kết thúc. Sau một tuần lễ mưa rả rích, hôm nay mới có một buổi sáng nắng đẹp. Mac-ti-ni bèn rủ Giêma đi Xanh Ni-cô-lô dạo chơi trên những sường đồi xanh tốt.

- Không. Chị trả lời. Nếu anh có thì giờ thì tôi xin đi, nhưng không đi về phía ấy được đâu. Ta đi theo đường bờ sông Ác-nô đi vì khi Mông-ta-ne-li trở về ông ta sẽ qua đó. Cũng như Grat-xi-ni tôi muốn chiêm ngưỡng bậc tài danh ấy.

- Nhưng chị vừa trông thấy Mông-ta-ne-li kia mà !

- Mới đằng xa thôi. Trong nhà thờ đông quá...mà lúc ông ta đến thì chúng ta lại đứng phía sau ông ta. Bây giờ ta tới đứng gần cầu chắc thấy rõ được. Chắc anh biết là ông ta tạm nghỉ ở bờ sông Ác-nô.

- Nhưng tại sao bỗng dưng chị lại muốn nhìn mặt Mông-ta-ne-li ? Có bao giờ chị chú ý đến những nhà truyền đạo nổi tiếng đâu ?

- Giờ đây tôi cũng vẫn không để ý đến những nhà truyền đạo, mà chỉ chú ý tới bản thân con người. Tôi muốn xem từ lần gặp cuối cùng đến nay ông ta có khác đi nhiều không ?

- Lần đầu ấy là bao giờ ?

- Sau khi Ac-tơ chết hai ngày.

Mac-ti-ni bàng hoàng nhìn Giê-ma. Hai người đã ra tới đường bờ sông. Đôi mắt Giê-ma thẫn thờ nhìn xuống nước. Vẻ mặt chị làm Mac-ti-ni hoảng hốt.

Một lát sau anh nói :

- Giê-ma, Giê-ma thân yêu ! Có lẽ nào câu chuyện thê thảm ấy vẫn cứ suốt đời ám ảnh Giê-ma ? Tuổi mười bảy ai mà chẳng lỡ lầm.

Tay vịn vào cầu thang, mắt nhìn xuống dòng sông, chị mệt mỏi đáp :

- Nhưng không phải ai mười bảy tuổi cũng đều giết chết người bạn tốt nhất của mình.

Mac-ti-ni nín lặng. Mỗi lần nỗi niềm tâm sự ấy đến với Giêma thì anh rất ngại chuyện trò.

- Hễ bao giờ nhìn thấy mặt nước là tôi lại nhớ tới chuyện xưa. Giêma từ từ ngước mắt nhìn anh rồi run run nói tiếp :

- Thôi, Xê-da, ta đi nữa đi. Đứng đây lạnh lắm.

Họ lẳng lặng bước qua cầu và rẽ sang theo bờ sông. Vài phút sau Giêma lại nói :

- Sao con người ấy có giọng nói êm đẹp đến thế ! Trong giọng nói của ông ta có một cái gì đó mà tôi chưa từng nghe thấy trong giọng nói của một ai. Tôi cho rằng ông ta có sức truyền cảm mạnh như vậy quá nửa là nhờ bí quyết ấy.

Cho là đã đến lúc có thể làm Giêma quên được những kỷ niệm khủng khiếp qua dòng sông gợi lên, Mac-ti-ni liền nói tiếp :

- Phải, giọng nói thật tuyệt trần ! Ngoài giọng nói ấy, ông ta còn là một nhà truyền đạo giỏi nhất trong số các nhà truyền đạo mà tôi được nghe giảng. Nhưng tôi nghĩ bó quyết hấp dẫn của ông ấy còn sâu xa hơn nữa. Lối sống của ông ta khác hẳn mọi giáo sĩ cao cấp khác. Có lẽ trừ Giáo hoàng ra thì trong toàn Giáo hội Ý khó lòng tìm được một Giáo sĩ cao cấp nào có thanh danh như vậy. Còn nhớ dạo năm ngoái khi đi Rô-ma-nha, tôi đã có dịp qua địa phận của Mông-ta-ne-li. Trời mưa tầm tã mà những người dân miền núi vẫn cứ kiên trì chầu trực để được thấy mặt ông ta hoặc sờ vào áo ông ta. Họ tôn thờ Mông-ta-ne-li như thánh. Và điều đó không phải chuyện thường là vì ở Rô-ma-nha cứ thấy ai mặc áo chức giáo sĩ là người ta ghét thậm tệ. Tôi có hỏi một bác nông dân già, một người buôn lậu điển hình mà tôi chưa từng thấy trong đời rằng hình như dân ở đây hình như rất trung thành với đức giám mục thì người ấy trả lời : " Chúng tôi không ưa cha cố đâu vì họ đều là những kẻ gian dối. Nhưng chúng tôi yêu ngài Mông-ta-ne-li vì ngài không lừa dối chúng tôi bao giờ và ngài rất công minh chính trực".

Giêma lên tiếng hầu như để nhủ mình chứ không phải để nói với Mac-ti-ni :

- Lạ thật ! Không biết ông ta có biết dân chúng nghĩ gì về ông ta không.

- Chắc là biết. Sao ? Chị cho là không phải như thế ư ?

- Vâng, không phải thế.

- Tại sao chị biết ?

- Chính ông ta nói với tôi.

- Ông ta ? Mông-ta-ne-li ấy ư ? Giêma, chị nói sao ?

Chị vuốt mớ tóc lòa xòa trên trán và ngoảnh lại phía Mac-ti-ni. Họ lại dừng bước. Mac-ti-ni tì tay vào lan can còn Giêma thì lấy dù chậm rãi vẽ hình lên trên nền đường.

- Xê-da, tôi với anh quen nhau đã bao năm ròng mà tôi chưa bao giờ kể chuyện Ac-tơ cho anh biết cả.

Mac-ti-ni vội vã ngắt lời :

- Mà cũng không cần kể nữa. Giêma thân yêu. Tôi biết cả rồi.

- Giô-va-ni kể cho anh nghe ư ?

- Phải. Lúc anh ấy hấp hối. Một đêm không lâu trước khi Giô va ni chết, tôi ngồi bên giường anh có kể cho tôi nghe về Actơ...Giêma thân yêu, đã trót rồi thì tôi phải nói hết sự thật để Giêma rõ...Anh ấy bảo tôi rằng chị luôn âm thầm vấn vương về câu chuyện bi thảm ấy. Anh ấy nhờ tôi đến với chị như một người bạn để giúp chị tránh khỏi những ý nghĩ nặng nề. Tôi đã hết sức cố gắng mặc dù công việc của tôi hình như không có hiệu quả.

Ngước nhìn Mac ti ni trong giây lát, chị êm ái trả lời :

- Tôi biết. Nếu khong có tình bạn của anh thì tôi còn đau khổ biết bao nhiêu...Còn về giáo chủ Mông-ta-ne-li thì lúc ấy Giô-va-ni không nói gì với anh ư ?

- Không. Lúc ấy tôi cũng không biết Mông-ta-ne-li lại có liên quan gì đến câu chuyện ấy. Anh ấy chỉ nói với tôi toàn bộ câu chuyện về một tên mật thám và...

- Và về chuyện tôi tát Ac-tơ đến nỗi Ac-tơ phải nhảy xuống biển tự tử có phải không ? Được, vậy bây giờ tôi kể cho anh nghe chuyện Mông-ta-ne-li.

Họ quay trở lại chiếc cầu mà lát nữa xe của Hồng y giáo chủ sẽ đi qua. Mắt không rời khỏi mặt nước Giêma bắt đầu kể :

- Lúc ấy Mông-ta-ne-li còn là một cha cố và là giám đốc trường dòng ở thành Pi-dơ. Ông ta thường dạy triết học cho Ac-tơ và khi Ac-tơ vào đại học ông ta vẫn tiếp tục giúp đỡ. Hai người yêu thương nhau như một cặp tình nhân chứ không phải là thầy trò nữa. Ac-tơ sùng bái cả bất cứ nơi nào Mông-ta-ne-li đi qua. Tôi còn nhớ một hôm Ac-tơ nói với tôi rằng nếu mất đi padre thì Ac-tơ sẽ nhảy xuống biển mà chết. Ac-tơ thường gọi Mông-ta-ne-li là padre. Còn chuyện tên mật thám anh biết rồi...Đến ngày hôm sau cha tôi và họ hàng nhà Bớc-tơn tức là mấy người anh cùng cha khác mẹ hết sức đáng ghét của Ác-tơ đều ra cửa biển Đac-xen-na để mò tìm xác. Còn tôi thì tôi ngồi một mình trong phòng nghĩ những việc do chính tay mình gây ra...

Giê-ma im lặng một lát rồi kể tiếp :

- Đến tận khuya cha tôi vào nói với tôi : " Giê-ma con xuống nhà dưới đi, có người đến tìm gặp con". Chúng tôi xuống phòng khách. Một anh bạn học và là người trong tổ tôi, ngồi đợi ở đó. Mặt tái mét, anh ta run run kể cho tôi nghe bức thư thứ hai của Giô-va-ni, trong đó kể lại tất cả những gì mà ông già coi ngục đã nói với anh em phạm nhân về tên cố đạo Các-đi là người trước kia dụ dỗ Ác-tơ xưng tội. Tôi còn nhớ người bạn học ấy nói với tôi rằng : " Dù sao chúng ta cũng còn được một chút an ủi là : bây giờ chúng ta biết rằng Ac-tơ không có lỗi gì cả". Cha tôi nắm lấy tay tôi, hết lòng khuyên nhủ. Lúc ấy cha tôi vẫn chưa biết chuyện tôi tát Ac-tơ. Tôi trở về phòng suốt đêm không ngủ. Đến sáng cha tôi và họ hàng nhà Bớc-tơn lại ra bến. Mọi người vẫn còn hy vọng tìm xác Ac-tơ. - Nhưng hình như không tìm thấy phải không ?

- Không tìm thấy. Chắc sóng cuốn ra khơi mất rồi. Tôi đang ngồi trong phòng bỗng có chị người làm vào báo cho biết vừa rồi có một vị cố đạo tới nhà, thấy cha nói tôi ra bến thì ông đi thẳng. Đoán là Mông-ta-ne-li, tôi liền chạy theo lối sau, đuổi kịp ông ngay ở cổng vườn.Khi tôi gọi : " Cha Mông-ta-ne-li con muốn nói chuyện với cha" thì ông ta đứng lại, lặng lẽ nhìn tôi. Trời ơi, Xê-da, nếu anh trông thấy mặt ông ta lúc ấy ! Nét mặt ấy cứ hiện ra trước mắt tôi mấy tháng ròng ! Tôi nói với Mông-ta-ne-li : " Con là con bác sĩ Uơ-ren. Con đến để nói với cha rằng chính con đã giết chết Ac-tơ". Tôi thú nhận tất cả mọi điều còn ông ta thì cứ đứng trơ trơ như tượng đá mà nghe tôi nói. Khi tôi dứt lời ông ta an ủi : " Cứ yên tâm, con ạ ! Không phải con giết Ac-tơ đâu mà chính là cha đây. Cha đã lừa dối Ac-tơ và điều đó Ac-tơ đã biết". Nói xong ông ta quay gót bước nhanh ra khỏi vườn, không nói thêm một lời nào nữa.

- Rồi sau thế nào hở chị ?

- Sau tôi cũng không biết ông ta ra sao nữa. Chỉ nghe nói ngay tối hôm đó ông ngất đi ở ngoài phố cách bến không xa rồi người ta đưa ông ta vào một căn nhà gần đấy. Ngoài ra tôi không biết gì thêm. Cha tôi thật hết lòng đối với tôi. Khi tôi kể lại mọi việc thì cha tôi liền bỏ cả công việc đưa tôi về Anh để khỏi vương vấn tới chuyện xưa. Cha tôi sợ tôi cũng nhảy xuống biển tự tử nốt và hình như đã có lần tôi xuýt nhảy xuống biển thật. Nhưng sau khi biết cha tôi mắc bệnh ung thư thì tôi phải trấn tĩnh lại vì ngoài tôi ra không còn ai săn sóc cha tôi. Sau khi cha tôi mất đi, chỉ còn lại tôi với mấy đứa em trai nhỏ. Trong lúc anh cả tôi chưa đưa chúng về nuôi được thì mình tôi phải cáng đáng. Sau Giô-va-ni tới, Xê-da ạ. Buổi đầu chúng tôi thật rất ngại gặp nhau bởi vì giữa chúng tôi là cả một kỷ niệm ghê gớm. Giô-va-ni thường ân hận cay đắng rằng chính anh cũng có lỗi nặng vì anh đã viết bức thư trong tù gửi ra. Nhưng tôi nghĩ chính nỗi đau khổ chung đã làm chúng tôi gần nhau.

Mac-ti-ni mỉm cười, lắc đầu nói :

- Có lẽ về phía chị thì như thế đấy, nhưng còn Giô-va-ni thì đã quyết tâm ngay từ buổi đầu gặp gỡ với chị rồi. Tôi còn nhớ sau chuyến đầu tiên đi Li-voóc-nô trở về Milan, suốt ngày anh ấy nhắc đến chị, nói rất nhiều về một thiếu nữ người Anh tên là Giê-ma làm cho tôi nhức cả đầu. Tôi còn nhớ hình như lúc ấy tôi ghét chị lắm....Kìa, Hồng y giáo chủ đến rồi !

Chiếc xe ngựa ruổi qua cầu và dừng bánh trước một ngôi nhà lớn ven sông. Mông-ta-ne-li ngồi, ngả lưng vào gối tựa. Chắc hẳn ông ta rất mệt và không để ý tới đám đông đang hớn hở xúm xít cạnh cửa để ngóng nhìn mặt ông. Niềm xúc động ngời lên trên bộ mặt đó trong nhà thờ, nay đã tắt đi và giờ đây, dưới ánh mặt trời vẻ lo âu và mệt mỏi hiện ra rõ nét. Khi Mông-ta-ne-li

bước ra khỏi xe và bước lên bậc cửa với dáng đi nặng nhọc, lờ đờ của tuổi già mệt mỏi lại đau tim, thì Giê-ma trở gót, từ từ đi ra cầu. Cái nhìn mờ mịt và tuyệt vọng của Mông-ta-ne-li dường như thoáng phản ánh trên mặt chị. Mac-ti-ni lặng lẽ đi bên cạnh.

Giê-ma lại phân vân sau giây lát im lặng :

- Tôi nghĩ mãi không biết ông ta lừa dối Ác-tơ điều gì ? Và đôi lúc tôi nghĩ...

- Nghĩ sao hở chị ?

- Phải, thật là một điều hết sức kỳ lạ...Tại sao hai người trông giống nhau một cách lạ lùng...

- Hai người nào nhỉ ?

- Ác-tơ và Mông-ta-ne-li. Mà cũng không chỉ riêng tôi nhận thấy điều đó. Hơn nữa, những người trong gia đình nhà ấy có một cái gì bí ẩn lắm. Bà Bớc-tơn, mẹ Ác-tơ, là một trong những người đàn bà hiền dịu nhất mà tôi từng quen biết. Cũng một khuôn mặt thanh tú như Ác-tơ và có lẽ cả tính nết cũng không khác gì nhau. Nhưng lúc nào bà cũng có vẻ sợ sệt như một kẻ tội phạm bị bắt quả tang. Đứa con dâu của người vợ trước đối với bà thật còn tệ hơn cả người đối với chó. Còn chính Ác-tơ thì cũng chẳng giống như những người anh hèn nhát của mình chút nào...Lúc nhỏ thì dĩ nhiên nhiều cái chỉ thoáng qua, nhưng sau khi nghĩ lại tôi luôn luôn ngờ rằng Ác-tơ không phải là người họ Bớc-tơn.

Cố nghĩ ra lời an ủi Giê-ma, Mac-ti-ni nói :

- Cũng có thể là Ác-tơ biết chuyện gì của mẹ nên đi tới quyết định tự tử chứ không phải vì câu chuyện lừa gạt của Các-đi.

Nhưng Giê-ma lắc đầu :

- Xê-da, nếu anh nhìn thấy vẻ mặt Ác-tơ sau khi tôi tát Ác-tơ thì anh sẽ chẳng nói như vậy. Sự phỏng đoán về Mông-ta-ne-li có lẽ đúng, có thể như thế lắm...Nhưng cái gì tôi đã làm thì trót làm mất rồi.

Họ im lặng bước trong mấy phút.

Cuối cùng, Mac-ti-ni nói :

- Giê-ma thân yêu, nếu như trên thế gian này chúng ta có một phép lạ nào có thể xóa bỏ được cái đã trót làm thì mới nên vấn vương về sai lầm cũ. Nhưng nếu không thì thôi, cứ để cho người chết chôn vùi những gì đã chết. Câu chuyện ấy thật khủng khiếp. Nhưng, dù sao người bạn trẻ đáng thương ấy đã được giải thoát rồi và có lẽ lại may mắn hơn bao kẻ hiện nay còn ngồi trong tù hoặc đang rên siết nơi đầy ải xa xăm. Đấy, chính đó mới là những người chúng ta nên nghĩ tới. Chúng ta không có quyền để cho lòng mình tan nát chỉ vì xót thương cho những người đã chết. Chắc chị nhớ câu nói của thi sĩ Sê-li mà chị hằng ưa thích : " Cái gì đã qua là thuộc về cái chết, còn tương lai là của ta". Chị hãy nắm lấy tương lai. Trong khi tương lai còn thuộc về chị thì chị không nên tập trung suy nghĩ về những cái xa xưa để gây hại cho mình, mà nên nghĩ tới cái gì hiện nay mình có thể làm được để giúp cho tương lai.

Say sưa với câu nói của mình, Mac-ti-ni nắm lấy tay Giê-ma. Nhưng khi nghe thấy một giọng nói mềm mại, lạnh lùng và uốn éo ở đằng sau thì anh vội buông tay ra.

Giọng nói đó kéo dài và se sẽ như lời nói thầm

- Hồng y giáo chủ Mông-ta...ta-ne-li hiển nhiên có đủ tất cả những đức tính như ông vừa nói, thưa ông bác sĩ rất đáng kính của tôi ơi ! Thực ra đối với thế giới này, ông ấy thật quá tốt nữa ấy chứ ! Vì vậy cần phải tống tiễn ông ấy sang thế giới khác một cách cung kính hơn. Tôi tin rằng ở nơi đó ông ta cũng sẽ oanh liệt chẳng kém gì ở đây. Ở thế giới đó chắc là chẳng...chẳng thiếu gì những con ma cũ chưa ...chưa hề trông thấy những của hiếm như vị Hồng y giáo chủ có lương tâm của chúng ta. Mà ma quỷ lại rất ưa sự mới lạ.

Liền đó vang lên giọng nói của bác sĩ Ri-cac-đô. Trong giọng ấy lộ ra một vẻ bực tức không nén nổi :

- Sao ông biết điều đó ?

- Dạ thưa ông tôi đọc ở Kinh thánh ra ạ. Nếu tin vào sách Phúc âm thì đến con ma đáng kính nhất cũng thích làm những chuyện gán ghép cừ khôi. Mà lương tâm và Hồng y giáo...giáo chủ theo tôi, thì đó là một sự gán ghép rất kỳ khôi đến khó mà nuốt cho trôi, chẳng khác gì đem tôm trộn với mật. À ! Ông Mac-ti-ni và bà Bô-la ! Hôm nay trời đẹp sau trận mưa, có phải không ạ ? Các vị cũng có nghe Xa-vô-ra-nô-la mới giảng đạo đấy chứ ?

( Xa-vô-ra-nô-la Gi-rô-la-mô (1452-1498) :một nhà truyền đạo nổi tiếng ở Phơ-lô-răng-xơ. Ông thường vạch tội những hành vi xấu xa của Giáo hội và nhà cầm quyền nên đã bị xử tử vì tội theo tà giáo)

Mac-ti-ni quay ngoắt lại. Ruồi trâu miệng ngậm xì gà, ve áo cài một bông hoa tươi đang giơ bàn tay gầy gò nhưng đeo găng rất lịch sự cho anh bắt. Giờ đây, khi ánh dương nhảy nhót trên đôi giày bóng lộn và từ mặt nước ánh lên bộ mặt tươi cười của Ruồi trâu thì Mac-ti-ni thấy Ruồi trâu không đến nỗi què quặt, mà lại chững chạc hơn bao giờ hết. Họ bắt tay nhau : người thì vồn vã, kẻ thì lầm lì. Giữa lúc ấy Ri-cac-đô bỗng kêu lên :

- Bà Bô-la, bà mệt hay sao !

Mặt Giê-ma lấp lánh dưới vành mũ nên đã tái lại càng thêm tái nhợt đi, dải mũ buộc dưới cổ rõ ràng phập phồng cùng một nhịp với trái tim đập thon thót.

Chị nói một cách yếu ớt :

- Xin phép các ông tôi muốn về nhà.

Họ gọi một chiếc xe đến, Mac-ti-ni theo xe đưa chị lại nhà. Khi Ruồi trâu cúi xuống gỡ chiếc áo choàng của Giê-ma vướng vào bánh xe, anh đột nhiên ngước mắt nhìn chị. Và Macti-ni thấy chị co rúm người lại, nét mặt khủng khiếp.

Xe vừa chuyển bánh, Mac-ti-ni liền dùng tiếng Anh hỏi chị :

- Sao thế, Giê-ma ? Thằng khốn kiếp ấy nói gì với chị thế ?

- Không, có nói gì đâu. Không phải tại ông ấy đâu. Tôi..tôi sợ đấy thôi !

- Chị sợ gì ?

- Phải !...Hình như tôi thấy...

Giê-ma lấy tay che mắt, và Mac-ti-ni lặng lẽ đợi chị hồi tỉnh lại. Cuối cùng nét mặt Giê-ma đã trở lại tự nhiên. Quay về phía Mac-ti-ni, chị nói với một giọng bình thường :

- Ý anh nói rất đúng. Nhìn về quá khứ thê thảm thật không ích gì. Nó làm cho cân não suy nhược và đưa đến những ảo tưởng hết sức kỳ dị. Thôi từ nay đừng nhắc tới chuyện ấy nữa Xê-da ạ, kẻo cứ gặp ai tôi cũng lại thấy giống như Ác-tơ. Thật đúng là một ảo tưởng, một cơn ác mộng giữa ban ngày. Anh có biết không, lúc nãy khi con người đáng ghét ấy tới tôi tưởng chừng như trông thấy Ác-tơ.

RUỒI TRÂU
Chương 12

Ruồi trâu quả là người sở trường về môn tự gây cho mình có nhiều kẻ địch. Tháng tám, anh ta mới đến Phơ-lô-răng-xơ mà cuối tháng mười đã có đến ba phần tư ủy viên trong ban chấp hành trước kia đã mời anh đến, thì nay tấn thành ý kiến Mac-ti-ni. Ngay cả những người khâm phục anh nhất cũng bất mãn về những sự công kích điên cuồng của anh đối với Mông-ta-ne-li. Và chính Ga-li lúc đầu là người bao giờ cũng sẵn sàng bênh vực mọi lời nói và việc làm của nhà châm biếm sắc sảo ấy thì nay cũng bắt đầu tỏ ra lo lắng băn khoăn rằng có lẽ không nên động đến Mông-ta-ne-li. " Những Hồng y giáo chủ có lương tâm rất hiếm, đối với họ ta nên tử tế một chút".

Mông-ta-ne-li lại chính là người duy nhất rất thản nhiên trước hàng loạt bài châm biếm và bài báo bôi nhọ mình. Mac-ti-ni nhiều lần nói rằng không cần phải tấn công chế giễu mãi một người có thái độ tốt đối với những sự châm biếm. Người ta đồn rằng một hôm Mông-ta-ne-li đang ăn cơm với tổng giám mục Phơ-li-răng-xơ trong phòng mình bỗng thấy một trong bài bôi nhọ cay độc nhất của Ruồi trâu. Mông-ta-ne-li đọc hết từ đầu đến cuối rồi đưa cho tổng giám mục xem và nói rằng : " Viết cũng giỏi đấy nhỉ?"

Có một hôm trong thành phố xuất hiện một tờ truyền đơn nhan đề là Sự bí mật của Lễ truyền tin ( Giáo hội Thiên chúa có ngày lễ kỷ niệm thiên thần truyền tin cho bà Maria mang thai chúa Giê-su ). Cho dù dưới bài văn đó không vẽ một con ruồi trâu đang giương cánh, "chữ ký" quen thuộc đối với bạn đọc thì số lớn những người đọc vẫn có thể căn cứ vào giọng văn cay độc và sắc bén mà đoán biết tác giả là ai. Bài văn viết theo thể đối thoại giữa Đức bà đồng trinh Maria tượng trưng cho công quốc Tô-scan và Mông-ta-ne-li tượng trưng cho vị thiên thần truyền tín phái Giê-duýt đã giáng lâm. Mông-ta-ne-li đầu quấn cành ô liu hòa bình, tay cầm cành huệ trắng muốt tượng trưng cho sự trong sạch. Trong bài văn chỗ nào cũng đầy rẫy những lời bóng gió chua cay và ám chỉ liều lĩnh. Toàn thành Phơ-lo-răng-xơ cảm thấy tính chất bất công và độc ác của tác phẩm châm biếm ấy. Tuy nhiên, mỗi khi đọc nó họ đã cười đến vỡ bụng. Những chuyện hoang đường đã được nói ra bằng một giọng rất khôi hài mà trang nghiêm đến nỗi những kẻ địch nhất cũng như những người hết sức khâm phục Ruồi trâu đều phải lăn ra cười. Và mặc dù giọng điệu của bài văn ấy rất khó chịu nhưng phần châm biếm của nó đã có ảnh hưởng nhất định tới tâm trạng nhân dân thành phố. Danh tiếng Mông-ta-ne-li quá cao, tưởng chừng bất cứ một tác phẩm bôi nhọ nào dù sắc sảo đến đâu cũng không lay chuyển nổi. Thế mà có lúc dư luận công chúng đã quay lại phản đối Mông-ta-ne-li. Ruồi trâu rất biết đánh vào chỗ yếu. Vì thế mặc dù quần chúng vẫn xúm xít đón chào và tiễn đưa cỗ xe ngựa của Hồng y giáo chủ như cũ, nhưng qua những tiếng hoan hô và câu chúc, thường thường vẫn vang lên những tiếng hô ác độc " Đồ Giê-duýt ! " " Đồ do thám Xan-phê-đích".

Nhưng Mông-ta-ne-li không thiếu gì người ủng hộ, hai ngày sau khi bài văn ra đời, tờ Tín đồ, cơ quan ngôn luận có uy tín của giáo hội đã đăng một bài báo lời lẽ rất sắc sảo đầu đề là Trả lời bài " Sự bí mật của lễ truyền tin", dưới ký Một con chiên. Bài báo hết sức bênh vực Mông-ta-ne-li trước những lời công kích tố cáo của Ruồi trâu. Tác giả nặc danh đã say sưa trình bày một cách hùng biện thuyết "Hòa bình trên trái đất và thiện ý với con người " mà Giáo hoàng mới lên ngôi truyền bá. Tác giả thách Ruồi trâu dẫn chứng để xác minh bất cứ một điều gì buộc tội nào của chính mình và cuối cùng tác giả khuyên bạn đọc không nên tin kẻ vu khống đáng khinh ấy. Về phương diện lập luận đanh thép cũng như về giá trị văn học, bài báo này hơn hẳn mọi bài báo hàng ngày nên rất được toàn thành Phơ-lo-răng-xơ chú ý. Mặc dù ngay cả người chủ bút tờ báo Tín đồ cũng không biết một con chiên là ai. Sau đó bài báo được xuất bản thành sách nhỏ và từ đó trong các quán cà phê người ta luôn nhắc tới kẻ nặc danh bênh vực Mông-ta-ne-li
Đến lượt Ruồi trâu thì anh lại kịch liệt công kích Giáo hoàng mới và những người ủng hộ giáo hoàng, nhất là đối với Mông-ta-ne-li thì anh lại ám chỉ một cách khéo léo rằng kẻ viết bài tán tụng Mông-ta-ne-li là do Mông-ta-ne-li sai khiến. Người viết báo nặc danh biện hộ cho Mông-ta-ne-li liền trả lời, phủ nhận một cách rất căm phẫn trên tờ báo Tín đồ. Trong suốt thời gian Mông-ta-ne-li còn lưu lại ở Phơ-lo-răng-xơ cuộc tranh luận kịch liệt giữa hai nhà văn đó được sự chú ý của công chúng nhiều hơn là bản thân nhà truyền đạo nổi danh đó.

Một vài đảng viên đảng tự do tìm cách chứng minh cho Ruồi trâu thấy rằng dùng lời nói cay độc đối với Mông-ta-ne-li là không cần thiết. Nhưng họ chẳng đi đến kết quả gì. Nghe họ nói , Ruồi trâu chỉ nhã nhặn mỉm cười và ngượng nghịu lắp bắp trả lời :

- Thưa các ngài, các ngài thật...thật là không công bằng chút nào. Khi tôi nhượng bộ bà Bô-la, tôi đã đặc biết đưa ra điều kiện là khi nào Mông-ta-ne-li tới thì tôi có quyền cười cho thỏa chí. Điều đó đã được ghi trong văn tự rồi cơ mà !

Đến tháng mười, Mông-ta-ne-li trở về Rô-ma-nha, trong buổi giảng đạo từ biệt trước khi rời Phơ-lo-răng-xơ, Mông-ta-ne-li đã đề cập tới cuộc tranh luận ầm ĩ vừa qua. Mông-ta-ne-li tỏ ý tiếc rằng cả hai tác giả đã quá nóng nảy và yêu cầu kẻ nặc danh bênh vực mình nên làm gương độ lượng cho người khác noi theo, nghĩa là chủ động đình chỉ cuộc luận chiến vô bổ và vô lối ấy. Hôm sau, trên tờ tín đồ xuất hiện một mẩu cáo bạch nói rằng : thể theo ý muốn cua Hồng y giáo chủ Mông-ta-ne-li đã được bày tỏ một cách công khai, từ nay Một con chiên sẽ thôi không tranh luận nữa.

Ruồi trâu được nói tiếng cuối cùng. Trong tờ truyền đơn nhỏ tiếp theo anh tuyên bố rằng thái độ ôn hòa theo tinh thần Cơ đốc của Mông-ta-ne-li đã thuyết phục được anh. Anh sẵn sàng nhỏ nước mắt và bá cổ người Xan-phê-đích đầu tiên nào mà anh gặp. Cuối cùng, anh nói : " Tôi sẵn sàng ôm hôn cả đối thủ nặc danh của tôi ! Nếu bạn đọc của tôi hiểu tại sao tôi phải làm như thế và tại sao đối thủ của tôi phải giữ kín tên tuổi của mình như là tôi và Hồng y giáo chủ hiểu, thì chắc bạn đọc sẽ tin tưởng vào sự hối tiếc chân thành của tôi".

Cuối tháng mười một, Ruồi trâu nói với ban chấp hành rằng anh muốn đi ra biển nghỉ chừng hai tuần lễ. Dư luận chung quanh bảo rằng có lẽ anh đi Li-voóc-nô. Nhưng sau đó ít lâu, bác sĩ Ri-cac-đô cũng tới Li-voóc-nô định tìm gặp ruồi trâu mà không sao tìm thấy. Đến mùng năm tháng chạp một cuộc biểu tình chính trị hết sức gay gắt nổ ra suốt dọc núi A-pa-nanh trong lãnh địa Giáo hoàng. Lúc ấy nhiều người mới đoán biết tại sao Ruồi trâu có ý định kỳ dị là đi nghỉ mát giữa mùa đông tháng giá như vậy. Khi cuộc bạo động đã tạm yên, Ruồi trâu trở về Phơ-lo-răng-xơ. Gặp Ri-cac-đô ngoài phố, anh nhã nhặn nói :

- Tôi nghe nói ông có đến Li-voóc-nô tìm tôi nhưng lúc ấy tôi đang ở Pi-dơ. Thành phố thật sự cổ kính và đẹp tuyệt vời ! Ở đó có thể tưởng tượng đến Ác-ca-đi-a. ( Ác-ca-đi-a : một miền ở Hy lạp chung quanh có núi bao bọc, dân cư nơi đó chuyên chăn cừu và thích hát những bài dân ca trữ tình, được các nhà thơ ca ngợi là thiên đường ở trần gian )

Một buổi chiều trong tuần lễ Nô-en, anh đến dự hội nghị của tiểu ban văn học họp ở nhà riêng bác sĩ Ri-cac-đô. Cuộc họp rất đông. Khi Ruồi trâu bước vào nghiêng mình mỉm cười xin lỗi vì đến muộn thì đã không còn một ghế nào trống. Ri-cac-đô định sang phòng bên lấy ghế thì Ruồi trâu ngăn lại :

- Xin ông chớ phiền, tôi sẽ tìm được chỗ ngay.

Anh bước qua phòng, tiến tới phía cửa sổ cạnh chỗ Giê-ma và ngồi lên thành cửa, lơ đãng ngả đầu vào cửa chớp.

Giê-ma cảm thấy Ruồi trâu đang mỉm cười và lim dim đôi mắt nhìn mình với cái nhìn tế nhị của tượng Nhân sư. Cái nhìn ấy cũng giống như cái nhìn vẽ trong một bức họa của Lê-ô-na Đơ vanh xi. Sự nghi ngờ theo bản năng của chị đối với con người ấy mỗi lúc một tăng và biến thành một nỗi lo âu khó hiểu.

Hội nghị bàn vấn đề ra một bản tuyên bố về nạn đói đang đe dọa Tô-scan. Ban chấp hành cần tỏ thái độ và vạch ra những biện pháp để ứng phó với tình hình đó. Đi tới một nghị quyết cụ thể thật là gay go vì ý kiến lại vẫn cứ khác nhau. Nhóm tiến bộ nhất trong ban chấp hành gồm có Giêma, Mac-ti-ni, Ri-cac-đô và những người khác tán thành kiên quyết kêu gọi chính phủ và công chúng lập tức cứu tế ngay cho nông dân. Những kẻ ôn hòa tất nhiên trong đó có Grat-xi-ni thì lại sợ rằng nếu lời kêu gọi mà gay gắt quá sẽ không có sức thuyết phục lại chỉ làm cho chính phủ nóng gáy.

Vẻ mặt bình tĩnh và thương hại, Grat-xi-ni nhìn về phía những phần tử cấp tiến đang phồng mang trợn mắt nói :

- Thưa các vị, ai cũng hiểu rằng cứu tế càng sớm càng tốt. Phần lớn chúng ta đều muốn làm nhiều thứ mà chúng ta khó lòng đạt được. Nhưng nếu chúng ta kêu gọi theo giọng mà các vị đề nghị thì từ giờ cho tới khi nạn đói thực sự xảy ra rất có thể chính phủ sẽ không chịu làm gì cả. Bắt chính phủ điều tra mùa màng, tôi thiết tưởng đó là một bước tiến rồi.

Ga-li ngồi trong góc cạnh lò sưởi lập tức nhảy xổ vào địch thủ của mình.

- Một bước tiến ư ? Phải, thưa ngài tôn kính, nhưng khi nạn đói xảy tới thực sự, thử hỏi bước tiến ấy có hãm được nạn đói không ? Nếu chúng ta cứ tiến bước theo kiểu đó thì chưa kịp cứu tế nhân dân đã chết đói nhăn răng ra cả rồi.

Sác-cô-ni lên tiếng :

- Tôi muốn biết là...

Nhưng nhiều tiếng nói đã cắt đứt lời anh :

- Nói to lên, không nghe thấy gì hết !

Ga-li cáu kỉnh :

- Quái lạ, sao ngoài phố cũng ầm ĩ thế ?Cửa sổ đóng chưa Ri-cac-đô ? Tôi không nghe thấy cả tiếng tôi nói nữa !

Giê-ma ngoái nhìn :

- Phải, cửa đóng rồi. Ngoài ấy hình như có đám xiếc rong gì đó đang diễn qua.

Ngoài phố vang lên tiếng hò hét, tiếng cười tiếng chuông rung, tiếng chân bước rậm rịch xen lẫn cả tiếng kèn đồng của một đội nhạc hạng bét và tiếng trống khua inh ỏi vô tội vạ.

Ri-cac-đô lẩm bẩm :

- Ngày lễ thì chịu vậy thôi chứ làm thế nào, Nô-en bao giờ chả ầm ĩ..Nào ông Sac-cô-ni, ông vừa định nói gì ?

- Tôi nói : Tôi muốn biết dư luận Pi-dơ và Li-voóc-nô đối với cuộc chống đói này như thế nào. Có lẽ ông Ri-va-rét có thể cho chúng ta biết vì ông ta mới ở đó về.

Ruồi trâu không đáp. Anh chăm chú nhìn ra cửa sổ, hình như không nghe thấy những lời bàn tán trong phòng.

Giê-ma là người duy nhất ngồi gần đấy gọi :

- Ông Ri-va-rét !

Thấy Ruồi trâu vẫn không thưa, Giêma cúi mình hướng về phía trước sờ vào tay anh. Ruồi trâu từ từ quay lại nhìn Giêma và chị giật mình hoảng sợ thấy gương mặt anh đờ đẫn một cách lạ lùng. Trong giây lát, Giêma tưởng chừng đó là gương mặt của người đã chết. Rồi đôi môi anh mấp máy một cách kỳ dị không sức sống. Anh thầm nói :

- Vâng, đó là một gánh xiếc rong...

Chưa hiểu sao, nhưng Giêma đoán rằng cả tâm hồn và thể xác Ruồi trâu phút chốc bị một ảo ảnh ghê rợn nào chi phối. Bản năng đầu tiên của chị là che lấy Ruồi trâu để tránh những cặp mắt tò mò khỏi nhìn vào anh. Chị vội vàng đứng dậy đứng chắn lấy anh, rồi mở cửa sổ làm ra vẻ nhìn xuống đường phố. Ngoài chị ra, không ai trông thấy bộ mặt của Ruồi trâu lúc đó.

Gánh xiếc rong đang riễu trên đường phố. Những vai hề cưỡi trên mình lừa, những vai Ac-lơ-canh mặc quần áo hoa hoét. Đám rước đeo mặt nạ, vừa cười vừa xô đẩy bông đùa ném những cuộn giấy nhỏ hình con rắn cho các vai hề và những túi kẹo cho vai Cô-lum-bi-a. Cô gái đóng vai này ngồi ngất ngưởng trên chiếc xe ngựa, mặc quần áo lóng lánh sặc sỡ dắt đầy lông chim, đầu đeo tóc giả nụ cười gượng gạo còn đọng lại trên đôi môi đỏ choét. Sau xe là một đoàn người : lưu manh, ăn xin, mấy vai hề vừa đi vừa nhào lộn và cả một đám hàng rong bán các đồ chơi lặt vặt và kẹo bánh. Cả bọn cùng chen vai thích cánh, thi nhau ném như mưa và vỗ tay hoan hô một người đứng giữa đám đông xô đẩy nhau lộn xộn, nhưng lúc đầu Giêma chẳng trông rõ người đó là ai. Lát sau chị mới nhận ra là họ ném và hoan hô một chú lùn xấu xí lưng gù mặc quần áo hề, đội mũ cao bằng giấy, đeo nhạc chung quanh mình. Chắc là chú ở gánh xiếc rong đó. Chú vừa đi vừa nhăn nhó, quằn quại một cách gớm ghiếc để làm vui cho đám đông.

Ri-cac-đô tiến lại gần cửa sổ hỏi :

- Cái gì thế ? Ông và bà xem cái gì hay thế ?

Ông ta hơi lấy làm lạ rằng Ruồi trâu và Giêma mải xem hề để bắt cả ban chấp hành ngồi đợi.

Giêma quay lại phía Ri-cac-đô nói :

- Có gì hay đâu, gánh xiếc rong đấy mà. Nhưng họ làm huyên náo, tôi cứ tưởng có chuyện gì xảy ra.

Chị còn đang đứng, một tay đặt trên bậc cửa sổ và thình lình chị cảm thấy những ngón tay lạnh lẽo của Ruồi trâu nhiệt tình xiết lấy tay chị.

Ruồi trâu nói khẽ và dịu dàng :

- Cám ơn bà !

Anh đóng cửa rồi lại ngồi lên thành cửa. Vẫn với vẻ nhẹ nhàng thanh thoát, anh nói :

- Xin lỗi đã làm trở ngại các vị. Tôi mải xem gánh xiếc. Thật...thật là vui mắt.

Mac-ti-ni giật giọng nói :

- Ông Sac-cô-ni đang hỏi ông đấy !

Mac-ti-ni thấy thái độ của Ruồi trâu có vẻ như chống chế một cách hết sức vụng về. Anh lại cảm thấy bực bội vì Giêma đã hớ hênh bắt chước Ruồi trâu. Thật là một cử chỉ anh chưa hề thấy ở chị.

Ruồi trâu tuyên bố rằng anh không biết gì về tâm trạng nhân dân thành phố Pi-dơ bởi vì anh " chỉ đến đó để nghỉ " thôi. Rồi anh quay lại phát biểu ý kiến một cách sôi nổi. Trước hết, anh nói về triển vọng của mùa màng, tiếp đó nói về bản tuyên bố, rồi cuối cùng anh làm cho mọi người khổ tại vì hàng tràng lý luận thao thao bất tuyệt và vì giọng nói lắp của anh. Họ có cảm tưởng rằng hình như anh đã tìm thấy một thú vui ốm yếu nào trong bản thân tiếng nói của chính mình.

Khi buổi họp kết thúc, các ủy viên bắt đầu giải tán thì Ri-cac-đô tiến lại chỗ Mac-ti-ni :

- Ông ở lại ăn cơm với tôi nhé. Pha-bơ-ri-xi và Sac-cô-ni cũng ở lại đấy.

- Cảm ơn ông. Nhưng tôi phải tiễn chị Bô-la về nhà.

Giêma đứng dậy, choàng khăn lên đầu nói :

- Anh sợ tôi không về tới nhà được một mình hay sao ? Được rồi, anh Mac-ti-ni sẽ ở lại đấy, bác sĩ Ri-cac-đô ạ, anh ấy cần thay đổi không khí mới được, ngồi nhà nhiều quá rồi.

Ruồi trâu xen lời :

- Nếu bà cho phép, tôi xin được đưa bà về phía đó.

- Nếu tiện đường thì...

Ri-cac-đô vừa mở cửa vừa hỏi :

- Còn ông Ri-va-ret, nếu ông có thì giờ thì mời ông chiều nay ở lại chơi ?

Ruồi trâu cười, ngoái lại nói :

- Tôi ấy ư, ông bạn ? Không, tôi đang muốn đi xem xiếc.

Trở về phòng, Ri-cac-đô nói :

- Anh chàng kỳ quặc thật ! Tại sao ông ta lại mê hề đến thế ?

Mac-ti-ni nói :

- Chắc là cùng tâm trạng với nhau chứ gì ! Chính hắn cũng hề đặc.

Pha-bơ-ri-xi nghiêm trang nói :

- Tôi mong rằng ông ta chỉ là hề thôi, không là cái gì khác. Nhưng ông ta dù là hề đi nữa thì cũng là một vai hề cực kỳ nguy hiểm.

- Nguy hiểm ư ? Về phương diện nào ?

- Tôi không ưa những chuyến đi nghỉ ngắn hạn đầy bí ẩn và liên tiếp của ông ta như vậy. Chuyến này là chuyến thứ ba rồi đấy, và tôi không tin là vừa qua ông ta đi Pi-dơ đâu.

Sac-cô-ni nói :

- Theo tôi thì rõ ràng là Ri-va-ret bí mật đi vào vùng núi. Ông ta cũng cố ý giấu là vẫn có quan hệ với bọn buôn lậu. Ông ta có quan hệ với chúng lâu rồi, từ hồi có vụ bạo động ở Xi-va-nhô kia. Và lẽ tự nhiên là Ri-va-ret nhờ tay bọn chúng để chuyển những truyền đơn qua biên giới lãnh địa giáo hoàng.

Ri-cac-đô nói :

- Chính đó là vấn đề tôi muốn bàn với các ông. Tôi nảy ra một ý kiến : tốt hơn là yêu cầu Ri-va-rét phụ trách quản lý việc chuyên trở bí mật cho chúng ta. Theo tôi thì nhà in ở Pi-stôi-a làm việc rất kém và cứ dũng mãi cách nhét truyền đơn vào xì gà mà chuyên chở thì thô sơ quá.

Mac-ti-ni bướng bỉnh cãi :

- Từ trước đến giờ xì gà vẫn làm được việc rất tốt.

Ga-li và Ri-cac-đô lúc nào cũng đưa Ruồi trâu ra làm mẫu mực khiến cho Mac-ti-ni phát ngấy lên. Anh nghiêng về phía cho rằng nếu "ông tướng cướp" ấy không chui vào đây để lên mặt dạy đời thì công việc đã có thể tiến hành tốt biết bao nhiêu.

Ri-cac-đô lại nói :

- Phải, từ trước tới giờ phương pháp ấy vẫn làm cho chúng ta thỏa mãn vì chúng ta không có cách nào tốt hơn. Nhưng các anh cũng biết thời gian qua đã xảy ra quá nhiều vụ bắt bớ và tịch thu. Theo tôi nghĩ, nếu Ri-va-ret phụ trách việc đó thì những vụ như thế sẽ ít xảy ra hơn.

- Tại sao ông nghĩ thế ?

- Vì một là những kẻ buôn lậu coi chúng ta là người ngoài, hoặc có thể chỉ coi chúng ta như con bò để vắt sữa; còn Ri-va-ret thì ít nhất ông ta cũng là bạn của chúng, nếu không phải là lãnh tụ. Chúng nghe và tin ông ta. Một người đã từng tham gia khởi nghĩa tại Xi-va-nhô thì bọn buôn lậu ở A-pe-nanh vui lòng giúp nhiều hơn ai hết. Hai là, trong chúng ta chắc không thể tìm được người nào quen biết miền núi như Ri-va-ret được. Các anh cần nhớ rằng ông ta từng lẩn trốn ở đó, thuộc lòng từng đường hầm trên núi. Không một kẻ buôn lậu nào dám bịp Ri-va-ret nếu có thì cũng chỉ thất bại.

Mac-ti-ni lại hỏi :

- Vậy ông định đề nghị giao cho ông ấy toàn bộ đưa tài liệu của chúng ta vào lãnh địa của Giáo hoàng, phụ trách hết thảy từ việc phân phối cho tới địa điểm, kho tàng bí mật v.v... hay chỉ giao cho ông ta việc chuyển qua biên giới thôi ?

- Không những ông ta chỉ biết các địa điểm và kho tàng bí mật của chúng ta mà còn biết nhiều địa điểm và kho tàng khác nữa mà chúng ta không có. Vậy không cần lên lớp gì cho ông ấy. Thế còn vấn đề phân phối thì tùy các anh định. Theo tôi, điều quan trọng nhất là chuyển qua biên giới; một khi tài liệu đã vào tới Bô-lô-nha ròi thì phân phối không khó nữa.

Mac-ti-ni nói :

- Về phần tôi thì...tôi phản đối kế hoạch đó. Vì, trước hết nếu bảo rằng ông ta khéo léo như thế nhưng nào đã ai thấy đâu mà chỉ là phỏng đoán thôi. Chúng ta chưa thật mắt trông thấy ông ta làm công tác biên giới, nên chưa thể tin rằng đến giờ phút nghiêm trọng ấy ông ta có thể giữ được bình tĩnh.

Ri-cac-đô ngắt lời :

- Ồ, điều đó ông không cần nghi ngờ gì nữa. Ông ta có thể giữ nổi bình tĩnh. Cuộc bạo động ở Xi-va-nhô là một chứng minh cụ thể nhất.

Mac-ti-ni tiếp tục :

- Hơn nữa, do còn ít hiểu Ri-va-ret nên tôi hoàn toàn không tán thành đem mọi bí mật của đảng giao phó cho ông ta. Theo tôi, Ri-ve-ret là một kẻ nhẹ dạ và hay đóng kịch lắm. Phó thác việc chuyển tài liệu bí mật vào tay một người không phải là chuyện chơi. Ông Pha-bơ-ri-xi, ông nghĩ thế nào ?

- Mac-ti-ni, nếu chỉ có những ý kiến phản đối như ông nói thì tôi có thể gạt phắt ngay là vì Ruồi trâu thực sự và rõ ràng có đủ mọi đức tính mà Ri-cac-đô nói. Tôi tin chắc Ri-va-ret rất dũng cảm, thành thực và bình tĩnh. Ông ta rất hiểu địa hình và dân cư miền núi. Chúng ta có rất nhiều chứng cứ về tất cả những cái đó. Nhưng tôi có một lý do phản đối khác. Tôi không tin Ri-va-ret đi về rừng núi chỉ để bí mật chuyển các bài văn châm biếm của ông ta, mà còn có thể có mục đích khác. Tất nhiên, điều này chỉ nên nói riêng giữa chúng ta vì chỉ mới là nghi ngờ thôi. Tôi có cảm tưởng ông ta liên lạc chặt chẽ với một nhóm bí mật nào ở vùng núi và có lẽ là nhóm nguy hiểm nhất.

- Nhóm nào ? Nhóm " Thắt lưng đỏ" có phải không ?

- Không, nhóm " Dao găm"

- Nhóm " Dao găm" ?Nhưng nhóm ấy chỉ là một nhúm người đứng ngoài vòng pháp luật phần lớn là nông dân dốt nát và không có kinh nghiệm chính trị gì.

Pha-bơ-ri-xi nói :

- Những kẻ bạo động ở Xi-va-nhô thì cũng thế.Nhưng trong bọn họ có cả những người trí thức và họ được những người đó lãnh đạo. Có lẽ nhóm " Dao găm" này cũng vậy. Ngoài ra ai cũng biết rằng số lớn thành viêm những nhóm quá khích nhất ở Rô-ma-nha hiện nay chính là những kẻ đã từng sống sót trong cuộc bạo động tại Xa-vi-nhô. Họ hiểu rằng nếu khởi nghĩa côngkhai thì không thể đè bẹp được Giáo hội nên họ đã bước vào con đường khủng bố. Chưa đủ sức dùng súng họ đành phải dùng dao găm vậy.

- Tại sao ông lại cho rằng Ri-va-ret liên lạc với nhóm này ?

- Đây là tôi mới chỉ nghi ngờ thôi. Vì dù sao trước khi giao cho ông ta vận chuyển tài liệu thì cũng cần phải điều tra cho rõ đầu đuôi. Nếu Ri-va-ret định nhất cử lưỡng tiện thì ông ta sẽ làm hại đảng ta nhiều. Ông ta sẽ chỉ làm tan rã thanh danh của Đảng chứ không giúp ích được gì. Nhưng chuyện đó sau ta sẽ bàn. Bây giờ tôi báo để các anh biết mấy tin tức La mã. Có tìn đồn rằng La mã định cử ra một tiểu ban dự thảo đề án thành phố tự trị...

RUỒI TRÂU
Chương 13

Giêma cùng Ruồi trâu lặng lẽ đi theo bờ sông Lâng Ac-nô. Hứng thú nói thao thao bất tuyệt của Ruồi trâu dường như đã cạn rồi. Từ lúc bước ra khỏi nhà Ri-cac-đô đến giờ , Ruồi trâu hầu như không nói một lời. Sự im lặng của anh làm cho Giêma thực sự vui sướng. Bao giờ gặp Ruồi trâu là Giêma cũng cảm thấy lúng túng. Nhất là trong ngày hôm nay chị lại cảm thấy lúng túng bởi vì thái độ kỳ dị của Ruồi trâu ở nhà Ri-cac-đô làm cho chị hết sức bối rối.

Đến cạnh cung điện Up-phi-tsi, Ruồi trâu thình lình dừng lại, quay sang hỏi chị :

- Bà có mệt không ?

- Không. Sao ?

- Và chiều nay bà không bận lắm phải không ?

- Không.

- Vậy xin bà một vinh dự đặc biết mời bà cùng dạo chơi với tôi.

- Ta đi đâu ?

- Đi đâu cũng được. Xin tùy bà.

- Nhưng để làm gì ?

Ruồi trâu do dự, không trả lời ngày.

- Tôi không thể nói được, ít nhất đó là điều rất khó nói...nhưng tôi rất mong bà đồng ý nếu có thể. Ruồi trâu bỗng ngước mắt nhìn chị. Ý tứ của đôi mắt làm Giêma rất ngạc nhiên.

Chị dịu dang nói :

- Hình như ông có một tâm sự gì.

Ruồi trâu bứt một chiếc lá khỏi cành hoa trên ve áo rồi xé nhỏ nó ra thành từng mảnh. Cử chỉ này gợi cho chị chạnh nhớ tới ai ? Cũng những ngón tay run run cử động một cách hấp tấp đó..

Mắt không rời tay. Ruồi trâu nói như bằng một hơi thở :

- Tôi thấy trong lòng phiền muộn lắm. Chiều nay tôi không muốn cô đơn. Bà đi chơi với tôi nhé ?

- Vâng, ta đi. Nhưng tốt nhất là mời ông về nhà tôi.

- Không, mời bà đi ăn cơm với tôi ở hiệu ăn, hiệu ăn cách đây không xa, ở quảng trường Xi-nhô-ri-a. Bà đã hứa thì xin chớ từ chối.

Họ đi vào hiệu ăn. Ruồi trâu gọi thức ăn nhưng anh không đụng tới một tí gì. Anh cứ đăm chiêu, lặng lẽ nghiền nát một mẩu bánh mỳ trên mặt bàn và vân vê mép khăn bàn.

Giêma cảm thấy rất khó xử và bắt đầu hối hận là đã trót nhận lời đi với Ruồi trâu. Sự im lặng mỗi lúc một trở nên nặng nề nhưng chị vẫn không muốn mở đầu câu chuyện với người mà chị vảm thấy người đó hầu như đã quên bẵng rằng có mình đang ngồi trước mặt. Cuối cùng Ruồi trâu ngước mắt nhìn chị và đột nhiên nói :

- Bà có muốn đi xem xiếc không ?

Giêma kinh ngạc nhìn anh. Sao lại nghĩ tới chuyện xem xiếc ?

Chị chưa kịp trả lời thì Ri-va-ret lại hỏi :

- Có bao giờ bà đi xem xiếc không ?

- Chưa, tôi chưa xem bao giờ. Tôi không thấy xiếc có gì là hay lắm.

- Xiếc rất hay. Tôi nghĩ nếu không xem xiếc thì không thể nào nghiên cứu được sinh hoạt của nhân dân. Ta quay lại cửa Cơ-rô-trê đi.

Đám xiếc rong đã cắm xong lều ở cạnh cổng thành . Khi Ruồi trâu và Giêma tới nơi thì tiếng vĩ cầm đã rít lên lanh lảnh , tiếng trống rộn ràng, báo hiệu buổi biểu diễn đã bắt đầu.

Buổi biểu diễn hôm ấy hết sức đơn sơ. Cả gánh xiếc chỉ có mấy vai hề mấy vai Ac-lơ-canh và mấy tài tử nhào lộn một người đi ngựa nhảy qua vòng, một vai Cô-lôm-bi-na đỏm dáng và một vai gù múa may một cách nhạt nhẽo và ngớ ngẩn để làm vui cho công chúng. Nói chung, những câu pha trò không đến nỗi quá chướng tai thô bỉ, nhưng đều rất tầm thường và hủ lậu. Mọi cái đều đầy một vẻ dung tục. Công chúng cười và vỗ tay với vẻ nhã đặc biệt của dân Tô-scan. Tiết mục duy nhất làm cho khán giả thực sự vui cười có lẽ là tiết mục của vai gù. Nhưng Giêma thấy ở vai gù này cũng chẳng có gì là láu lỉnh và khéo léo cả, mà chỉ toàn là múa may quay cuồng một cách vụng về, gớm ghiếc. Người xem thì luôn luôn nhại vai gù, cho trẻ con ngồi trên vai để cho chúng thấy " thằng gù"

Ruồi trâu đứng cạnh Giêma, một tay vịn vào cột lều. Giêma quay lại phía anh hỏi :

- Ông Ri-va-ret, chả lẽ ông lại thực sự cho những trò này là hay, hay sao ? Theo rôi thì...

Giêma không nói hết và lặng lẽ nhìn anh . Suốt đời có lẽ chỉ có lần đứng với Mông-ta-ne-li cạnh cổng vườn ở Li-voóc-nô là chị mới nhìn thấy nỗi đau khổ không bờ bến và tuyệt vọng như thế này trên khuôn mặt con người. Nhìn Ruồi trâu Giêma sực nghĩ tới cảnh " Địa ngục" của Đăng-tê.

Ở sân khấu người gù đang bị một vai hề đá. Anh ta lộn nhào và gieo mình ra ngoài vòng sân với một tư thế hết sức kỳ cục. Khi hai vai hề bắt đầu đối đáp thì Ruồi trâu bỗng dường như bình tỉnh khỏi một giấc mơ. Anh hỏi :

- Ta đi chứ ? Hay bà muốn ở lại xem nữa ?

- Không, đi đi thôi.

Họ bước ra khỏi lều, vượt qua dặm cỏ đen tối mà tiến về phía bờ sông. Cả hai đều im lặng trong mấy phút.

Ruồi trâu cất tiếng hỏi :

- Sao, bà thấy xiếc thế nào ?

- Tôi thấy khiếp quá, và có tiết mục thấy hết sức khó chịu

- Tiết mục nào khó chịu ?

- Những cái trò nhăn nhó, quằn quại ấy là hết sức khó chịu. Thật là lố bich, không có gì là khôn khéo cả.

- Bà nói tiết mục của người gù có phải không ?

Nhớ rằng Ruồi trâu đặc biệt nhạy cảm về sự tàn tật của mình, Giêma hết sức tránh không nói tới tiết mục ấy. Nhưng chính Ruồi trâu lại nhắc đến vai gù nên chị đành phải trả lời :

- Vâng, tôi không thích tiết mục ấy một chút nào.

- Nhưng đó lại là tiết mục mua vui cho công chúng nhiều nhất.

- Tôi dám cả quyết rằng cái tệ là ở đó.

- Tại sao cơ ? Có phải tại tiết mục của anh ta không có chút nghệ thuật nào chăng ?

- Tiết mục nào cũng phi nghệ thuật cả. Nhưng tôi muốn nói rằng : tại vì nó tàn nhẫn...

Ruồi trâu mỉm cười.

- Tàn nhẫn ? Đối với người gù có phải không ?

- Tôi muốn nói là... Dĩ nhiên, chính anh ta thì rất bình thản trước sự tàn nhẫn đó. Đối với anh ta , đó chính là một cách kiếm ăn, không khác gì người đi ngựa phải nhảy và cô gái phải đóng vai Cô-lôm-bi-na. Nhưng nó làm cho tâm hồn người ta thấy nặng nề. Đó thật là nhục nhã. Đó là một sự sa sút của con người.

- Trước khi bắt đầu đi làm trò, chưa chắc anh ta đã sa sút đếnt hế. Số đông chúng ta đều có sa sút cách này hay cách khác.

- Phải, nhưng ở đây... Có lẽ ông thì ông cho đó là một thành kiến vô lý nhưng tôi thì tôi cả quyết rằng thể xác con người là rất thiêng liêng. Khi thấy người ta giày xéo và bôi nhọ thể xác con người tôi không sao chịu nổi.

- Thế còn linh hồn con người ?

Ruồi trâu đứng sững lại, một tay tựa vào lan can bên bờ sông, nhìn thẳng vào mặt Giêma.

- Linh hồn ư ?

Chị nhắc lại và cũng dừng bước, ngạc nhiên quay lại nhìn anh. Ruồi trâu vung hai tay, đột nhiên trở nên sôi nổi :

- Vậy bà chưa hề nghĩ rằng vai hề khốn khổ ấy có thể có một linh hồn, một linh hồn sống, một linh hồn chiến đấu của con người , một linh hồn bị trói chặt vào một thể xác méo mó và bị buộc phải phục vụ cho vai hề ấy như một kẻ nô lệ hay sao ? Bà là một người đa cảm biết xót thương thể xác trong tấm áo lố lăng treo đầy nhạc ngựa của vai hề ấy. Vậy có bao giờ bà nghĩ tới một linh hồn bất hạnh không có lấy một manh áo sặc sỡ ấy để che lấp cái trần trụi ghê gớm của nó không ? Bà thử nghĩ xem, khi linh hồn đó run rảy vì rét mướt khi linh hồn đó đau khổ vì nghèo hèn và hổ thẹn trước mặt mọi người, khi những lời nhạo báng quất vào linh hồn đó như một ngọn roi da, khi tiếng cười đốt cháy linh hồn đó như một mũi dùi nung đỏ xiên vào da thịt ? Bà thử nghĩ xem lúc ấy linh hồn đó tuyệt vọng nhìn bốn xung quanh , nhìn lên núi cao nhưng núi cao không muốn sụp xuống, nhìn vào vách đá nhưng đá không lăn lại để che chở cho mình; linh hồn đó ước ao cả kiếp làm chuột nhắt vì chuột nhắt còn có thể chui vào tổ mà lẩn tránh. Và bà nên nhớ rằng linh hồn vốn câm lặng không biết nói, nó không kêu la được. Linh hồn phải chịu đựng và chịu đựng mãi...Ồ! Có lẽ tôi lại nói nhảm rồi... Tại sao bà lại không cười nhỉ ? Bà thật thiếu tính cười đùa.

Giêma chậm rãi quay đi và lặng lẽ bước. Suốt buổi chiều nay, chị không hề nghĩ rằng nỗi lòng phiền muộn của Ruồi trâu lại có liên quan tới gánh xiếc rong. Và giờ đây, khi chị đã thấy được một cảnh tượng mờ mờ trong nội tâm của Ruồi trâu lộ ra qua thái độ sôi nổi bất ngờ ấy, thì chị không biết lấy gì mà an ủi anh, mặc dù lòng chị dạt dào xót thương. Ruồi trâu bước bên cạnh chị, mặt quay đi, nhìn xuống nước.

Bỗng nhiên, anh quay lại nhìn Giêma đầy vẻ thách thức :

- Mong bà hiểu cho những điều tôi vừa nói chỉ thuần túy là tưởng tượng. Tôi rất ưa tưởng tượng nhưng lại không thích người ta cho những điều tưởng tượng của tôi là thật.

Giêma không đáp. Hai người cứ lặng lẽ cất bước. Khi đi qua cổng lớn cạnh cung điện Up-phi-tsi bỗng Ruồi trâu rảo bước qua đường. Anh cúi nhìn một vật gì đen đen nằm bên cạnh hàng rào sắt.

- Làm sao thế hở cháu ?

Ruồi trâu hỏi bằng một giọng rất dịu dàng mà Giêma chưa nghe thấy bao giờ.

- Tại sao cháu không về nhà.

Vật đen ấy động đậy.Một tiếng rên khe khẽ. Giêma lại gần và thấy một em bé chừng sáu tuổi, rách rưới, bẩn thỉu nằm nép vào hàng rào như một con thú nhỏ đang khiếp sợ. Ruồi trâu đứng bên cúi xuống vuốt mái tóc rối tung của nó.

- Sao thế hở cháu ?

Ruồi trâu nhắc lại và cúi thấp hơn để nghe rõ tiếng trả lời yếu ớt.

- Cháu phải về đi ngủ thôi. Đêm, trẻ con không nên ra đường. Ở đây thì chết rét mất. Đưa tay đây cho chú, đứng dậy như người lớn ấy nào ! Nhà cháu ở đâu ?

Ruồi trâu nắm lấy tay em bé để nâng nó dậy, nhưng nó hét lên rồi lại nằm phục xuống đất.

- Sao, cháu làm sao thế ?

Ruồi trâu quỳ xuống sát cạnh đứa bé.

- Trời, bà nhìn xem !

Vai em bé và chiếc áo ngắn của nó đầy máu.

Ruồi trâu lại âu yếm hỏi :

- Cháu làm sao thế, nói đi ! Cháu ngã có phải không ?...Không phải à ?...Ai đánh cháu chứ gì ?...Chắc là thế. Ai đánh cháu thế ?

- Bác cháu đánh.

- À ra thế ! Đánh bao giờ ?

- Ban sáng. Bác ấy say rượu, cháu, cháu...

- Cháu lại đứng gần bác ấy phải không ? Chớ đứng gần người say rượu cháu ạ ! Người say họ không thích thế đâu...Bà xem làm thế nào bây giờ nhỉ ? Nào cháu đi ra chỗ sáng cho chú xem vai cháu nào. Ôm lấy cổ chú, đừng sợ... Thế, được rồi.

Ruồi trâu ẵm em bé qua phố, đặt nó ngồi lên một lan can bằng đá rộng. Anh rút dao díp khỏi túi, lanh lẹ cắt ống tay áo rách, ghì đầu em bé vào ngực mình; Giêma nâng cánh tay bị thương của em. Vai em bị đánh thâm tím, sưng vù. Trên cánh tay còn có một vết thương khá sâu.

- Nhóc con thế này mà bị đánh tệ thế !

Ruồi trâu vừa nói vừa lấy khăn của mình quấn cho áo khỏi chà sát vào vết thương.

- Bác ấy đánh cháu bằng gì ?

- Bằng xẻng. Cháu hỏi xin bác ấy một xu để mua quà thế mà bác ấy lấy xẻng đánh cháu.

Ruồi trâu rùng mình. Anh êm ái nói :

- Ừ, cháu bị đánh đau quá đấy, cháu nhỉ ?

- Bác ấy lấy xẻng đánh cháu, cháu...cháu chạy mất vì bác ấy đánh cháu.

- Suốt ngày cháu phải nhịn đói lang thang khắp phố à ?

Em nhỉ chỉ khóc nức nở, không trả lời. Ruồi trâu ẵm nó khỏi lan can bằng đá :

- Thôi, cháu đừng khóc, đừng khóc nữa ! Không sao đâu. Làm thế nào gọi được xe bây giờ ? Rạp hát hôm nay có biểu diễn lớn chắc đông người xem, xe ở đó cả. Xin lỗi bà, tôi đã lôi bà đi hết chỗ nọ đến chỗ kia, nhưng...

- Tôi sẵn lòng đi với ông. Chắc ông cũng cần tôi giúp. Ông có bế được nó đến nơi không ? Có nặng không ?

- Không sao, tôi bế được, bà cứ yên tâm.

Trước cửa rạp hát chỉ còn mấy chiếc xe nhưng người ta thuê cả rồi.

Buổi hát đã tan, phần lớn người xem đã ra về. Tên của Di-ta được in bằng chữ lớn trên các tời quảng cáo cạnh lối ra vào. Di-ta biểu diễn vở ba lê tối nay. Ruồi trâu bảo Giêma chờ một chút rồi tiến tới lối ra vào của nghệ sĩ và hỏi người phục vụ :

- Bà Rê-ni về chưa ?

Người đó giương mắt nhìn cảnh tượng một vị ăn mặc sang trọng tay ẵm một đứa trẻ lang thang rách rưới, trả lời :

- Thưa ông, chưa ạ ! Bà ấy sắp ra. Xe còn đang đợi...Kìa bà ấy đã ra kia rồi.

Di-ta khoác tay một vị sĩ quan kị binh trẻ tuổi, bước xuống bậc thang. Trông nàng thật lộng lẫy trong chiếc măngtô nhung đỏ khóac trên bộ y phục dạ hội với một chiếc quạt lông đà điểu to giắt bên mình.

Cô gái tsi-gan dừng bước ở cửa. Nàng rút tay ra khỏi cánh tay viên sĩ quan rất ngạc nhiên rảo bước tới chỗ ruồi trâu.

Nàng khẽ mói :

- Phi-lê-trê ! Ông ôm cái gì thế ?

- Tôi bắt gặp em bé này ngoài phố. Nó bị đánh đau lắm và đói nữa. Tôi phải đưa nó ngay về nhà càng sớm càng hay. Không còn chiếc xe nào cả. Chị nhường xe cho tôi nhé !

- Phi-lê-trê ! Ông định mang thằng bé ăn mày kinh tởm này về nhà đấy à ? Nên gọi cảnh sát tới cho họ mang nó vào nhà tế bần hoặc mang đi đau thì mang. Người ăn xin đầy thành phố thì làm sao rước về nhà cho hết được...

- Em bé bị thương đau lắm. Nếu cần thì sáng mai đưa nó vào nhà tế bần cũng được. Nhưng bây giờ phải băng bó và cho nó ăn đã.

Di-ta nhăn mặt với một vẻ khinh ghét :

- Ông trông kìa ! Nó gục đầu vào người ông mà sao ông chịu để yên ? Bẩn thế kia kìa !

Ruồi trâu ngẩng đầu nhìn Ri-ta đôi mắt tóe một tia lửa giận dữ. Anh giật giọng :

- Thằng bé đang đói ! Chị không hiểu đói là gì hay sao ?

Giêma tiến lại xen lời :

- Ông Ri-va-ret ! Nhà tôi rất gần đây. Đưa em bé về nhà tôi. Nếu chưa kiếm được xe thì để nó ngủ ở nhà tôi một đêm...

Ruồi trâu quay ngoắt lại phía chị :

- Bà không khinh nó ư ?

- Tất nhiên là không... Xin chào bà Rê-ni !

Vũ nữ tsi-gan lạnh lùng gật đầu nhún vai. Nàng lại khoác tay viên sĩ quan, cuốn tà váy, lòa xòa tiến lại cỗ xe ngựa mà người ta định cuỗm mất.

Nàng ngoái cổ lại ở bậc xe :

- Ông Ri-va-rét nếu ông cần thì tôi sẽ cho xe lại đón ông và đứa bé.

- Được. Tôi sẽ bảo chỗ cho xe đến.

Anh ra bờ đường bào cho người xà ích biết địa chỉ rồi trở lại với Giêma, tay vẫn ôm đứa bé.

Kê-ti đợi chủ ở nhà. Nghe rõ đầu đuôi câu chuyên, cô liền chạy đi lấy nước nóng và lấy các đồ băng bó.

Ruồi trâu đặt em bé ngồi lên ghế, quỳ xuống bên cạnh và lẹ làng cởi bỏ bộ quần áo rách của em ra. Anh nhẹ nhàng khéo léo rửa và băng vết thương. Khi Giêma mang khay thức ăn vào phòng thì anh vừa tắm rửa xong cho em bé và lấy chăn ấm bọc cho nó.

- Sao ? Có thể cho bệnh nhân của ông ăn được rồi chứ ? - Chị cất tiếng hỏi rồi mỉm cười với chú bé - Tôi đã làm cơm cho em bé rồi đây.

Ruồi trâu đứng dậy, thu nhặt các mảnh giẻ rách trên sàn.

- Bà trông chúng tôi bày bừa hết ra đây rôi ! Phải đem đốt sạch nhưng giẻ rách này rồi mai mua cho nó một bộ đồ mới. Bà có rượu mạnh không ? Cho chú bé tội nghiệp này một ngụm thì tốt quá. Còn tôi thì xin phép bà đi rửa tay.

Ăn xong, đứa bé ngủ thiếp ngay trên lòng Ruồi trâu , gục đầu mái tóc rối bù vào chiếc áo sơ mi trắng muốt của anh. Giêma giúp Kê-ti dọn dẹp sạch sẽ trong phòng rồi lại ngồi vào bàn.

- Ông Ri-va-ret, ông phải ăn chút gì rồi hãy về. Lúc nãy ông chưa ăn được gì mà bây giờ thì khuya lắm rồi.

- Tôi sẵn lòng xin uống một ly trà. Đã khuya mà còn phiền bà quá !

- Không hề gì ! Ông đặt em bé xuống đi văng một tí, bế mãi nặng. Nhưng ông chờ cho một lát tôi lấy tấm chăn phủ đệm đã...Ông định ngày mai sẽ thế nào ?

- Mai à ? Mai tôi xem ngoài con ma men ấy em còn người thân thích nào không, nếu không thì có lẽ phải theo lời khuyên của bà Rê-ni đưa nó vào nhà tế bần. Kể ra, đúng hơn cả là buộc cho nó một hòn đá vào cổ rồi quẳng xuống sông. Nhưng làm thế thì tôi sẽ phải chịu những hậu quả không hay...Ngủ say chưa này ! Thật khổ thân cho thằng bé xấu số ! Mày yếu lom nhom như một chú mèo con thì chống cự sao nổi !

Khi Kê-ti bưng trà lên thì chú bé vừa mở mắt, ngồi nhỏm dậy, ngơ ngác nhìn bốn phía. Trông thấy Ruồi trâu nay đã trở thành người che chở tự nhiên đối với nó, nó bò khỏi đi văng lúng túng trong tấm chăn, đến nép chặt vào Ruồi trâu. Chú bé đã tươi tỉnh và đủ sức hỏi những câu tò mò. Em chỉ vào bàn tay trái méo mó đang cầm chiếc bánh ngọt của Ruồi trâu mà hỏi :

- Cái gì đây hả chú ?

- Cái này ư ? Bánh ngọt đây. Cháu có muốn ăn không ? Thôi, hôm nay ăn thế là đủ rồi. Mai hãy ăn, cháu ạ !

- Không, cái này cơ !

Chú đưa tay sờ vào mấy ngón tay cụt và vết sẹo lớn ở cổ tay Ruồi trâu .

Ruồi trâu bèn đặt miếng bánh lên bàn.

- À cái này ấy à ! Nó cũng giống như cái ở vai cháu ấy mà. Một người khỏe hơn chú đã đánh chú thành sẹo như thế đấy.

- Thế chú có đau lắm không ?

- Chú không nhớ. Nhưng có nhiều cái còn đau hơn, cháu ạ. Thôi bây giờ đi ngủ đi không hỏi lôi thôi nữa, khuya rồi.

Khi xe tới, em bé đã ngủ say. Ruồi trâu cố tránh cho em khỏi thức giấc, nhẹ nhàng bế em xuống dưới nhà.

Dừng bước ở cửa, anh nói với Giêma :

- Hôm nay bà là thiên thần phù hộ cho tôi. Nhưng tất nhiên điều đó chưa làm cho bà và tôi sau này hết tha hồ cãi nhau đâu.

- Tôi chẳng muốn cãi cọ với ai cả.

- Nhưng tôi lại cứ muốn cãi nhau cơ. Đời mà không có chuyện cãi cọ với nhau thì không sao chịu nổi. Cãi nhau một cách lành mạnh là điều không thể thiếu trên đời này. Nó còn hay hơn cả xiếc nữa kia !

Ruồi trâu khẽ cười một mình rồi đi xuống thang gác. Chú bé vẫn ngủ say trong tay anh.

Thư mục:

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét