Trang

Thứ Sáu, 13 tháng 12, 2019

Việt Sử Toàn Thư-Phạm Văn Sơn (2)


Việt Sử Toàn Thư (tiếp 1) 


II. Trần Thánh Tông (1258 - 1278)
- Việc mở mang chính trị
- Việc ngoại giao với Mông Cổ
1- Việc Chính Trị
Vua Thánh Tông lên ngôi xong liền đổi niên hiệu là Thiệu Long. Ngài là một ông vua nhân hậu, hòa ái đối với mọi người từ trong ra đến ngoài.
Ngài quan niệm "thiên hạ là của ông cha để lại (!) anh em cùng hưởng" do đó trong nội cung khi ăn uống vui đùa không có phân tôn ti, trật tự.
Ngài ở ngôi 21 năm, nước nhà được yên trị. Việc học được mở mang. Hoàng đệ là Trần Ích Tắc có tiếng là người trí thức trong nước được cử ra mở học đường để rèn luyện nhân tài cho quốc gia. Mạc Đĩnh Chi là danh nho nước ta sau này cũng do trường của Hoàng triều lập ra.
Ngài lại cho Lê Văn Hưu tiếp tục biên soạn sách sử ký. Họ Lê làm được bộ Đại Việt sử gồm 30 quyển, chép các việc từ đời nhà Triệu đến đời Lý Mạt. Việc biên tập của bộ sử này bắt đầu từ đời vua Thái Tông đến năm Nhâm Thân (1272) đời Thánh Tông mới xong. Vua Thánh Tông còn khuyến khích các vương hầu họp các dân nghèo để khẩn hoang. Các điền trang có kể từ bấy giờ.

2- Việc Ngoại Giao Với Mông Cổ
Mông Cổ tuy thua nhưng vẫn không dứt ý muốn chinh phục nước ta. Trong giai đoạn này họ đã hạ được nhà Tống tức thôn tính được toàn bộ Trung Quốc, ít lâu sau cho sứ sang đòi vua nước ta sang chầu Bắc Kinh (là kinh đô của Nguyên chủ bấy giờ). Annam Chí Lược (quyển 4) và Toàn Thư (quyển 5) dựa vào tài liệu Nguyên Sử (quyển 9) về đoạn này viết:
Mùa hạ năm Mậu Ngọ (1258) Mông Cổ sai Nột Loạt Đan sang dụ vua Trần Thánh Tông như sau: "Xưa ta sai sứ sang thông hiếu, các ngươi mê man không tỉnh nên năm ngoái ta phải xuất quân (1257). Quốc chủ các ngươi (!) phải chạy dài nơi đồng nội, ta lại sai hai sứ giả đi chiêu an cho về nước (hai sứ giả này đều bị ta giam giữ ở trong ngục, đến khi thả ra thì một người chết) các ngươi lại dám trói cả sứ giả của ta.
"Nay ta đặc biệt sai người đến mở lòng dụ bảo: Nếu các ngươi thề xin một lòng nội phụ thì quốc chủ phải thân hành sang đây. Ví bằng vẫn còn không chịu thì cứ bảo rõ cho ta biết".
Vua Trần Thánh Tông hỏi: "Nếu tiểu quốc thành tâm thờ đại quốc thì được đối đãi thế nào?"
Theo Việt Nam Sử Lược vua Thái Tông sai Lê Phụ Trần sang sứ xin ba năm tiến cống một lần. Tình thế đôi bên dĩ nhiên phải gay go vì Mông Cổ ỷ vào sức mạnh có thừa, mà Trần triều thì giầu tin tưởng vào tinh thần anh dũng và nhất trí của dân tộc, huống hồ quân Nam vừa thắng quân Bắc. Việc giao hiếu vẫn chưa được xác định. Mông Cổ sai sứ sang yêu sách hết điều này đến điều nọ, vua ta cứ lần lữa không chịu nhất là việc sang chầu Nguyên chủ, sau câu chuyện ngã ngũ ở chỗ nước Nam chỉ chịu sứ tiến cống ba năm một lần mà thôi, kể từ năm Quý Hợi (1263). Điều kiện của việc tiến cống là:
1) Nộp nho sĩ, thầy thuốc, các người thông âm dương bói toán - thủ công mỗi hạng 3 người (kỹ thuật gia).
2) Về đồ vật phải nộp sừng tê, ngà voi, đồi mồi, vàng bạc, chu sa, dầu tô hợp, quang hương, đàn hương, trầm hương, trân châu, bông trắng, đĩa, chén và các vật lạ.
Thật là cả một sự khôn ngoan! Mông Cổ đòi các nhân vật cốt để biết về mỗi ngành dân trí của người Nam tiến đến bậc nào. Sau đó họ muốn tìm hiểu nước ta có những sản vật gì quý báu. Họ nghiên cứu các điều này để tùy tiện thi hành dần chương trình xâm lăng và bóc lột của họ.
Mông Cổ đặt quan Đạt Lỗ Hoa Xích tức là quan Chưởng Ấn để giám trị các châu quận của nước Nam trong khi chưa cướp được hẳn chính quyền của vương triều bản xứ. Vua chúa nhà Trần cũng hiểu rõ cái manh tâm của Nguyên chủ nên chịu nhận quan Đạt Lỗ Hoa Xích của họ trong khi cần hòa hoãn tình thế.
Trong giai đoạn hòa hiếu khá dài này, Trần triều lợi dụng yếu tố thời gian để tập binh luyện mã, xây dựng cho cuộc tranh đấu một nền tảng vững chắc trên thực tế, biết rằng sớm muộn cuộc xâm lăng của Bắc phương cũng lại tái diễn. Sự nhận xét đó đã căn cứ vào chỗ người Mông Cổ đã tung hoành từ Á qua Âu, làm bá chủ hai phần ba thế giới có lẽ nào chịu đấu dịu mãi với một nhược tiểu dân tộc phương Nam nhất là dân tộc này xưa kia đã nằm dưới quyền thống trị của giống Hán mà họ vừa mới khắc phục được. Cuộc áp bức bằng quân lực năm Đinh Tị (1257) đã không thành công, nhưng trên 20 năm Mông Cổ được Trần triều thần phục, chịu nhận quan Giám Trị nên Mông Cổ nghĩ cứ lấy uy thế mà lấn dần, kết cục vẫn đi tới được kết quả mong muốn thì cần gì phải dùng binh đao, huống hồ binh đao đã rõ rệt vô hiệu lực. Con tính của họ như vậy cũng hợp lý lắm. Trái lại họ không ngờ rằng Trần triều hay dân tộc Việt nam thuở đó đã chỉ quan niệm việc thần phục nhà Nguyên là một kế sách hòa hoãn với kẻ mạnh, một chiến lược lùi để tiến trong khi thực lực chưa sung mãn. Quả vậy, dưới triều Lý dân tộc Việt Nam độc lập trên hai thế kỷ, sau cuộc thắng trận của Lý Thường Kiệt, gươm đao lâu ngày không mó đến. Qua tới các vua Cao Tông, Huệ Tông, tổ chức kinh tế quân sự, xã hội lại sao nhãng, Trần triều mới bột khởi, đâu đã đủ sức chịu nổi một cuộc trường chiến với một dân tộc hùng cường nhất Thế giới bấy giờ. Cái chước lùi để tiến của Trần triều rõ rệt là một thủ đoạn rất khôn ngoan của các nhà chính trị đời bấy giờ. Trần Thủ Độ và Trần Quốc Tuấn là hai linh hồn của cuộc kháng chiến, là cột trụ của cuộc chống Nguyên quả đã nhìn thời cuộc rất sát và đã nhọc lòng xây dựng lực lượng dân tộc về ba điểm trên đây. Ba điểm này nếu không phát triển đều thì chỉ còn nước cúi đầu nghe lệnh của kẻ mạnh. Rồi việc binh chế của Trần triều tổ chức và canh cải như thế nào trên đây chúng đã rõ.
Cuộc xô xát giữa đôi bên ra sao?
Ba năm sau tức là năm Bính Dần (1266) thế ngoại giao bắt đầu gay go giữa đôi bên cùng một nhịp. Năm đó sứ Mông Cổ qua Việt Nam. Trần Thánh Tông yêu cầu bãi bỏ việc đòi nho sĩ, thầy bói và các thợ khéo. Tháng chạp phái đoàn Dương An Dưỡng và Vũ Hoàn đưa sang Nguyên triều ba tờ biểu xin bãi bỏ các vấn đề này: Tờ thứ nhất nói về việc cống phương vật. Tờ thứ hai nói về việc tuyển cống nhân tài. Riêng tờ thứ ba xin cứ để Nột Loát Đan làm "Đạt Lỗ Cát Tề" ở nước Nam. (Đạt Lỗ Cát Tề tức là Đạt Lỗ Hoa Xích theo Mông Cổ nghĩa là quan trưởng giữ quyền hành chính và quân sự. Hồi đó lực lượng của ta chưa dồi dào nên phải tạm nhận khoản này).
Mông Cổ bằng lòng nhưng khoảng tháng 10 năm sau (Đinh Mão tức 1267), Nguyên chủ lại đưa ra những điều kiện nặng nề gồm 6 việc dưới đây:
1) Quân trưởng phải sang chầu.
2) Phải gửi con em nhà vua sang làm con tin
3) Biên số dân
4) Nộp phú thuế
5) Chịu quân dịch
6) Đặt quan Đạt Lỗ Cát Tề như cũ.
Các điều yêu sách của Mông Cổ trước sau đều bị khước từ khéo léo, bề ngoài có sự nhũn nhặn mà bề trong có sự cứng rắn, rút cục vẫn đưa Mông Cổ đến chỗ bất mãn.
1) Tháng một năm Đinh Mão (1267) Mông Cổ đòi trao trả hai tên lái buôn người Hồi hoạt để xét hỏi về việc Tây Vực.
Trần triều trả lời: "một người là Y Tôn chết đã lâu, một người là Bà Bà sau cũng vì ốm đã chết rồi".
2) Đối với việc yêu sách nộp voi, ta thoái thác: ".. Cứ theo Hòa Lâm, Cát Nhã, Bệ hạ (chỉ vua Nguyên) muốn cần dùng vài con voi lớn, những giống thú ấy mình mẩy xù xụ to lắm, đi chậm chạp không bằng ngựa của thượng quốc, xin sẽ dâng cống chuyến sau..."
3) Tháng một năm Canh Ngọ (1270) Mông Cổ bắt bẻ vua Trần Thánh Tông tiếp chiếu không chịu lạy, không đãi sứ theo lễ vương nhân.
Vua Trần Thánh Tông trả lời qua Trung thư sảnh nhà Nguyên: "Bản quốc được thiên triều phong vương tước há không phải là vương nhân sao? Sứ giả của Thiên triều lại xưng mình là "vương nhân" đứng ngang với bản quốc thì e làm nhục phong thể triều đình, huống chi bản quốc trước đã tiếp chiếu chỉ bảo cứ để nguyên tục cũ. (Tháng chạp năm Canh Thân (1260) Mông Cổ do chính sách mềm dẻo đã đưa chiếu thư nói: Đối với quan liêu sĩ thứ trong nước phàm mũ áo, điển lễ, phong tục nhất nhất cứ để nguyên vẹn...) Hễ khi tiếp được chiếu lệnh thì để yên nơi chính diện, còn mình lui lánh ở chỗ nhà riêng, đólà điển lễ cũ của bản quốc!
"Còn việc đòi voi như có nói trong tờ Dụ gởi sang trước đây, bản quốc sợ trái Ý chỉ nên cứ nấn ná chưa dám thưa thực duyên cớ: Quản voi không nỡ lìa nhà thì sai đi là một chuyện khó.
"Tờ dụ lại đòi nho sĩ, thầy thuốc và thợ thuyền. Nhưng khi bồi thần là lũ Lê Trọng Đà vào bệ kiến, tấc gang gần bóng sáng oai nghiêm không thấy ban chiếu dụ bảo gì cả. Huống chi năm Trung Thống thứ tư đã được miễn rồi. Nay lại nói đến xiết bao sợ hãi lạ lùng! Vậy xin Các hạ nghĩ lại cho..."
Năm Tân Mùi (1271) Hốt Tất Liệt cho sứ qua dụ vua Thánh Tông sang chầu. Vua Thánh Tông cáo bệnh không đi.
Năm sau vua Nguyên cho sứ sang tìm cột đồng Mã Viện. Trần triều đáp: cột đồng ấy lâu ngày mất rồi.
Năm Ất Hợi (1275) các cạnh góc ngoại giao của nước ta đưa ra dần. Tháng giêng năm ấy (1275) vua Thánh Tông gửi sang Mông Cổ bài biểu sau đây:
"Dẫu được ba năm một lần cống, sứ bộ qua lại đổi thay đi về mệt nhọc chưa được ngày nào nghỉ ngơi. Đến như Đạt Lỗ Cát Tề do thiền triều cử sang nước tôi thì lúc về há chịu về không? Huống chi kẻ được sang đây làm gì cũng cậy thế, việc gì lớn nhỏ cũng lấn lướt đè nén nước nhỏ này. Ngài là Thiên Tử dẫu sáng suốt ngang mặt trời, mặt trăng nhưng đâu dễ soi tới đáy chậu úp?
"Vả Đạt Lỗ Cát Tề chỉ đáng thi hành với những nước "xấu xí nhỏ mọn" nơi mọi rợ ở biên giới, lẽ nào tôi đã được liệt phong vào bậc vương, đứng làm phên dậu một phương mà lại còn lập Đạt Lỗ Cát Tề cai quản thì há chẳng bị các nước chư hầu cười ư? Vì sợ mà phải cống, sao bằng trong lòng vui phục mà tự cống? (Dịch theo nguyên văn chữ Hán).
Theo Trần Trọng Kim về khoản này, vua Thánh Tông xin đổi Đạt Lỗ Cát Tề làm chức Dẫn Tiến Sứ nghĩa là coi việc kiểm điểm đồ tiến cống, như vậy không có quyền gì nữa đối với nước ta. Vua Nguyên không chịu và biết rằng dựng mưu không xong lại xoay về giải pháp võ lực. Họ cho quan lại ở biên giới thăm dò địa thế nước ta, và về phần nước ta cũng có sự phòng bị.
Năm Đinh Sửu (1277) Thái Thượng Hoàng mất ở Thiên Trường phủ (làng Tức Mặc). Năm sau vua Thánh Tông nhường ngôi cho Thái Tử Khâm rồi trở về ở Thiên Trường. Thánh Tông trị vì được 21 năm, làm Thái Thượng Hoàng được 13 năm, thọ 51 tuổi.

III. Trần Nhân Tông (1279 - 1293)
Mông Cổ Gây Hấn Lần Thứ Hai
- Việc ngoại giao tan vỡ
- Quyết chiến giữa Việt Nam và Mông Cổ
- Mông Cổ tấn công trên các mặt trận

1- Việc Ngoại Giao Tan Vỡ
Thái Tử Trần Khâm thay vua Thánh Tông lên ngôi tức là Trần Nhân Tông. Guồng máy chính trị và quân sự thuở đó vẫn quay đều nhờ ở Thái Thượng Hoàng và các quan triều thần nhiều người có tài trí. Trong nước tinh thần dân tộc vẫn được nhất trí. Mọi vấn đề dân sinh được ổn định và sinh lực quốc gia mỗi ngày một dồi dào do đó chúng ta mới có thể chống đỡ được ngoại xâm hai phen nữa sau này còn đáng sợ hơn cuộc gây hấn lần thứ nhất vào năm Đinh Tị (1257).
Ngoài sự Mông Cổ luôn luôn qua lại hạch sách dưới đời vua Nhân Tông, giặc Lào thường sang quấy nhiễu ở các miền lân cận. Sau này yên hẳn với Mông Cổ vua Nhân Tông đã có phen ngự giá đi đánh Lào (1290).
Như trên đã nói, sau chín năm nhịn nhục từ 1266 đến 1275 dân tộc chúng ta đã bắt đầu có thực lực thì Trần triều bắt đầu tấn công Mông Cổ mỗi ngày một mạnh thêm về mặt ngoại giao. Yêu sách của họ bị khước từ hầu hết. Chúng ta đã dùng nhiều "lý sự " trong các biểu chương gửi qua triều Nguyên, gần như để chọc giận họ, tuy nhiên liều thuốc đắng ấy vẫn có bọc đường.
Về văn học, dân ta bấy giờ cũng tấn tới nhiều, cứ xem bài hịch của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn và nhiều thi văn của Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão v.v... sau này trong cuộc chống Nguyên thì rõ. Những nhà văn học của chúng ta lĩnh hội được khá nhiều tinh hoa của văn học Trung Quốc nên trong thi văn lời lẽ chải chuốt, tinh thần cứng rắn. Chữ Nôm ra đời, thơ Hàn luật rất thịnh hành (kể từ Hàn Thuyên, thơ Nôm thịnh phát nên gọi là thơ Hàn luật vì Thuyên đã đặt ra khuôn phép, luật lệ hoặc có nhiều sáng kiến về môn này) tuy công văn, tờ sức vẫn còn dùng chữ Hán.
Năm Quí Tị (1293) vua Nhân Tông truyền ngôi cho Thái Tử Thuyên rồi về nghỉ ở Thiên Trường là nơi yên dưỡng của các vua chúa họ Trần bấy giờ.
Vua Nhân Tông trị vì được 14 năm, nhường ngôi được 13 năm, thọ được 51 tuổi.
Tháng chạp năm Mậu Dần (1278) Mông Cổ cử bọn Sài Xuân (có sách phiên âm lầm là Sài Thung) sang hạch hỏi về 6 khoản đã đưa ra hồi tháng 10 năm Đinh Mão (1267) mà nhà Trần chưa tuân theo.
Sài Xuân có thái độ kiêu ngạo, Trần triều thì có thái độ cứng rắn nên cuộc gặp gỡ không đi tới một kết quả nào tốt đẹp. Nhất là về khoản vua nước ta phải sang chầu vua nhà Nguyên thì nhà Trần từ chối hẳn.
Tháng một năm Kỷ Mão (1279) sứ ta là Trịnh Quốc Toản sang Tầu bị giữ lại tại nhà hội đồng. Bọn Sài Xuân bốn người cùng một sứ giả của ta là Đỗ Quốc Kế đem chiếu sang dụ lần nữa: Nếu nhà vua không sang chầu được, phải đúc người vàng thay thân mình, lấy hai hạt ngọc trai làm hai con mắt, ngoài ra phải tuyển nho sĩ, phương kỹ, tử đệ thợ thuyền mỗi hạng hai người để thay nhân dân. Bằng không chỉ có chiến tranh mới giải quyết được vấn đề.
Năm Canh Thìn (1280) vua Trần Nhân Tông cử chú họ là Trần Di Ái (tức Trần Ái), Lê Tuân và Lê Mục sang thay mình. Nguyên chủ không chịu lại lập Di Ái làm An Nam Quốc Vương, đổi nước ta là An nam Tuyên úy ty, đặt quan liêu sang giám trị các châu, huyện (Tân Tị 1281).
Năm Nhâm Ngọ (1282) Sài Xuân làm An nam Tuyên úy sứ đô nguyên súy đem 1000 quân hộ tống Di Ái về nước đưa chiếu thư dụ mọi người trong tông tộc nhà Trần và quan lại trong nước.
Cuộc ngoại giao từ đấy tan vỡ.
Trần triều cương quyết lấy gươm đao chống lại Mông Cổ. Quân đội được lệnh đánh bọn Sài Xuân ở gần Nam Quan. Sài Xuân bị bắn mù một mắt chạy trốn về Tàu, cái triều đình bù nhìn kể từ Di Ái trở xuống đều bị bắt và phải tội đồ, sung làm lính.
Tháng bảy năm sau (năm Quí Mùi 1283) vua Trần Nhân Tông lại đưa thư sang đòi sứ giả của ta bị Nguyên giữ lại mấy năm trước (Trịnh Quốc Toản và vị quan họ Phạm tước Minh Tự, qua Bắc Triều từ năm Kỷ Mão 1279). Mông Cổ nhượng bộ.
Tháng mười năm ấy, sứ Nguyên Đào Bỉnh Trực đem tỉ thư (quốc thư có đóng dấu ngọc tỉ) sang dụ ta giúp binh lương và cho mượn đường để đánh Chiêm Thành. Sự thật đấy chỉ là mưu mô để tấn công vào nước ta một cách bất ngờ.
Trần triều vẫn tiếp tục chước ngoại giao vì việc binh đao đối với ta chỉ là chuyện vạn bất đắc dĩ. Trung lương Đại phu Đinh Khắc Thiệu và Trung đại phu Nguyễn Đạo Học đem phương vật theo sứ Nguyên là Triệu Chử sang giao thiệp với Mông Cổ. Trung phụng đại phu Phạm Chí Thành và Triều thỉnh lang Đỗ Bảo Trực đến Sảnh thu xếp mọi việc và đưa thư do vua Trần Thánh Tông đứng lên, cho chức Bình Chương để từ chối việc nài ép ta giúp binh lương kể trên.

2- Huyết Chiến Giữa Việt Nam và Mông Cổ
Từ khi Sài Xuân bị thương chạy về, thái độ Trần triều mỗi ngày thêm cứng rắn khiến Nguyên chủ hết sức giận dữ. Việc mượn đường và giúp lương đi đánh Chiêm Thành lại bị khước từ khéo léo đã quyết định cuộc xâm lăng thứ hai của Mông Cổ.
Tháng tám năm Nhâm Ngọ (1282) niên hiệu Thiệu Bảo thứ tư đời vua Trần Nhân Tông, biên thần giữ Lạng Sơn là Lương Uất sai ruổi ngựa trạm về báo: Nguyên chủ sai con là Thoát Hoan phong làm Trấn Nam vương cùng Hữu thừa Toa Đô, Tả thừa Lưu Thâm, Tham chính A Lý và Ô Mã Nhi lót miệng bằng việc đi đánh Chiêm Thành, đòi ta cho mượn đường, góp quân lính, cùng lương thảo (tháng 10 năm Nhâm Ngọ).
Hội Nghị Bình Than
Tháng 10 năm Nhâm Ngọ (1282) Trần triều trước tình thế cấp bách và nghiêm trọng, triệu tập các vương hầu và bá quan văn võ bên sông Bình Than (thuộc huyện Quế Dương, tỉnh Bắc Ninh, chỗ sông Đuống nối với sông Thái Bình). Nơi họp có tính cách bí mật vì cần tránh tai mắt của bọn gián điệp đối phương. Hội nghị này là hội nghị để thăm dò ý kiến của các vương hầu, tướng lĩnh.
Các quan có người bàn không nên nghịch ý Mông Cổ nghĩa là cho mượn đường và giúp lương. Có người bàn nên đem quý vật sang cống để cầu hoãn binh. Duy chỉ có Trần Quốc Tuấn và Trần Khánh Dư chủ chiến và xin đem quân giữ các nơi hiểm yếu. Xin nhắc Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư là tay tướng tài trước đó đã được khen thưởng trong cuộc kháng Nguyên năm Đinh Tị (1257) sau phạm tội bị lột chức ra làm nghề bán than ở Chí Linh, Hải Dương. Lúc này ông lại được mời ra dự bàn và giữ chức Phó đô tướng quân.
Một chuyện đáng chú ý trong cuộc hội nghị tại Bình Than là Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản cũng dự vào số người theo hầu vua nhưng vì ít tuổi nên không được dự bàn. Quốc Toản lấy làm bực tức tay cầm quả cam bóp nát lúc nào không biết. Khi trở về Quốc Toản họp gia nô được hơn 1000 người, tự sắm chiến thuyền kéo cờ đánh giặc.
Cuộc chiến đấu đã quyết định vào tháng 10 năm sau (Quí Mùi 1283), sau đó Trần Nhân Tông thân chinh đốc xuất các vương hầu huy động toàn thể quân đội thủy lục được tất cả 20 vạn mở cuộc tập trận. Trần Quốc Tuấn được tấn phong làm Quốc công Tiết chế thống lĩnh lực lượng quân sự toàn quốc, tung ra lời hịch đầu tiên kêu gọi tinh thần ái quốc và kỷ luật của các tướng sĩ vào tháng 8 năm sau (Giáp Thân 1284). Rồi một cuộc duyệt quân vĩ đại đã khai diễn tại Đông Bộ Đầu tức là bến Đông Tân, trên sông Cái nay gọi là Hồng Hà (thuộc huyện Thượng Phúc tỉnh Hà Đông). Rồi quân đội của ta chia đóng các nơi cổ họng và then chốt của các miền biên giới, chẳng hạn: Lạng Sơn và đường thủy bộ từ Vân Nam vượt qua Lào Kay, Phú Thọ đổ xuống. Miền Hải Dương thì bến Vạn Kiếp cũng có sự phòng ngự. Miền trong là Thanh Nghệ xét địch quân có thể đổ bộ ở đây để tiến ra Bắc v.v... Đây là mấy con đường chính. Quả nhiên Nguyên quân sau này đã dùng cả mấy đường kể trên.38

38 Việc phân phối trách nhiệm quân vụ như sau đây:
- Trần Bình Trọng đóng đồn trên sông Bình Than.
- Trần Khánh Dư giữ mặt Vân Đồn (Quảng Yên)
- Trần Hưng Đạo đóng đại quân ở Vạn Kiếp (Hải Dương) để tiếp sức cho cả hai mặt thủy bộ đi khắp nơi.

Việc binh tiến mạnh nhưng việc ngoại giao vẫn tiếp tục để hòa hoãn tình thế và nghiên cứu thái độ của địch. Sứ ta là Trần Phủ lên đường tới Hành sảnh Kinh Hồ bên Nguyên hồi tháng một, tháng chạp (Giáp Thân -1284) xin hoãn binh.

Hội Nghị Diên Hồng
Cuộc xâm lăng thứ hai của Mông Cổ mở vào ngày 21 tháng chạp năm Giáp Thân (1284) tức là ngày quân Mông Cổ thực sự xuất thân toàn bộ qua giày đạp nước ta. Lần này họ huy động tới 50 vạn binh sĩ đặt dưới quyền các danh tướng như: Tả Thừa Lý Hằng, Bình Chương A Thích, Bình Chương A Lý Hải Nha, Tổng chỉ huy của Mông Cổ là Thái Tử Thoát Hoan. Phụ tá của Thoát Hoan có hai Thượng tướng Ô Mã Nhi và Toa Đô. Các lực lượng của quân Nguyên bấy giờ đều hội tại Hồ Quảng chia làm hai đạo: Lục quân tiến vào Lạng Sơn do Thoát Hoan điều động, Thủy quân xuất phát tự Quảng Châu theo Toa Đô vượt biển tới Chiêm Thành.
Đáng để ý một điều là vấn đề tấn công vào Việt Nam của Mông Cổ đã quyết định từ năm Nhâm Ngọ (1282) sau khi Sài Xuân bị bắn mù mắt chạy về mà hai năm sau quân Nguyên mới thực hiện. Họ chậm động binh là vì Trần triều khéo trì hoãn bằng ngoại giao để có đủ thì giờ lo liệu mọi vấn đề quân sự chăng? Hoặc về phần Mông Cổ, họ phải tích cực chuẩn bị vì biết dân Việt ta là một dân tộc có một quá khứ anh dũng?
Khi nghe tin đại quân Mông Cổ họp ở Hồ Quảng sắp sang, vua Nhân Tông còn cố gắng điều đình một phen nữa nhưng thất bại.
Tháng chạp năm Giáp Thân (1284) Thượng Hoàng (vua Thánh Tông) cho triệu các bô lão tới điện Diên Hồng để trưng cầu dân ý cùng hỏi mưu chước. Các bô lão đều đồng thanh xin đánh.
Thế là qua hai hội nghị, toàn quốc đã nhất trí kháng địch.
Quân bản bộ của Thoát Hoan đến cửa Nam Quan thì ngừng lại. Thoát Hoan phái Bá Tổng  A    mang  thư  qua  nói:  "Bản  súy  chỉ  nhờ  đường  Nam  Quốc  qua  đánh  Chiêm Thành, chứ không có bụng gì đâu mà ngại. Nên mở cửa cho bản súy đi và đến đâu chỉ nhờ giúp ít nhiều lương thảo, khi phá xong Chiêm Thành sẽ có trọng tạ. Nhược bằng kháng cự thiên binh, bản súy sẽ không dong tình, bờ cõi sẽ tan hoang, lúc đó có hối cũng đã muộn".
Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn nổi giận đuổi sứ Nguyên, chia quân chẹn ngay hai
địa điểm cổng ngõ là Khả Li và Lộc Châu thuộc Lạng Sơn.
Cuộc tiến binh của nhà Nguyên gồm có:
1) Tây đạo là cánh quân do bốn Vạn hộ Ly La Hợp Đáp Nhi (dựa vào tài liệu An Nam Chí Lược nhưng chưa rõ tên một hay hai người) Chiêu Thảo A Thâm do huyện Khưu Ôn (thuộc Lạng Sơn) đột nhập vào đất Việt.
2) Đông đạo do bọn Khiếp Tiết Tản Lược Nhi, Vạn Hộ Lý Bang Hiến vượt núi Khưu Cấp (An Nam Chí Lược chép là Cấp Lĩnh, Cương Mục chú thích là phố Kỳ Lừa thuộc Ôn Châu tỉnh Lạng Sơn) tràn sang. Đại binh của Thoát Hoan nối theo.
3) Quân của Toa Đô tiến vào Chiêm Thành do thủy đạo (trên đã nói).
Xem đường tiến quân của Mông Cổ thì mặt trận phía Bắc quan trọng hơn cả. Đại quân của Trần Hưng Đạo Vương phải hoạt động kịch liệt ở đây. Giặc không tiến được ở núi Khưu Cấp phải qua ải Khả Lợi (hay Khả Lý) kéo xuống. Cánh quân Đông đạo của Tản Lược Nhi lúc này vượt được ải Khả Lợi liền tiến xuống ải Nữ Nhi. Tại chốn này gián điệp của ta là Đỗ Vĩ bị chúng bắt được và chém chết.
Hưng Đạo Vương chống nhau với Thoát Hoan ở ải Nội Bàng, ngày 27 tháng chạp năm Giáp Thân (1284). Thế giặc mạnh quá, ngài phải chạy về đóng ở Vạn Kiếp để chuẩn  bị cuộc phản công và truy kích vào khoảng mùa hè năm sau (Ất Dậu 1285). Thủy quân của ngài đóng ở Bái Tân (Bái Tân là thượng lưu sông Lục Nam). Còn Thượng tướng Trần Quang Khải đóng quân ở Nghệ An đề phòng quân Toa Đô. Viên đại tướng này phụ trách mặt trận Tây Nam.
Chiến lược Mông Cổ bấy giờ là dùng thế gọng kìm xiết chặt quân Nam vào giữa, và với số quân 50 vạn họ hy vọng phong tỏa Việt quân một cách dễ dàng từ Nam ra Bắc.
Quân Nam Rút Lui Theo Kế Hoạch
Tại trận tuyến Lạng Sơn buổi đầu quân Nguyên bị ngừng lại do sự cản trở của Việt quân, sau hai ba trận không thắng bại. Ít lâu sau Khả Lợi và Lộc Châu thất thủ, Việt quân phải rút về Chi Lăng. Hưng Đạo Vương cùng các gia tướng là Dã Tượng và Yết Kiêu chuyển quân về Bái Tân để ra Vạn Kiếp xét không giữ nổi mặt trận Lạng Sơn lâu hơn nữa và đã thấy bất lợi rõ rệt.
Vua Nhân Tông được tin Hưng Đạo Vương lui quân khỏi Lạng Sơn liền xuống chiếc thuyền nhỏ ra Hải Đông (tức là Hải Dương), triệu Hưng Đạo Vương đến. Nhân Tông nói: Thế giặc lớn như vậy chống với nó e dân sự sẽ tàn hại hay là hàng chúng nó để cứu lấy dân?".
Hưng Đạo Vương khảng khái trả lời: "Bệ hạ vì lòng thương dân mà nghĩ như vậy nhưng Tôn Miếu và Xã tắc thì sao? Nếu Bệ hạ muốn hàng, xin hãy chém đầu tôi đi trước đã!".
Nhà vua được lời cương quyết và trung liệt ấy lại vững lòng.
Ở các nơi hậu tuyến, từ kinh thành đến các miền thôn dã triều đình đã ra lệnh "bỏ vườn không nhà trống". Nhiều nơi bị phá hủy sạch (theo Nguyên sử).
Khắp các nơi đều treo bảng cấm hàng giặc: "Phàm các quận, huyện trong nước, hễ giặc đến thì phải liều chết, cố đánh. Nếu sức địch không nổi thì cho phép trốn ẩn vào rừng núi chớ không được hàng".
Hội Nghị Quân Sự Ở Vạn Kiếp
Hội nghị này được nhóm họp để chỉnh bị lại hàng ngũ sau những kinh nghiệm về địch ở mặt trận Lạng Sơn. Quân các lộ, các xứ tập hợp lại và chiêu mộ thêm vẫn được đủ 20 vạn do các vương hầu đưa đến Vạn Kiếp để tùy quyền điều động của Hưng Đạo Vương. Đây là các binh lính ở các xứ Bàng Hà, Na Sầm, Trà Hương, An Sinh, Long Nhãn và các lộ Hải Đông, Vân Trà, Bà Điểm của Hưng Vũ Vương, Minh Hiền Vương Uất, Hưng Nhượng Vương Tảng và Hưng Trí Vương Nghiễm. Trong các quân dân các lộ những người khỏe mạnh được lựa chọn làm tiên phong. Thế lực quân ta lại nổi to. Đáng chú ý ngoài quân đội bấy giờ chỉ mới lấy ở các miền duyên hải và các lộ Đông Nam, còn quân đội từ Thanh Hóa trở vào chưa phải tuyển đến.
Ta nhận thấy Hưng Đạo Vương và Trần triều đã áp dụng một phương thức kháng Nguyên rất khéo léo và bình tĩnh. Trần triều hiểu rằng quân số của Mông Cổ tới 50 vạn, nhưng ta không cần huy động một quân số ngang với quân số của địch. Lý do thứ nhất là nước ta nhỏ, quân nhu, lương thực không đủ cung cấp cho một lực lượng quân sự quá rộng lớn. Lý do thứ hai ta thi hành một cuộc trường kỳ kháng chiến thì không cần động binh quá nhiều ngay. Trong cuộc trường chiến này, Nam quân hết sức tránh cuộc xung đột với địch nơi nào địch xuất phát nhiều năng lực và quân số. Ta chỉ tấn công địch ở nơi nào địch quân cô, thế yếy, hoàn cảnh bất lợi và có thể chiến thắng được chắc chắn và dễ dàng. Phương lược nầy có khoa học hay không ta coi những kết quả mà Trần triều thâu hoạch được ở dưới đây sẽ hiểu.
Nhận thức rõ ràng chiến pháp và tình thế của địch, Hưng Đạo Vương cho lưu hành luôn lúc đó cuốn Binh thư yếu lược do Ngài soạn ra để các tướng sĩ áp dụng ngay trong các cuộc giao tranh. Nguyên tắc của cuốn Binh thư yếu lược đó đại khái như trên đây tất nhiên còn nhiều chi tiết nữa rất tinh vi và thực tế.
Ngài lại đưa ra một bản hịch để hiệu triệu tướng sĩ nhân dân chống nạn xâm lăng.
Bài hịch này đã được Cử nhân Nguyễn Văn Bình dịch ra theo thể thơ song thất lục bát dưới đây:
Xưa Kỷ Tín liều thân chịu chết,
Cứu Hán Vương thoát khỏi Hoàng Dương.
Do Vu cháu Sở Chiêu Vương,
Giơ lưng đỡ giáo tìm đường cứu vua.
Kìa Dự Nhượng thuở xưa người Tấn,
Từng nuốt than lận đận phục thù.
Kìa Thân Khoát một Tể phu,
Chặt tay theo nạn với vua nước Tề.
Quan nhỏ như Uất Trì, Kính Đức,
Giúp Thái Tông khỏi bước trùng vi.
Cảo Khanh quan ở biên thùy,
Già mồm chửi giặc không hề tiếc thân.
Bậc nghĩa sĩ trung thần từ trước,
Từng diệt thân cứu nước có nhiều.
Những người kia nếu chẳng liều,
Chết xuông như đám nữ lưu xó nhà.
Còn danh tiếng đâu mà chép lại,
Cùng kiền khôn truyền mãi không ngần.
Các ngươi dòng dõi vũ thần,
Xưa nay nào có hiểu văn nghĩa gì.
Nghe câu chuyện bán nghi bán tín,
Sự muôn năm nhắc đến chi vay?
Này ta hãy nói cho hay,
Thử xem Tống, Thát truyện này ra sao?
Vương Công Kiên người nào thế vậy?
Tướng Nguyễn Văn Lập ấy người nào?
Điếu Ngư thằng bé tèo teo,
Chống quân Mông Cổ ồn ào trăm muôn.
Khiến quân Tống thắng luôn mấy trận,
Đến bây giờ dân vẫn hàm ân.
Ngột Lang là tướng đốc quân,
Với tỳ tướng Xích là nhân phẩm nào?
Ngoài muôn dặm quản bao nước độc,
Trong mấy ngày phá rốc quân Nam.
Lòng vua Thát Đát đã cam,
Đến nay lừng lẫy tiếng thơm nhường nào!
Ta với ngươi sinh vào đời loạn,
Vừa gặp cơn vận hạn gian nan.
Sứ Nguyên lai vãng bao lần,
Mọi nơi đường sá muôn vàn nôn nao.
Triều đình bị cú diều soi mói,
Tể tướng thì lang sói rẻ khinh.
Mượn oai Hốt Liệt tranh giành,
Lấy bao của báu chưa đành lòng tham!
Cậy thế chúa Vân Nam nạt nã,
Đòi bạc vàng hết cả kho ta.
Thịt nuôi hùm đói mãi a?
Sao cho thoát khỏi lo xa sau này?
Ta đây những hàng ngày quên bữa,
Lúc đêm thâu ngồi dựa gối kiêu.
Giọt châu tầm tã tuôn trào,
Như nung gan sắt, như bào lòng son!
Chí những muốn moi gan lấy tiết,
Lòng những toan xé thịt vằm da.
Dù thân dầu với cỏ hoa,
Dù là ngựa bọc thân đà cũng vui.
Các ngươi vốn là người môn thuộc,
Được trông nom mọi việc binh cơ.
Áo không, ta cởi áo cho,
Cơm không, ta sẻ cơm cho no lòng.
Quan nhỏ thì ta phong chức cả,
Lộc ít thì ta trả lương thêm.
Đi sông, ta cấp cho thuyền,
Đi đường, ta cũng lệnh truyền ngựa đi.
Cho cầm quân an nguy cùng lối,
Cho nằm yên, vui nói cùng hàng.
So Vương Kiên với Ngột Lang,
Đãi chư tỳ tướng, mọi đường kém chi.
Nếu vua nhục, ngươi thì chẳng đoái,
Mà nước nguy, ngươi lại làm ngơ.
Đứng hầu tướng giặc không dơ?
Nghe ca  thết sứ vẫn trơ tráo ngồi.
Khi gà chọi, khi thời cờ bạc,
Cuộc vui chơi gỡ gạc đủ trò.
Ruộng vườn mưu sự ấm no,
Vợ con vui thú riêng cho một mình.
Ham lập nghiệp quên tình nhà, nước,
Mải đi săn, nhác việc ngăn, ngừa.
Rượu chè hôm sớm say sưa,
Hát hay đàn ngọt sớm trưa thỏa lòng.
Đúng lúc có quân Mông Thát tới,
Cựa gà không chọc nổi áo da.
Những nghề cờ bạc tinh ma,
Phải đâu kế hoạch của nhà cầm quân?
Ruộng nương nào đủ phần chuộc mạng?
Vợ con nào đủ cáng quân nhu?
Của đâu chuộc được đầu thù?
Chó săn đâu đủ sức khua giặc trời.
Rượu ngon khó làm mồi bả giặc,
Hát hay không làm điếc tai thù.
Bấy giờ chẳng sót lắm ru?
Vua tôi ta bị trói gô một đàn!
Tước ấp ta bị tan nát cả
Bổng lộc ngươi cũng chẳng còn gì.
Gia đình ta bị đuổi đi,
Vợ ngươi cũng đến khi nhục nhằn.
Tông xã ta, địch quân xéo dí,
Phần mộ ngươi cũng bị quật lên.
Đời ta khổ nhục liên miên,
Cái tên nhơ nhuốc lưu truyền mãi sau!
Nhà các ngươi cũng đều mang tiếng,
Không khỏi làm những tướng bị thua,
Các ngươi đang lúc bấy giờ,
Muốn mong vui thích như xưa được nào?
Lời ta nhủ thấp cao ngươi nhớ,
Phải coi nằm trên lửa là nguy.
Kiềng canh đưa cũng thổi xùy,
Luyện quân sĩ tốt tập nghề đao cung.
Khiến ai nấy nức lòng mạnh mẽ,
Sức Bàng Mông, Hậu Nghệ cũng ham.
Bêu đầu Hốt Liệt cho cam,
Phơi luôn thịt chúa Vân Nam bên đường.
Tước ấp ta chăn thường ấm chỗ,
Bổng lộc ngươi hưởng có trọn đời.
Gia đình ta được yên vui,
Vợ con ngươi cũng no đời trăm năm.
Tông miếu ta nghìn năm hương lửa,
Tổ tiên ngươi muôn thuở cương thường.
Ta đây phỉ chí bồng tang,
Các ngươi dường cũng vẻ vang vô cùng.
Huy hiệu ta tôn sùng mãi mãi,
Tính danh ngươi ghi nhớ sử xanh.
Bấy giờ vui thú linh đình,
Các ngươi dầu muốn buồn tênh được nào?
Này binh pháp soạn theo đời trước,
Là "Binh thư yếu lược" ban ra.
Các ngươi theo đúng sách ta,
Ấy là thần, chủ một nhà từ xưa.
Nếu bỏ sách thờ ơ lời dạy,
Ấy kẻ thù đã mấy đời nay.
Tại sao mà lại thế vầy?
Là thù không đội trời này được chung.
Nếu các ngươi lòng không biết hổ,
Không coi điều "sát Lỗ" là cần.
Lại không vâng dạy luyện quân,
Ấy là quay giáo, bó thân ra hàng.
Giặc yên rồi còn mang tiếng mãi,
Mặt mũi nào đứng với cao dầy?
Muốn ngươi hiểu rõ lòng đây,
Vậy nên thảo bức hịch này cho nghe.

3- Mông Cổ Tấn Công Trên Các Mặt Trận
Ngày mồng 6 tháng giêng năm Ất Dậu (1285) Ô Mã Nhi dẫn quân đánh vào căn cứ của ta ở Vạn Kiếp và núi Phả Lại. Quân ta thua chạy. Chiến trường cách Vạn Kiếp 10 dậm.
Phòng tuyến mạn Đông Bắc của chúng ta bị đổ, quân Mông Cổ từ Lạng Sơn chuyển xuống và từ miền bể kéo vào như gió bão.
Ngày mồng 9 tháng giêng, một trận đại chiến đã khai diễn ở Bài Than (theo An nam chí lược, nay không rõ Bài Than ở đâu. Hoàng Thúc Trâm cho có lẽ làng Bình Than, huyện Quế Dương, tỉnh Bắc Ninh). Vua Trần thân đốc chiến trong trận này và dàn một số quân tới 10 vạn.
Ngày 12 tháng giêng, giặc đến Kinh Bắc (Bắc Ninh) tàn phá các vùng Võ Ninh, Gia Lâm, Đông Ngạn rồi đóng tại Đông Bộ Đầu trong khi đại quân của nhà Trần dựng trại ở mé Nam ngạn sông Cái (Nhị Hà) để án ngữ. Tại đây giặc bắt được quân ta thấy trên cánh tay có chữ Sát Thát cả giận giết hại rất nhiều. Tính ra từ bến Vạn Kiếp giặc tiến đến gần sát thành Thăng Long chỉ có một tuần lễ, đủ hiểu thế giặc rất mạnh, huống hồ giặc Mông Cổ vốn quen áp dụng lối đánh nhanh như chớp nhoáng mặc dầu quân ta kháng cự cũng ráo riết.
Để đối phó với quân ta đóng giữ ở phía Nam ngạn sông Nhị Hà, Thoát Hoan cho đại bác bắn tới tấp. Quân ta bỏ chạy. Mông Cổ bắc cầu phao chuyển quân qua sông rồi kéo tới tận chân thành Thăng Long hạ trại. Chiến thuyền của chúng ta bị lọt vào tay giặc. Nguyên súy Ô Mã Nhi, Chiêu thảo Nạp Hải và Trấn thủ Tôn Lâm Đức cho phá hủy hết.
Trong dịp này Trần triều cử Đỗ Khắc Chung đi sứ để dò hư thực của giặc. Quân giặc đem chữ Sát Thát ra truy vấn. Ô Mã Nhi nói: Đại quân từ xa tới đây, nước ngươi sao không trở giáo, cùng nhau đến yết kiến, lại dám nghịch mệnh ta. Châu châu đá xe rồi đây sẽ ra sao?"
Khắc Chung trả lời: "Hiền tướng không theo cái chước của Hàn Tín đi bình nước Yên, đóng quân ở đầu biên giới trước hãy đem thư. Nếu không thấy thông hiếu thì mới là lỗi chứ? Nay lại bức bách nhau, muông túng thì cắn, chim cùng thì mổ, huống chi con người! Mã Nhi dọa: "Đại quân mượn đường đi đánh Chiêm Thành, Quốc vương nếu đến yết kiến thì bờ cõi được yên, một mảy tóc ta cũng không phạm. Nếu cứ mê man không tỉnh thì chỉ trong chốc lát núi sông sẽ thành đất bằng, vua tôi sẽ ra cỏ mục..."
Khắc Chung đối đáp cứng cát không chịu khuất. Khi về đến trại bên ta vào giờ Mão ngày 13 tháng giêng. Giặc đuổi theo đánh nhau với quân ta (Toàn thư quyển 5, tờ 45b- 46b, Cương Mục quyển 7, tờ 33a-34b).
Ngày 13 tháng giêng, vua Trần giữ sông Cái không nổi phải rút lui theo dọc sông về phía Nam dựng lũy bằng gỗ chống lại. Vua Trần lại cho Nguyễn Hiệu đi xin hòa. Thoát Hoan không nghe rồi cho bắc cầu phao tiến qua sông vào thành. Thành Thăng Long thất thủ. Quân Nguyên mở tiệc tại hoàng cung, một đạo đuổi theo quân Việt (Cương Mục quyển 7 tờ 35a).
Mặt Trận Đông Nam
Hưng Đạo Vương chuyển quân chủ lực về Thiên Trường rồi rước xa giá đi Hải Dương. Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải lĩnh nhiệm vụ chặn Toa Đô tại Nghệ An. Trần Bình Trọng ở lại giữ Thiên Trườn, Chương Hiến hầu Trần Kiệt cùng bọn Lê Tắc và vài vạn quân giữ Thanh Hóa. Tại trận tuyến này giặc cũng rất mạnh.
Bên hàng ngũ Mông Cổ có Đại Vương Giảo Kỳ, Hữu thừa Toa Đô, Tả thừa Đường Cổ Đời, Chính Hắc Đính từ Chiêm Thành tiến quân ra phủ Bố Chính (Quảng Bình ngày nay), Ô Mã Nhi ở ngoài bể đánh vào hợp thành hai lực lượng thủy bộ uy hiếp mặt trận Đông Nam. Tình thế quân ta ở đây rất là điêu đứng. Có điều đáng chú ý là từ Chiêm Thành ra tới Nghệ An, quân đội của Chiêm và của ta gần như có sự đoàn kết để cùng chống Mông Cổ. Cuộc đoàn kết này là lần thứ nhất và cũng là lần cuối cùng trong lịch sử Việt - Chiêm. Được ít ngày tại Nghệ An, Trần Quang Khải không chống nổi áp lực thủy bộ của giặc phải lùi ra mạn ngoài. Ngày mồng một tháng hai năm Ất Dậu (1285) bọn Trần Kiện, Lê Tắc cùng gia quyến và quân bản bộ hàng giặc.
Ngày mồng 2 tháng hai, Giảo Kỳ phá quân ta ở bên kinh Vệ Bố (thuộc Thanh Hóa) sau khi quân kỵ của họ lội được qua kinh. Tướng của ta là Đinh Xa và Nguyễn Tất Dũng tử trận.
Ngày mồng 3 tháng hai, Thoát Hoan đánh được đạo quân của vua Trần ở Đại Hoàng giang. Bọn Văn Nghĩa hầu Trần Tú Viên và Văn Chiêu hầu Trần Văn Lộng đem cả nhà đi theo giặc.
Ngày mồng 6 tháng hai, Giảo Kỳ thống xuất bọn Trần Kiện đánh quân ta ở bến đò Phú Tân. Ở đây quân của ta do Trần Quang Khải ở Nghệ An rút ra cũng tan vỡ, bị giặc chém mất hơn một nghìn người.
Để hòa hoãn trong khi tình thế quá cấp bách và đen tối, vua Trần Nhân Tông sai Trung Hiếu hầu Trần Dương và quan hầu cận Đào Kiện đưa quốc muội là An Tư công chúa cho Thoát Hoan. Thoát Hoan phái Thiên hộ họ Ngải đến nói:
- Đã xin hòa thì chính nhà vua phải tới thương nghị.
Vua Trần không nghe một là vì e giặc có mưu gian hai là chỉ cốt hoãn binh nhất thời mà thôi.
Bảo Nghĩa vương Trần Bình Trọng đóng ở Thiên Trường, ngày 21 tháng giêng năm Ất Dậu (1285) nghe thấy giặc đến bãi Than Mạc (tức Thiên Mạc ở bên sông Cái thuộc Hưng Yên) liền đem binh ra đánh bị giặc vây bắt được. Ông tuyệt thực và nhất định chết. Thoát Hoan biết ông là một danh tướng muốn trọng dụng nên hết sức vỗ về. Thoát Hoan hỏi ông: Có muốn làm Vương đất Bắc không? Ông quắc mắt quát: Ta thà làm quỉ nước Nam, chứ không thèm làm Vương đất Bắc. Ta bị bắt thì chỉ có chết, đừng hỏi lôi thôi!"
Thoát Hoan biết không thể đánh đổ lòng trung liệt của ông đành cho đem chém. Tin này tới Trần triều ai nấy đều động lòng thương tiếc.
Mồng 9 tháng ba, bọn Giảo Kỳ và Đường Cổ Đới đem chu sư (thuyền chiến) đuổi theo, bổ vây ráo riết ở cửa Tam Trĩ suýt bắt được hai vua Trần lúc này đã dùng thuyền nhỏ do tướng Nguyễn Cường hộ vệ chạy lên phía nguồn Tam Trĩ (Đây là xã Tam Trĩ, châu Tiên Yên, tỉnh Quảng Yên) còn thuyền ngự bơi ra miền Ngọc Sơn thuộc châu Vạn Ninh tỉnh Quảng Yên có ý đánh lừa giặc. Quân Nguyên do thám biết thuyền ra Ngọc Sơn là thuyền giả liền đuổi theo đường sông Tam Trĩ. Hưng Đạo Vương phải hộ vệ hai vua lên bộ đến làng Thủy Chú rồi lại tìm đường ra sông Nam Triệu (tức Bạch Đằng Giang thuộc Hải Dương) vượt qua cửa bể Đại Bàng (thuộc huyện Nghi Dương) rồi vào Thanh Hóa. Trong cuộc rượt theo hai vua Trần, giặc bắt được vàng lụa và một số thanh niên nam nữ tông thất nhà Trần.
Ngày 15 tháng ba, bọn Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc (con thứ của vua Trần Thái Tông, vẫn ngầm có ý cướp ngôi, từng viết thư bí mật giao thông với giặc Nguyên do khách buôn ở Vân Đồn chuyển giao, yêu cầu Nguyên chủ đem quân sang. Sau này Mông Cổ bại trận, Tắc xấu hổ ở lại đất Nguyên rồi chết ở bên đó) cùng lũ Phạm Cự Địa, Lê Diễm và Trịnh Long đem gia quyến đi hàng giặc39.
Toa Đô thắng trận dễ dàng từ Nghệ An ra Thanh Hóa mở cuộc chiêu an ở đây. Từ vùng Thanh Nghệ ra suốt khắp các miền Trung Châu và dọc vịnh Bắc Việt thế giặc rất to, chỗ nào đồn ải của quân Nguyên cũng san sát. Thành Thăng Long cùng các trọng trấn đều có cờ Mông Cổ bay phấp phới. Do sự tàn phá của giặc, tình cảnh các miền thôn quê của ta xơ xác, tiêu điều không bút nào tả xiết. Vua tôi nhà Trần đêm ngày lo sợ, duy một người vẫn vững tinh thần chiến đấu, vẫn tin tưởng ở tương lai, đó là Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Rồi con người sắt đá ấy đã biết truyền cái hùng khí không phải của một đại tướng mà của cả dân tộc Việt Nam vào đám ba quân, giữa lúc ngọn cờ đang ngơ ngác.
Cuộc Tổng Phản Công Của Việt Nam
Từ tháng tư khí hậu của miền Bắc Việt trở nên gay gắt dưới ánh nắng sém da bỏng thịt, lại có những trận mưa bất thường đổ xuống phát tiết những khí độc nặng nền, oi ả khiến quân giặc ốm đau tật bệnh chết hại rất nhiều. Quân ta mặc dầu có nhiều phen đụng chạm với giặc nhưng theo thượng lệnh không được ham chiến, nhất là thế giặc đang rất mạnh và sung mãn về đủ phương diện.
Chiến sự diễn hành từ cuối năm Thân đến bấy giờ đã ngót năm tháng. Nhờ những sự lui quân có trật tự, có phương pháp theo một kế hoạch đã nghiên cứu kỹ càng, quân chủ lực của chúng ta vẫn được nguyên vẹn.
Dưới sức nóng "cháy mây hun đá" cuộc phản công bắt đầu. Về phía Nguyên quân, Toa Đoa và Ô Mã Nhi điều khiển hai đội thủy lục phụ trách mặt trận miền Nam, trèo non lặn suối, vượt bao nhiêu chặng đường gập gềnh từ châu Ô châu Lý (Thuận Hóa ngày nay) qua Hoan Châu (Nghệ An) ra tới Ái Châu (Thanh Hóa) vô cùng gian lao vất vả. Giai đoạn đầu như trên đã nói, Trần Quang Khải phải rút khỏi chiến tuyến Nghệ An chuyển quân ra các mạn ngoài, chiếm đóng các nơi hiểm yếu nhưng tại đây từ cuối

39Trong khi Ô Mã Nhi ngoài bể tiến vào để hợp lực với Toa Đô ở Nghệ An đánh ra, Trần Quang Khải phải bỏ mặt trận Nghệ An. Trấn thủ Nghệ An là thân vương Trần Kiện đem cả nhà ra hàng Toa Đô và được đưa về Yên Kinh. Hưng Đạo Vương cho người đi đường tắt đuổi bắt Trần Kiện đến Lạng Sơn thì bị quan quân đuổi kịp bắn chết. Người nhà là Lê Tắc cướp được thây đem chôn ở gò Ôn Khâu (Lạng Sơn) rồi trốn qua đất Nguyên. Sau Lê Tắc ở Tầu viết bộ sử An Nam Chí Lược hiện giờ còn ở bên Tàu và Nhật. Quyển sử này có luận điệu hoàn toàn Việt gian. Đáng tiếc y cũng như Trần Ích Tắc là những danh nho đời bấy giờ.

tháng 4 năm Ất Dậu hai bên dằng co và cũng có khi lui, khi tiến. Toa Đô đánh mãi không xong, lương thực cạn dần liền cùng Ô Mã Nhi xuống thuyền vượt bể ra Bắc.
Đến đây ta thấy ở mặt trận miền Nam của Nguyên quân bắt đầu nao núng vì đại quân của Toa Đô không thể từ Thanh Hóa bằng đường bộ tiến ra Bắc hợp với Thoát Hoan. Quân của Trần Quang Khải giữ vững cứ điểm, giặc phải dùng thủy đạo. Tin này được cấp báo lên vua Nhân Tông. Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật được cử làm tướng, Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản làm phó cùng tướng quân Nguyễn Khoái đem 5 vạn quân đón bọn Toa Đô ở Tây Kết. Riêng Trần Nhật Duật chờ giặc ở bến Hàm Tử thuộc huyện Đông An, tỉnh Hưng Yên và tại một vài địa phương ở Hải Dương xét quân Nguyên phải đổ bộ.
Vì hiểu rõ tình trạng quân Nguyên mỏi mệt, cạn lương thực, ốm đau nhiều do lam sơn chướng khí quân ta đánh rất hăng. Trong hàng ngũ của ta lại có bọn Triệu Trung tướng nhà Tống lánh nạn sang đây xin tòng chinh, mặc áo đeo cung như ở bên nước họ xưa kia càng làm cho địch hoảng sợ tưởng nhà Tống đã khôi phục được nước Tàu cho quân sang hỗ trợ nước Nam. Giặc thua to, bị giết rất nhiều. Toa Đô mang tàn binh chạy ra đóng ở cửa bể Thiên Trường.
Hai vua Trần và Hưng Đạo Vương lúc này đang đóng bộ tham mưu tại Thanh Hóa. Trần Nhật Duật báo tin thắng trận. Hưng Đạo Vương bàn nên lợi dụng tinh thần đang hăng hái của quân sĩ và sự túng quẫn của địch, đánh mạnh vào Thăng Long.
Mặt trận miền Nam tạm yên vì Nguyên quân bỏ ra Bắc hết, Thượng tướng Trần Quang Khải từ Nghệ An ra xin và được phụ trách việc khôi phục kinh thành. Trần Nhật Duật được lệnh chận đường liên lạc giữa Toa Đô với Thoát Hoan.
Ngày mồng 3 tháng năm, hai vua Trần thắng trận ở phủ Trường Yên (Ninh Bình) giết được rất nhiều quân giặc.
Quân Ta Thu Phục Được Thăng Long
Lúc này lục quân của Thoát Hoan đóng ở thành Thăng Long. Thủy quân tụ tập tại bến Chương Dương (xã Chương Dương, huyện Thượng Phúc tỉnh Hà Đông). Cuộc bại trận của Toa Đô vẫn chưa đến tai Thoát Hoan và về phần Toa Đô cũng không liên lạc gì của Đại bản doanh Mông Cổ.
Trần Quang Khải, Trần Quốc Tuấn và Phạm Ngũ Lão cùng Trần Thông, Nguyễn Khả Lập và Nguyễn Truyền hợp quân các lộ từ Thanh Hóa vượt biển vòng ra đánh thủy quân Mông Cổ ở đây. Thế quân ta hăng quá, địch phải bỏ chạy. Quân ta đổ bộ đuổi quân Nguyên về tới thành Thăng Long (tính đường đi thẳng từ Thường Tín tới Hà Nội là trên 20 cây số) trong lúc này quân ta đã chia làm hai cánh: một đánh vào mặt trước, một đánh vào mặt sau. Cuộc bố trí và hành binh được mau lẹ nhờ chỗ Chương Dương với Thăng Long không xa nhau là bao nhiêu. Thoát Hoan thấy thủy quân của mình thua, chạy tới liền đem quan bản bộ ra trợ chiến. Quân ta càng đánh càng hăng, quân Nguyên phải bỏ thành vượt qua sông Nhị Hà chạy sang đóng ở Kinh Bắc (Bắc Ninh). Việc khắc phục thành Thăng Long tức là việc thắng trận Chương Dương đã xảy ra vào thượng tuần tháng 5 năm ấy. Hai vua Trần trở về kinh đô ngày mồng 6 tháng sáu (theo Hoàng Thúc Trâm trong cuốn Trần Hưng Đạo).
Trần Quang Khải dẫn quân vào thành, mở tiệc khao thưởng quân sĩ rất vui vẻ. Giữa tiệc rượu, Quang Khải cao hứng ngâm bài tứ nguyệt dưới đây:
Đoạt sáo Chương Dương độ
Cầm Hồ Hàm Tử quan
Thái bình nghi nỗ lực
Vạn cổ thử giang san.
Dịch nôm:
Chương Dương cướp giáo giặc
Hàm Tử bắt quân Hồ
Thái bình nên gắng sức
Non nước ấy ngàn thu
Được tin thắng trận ngoài Thăng Long, Thượng Hoàng và Nhân Tông cất binh mã ra đóng ở Trường Yên (Ninh Bình).

Trận Tây Kết
Trong giai đoạn thứ hai của chiến tranh quân Toa Đô sau khi đã bại trận ở Hàm Tử quan chạy về Thiên Trường, thế mỗi ngày một quẫn và xa quân đội của Thoát Hoan tới 200 dậm. Việc trao đổi tin tức bị quân ta kiểm soát ráo riết nên hai cánh quân Nam Bắc của Mông Cổ bị gián đoạn liên lạc. Ngày 17 tháng 5, Toa Đô dùng đường thủy tiến ra Thiên Mạc mục đích hội quân với Thoát Hoan để tiếp ứng cho nhau và mở một mặt trận mới, không ngờ Thoát Hoan đã chạy qua Kinh Bắc.
Đến đây Toa Đô thấy quân nhà Trần đóng khắp mọi nơi không sao tiến được phải lùi về Tây Kết (một làng ở gần bờ sông Hồng Hà, ngày nay không còn dấu tích, có lẽ vì chỗ này bị nạn sông lở chăng!)
Sau hai trận đại thắng ở Chương Dương và Hàm Tử thấy lòng quân phấn chấn, Hưng Đạo Vương hạ lệnh phong tỏa các đường giao thông gắt gao hơn bao giờ hết. Trần Nhật Duật, Trần Quang Khải đảm nhận việc này. Còn Ngài thì tự lĩnh đại quân đánh thẳng vào lực lượng của Toa Đô trước. Chiến thuật của Ngài ở đây là vừa tấn công địch dùng vừa dùng kế phục kích để dồn bắt chủ tướng.
Trong giai đoạn này, sức quân ta trội rõ rệt, quân Nguyên không chống nổi phải bỏ cuộc thủy chiến chạy lên bộ tính thoát ra biển, nhưng tới sau một dẫy núi thì bị quân ta bao vây. Tại đây, Toa Đô trúng tên tử trận. Giặc chết và bị thương rất nhiều. Đầu Toa Đô bị cắt đưa về nộp vua Trần Nhân Tông. Trận Tây Kết xẩy ra ngày 20 tháng 5, Ô Mã Nhi và   Vạn hộ Lưu Khuê đem tàn quân tất tưởi trốn vào Thanh Hóa, sau bị đuổi sát quá phải xuống một chiếc thuyền nhỏ mới thoát được về Tàu. Hai vua Trần rượt theo chỉ còn bắt được hơn năm vạn binh sĩ. Cũng trong hôm ấy, tại bến Đại Mang, Tổng quản Mông Cổ là Trương Hiến ra hàng. Thuyền chiến và khí giới của địch thu được rất nhiều.
Khi thủ cấp Toa Đô được đệ trình lên vua Nhân Tông, nhà vua ngậm ngùi nói: Làm bầy tôi nên như người này! Rồi ngài cởi áo ngự phủ vào đầu Toa Đô và cho quan làm lễ mai táng tử tế. Đây là một cử chỉ tỏ sự tôn trọng một dũng tướng hết lòng vì Chúa, có ý khuyến khích mọi người. Vài hôm sau, đầu Toa Đô được bí mật tẩm dầu đem bêu để trưng uy thế của quân đội và thúc dục ba quân hoàn tất cuộc chiến thắng. (Toàn thư quyển 5, tờ 49b-50a).

Trận Vạn Kiếp
Quân Nguyên, trong giai đoạn này, liên tiếp thua trận ở khắp mọi nơi, phần không chịu được bệnh tật do mùa hè phát ra. Thoát Hoan sinh chán nản và quyết định lui binh, nhất là được tin có hai thượng tướng Toa Đô và Ô Mã Nhi, một đã tử trận và một đã chạy thẳng về Tàu.
Bên Trần triều dò xét được tình trạng này, liền chia quân đón các ngả xét địch phải rút binh qua. Tới đây, việc tấn công quân Nguyên hoàn toàn bằng chiến thuật phục kích và truy kích. Dĩ nhiên địch chỉ có hai đường: đường thủy thì phải rút ra bến Vạn Kiếp rồi theo đường bể mà về. Đường bộ địch phải lần theo đường rừng núi về châu Tư Minh. Lúc này, địch từ Kinh Bắc đã chạy qua Bắc giang.
Hưng Đạo Vương truyền Nguyễn Khoái, Phạm Ngũ Lão dẫn 3 vạn quân phục trong rừng sậy bên sông Vạn Kiếp. Hai con của Ngài là Hưng Võ Vương Nghiễn và Hưng Hiếu Vương Uy, dẫn 3 vạn quân từ Hải Dương tiến ra Quảng Yên đề phòng địch rút lui qua lối này về châu Tư Minh. Còn Ngài đem đại quân đuổi theo bọn Thoát Hoan đóng ở Bắc giang đang chạy ra bến Vạn Kiếp. Ở đây phục binh của ta ùa ra. Địch mất hẳn một nửa quân đội, một phần làm mồi cho cá. Lý Hằng đi đoạn hậu, cố hộ vệ Thoát Hoan chạy về châu Tư Minh (Quảng Tây), bị trúng tên thuốc độc vào đầu gối bên tả, chết ngay tại trận. Bên ta thiệt một tướng là Trần Thiều (Theo Toàn thư quyển 5 và An Nam Chí Lược quyển 4).
Thoát Hoan, A Bát Xích, Phàn Tiếp cố đánh tháo thân giữa một hoàn cảnh vô cùng nguy ngập. Tỳ tướng là Lý Quán thu nhặt được 5 vạn tàn binh, dấu Thoát Hoan vào một chiếc ống đồng để lên xe bắt quân ra sức kéo chạy. Sắp tới biên giới châu Tư Minh, họ lại gặp phải bộ đội của Hưng Võ Vương Nghiễn và Hưng Hiếu Vương Uy. Lý Quán tử trận, chỉ còn có Thoát Hoan, A Bát Xích và Phàn Tiếp chạy thoát được về Tàu.
Cuộc xâm lăng của Mông Cổ kỳ thứ hai này lại thất bại thảm thương, thật không ai có thể tưởng tượng được. Năm chục vạn quân và hàng ngàn dũng tướng mới ngày nào hùng hổ tiến qua biên giới của ta mạnh như sóng vỗ bờ, rút cuộc một phần lớn đã bỏ xương trên đất Việt, tiêu ma hoàn toàn danh dự của đoàn quân không hề biết đến nhục chiến bại từ Á qua Âu đầu thế kỷ thứ XIII.

Cuộc Tấn Công Của Mông Cổ Lần Thứ Ba
Bọn Thoát Hoan và đám tàn binh trở về Tàu đem tin bại trận lại cho Nguyên chủ. Nguyên chủ giận lắm, muốn chém hết bọn tướng lĩnh Nam chinh, các đình thần cản ngăn mãi mới thôi.
Bấy giờ, tại triều Nguyên có việc đem quân đi đánh Nhật Bản. Nguyên chủ liền đình ngay việc này lại để dốc toàn lực chuẩn bị cuộc phục thù. Nguyên triều truyền lệnh động binh ở ba tỉnh Giang Hoài, Giang Tây, Hồ Quảng, luyện tập ráo riết, định đến tháng tám thì theo đường châu Khâm, châu Liêm sang nước ta.
Quan tỉnh Hồ Nam là Tuyên Kha dâng cớ can, lấy lý do quân sĩ vừa đi trận xa trở về còn ốm đau mệt nhọc nhiều, phải nghỉ ngơi ít lâu rồi hãy định việc xuất chinh.
Vua Nguyên nghe lời cho hoãn lại vài tháng, Trần Ích Tắc theo Thoát Hoan về Tàu được ra ở tại Ngạc Châu.
Tin quân Nguyên sửa soạn cuộc phục thù đến tai vua Trần Nhân Tông (tháng 6 năm Bính Tuất 1286). Nhà vua hỏi Hưng Đạo Vương: "Thế giặc lần này hẳn lớn hơn trước vì chúng cần báo cái thù bại trận, ta nên đối phó với chúng bằng cách nào?
Hưng Đạo Vương tâu: "Nước ta thái bình đã lâu, nhân dân không biết đến việc binh cho nên khi quân Nguyên năm trước vào lấn cướp còn có kẻ trốn tránh, có kẻ hàng giặc. Nay nhờ oai linh của Tổ tông và thần võ của Bệ hạ, quân giặc đều bị quét sạch. Nay nếu chúng lại kéo sang thì nhân dân và binh sĩ của ta đã quen việc chiến trận, trái lại giặc từ xa đến phần thì mỏi mệt, phần thì chột dạ vì cuộc bại vong của bọn Toa Đô, Lý Hằng, Lý Quán, chắc không còn đầu óc để chiến đấu. Như vậy tôi tin rằng thế nào cũng phá được giặc và lần này chắc là nhàn hơn trước".
Sau cuộc thảo luận, các vương hầu, tông thất được lệnh điều bát quân đội, kiểm soát quân số và chế tạo võ khí, chiến thuyền vào tháng 10 năm Bính Tuất (1286).
Mùa xuân, tháng hai năm Đinh Hợi (1287), Thoát Hoan làm Đại Nguyên súy, A Bát Xích làm Hành tỉnh Tả thừa, Áo Lỗ Xích làm Bình chương Chính sự, Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp làm Tham tri Chính sự dẫn 30 vạn quân sang ta gồm có Mông Cổ quân, Hán quân là quân lính tuyển ở Bắc Bộ Trung quốc sau khi nhà Nguyên đã diệt được nước Kim, Vân Nam binh là lính tuyển ở Vân Nam và quân của ba tỉnh Giang Tây, Giang Hoài, Hồ Quảng cùng Lê binh ở bốn châu ngoài bể là: Nhai, Quỳnh, Đạm, Vạn, thuộc tỉnh Quảng Đông, riêng Lê binh có 1 vạn 5 ngàn người, vốn là dân duyên hải rất thạo thủy chiến.
Chuyến này, nhà Nguyên lót miệng bằng việc đưa Trần Ích Tắc về làm vua nước Nam. (Theo Hoàng Thúc Trâm trong cuốn "Trần Hưng Đạo", Mông Cổ xuất binh từ mồng 3 tháng 9 năm Đinh Hợi (1287), khởi hành từ Hồ Bắc). Ngày 28 tháng 10, quân Nguyên đến Lai Tân chia ra từng đạo:
- Đại quân của Thoát Hoan đi đường Khâm Châu, Liêm Châu đến châu Tư Minh. Bọn Trương Ngọc, Lưu Khuê dẫn vài vạn quân, năm trăm thuyền chiến, bảy mươi thuyền vận tải, chuyên chở lương thực khí giới. Từ Khâm Châu tiến phát.
- Trịnh Bằng Phi, Áo Lỗ Xích, mỗi người dẫn một vạn quân đi đường bộ.
- Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp lĩnh thủy quân dùng đường biển vào nước ta.
- Vạn Hộ Trương Văn Hổ tải 17 vạn thạch lương theo đường bể.
Tin tức từ biên thùy tới tấp báo về Thăng Long. Các quan xin tuyển thêm binh, Hưng Đạo Vương bình tĩnh nói: "Quân cốt giỏi chớ không cốt nhiều. Bồ Kiên có trăm vạn quân mà ích lợi gì đâu!"
Ngài phân phối quân đội đi các nơi như sau:
- Trần Nhật Duật, Nguyễn Khoái, đem 3 vạn quân đón giặc ở Lạng Sơn.
- Trần Quốc Toản, Lê Phụ Trần, đem 3 vạn quân giữ Nghệ An.
- Quân của ngài đóng ở Quảng Yên trên ngọn Phú Sơn. (Ba lần có cuộc kháng Nguyên, đại quân của Hưng Đạo Vương đều đóng ở Vạn Kiếp tức là địa phương Quảng yên, để tiện việc điều động quân đội đi các nơi. Căn cứ này có thể coi như trung tâm điểm của quân lực Việt Nam, rất thuận tiện về giao thông thủy bộ).
- Tại biên thùy Việt Hoa đối chiếu với châu Tư Minh, Hưng Đạo Vương cho đặt ba đồn: Sa, Từ, Trúc, biết rằng lục quân của Thoát Hoan thế nào cũng xâm nhập địa phận cổng ngõ này.
- Tại sông Đại Than (Hải Dương) quân Nam cũng có đề phòng.
Cuộc va chạm giữa hai quân xảy ra ngày 11 tháng một, đoàn chiến thuyền của Nguyên tới Vạn Ninh (Móng Cáy). Tướng ta là Nhân Đức hầu Trần Đa mai phục ở Lạng Sơn (một núi giáp miền Móng Cáy) định đánh chèn phía sau giặc. Giặc biết được tin này, ngay đêm ấy xuất toàn đội vây quân ta. Gần sáng, quân ta bị đánh lui. Vài trăm quân bị chết đuối và thuyền bị bắt vài chục chiếc.
Ô Mã Nhi thừa thắng tiến nhanh, không nhìn lại thuyền lương theo sau chưa kịp, vì vậy đoàn hộ tống bị nghẽn.
Lục quân của Nguyên đến Lộc Châu ngày 23 tháng một năm Đinh Hợi (1287), lại chia ra như sau:
- Hữu  thừa  Trịnh  Bằng  Phi    Tham  chính  Xách  La  Đáp  Nhi  do  ải  Chi  Lăng  kéo xuống.
- Thoát Hoan dẫn đại quân do ải Khả Lợi tràn vào, sau đạo binh tiên phong của A Bát Xích.
- Hữu thừa Ai Lỗ từ Vân Nam tiến quân đến Tam Đái giang. Ngày 24 tháng 1 năm ấy. Cấm quân của ta giữ cửa Linh Kinh. Hưng Đức hầu Quán thắng trận ở đây bằng tên thuốc độc: giặc chết và bị thương rất nhiều phải lui đóng ở cửa Vũ Cao.

Ngày  28,  Phán  thử  thượng  vị  Nhân  Đức  hầu  Tuyên  dẫn  thủy  quân  đánh  quân Nguyên ở eo Dạ Mỗ. Giặc chết đuối ở đây khá nhiều. Bốn mươi tên giặc, thuyền, ngựa, chiến cụ tịch thu được đều đem dâng lên vua Trần (Toàn thư quyển 5, tờ 51 a-b).
Mồng 3 tháng chạp, quân Mông Cổ đến Tứ Thập Nguyên. Lúc này vì thuyền lương của giặc bị nghẽn, Thoát Hoan phải sai Ô Mã Nhi đốc thúc quân lính cướp bóc dân gian để dùng. Ngày 16, Minh Tự Nguyễn Thức chỉ huy Thánh Dực Dũng nghĩa quân kéo đến hợp với Hưng Đạo Vương để giữ cửa biển Đại Than (thuộc Gia Bình, tỉnh Bắc Nam lưu thông được ra biển).
Trong những ngày đầu, cũng như lần trước, quân Mông Cổ rất mạnh và hăng hái, quân ta phải lui về Vạn Kiếp. Thoát Hoan chiếm núi Phả Lại và Chí Linh, rồi phái Trịnh Bằng Phi đem 2 vạn binh tấn công vào Vạn Kiếp. Mặt khác, Thoát Hoan cử Ô Mã Nhi và A Bát Xích dẫn một cánh quân từ sông Lục Đầu đánh xuống sông Hồng Hà, mục đích chiếm kinh thành Thăng Long.
Ngày 23 tháng chạp, quân của Tham Chính Phàn Tiếp theo Thoát Hoan đánh Bắc giang. Quân ta ngăn sông chống giữ không lại. Thủy quân Mông Cổ vào được sông Cái, quân ta rút lui.
Mặt trận miền Đông hoàn toàn do địch kiểm soát. Giờ đây, giặc tiến vào các vùng
đồng bằng.
Ngày 28 tháng chạp, bọn phản quốc Lê Tắc cũng theo gót giặc Mông Cổ quay sang nhưng đi sau vì phải lưu lạc ở châu Tư Minh. Lê Tắc dẫn bọn Sảnh đô sự Hầu Sư Đạt, Vạn hộ họ Đạt, Thiên hộ họ Tiêu đem 5000 binh từ châu Từ Minh lục tục tiến theo đại quân Thoát Hoan.
Chúng phá ải Nội Bàng (thuộc Lạng Sơn) tiến chiếm sông Bằng (thuộc địa phận Cao Bằng) ngảnh lưng về phía nước ta mà bày trận.
Quân ta chống trả mãnh liệt: tên thuốc độc bắn như mưa, lửa cháy ngất trời. Đến canh năm, giặc thua và tan vỡ. Hầu Sư Đạt tử trận. Quân địch bị lạc đường và bị vây hãm. Lê Tắc dẫn các tướng Nguyên chạy vì hắn thuộc đường. Con Trần Ích Tắc là Trần Dục lên 9 tuổi được hắn cắp trên mình ngựa. Bấy giờ, quân còn độ 60 tên, bọn Tắc liều chết chạy được về Tàu, suýt chết nhiều lần. Mỗi ngày họ phải chạy đến vài trăm dậm, từ nửa đêm đến mờ sáng mới về tới ải Châu Chiên là đất nhà Nguyên.
Ngày 29 tháng chạp, A Bát Xích theo dọc bờ phía Đông sông Cái phá cửa Hàm Tử. Vua Trần lui giữ ải Hải Thị nhưng rồi cũng bị đánh lui.
Ngày 30 tháng chạp, trước khi mở mặt trận đồng bằng, Thoát Hoan sai Hữu thừa Trịnh Bằng Phi, Tả thừa A Lý và Lưu Giang đem hai vạn quân đánh Vạn Kiếp lấy làm căn cứ. Ở đây lực lượng của đại quân Hưng Đạo Vương đã rút gần hết để về giữ Thanh Long. Giặc đắp rào lũy bằng cây gỗ ở hai núi Phả Lại và Chí Linh, đặt đồn ải và chứa lương thực. Hai làng Bàng Hà và Bà Điểm hàng giặc.
Trong lúc này, A Bát Xích và Ô Mã Nhi đang hợp binh vượt sông Cái tiến vào Thăng Long. Hưng Đạo Vương chống trả kịch liệt, trong khi đó xa giá tạm lánh về Hà Nam. Ô Mã Nhi đuổi gấp hai vua Trần, Thượng Hoàng và Nhân Tông xuống thuyền chạy ra bể đi vào Thanh Hóa. Theo không kịp, Ô Mã Nhi đem quân quay lại phủ Long Hưng, biết ở đây có Chiêu Lăng là lăng tổ nhà Trần, cho khai quật nhưng không xâm phạm đến tử cung (quan tài nhà vua làm bằng gỗ tử, gọi là tử cung) rồi do đường biển, Ô Mã Nhi đi đón thuyền lương của Trương Văn Hổ.
Mồng 4 tháng giêng năm Mậu Tí (1288), Thoát Hoan lui về căn cứ ở Bắc Giang và Hải Dương (Vạn Kiếp - Chí Linh- Phả Lại) sau cuộc tấn công vô hiệu vào Thăng Long. Hưng Đạo Vương tiến quân và đặt doanh trại trông thẳng về chiến thuyền của giặc. Thấy quân Nguyên rút, hai vua Trần lại ra Bắc. Mồng 8 tháng giêng địch thua lớn ở cửa Đại Bàng (huyện Nghi Dương tỉnh Hải Dương). Địch chết đuối rất nhiều, ta bắt được 300 tiểu thuyền.

Trận Vân Đồn
Mặt trận đồng bằng không đem lại những kết quả mong muốn, lương thực lại sắp cạn, thuyền lương do Trương Văn Hổ áp tải vẫn chưa thấy đâu, Thoát Hoan liền hạ lệnh cho Ô Mã Nhi cấp tốc đi tìm. Ô Mã Nhi tiến ra tới Vân Đồn thì gặp phải sự cản trở của Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư. Vì tình thế lương thực nguy kịch đến nơi, Ô Mã Nhi phải cố đánh. Quân của Trần Khánh Dư bị bại, thuyền quân Nguyên vì vậy được thẳng tiến ra bể.
Nghe thủy quân Vân Đồn bị bại, Thượng Hoàng cho đòi Khánh Dư về trị tội. Khi sứ đến, Khánh Dư đang tính cuộc phục thù, đoán rằng Ô Mã Nhi đi rồi tất thuyền lương phải tới sau, Khánh Dư xin hoãn vài hôm để lấy công chuộc tội. Quả nhiên, ngày 11 tháng giêng năm Mậu Tí (1288), thuyền lương của Văn Hổ tới. Lúc này gặp được Trương Văn Hổ, Ô Mã Nhi quay trở về giữ việc dẹp đường. Ô Mã Nhi nghi quân ở Vân Đồn vừa bại ắt không còn gì khó khăn, cứ việc ruổi thẳng. Khánh Dư lặng lẽ để Ô Mã Nhi đi qua, cho thuyền lương từ từ tiến vào cửa Lục (Lục Thủy Dương là cửa biển gần Hòn Gay ở Đông Nam huyện Hoành Bồ tỉnh Quảng Yên). Tại đây thuyền lương mắc cạn. Quân ta phục sẵn ùa ra đánh, thuyền của địch bị đắm gần hết. Ta tịch thu và phá được rất nhiều quân lương khí giới của họ. Riêng Trương Văn Hổ chạy thoát về Quỳnh Châu (Quảng Đông) bằng một chiếc thuyền nhỏ40.
Khánh Dư đưa tin thắng trận và việc cướp phá được thuyền lương của giặc về báo tiệp được xá tội. Thượng Hoàng bàn với Hưng Đạo Vương thả một số tù binh về để Thoát Hoan và binh sĩ Mông tuyệt vọng. Đây là một đòn rất nặng đánh vào tinh thần của địch. Đúng như lời xét đoán, quân Nguyên nghe nói lương thảo khí giới bị phá hủy, ai nấy đều xôn xao và muốn trở về hết. Ý chí chiến đấu của họ sụp đổ trông thấy.
Còn Ô Mã Nhi ở Ải Vân Đồn trở về, chờ mãi không thấy thuyền lưong liền đánh phá ở trại An Hưng rồi đóng giữ Vạn Kiếp.

40 Theo Cương Mục quyển 8, tờ 4a - 5b, thì thuyền lương của giặc bị cướp phá ở cửa Lục. Còn Toàn Thư quyển 5, tờ 54a-b nói Trương Văn Hổ bị bại ở Bạch Đằng.

Trận Bạch Đằng
Trần triều đến giờ phút này đã hiểu rõ ưu thế của mình và sự cùng quẫn của giặc. Sau trận cửa Lục, giặc thiếu ăn, đêm đến lại bị đột kích phá đồn. Quân giặc thiếu ăn, thiếu ngủ, không còn thiết gì nữa ngoài việc chia nhau đi cướp bóc dân chúng. Thần Nở tổng quản là Giải Nhược Ngu bàn với Thoát Hoan: "Quân ta ở đây thành trì không có, khí trời nóng nực, các chỗ hiểm yếu đều mất, kho tàng cạn sạch, chi bằng hãy rút quân về rồi sẽ liệu kế khác". Thoát Hoan thấy quân ta mạnh cũng nản nói: "Đất thì nóng nực, khí trời ẩm thấp, lương thiếu quân mệt..." Tướng hiệu trong thủy quân bàn nên phá hủy thuyền bè rồi cùng nhau kéo bộ mà về. Thoát Hoan toan nghe nhưng tả hữu cản ngăn nên việc này bỏ đi. Sau đó Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp được lệnh dẫn thủy quân theo đường Bạch Đằng giang, còn Trịnh Bằng Phi và Trương Quán làm hậu tập để hộ vệ cho y chạy theo đường bộ.
Trong lúc giặc lúng túng thì quân ta được Hưng Đạo Vương phân phối đi mai phục các ngả.
Mặt bộ, ngài cho đào các hầm hố đánh bẫy ngựa, quân phục kích, truy kích có nhiệm vụ cắt đường, phá cầu cống ở những lối giặc phải chạy qua.
Mặt thủy, ngài cho đóng các cọc sắt ở thượng lưu sông Bạch Đằng trên phủ bè cỏ để đợi giặc (kế này được dùng đầu tiên do quân Ngô Quyền phá quân Nam Hán) Nguyễn Khoái phục binh ở đây chờ nước thủy triều lên thì ra khiêu chiến, dụ giặc qua chỗ đóng cọc, chờ khi nước thủy triều rút quay lại phản công.
Phạm Ngũ Lão và Nguyễn Chế Nghĩa phục kích ở cửa ải Nội Bàng (thuộc Lạng Sơn). Việc bố trí xong, Hưng Đạo Vương hô quân sĩ trỏ xuống Hóa Giang cùng thề: "Trận này không phá được giặc thề không trở lại khúc sông này nữa!"
Sau lời quyết liệt này, quân ta kéo thẳng tới sông Bạch Đằng. Ngày mồng 7 tháng ba, chu sư Mông Cổ rút đến Chúc Động. Quân ta đổ ra công kích bị tướng giặc Lưu Khuê đánh lui bắt được của ta 20 chiếc thuyền. Ngày hôm sau Ô Mã Nhi cùng tới nơi. Hai bên xô xát. Quân ta giả thua bỏ chạy. Giặc tung hết lực lượng đuổi theo. Bấy giờ, con nước rút xuống mau chóng. Nguyễn Khoái nhử giặc đi khỏi chỗ đóng cọc một quãng xa, rồi quay thuyền trở lại đánh kịch liệt. Quân của Hưng Đạo Vương tiếp đến. Giặc thấy ta mạnh quá rút lui tới khúc sông có cọc. Thuyền giặc mắc cọc chìm đắm hết. Trước thế nguy cập, Ô Mã Nhi phải cầm đầu toán tinh binh, ra nghênh chiến. Ngay lúc này, hai vua Trần cũng đến tung quân ngũ doanh ra bốn mặt. Ô Mã Nhi thấy nguy liền thu nhặt binh thuyền định chạy nhưng không kịp. Quân Nguyên chết vô kể, mặt sông đỏ ngầu máu giặc. Bốn trăm thuyền của địch bị ta tịch thu. Nội minh tự Đỗ Hành bắt được Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp và Tích Lệ Cơ Ngọc đem đến dâng Trần Thánh Tông. Ngài cho cùng ngồi, ôn tồn nói chuyện, niềm nở rót rượu mời uống. (Toàn thư quyển 5, tờ 54b).

Việc Truy Kích Thoát Hoan
Thoát Hoan nghe tin thủy quân tan vỡ hết, vội cùng bọn Trịnh Bằng Phi, A Bát Xích, Áo Lỗ Xích, Trương Quán và Trương Ngọc dùng đường bộ cấp tốc tháo lui. Đến cửa Nội Bàng, Phạm Ngũ Lão đổ ra đánh. Vạn hộ Trương Quán với ba nghìn quân cố sống chết đánh để mở lối cho Thoát Hoan qua cửa ải. Trong dịp này, Trương Quán tử trận. Giặc nghe nói quân ta đông như kiến từ ải Nữ Nhi đến núi Khưu Cấp và Đằng Giang trên một trăm dặm, càng hoảng sợ. Phía sau lại có quân đội đuổi theo. Thoát Hoan vội vàng sai A Bát Xích, Trương Ngọc mở đường, còn Áo Lỗ Xích đi đoạn hậu.
Quân ta chiếm đóng trên núi cao bắn tên thuốc độc xuống như mưa rào. Trương Ngọc và A Bát Xích chết tại trận, xác tướng sĩ bên Nguyên chết ngổn ngang, chất thành đống.
Trịnh Bằng Phi hết lòng hộ vệ Thoát Hoan lại nhờ Châu mục châu Tư Minh là Hoàng Kiện dẫn đi đường tắt, Thoát Hoan mới thoát về được tới châu Tư Minh. Áo Lỗ Xích nhặt nhạnh được ít tàn quân cũng về được tới Yên Kinh ít ngày sau.
Quân ta toàn thắng, Hưng Đạo Vương hội các tướng rước xa giá về kinh sư. Tới Long Hưng, bọn tướng Nguyên là Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Tích Lệ, Cơ Ngọc, Sầm Đoan... phải vào lễ hiến phù ở Chiêu Lăng.
Nhận thấy giang san sau ngày giông tố lại được vui tươi, Thượng Hoàng có làm hai câu thơ để làm kỷ niệm:
Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã Sơn hà thiên cổ điện Kim âu
dịch nôm:
Xã tắc hai phen bon ngựa đá,
Non sông muôn thuở vững âu vàng.

Cuộc Giảng Hòa
Nhà Nguyên dù thua trận luôn ba phen liền trong khoảng 30 năm, nhưng uy thế trong ngoài còn mạnh lắm. Đối với họ, dù sao nước ta cũng chỉ là một tiểu quốc; chiến tranh liên miên chỉ hại cho nguyên khí dân tộc. Tránh voi không xấu mặt, Trần triều nghĩ vậy nên tháng 10 năm Mậu Tí (1288), sai quan Đỗ Thiên Thu sang sứ xin cống hiến như trước.
Nhà Nguyên tuy rất căm giận vì cái nhục bại trận, nhưng cũng đã nản về cuộc xâm lược nước Nam nên đành chấp thuận cuộc thông hiếu. Nhưng trong cuộc giao thiệp mấy năm sau chiến tranh, Nguyên chủ vẫn có ý buộc ta một điều là vua Trần phải sanh chầu rồi phái Thượng thư Trương Lập Đạo qua An Nam về việc này. Vua Nhân Tông lấy cớ đang có tang không đi và sai quan là Nguyễn Đại Pháp thay mặt xin khất sang năm sẽ tuân lệnh. Năm sau, nhà Nguyên không thấy vua Trần sang, lại cử Lễ bộ Thượng thư Lương Tằng sang giục.
Nhân Tông cũng không đi, lại sai Đào Tử Kỳ đưa đồ vật sang cống. Nguyên triều giận lắm, giam Đào Tử Kỳ ở Giang Lăng rồi cử Lưu Quốc Kiệt và các tướng sửa soạn binh lương. Trần Ích Tắc được đi theo và sẽ hội ở Tràng Sa. Giữa lúc này Nguyên Thế Tổ (Hốt Tất Liệt) mất. Nguyên Thánh Tông lên ngôi bãi việc binh và sứ giả An Nam được thả về. Từ đó nhà Nguyên không gây sự với nước ta nữa.
Tháng hai năm Kỷ Sửu, niên hiệu Trung Hưng thứ năm (1289) Trần triều cử Tòng Nghĩa Lang Nguyễn Thịnh trao trả tù binh Tích Lệ Cơ Ngọc được về trước. Phàn Tiếp phải bệnh chết được hỏa táng. Hai vợ lớn nhỏ được cấp ngựa đem nắm tro tàn của hắn về nước. Các đầu mục khác cũng được lên đường. Duy Ô Mã Nhi, trong mấy chuyến qua đây có nhiều hành động hung tàn, bạo ngược khiến người nước ta ai nấy đều vô cùng ta thán. Chẳng những y cướp của, giết người, đốt pha làng mạc, y còn khai quật cả lăng tẩm của vua Trần Thái Tông ở Long Hưng (nay ở làng Thái Dương, huyện Hưng Nhân tỉnh Thái Bình). Nhưng nói cho phải, việc phá phách này giữa người cùng giống còn thường xảy ra huống hồ giữa hai địch quốc; y còn cố lùng bắt hết sức ráo riết vua Trần Nhân Tông và Thượng Hoàng. Trong Quốc thư hồi tháng 10 năm Mậu Tí (1288), vua Nhân Tông đã bộc lộ lòng hờn giận viên tướng này với Nguyên chủ. Nhân Tông viết: "Tham chính nói với người bắn tín cho tôi biết rằng "ngươi (chỉ vua Nhân Tông) lên trời thì ta (Ô Mã Nhi) cũng lên trời, ngươi trốn xuống nước thì ta cũng lội xuống nước ngươi trốn lên núi thì ta cũng trèo lên núi. Rồi trăm khoanh hủy nhục, không sao nói siết!" (Nam sử tạp biên, quyển 2 tờ 19b - 20a). Sau đó, Nhân Tông theo mật kế của Hưng Đạo Vương hạ lệnh kết liễu đời viên tướng đại ác đó. "Hại người, người hại".
Nội thủ gia Hoàng Tá Tôn được cử tiễn Ô Mã Nhi về đường bể nhưng ngầm sai một vài thủy thủ có biệt tài lội nước đang đêm đục thuyền: Ô Mã Nhi chết đuối.
Việc này khiến cuộc giao thiệp giữa Nguyên và ta một thời rất gay go. Tháng ba năm Kỷ Sửu (1289) vua Trần phải gửi cho vua Chí Nguyên bên Mông Cổ một bức thơ để biện bạch.
Sau nhà Nguyên cũng đành bỏ việc này không căn vặn nữa (Cương Mục quyển 8, tờ 11a-b).
Tháng tư năm Kỷ Sửu (1289) tức là sáu năm chiến tranh Trần triều đem các công tội của các vương hầu tướng lĩnh và dân thứ ra xét xử theo nguyên tắc dưới đây:
- Các vương hầu lập được công trạng đều được tăng trật, các tướng sĩ khác họ nếu có công to được đổi quốc tính (nhập vào họ nhà vua). Nguyễn Khoái được phong tước hầu, ăn lộc một làng (làng Khoái Lộ tức phủ Khoái Châu bây giờ). Phạm Ngũ Lão được phong Quản Thánh dực quân. Các tù trưởng Mán, Mường có công cũng được phong hầu. Triều đình lại cho vẽ tranh các tướng trên đây để treo trong gác công thần và ghi lý lịch cùng công lao của họ vào một cuốn sách gọi là Trung hưng thực lục.
Còn với những kẻ hàng giặc, làm tay sai cho giặc có bằng cớ rõ rệt thì xử tử hay phạt lưu (trường hợp bọn Trần Kiện, Trần Văn Lộng tuy đã chết, con cháu phải đổi ra họ Mai. Trần Ích Tắc vì tình cận thân nên nhà vua không nỡ tước họ nhưng phải gọi là Ả Trần, nghĩa là nhút nhát như đàn bà).
Ngoài ra khi giặc Nguyên thua chạy, quân ta có bắt được một tráp biểu hàng của các quan. Xét ra khi quân Nguyên đang mạnh, quan lại nhiều kẻ hai lòng đã làm giấy tờ giao thông với giặc. Thượng Hoàng mở lượng khoan hồng cho đốt cả tráp đi. Các quân dân cũng được tha thứ, duy dân hai làng Băng Hà và Bà Điểm phải đồ làm lính mãi mãi (Trường hợp hai làng này nặng nề bởi họ đã vì mối tử thù của họ Lý mà theo giặc).
Xong việc định công luận tội, Thượng Hoàng về phủ Thiên Trường và mất vào tháng 5 năm Canh Dần (1290). Vua Nhân Tông sai sứ sang Tàu cáo tang và xin phong.

Chiến Pháp Của Trần Hưng Đạo
Chúng tôi xin kể lại vài nguyên tắc tổng quát trong chiến pháp của Hưng Đạo Vương mà chúng ta không những thấy nó sâu sắc về mặt chiến thuật, chiến lược còn có giá trị đặc biệt cả về chính trị nữa. Với Hưng Đạo Vương, nghệ thuật đánh giặc là một chuyện, người làm tướng còn phải là nhà chính trị lỗi lạc. Và chính trị phải dựa vào chính sách thân dân cùng tinh thần dân chủ.
Ngày 20 tháng tám năm Canh Tí (1300) Hưng Đạo Vương mất. Trước khi lâm chung, vua Anh Tông đến bên giường bệnh của ngài vừa để thăm viếng, vừa có ý vấn kế. Vua Anh Tông hỏi: "Rủi khi Đại Vương khuất núi đi rồi, giặc Bắc lại sang, thì đối phó như thế nào?"
Ngài đáp: xưa Triệu Vũ Đế lập quốc, vua Hán cất quân sang đánh. Triệu Vũ Đế cho dân đốt phá sạch quang đồng nội không để quân địch cướp bóc lương thảo rồi đem đại binh ra châu Liêm, châu Khâm, đánh Tràng Sa, dùng đoản binh đánh úp như sau: đó là một thời. (Hưng Đạo Vương lầm ở chỗ này: Triệu Đà đóng đô ở Phiên Ngung, đem binh đánh thẳng Tràng Sa, có lẽ Ngài nghĩ rằng Vũ Vương đóng đô ở nước ta).
"Đời Đinh, đời Lê lựa dùng được người hiền lương. Bấy giờ bên Bắc đang mỏi mệt, suy yếu, còn bên Nam thì mới mẻ hùng cường, trên dưới đồng một ý, lòng dân không chia rẽ đắp thành Bình Lỗ mà phá được Tống; đó là một thời.
"Nhà Lý dựng nghiệp, quân Tống nhòm ngó bời cõi, Lý triều dùng Lý Thường Kiệt đánh Khâm Liêm, tiến đến Mai Lĩnh: đó là có thế làm được.
"Trước đây Toa Đô, Ô Mã Nhi vây ta bốn mặt. Chúng ta vua tôi đồng tâm, anh em hòa thuận, cả nước hợp sức chúng mới bị bắt: đó là lòng trời xui nên.
"Đại khái kẻ kia cậy trường trận, ta có đoản binh: lấy đoản chế trường, đó là thói thường của binh pháp. Quân địch ầm ầm tràn đến như lửa, như gió, thế ấy dễ trị. Nếu nó dùng chước tầm ăn lá dâu, không cần mau thắng, không cướp bóc lương dân thì ta phải lựa dùng lương tướng, xem tình hình mà liệu quyền biến như đánh cờ vậy. Nhưng phải tùy từng lúc mà chiến đấu cốt có binh tướng thân tín như tình cha con thì mới dùng được. Và phải nới lỏng sức dân để làm cái chước rễ sâu gốc vững. Đó là phương sách giữ nước hay hơn cả (Toàn thư quyển 6, tờ 8b-9b; Cương Mục quyển 8, tờ 31a- 32a).
Coi qua mấy nguyên tắc trên, ta thấy Hưng Đạo Vương đã nghiên cứu rất kỹ lịch sử chiến tranh từ thượng cổ giữa Bắc phương và chúng ta. Những cuộc kháng chiến bằng lối dĩ đoản chế trường đã áp dụng nhiều lần kể từ Tây Âu Việt chống quân Tần, Triệu Vũ Đế đánh Hán, Triệu Quang Phục tập kích quân Lương ở Dạ Trạch v.v... Trong các cuộc chiến tranh này các danh tướng trên đây đã khéo xử dụng các đặc điểm và ưu điểm địa phương nên thâu lượm được mọi thắng lợi. Các danh tướng đời sau này cũng có nhiều người làm nên sự nghiệp rực rỡ trong cuộc chống xâm lăng không mấy ai bỏ qua các phương pháp hiệu lực đó.

IV. Trần Anh Tông (1293-1314)
Nhà Trần kể từ vua Thái Tông đến Anh Tông là một giai đoạn cường thịnh nhất. Vua thời đáng liệt vào hạnh Thánh, bề tôi vào bậc Thần nên đã lập được những sự nghiệp bất hủ trong sử xanh. Sử gia Trần Trọng Kim chia đời Trần làm ba thời kỳ để đánh dấu tính cách đặc biệt của mỗi thời kỳ thật là xác đáng. a) Thời kỳ thứ nhất là thời kỳ hết sức oanh liệt và có nhiều việc khó khăn. b) Thời kỳ thứ hai là thời kỳ thái bình yên trị tuy thỉnh thoảng cũng có các cuộc phiến động ở nơi biên viễn. c) Thời kỳ thứ ba là thời kỳ họ Trần xuống dốc dần để tới chỗ cáo chung sứ mệnh Lịch sử.
Thay vua Nhân Tông là Thái Tử Trần Thuyên tức vua Anh Tông. Anh Tông khác với các tiên đế ở chỗ tính tình phóng túng và tuy ra cầm vận mệnh quốc gia giữa lúc trẻ tuổi, nhưng nhà vua có điểm khả quan là có tinh thần cấp tiến, biết bài trừ các điều dị đoan hủ bại.
Có những đêm Ngài lẻn ra ngoài hoàng cung để chơi phiếm, một đôi khi bị kẻ vô lại phạm đến. Ngài lại hay uống rượu. Một hôm Thượng Hoàng Nhân Tông từ Thiên Trường về kinh. Các quan đều có mặt ở nơi đón tiếp, duy chỉ thiếu có nhà vua. Lúc này Ngài đang say nằm ngủ không ai dám đánh thức. Thượng Hoàng giận lắm liền truyền xa giá lập tức trở về Thiên Trường và hạ lệnh cho các quan phải về đấy để bàn việc. Anh Tông tỉnh giấc biết tin sợ quá vội vàng chạy theo. Ra khỏi cung Ngài gặp Đoàn Nhữ Hài Khi đó còn là một học trò Ngài mượn Nhữ Hài làm ngay bài biểu tạ tội rồi cùng Nhữ Hài ngày đêm về tới Thiên Trường. Thượng Hoàng xem biểu xong quở trách một hồi rồi tha tội cho Anh Tông. Trở về kinh, Đoàn Nhữ Hài được phong làm Ngự Sử trung tán và từ đấy vua Anh Tông không uống rượu nữa.
Theo cổ tục các vua An Nam đều lấy chàm vẽ rồng vào đùi. Vua Anh Tông không chịu theo phong tục đó. Thượng Hoàng có lần dục nhà Vua: "Người nước ta vẫn vẽ mình để nhớ lấy gốc, nhà vua phải theo tục ấy mới được". Bề ngoài vua Anh Tông vâng lệnh nhưng rồi Thượng Hoàng bận việc quên đi, Ngài cũng lờ luôn không cho vẽ nữa. Từ đấy về sau các vua chúa của ta cho việc bãi bỏ cổ tục vẽ mình của vua Anh Tông là hợp lý nên phong tục này không còn nữa.
Vua Anh Tông đau nặng, Hoàng Hậu cho mời thầy tăng cầu đảo làm lễ xem việc sinh tử của Ngài. Nhà vua cự tuyệt nói: "Thầy tăng đã chết đâu mà biết được việc chết".
Vua Anh Tông ham vẽ. Ngài làm được tập Thủy Vân tùy bút, khi sắp mất Ngài cho đốt đi. Tóm lại vua Anh Tông là một ông vua có hiếu và thông minh, nhờ vậy việc triều đình thời đó được tốt đẹp. Phép nước được nghiêm trang, việc văn học mở rộng, dân chúng được no yên, thật là một thời thịnh đạt. Các đại thần đều là những người trung chính như Trương Hán Siêu, Phạm Ngũ Lão, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Trung Ngạn ...
Dưới đời Anh Tông mấy việc quan trọng đã xẩy ra: Thượng Tướng Trần Quang Khải, người anh hùng trong trận Chương Dương mất năm Giáp Ngọ (1294). Hưng Đạo Vương tạ thế ngày 20-8 năm Canh Tý (1300). Về phía Tây Nam, nước ta bị giặc Lào thường hay sang quấy nhiễu ở hai địa phận lân cận là Thanh Hóa và Nghệ An. Vua Anh Tông mấy lần tự đem quân đi đánh dẹp. Quân Lào rút về nhưng lợi dụng được thế rừng núi hiểm trở, ẩn nấp dễ dàng nên luôn xuất hiện, quan quân về thì họ lại sang cướp phá mặc dầu có lần họ bị giết hại rất nhiều. Sau đến Phạm Ngũ Lão xuất binh, Thanh-Nghệ mới được yên ổn trở lại.
Với Chiêm Thành, từ khi nhà Trần dấy nghiệp không có động dụng đến binh đao. Vua Nhân Tông sau khi đánh dẹp giặc Lào trở về liền đi tu tại chùa Võ Lâm (chùa này lấy tên làng Võ Lâm là nơi dựng chùa thuộc phủ Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình) sau về Yên Tử Sơn (Quảng Yên).
Năm Tân Sửu (1301) Ngài qua Chiêm Thành du lịch gặp Chiêm Vương và Chế Mân. Ngài hứa gả Huyền Trân công chúa. Sau khi ngài trở về, Chế Mân cho sứ mang vàng bạc và các quý vật sang cống cùng xin cưới. Triều đình nhiều người không tán thành cuộc tình duyên Việt-Chiêm này. Chế Mân phải dâng hai Châu Ô và Lý (Địa Lý và Bố Chính) để làm lễ cưới, bấy giờ vua Anh Tông và triều đình mới quyết định. Tháng 6 năm Bính Ngọ (1306) Huyền Trân lên đường.
Năm sau Trần triều thu nhận hai châu này đặt tên mới là Hóa Châu và Thuận Châu, Đoàn Nhữ Hài được cử vào việc thiết lập guồng máy cai trị ở đây. Huyền Trân công chúa cùng Chế Mân xum họp chưa được một năm thì Chế Mân tạ thế. Theo tục Chiêm Thành, vua mất, các phi hậu phải lên đàn hỏa chết theo.
Anh Tông được tin liền phái Trần Khắc Chung mượn tiếng sang viếng thăm rồi lập kế đưa được Huyền Trân về nước. Việc này có lẽ đã gây mối bất bình trong lòng người Chiêm nên Chế Chí lên kế nghiệp Chế Mân ít lâu thì có sự bãi bỏ lời giao ước cũ. Rồi người Chiêm đã dùng võ lực cướp lại đất đai dùng làm lễ cưới Huyền Trân công chúa khi xưa. Trần triều phản ứng liền: vua Anh Tông cùng Huệ Võ Vương Trần Quốc Chân và Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư kéo ba đạo quân tới đất Chiêm. Nước Chiêm thua trận, quốc vương bị bắt đem về An Nam. Vua Anh Tông cử em Chế Chí là Chế Đà A Bà lên thay.
Chế Chí bị giam lỏng ở Gia Lâm và được phong làm Hiếu Thuận Vương chẳng bao lất thì mất. Vua cho hỏa táng và từ đó mối thù Việt-Chiêm càng ngày càng lớn.
Năm Mậu Thân (1308) Nhân Tông mất ở chùa Yên Tử. Sáu năm sau Anh Tông lên làm Thái Thượng Hoàng về nghỉ ngơi ở Thiên Trường, đến năm Canh Thân (1320) thì qua đời. Thái Tử Mạnh lên ngôi năm Giáp Dần (1314).
Vua Anh Tông trị vì được 21 năm thọ 54 tuổi.

Việc Gả Huyền Trân Công Chúa Cho Chiêm Vương
Về việc gả Huyền Trân công chúa cho Chế Mân tới khi người đẹp trở về đất Việt, các thi nhân và văn gia đời sau đã viết nên nhiều giai thoại. Các giai thoại này rất được truyền tụng. Xin kể ra đây một bài Đường luật của Hoàng Thái Xuyên về cuộc bang giao Việt-Chiêm thuở ấy.
Đổi chác xưa nay khéo nực cười,
Vốn đà chẳng mất lại thêm lời.
Hai châu Ô Lý vuông nghìn dặm,
Một gái Huyền Trân đáng mấy mươi.
Lòng đỏ khen ai lo việc nước,
Môi son phải giống mãi trên đời.
Châu đi rồi lại châu về đó.
Ngơ ngẩn nhìn nhau một lũ Hời.
và cũng do nguồn cảm hứng này, bài ca Nam Bình ra đời đến nay còn du dương giữa cung đàn nhịp phách bên bờ sông Hương. Tác giả đã dùng lối văn tự sự tả nỗi lòng bi đát của nàng rất là tế nhị.
Nước non ngàn dậm ra đi, mối tình chi. Mượn màu son phấn, đền nợ Ô-Ly, Đắng cay vì, đương độ xuân thì
Số lao đao hay là nợ duyên gì?
Má hồng da tuyết, quyết liều như hoa tàn trăng khuyết, Vàng lộn với chì,
Khúc ly tao cớ sao mà mường tượng Nghê thường! Thấy chim hồng nhạn bay đi, tình tha thiết.
Bóng dương hoa quỳ
Nhắn một lời Mân quân, nay chuyện mà như nguyện,
Đặng vài phân, vì lợi cho dân, Tình đem lại mà cân.
Đắng cay trăm phần ...
Ngoài ra thời nhân có câu ca dao rất chua chát, thương xót cảnh "ngọc lầm cát bụi, vàng lộn với chì":
Tiếc thay cây quế giữa rừng
Để cho thằng Mán thằng Mường nó leo.
Về việc vua Nhân Tông Thượng Hoàng và triều đình của Ngài quyết định gả Huyền Trân cho Chế Mân, ta thấy rõ rệt việc hôn nhân này đã vì lý do chính trị hơn là bởi Trần triều muốn lấy hai châu Ô, Lý để mở rộng cương thổ nước ta. Khi Thượng Hoàng hứa gả Huyền Trân thì chỉ là vấn đề thắt chặt tình thân thiện Việt-Chiêm, đâu có đả động đến việc đem ả thuyền quyên đổi lấy hai châu Địa Lý và Bố Chính? Sự thực vua Nhân Tông thấy Chiêm Thành cho đến thời đó là một dân tộc hiếu chiến và cũng hùng cường. Không kể từ đầu thế kỷ thứ nhất họ từng đem quân quấy nhiễu nước ta. Trong hai lần chót quân Mông Cổ xâm lăng Việt Nam, một lần Chiêm a tòng với Mông Cổ đánh thốc vào hậu tuyến của quân ta, một lần Chiêm Thành hợp với ta chống lại Toa Đô, vậy Chiêm có thể là một điều lợi hay hại. Gả công chúa cho Chiêm Vương, vua chúa nhà Đông A không ngoài ý dùng Chiêm làm phên dậu và bớt thêm một kẻ địch luôn luôn rình ở kẽ nách không phải là không nguy hiểm. Đó là chính sách Nam Thùy. Nhà Lý trước đây muốn bành trướng về Tả Giang đã gả nhiều công chúa cho các Châu Mục ở thượng du Bắc Việt, Trần triều gả Huyền Trân lại được làm mẫu quốc Chiêm Thành thì lại càng nên lắm. Còn chuyện đòi hai châu Ô-Lý chỉ là nhân dịp tốt để mở rộng cương vực chớ không phải là vấn đề chính.
Duy việc Trần Khắc Chung lập mưu đưa Huyền Trân trở về nước sau khi Chiêm Vương qua đời, muốn sao ta cũng phải nhận là một việc bất tín với Chiêm Thành thì phản ứng của nước Chiêm là lẽ dĩ nhiên và chính đáng. Chỉ tiếc cho họ vì hèn yếu nên phản ứng đó chỉ đưa thêm lại sự bất lợi.
Còn về thi ca trong dịp này ta nhận thấy dân tộc ta đối với Chiêm quốc có một sự kiêu hãnh rõ rệt, một sự kiêu hãnh thường có giữa kẻ lớn đối với kẻ nhỏ, cũng như thái độ của Bắc triều đối với các tiểu quốc, chẳng vậy trong các bài thi ca trên đây đã có những câu:
"Ngơ ngẩn nhìn nhau một lũ Hời"
...
"Vàng lộn với chì"
...
"Để cho thằng Mán thằng Mường nó leo
...
Đã mất người mất của lại còn bị khinh bỉ, người Chiêm vì được nghe lời ca dao hay các bài thơ, bài ca trên đây không khỏi có sự buồn tủi. Còn người Việt đã thắng một canh bạc không lương thiện lắm lại còn ra bộ não nùng xót xa... Cuộc bang giao Việt- Chiêm trong giai đoạn này quả là một thiên bi hài kịch. Duy có một người để nói một điều gì, đó là Huyền Trân công chúa bởi nàng đã là một nạn nhân của một tấn tuồng chính trị.

V. Trần Minh Tông (1314-1329)

Thái Tử Mạnh lên ngôi lấy hiệu là Minh Tông. Với Minh Tông hùng khí của họ Đông A không còn nữa, từ năm Đại Khánh (1314) đến năm Đại Trị (1358) là năm Minh Tông qua đời. Trong khoảng thời gian này các danh thần như Trương Hán Siêu, Nguyễn Trung Ngạn cũng lần lượt mất cả. Sự tiến bộ của dân tộc ngưng hẳn lại, không có một việc gì mở mang đặc sắc, vua quan chỉ lo hưởng cuộc thái bình của tiền nhân để lại. Tuy vậy, khi Minh Tông ở ngôi, nước còn được yên ổn và chưa đáng bi quan lắm. Về phía Bắc mặc dầu có một vài sự lôi thôi trong việc phân chia địa giới với Trung Quốc nhưng sau cũng đi đến chỗ ổn thỏa. Về phía Nam từ ngày Chế Chí bỏ xương trên đất Đại Việt, người Chiêm rất căm giận thường có những cuộc quấy rối ở các nơi kế cận của ta. Năm Mậu Ngọ (1318) đại quân của Huệ Vũ Vương Trần Quốc Chân và tướng quân Phạm Ngũ Lão tấn công vào đất Hời. Chiêm Vương Chế Năng bại trận bỏ thành chạy trốn.
Việc chính trị không có gì mới lạ hay đặc biệt, duy năm Ất Mão (13150 triều đình cấm mọi việc tranh tụng trong dân chúng cùng họ. Năm sau có việc xét định lại cấp bậc các quan văn võ. Năm Quí Hợi (1323) có mở khoa thi Thái Học Sinh (Người trúng khoa thi này ngang với chức tiến sĩ các triều sau). Cùng năm ấy triều đình chính thức cấm binh sĩ vẽ mình, từ đấy về sau tục này bị bãi bỏ hẳn.
Một việc không hay xẩy ra dưới đời vua Minh Tông, đó là chuyện giết oan Huệ Võ Vương Trần Quốc Chân, một lão tướng từng lập được nhiều chiến công từ thời kháng Nguyên cho đến các vụ chinh phạt Chiêm Thành sau này.
Trần Quốc Chân là thân sinh của Hoàng Hậu. Hoàng Hậu lâu không sinh hoàng nam. Triều thần bấy giờ chia ra làm nhiều phe. Phe muốn làm giảm bớt thế lực của Huệ Vũ Vương xin lập hoàng tử Vượng con bà phi lên làm Thái Tử do Văn Hiến Hầu Trần Khắc Chung cầm đầu. Phe Huệ Võ Vương xin chờ Hoàng Hậu có thai rồi mới bàn đến việc lập ngôi thái tử.
Để hạ địch thủ, phe Văn Hiến Hầu dùng một độc kế: mua chuộc tên Trần Nhạc đày tớ của Huệ Võ Vương bằng 100 lạng vàng. Trần Nhạc tố cáo Huệ Võ Vương mưu phản. Kết quả, Huệ Võ Vương bị đem giam vào chùa Tư Phúc. Được Minh Tông nghe, Trần Khắc Chung đề nghị cấm luôn việc tiếp tế cơm nước cho Huệ Võ Vương, có ý để Huệ Võ Vương chết đói lấy cớ rằng bắt hổ thì dễ tha hổ thì khó.
Hoàng hậu đến thăm cha, biết mưu gian của bọn Trần Khắc Chung mặc áo ướt vào ngục rồi cởi áo này cho cha vắt lấy nước uống. Vị lão tướng uống xong rồi chết.
Sau này vì chuyện ghen tuông với vợ lẽ, vợ cả Trần Nhạc đi tố cáo mưu gian kể trên, bấy giờ triều đình và dân gian mới hiểu nỗi oan của người quá cố.
Bình luận về Minh Tông, sử thần trước đây cho Ngài là một ông vua nhân hậu, thương dân yêu nước nhưng thiếu sự sáng suốt nên đã mắc vào nhiều việc sai lầm lớn lao và cũng do đó triều Trần đi gấp tới chỗ suy vong.
Minh Tông ở ngôi đến năm Ất Tị (1329) thì Thái Tử Vượng thay Ngài, để Ngài lên làm Thái Thượng Hoàng theo thủ tục.

VI. Trần Hiến Tông (1329-1341)
Vua Hiến Tông lên làm vua mới 10 tuổi và ở ngôi 13 năm. Có thể coi triều đại của Hiến Tông gần như không có gì đáng kể trên thực tế, vì mọi việc định đoạt đều ở tay Minh Tông Thượng Hoàng cả.
Trong giai đoạn này xẩy ra hai việc xâm phạm bờ cõi:

Giặc Ngưu Hống và Giặc Lào
Vua Hiến Tông lên ngôi chưa được bao lâu thì dân Mường Ngưu Hống ở mạn sông Đà nổi loạn. Thượng Hoàng đem quân đi đánh dẹp. Người Ngưu Hống ở trại Chiêm Chiêu đưa thư đến trá hàng, bề khác đạo quân của triều đình từ Thanh Hóa tiến ra bị chúng phục kích ở giữa đường rừng núi nên đạo quân này phải thua chạy. Sau đại quân đánh dữ dội nhiều nơi, thanh lừng lẫy, giặc Ngưu Hống phải rút cả vào các vùng lâm lũng. Giặc tuy thua nhưng vẫn không trừ dứt được. Sau này đến năm Đinh Sửu (1337) Hưng Hiếu Vương chém được tù trưởng của họ ở trại Trịnh Kỳ, giặc Ngưu Hống mới chịu yên hẳn.
Giữa khi quân Ngưu Hống quấy rối miền sông Đà thì giặc Lào cũng phá phác ở mạn Thanh Nghệ. Năm Giáp Tuất (1384) Minh Tông Thượng Hoàng lại phải xuất chinh. Ông Nguyễn Trung Ngạn làm Phát Vận Sứ được cử vào Thanh Hóa trước để lo vấn đề lương thực còn đại quân tiến sau. Uy thế nhà Trần còn mạnh nên khi đại quân vào tới Kiềm Châu (thuộc huyện Tương dương, Nghệ An) giặc bỏ chạy hết.
Ông Nguyễn Trung Ngạn được cử làm bài bia trên núi để kỷ niệm chiến công. Bài bia này chữ to bằng bàn tay khắc sâu một tấc đến nay vẫn còn và dịch nôm ra như sau:
"Chương Nghiêu Văn Triết Thái Thượng Hoàng và vua thứ sáu đời nhà Trần, nước Hoàng Việt chịu mệnh trời nhất thống cõi trung hạ, trong đất ngoài bể đâu cũng thần phục. Nước Ai Lao nhỏ mọn kia dám ngạnh vương hóa; cuối mùa thu năm Ất Hợi, vua thân đem sáu quân đi tuần cõi Tây, thế tử nước Chiêm Thành, nước Chân Lạp, nước Tiêm La và tù trưởng các đạo Quì, Cầm, Xa, Lạc, tù trưởng rợ Bồn Man mới phụ và các bộ Mán Thanh Xa đều mang phương vật tranh nhau đón rước. Chỉ có tên nghịch Bổng cứ giữ mê tối, sợ phải tội chưa lại chầu ngay. Cuối mùa đông vua đóng quân ở cánh đồng Cự, thuộc châu Mật sai các tướng và quân rợ Mọi vào tận nước, nghịch Bổng theo gió chạy trốn. Vua mới xuống chiếu lui quân. Bấy giờ là ngày tháng chạp nhuận năm Ất Hợi niên hiệu Khai Hữu thứ 7, khắc vào đá".
Cứ như lời bia, việc dẹp giặc Lào bấy giờ có vẻ hống hách lắm, nhưng sự thực đại quân chưa ra khỏi đất loạn, tình trạng lại rối ren như cũ. Còn nói các thế tử Chân Lạp, Tiêm La, v.v... qua chầu cũng chỉ do cách hành văn trang trọng trong một bài bia ký mà thôi. Thuở đó ảnh hưởng của dân tộc chúng ta chưa lan tới hai nước này.
Qua năm sau, Thượng Hoàng lại đem quân đi đánh giặc Lào vì giặc lại sang cướp phá ở ấp Nam Nhung (thuộc huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An). Kinh Lược Sứ tỉnh Nghệ An Đoàn Nhữ Hài được cử làm đô đốc chư quân có ý khinh thị quân giặc nên kém sự đề phòng. Quân của ông qua sông Tiết La thuộc ấp Nam Nhung thì bị sương mù. Quân phục binh của giặc ùa ra đánh ta trong ta bất ngờ; quan quân chạy xuống sông chết đuối rất nhiều. Chủ tướng họ Đoàn cũng bị vùi xác dưới nước.
Xét ra từ vua Anh Tông đến Nhân Tông sau này tới Minh Tông, cứ năm ba năm lại một lần, các vùng biên cảnh Tây Nam nước ta bị giặc Lào nhũng nhiễu. Giặc Lào chỉ cướp phá các miền này và không dám đi xa hơn vì không đủ lực lượng như Chiêm Thành, ngoài ra giặc biết rằng lìa khỏi miền rừng núi chúng mất lợi thế và sẽ bị tiêu diệt. Quan quân của ta đánh Lào chỉ cốt ngăn ngừa sự phá phách của chúng chớ không có ý định chiếm đất do một lẽ rất dễ hiểu: xứ Lào nhiều lam sơn chướng khí, đường đi toàn qua các nơi sơn cước gập ghềnh khó khăn cho việc tiếp vận. Giặc Lào vì vậy không bao giờ trừ tiệt được và qua nhiều triều đại đã làm cho các vua quan của ta hao người tốn của không phải là ít. Nếu như các vua ta có ý mở mang về Tây Nam thì rừng núi Chiêm Thành còn chế ngự được huống hồ xứ Lào. Có điều này làm cho chúng ta ngày nay phải ngạc nhiên hay khó hiểu là các triều đại xưa luôn luôn bị nạn phá phách ở các vùng biên giới vậy mà không thiết lập những cơ cấu phòng thủ vững vàng ở các nơi này. Phải chi chúng ta có những bộ đội trú phòng đứng đắn, mạnh mẽ và có các viên tổng binh hay trấn thủ chuyên môn về biên viễn thì đâu đến nỗi các vua phải luôn luôn xuất chinh, binh tướng phải mỏi gối chồn chân trên những quảng đường sơn xuyên ngàn dậm. Kìa như các châu Địa Lý, Bố Chính, Chiêm nhường cho ta nay co đi, mai dằng lại thì đủ rõ. Bởi vấn đề này thuở đó không được đặt ra, chính quyền của các vương triều lại chỉ thu hẹp ở miền Trung Châu Bắc Việt, nên chúng ta chẳng phải chỉ bị cái nạn hao tổn tiền tài, sinh mạng vì các việc động binh mà vua chúa, tướng súy lại còn có khi tiêu ma cả danh dự của dân tộc bên sườn núi các hạt Thuận Châu, Hóa Châu nữa (trường hợp Đoàn Nhữ Hài, vua Duệ Tông chẳng hạn). Thiết lập các bộ đội trú phòng là một sự tổn phí cho công quỹ của triều đình chăng? Theo thiển ý điều này chẳng đúng. Từ Thanh Nghệ qua Thuận Hóa thiếu gì đất mới rừng hoang để khai khẩn, các vùng duyên hải lại là những kho ngư lợi vô tận. Chứng cớ sau này có cuộc Trịnh Nguyễn  phân  tranh,  nạn  nhân  mãn    vùng  Trung  Châu  sông  Nhị  bành  trướng,  tiền nhân của ta mới nghĩ đến mọi vấn đề phương Nam và đã áp dụng mọi biện pháp thích nghi. Việc này đã đưa lại những kết quả thế nào chúng ta đã thấy và đứng trước các kết quả tốt đẹp (kết quả của cuộc Nam Tiến) ta càng tiếc các tiền triều không lo tính sớm các vấn đề phương Nam mà vấn đề biên cảnh tất nhiên phải giải quyết cùng một nhịp để đến nỗi thế kỷ này qua thế kỷ khác dân tộc phải chịu bao nhiêu vất vả, nhọc nhằng do sự quấy phá của giặc...
Một việc đáng chú ý ngay từ đời Minh Tông đến Hiến Tông đã có nạn đói khổ trong dân chúng. Các nhà cầm quyền không thi hành được điều gì tốt đẹp về kinh tế và xã hội tuy có việc phát thuốc Hồng Ngọc Sương Hoàn trị bách bệnh cho nhân dân, cấp tiền gạo cho người nghèo, lập Tào Thương tức kho thóc thu của dân để dùng vào việc phát chẩn năm Khai Hựu thứ 8 (1336), theo lời đề nghị của Nguyễn Trung Ngạn.
Hiến Tông làm vua đến năm Tân Tị (1341) thì mất, ở ngôi được 13 năm, thọ được 23 tuổi.

VII. Trần Dụ Tông (1341 - 1369)
- Việc chính trị
- Việc giao thiệp với nước Tàu
- Việc giao thiệp với Chiêm Thành
- Việc Dương Nhật Lễ
Vua Hiến Tông không có người kế tự. Minh Tông Thượng Hoàng cử người em tên là Hạo lên thay tức là vua Dụ Tông. Trong khoảng các năm Thiệu Phong (1341-1357), Thượng Hoàng còn sống vẫn còn cầm cương nẩy mực cho triều đình, việc dân nước chưa đến nỗi quá đồi tệ. Dầu vậy mấy năm mất mùa đã xẩy ra khiến dân tình đã đau khổ lại đau khổ thêm nữa. Triều đình không có cơ cấu hay tổ chức nào có hiệu lực để đề phòng tai nạn cho nhân dân, bởi vậy lâm đến việc thủy tai, hạn hán dân chúng không  còn  trông  cậy  vào  đâu  hết.  Sinh  lực  quốc  gia  mòn  mỏi  dần.  Từ  năm  Đại  Trị (1358), Thượng Hoàng qua đời, các lương thần như tướng Trương Hán Siêu, Nguyễn Trung Ngạn cũng chết đi, Trần triều bắt đầu xuống dốc rõ rệt. Nạn gian thần lan rộng chốn cung đình, việc triều chính đổ nát không ai tha thiết. Một người cố cứu vãn tình thế, gây lại kỷ cương trật tự là ông Chu Văn An, một đại nho và một danh thần còn sót lại đã dân sớ xin chém bẩy tên quyền thần nhưng không được nhà vua chấp thuận. Ông liền cáo quan về ẩn dật ở núi Chí Linh. Bài sớ thất trảm của ông đáng kể là di tích của sĩ khí, sĩ phong thuở ấy.
1- Việc Chính Trị
Vua Dụ Tông ham rượu chè ăn chơi, dâm dật, xây cung điện, đào hồ, đắp núi. Triều đường là một cái sòng bạc công khai, quán rượu thường xuyên, hay một sân khấu ngày đêm náo nhiệt. Nguyên khi đánh được giặc Nguyên có bắt được một tên hát bội là Lý Nguyên Cát. Tên này được ở lại nước ta làm trùm dạy múa hát. Từ đấy ta có nghề hát bội và nghề này chẳng bao lâu lan tràn khắp nước ta. Các vương hầu công chúa phải đặt các vở tuồng để giúp vui, vua quan thi nhau rượu chè be bét. Người nào uống nổi trăm thăng được thưởng hai trật. Các nhà giàu ở Đình Bảng (Bắc Ninh) và Nga Đình (Sơn Tây) được mời vào kinh dự cuộc đen đỏ. Có tiếng bạc tới 300 đồng vàng. Hơn nữa người ta còn xâm phạm vào quyền lợi kinh tế của nhân dân. Các quan hầu của vua chúa chiếm cả bãi sông Tô Lịch là đất giồng rau của dân nghèo. Nơi này từ đấy mang tên là phường Vườn Rau. Cung nhân cũng làm quạt đem bán lấy lợi. Các quan chức cũng đổ xô chiếm hết nguồn sống của đại chúng gây nên một tình thế xã hội rất eo hẹp quẫn bách. Các hiền tài ngao ngán không ai chịu xuất đầu lộ diện.
Cái hậu  quả của nền chính trị bại  hoại  này đã phát sinh ra nhiều  mối loạn trong nước: Ngô Bệ dấy loạn ở mạn Hải Dương, các đám giặc cỏ khác cũng nổi lên ở nhiều nơi cướp phá dân chúng. Nạn đói kém, rối ren liên miên năm này qua năm nọ, gần như một tình trạng thường xuyên báo hiệu ngày tàn của một triều đại.
Nội tình quốc gia thê thảm đến thế thật là hết chỗ nói.

2- Việc Giao Thiệp Với Nước Tàu
Trong giai đoạn này bên Trung Quốc nhà Nguyên cũng suy vong. Bọn Trần Hữu Lượng, Trương Sĩ Thành, Chu Nguyên Chương khởi binh lật đổ nhà Nguyên. Chu dấy nghiệp ở đất Từ Châu (tỉnh An Huy) cướp được thành Kim Lăng và mười lăm năm sau nhà Nguyên bị dứt hẳn.
Năm Mậu Thân (1368) Chu Nguyên Chương tức Minh Thái Tổ thống nhất thiên hạ Trung Quốc, dựng nên nhà Minh. Vì phải lo sửa sang và chỉnh đốn nhiều việc nên Minh triều chưa kịp có một ý định thôn tính nước ta ngoài chuyện phái sứ sang dụ. Lễ Bộ Thị Lang Đào Văn Đích được cử đi tiến công. Đó là một sự may mắn đặc biệt. Ví như lúc này Trần triều phải đương đầu với một cuộc xâm lăng của Bắc phương, kết quả sẽ như thế nào ta không cần phải tưởng tượng.

3- Việc Giao Thiệp Với Chiêm Thành
Trong thời kỳ nước ta bạc nhược Chiêm Vương Chế A Nam qua đời. Con là Chế Mộ và rể là Bồ Đề tranh nhau ngôi vua. Dân Chiêm theo Bồ Đề. Năm Nhâm Thìn (1352), Chế Mộ chạy sang Đại Việt yêu cầu giúp đỡ.
Năm sau (Quý Tị, 1353) vua Dụ Tông cho quân đưa Chế Mộ về nước. Quan quân tới Cổ Lũy (thuộc Quảng Nghĩa) thì bị quân của Bồ Đề đánh bại phải bỏ chạy. Chế Mộ thất vọng chẳng bao lâu thì chết. Từ đấy Chiêm khinh thường thực lực của ta nên hay đem quân quấy phá biên giới.
Năm Đinh Vị (1367), đoàn quân viễn chinh của Trần triều do Trần Thế Hưng và Đỗ Tử Bình lĩnh đạo qua Chiêm Thành bị quân Chiêm phục kích. Chiêm bắt được Trần Thế Hưng, còn Đỗ Tử Bình phải lui quân. (Đỗ Tử Bình là tay đại nịnh thần dưới triều Dụ Tông).
Trong khoảng 13 năm hai lần thua trận, nước ta mất hết phong thể và uy tín từ trong ra tới ngoài. Vua tôi vẫn ham chơi không hề lo đến việc khôi phục và hoán cải tình thế. Trái lại lúc này dân Chiêm trở nên mạnh dưới chính sự sáng suốt của Chế Bồng Nga là một ông vua anh hùng, có tài chiến trận, giỏi việc trị nước. Năm Mậu Thân (1368) người Chiêm đời ta trả lại đất Hóa Châu (tức Châu Địa Lý, Bố Chính và Ma Linh mất về ta dưới đời Lý năm 1103). Một mặt họ xúc tiến chính trị nội bộ, một mặt họ thao luyện gắt gao binh đội. Quân Chiêm phải chịu tập tành ngày đêm cho quen với sự khó nhọc. Họ đặc biệt lợi dụng ưu thế tượng trận, nghĩa là dùng voi để mở đường cho cuộc tấn công. Nếu tấn công không lợi thì họ là dùng voi để đoạn hậu tức là ngăn lối tiến của đối phương. Chiến pháp này có hiệu quả tốt đẹp nên sau này mấy phen người Chiêm tha hồ kéo nhau đến làm mưa nắng trên bờ cõi Việt Nam.

4- Việc Dương Nhật Lễ
Năm Kỷ Dậu (1369), Dụ Tông qua đời vì dâm dật quá nên không con. Triều đình định lập Cung Định Vương Phủ là anh vua Dụ Tông lên làm vua, bị bà Huệ Từ Thái Hậu phản đối nhất định lập con nuôi của Cung Túc Vương là Dương Nhật Lễ (Thế là bỏ họ Trần mà lập họ khác).
Trước đây có người phường tuồng Dương Khương, diễn trò "Quả đào tiên" cho vợ thủ vai Tây Vương Mẫu. Vợ Dương Khương bấy giờ đang có mang hai tháng khéo điểm phấn son nên rất ưa nhìn. Cung Túc Vương Dục là con vua Minh Tông mê quá liền cướp lấy làm vợ đẻ ra Nhật Lễ. Dụ Tông mất đi để di chiếu cho Nhật Lễ nối ngôi. (Có lẽ Dụ Tông mê cậu bé như mê mẹ!).
Nhật Lễ lên làm vua được ngót hai năm (1369-1370) cũng dâm dật, cũng yến ẩm suốt đem ngày, lại có ý đổi lại họ cũ là họ Dương, giết Thái Hậu và Cung Tĩnh vương Trác. Cung Định vương Phủ và Cung Tuyên vương Kính cùng các tông thất phải chạy ra ngoài đem quân về giết được Nhật Lễ (theo Việt Nam Sử Lược Cung Định vương Phủ sợ bị hại vì tính khí nhu nhược lại không có ý cạnh tranh nên bỏ trốn lên mạn Đà Giang).
Sau cuộc rối ren này Cung Định vương Phủ về làm vua tức là Nghệ Tông

VIII. Trần Nghệ Tông (1370-1372)
Trong khi Nghệ Tông lên làm vua thì mẹ Nhật Lễ trốn qua Chiêm dụ quân Chiêm về phá thành Thăng Long. Nội tình của Trần triều thế nào đều lọt cả vào tai mắt người Chiêm. Từ trước tới nay Chế Bồng Nga chỉ đợi một cơ hội thuận tiện là kéo đại quân vào đất Việt Cơ hội đó đã có người cáo tỏ, quân Chiêm liền dùng thủy đạo đột nhập cửa Đại An, kéo qua sông Hoàng Giang rồi tiến thẳng vào thủ đô Thăng Long. Sức cản trở của quân ta rất là yếu vì bao năm không ai luyện binh tập mã, việc canh phòng lại biếng nhác nên giặc như đi vào chỗ không người. Chúng đốt phá cung điện, cướp sạch bạc vàng châu báu, bắt đàn bà, con gái đem về nước.
Giữa lúc kinh thành đổ nát tơi bời, vua Nghệ Tông lánh mình sang làng Đông Ngạn (nay là Đình Bảng, tỉnh Bắc Ninh). Trước cảnh thảm bại này người dân Việt nhớ lại cái quá khứ oanh liệt của các tiền triều bao nhiêu (kể từ nhà Lý) càng chán nản phẫn uất với tình trạng hiện tại thuở ấy bấy nhiêu. Cảnh thảm bại đó dĩ nhiên đưa lại cho mọi tầng lớp nhân dân một ý muốn chung là sự thay đổi hoàn toàn tình trạng xã hội Việt Nam trên các địa điểm để tìm một lối thoát. Điều kiện chủ quan (tình hình nội tại) và điều kiện khách quan (việc xâm nhập của giặc Chiêm ở ngoài vào) sẵn sàng dọn đường cho sự thay đổi đó.
Từ đây xã hội Việt Nam đi dần sang con đường rẽ của Lịch sử, dù muốn hay không, và cái động lực mạnh nhất đã làm xụp đổ Trần triều -- một dòng họ ngự trị dân tộc Việt Nam suốt 175 năm -- đó là sự đồi bại của nền kinh tế trong nước.
Quả vậy, từ đời vua Thái Tông đến cuối thế kỷ thứ XIII xã hội Việt Nam được no cơm, ấm áo, nhân dân được sống vui vẻ, đầy đủ nên giặc Mông Cổ ba phen vào cõi ta đã đánh bật họ ra một cách oanh liệt. Lời hịch của Hưng Đạo Vương đã nhắc đến thú cờ bạc, đàn hát, chọi gà, thú săn bắn, thú ruộng vườn đủ rõ đời sống của nhân dân bấy giờ quả có tốt đẹp.
Trái lại từ đời Dụ Tông vua quan bất tài, bất lực, lại ăn chơi đàng điếm, xa xỉ, giai cấp phong kiến đốn mạt đến nỗi đẽo gọt cả quyền lợi lặt vặt của dân chúng. Bên ngoài giặc Chiêm hàng năm sang đánh phá, cướp của giết người, càng làm cho cái ngai vàng của họ Trần thêm nghiêng ngữa và nhân dân điêu đứng thêm.
Tình trạng này không thể tránh được một cuộc đảo lộn chẳng do họ này thì cũng do họ khác. Giữa triều đường bấy giờ Hồ Quý Ly có tài ba trội hơn mọi người tất nhiên được tin dùng, lại thêm địa vị của ông là Hoàng thân quốc thích nữa. Rồi ông bước lên sân khấu chính trị nước nhà giữa một thời thế vô cùng phức tạp: Tầng lớp lãnh đạo thì chỉ nhìn vào quyền lợi, địa vị riêng tư, sau này đối với ngoại không phân biệt được đâu là thù, là bạn, lẽ thuận lẽ nghịch, dân chúng thì đói khổ, mất hết tin tưởng vào các nhà cầm quyền, như con thuyền không lái, bồng bềnh ngoài khơi như chẳng còn biết đến bờ bến. Thật là não nề, thật là bi đát!

Tiểu Sử Của Hồ Quý Ly
Dòng họ Hồ đối với lịch sử Việt Nam chỉ mới nổi tiếng từ khi có Hồ Quý Ly xuất đầu lộ diện. Ông Chu Thiên, có lẽ là sử gia nghiên cứu về họ Hồ kỹ càng nhất phát biểu một ý kiến ngờ vực về lý lịch của họ Hồ mà Khâm Định Việt Sử Thông Giám (Cương Mục quyển 10) đã nêu ra bởi thiếu tài liệu xác thực để chứng nghiệm, phần có thể lý lịch của họ Hồ đã bị xuyên tạc do những kỳ thị hẹp hòi của các nhà làm sử trước:
Theo Khâm Định Việt Sử, Hồ Quý Ly là cháu bốn đời của Hồ Liêm. Ông tổ của họ Hồ là Hồ Hưng Dật người tỉnh Chiết Giang bên Tàu về đời Ngũ Quý (907-959), trôi dạt sang Việt Nam, làm quan và lập ấp ở làng Bèo Đột phủ Diễn Châu (nay thuộc huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An). Đến đời Hồ Liêm những người họ Hồ dời qua làng Đại Lai thuộc tỉnh Thanh Hóa. Quý Ly làm con nuôi Lê Huấn vì vậy đổi họ là Lê Quý Ly. Như vậy đến nay chưa tìm được một căn cứ nào rõ rệt để hiểu biết sự di truyền về sinh lý của dòng máu đã kết tinh thành những đức tính lỗi lạc và cương quyết của nhà chính trị đó. Quý Ly sau này chiếm được ngôi của nhà Trần lấy lại họ cũ (Hồ), đổi tên nước là Đại Ngu tuyên bố rằng họ Hồ thuộc dòng dõi vua Nghiêu Thuấn ngày xưa.
Quý Ly có là người Tàu hay không, ta không cần biết, nhưng điều rõ rệt là Quý Ly đáng kể là một nhân vật lịch sử không tầm thường.
Lại xét các người chung quanh Quý Ly bên nội cũng như bên ngoại đều rất thông minh, xuất chúng. Tỉ dụ Gia Từ Hoàng Hậu (em họ Quý Ly, vợ vua Duệ Tông. Sử chép: Vua Duệ Tông đi đánh Chiêm không trở về, bà gọt đầu đi tu. Vua Nghệ Tông lập con bà lên ngôi (Đế Nghiễn) Bà cố xin bãi việc này không được, sụt sùi khóc nói với những người chung quanh: "Con ta ít phúc không gánh nổi việc lớn lại đến mang họa vào mình mà thôi. Tiên quân ta xa vắng cõi trần, ta chỉ muốn chết theo, nữa là phải ở lại nhìn con mình lâm vào cảnh bi thảm..." Quả nhiên sau này Đế Nghiễn bị hại.41
Sách Nam Ông Mộng Lục của Lê Trừng (tức là Hồ Nguyên Trừng con cả Hồ Quý Ly) in trong tập Hàm Phân Lâu Bí Cấp xuất bản ở bên Tàu chép bà tổ Hồ Quý Ly là con Nguyên Thánh Huấn, một nhà văn học trứ danh dưới đời Trần Thánh Tông và Nhân Tông. Tháng chạp năm Bão Phũ thứ hai (1274), Nguyên Thánh Huấn được cùng Nguyễn    Cố  làm  Nội  Thị  Học    đọc  sách  với  thái  tử  Khâm  (tức  Nhân  Tông)  dưới quyền phụ giáo của thiếu sư Lê Phụ Trần, sau làm đến chức Trung Thư Thị Lang nổi tiếng văn thơ, được người đời bấy giờ gọi là Nam Phương Thi Tổ. Quý Ly lại có hai cô lấy vua Minh Tông là con gái của quan Thái Y Phán Phạm Công Bân rất giỏi nghề thuốc và công minh chính trực.
Tóm lại, những căn cứ cận lai cho ta biết Hồ Quý Ly đã sinh ra ở những dòng máu cao quý và những yếu tố này đủ tạo nên Quý Ly thành một nhân vật lịch sử có những cá tính hết sức đặt biệt.

41 Có sách chép là Đế Hiển

IX. Trần Duệ Tông (1372-1377)
Năm Nhâm Tí (1372) vua Nghệ Tông truyền ngôi cho Thái Tử Kính lên làm Thái Thượng Hoàng. Thái Tử Kính tức là vua Duệ Tông lấy Lê Thị làm Hoàng Hậu (Lê Thị là em họ Lê Quý Ly).
Duệ Tông không nhu nhược như Nghệ Tông nhưng việc triều chính vẫn do Thượng Hoàng quyết đoán. Thuở ấy Chiêm Thành thường đem quân sang quấy nhiễu. Vua Duệ Tông liền cho huy động binh mã mở cuộc Nam Chinh. Ngài hạ chiếu luyện tập quân đội, sửa soạn chiến thuyền, đặt thêm quân hiệu, Quý Ly được cử làm Tham Mưu quân sự. Hoan Châu được đổi làm Nghệ An, Diễn Châu làm Diễn Châu Lộ, Lâm Bình Phủ làm Tây Bình Phủ. Dân chúng được lệnh sửa sang đường từ Thanh Hóa vào đến huyện Hà Hòa (tức huyện Kỳ Anh ngày nay).
Năm Bính Thìn (1376) quân Chiêm lại sang phá Hóa Châu. Mặc dầu đình thần cản ngăn, Duệ Tông quyết định cử binh đi chinh phạt. Quân dân Thanh Hóa, Nghệ An phải tải 5 vạn thạch lương vào Hóa Châu và trước khi đoàn quân Nam Chinh lên đường có mở một cuộc duyệt binh tại Bạch Hạc dưới quyền chủ tọa của Thượng Hoàng.
Cuộc chiến tranh này đáng lẽ không có vì tuy thỉnh thoảng có sự quấy nhiễu nhưng Chiêm Thành vẫn còn e ngại lực lượng của dân Việt. Ngay bấy giờ dưới quyền Chế Bồng Nga mặc dầu Chiêm hùng mạnh hơn bao giờ hết Chiêm vẫn phải tiến cống Trần triều. Năm ấy họ Chế đem cống 15 mâm vàng. Trấn Thủ Hóa Châu là Đỗ Tử Bình (một tên đại gian nịnh) lấy đi rồi dâng sớ về triều xin cử đại binh đi đánh Chiêm để trừng phạt về tội vô lễ. Lời sớ của Đỗ Tử Bình đã quyết định cuộc chiến tranh mà nhà Trần đã chuẩn  bị.  Quý  Ly  vận  tải  lương  thực  đến  cửa  bể  Di  Luân  (thuộc  huyện  Bình  Chính, Quảng Bình) và tự lĩnh 12 vạn quân thủy bộ cùng tiến. Binh đội ngừng lại tại cửa Nhật Lệ (làng Đồng Hới, huyện Phước Lộc, Quảng Bình) một tháng để luyện tập.
Năm sau là năm Đinh  Tỵ (1377), quân Việt tiến  vào cửa Thị Nại (Qui Nhơn) phá được đồn Thạch Kiều, động Kỳ Mang rồi tiến đến trước thành Đồ Bàn. Chế Bồng Nga lập kế trá hàng cho nói dối rằng toàn thể quân Chiêm đã rút hết, thành bỏ không. Đại Tướng Đỗ Lễ can Duệ Tông đừng đem quân vào thành. Duệ Tông không nghe rồi quân ta  tiến  vào  chiếm  thành  liền  bị  bao  vây  đánh  bốn  mặt.  Mặc  dầu  quân  ta đông  đảo nhưng địch bố trí sẵn, nắm trước được thế hiểm nên ta thua to. Duệ Tông tử trận, binh đội tổn hại mười phần đến bảy tám.
Đỗ Tử Bình điều khiển hậu quân không dám tiếp cứu. Quý Ly cũng bỏ chạy. Sau trận này Đỗ Tử Bình bị giáng xuống làm lính.

X. Trần Phế Đế (1377-1388)
- Việc giao thiệp với nhà Minh
- Chiêm Thành phá Thăng Long
- Âm mưu trừ Quý Ly thất bại
Duệ Tông mất rồi, Thượng Hoàng Nghệ Tông lập con của Duệ Tông là Nghiễn (Hiển) lên nối ngôi, tức là vua Phế Đế.
Tình thế nước ta lúc này thật đáng buồn: nhân dân thì đói khổ, triều đình thì nhút nhát, quân đội thì suy nhược, mỗi lần giặc Chiêm đến là mỗi lần cuộc khủng hoảng tinh thần lan tràn khắp nước. Nhà vua phải đem của đi chôn dấu ở núi Kiện Khê huyện Thanh Liêm (Hà Nam) các quan khoanh tay nhìn thời cuộc. Trông vào đâu? Triều đình không còn tin đến binh lực của mình phải cầu cứu đến lũ tăng nhân là bọn Đại Nạn thiền sư để chống nhau với giặc Chiêm (Trách gì sau này thầy chùa Phạm Sư Ôn chẳng nổi loạn!)
Việc bảo vệ đất nước đã bất lực rõ rệt, người dân đã cực khổ lầm than lại còn bị chồng chất thuế má nặng nề lên đầu lên cổ. Để cứu cái tình trạng tài chính nguy ngập vì công khố sạch trơn cả gạo thóc, tiền bạc lưu hành trong dân chúng cũng cạn sạch, Đỗ Tử Bình đề nghị bắt mỗi xuất đinh bất kể còn sống hay đã chết mỗi năm phải đóng ba quan tiền thuế (Thuế thân sinh ra từ đấy). Dĩ nhiên vô kế khả thi, triều đình phải chấp thuận.
Tóm lại, bộ máy cai trị bị tê liệt, nền kinh tế thương mại bị ngưng trệ, lực lượng quốc gia tan rã, vận mệnh dân tộc rất là nguy khốn. Đây là một thời vô trách nhiệm, vô trật tự. Đẵng cấp phong kiến, quan liêu đến lúc suy vi mà giai cấp nho sĩ, trí thức cũng tỏ ra ươn hèn, đáng lẽ họ phải đóng trọn vẹn vai phù nguy, cứu khổ, vẫn đắm mình trong cái vũng từ chương, cử nghiệp, họ không nhìn thấy sự nguy khốn của xứ sở. Rồi đây ta sẽ nhận thấy cái thái độ bị động và ngu tối ấy đã đưa nước Việt đến đâu...

1- Việc Giao Thiệp Với Nhà Minh
Trước năm Giáp Tí (1384) nhà Minh đã yên vị trên toàn cõi Trung Quốc bắt đầu dòm ngó nước ta. Họ thường cho sứ bộ qua lại nay yêu sách thứ này, mai đòi hỏi thứ kia không ngoài mục đích sửa soạn việc xâm lăng là điều thường lệ của các đế quốc Bắc phương từ trước đến giờ.
Năm Giáp Tí, nhà Minh đòi ta nộp 5.000 thạch lương cung cấp cho binh đội của họ tại Vân Nam. Năm sau ta lại phải đưa sang Kim Lăng 20 tăng nhân, gỗ quý và lương thảo. Triều đình nhất nhất tuân theo, không hề bàn luận đến cái nạn mất nước sờ sờ trước mắt.
Một hôm Thượng Hoàng Nghệ Tông đến thăm nhà chí sĩ Trần Nguyên Đán. Nguyên Đán là một vị tông thất vào bậc cố lão, thấy quốc chính rã rời rút về ở ẩn. Trong khi bàn việc nước, Nguyên Đán tâu: "Xin Bệ hạ thờ nhà Minh như cha, coi Chiêm Thành như con, quốc gia mới có thể yên ổn mà hạ thần có chết cũng được ngậm cười nơi suối vàng..." (!)
Thấy Quý Ly giữ ưu thế trong triều, Nguyên Đán kết thông gia với Quý Ly để san sẻ miếng đỉnh chung. Qua lời nói và việc làm của Trần Nguyên Đán ta thấy rõ cái tinh thần bạc nhược của giai cấp lĩnh đạo đời Trần mạt. Không còn ai tính chuyện khôi phục tình thế, tập hợp lại mọi lực lượng quốc gia để giữ vững bờ cõi, mà chỉ có những ý tưởng thoái bại cùng cầu an và chỉ tính chuyện cong lưng vái lạy người ngoài để kéo dài cái kiếp sống thừa.
2- Chiêm Thành Đả Phá Thăng Long
Năm Đinh Tỵ (1377) vua Duệ Tông ngã gục trước thành Đồ Bàn, Việt quân đại bại. Việc này làm tổn hại vô cùng uy thế của nước ta. Thắng được quân ta tại nội địa, người Chiêm không bỏ lỡ cơ hội ta đang suy bĩ, ngay tháng sau đem đại quân ra đánh Thăng Long. Triều đình cho quân giữ cửa Đại An (Hưng Yên). Giặc dò biết liền vượt qua cửa Thần Phù (sông Chính Đại, huyện Yên Mô, Ninh Bình) rồi cứ thế rầm rộ tiến vào Thăng Long. Quân ta không giữ nổi; giặc thỏa chí cướp phá.
Tháng 5 năm Mậu Ngọ (1378) quân Chiêm lại tấn công Nghệ An, theo sông Đại Hoàng vào đánh kinh thành lần nữa.
Năm Canh Thân (1380) họ lại quấy nhiễu hai tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An. Nghệ Tông cử Lê Quý Ly lĩnh thủy quân và Đỗ Tử Bình42 dẫn lục quân vào chặn đánh quân Chiêm đang hoành hành ở đây. (Ngu Giang, huyện Hoằng Hóa thuộc Thanh Hóa) Lê Quý Ly giữ vững được phòng tuyến và đuổi được giặc.
Năm Nhâm Tuất (1382) Quý Ly cùng tướng Đa Phương lại xuất quân đối phó với quân Chiêm tại Thanh Hóa. Quân nhà Trần giữ bến Thần Đầu (Ninh Bình). Quân Chiêm không có đường tiến sâu vào đất ta như mọi lần, rồi bị đuổi ra khỏi đất Nghệ An.
Sau trận Ngu Giang và Thần Đầu, quân thế của ta bắt đầu vững cho nên ngay năm sau Thượng Hoàng lại cử Quý Ly đi chinh phạt Chiêm Thành. Cuộc xuất binh này bất lợi. Thủy quân vào tới cửa Nương Loan (bây giờ là huyện Kỳ Anh tỉnh Hà Tĩnh) thì bị bão. Nhiều chiến thuyền bị đánh vỡ và đắm. Quân ta lại phải rút về. Việc này vào tháng giêng, thì tháng sáu cùng năm Chế Bồng Nga lại cử binh Bắc tiến, theo đường núi sấn vào đóng ở Quảng Oai. Tướng của ta là Mật Ôn giữ châu Tam Kỳ thuộc hạt Quốc Oai (Sơn Tây) bị Chiêm bắt mất. Địa điểm quan trọng này lọt vào tay giặc, Thượng Hoàng cùng Đế Nghiễn phải chạy sang Đông Ngạn (Bắc Ninh) giao việc giữ Kinh Thành cho tướng quân Đa Phương, tình cảnh thật là thảm hại.

42 Đỗ Tử Bình lại được phục chức cũ

3- Âm Mưu Trừ Quý Ly Thất Bại
Tháng 8 năm Mậu Thìn, (Xương Phù thứ mười hai 1388), nhân có sao chổi hiện ở phương Tây, Đế Nghiễn đã lâu khó chịu về việc Thượng Hoàng tin dùng Quý Ly bàn với quan Thái Úy Thúc Ngạc (là con Thượng Hoàng Nghệ Tông, anh họ của Đế Nghiễn) và bọn Ngự Sử đại phu Lê Á Phụ, tướng quân Nguyễn Khoái, Nguyễn Văn Nghê, Nguyễn Khá, Nguyễn Bát Sách, Lê Lạc, học sinh Lưu Thường ... mưu trừ Quý Ly. Vương Nhữ Mai chầu học trong cung để lộ tin này ra ngoài. Quý Ly hoảng sợ bàn với thủ túc là Nguyễn Đa Phương và Phạm Cự Luận. Đa Phương khuyên Quý Ly chạy ra ngoài núi Đại Lai (huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa) để lánh mình đã. Cự Luận nói:
- Một khi đã ra ngoài thì khó bề sống sót! Quý Ly càng luống cuống nói:
- Hay là ta tự tận còn hơn để lọt vào tay người! Cự Luận tiếp:
- Năm trước nhà vua đã giết Quang Phục Đại Vương Húc (con Thượng Hoàng Nghệ Tông) Thượng Hoàng hẳn còn căm, nay vua lại nghe lũ tiểu nhân sát hại công thần. Đại nhân nên vào ngay, tâu bày lợi hại rằng: Xưa nay chưa có ai bán con nuôi cháu. Chỉ có chuyện bán cháu nuôi con, đó là lời ca dao từ xưa đến nay. Xong việc thì xin lập Chiêu Định là tiện hơn cả (Chiêu Định tên là Ngang con vua Nghệ Tông). Quý Ly nghe theo vào mật tấu Thượng Hoàng và được như ý. Mấy hôm sau Nghệ Tông nói thác là sắp tuần du ngoài An Sinh (Hải Dương) sai vời Đế Nghiễn vào. Đế Nghiễn tới, Nghệ Tông truyền giam vào chùa Từ Phúc.
Sau Thượng Hoàng xuống chiếu như sau:
"Trước kia Duệ Tông đi đánh Chiêm không trở về, dùng con nối ngôi cha là theo dạo xưa nay. Nhưng quan gia từ khi lên ngôi chưa hết tính trẻ con, giữ đức thông thường, thân với lũ tiểu nhân Lê Á Phụ, Lê Dữ Nghị mưu hãm công thần làm lung lay xã tắc nên giáng xuống làm Minh Đức Đại Vương. Mà nước nhà không thể không vua, vậy rước Chiêu Định Vương Ngang nối mối lớn. Bá cáo trong ngoài đều cho nghe biết".
Lúc giải Đế Nghiễn đi, bọn Nguyễn Khoái, Lê Lạc và đồng bọn muốn đem quân vào cướp vua, nhưng Đế Nghiễn viết hai chữ "giải giáp" và khuyên mọi người đừng trái mệnh Thượng Hoàng. Một lúc sau Đế Nghiễn bị đem xuống phủ Thái Đường thắt cổ chết. Bọn Nguyễn Khoái bị đày ra ngoài biên ải.
Ngoài ra những kẻ dự cuộc âm mưu, nhất là các tôn thất như Trần Nguyên Diệu (em ruột Đế Nghiễn), Trần Nguyên Đĩnh (con anh ruột của Nghệ Tông là Cung Tĩnh Vương Trác) và Thiếu Bảo Trần Tông (Nguyên viện trưởng Lạc Kha thư viện ở cung Bảo Hà trên núi Phật Tích Bắc Ninh) đều bỏ chạy qua Chiêm Thành rồi đem quân về đánh lại. Tại Hoàng Giang bọn này bị Trần Khát Chân đánh bại. Nguyên Diệu bị giết, Nguyên Đĩnh, Trần Tông bị Quý Ly hạ lệnh bắt, liền đâm đầu xuống bể, còn dư đảng là Trần Thiêm Bình chạy qua Lào (Luang Prabang) sau này dẫn đường cho quân Minh sang chinh phục nước ta.
Còn một nhân vật trong phe phản động khó diệt trừ hơn cả là Thúc Ngạc bởi Thúc Ngạc là con vua Nghệ Tông. Quý Ly phải áp dụng một phương pháp khéo léo hơn. Trước khi Đế Nghiễn bị bỏ, Quý Ly vờ nói xin đề nghị Thúc Ngạc lên thay. Thúc Ngạc không nhận, nhân đó Quý Ly tâu với Nghệ Tông:
- Quan Thái Úy (tức Thúc Ngạc) từ ngôi vua là người có đức lớn xin gia phong cho xứng.
Nghệ Tông liền phong cho Thúc Ngạc làm Trang Định Vương. Ngạc nghe chuyện, biết quỷ kế của Quý Ly lấy làm sợ hãi. Quỷ kế đó là nâng cao kẻ địch để tỏ sự công bằng vì quyền lợi quốc gia rồi sau này sẽ hạch tội sẽ không có vẻ là vì tư thù. Quả vậy sau này Ngạc bị Quý Ly dèm pha luôn, liền bỏ trốn ra Vạn Ninh (Hải Ninh thuộc Móng Cáy). Quý Ly xin Thượng Hoàng cho Ninh Vệ tướng quân Nguyễn Nhân Liệt đuổi theo triệu về, Quý Ly ngầm sai Nhân Liệt đánh chết Ngạc rồi về man tấu Ngạc kháng mệnh và đánh sứ giả nên bị chúng giết chết. Nghệ Tông giận lắm, truy giáng Ngạc xuống làm Man Vương.

XI. Trần Thuận Tông (1388-1398)
- Chế Bồng Nga tử trận
- Cuộc cách mạng của Hồ Quý Ly
Đế Nghiễn chết rồi, Thượng Hoàng lập con út của mình là Chiêu Đình Vương lên ngôi tức là vua Thuận Tông.
Lúc này các phần tử trọng yếu trong triều và ngoài quân đội đều ngã cả về Quý Ly hoặc hết thảy đều là tay chân của họ Hồ. Giặc dã nổi lên khắp nơi. Tại Thanh Hóa Nguyễn Thành tự xưng là Linh Đức Đại Vương tung hoành ở miền Lương Giang. Nguyễn Kị xưng Lỗ Vương chiếm cứ Nông Cống.
Đáng chú ý hơn cả là bọn Phạm Sư Ôn, một tăng nhân lĩnh đạo đám thầy chùa chiêu tập được vài vạn quân vô lại nổi lên ở Quốc Oai (Sơn Tây), tháng chạp năm Kỷ Tị, hiệu Quang Thái thứ hai (1389) Phạm Sư Ôn có nhiều pháp thuật tiếm xưng Hoàng Đế phong Nguyễn Mai, Nguyễn Khả Hành làm Hành Khiển (tể tướng) chia quân ra làm ba vệ: vệ quân Thần Kỳ, vệ Dũng Đấu và Vô Hạn đem quân hùng hổ tấn công vào kinh đô.
Việc loạn của Phạm Sư Ôn lúc đầu rất có thanh thế và đã nhằm vào lúc vô cùng nghiêm trọng, nghĩa là giặc Chiêm đang uy hiếp quân ta ở Hoàng Giang gần sát kinh thành. Nghệ Tông Thượng Hoàng và Thuận Tông phải lánh mình sang Bắc Giang. Sư Ôn vào đóng ở kinh đô trong ba ngày sau lại lui về Nộn Châu (thuộc Quốc Oai).
Đối phó với quân Chiêm, Đô Tướng Trần Khát Chân đang xuất toàn lực chống đỡ mặt trận Hoàng Giang, vậy mà phải theo lệnh Quý Ly chia một phần binh đội do Tả Thánh Dực tướng quân Hoàng Phụng Thế cầm đầu do sông Miệt Giang (khúc sông nối Hoàng Giang và Hát Giang) về dẹp Phạm Sư Ôn giữa lúc họ Hoàng đang cầm cự với tướng Chiêm là La Khải. Phụng Thế khai lòng sông cho tuyền tiến lên đánh úp được quân giặc. Bị đánh và bao vây bất ngờ Sư Ôn, Khả Hành và Nguyễn Mại bị bắt rồi bị giết cả.
Cuộc nổi loạn này cáo chung thì cái oai quyền của nhà chùa đối với dân chúng và các nhà cầm quyền cũng không còn mảy may nào nữa.

1- Chế Bồng Nga Tử Trận
Trên đây đã có nói vụ loạn Phạm Sư Ôn nổ bùng ra đồng thời với việc quân Chiêm tấn công vào nước ta từ Thanh Hóa trở ra. Giai đoạn đầu quân Chiêm giữ được ưu thế. Quân của Quý Ly đóng ở Cổ Võ đóng cọc ngăn sông, giữ được 20 ngày. Giặc giả vờ rút quân nhưng bên trong thì cho thi hành kế phục binh. Quý Ly đem hết quân thủy bộ đuổi theo bị giặc ùa ra đánh phá, giết được quân ta rất nhiều. Quý Ly chạy về Kinh, tì tướng là Nguyễn Đa Phương và Phạm Khả Vĩnh ở lại chống nhau với quân Chiêm ở Ngu Giang nhưng thấy thế giặc mạnh giả tảng dàn thuyền chiến để đánh nhưng đến đêm rủ nhau rút lui hết.
Qua tháng một, giặc lại uy hiếp ở mạn Hoàng Giang. Đô tướng quân Trần Khát Chân được cử đi chống nhau với giặc. Vua tôi cùng khóc giữa lúc quân tiến lên đường. Khát Chân đến Hoàng Giang không tìm được căn cứ thuận tiện liền xuống đóng ở Hải Triều (thuộc địa phận Hưng Nhân tỉnh Thái Bình).
Tháng giêng năm Canh Ngọ (1390) Chế Bồng Nga dẫn hơn 100 chiến thuyền tiến lại gần địa điểm của ta để dò xét trận thế. Một tên đầy tớ của họ Chế vì bị tội, trốn sang bên ta chỉ rõ thuyền của Chế đang đứng thị sát. Khát Chân liền tập trung hỏa lực bắn vào thuyền của Chế Bồng Nga. Chiêm Vương trúng đạn bị chết, quân ta ùa ra đánh. Quân Chiêm bỏ chạy hết. Đầu Chế Bồng Nga được cắt đem về dâng vua. Thượng Hoàng tự ví mình như Hán Cao Tổ thay đầu Hạng Vũ. (!)
Tướng Chiêm La Khải đem xác Chế Bồng Nga hỏa táng rồi thu quân về nước chiếm ngôi vua. Hai người con của Chế Bồng Nga chạy sang hàng nhà Trần được phong tước hầu.
Tháng chạp năm Giáp Tuất (1394) Thượng Hoàng Nghệ Tông qua đời, tính ra Ngài trị vị được 3 năm, làm Thượng Hoàng 27 năm, thọ 74 tuổi.
Phê bình Nghệ Tông tác giả Việt Nam Sử Lược viết:
"Nghệ Tông là một ông vua rất tầm thường: chí khí đã không có, trí lực cũng kém hèn, để cho kẻ gian thần lừa đảo, giết hại cả con cháu họ hàng, xa bỏ kẻ trung thần, nghĩa sĩ; cứ yêu dùng một Quý Ly cho nhiều quyền thế đến nỗi làm xiêu đổ cơ nghiệp nhà Trần.
Dầu rằng đến khi vận nước đã suy, không có điều này cũng có điều nọ tựa hồ người đã già không phải bệnh nọ thì cũng mắc bệnh kia, nhưng cứ sự thực mà xét thì cũng vì vua Nghệ Tông cho nên cơ nghiệp nhà Trần mới mất về tay Quý Ly, mà cũng vì sự rối loạn ấy cho nên giặc Minh mới có cớ mà sang cướp phá nước Nam trong 20 năm trời".
Lời phê bình này chỉ căn cứ vào những việc đã xảy ra theo điều tai nghe mắt thấy và có thể áp dụng vào trường hợp của bất cứ một ông vua nào khi một vương triều đến lúc suy mạt; đại khái mấy ông vua cuối cùng của nhà Lý, cũng như mấy vị hoàng đế chót của nhà Trần cho tới sau này con cháu của vua Lê Thái Tổ đều cũng vì những chỗ bất tài, bất lực mà mất ngôi. Định luật của lịch sử cũng như công lệ của Tạo Vật không ra ngoài nguyên tắc "Ưu thắng liệt bại", như vậy thiết tưởng việc phê bình những ông vua bất lực không khỏi là làm một sự nhàm thường vô vị. Một vấn đề cần phải suy xét là cơ cấu của nền quân chủ Việt Nam về phương diện tổ chức và điều hành cùng mọi ảnh hưởng và mối tương quan của nó với đời sống của nhân dân qua lịch trình tiến hóa của dân tộc, chúng tôi sẽ xin bàn tới trong những trang dưới đây rồi do đó chúng ta sẽ thấy vì sao những ông vua cuối cùng của hầu hết các vương triều đã là nạn nhân của các chuyện đa đoan, bi thảm.

2- Cuộc Cách Mạng Của Hồ Quý Ly
Hồ Quý Ly xuất thân chỉ là Chỉ Hậu Chánh Trưởng, một chức quan hầu trong cung điện, tháng 5 năm Tân Hợi (Thiệu Khánh thứ hai - 1371) dưới đời Nghệ Tông. Bước tiến trên hoạn lộ của họ Hồ đã nhanh như gió, chẳng bao lâu Quý Ly được thăng tới chức Đại Sứ Khu Mật và được kết duyên với em gái vua là Huy Ninh Công Chúa, vợ góa của tông thất Trần Nhân Vinh.
Tháng chín năm ấy Quý Ly được cử đi vỗ yên dân Nghệ An và được gia phong Trung Tuyên Quốc Thượng Hầu.
Tháng giêng năm Ất Mão (Long Khánh thứ ba - 1375) Duệ Tông cử Quý Ly kiêm chức Tham Mưu quân sự được toàn quyền định đoạt các việc quân và xếp đặt các thứ vị về võ, chỉ huy từ các tông thất trở xuống.
Năm Bính Thìn (1376) tháng chạp, cùng Duệ Tông đi đánh Chiêm, Quý Ly đảm nhận việc đôn đốc lộ Nghệ An, phủ Tân Bình, các châu Thuận, Hóa, vận lương thực cho quân đội đến cửa bể Di Luân (thuộc Quảng Bình).
Tháng giêng năm Kỷ Mùi (năm Xương Phù thứ ba - 1379) dưới đời vua Đế Nghiễn (Hiễn) Quý Ly thăng chức Tư Không kiêm Khu Mật Đại Sứ.
Tháng hai năm Canh Thân (1380) Chiêm Thành cướp phá mấy tỉnh đường trong, Quý Ly lĩnh thủy quân, Đổ Tử Bình lĩnh lục quân đi dẹp. Quý Ly đại thắng quân Chiêm ở Ngu Giang (phân lưu sông Mã nay thuộc phủ Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa). Đỗ Tử Bình cáo ốm trả binh quyền. Quý Ly giữ luôn cả lục quân với danh hiệu Đô Thống Chế đạo Hải Tây.
Tháng ba năm Đinh Mão (1387), Quý Ly thăng chức Đồng Bình Chương Sự (tể tướng) được Nghệ Tông ban cho cờ kiếm đề hai câu: "Văn võ toàn tài, quân thần đồng đức".
Tháng hai năm Giáp Tuất (năm Quang Thái thứ bảy - 1394) dưới đời vua Thuận Tông, Thượng Hoàng Nghệ Tông cho vẽ tranh Tứ Phụ ca tụng Quý Ly (Tranh Tứ Phụ vẽ bốn người hiền đời xưa có tài đức giúp vua giúp nước là Chu Công giúp vua Thành Vương nhà Chu, Hoắc Quang giúp vua Chiêu Đế nhà Hán, Gia Cát Lượng giúp vua Hậu Chúa nhà Thục Hán, và Tô Hiến Thành giúp vua Cao Tông nhà Lý).
Tháng hai năm Ất Hợi (Quang Thái thứ tám - 1395) đời Thuận Tông, Quý Ly lên chức cao hơn hết trong triều đình là Nhập Nội Phụ Chính Thái Sư Bình Chương Quân Quốc Trọng Sự, tước Tuyên Trung Vệ Quốc Đại Vương.
Tháng ba năm Mậu Dần (Quang Thái thứ mười một - 1398) Quý Ly tự xưng là Khâm Đức Hưng Liệt Đại Vương Quốc Tổ Nhiếp Chính.
Xét cái niên biểu trên đây, Quý Ly tiến nhanh không thể nói được và cũng không hề bao giờ bị giáng trong 27 năm, được Nghệ Tông và các vua nhà Trần trọng dụng mặc dầu gặp nhiều lực lượng phản động rất mạnh mấy phen định lật nhào họ Hồ trên cái thang danh vọng.
Ta hãy kiểm điểm những công việc Quý Ly đã làm để có một ý niệm xác đáng về nhà chính trị đó.
Cải Cách Chính Trị
Họ Hồ vừa bước chân vào trường chính trị đã để ý ngay tới việc cải cách quốc gia trên mọi địa điểm. Có xét kỹ chương trình cải cách của họ Hồ từ 1374, mới hiểu tình trạng nước ta vô cùng khó khăn và nguy quẫn vào cuối thế kỷ thứ XIV. Và cũng nhân đó ta mới thấy họ Hồ trong 27 năm quyền khuynh thiên hạ đã không hẳn được ngồi yên để hưởng công danh phú quý. Sự thật họ Hồ đã làm việc rất nhiều và có thiện chí đưa nước nhà đến chỗ hùng mạnh; nhất là họ Hồ có con mắt tinh đời trước cái nạn cường lân, ngoại địch khi đó đang đe dọa trước mắt. Chỉ tiếc rằng trong 27 năm họ Hồ cầm chính quyền gặp nhiều trở lực nên các việc cải cách đã có nhiều phen bị ngưng trệ và sau khi lên ngôi tuy nhà Hồ vẫn xúc tiến các cuộc cách mạng quốc gia nhưng chưa được bao năm thì bị sụp đổ.
Đối với xã hội Việt Nam, một xã hội hoàn toàn nông nghiệp, xã thôn là nền tảng. Chế độ và tổ chức xã thôn xuất hiện từ đời Trần có đầy đủ nguyên tắc dân chủ vì xã thôn có những quy lệ riêng do các phong tục, tập quán được nhân dân tôn trọng, cấu tạo. Nó là ý dân ở từng địa phương một Nó đã gây nên một chế độ tiểu quốc gia trong một quốc gia và đã xây dựng được nền tự trị của nó về kinh tế, chính trị cũng như văn hóa. Câu "phép vua thua lệ làng" đủ tỏ cái uy tín của xã thôn đối với nhân dân Việt Nam, cũng như đối với các nha đương đạo, nhất là các xã thôn (đại tiểu, tư xã, đại tư xã, tiểu tư xã) lại do các quan từ lục phẩm trở lên là những người có học cầm cương nẩy mực. Xã thôn có nhiều uy quyền nên đã phát triển được mọi sáng kiến mà vì đó nhiều tục lệ của xã thôn được các nhà đương đạo mặc nhiên công nhận.
Nhưng từ đời Nghệ Tông chế độ xã thôn cũng vì hoàn cảnh chung đời bấy giờ mà sinh ra nhiều sự đồi tệ. Quý Ly bỏ các ty xã, đặt chức quản giáp cũ thay thế, để việc cai trị bớt tính cách phân quyền và tránh cho nhân dân nhiều điều phiền phức.
Vừa lên chức Khu Mật Đại Sứ, Quý Ly đã đi kinh lý toàn hạt Nghệ An xem xét tình dân, rồi tháng 8 năm sau xin chiếu bắt các lộ làm sổ trướng tịch.
Tháng tư năm Đinh Sửu (Quang Thái thứ 10 - 1397) triều Thuận Tông, Quý Ly đổi các lộ ra trấn:
- Thanh Hóa đổi ra Thanh Đô trấn.
- Quốc Oai đổi ra Quảng Oai trấn.
- Đà Giang đổi ra Thiên Hưng trấn.
- Nghệ An đổi ra Tân An trấn.
- Trường An đổi ra Thiên Quan trấn.
- Diễn Châu đổi ra Vọng Giang trấn.
- Lạng Sơn phủ đổi ra Lạng Sơn trấn.
- Tân Bình phủ đổi ra Tân Bình trấn.
Cai trị các trấn vẫn là các An Phủ Chánh Phó Sứ. Phủ đặt chánh phó Trấn Phủ Sứ. Châu đặt Thông Phán, Thiêm Phán; Huyện đặt Lệnh Úy, Chủ Bạ. Lộ coi phủ, phủ coi châu, châu coi huyện. Lộ nào cũng phải lập sổ sách về việc đinh, điền, tiền, thóc, kiện tụng. Cuối năm phải đệ trình về Kinh để xét lại.
Tháng ba năm Canh Thìn (Kiến Tân thứ ba - 1400) đời Thiếu Đế (lúc này họ Hồ đã thay họ Trần) Quý Ly đặt chức Liêm Phòng Sứ ở mỗi lộ để bí mật kiểm soát hành vi của các quan lại và dân tình không khác gì chức thanh tra chính trị và hành chính ngày nay. (Nhân đây cần phải nhắc rằng Quý Ly rất nghiêm đối với những kẻ vi phạm luật pháp và  thượng  lệnh.  Tỷ  dụ:  Trong  trận  Ngu  Giang,  Quý  Ly  phái  Thần    tướng  quân Nguyễn Kim Ngao, Thị Vệ tướng quân Đỗ Dã Kha tiến đánh giặc Chiêm. Kim Ngao thấy giặc mạnh quay thuyền trở lại. Tức thì Quý Ly cho chém đầu Kim Ngao để nghiêm quân luật trước sĩ tốt. Trận ấy quân ta thắng Chế Bồng Nga và từ đó Quý Ly chiếm cả quyền Thống Chế Binh Vụ của Đỗ Tử Bình).
Trước năm Bính Tí (1396) theo đề nghị của Vương Như Chu, Quý Ly cho chỉnh đốn lại phẩm phục của các quan:
Về áo:
Nhất phẩm mặc áo tím Nhị phẩm mặc áo đỏ tươi Tam phẩm mặc áo hồng Tứ phẩm mặc áo lục
Ngũ, lục, thất phẩm mặc áo sắc biếc Bát, cửu phẩm mặc áo sắc xanh
Về mũ:
Các quan văn từ lục phẩm trở lên đội mũ Cao Sơn. Võ từ lục phẩm lên đội mũ Triết Sung. Tông thất đội mũ Phương Thắng đen. Chức cao mà không có tước phong đội mũ Giốc Đinh. Thất phẩm đội mũ Thái Cổ. Tòng Thất phẩm đội mũ Tân Hoa; Vương Hầu đội mũ Viên Du, Ngự Sử Đài đội mũ Khước Phi (chưa khảo rõ được hình thức các thứ mũ). Do chỗ cải cách nầy ta hiểu về phẩm phục trước đời Quý Ly chưa có thứ tự. Việc này tuy không quan trọng nhưng tỏ rằng Quý Ly không những chỉ lo các việc lớn mà còn nghĩ đến cả việc nhỏ.

Cải Cách Quân Sự
Ngay từ tháng 8 năm Quý Sửu (Long Khánh nguyên niên - 1374), Quý Ly đã cho sửa đổi lại việc quân, đóng nhiều chiến thuyền và tuyển mộ trai tráng chia làm ba hạng sung vào quân dịch. Để tránh việc ẩn lậu, Quý Ly cho làm sổ hộ tịch ghi tên những người từ 2 tuổi trở lên. Số người có thể động viên (từ 15 tuổi đến 60) hơn gấp mấy phần lúc trước.
Cũng ngày này năm sau đặt thêm quân hiệu: trước kia quân Túc Vệ chia ra làm bốn Thiên, bốn Thánh, bốn Thần nay đặt thêm các quân Uy Tiệp, Bảo Tiệp, Long Dực, Thần Dực, Điện Hậu phân biệt bằng các mầu sắc trên trán như sau:
Quân Túc Vệ trán vẽ đen, quân mới tuyển trán nhuộm tím. Thanh Hóa, Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hóa đặt quân hiệu riêng.
Tháng giêng năm Mậu Ngọ (Xương Phù thứ hai - 1378) những người khoẻ mạnh, am hiểu võ nghệ được lựa làm Vệ sĩ giám đốc việc quân. Trần Ngoạn được cử làm quản quân Thiên Đình, Bùi Hấp quản quân Thiên Uy, Hoàng Phụng Thế quản quân Thánh Dực, Trần Thế Đăng quản quân Thần Dực, Bùi Bá Ngang quản quân Thần Sách, Nguyễn Kim Ngao quản quân Thần Vũ, Trần Trung Hiếu quản quân Bảo Tiệp, Trần Bang quản quân Thị Vệ, Nguyễn Tiểu Luật quản quân Thiên Trường, Nguyễn Bát Sách quản quân Thiết Sang, Nguyễn Văn Nghê quản quân Thiết Giáp, Nguyễn Hộ Lê quản quân Thiết Liêm, Nguyễn Khánh Dư quản quân Thiết Hộ, Trần Quốc Hưng quản quân Ô Đồ.
Quý Ly lại đặt thêm chức Đô Đốc, Đô Hộ, Đô Thống, Tổng Quản, Thái Thú bên cạch các Anh Phủ Chánh Phó Sứ các lộ, các phủ. Hồi đó con trai Hồ Quý Ly là Hồ Hán Thương lĩnh chức Đông Đô Đô Hộ Phủ; Thái Bảo Trần Nguyên Hãng lĩnh Bắc Giang Đô Thống Phủ; Trần Nguyên Trữ lĩnh Tam Giang Đô Thống phủ, Thiếu Bảo Vương Nhữ Chu coi mọi việc quân dân Thiên Trường phủ; Hành Khiển, Hà Đức Lân kiêm Thái Thú Tân An phủ.
Dưới đời Hồ Hán Thương, Nam Bắc phân ra làm 12 vệ. Đông Tây phân làm 8 vệ. Mỗi vệ có 18 đội. Mỗi đội có 18 người. Đại quân có 30 đội. Trung quân có 20 đội. Mỗi doanh có 15 đội. Mỗi đoàn có 10 đội. Còn những Cấm vệ thì chỉ có 5 đội do một đại tướng thống lĩnh. Tổng số quân đời bấy giờ có chừng 10 vạn.
Về thủy quân để đề phòng các ngã sông và các cửa bể. Quý Ly hạ lệnh cho các địa phương đóng cọc gỗ để chặn đường tiến của giặc và cho sửa lại các chiến thuyền theo lối mới gọi là thuyền Cổ Lâu, thứ thuyền lớn đóng bằng sắt ở trên có sàn đi, ở dưới cứ hai người chèo cho chống một dầm, rất tiện việc chiến đấu (1405-1406). Đặt ra bốn kho quân khí tức là xưởng công binh, tuyển các thợ giỏi để chế tạo khí giới.
Đáng để ý, Quý Ly rất lưu tâm từ lâu đến việc mở mang quân đội để bành trướng thế lực của mình và để đề phòng việc ngoại xâm. Quý Ly hiểu rõ nhà Minh thế nào cũng có dịp động binh qua đất Việt dù chính sách ngoại giao của Trần triều thuở đó rất mềm dẻo. Tới khi nắm được hết quyền hành trong tay (1400) Quý Ly thiết lập ráo riết chế độ quân sự khắp nước, biết rằng việc bang giao với Minh triều, sớm muộn sẽ đứt đoạn, chẳng vậy ông thường tỏ lòng thắc mắc với quần thần: "Làm thế nào có nổi trăm vạn quân để chống nhau với giặc Bắc?"
Xét các cuộc va chạm với Chàm dưới toàn thịnh của họ, ta phải công bằng mà nhận rằng năm Canh Thân (Xương Phù thứ tư - 1380), Chế Bồng Nga phải bỏ chạy, và năm Canh Ngọ (Quang Thái thứ ba - 1390) họ Chế phải bỏ mạng trên dòng Hoàng Giang là nhờ ở sự cải cách binh bị và quân kỷ sắt thép của họ Hồ.

Cải Cách Kinh Tế
Các  nhà  trí  thức  khảo  duyệt  hành  động  của  các  nhân  vật  lịch  sử  đều  nhận  rằng những cải cách kinh tế và văn hóa của Hồ Quý Ly là một điều xuất sắc đặc biệt nhất từ xưa đến nay. Lời khen ngợi đó có đúng chăng?
Thuở đó nhà chính trị họ Hồ đã đứng trước một xã hội Việt Nam đầy đói khổ, một chính phủ với kho tàng rỗng tuếch, cuộc khủng hoảng tinh thần và vật chất lan tràn từ triều đường ra tới các nơi dân dã. Bằng cách gì nhà chính trị đó xoay đổi lại thời cục?
Để cứu nạn đói, vì nạn đói sinh ra loạn ly, chính sách quyên thóc được thi hành. Ai có thóc cúng cho Nhà nước thì được phong tước tùy theo chỗ hằng tâm, hằng sản nhiều ít. Năm Kỷ Mão (Long Khánh thứ ba - 1370) có Chiếu bắt buộc các nhà giàu ở các Lộ phải nộp thóc cho Nhà nước đổi lấy tước phẩm.
Để tập trung các tài nguyên quốc gia vào tay chính phủ, Quý Ly cho phát hành tiền giấy vào năm Đinh Sửu (1397) điều chưa hề có ở nước ta từ thượng cổ đến bấy giờ. Tiền giấy tiện lợi cho việc lưu thông và việc thương mại thế nào ai nấy đều biết và ta cũng nên nhớ rằng các tư gia thuở xưa sợ loạn ly hay có thói tích trữ và chôn dấu tiền bạc. Việc đó rất có ảnh hưởng cho nền kinh tế quốc gia đối với bất cứ thời nào. Tiền giấy có 7 hạng:
- Giấy vẽ rêu bể ăn: 10 đồng tiền
- Giấy vẽ sóng nước ăn: 30 đồng tiền
- Giấy vẽ đám mây ăn: 1 tiền
- Giấy vẽ con rùa ăn: 2 tiền
- Giấy vẽ con lân ăn: 3 tiền
- Giấy vẽ con phượng ăn: 5 tiền
- Giấy vẽ con rồng ăn: 1 quan
Ai làm tiền giấy giả phải tội tử hình, tịch thu tài sản. Ai có một quan tiền thực được đổi lấy một quan hai tiền giấy. Tiền đồng phải đem nộp kho đổi lấy tiền giấy. Người nào dấu diếm và mang tiêu sẽ phải tội như người làm tiền giấy giả vậy.
Đồng thời với việc phát hành tiền giấy, Quý Ly ban hành các đồ đo lường (cân, thước, đấu, thưng) để dân gian có độ mực nhất định trong việc buôn bán. Chức Giám Thị được đặt ra để kiểm soát việc buôn bán và các điều luật thương mại, cấm nhân dân tự ý tăng giá hàng và đóng cửa hàng, mục đích tránh nạn đầu cơ, tích trữ và giữ giá trị cho tiền giấy của Nhà nước.
Năm Nhâm Thìn (1401), có lập ra một thứ thuế đánh vào các thuyền buôn. Thuyền buôn chia ra làm ba hạng: hạng nhất phải nộp mỗi chiếc 5 quan, hạng nhì 4 quan, hạng ba 3 quan.
Việc buôn bán hồi đó bắt đầu phát đạt mặc dầu dân chúng vẫn chuyên về nông nghiệp. Năm Mậu Dần (1398) Quý Ly hạ lệnh đo đạt lại ruộng đất, hạn cho các quan lại địa phương phải chu tất việc này trong 5 năm vì nhiều ruộng đất có sự ẩn lậu. Các quan lộ, phủ, châu, huyện phải sức cho các điền chủ khai rõ số ruộng đất mình có rồi biên họ tên vào một cái thẻ cắm trên thửa ruộng. Một Hội đồng gồm các quan địa phương thân hành đến tận nơi kiểm soát và đo lại rồi lập thành điền bạ. Thửa ruộng nào không có người khai sẽ lấy làm công điền (Việc này tiếc thay chưa làm xong thì nhà Hồ đã mất). Do việc đạc điền, Nhà nước thâu được thêm tiền thuế và có thêm một số ruộng công để chẩn cấp cho dân nghèo.

Cải Cách Xã Hội
Trong chương trình cải cách xã hội, Quý Ly còn đi mạnh hơn nữa. Đó là việc phân chia lại điền địa vào năm Đinh Sửu (1397), là năm Quý Ly đã leo lên tới bực chót của cái thang danh vọng. Xét ra, nếu Quý Ly không nắm được ưu thế tuyệt đối về quyền hành thì khó lòng mà thi hành được sáng kiến này.
Có lẽ ông đã nhận thấy chế độ tư hữu tài sản của Trần triều bành trướng quá mạnh đang ảnh hưởng tai hại cho đời sống của dân tộc, do nhân khẩu mỗi ngày tăng gia một nhiều thêm, không có cách gì dẹp yên các mầm loạn hơn là cách hạn chế tư sản để cứu vãn cơm áo của đại chúng. Họ Trần trước đây đã khai sinh ra chế độ Nô, Tỳ, Hoành, là một chế độ nông nô dùng vào việc đắp đê, ngăn nước mặn ngoài biển để mở ruộng lập thành trang trại. Những trang trại đó đã vì mồ hôi nước mắt của dân nghèo mà có thì nay trả lại cho dân nghèo để họ có kế sinh nhai. Nay theo tân sách, trừ các bậc đại vương và trưởng Công chúa, không ai được cấy quá 10 mẫu ruộng. Số ruộng thừa phải nộp cho Nhà nước. Ngoài ra, ai có tội hay bị giáng truất đều được lấy ruộng để chuộc tội, đủ hiểu chính sách cải cách điền địa được áp dụng mọi phương tiện thích nghi và rất rộng rãi.
Đi đôi với việc trên, việc sưu thuế cũng được sửa đổi lại. Mỗi mẫu tư điền theo chế độ cũ (thuế đinh có từ đời Trần) phải nộp 3 thăng thóc. Mỗi mẫu dân nộp từ 7 quan đến 9 quan. Thuế đinh mỗi xuất nhất luật phải nộp 3 quan (theo đề nghị của Đỗ Tử Bình được thi hành từ năm Mậu Ngọ, Xương Phù thứ hai - 1378)
Năm Nhâm Ngọ (1402), họ Hồ định lại: ruộng tư điền mỗi mẫu phải nộp 5 thưng. Ruộng dâu chia làm 3 hạng: hạng nhất đóng 5 quan, hạng nhì 4 quan, hạng ba 3 quan. Thuế thân tùy theo hoàn cảnh riêng của mỗi người. Hạng vô sản và cô nhi, quả phụ được miễn. Hạng có 5 sào, phải nộp 5 tiền giấy. Hạng có từ 6 sào đến 1 mẫu, phải nộp 1 quan tiền giấy. Hạng có 1 mẫu 1 sào đến 1 mẫu 5 sào, nộp 1 quan 5 tiền giấy. Hạngcó 1 mẫu 6 sào đến 2 mẫu phải nộp 2 quan tiền giấy. Hạng có 2 mẫu 1 sào đến 2 mẫu 5 sào phải nộp 2 quan 6 tiền giấy. Hạng có 2 mẫu 6 sào trở lên nộp 3 quan tiền giấy.
Riêng việc sửa đổi về sưu thuế này không có lợi mấy cho dân, trái lại dân chúng phải đóng góp nặng hơn trước. Theo chế độ cũ đã thi hành đến năm Mậu Ngọ (1378), thuế thân vẫn tính theo số ruộng: ai có một hai mẫu ruộng mỗi năm phải đóng 1 quan tiền. Ai có ba bốn mẫu phải đóng 2 quan. Ai có 5 mẫu trở lên phải đóng 3 quan. Nhưng tổng quát mà nói chế độ mới vẫn có lợi cho dân hơn chế độ cũ. Có lẽ từ năm Mậu Ngọ (1378) đến năm Nhâm Ngọ (1402), việc áp dụng đề nghị của Đỗ Tử Bình đã gây nhiều ác cảm trong dân chúng nên Quý Ly có ý cải cách để thu phục lại nhân tâm.
Cùng theo một đường lối với việc cải cách điền địa, Quý Ly hạn chế cả việc dùng dân nghèo làm nô lệ. Ông đã không dung việc lạm quyền của giai cấp phong kiến, quý tộc, quan liêu, chia tay nhau tài sản quốc gia, lẽ tất nhiên ông phải bài trừ nốt việc bóc lột sức lao động của đám dân cùng đường, lỡ bước trở nên tôi mọi.
Xưa kia, các vương tôn, tông thất được thu dụng rất nhiều đầy tớ, nay mỗi nhà quý tộc chỉ được một số tùy theo phẩm trật. Số thừa phải trả lại cho Nhà nước. Đầy tớ được phân biệt bằng các dấu trên trán:
-Đầy tớ của Nhà nước vẽ hỏa châu. Đầy tớ của Công Chúa vẽ dương đương. Đầy tớ của nhà đại vương có một khoanh đỏ. Đầy tớ của các quan nhất, nhị phẩm có một khoanh đen. Từ tam phẩm trở xuống có 2 khoanh đen.
Việc hạn nô này còn có một ý định sâu sắc về chính trị nữa là giảm bớt thế lực của các quý tộc trung thành với họ Trần hay là đám tông thất có quyền lợi sinh tử với vương triều.
Cứu vãn vấn đề dân sinh và nạn nhân mãn ở Trung Châu sông Nhị bấy giờ đang rất nguy ngập bằng cách chia lại ruộng đất, họ Hồ có lẽ chưa thỏa ý, vì cung nhường chưa đủ cho cầu, nên họ Hồ lại di chuyển những dân cùng vào làm ăn các miền đất đai mà chúa Chiêm là Ba Đích Lại thua trận năm Nhâm Ngọ (1402), phải dâng cho nước ta: (đất Chiêm Động và Cổ Lũy). Quý Ly chia hai nơi này ra làm 4 châu: Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa, đặt lộ Thăng-Hoa để chi phối bốn châu. Chỗ giáp giới đất Chiêm thì đặt ra trấn Tân Ninh. Nguyễn Cảnh Chân được làm An Phủ Sứ lộ Thăng Hoa.
Dân nghèo được tổ chức thành đoàn như quân đội, đưa cả vợ con đi theo, chia nhau chiếm hữu các nơi đất mới để khẩn hoang và lập nghiệp. Họ phải thích ở trên cánh tay tên châu mình trú ngụ. Vấn đề trâu bò cũng được giải quyết: Ai nộp cho Nhà Nước trâu bò để cấp cho di dân đều được ban phẩm tước.
Năm Quý Mùi (1403), Quý Ly lập Quảng Tế Thự (tức là bệnh viện của chính phủ ngày nay) để chữa bệnh cho mọi người. Nguyễn Đại Năng là một thầy chuyên môn về khoa châm cứu được cử ra trông nom.
Để giải quyết nạn đói sau những vụ giặc giã, lụt lội, hạn hán, Quý Ly cho lập ở mỗi lộ một kho thóc gọi là kho Thương Bình (theo kiểu kho của quan lại Tư Nông đời Hán Tuyên Đế, 73-49 trước Công Lịch), lấy tiền công mua thóc lúa lúc giá hạ rồi bán rẻ cho dân lúc khó khăn hoặc đem chẩn cứu cho dân cùng. Hơn nữa, triều đình còn sức các lộ quan kiểm điểm số thóc của các đại điền chủ rồi đứng ra bán cho dân, dĩ nhiên Nhà nước định một giá hợp với hoàn cảnh của các người túng thiếu.
Ngoài ra, ở các miền bể, triều đình cho đắp đê ngăn cản nước mặn để lấy thêm ruộng đất cho dân và khai thác các bến, các sông vùng Thanh Hóa, Nghệ An cho sự chuyên chở, buôn bán thêm phần thuận tiện.

Cải Cách Văn Hóa
Nho Giáo và tư tưởng của các hiền giả Trung Quốc từ Lý qua Trần được dân ta hết sức suy tôn. Chữ Nho giữ một ưu thế đặc biệt trong văn học và các giấy tờ hành chánh. Chữ Nôm dưới đời Trần mới chỉ được dùng trong các thi ca mà thôi.
Cờ đến tay, Quý Ly vốn có tinh thần cải cách và óc độc lập, tự tin liền đề cao vai trò của văn chương quốc âm và dám lật nhào cả những lý thuyết bất khả xâm phạm qua bao nhiêu thế kỷ của các thánh hiền Trung Quốc.
Năm Đinh Mão (Xương Phù thứ mười một, 1387), được Thượng Hoàng Nghệ Tông ban cờ kiếm, Quý Ly làm một bài thơ Nôm để tạ ơn. Năm Kỷ Hợi, Quang Thái thứ mười tám - 1394, Quý Ly dịch thiên Vô Dật trong Kinh Thi là thiên chép lời của Chu Công ra quốc âm để dạy vua Thuận Tông. Năm Đinh Sửu (1396), Quý Ly dịch xong pho Kinh Thi dạy các nữ quan, hậu phi và cung nữ. Ông bỏ bài tựa của Chu Hy ở đầu sách rồi đề bài tựa của mình, đại ý nói sách ấy dịch và giải thích theo ý kiến riêng của ông. Ông lại soạn ra sách Minh Đạo (đề sáng tỏ đạo Nho) dâng lên Nghệ Tông năm Nhâm Thân (Quang Thái thứ năm 1392), đáng kể là một cuốn sách phê bình triết học đầu tiên ở nước ta sau này, gồm 14 thiên khen Chu Công hơn Khổng Tử, tôn Chu Công làm bậc tiên thánh, Khổng Tử làm Tiên Sư và nêu 4 chỗ đáng ngờ:
a) Khổng Tử đến chơi nhà nàng Nam Tử.
b) Khổng Tử hết lương ở nước Trần.
c) và d) Công Sơn Phất Nhiễu, Phất Bạt với Khổng Tử, Khổng Tử muốn đi.
Cũng trong sách này, Quý Ly kết tội Hàn Dũ, một danh sĩ đời Đường, đã bài Phật rất kịch liệt là "Đạo Nho" (nhà nho ăn trộm) và cho rằng các hiền giả đời Tống (như Chu Mậu Phúc hiệu Liêm Khê, Trình Hiếu, Trình Di, Dương Thì, Lý Duyên Niên, La Trọng Tố, Chu Tử (tức Chu Hy hiệu Hối Am) có học rộng nhưng tài thường, không có tinh thần thực tế, chỉ chuyên nghề cắp lột văn chương tư tưởng.
Ông Chu Thiên cho rằng chiếc roi mà họ Hồ đã quật vào mặt các nhà hiền giả kể trên có điều oan uổng vì họ Hồ quá thiên về thực hành mà quên mất điều trọng là hoàn cảnh thực tại chi phối các hiền giả đó. Muốn sao, ta cũng phục họ Hồ có một tinh thần độc lập, chịu suy xét, dám tự tin, dám hoài nghi, không a dua hót bậy, nịnh sằng như đám nho sĩ trước và sau đấy chẳng riêng gì ở Việt Nam. Nếu trong tư tưởng giới của ta hay của Trung Quốc có nhiều nhân vật lỗi lạc như họ Hồ, có lẽ văn minh, học thuật Á Đông còn rạng rỡ hơn nữa.
Năm Đinh Sửu (1387), Quý Ly cũng sửa đổi việc học hành. Ông lại bỏ lối kén nhân tài bằng khoa cử mà bằng lối tuyển cử.
Họ Hồ đặt ra ngạch học quan, xét việc học chỉ có tổ chức ở kinh thành, mà ở các châu, huyện thì hoàn toàn thiếu sót. Ông sức cho các lộ Sơn Nam, Kinh Bắc, Hải Đông, mỗi phủ, châu, phải đặt một viên học quan lo việc giáo hoán thanh niên. Nhà nước trích hoa lợi ruộng công cung cấp một phần vào việc học hành, đèn sách, một phần làm lễ sóc theo tỉ lệ: phủ, châu lớn 15 mẫu, phủ, châu vừa 12 mẫu, phủ, châu nhỏ 10 mẫu.
Các lộ quan phải liên lạc mật thiết với các học quan để xúc tiến việc giáo dục. Mỗi năm phải kén người giỏi tiến Kinh để vua thân ra bài thi và tuyển lựa làm quan.
Nhưng đến năm 1397, tức năm Quang Thái thứ 9, có lẽ việc tuyển cử không thuận tiện nên Quý Ly đành trở lại lối thi cử dưới đây. Trước đó việc thi không có định thể, nay Quý Ly định làm tứ trường văn thể mà bỏ phép Ám Tả: trường đệ nhất làm bài Kinh Nghĩa có đủ mấy đoạn: phá đề, tiếp ngu, tiểu giảng, nguyên đề, đại giảng, triết kết, hạn từ 500 chữ trở lên. Trường đệ nhị có thơ phú (một bài thơ Đường Luật, một bài phú cổ thể) cũng từ 500 chữ trở lên. Trường đệ tam ra chiếu, chế, biểu (chiếu dùng thể văn đời Hán, chế biểu dùng lối văn tứ lục đời Đường). Trường đệ tứ thi văn sách, hỏi kinh sử hay thời vụ, hạn 1000 chữ trở lên. Ngoài ra, cứ thi Hương năm trước thì thi Hội năm sau. Các thí sinh trúng tuyển còn phải qua một kỳ văn sách nữa do chính nhà vua ra đầu đề để định trên dưới.
Đến năm Giáp Thân (1400), là khi nhà Hồ đã ra đời, việc thi lại sửa đổi nữa. Họ Hồ đặt thêm một trường nữa để thi viết và làm toán pháp. Đó là kỳ chung kết. Những người đã đỗ Hương Thí, sang năm phải qua bộ Lễ thi lại, có đỗ mới được tuyển dụng rồi năm sau nữa mới thi Hội. Vượt được kỳ thi này mới được là Thái Học Sinh. Những người đỗ Hương Thi được miễn phu phen, tạp dịch, năm sau phải thi lại ở bộ Lễ nếu trúng tuyển được bổ chức quan nhỏ. Việc cải cách về thi cử này, có lẻ đã phỏng theo lề lối của nhà Nguyên...
Đứng trước những việc cải cách trên đây, ai đọc sử hay nghiên cứu Lịch sử nước nhà đều  nhận  thấy  Hồ  Quý  Ly    một nhân vật có kỳ tài, có óc thông minh thực tế phi thường, có đức tính cương quyết và nhẫn nại.
Trên khắp mọi địa hạt, không những ông có nhiều sáng kiến, ông lại có một tinh thần cấp tiến mạnh mẽ, hướng về đại chúng nó làm ông xa hẳn những người đương thời, nhất là giới quý tộc, phong kiến đã vì những việc cải cách trên đây mà căn thù ông kịch liệt.

Cuộc Đảo Chính của Hồ Quý Ly
Tháng giêng năm Đinh Sửu (Quang Thái thứ mười 1397) Quý Ly cho khởi công việc xây thành Tây Đô ở động Yên Tôn (nay còn dấu vết ở huyện Vĩnh Lộc, tục gọi là Tây Giai), lập miếu xã, mở mang phố phường rồi thiên cả triều đình vào kinh đô mới. Các dân hạt Từ Liêm, Nam Sách phải vận tải gạch, ngói, gỗ, lạt, đến Tây Đô.
Việc thiên đô này cần cho sự thoán đoạt được dễ dàng, có lẽ vì Tây Đô địa thế hiểm trở, tiện đường hành quân lui tới theo dọc Trường Sơn hoặc muốn dễ xa dư luận sĩ phu Bắc Hà lòng còn quyến luyến họ cũ, lại có thể dễ đề phòng họa xâm lăng của nhà Minh nữa bởi Thăng Long ở giữa đồng bằng không lợi cho cuộc kháng chiến với giặc mạnh. Ngay tháng 10 năm ấy, nhân vua Thuận Tông ngự giá yết lăng ở An Sinh (Đông Triều), Quý Ly cho lệnh dong thuyền thẳng vào sông Đại Lai. Giờ đó làm thế nào cho việc thay bậc đổi ngôi được êm dịu, nhất là lời thề cùng vua Nghệ Tông tháng tư năm Giáp Tuất (1394) còn văng vẳng43.
Quý Ly liền lợi dụng đạo sĩ Nguyễn Khánh vào cung thuyết vua Thuận Tông nên đi tu tiên để lánh việc đời đầy hệ lụy. Vua Thuận Tông nghe theo, truyền ngôi cho Hoàng Thái Tử Án, sau lời Chiếu ban hành vào tháng ba năm Mậu Dần (1398) đại ý như sau:
"Trẫm sớm hâm mộ trận gió huyền, không có lòng ở chốn nhà vàng, đức bạc mà giữ ngôi cao, khó lòng kham nổi. Huống chi bệnh tim thường cứ phát luôn có phương hại đến  tông     chính  trị.  Lời  thề  buổi  trước,  quỷ  thần  đều  đã  nghe  thấy  nên  nay nhường ngôi để nối lâu dài nền lớn. Hoàng Thái Tử Án lên ngôi vua, có Phụ Chính Thái Sư Lê Quý Ly lấy địa vị Quốc tổ nhiếp chính. Trẫm tư làm Thái Thượng Nguyên Quân Hoàng Đế, ăn chay ở cung Bảo Thanh, cho thỏa lời nguyền thuở trước".
Thái Tử Án bấy giờ mới lên ba.
Rồi Thuận Tông cũng không ra ở cung Bảo Thanh nữa, ngài dời ra ở Ngọc Thanh Quan, thuộc huyện Đông Triều, tỉnh Hải Dương. Tháng tư năm sau (1399) nội tẩm học sinh là Nguyễn Cẩn được Quý Ly sai ra giết. Thấy Nguyễn Cẩn có cử chỉ khác thường, Thuận Tông chột dạ hỏi:
-Mày ra  chầu ta có ý định gì?
Nguyễn Cẩn không nỡ nói ra điều y phải làm và cũng không đành lòng ra tay. Quý Ly liền đưa thư ra cho Cẩn nói:
"Nguyên Quân không chết, mày sẽ chết thay", Cẩn phải dâng thuốc độc. Thuận Tông uống cũng vẫn không chết. Sau đến Xạ Kỵ tướng quân Phạm Khả Vĩnh đến thắt cổ Thuận Tông mới xong.
Nhà Trần đến đây là hết, sau 175 năm ở ngôi với 12 đời vua.
43 Nghệ Tông vào năm tháng cuối cùng cũng có ý lo Quý Ly cướp ngôi, sai thợ vẽ tranh tứ phụ tỏ ý ca ngợi và mong Quý Ly giúp dòng họ mình như Chu Công, Hoắc Quang, Gia Cát Lượng và Tô Hiến Thành. Tháng tư năm Quang Thái thứ bảy, lễ hội thề xong, Nghệ Tông bảo Quý Ly: Bình Chương là họ thân, việc lớn nhỏ của nước nhà đều được ủy hết. Nay nước đang suy nhược, trẩm lại già yếu nếu quan gia có thể giúp được thì giúp, bằng tầm thường ngu tối thì Khanh tự làm lấy!
Quý Ly cỡi mũ, dập đầu khóc tạ, chỉ lên trời thề:
- Hạ thần không hết lòng giúp vua giúp nước xin trời chu bất diệt!... Xin bệ hạ soi xét lòng thần, chớ quá lo xa vậy!

Phần 3 - Chương 8
Nhà Hồ (1400-1407)
(Một Khúc Quanh Của Lịch Sử Việt Nam)
- Hồ Quý Ly (1400)
- Hồ Hán Thương (1400-1407)

I. Hồ Quý Ly (1400)
Năm sau, tháng hai năm Canh Thìn (Kiến Tân thứ ba 1400) Thiếu đế Án bị bỏ và giáng xuống làm Bảo Ninh đại vương. Quý Ly không giết vì Án là cháu ngoại. Nhưng trước khi bước lên ngai vàng Quý Ly còn dùng đủ hình thức để che mắt thiên hạ:
a) Thiếu đế tự ý nhường ngôi
b) Triều thần ba lần dâng biểu xin tấn tôn.
Quý Ly lên ngôi lấy hiệu là Thành Nguyên, đổi họ Lê ra họ Hồ, đặt quốc hiệu là Đại Ngu. Cuối năm ấy Quý Ly nhường ngôi cho Hán Thương để lên làm Thượng hoàng như các vua nhà Trần thuở trước.
Tại Chiêm Thành, vua Chiêm là La Khải mới mất, con là Ba Đích Lại lên nối ngôi. Quý Ly cử Đỗ Mãn mang thủy quân, Trần Tùng lĩnh lục quân, binh sĩ tất cả là 15 vạn, nhân dịp này đánh Chiêm.
Hai cánh quân thủy, bộ không tiến đúng nhịp nên không tiếp ứng được cho nhau. Lục quân thiếu lương phải rút lui. Trần Tùng bị đàn hặc về việc này và phải đày làm lính. (theo tài liệu trong Việt Nam Sử Lược). Về đoạn này ông Chu Thiên trong cuốn "Chính Trị Hồ Quý Ly" viết: "Nguyên năm trước, Hán Thương sai Phạm Nguyên Khôi và Đỗ Mãn đánh Chiêm. Chúa Chiêm dâng hai thớt voi để cầu hoãn binh rồi lại đi tâu gian với nhà Minh. Hán Thương phải khiến Phan Hòa Phủ đem hai thớt voi đó sang cống vua Tàu..."
Âm Mưu Trừ Quý Ly Thất Bại Lần Thứ Hai
Thượng hoàng Thuận Tông bị hạ sát đã xúc động hết sức dư luận sĩ phu và dân chúng trong nước, ngay cả những người trong hàng ngũ của Quý Ly xưa nay đã ủng hộ nhiệt liệt các việc cải cách của Quý Ly.
Một số trung thần của họ Trần hợp nhau âm mưu trừ họ Hồ, đứng đầu là Thái bảo Trần Nguyên Hãng và Thượng tướng Trần Khát Chân, người đã có công giết Chế Bồng Nga trên sông Hoàng Giang. Họ đã dự định khởi sự vào ngày Hội Thề ở Đốn Sơn (thuộc làng Cao Mật, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Vì kinh đô ở đất Thanh, nên việc hội thề cũng phải dời chỗ).
Quý Ly lên lầu nhà Trần Khát Chân để xem đàn thề dùng đủ nghi vệ thiên tử. Thích khách là Phạm Tổ Du và Phạm Ngưu Tất mang kiếm lên theo. Khát Chân trừng mắt, hai người không dám quyết. Quý Ly nhác thấy chột dạ liền đứng ngay dậy đòi các vệ sĩ ủng hộ xuống lầu.
Ngưu Tất hoảng hốt quăng kiếm xuống đất kêu:
- Việc hỏng mất rồi, cả lũ đến chết uổng mạng.
Tức thì có lệnh bắt tất cả 370 người trong đó có nhiều nhân vật quan trọng như: Thái bảo Trần Nguyên Hãng, Trụ quốc Trần Nhật Đôn, Thượng tướng Vũ Tiết Hầu Trần Khát Chân, Thánh Dực tướng quân Phạm Khả Vĩnh, Thượng Thư Hà Đức Lân, Hành khiển Lương Nguyên Bưu, Bảng nhỡn Lê Hiến Phủ và bọn Phạm Ông Thiên, Phạm Tổ Du, Phạm Ngưu Tất.
Rồi máu chảy xương rơi, việc bắt bớ kéo dài hàng năm chưa hết. Cuộc khủng bố lan tràn ra khắp nơi, đến nỗi dân chúng khi đi ngoài đường gặp người quen biết chỉ lấy mắt chào nhau mà không dám đứng lại nói chuyện. Từ giờ phút này mọi mầm phản động trong nước đều tắt hết. Quý Ly chỉ còn lo đối ngoại mà thôi.
II. Hồ Hán Thương (1400-1407)
Sau việc nhường ngôi cho Hán Thương, việc quan trọng và cấp bách nhất của Quý Ly là giao thiệp với nhà Minh. Quý Ly vốn là người rất sáng suốt nên đã tiên liệu mọi việc nhất là vấn đề Bắc triều là vấn đề mà vị Hoàng đế nào của Việt Nam cũng phải lo lắng đến. Quý Ly cho sứ sang nói với nhà Minh rằng con cháu họ Trần không còn ai nữa, nay xin cho Hán Thương lấy danh nghĩa là cháu ngoại thay thế.
Năm Quý Mùi, tức năm Khai Đại đầu tiên (1403) nhân Minh Thành Tổ lên ngôi, Hán Thương sai sứ sang mừng và xin tấn phong. Thành Tổ cho Dương Bột sang nước Nam điều tra hư thực. Quý Ly cho các quan viên phụ lão làm tờ khai đúng như luận điệu của sứ giả trước đây qua Bắc triều, Thành Tổ không còn cớ gì để từ chối nên phong cho Hán Thương làm An Nam quốc vương.
Năm Nhâm Ngọ (1402) Đỗ Mãn lại được cử đem quân đánh Chiêm Thành. Chiêm vương Ba Địch Lại sai cậu là Bồ Điền sang dân đất Chiêm Động (phủ Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam) để cầu bãi binh. Quý Ly đòi thêm đất Cổ Lũy (Quảng Nghĩa) rồi đặt ra lộ Thang Hoa để thi hành chính sách di dân.
Năm sau (Quý Mùi), Đỗ Mãn đem 20 vạn binh sang đánh Chiêm thêm lần nữa để yêu sách những đất Bạt Đạt Gia, Hắc Bạch và Sa Ly Nha về phía nam đất Chiêm Động và Cổ Lũy. Quân Chiêm giữ vững thành Chà Bàn. Quân nhà Hồ cạn lương thực phải rút lui.
Năm sau (Giáp Thân - 1404), sứ Minh sang trách, hỏi vụ Chiêm Thành khiếu nại về việc binh đội của Hồ Quý Ly lấn đất và đòi tiến cống năm trước. Cũng năm ấy gia nô của Trần Nguyên Huy đổi tên là Trần Thiêm Bình trốn sang nước Lão Qua rồi qua Vân Nam lên Yên Kinh trá xưng là con vua Nghệ Tông, tố cáo việc cướp ngôi của cha con họ Hồ và xin Minh Triều đem binh qua nước Nam. Thành Tổ phái Ngự sử Lý Kỷ sang dò xét. Quý Ly nghe tin hoảng sợ cho người đuổi theo định bắt sứ bộ giết đi nhưng Lý Kỷ sau khi tìm hiểu được việc gian dối của Quý Ly đã vượt khỏi biên giới.
Tháng hai năm Ất Dậu, Khai Đại thứ ba (1405) theo lời Thổ quan Hoàng Quang Thanh, Lộc Châu ở bên An Nam vốn thuộc đất Tàu (châu Tư Minh), nhà Minh trước đây đã đòi một lần, Quý Ly không chịu nhưng sau này thấy tình thế sắp trở nên gay cấn, Quý Ly đành cho Hoàng Hối Khanh cắt đất trả cho nhà Minh cốt để êm chuyện. Hối Khanh cắt đất Cổ Lâu tất cả 59 thôn nhường lại cho Trung Quốc. Việc này giải quyết xong, Hối Khanh bị trách cứ là đã trả nhiều quá. Quý Ly trong lòng bực tức ngầm sai thổ dân đánh thuộc độc những quan lại Minh cử sang cai trị đất mới ấy.
Năm tháng sau, nhà Minh sai bọn hoạn giả Nguyễn Toán, Nguyễn Đạo, Từ Cá, Ngô Tín là những đầu bếp giỏi xưa kia được vua Nghệ Tông cống vua Thái Tổ nhà Minh về nước dò xét tình thế.
Tháng 9, sứ bộ của nhà Hồ lại đem cống phẩm sang Bắc triều không ngoài mục đích mua chuộc nhà Minh và nghiên cứu thái độ của Minh Thành Tổ. Sứ giả Phạm Canh là Tả tư Lang trung bị Minh giữ lại, chỉ cho Thông phán Lưu Quang Định trở về. Thấy triệu chứng chiến tranh đã xuất hiện, Hán Thương vội triệu tập các quan An phủ sứ các Lộ về Kinh họp bàn để quyết định hòa hay chiến. Hội nghị chưa ngả bề nào, Tả tướng quốc là Hồ Nguyên Trừng (anh Hán Thương) nói:
- Tôi không sợ đánh, chỉ sợ dân không theo thôi!
Lời này trúng ý của Quý Ly, Nguyên Trừng được thưởng cái hộp vàng. Từ khi lên ngôi nhà Hồ đã tổ chức ráo riết việc quốc phòng ngoài việc cải cách võ bị đã được thi hành từ khi Quý Ly tham dự chính quyền. Đông Đô (Thăng Long) là tiền tuyến nên được bố trí rất kỹ càng. Trước hội nghị các quan văn võ cao cấp toàn quốc, Quý Ly hạ lệnh đắp tại Sơn Tây một cái thành lớn, tường cao, hào sâu gọi là thành Đa Bang thuộc xã Cổ Pháp, huyện Tiên Phong. Các đường thủy đạo từ ngoài bể tiến vào cũng có sự phòng ngự. Khúc sông Bạch Hạc thuộc Việt Trì, Hưng Hóa có đóng cọc gỗ để chận thủy quân của nhà Minh. Về phía Nam ngạn sông Nhị Hà có cắm cừ dài hơn 700 dặm. Về mặt bộ, quân đội các vệ chia nhau đóng ở các căn cứ trọng yếu. Dân các lộ Bắc Giang,
Tam Đái phải dựng sàn nhà cửa ở những nơi đất hoang trên Nam ngạn sông Cái để có chỗ tản cư cho dân chúng. Những nhà có phẩm tước được lệnh chiêu mộ những kẻ đào vong, lập thành các đội quân dũng hãn đặt dưới quyền điều khiển của các chức Thiên Hộ, Bách Hộ để phụ lực cho đại quân của triều đình.
Cuộc Giao Tranh Giữa Nhà Hồ và Nhà Minh
Minh Thành Tổ cũng như các Hoàng đế Trung Hoa các triều trước, rất muốn chiếm nước Nam sau khi đã củng cố được địa vị của vương triều. Cơ hội tốt đã đưa đến: Trần Thiêm Bình trá xưng là con vua Nghệ Tông người duy nhất còn lại của họ Trần và chỉ xin vua Minh xuất năm ngàn quân đi "Điếu phạt" là đủ. Bọn hoạn giả Nguyễn Toán lại tâu rằng nước Nam rất giàu thịnh và có nhiều sản vật quý, vua Minh lấy làm vừa ý lắm. Việc Nam chinh được quyết định ngay.
Tháng tư năm Bính Tuất (1406) vua Minh sai Đốc tướng là Hàn Quan và Hoàng Trung đem 5.000 quân đưa Trần Thiêm Bình về nước. Đến nơi địa đầu giáp giới, quân Minh đóng lại. Hoàng Trung một mình đánh vào cửa Sầm Kênh. Đại tướng Phạm Nguyên Khôi, Chủ Bỉnh Trung của nhà Hồ bị tử trận. Ngay lúc đó, tướng Hồ Vấn đến tiếp chiến. Quân Minh thua và bị hai tướng Hồ Xạ, Trần Đĩnh ngăn mất đường rút lui (Chi Lăng) từ trước. Hoàng Trung bèn sai quan y là Cao Cảnh Chiếu giải Trần Thiêm Bình sang trại quân Hồ nói: "Trước đây Thiêm Bình nói mình là con vua An Nam nên được đưa về nước. Ngay từ lúc vào cõi đến giờ không thấy một ai theo, rõ là có sự gian dối. Nay nộp Thiêm Bình và xin mở đường cho về".
Hồ Xạ ưng thuận, đem Thiêm Bình về dâng công. Hán Thương thưởng cho mọi người, duy trách Hồ Xạ không bắt lấy Hoàng Trung, còn Thiêm Bình bị đem trảm quyết.
Sau việc này Hán Thương lại cử sứ bộ sang biện bạch với Minh triều rằng Thiêm Bình giả mạo và xin thông cống như cũ. Đoàn sứ bộ này có Trần Cung Túc An phủ sứ Tam Giang làm chánh sứ, Mai Tá Phu Thông phán làm Phó sứ bị nhà Minh giữ lại cả.
Bọn Hoàng Trung bỏ về, Thiêm Bình bị giết, vua Minh vẫn quyết đánh, Thành Quốc công Chu Năng được phong làm đại tướng, Tán Thành hầu Trương Phụ, Tây Bình hầu Mộc Thạnh làm tả hữu phó tướng, Phong Thành hầu Lý Bân, Vân dương bá Trần Húc làm tả hữu tham tướng chia quân làm hai đạo xâm nhập vào nước ta.
Quân Minh đến Long Châu thì Chu Năng bị bệnh chết, Trương Phụ lên thay đi lối Bằng Tường (Quảng Tây) đánh vào cửa Nam Quan rồi đi theo hướng Tây Bắc chuyển xuống sông Cái. Mộc Thạnh đi đường Vân Nam, đánh cửa Phú Lĩnh (có lẽ là Hà Giang) theo dọc sông Thao mà xuống, hẹn nhau họp ở ngã ba Hạc (Bạch Hạc).
Một thủ đoạn chính trị lợi hại: nhà Minh tiến quân vào nước Nam do những mánh khoé của bọn Việt gian Trần Thiêm Bình, Nguyễn Toán, Bùi Bá Kỳ bày ra nên đã thả xuống sông những tấm ván có viết bài hịch, đại ý nói rằng quân nhà Minh sang dẹp nhà Hồ có ý khôi phục lại dòng dõi nhà Trần và cứu nhân dân khỏi vòng đói khổ. Việc phản tuyên truyền này có kết quả tai hại trông thấy cho nhà Hồ. Quân sĩ của ta xem được bài hịch này nhiều kẻ nản lòng. Bọn Mạc Địch, Mạc Viễn, Mạc Thủy (cháu trạng Mạc Đỉnh Chi ở lộ Hải Dương) và Nguyễn Huân bất bình với nhà Hồ bỏ theo quân Minh được trọng đãi. Nhờ có sự cộng tác của bọn này, nội tình quân dân nước Nam thời đó bị phanh phui hết thảy ra trước mắt quân xâm lược. Rồi quân Minh nhờ đó mà lượm được nhiều thắng lợi buổi đầu. Căn cứ vào lời Mộc Thạnh bàn với Trương Phụ thì quân Minh bấy giờ chưa vượt qua được sông Nhị Hà vì lòng sông bị cắm cừ và chông chà. Sau đó như lời đã hẹn, hai cánh Bắc quân đều tập hợp cả trước Bạch Hạc rồi ở đó dĩ nhiên họ phải đánh thành Đa Bang là tiền tuyến của quân Hồ và là một căn cứ quan trọng của nhà Hồ để tiếp ứng cho các đồn binh hai bên bờ sông Nhị Hà. Quân Minh, khác với quân Tống, quân Nguyên, hơn hai thế kỷ trước là chỉ tiến vào nội địa nước ta bằng đường bộ do đường Thượng du tràn xuống sông Nhị Hà rồi đánh vào Trung Châu.
Thành Đa Bang Thất Thủ
Thành Đa Bang đáng kể là kiên cố do tường cao và lũy sâu. Quân nhà Hồ ở đây rất đầy đủ và tính rằng quân Minh không vượt được qua sông Cái về phía Nam thì phải tìm cách đổ bộ ở phía Tây Bắc sông Nhị Hà. Sự dự đoán này rất đúng. Trương Phụ tiến đến đây liền bàn với các tướng, lợi dụng bãi cát rộng và phẳng đong quân rồi ngay đêm hôm ấy, họ chia quân đánh thành. Trương Phụ cùng Đốc tướng Hoàng Trung đánh mặt Tây Bắc. Mộc Thạnh đem Đốc tướng Trần Duệ (Việt Nam sử lược chép Trần Tuấn) đánh mặt Đông Nam đều dùng thang vân thê ập vào thành mà leo lên. Quân Minh đánh ào ạt vào thành, quân nhà Hồ chịu không nổi lui vào giữ thành. Sáng hôm sau, nhà Hồ đào thành cho voi ra đánh. Quân Minh vẽ hình sư tử trùm lên ngựa rồi dùng súng thần cơ bắn xả vào quân Hồ. Voi sợ chạy lùi lại, quân Minh tiến vào thành. Thành vỡ các đồn ải dọc sông cũng vỡ theo. Tàn quân của nhà Hồ lui về Hoàng Giang (khúc sông Nhị Hà thuộc huyện Nam Sang, tỉnh Hà Nam). Quân Minh thừa thắng đốt sạch các đồn trại của nhà Hồ và tiến về Thăng Long, (bấy giờ gọi là Đông Đô) lúc này bỏ ngỏ. Quân Minh tha hồ bắt đàn bà, con gái, vơ vét của cải. Sau đó, họ đặt ngay bộ máy cai trị, bổ nhiệm các quan chức, chiêu tập lưu dân.
Trận Mộc Phàm Giang
Cuộc bại trận của nhà Hồ từ Sơn Tây về Thăng Long vào tháng Chạp năm Bính Tuất (1406). Năm sau (Đinh Hợi) tháng ba, Phó tướng Mộc Thạnh đem quân thủy lục tiến xuống Mộc Phàm (con sông này lấy tên làng Mộc Phàm vì chảy qua đó. Mộc Phàm thuộc huyện Phú Xuyên. Sông Mộc Phàm tiếp với Hoàng Giang). Quân Minh hạ trại ở hai  bên  sông.  Hồ  Nguyên  Trừng  đem  300  chiếc thuyền  tấn công vào quân Minh,  bị quân Minh chia ra làm hai cánh đánh ập lại. Nguyên Trừng không chống nổi rút lui về cửa Muộn Hải (thuộc huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định).
Tại bến Bình Than (huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương), hai bên cũng gặp nhau. Đại tướng nhà Hồ là Hồ Đỗ và Hồ Xạ cũng thua chạy về Muộn Hải hợp với quân của Nguyên Trừng, đào hào đắp lũy tính giữ lâu dài. Quân Minh lại sắp đến. Bọn Hồ Nguyên Trừng chạy về cửa Đại An (thuộc phủ Nghĩa Hưng), ở đấy lại xẩy thêm một việc phản bội: bọn Thị trung Trần Quang Chỉ, Trung thư lệnh Trần Sư Hiền cùng với người sở tại là Nguyễn Nhật Kiên âm mưu giết quan Trấn phủ rồi theo quân Minh.
Quân Hồ và quân Minh đánh nhau kịch liệt ngày đêm. Nguyên Trừng cho đón Quý Ly và Hán Thương ở Tây Đô ra Hoàng Giang, định mở một cuộc phản công lớn. Tại Muộn Hải, quân Minh bị ốm đau nhiều nên phải lui về bến Hàm Tử, có ý đợi quân Hồ tiến lên.
Trận Hàm Tử Quan
Lực lượng thủy lục của quân Hồ bấy giờ có tất cả 7 vạn. Họ hư truyền có 21 vạn và đúng như sự dự đoán của các tướng Minh, cuộc phản công của Hồ tại bến Hàm Tử sẽ diễn ra.
Nguyên Trừng cùng Đỗ Mãn chia quân như sau: Hồ Xạ, Trần Đĩnh đem quân đánh vào bờ phía Nam. Đỗ Nhân Giám, Trần Khát Trang đánh vào bờ phía Bắc. Thủy quân có Đỗ Mãn, Hồ Vấn phụ trách. Chiến thuyền nối nhau hơn mười dặm kín cả mặt sông.
Minh dùng thế phục binh, nhử quân Hồ vào sâu trong mặt trận mới đem quân thủy bộ xông ra. Quân Minh đánh rất mạnh, quân Hồ thua, phần xin hàng, phần chạy xuống sông bị chết đuối rất nhiều. Được tin quân mình bị phục binh của địch đánh ráo riết, quân của Hồ Xạ ở mặt sau không chịu tiến. Hồ Vấn phái người đến trách, bấy giờ Hồ Xạ mới cho quân lên nhưng cũng bại nốt.
Sau trận này, đại quân của nhà Hồ tan rã gần hết. An phủ sứ Bắc Giang là Nguyễn Hy Chu bị bắt. Hy Chu chửi Trương Phụ và bị giết chết. Còn Quý Ly và Hán Thương cùng một số người chạy ra bể lui về Thanh Hóa.
Quân Minh đuổi theo kịp đến Lội Giang (là một con sông nhỏ ăn vào sông Mã), quân Hồ bấy giờ mất hết tinh thần nên không đánh mà tan. Giữa lúc nguy cấp, tướng Hồ là Ngụy Thức nói:
- Nước mất rồi, làm vua không nên chết vì tay người, Bệ hạ nên tự đốt đi là hơn!
Quý Ly giận lắm cho chém Ngụy Thức44 rồi chạy vào Nghệ An. Tháng 5 năm ấy (1407), Quý Ly và Hán Thương đến cửa Kỳ La (nay thuộc huyện Kỳ An, tỉnh Nghệ An). Trương Phụ cử Mộc Thạnh dẫn lục quân, Liễu Thăng lĩnh thủy quân bằng đường bộ đuổi theo.
Ngự đạo được các kỳ lão ra yết kiến và tâu:
- Xứ này tên là Cơ Lê, có núi tên là Thiên Cầm, đó là điềm không lành, xin nhà vua chớ lưu lại ở đây (chữ Cơ Lê là trói họ Lê. Thiên Cầm là trời bắt. Sự thật các kỳ lão đã có ý đọc trệch chữ Kỳ La ra Cơ Lê. Chữ Thiên Cầm chỉ có nghĩa là đàn trời. Tương truyền ngày xưa vua Hùng Vương đi chơi qua đấy nghe tiếng sáo trời bởi gió hút qua các khe núi nên đặt tên núi là Thiên Cầm).
Quý Ly hiểu rõ tên sông núi Thanh Nghệ, biết rằng bọn phụ lão nguyền rủa mình, giận lắm cho chém hết. Ít lâu, quân Minh thủy bộ kéo đến nơi bắt được Quý Ly ở núi
44 Ngụy Thức là một văn thần có nhiều mưu mẹo được Hán Thương trọng dụng thường ví với Ngụy Trưng đời Đường. Thật ra, Ngụy Thức họ Đồng, đậu Thái Học Sinh đời Trần, người Chí Linh, lộ Nam Sách.
Thiên Cầm, ngày hôm sau bắt được Hán Thương với con là Nhuế Lỗ ở núi Cao Vọng cũng thuộc về Kỳ Anh. Các đại thần tướng tá như Tả tướng quốc Nguyên Trừng, Hữu tướng quốc Quý Tỳ, em ruột Quý Ly cùng với con là Phán trung đô Vô Cửu, tướng quân Hồ Đỗ, Phạm Lục Tài, Nguyễn Ngan Quang, Đoàn Kích, lần lượt bị sa lưới hết.
Bọn Trần Nhật Chiêu, Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Cẩn, Đỗ Mãn đã ra hàng Minh trước đó ít lâu. Ngoài ra, Hành Khiển hữu tham tri chính sự Ngô Miên cùng vợ là Kiều Biểu giữ chức Trực Thường không chịu nhục đều đâm đầu xuống nước tự ải.
Tháng sau, tướng Minh là Lỗ Lân, Liễu Thăng giải Quý Ly với con là Hán Thương, Nguyên Trừng, Triệt Uông, cháu là Nhuế Lỗ, Phạm, em là Quý Tỳ, con Tỳ là Vô Cửu, tướng quân Hồ Đỗ, Đoàn Kích, Hành Khiển, Nguyễn Ngạn Quang, Lê Cảnh Kỳ về Kim Lăng.
Minh Thành Tổ hỏi Quý Ly:
- Giết vua cướp nước có phải là đạo bề tôi không?
Quý Ly không trả lời. Vua Minh bèn giam cả vào ngục chỉ tha có Nguyên Trừng và cháu là Nhuế Lỗ. Sau Quý Ly cũng được phóng thích nhưng phải làm lính tuần ở Quảng Tây. Nguyên Trừng giỏi việc chế tạo võ khí, đem súng tiến vua được làm quan, sau được phong đến Công Bộ Thị Lang và soạn ra sách Nam Ông Mộng Lục còn truyền đến bây giờ.
Cũng khoảng tháng sáu, bình định xong nước Việt, người Minh đặt ba cơ quan hành chánh: Ty Đô chỉ huy sứ, ty Thừa tuyên bố chính sứ và ty Đề hình án sát sứ, thuộc quyền Đô đốc Lã Nghị và Thượng thư Hoàng Phúc. Dân được miễn thuế ba năm.
Nguyên Nhân Thất Bại Của Hồ Quý Ly
Hồ Quý Ly bước chân vào trường chính trị từ năm Tân Hợi (1371), đến năm Đinh Mão (1387), giữ chức Đồng bình chương sự nắm hết quyền chính trong tay. Đến năm Canh Thìn (1400) Quý Ly phế bỏ Thiếu Đế và lên làm vua. Từ cuối năm Bính Tuất qua năm Đinh Hợi, Quý Ly phải đương đầu với quân xâm lăng, sau 9 tháng chiến tranh, họ Hồ thất bại một cách đau đớn, thảm thương.
Vì đâu họ Hồ đã đi tới cái kết quả bi đát đó? Các vua chúa mất ngai vàng, nghiệp bá, các nhà chính trị ngã gục trên nẻo đường danh vọng xưa nay không ngoài lý do thất nhân tâm. Ta hiểu câu thất nhân tâm là mất lòng dân và trí thức trong nước là hai thành phần quan hệ của nền tảng quốc gia. Đây là một lẽ chung. Họ Hồ cũng không thoát khỏi công lệ đó trong khi đổ sụp.
Những hành động nào đã làm họ Hồ thất nhân tâm?
1) Họ Hồ đã tiến quá nhanh trên con đường danh vọng, quyền thế lẫy lừng, dẫu không va chạm vào quyền lợi của ai cũng dễ khiến nhiều kẻ ghét ghen, huống chi họ Hồ đã thi hành nhiều việc cách mạng xã hội nghịch với quyền lợi của nhiều giai cấp. Tỉ dụ: hạn chế quyền tư hữu tài sản do việc cải cách điền địa có lợi cho dân nhưng có hại cho quý tộc. Việc cách mạng hết sức táo bạo này lại kèm thêm việc hạn chế gia đồng đã kìm hãm và giảm hẳn thế lực của đẳng cấp phong kiến khiến họ phải tìm cách chống lại họ Hồ để bảo vệ tương lai của họ.
2) Việc cải cách tăng đạo cũng có tính cách hạn chế ảnh hưởng của một giai cấp rất gần dân chúng. Sự chống trả của giai cấp này không phải là không nguy hiểm, nhất là về mặt tuyên truyền.
3) Việc cải cách tiền tệ, tuy có thuận tiện cho việc mua bán của dân chúng nhưng quá mới nên dân chúng chưa hiểu được lợi ích. Thấy tiền bạc của mình bắt buộc phải đổi lấy tiền giấy, dân chúng sao khỏi được sự hoang mang, hờn giận.
4) Việc giết hại con cháu nhà Trần, nhất là vua Thuận Thông, con rể của Quý Ly, và việc hạ sát trên 370 vương hầu, tướng lĩnh, đại thần trong vụ âm mưu ngày hội thề ở Đốn Sơn xúc động dân chúng rất mạnh không kể các giai cấp quyền quý đang bị họ Hồ uy hiếp. Ngay từ khi Quý Ly thi hành các việc cải cách, Quý Ly đã bị những cuộc phản tuyên truyền rất dữ dội, việc thẳng tay đàn áp đối phương và lưu huyết sau này lại càng gia tăng hiệu lực cho cuộc phản tuyên tryền của phe đối lập. Nhân dân vào đời Lý, Trần lại đang được hun đúc trong cái lò Phật giáo và Khổng giáo, thấy việc giết vua triệt hạ đại thần không khỏi có sự công phẫn và nghi ngờ. Trước vấn đề này, nhà chính trị đại tài đó đã thiếu xót một cách tai hại một kỹ thuật trọng yếu là vận động nhân dân, lấy nhân dân làm hậu thuẫn. Việc làm càng bạo động càng phải sửa soạn dư luận, họ Hồ quả đã rất khinh xuất, kể từ các việc cải cách quốc gia có lợi cho nhân dân đến việc bước lên ngôi cửu ngũ. Họ Hồ đã không hấp thụ được bài học thân dân và dân vận của Trần triều thuở trước, có lẽ vì không để ý đến nhân dân, có lẽ ông cho rằng chỉ cần hướng mọi công cuộc cải cách quốc gia về quyền lợi đại chúng là đủ. Bởi sự thiếu sót này người ta đã nghĩ rằng việc làm của ông không vì công ích, trái lại có mục đích, có cứu cánh hoàn toàn tư lợi.
Bàn về việc đàn áp phong kiến đời bấy giờ, ta nghĩ thế nào về Hồ Quý Ly? Họ Hồ tàn nhẫn lắm chăng?
Xét các việc đã xảy ra, quả họ Hồ đã tàn nhẫn thật nhưng bình tĩnh và khách quan mà nói nhà làm chính trị như họ Hồ giữa một thời vua hèn, tôi đốn, đẳng cấp phong kiến  lại  quá  ngoan  cố,  tham  tàn,  chống  lại  mọi  việc  cải  cách  cấp  tiến    nghịch  với quyền lợi của họ thì nhà làm chính trị đó nếu muốn thành công hay đứng vững không thể không có những cử chỉ quyết liệt mạnh bạo.
Nói một cách khác, xã hội Việt Nam bấy giờ đang bị một bạo bệnh, Hồ Quý Ly đã phải dùng bạo phương vì không còn thể trì hoãn được với tình thế. Họ Hồ ngồi trên lưng cọp, lên đã khó xuống còn khó gấp bội, có ở vào hoàn cảnh của họ Hồ mới biết, ngoài ra đứng trên quan điểm nhân dân và cách mạng, ta còn lý gì để thương tiếc đám vua quan bất lực, mục nát đời Trần? Thương tiếc bọn này để mất nước với ngoại địch, để dân hao mòn vì đói khổ, ý niệm này vào thời nào cũng phải coi là một sự phản bội quốc gia và phản tiến hóa!

Hồ Quý Ly Có Làm Mất Nước Không?
Bình luận về Hồ Quý Ly, Trần Trọng Kim trong Việt Nam Sử Lược trang 120 nói:
"Xem công việc của Hồ Quý Ly làm thì không phải là một người tầm thường, nhưng tiếc thay, một người kinh tế như thế mà giả sử cứ giúp nhà Trần cho có thủy chung thì dầu giặc Minh có mạnh thế đến đâu đi nữa cũng chưa hầu dễ đã ăn cướp được nước Nam mà mình lại được tiếng thơm để lại ngàn thu. Nhưng vì cái lòng tham xui khiến, hễ đã có thế lực thì sinh ra bụng muốn tranh quyền cướp nước. Bởi thế, Hồ Quý Ly mới làm sự thoán đoạt, và nhà Minh mới có cái cớ mà sang đánh lấy nước An Nam. Mà cũng vì cái cớ ấy cho nên lòng người mới bỏ họ Hồ mà theo giặc để đến nỗi cha con họ Hồ thua chạy bị bắt, phải đem thân đi chịu nhục nước người!
Nhưng đấy là một cái tội làm hại riêng cho một họ Hồ mà thôi, còn cái tội làm mất nước Nam, thì ai gánh vác cho Hồ Quý Ly? ..."
Không riêng sử gia họ Trần, ... nhiều nhà viết sử từ trước đến nay thường quy tội làm mất nước về tay nhà Minh cho Hồ Quý Ly và cũng viện cớ một cách giản dị rằng Hồ Quý Ly đã giết vua cướp nước nên người trong nước mới đi cầu cứu Minh triều. Trước vấn đề này, để tìm ra lẽ phải, ta cần đặt hai câu hỏi dưới đây:
1) Tình trạng bang giao giữa nước ta và nhà Minh thuở đó thế nào? Nếu Hồ Quý Ly không "thí quân thoán quốc" nạn xâm lăng liệu có thể tránh được không?
2) Bọn Trần Thiêm Bình và Bùi Bá Kỳ sang cầu quân "điếu phạt" của nhà Minh có ảnh hưởng gì đến sự suy vong của quốc gia thuở đó không?
Câu hỏi trên nhắc ta rằng khi nhà Hồ ra đời, Minh Thành Tổ đã có ý nhòm ngó nước ta rồi, sau đó lại thêm sự tố cáo của bọn hoạn giả Nguyễn Toán giỏi nghề nấu bếp mà triều Trần đem tiến Minh Đế trước đây, Thiêm Bình và Bùi Bá Kỳ chỉ là những kẻ đến sau để thúc đẩy cuộc xâm lăng cho thêm phần nhanh chóng.
Bảo rằng việc đảo chính của Hồ Quý Ly đã giúp cho nhà Minh cái cớ xuất binh qua đất Việt cũng không đúng. Nhà Minh muốn chiếm nước ta không thiếu cơ hội, cũng không thiếu duyên cớ nữa. Đây chỉ là chuyện con chó sói với con cừu non của Lã Phụng Tiên (La Fontaine) mà thôi. Một việc xâm lăng bao giờ cũng phải tính toán đầy đủ điều kiện thực tế. Đó là việc ta cần phải suy xét kỹ lưỡng. Nhà Minh trước khi mang quân sang nước ta phải hiểu rõ dân ta đã suy yếu từ bao giờ, vua quan của chúng ta như thế nào. Như vậy mọi việc bại hoại của mấy triều đại cuối cùng của dòng họ Đông A đều đã ghi trong cuốn sổ tay của họ. Cuộc xâm lăng bấy giờ đâu có phải căn cứ vào cái nguyên nhân gần gũi nhất là vụ đảo chính của Hồ Quý Ly, nhất là cuộc đảo chính ấy đã thành công, một cách êm thắm. Có thể nhà Minh hiểu thực lực nước ta bị suy giảm từ lâu, lòng dân Việt Nam chia rẽ, Hồ Quý Ly tuy có cải cách nhiều việc trong nước nhưng vẫn chưa phục hồi được nguyên khí quốc gia.
Đó là duyên cớ mất nước của dân ta cũng như duyên cớ xâm lăng của quân Minh. Tóm lại đời Trần Mạt do đám vua quan bạc nhược, ham ăn chơi đàng điếm đã tạo cho Bắc phương một hoàn cảnh tốt đẹp để xâm chiếm đất đai của chúng ta. Cái nguyên nhân xã hội này mới là nguyên nhân chính. Các nhà làm sử hay các người đọc sử xưa nay thường chỉ nhìn vào việc trước mắt mà buông lời phê phán chẳng khỏi có sự quá đáng và thiếu công bình với người xưa.
Nhưng nhà đọc sử và viết sử ngày nay hiểu Quý Ly một cách công bằng và thực tế hơn. Trong Nam Sử Liệt Truyện khảo cứu ở Tạp chí Nam Phong số 100, ông Lê Thúc Thông viết: "Xem Quý Ly đương buổi Tây Lịch 1411, khi ấy các nước Âu Châu chưa đến trình độ bán khai mà nước ta đã có Quý Ly bầy đặt các việc trước đã khêu đèn văn minh, phỏng Bá Kỳ chẳng đưa quân Minh về trở ngạnh để cho Quý Ly hết sức kinh lý giang sơn, trùng tân nhật nguyệt, nước ta hẳn kéo cờ văn minh, thủ xuất trước các nước ở Á Châu ..."
Trong Việt Nam Cổ Văn Học Sử (do nhà Hàn Thuyên Hà Nội xuất bản năm 1942) ông Nguyễn Đổng Chi cũng viết:
"Tư tưởng và hành vi của nhà độc tài ấy có thể sánh với Vương An Thạch (1021- 1086) đời Tống bên Tàu. Vương cũng có một độ bài xích những lối học huấn hỗ và chú sở của tiên nho cùng là chủ trương những vấn đề cải lương Trung Quốc. Họ Hồ đã chịu mạnh cái tinh thần đó nên quyết tâm mở một lối thực học đi đôi với nền tảng quốc gia xã hội mong làm cường thịnh nước nhà. Người sau này còn hơn người trước về chỗ chiếm lấy chiếc ngai vàng cho tiện bề hành động.
"Nhưng đáng tiếc cho chiếc ngai vàng ấy không bao lâu bị sụp đổ và lôi cuốn mọi thứ đi mất. Bàn tay phá hoại ấy chính là người Minh, nhưng một số đông người Việt Nam  lấy  cớ  phục  hồi  nhà  Trần  mở  đường  đón  giặc,  họ  phải  chịu  một  phần  trách nhiệm."
Tin Mới số 1406 ra ngày 31-10-1944, trong bài Đọc Sử ông T.N. cũng viết:
"Đọc Nam Sử, những cuộc cải tạo về chính trị, xã hội, học thuật không phải là ít, nhưng điều khiến cho chúng ta phải ngạc nhiên và nhớ tiếc hơn cả là chính sách táo bạo có thể coi như một cuộc cách mạng của họ Hồ và cuối thập tứ và đầu thập ngũ thế kỷ.
"Đem đối chiếu những chính sách của Hồ Quý Ly với lịch sử quốc tế hồi bấy giờ và nhất là đem đối chiếu với hoàn cảnh Á Đông lúc ấy cuộc cải cách kia thực là lớn lao về cả tinh thần lẫn phạm vi của nó.
"Cuộc cải cách ấy nếu được tiếp tục trong một thời gian khá lâu, tất phải đem dân tộc Việt Nam, một dân tộc lúc ấy thiếu tổ chức, đến một mức phú cường.
"Nhưng đem reo rắc vào một đám dân chúng chưa giác ngộ, những chủ trương không gặp được một sức hậu thuẫn đầy đủ cho nên trước cuộc âm mưu của bọn Việt gian làm bung sung cho quân đội nhà Minh, sự nghiệp của họ Hồ đã tan tác sau một cuộc thất bại đau đớn".

Phần 3 - Chương 9
Bắc Thuộc Lần Thứ Năm
Nhà Hậu Trần (1407-1413)
-Chính sách thống trị của nhà Minh
-Giản Định Đế khởi nghĩa
-Trần Quý Khoách nối tiếp cuộc cách mạng
1-Chính Sách Thống Trị Của Nhà Minh
Quân Minh đánh tan được quân nhà Hồ liền thiết lập ngay guồng máy cai trị ở khắp mọi nơi. Nhưng đối với quân xâm lăng, bao giờ họ cũng khôn khéo để cám dỗ nhân dân. Trước đây, họ lấy danh nghĩa đem quân điếu phạt nhà Hồ để mua chuộc lòng các người trí thức, các quan liêu và nhân dân còn lưu luyến họ Trần được nhiều hay ít vẫn là điều lợi. Dĩ nhiên họ cần các phần tử trí thức hơn hết để làm tay sai và nội công cho họ. Ngoài ra, các phần tử quan liêu trí thức trong một nước vẫn có uy tín đối với nhân dân, họ ngả vào đâu, nhân dân theo về đấy, chớ mấy khi nhân dân đã nhận định được nhanh chóng và rõ ràng con đường của Chính Nghĩa.
Giờ đây, họ dùng hai thủ đoạn chính trị:
1) Họ treo bảng kêu gọi con cháu họ Trần để tỏ rằng họ vẫn trung thành với tinh thần bản tuyên ngôn "Hưng Trần Diệt Hồ" đã tung ra trong giai đoạn đầu của cuộc dụng binh. Họ biết rằng con cháu họ Trần chưa dễ đã dám xuất đầu lộ diện. Nếu có kẻ hưởng ứng lời hiệu triệu của họ, kẻ đó sẽ bị giết ngầm đi, điều nó nào có khó gì.
2) Ngay lúc họ vừa tung ra lời hiệu triệu, họ lại làm tiếp ngay việc bắt các phụ lão làm tờ khai rằng: "Con cháu họ Trần không còn ai nữa. Đất An Nam vốn là đất Giao Châu ngày trước nay xin đặt quận huyện như xưa".
Đây là hai hành động mâu thuẫn nhau. Bằng việc trên, thực dân Bắc phương đã dễ bề thao túng nhân tâm, chúng đã khai thác được cảm tình của nhân dân họ Trần, bằng việc dưới chúng chính thức hóa chế độ đô hộ cổ truyền của chúng trên xứ sở chúng ta.
Rồi nhà Minh chia nước ta ra 17 phủ: Giao Châu, Bắc Giang, Lạng Giang, Lạng Sơn, Tân An, Kiến Xương, Phong Hóa, Kiến Bình, Trấn Man, Tam Giang, Tuyên Hóa, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hóa, Thăng Hoa và 5 châu là: Quảng Oai, Hưng Hóa, Qui Hóa, Gia Bình, Diễn Châu.
Ở những nơi trọng yếu, họ đặt 12 vệ tức là 12 đạo quân binh để đề phòng về phương diện quân sự.
Về hành chính, họ đặt ra ba ty: Bố Chánh ty, Án Sát ty, Chưởng Đô ty. Ba ty này
điều động 472 nha môn là những cơ cấu cai trị phụ thuộc.
Thượng thư Hoàng Phúc là một nhà trí thức lỗi lạc của họ coi hai ty Bố Chính và Án Sát. Lữ Nghị coi Chưởng Đô ty tức là Thống Nhiếp về quân sự, Hoàng Trung làm phó.
Bộ máy hành chính và quân sự bắt đầu quay thì người Minh đã khôn khéo lo việc vỗ về dân chúng và chiêu mộ nhân tài. Con cháu các tướng sĩ, quan liêu theo nhà Hồ trong  việc  kháng  chiến  trước  đây  bị  bắt,  nay  được  phóng  thích  hết,  ngay  cả  những tướng lĩnh bị bắt trong cuộc giao tranh cũng được miễn tội. Vua Minh Thành Tổ còn ủy Trương Phụ đi tìm kiếm các người có danh tiếng, có văn học uyên bác thông thạo việc cai trị, những người hiếu đễ, các trai tráng khoẻ mạnh, các thầy bói toán, các danh y để ban thưởng phẩm hàm hoặc dùng vào các chức vụ Tri phủ, Tri huyện, Tri châu. Những kẻ vong bản, xu mị thời thế, ham lợi mê danh (Lương Nhữ Hố, Đỗ Duy Trung, Nguyễn Huân ...) chạy theo lời gọi của bọn thống trị và làm rất nhiều việc tàn ác đối với dân chúng, trừ vài người có liêm sỉ như các ông Bùi Ứng Đẩu, Lý Tử Cấu, Lê Lợi, được ân cần mời mọc mà vẫn khước từ.
Lữ Nghị và Hoàng Phúc được đặc ủy mọi việc quân chính sau đó bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh rút quân mang theo bản đồ nước ta, đàn bà, con gái, các sử sách, đồ thư, truyện ký về Kim Lăng dâng lên Minh Đế, do đó chúng ta mất rất nhiều sách quý mà nhân tài hai triều Lý Trần đã biên soạn.
Theo Lịch Triều Hiến Chương Văn Tịch chú (Phan Huy Chú) những sách dưới đây đã bị tịch thu:
1) Hình thư của vua Lý Thái Tông (3 quyển)
2) Quốc Triều Thôn Lễ của Trần Thái Tông (10 quyển)
3) Hình Luật (1 quyển)
4) Thường Lễ niên hiệu Kiến Trung (10 quyển)
5) Khóa Hư tập (1 quyển)
6) Ngự Thi (1 quyển)
7) Di Hậu Lục của vua Trần Thánh Tông (2 quyển)
8) Cơ Cừu Lục (1 quyển)
9) Thi Tập (1 quyển)
10) Trung Hưng Thực Lục của vua Trần Nhân Tông (2 quyển)
11) Thi Tập (1 quyển)
12) Thủy Vân Tùy Bút của vua Trần Anh Tông (2 quyển)
13) Thi Tập của vua Trần Minh Tông (1 quyển)
14) Trần Triều Đại Điển của vua Trần Dụ Tông (2 quyển)
15) Bảo Hòa Điện Dư Bút của vua Trần Nghệ Tông (8 quyển)
16) Thi Tập (1 quyển)
17) Binh Gia Yếu Lược của Trần Hưng Đạo (1 quyển)
18) Vạn Kiếp Bí Truyền của Trần Hưng Đạo (1 quyển)
19) Tứ Thư Thuyết Ước của Chu Văn Trình (1 quyển)
20) Tiền Ẩn Thi (1 quyển)
21) Sầm Lâu Tập của Uy Văn Vương Trần Quốc Toản (1 quyển)
22) Lạc Đạo Tập của Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải (1 quyển)
23) Băng Hồ Ngọc Hác Tập của Trần Nguyên Đán (1 quyển)
24) Giới Hiên Thi Tập của Nguyễn Trung Ngạn (1 quyển)
25) Giáp Thạch Tập của Phạm Sư Mạnh (1 quyển)
26) Cúc Đường Di Thảo của Trần Nguyên Đào (2 quyển)
27) Thảo Nhàn Hiệu Tần của Hồ Tôn Thước (1 quyển)
28) Việt Nam Thế Chí (1 bộ)
29) Việt Sử Cương Mục (1 bộ)
30) Đại Việt Sử Ký của Lê Văn Hưu (30 quyển)
31) Nhị Khê Thi Tập của Nguyễn Phi Khanh (1 quyển)
32) Phi Sa Tập của Hàn Thuyên (1 quyển)
33) Việt Điện U Linh Tập của Lý Tế Xuyên (1 quyển)
Cũng như các triều đại trước trong 10 thế kỷ đô hộ xưa, họ rất lưu tâm đến việc đồng hóa dân Việt để chúng ta quên nguồn mất gốc. Họ nhập cảng các sách Tứ Thư, Ngũ Kinh, Tinh Lý (dùng sách đại toàn cả) và lập Tăng Đạo để truyền bá rộng ra các nơi dân chúng đạo Phật và đạo Lão, ngoài việc giảng dạy Nho Giáo. Trong giai đoạn này, bọn người đắc thời hơn cả là các thày âm dương, y phương, tăng đồ và đạo gia. Họ đã nhảy ra điều khiển cả việc giáo dục.
Sau việc gột rửa cái tinh thần cố hữu là căn bản của mọi cá tính dân tộc chúng ta, họ còn làm cả chuyện di phong, đảo tục nữa: đàn ông bị cấm không được cạo đầu, đàn bà con gái phải bận quần dài, áo ngắn đúng như dân của họ.
Thuế khóa định như sau: Mỗi mẫu ruộng phải nộp 5 thưng thóc. Mỗi mẫu phù sa phải nộp một lạng tơ, mỗi cân tơ phải nộp một tấm lụa (?). Họ đặt quan lại đốc thúc dân phu khai các mỏ vàng bạc. Hàng năm, quan bản cục và nội quan được cử lập hội đồng xem xét lại rồi đưa vàng bạc về Tàu.
Tại các miền duyên hải, họ ép dân làm muối và cũng có sự kiểm soát gắt gao. Muối làm được bao nhiêu cuối tháng phải nộp hết vào ty Đề Chưởng. Ai muốn buôn muối phải thương lượng với ty Bạc Chính (như Thương Chính bây giờ). Họ khám xét xong rồi mới được đem bán. Nấu muối lậu hay bán muối không có giấy phép phải tội rất nặng. Tại Vân Đồn, họ đặt một cơ sở kiếm hạt trai. Mỗi ngày hàng ngàn người phải lặn xuống đáy biển để mò ngọc.
Để kiểm tra dân chúng (có lẽ vì lý do chính trị), họ phát những "hộ thiếp" ghi tên tuổi, trú quán của dân đinh đóng dấu vào giữa, một nửa vào mặt thiếp, một nửa vào cuống. Nếu hai phần so không hợp với nhau, người mang thiếp sẽ phải đi sung quân (đi đày).
Ngoài chế độ thuế khóa, ta còn phải nộp các quý vật như: hồ tiêu, sừng tê giác, voi bạch, quế tốt, hương liệu, hưu trắng.
Số thóc mỗi năm phải nộp về Tàu là 13 triệu 30 vạn hộc (mỗi hộc được chừng 60 lít). Voi, bò, ngựa 135.900 con. Thuyền 8.700 chiếc. Quân giới 253.900 chiếc đủ loại.
Về việc cai trị, các đơn vị hành chính được đặt ra như sau: ở các xã thôn thì có Lý và Giáp. Cứ 110 hộ hợp thành một lý và 10 hộ là một giáp. Lý thì có Lý trưởng, giáp thì có Giáp thủ cầm đầu. Ở các đô thị thì gọi là phường (khu phố ngày nay, tỉ dụ ở Hà Nội có phường Đồng Xuân, phường Thọ Xương, v.v...) ở chung quanh thành phố thì gọi là Tương. Ở mỗi lý, phường, tương đề có sổ biên số đinh và số điền, trạch. Những người tàn tật, cô quả thì biên ra ở sau gọi là kỷ linh. Đầu sách có bản đồ. Những cuốn sổ này viết ra nhiều bản để ở các phủ huyện, bộ Hộ và Bố Chánh ty. Cứ 10 năm lại làm lại loại khác để sửa đổi vì số đinh điền có sự thăng giảm. Những người ra làm việc ở các cấp dưới như Lý trưởng và Giáp thủ thường bị đánh đập rất khổ sở.
Việc bắt binh lính thì cứ theo sổ bộ. Ở những nơi gọi là vệ sở thì mỗi hộ phải ba xuất đinh. Thanh Hóa trở vào ít người thì mỗi hộ chỉ phải 2 xuất. Ở những chỗ không có vệ sở thì lập đồn lấy dân binh ra canh giữ.
Chính sách đô hộ kể đã chu đáo và việc bóc lột nhân dân đến thế thật là cổ kim Á, Âu chưa bao giờ có. Đẳng cấp sĩ phu và dân chúng Việt Nam như tỉnh một giấc mơ dữ dội. Có lẽ ngay cả những kẻ Việt Gian cũng âm thầm hối tiếc thời quá vãng, dẫu sao cũng không đến nỗi khốc hại như vậy, trừ những kẻ có thiên bẩm là nô lệ và không còn nhất điểm lương tâm mới điềm nhiên khoanh tay nhìn ngoại nhân chà đạp đồng bào, hút máu đồng loại.
Nhân dân đau khổ hết chỗ nói nhất là với bọn Lý Bân, Mã Kỳ đến thay Trương Phụ, đã có nhiều người cha lìa con, vợ lìa chồng, trốn vào rừng sâu, có nhiều kẻ được nghe tiếng gọi của hồn nước nên mới nảy ra phong trào phản đế ngay hai năm sau, ồ ạt như lửa được gió mạnh

2- Giản Định Đế Khởi Nghĩa (1407-1409)
Máu hàng ngày đổ chan hòa mặt đất, xương trắng kẻ hàm oan phủ khắp sơn khê đã thúc dục anh hùng hào kiệt nước Nam đứng dậy cứu vãn tình thế. Trong những kẻ nối giáo cho giặc, chạy theo giặc, một cũng bị lương tâm cắn rứt hoặc được thời thế giác ngộ đã gia nhập nhiệt liệt phong trào cứu quốc khi Giản Định vương (tên là Quỹ) con thứ của vua Nghệ Tông phất cờ khởi nghĩa. Giờ đó, vua Giản Định đang siêu bạt tại làng Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, được Trần Triệu Cơ phụ tá, liền xưng Hoàng Đế để nối nghiệp nhà Trần, đặt niên hiệu là Hưng Khánh.
Phong trào khởi nghĩa không thắng lợi buổi đầu vì thực lực còn non nớt. Giản Định Đế thua chạy vào Nghệ An được Đặng Tất (là quan cũ của nhà Trần, nhà Hồ, sau khi hàng Minh được làm Đại Tri Châu ở Hóa Châu như cũ) hưởng ứng. Họ Đặng giết luôn bọn quan lại nhà Minh rồi đem quân ra Nghệ An theo vua Giản Định. Tại Đông Triều (Hải Dương), Trần Nguyệt Hồ cũng chiêu tập binh đội tự động chống nhau với quân Minh nhưng chẳng bao lâu bị bắt. Các dư đảng chạy vào Nghệ An hợp với quân lực của Giản Định, nhờ vậy thanh thế của Giản Định bắt đầu bốc mạnh. Tại cửa Nhật Lệ, hàng tướng nhà Minh là Phạm Thế Căng bị Đặng Tất giết được, rồi từ Nghệ An trở vào ảnh hưởng của nhà Trần đã được khôi phục. Anh hùng nghĩa sĩ các nơi ùa theo ngọn cờ cách mạng nên tháng chạp năm Mậu Tí (1408) Giản Định hội họp được quân Cần Vương các đạo Thuận Hoá, Tân Bình, Nghệ An, Diễn Châu và Thanh Hóa tiến ra Đông Đô. Quân cách mạng ra tới Trường An (Ninh Bình) thì các sĩ phu Bắc Hà, các cố thần của tiền triều cũng hoan nghênh nhiệt liệt.
Xét tình thế có thể nghiêm trọng, bọn quan lại nhà Minh gửi giấy báo cáo về triều tới tấp khiến Minh Đế lại phải lo chuyện động binh ráo riết như buổi đầu của cuộc chinh phục. Mộc Thạnh được phái đem 4 vạn quân Vân Nam sang hiệp với quân đội của Lữ Nghị tiến đến Bồ Cô (thuộc xã Hiếu Cổ, huyện Phong Doanh) thì gặp quân Trần. Một cuộc giao tranh kịch liệt đã diễn ra. Giản Định tự cầm trống thúc đại binh liều chết với giặc. Tinh thần quân Nam lên rất cao. Đại tướng Lữ Nghị tử trận. Mộc Thạnh phải bỏ chạy về đóng ở thành Cổ Lộng do quân Minh xây ở làng Bình Cách thuộc huyện Ý Yên.
Giản Định muốn nhân lúc đại thắng thừa thế đánh ra Đông Đô, nhưng Đặng Tất chủ trương đợi quân các lộ về đầy đủ sẽ mở cuộc tổng phản công một lượt. Từ đó vua tôi bất hòa, rồi Giản Định nghe lời dèm pha bắt giết Đặng Tất và quan Tham Mưu Nguyễn Cảnh Chân. Việc này có ảnh hưởng rất tai hại đối với tinh thần binh tướng, nên nhiều người sinh chán nản và hàng ngũ cách mạng sinh rời rã.

3- Trần Quý Khoách Nối Tiếp Cuộc Cách Mạng (1409-1413)
Sự vụng về của Giản Định đã gây ra sự chia rẽ trong các lực lượng ái quốc Việt Nam, đáng lẽ các lực lượng này phải được đoàn kết chặt chẽ hơn bao giờ hết. Đặng Dung là con Đặng Tất, Nguyễn Cảnh Dị là con Nguyễn Cảnh Chân giận Giản Định giết cha mình một cách oan uổng liền đem quân bản bộ rút về huyện Chí La (tức huyện La Sơn, thuộc Hà Tĩnh) tôn cháu vua Nghệ Tông là Trần Quý Khoách lên ngôi đặt niên hiệu Trùng Quang. Trong giai đoạn này, Giản Định đang đánh nhau với quân Minh ở thành Ngự Thiên, thuộc huyện Hưng Nhân. Quý Khoách phái tướng Nguyễn Súy lên bắt Giản Định đưa về Nghệ An tôn làm Thái Thượng Hoàng. Ý muốn của bọn Đặng Dung và vua Trùng Quang là thống nhất cuộc kháng chiến để khôi phục đất nước, nhưng giữ chủ quyền hành động vì không tin ở tài năng của Giản Định và bọn phụ tá.
Được tin Mộc Thạnh thua trận, quân cách mạng đang đánh mạnh, nhà Minh lại phái viện binh qua nước ta đặt dưới quyền hai đại tướng Trương Phụ và Vương Hữu. Lực lượng của giặc Minh hùng hậu hơn lực lượng kháng chiến, ngoài ra Trương Phụ cũng có biệt tài chiến trận nên khi Trương Phụ sang, tình thế đôi bên thay đổi rất mau lẹ.
Quân kháng chiến bấy giờ đang chia nhau đánh phá ở miền đông (Hải Dương) Giản Định đem quân tấn công hạt Ninh Giang, Quý Khoách đóng ở Bình Than. Giản Định gặp Trương Phụ, bị đánh bại đem binh thuyền chạy về xuôi đến huyện Mỹ Lương (giáp Sơn Tây và Phủ Nho Quan) thì quân Minh đuổi theo bắt được, sau giải về Kim Lăng.
Quý Khoách sai Đặng Dung đến giữ Hàm Tử Quan (huyện Đông An, tỉnh Hưng Yên) nhưng vì thiếu lương thực nên không cầm cự nổi lại bỏ chạy. Quân kháng chiến nao núng, Quý Khoách đành rút hết binh đội về Nghệ An. Quân Minh lại làm chủ được toàn thể Bắc Việt.
Do cuộc bại trận của phái phong kiến mà nhân dân thêm một phen nữa bị giặc Minh khủng bố dữ dội. Những người dự vào cuộc kháng chiến, những kẻ tình nghi phản nghịch, bị chúng tàn sát thẳng tay: xác chết chất cao thành đống, ruột người treo lòng thòng trên các cành cây, đầu người đem nấu, làng mạc bị đốt phá, phụ nữ bị hãm hiếp vô kể... Trong dịp này, một số người Việt a dua với chúng giết hại nhiều đồng bào để được làm quan, bọn cẩu tẩu tha hồ tung hoành phỉ chí. So sánh với mấy thời Bắc thuộc trước, cảnh địa ngục của giặc Minh rùng rợn hơn cả.
Năm sau (Canh Dần 1410), quân Kháng chiến lại tiến đánh Hồng Châu được thắng lợi rồi lại chiếm đóng Bình Than. Nhân dân hưởng ứng với binh đội, nổi lên đánh giết quân giặc nhưng quân kháng chiến bấy giờ không có tướng tài, chỉ là những đoàn quân ô hợp, hiệu lệnh bất nhất, lương thực ít ỏi nên lại bị đánh bạt về Nghệ An như trước.
Thêm một lần nữa, Trương Phụ tuyên cáo tờ chiếu của vua Minh, lấy nhân nghĩa cám dỗ các tầng lớp xã hội Việt Nam. Cũng ngay trong lúc này, quân Minh tiến vào Nghệ An để tiêu diệt quân kháng chiến. Lực lượng của nhà Hậu Trần quá suy nhược rồi đi dần đến thế thụ động. Quân đội trước đây được 10 phần thì nay chỉ còn ba, bốn, tai hại hơn cả là chỗ lương thực thiếu thốn. Biết rằng không thể thắng được quân Minh. Quý Khoách mấy phen cho người sang Tàu cầu phong với Minh Đế. Sứ giả bị giết và quân Minh càng đánh ráo riết hơn. Quý Khoách lại phái cả người đến xin hòa với Trương Phụ. Người giữ cái sứ mạng đi cầu hòa với tướng Minh đó là Nguyễn Biểu đã để lại một vài lời khảng khái trong lịch sử trước khi bị họ Trương đem giết: "Chúng bay mượn danh nghĩa đem quân đánh dẹp để khôi phục họ Trần mà bề trong chỉ lo chuyện cướp nước, đặt quân, huyện rồi vơ vét của cải, thật là đồ hung bạo".
Tháng sáu năm Quý Tỵ (1413), quân Minh đánh thành Nghệ An. Thái phó nhà Hậu Trần là Phan Quý Hữu ra hàng nhưng sau mấy hôm thì chết. Con Quý Hữu là Phan Liêu được Trương Phụ cho giữ chức Tri Phủ Nghệ An, muốn lập công lớn đã tố cáo với Trương Phụ các tướng sĩ và thực lực của Quý Khoách, các địa điểm quân sự ở địa phương, nhờ đó Trương Phụ định được kế hoạch tiến đánh Hóa Châu. Mặc dầu Mộc Thạnh cản ngăn rằng Hóa Châu hiểm trở vì núi cao bể rộng, Trương Phụ vẫn chia hai đạo quân thủy bộ tiến đánh quân kháng chiến.
Tháng 9 năm ấy, quân Minh đã có mặt ở Hóa Châu. Nguyễn Súy và Đặng Dung đang đêm đem quân đánh vào trại của Trương Phụ đã lọt được vào thuyền của họ Trương nhưng không biết mặt, nên Trương trốn xuống một chiếc thuyền nhỏ thoát được. Quân kháng chiến mỗi ngày một tan rã, Quý Khoách cùng các thủ túc phải lẩn vào rừng núi sau này cũng bị bắt hết và giải về Yên Kinh. Đi đến nửa đường, Quý Khoách nhảy xuống bể tự tử, còn bọn Nguyễn Súy, Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Dị cũng đều tử tiết cả.
Để kỷ niệm họ Đặng có lòng trung quân ái quốc, nhân dân có đền thờ ông ở huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.
Nhà Hậu Trần thất bại không phải là điều ngạc nhiên vì kiểm điểm tình trạng của mấy triều vua cuối cùng dòng Đông A, năng lực của các nhà lãnh đạo và sự kiệt quệ của nhân dân đời bấy giờ, ta thấy rõ rệt triều Trần không thể tồn tại mãi trên sân khấu chính trị Việt Nam. Nền móng đã lún, cột kèo đã mục, thì làm thế nào khỏi sự sụp đổ.
Dẫu sao, ta cũng phải ngợi khen con cháu nhà Trần đến lúc suy tàn còn có một phen quật khởi, nhưng cũng do sự xụp đổ hoàn toàn của họ Trần, ta thấy rõ lý do xã hội Việt Nam cần phải thay trò đổi cảnh, con thuyền quốc gia mỏng manh như vậy mà trao mãi cho những tay lái bất tài thì sinh mạng của những kẻ đồng hành há là rơm rác sao! Ngoài ra, nhân dân Việt Nam đã ủng hộ cuộc kháng chiến của họ Trần đến như thế cũng là hết lòng, mà họ Trần không tái tạo nổi cơ đồ thì không còn phiền trách vào đâu nữa. Công nghiệp vĩ đại của họ Trần trước đây là chống xâm lăng thì sau này con cháu họ Trần bất lực đem lại cái họa vong quốc, họ Trần phải lĩnh một phần lớn trách nhiệm đối với quốc gia dân tộc. Rồi đây, cũng với trời đất, non sông ấy, nhân dân ấy, người nông dân đất Lam Sơn làm được những sự nghiệp thế nào, ta sẽ hiểu dân tộc chúng ta không bao giờ thiếu nhân tài, tinh thần ái quốc và chiến đấu. Để cho quân giặc xông pha vào bờ cõi như vào chốn không người, chẳng qua những kẻ cầm đầu chính trị cũng như quân sự quá ư hèn nhát. Giặc vừa tới nơi đã bỏ giáo hàng giặc, giặc vừa thét ngoài biên đã mở cửa thành đón giặc, quan liêu, trí thức đâu đâu cũng khoanh tay cúi đầu chịu lệnh của giặc, tâm lý của cả một lớp người thời đó như vậy mà lại trách Quý Ly làm mất nước chẳng đáng buồn cười lắm sao!

Phần 3 - Chương 10
Lê Lợi Chấm Dứt Chế Độ Minh Thuộc
- Giai đoạn đen tối
- Giai đoạn tươi sáng
- Cuộc tổng phản công giặc Minh
- Trận Tuy Động
- Việt quân phong tỏa Đông Đô
- Trận Chi Lăng
- Cuộc hòa giải

1- Giai Đoạn Đen Tối
Nhà Hậu Trần quật khởi từ năm 1407 đến năm 1413 thì hoàn toàn thất bại. Dân Việt Nam như thua cay một ván cờ, thua cay vì không phải không đủ tư cách chơi ván cờ với Bắc phương, nhưng vì kẻ thay mặt toàn dân ra chơi ván cờ quốc sự ấy quả thật bất tài, bất trí. Nhưng vì cuộc tranh đấu để dành quyền sống của dân tộc, đất đai của tổ tiên từ ngàn năm đã có tính cách cổ truyền, nên mỗi lần thất bại, mọi tầng lớp nhân dân lại đoàn kết chặt chẽ để khôi phục độc lập.
Từ nhà Hồ đổ, nhà Hậu Trần ngã quỵ, nhân dân Việt Nam không hề ngừng tranh đấu để quân xâm lăng thiết lập dễ dàng các cơ cấu hành chính quân sự trên lĩnh thổ nước nhà, nên 5 năm sau, một nông gia làng Lam Sơn, huyện Thụy Nguyên, phủ Thiếu Hóa, đã bước ra lĩnh đạo cuộc giải phóng dân tộc, rửa cái nhục bại trận của con cháu nhà Trần. Nhân dân đã hưởng ứng với lời hịch khởi nghĩa của người anh hùng áo vải đó, trong khi đẳng cấp quan liêu, trí thức thử thời nằm im như thóc. Hoặc giả nhân dân không còn tin tưởng gì nữa ở nơi họ vì một số xu mị thời thế chạy theo địch, một số đã tỏ ra bất tài bất lực trong cuộc đấu tranh. Lần này người được chọn mặt gởi vàng là ông Lê Lợi và các đồng chí, phần lớn chỉ là những con người thảo dã. Cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc trong giai đoạn này so sánh với các cuộc chiến tranh trước đây, có tính cách thuần túy nhân dân hơn cả, vì khi khởi nghĩa các lĩnh tụ đa số là tuyệt đối là nông dân. Lúc này đẳng cấp phong kiến đã rút gần hết vào hậu trường sân khấu.
Ông Lê Lợi là nhân vật thế nào thời bấy giờ?
Lúc thiếu thời, ông đã trông thấy cái cảnh quốc phá gia vong như các sĩ phu khác giữa buổi ấy là lúc nhà Hồ sụp đổ, giặc Minh hiếp đáp đồng bào nên tuy là dòng dõi nhà hào trưởng giầu có, ông đã nuôi chí lớn, không muốn khoanh tay nhìn dân tộc chết dần chết mòn và phải sống cái sống nhục nhã của người dân mất nước. Ngoài kinh sử, ông nghiên cứu cả binh thư trận pháp để ứng dụng cái sở năng của mình vào việc cứu quốc sau này. Ông dùng tiền bạc dư dật trong nhà để thu phục nhân tâm, kết nạp hiền sĩ khắp nơi nên nổi tiếng Mạnh Thường Quân một phương. Bọn quan Tàu thấy ông được nhân dân mến chuộng cho người đến dụ, có khi dùng uy thế để dọa nạt nhưng ông nhất định chối từ.
Ông thường nói với những người thân tín rằng: "Đại trượng phu sinh ra ở đời để phò nguy cứu khổ, lưu tiếng lại nghìn năm, chớ đâu để làm tôi tớ người ta!" Một mặt ông chuẩn bị thóc gạo, tiền bạc chờ ngày dùng đến.
Ngày đêm, ông cùng một số đồng chí là Lê Văn An, Lê Văn Linh, Trịnh Khả, Bùi Quốc Hưng, Nguyễn Xí, Lê Sát, Lý Triện, Trịnh Lỗi, Lê Ngân, Đinh Lễ (rồi sau có Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn --45, cùng nhau bàn mưu tính kế trong rừng núi miền Lam Sơn.
Cuối năm Đinh Dậu (1417) binh lương khí giới đầy đủ; ông chọn ngày khởi binh vào sơ tuần tháng giêng năm Mậu Tuất (1418). Vì cuộc bại trận của nhà Hồ và nhà Hậu Trần, lòng người còn hoang mang, Nguyễn Trãi phải lợi dụng lòng mê tín của nhân dân như Trần Thắng cuối đời Tần (Trần Thắng viết ba chữ Trần Thắng Vương vào mảnh lụa, giấu vào bụng cá. Quân sĩ mổ cá thấy cho là trời đã định nên tin theo Thắng, nhưng sau Thắng cũng thất bại), ông cho nhúng bút vào mật viết lên nhiều lá cây trong rừng tám chữ: Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần, sau đó kiến theo đường mật ăn thủng lá thành hình 8 chữ kể trên. Nhân dân cho là điềm thần dị, đồn đại rất nhiều nên người ta theo mỗi ngày một đông.
Lê Lợi phất cờ khởi nghĩa xưng là Bình Định Vương, phong cho Nguyễn Trãi chức Hàn Lâm Thừa Chỉ Học Sĩ, ngày đêm ở trong quân trướng bàn tính mọi việc và làm các văn thư, từ lệnh.
Lực lượng của ta và của Tàu lúc bấy giờ chênh lệch nhau nhiều lắm. Tàu có tới 10 vạn quân đóng ở khắp nơi xung yếu. Quân của Vương có độ vài nghìn nên cuộc chiến đấu rất là gian lao.
Bấy giờ đại bản doanh miền Nam của Minh do Mã Kỳ và Lý Bân cầm đầu đóng đô ở Tây Đô (Thanh Hóa), nghe tin Lam Sơn nổi quân cách mạng liền đem quân đến đánh. Vì thực lực còn mỏng manh, Vương phải dùng thế du kích và phục binh cũng có nhiều khi thắng lợi. Có lần Vương đóng quân ở Lạc Thủy (Cẩm Thủy, phủ Quảng Hoá) để nhử giặc đến. Cùng năm ấy có trận đánh Lý Bân ở Mường Một. Đã có phen Vương thua phải bỏ cả vợ con cho giặc bắt, để rút lui về núi Chí Linh.
Tháng tư và tháng năm Kỷ Hợi (1419) Vương tấn công đồn chính và đồn Nga Lạc (thuộc huyện Nga Sơn, Thanh Hoá giết được tướng Minh là Nguyễn Sao nhưng thế vẫn

45 Theo Việt Nam Sử Lược, khi Bình Định Vương đã nổi lên ít lâu (1420) mới gặp Nguyễn Trãi ở Lộ Giang. Nguyễn Trãi dâng bài sách Bình Ngô rồi được dùng làm tham mưu.

yếu, nên lại rút về núi Chí Linh là vị trí chiến lược và nơi thủ hiểm duy nhất của Vương lúc bấy giờ. (Chí Linh là một ngọn núi thuộc tỉnh Thanh Hoá). Có một lần giặc đem nhiều binh đội đến vây Chí Linh, tìng cảnh của Vương rất là nguy khốn. Lê Lai đóng vai Kỷ Tín (Kỷ Tín ngày trước chịu chết cho Hán Cao Tổ)46 mặc áo ngự bào giả làm Lê Lợi cưỡi voi ra đánh nhau với giặc để cho giặc bắt. Quân giặc tưởng Lê Lai là Bình Định Vương giết đi, rồi yên chí lui quân về Tây Đô.
Sau khi kế sách này thành công, Vương thu tàn quân qua đóng ở Lư Sơn (phía Tây châu Quảng Hóa) và cho ngưới sang cầu cứu Ai Lao. Trong năm ấy, nhiều người Việt như tri phủ Phan Liêu ở Nghệ An, Trịnh Công Chứng ở Hà Hồng, Lê Hành, Nguyễn Đặc ở Khoái Châu, Nguyễn Da Cấu, Trần Nhuệ ở Hoàng Giang, Lê Ngã ở Thủy Dương cũng nổi lên chống nhau với quân Minh.
Hồi tháng 10 năm Canh Tí (1420), Vương đóng quân ở làng Thôi tính xuống phá giặc ở Tây Đô thì Lý Bân dẫn đại binh đến, bị đại quân của ta đánh thua liểng xiểng ở Thi Lang. Vương tiến đóng Lội Giang là một vùng thuộc huyện Cẩm Thủy bên sông Mã và Ba Lậm. Giặc Minh phải đặt quân giữ Nga Lạc và Quan Du để đề phòng Tây Đô.
Tháng một năm Tân Sửu (1421), quân Minh không còn dám coi thường lực lượng của Bình Định Vương. Mấy vạn tinh binh của tướng Minh là Trần Trí chuyển đến Ba Lậm hẹn cùng quân Lào hai mặt đành ập lại. Quân ta theo lệnh của Vương nhân giặc ở xa kéo đến còn mỏi mệt liền mở cuộc tấn công vào ban đêm. Giặc bị hại mất hơn một ngàn người. Trần Trí tức lắm sáng hôm sau xuất toàn lực giao chiến với quân ta, nhưng bị quân ta đã sắp sẵn thế phục binh và đánh kịch liệt quá phải thoái lui. Trong lúc này, ba vạn quân Lào giả xưng sang giúp quân ta nửa đêm kéo tới. Bình Định Vương không ngờ có sự dối trá nên mất một tướng là Lê Thạch bị tên của giặc bắn chết. Tuy vậy quân ta vẫn giữ vững được trận tuyến và mọi căn cứ, quân Lào phải rút lui về.
Năm sau (Nhâm Dần 1422) từ đồn Ba Lậm, quân ta tiến đánh đồn Quan Gia bị liên quân Minh-Lào đánh lối giọng kìm không cầm cự được phải chạy về giữ đồn Khôi Sách. Giặc thắng thế đuổi theo bao vây bốn mặt rất nguy kịch. Vương bàn với tướng sĩ liều chết mở một đường xương máu rút về Chí Linh.
Xét ra trước sau Bình Định Vương chạy về Chí Linh ba lần sau những phen thất trận. Với lần thứ ba này, quân sĩ hao tổn nhiều, lương thực cạn sạch. Hai tháng liền binh sĩ phải ăn rau, ăn cỏ, làm thịt cả ngựa, voi, tinh thần kiệt quệ. Để khôi phục lại nguyên lực, Vương bất đắc dĩ phải sai Lê Trân xin hòa với giặc. Quân Minh ưng thuận vì xét đánh không lợi và có ý chiêu dụ dần. Vương đem quân về Lam Sơn, một thời bọn Trần Trí, Sơn Thọ thường cho người đem biếu Vương trâu ngựa, cá mắm cùng thóc lúa. Vương lấy vàng bạc cho Lê Trân đem tạ. Nhưng sau có sự ngờ vực, giặc giữ Lê Trân lại. Vương đem quân về Lư Sơn, từ đấy đôi bên tuyệt giao.

46 Lê Lai chết thay cho Lê Lợi. Lê Lợi hứa rằng sau này mình chết thì con cháu phải cúng giỗ Lê Lai trước. Ngày 22-8 nhuần năm Quý Sửu (1435) vua Lê Thái Tổ mất nên ngày 21 là ngày kỷ niệm Lê Lai. Sau này có câu: Hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi là vì việc này.

Năm Giáp Thìn quân đội ta đã dư sức, lương thực dồi dào, Thiếu úy Lê Chích đưa ra vấn đề đánh Nghệ An để mở rộng khu vực và lấy chỗ nương tựa ở vùng núi hiểm trở của địa phương, sau đó sẽ tiến đánh Đông Đô. Vương đồng ý liền cho đánh đồn Đa Cang do Lương Nhữ Hốt làm trấn thủ (Lương Nhữ Hốt xưa là tướng nhà Trần sau hàng quân Minh). Hốt bỏ chạy. Quân ta đánh tiếp đồn Trà Long đi đến núi Bố Liệp thì nghe đại quân của Trần Trí, Phương Chính kéo tới. Vương cho quân mai phục các địa điểm chém được tướng giặc là Trần Tùng và 2000 quân địch, bắt được 100 con ngựa. Bọn Trần Trí bỏ chạy thì đồn Trà Long bị uy hiếp. Tri phủ Cầm Bành chờ viện binh không thấy sau phải mở cửa đồn xin hàng.

2- Giai Đoạn Tươi Sáng (Mặt Trận Miền Nam)
Bấy giờ Hoàng Phúc đã về Tàu, Trần Hạp sang thay nhận thấy tình thế nghiêm trọng liền tâu về Minh Đế. Cho đến giờ phút đó quan nhà Minh vẫn coi thường quân khởi nghĩa nên không thông tin về Bắc triều. Minh Đế xuống chiếu quở trách bọn Trần Trí đòi phải dẹp ngay cho xong "quân nghịch".
Trần Trí phải huy động toàn bộ thủy lục giao chiến cùng Vương trên trận tuyến từ huyện Hương Sơn (Hà Tĩnh) đến mạn thượng du Khả Lưu ở Bắc Ngạn sông Lam Giang. Ở đây quân ta dùng thế nghi binh. Ban ngày Vương cho kéo cờ đánh trống, đêm đốt lửa, còn các nẻo đường quân giặc tiến qua thì có phục binh chờ sẵn. Quân giặc bất ngờ đi vào trận địa bốn mặt quân ta đánh ấp tới. Minh mất hai tướng: Chu Kiệt bị bắt và Hoàng Thành bị chém. Trần Trí lui quân và giữ thành Nghệ An. Thành này năm sau (Ất Tị 1425) bị quân ta vây trùng trùng điệp điệp. Thanh thế của Vương lúc bấy giờ lừng lẫy, đi đến đâu cũng được nhân dân đón rước náo nhiệt và đem trâu bò, thóc gạo, cung đốn vui vẻ. Vương nghiêm quân lệnh không cho quân lính phạm vào tài sản của dân chúng trừ những thứ gì thuộc về giặc Minh. Nhiều phủ, huyện ra quy thuận và xin tình nguyện đem quân đánh thành Nghệ An (tỉ dụ tri phủ Ngọc Ma là Cầm Quý giữ phủ Trấn Định). Nghệ An lúc bấy giờ là điểm chính của cuộc tấn công cho Nam Quân.
Toàn cõi Nghệ An chẳng bao lâu thuộc về ảnh hưởng của Nam Quân, bọn Trần Trí cố chết giữ lấy thành đợi viện binh tới. Sau có Lý An ở Đông Quan đem quân do đường bể vào cứu, họp với quân trong thành đổ ra cùng đánh. Quân Minh bị nhử đến sông Độ Gia bị quân ta đánh tan. Trần Trí chạy thoát về Đông Quan còn Lý An vào đóng trong thành lại bị vây như trước.
Nguyễn Trãi bàn nên đem quân đi đánh các nơi khác còn hơn tập trung toàn lực bao vây thành Nghệ An, vì vậy Vương hạ lệnh cho Tư Không Đinh Lễ đem một đạo binh ra phía Bắc đánh chiếm Diễn Châu, Tư Đồ Trần Nguyên Hãn, Thượng Tướng Lê Nỗ, chấp lệnh Lê Da Bồ đem hơn 1000 quân tấn công phía Nam lấy Tân Bình (Quảng Bình, Quảng Trị) Thuận Hoá (Thừa Thiên, Quảng Nam).
Tại Diễn Châu, Đô Ty của giặc là Trương Hùng từ Đông Quan kéo 300 chiếc thuyền lương vào, bị Đinh Lễ đón đánh. Thiên Hộ Tưởng và 300 quân tử trận; Hùng bỏ chạy được. Quân ta cướp được các thuyền lương và đuổi giặc ra tới Tây Đô. Nghe tin Đinh Lễ thắng, Bình Định Vương phái thêm 2000 tinh binh cùng Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Lý Triện và Bùi Bị hợp với Lễ đánh Tây Đô. Tại đây giặc và ta kịch chiến, quân ta chém được hơn 500 tên và bắt được rất nhiều tù binh. Sau đó ta vây chặt Tây Đô như Nghệ An.
Đạo quân của Trần Nguyên Hãn và Lê Nỗ tới sông Bố Chính thì gặp giặc. Bọn Hãn tiến, dùng chỗ hiểm đặt phục binh ở mặt sau. Hãn giả thua chạy. Tướng giặc là Nhậm Năng thúc quân đuổi riết đến chỗ có phục binh thì Hãn quay lại mở cuộc tấn công các ngả. Giặc tranh nhau chạy trốn, lăn xuống sông chết rất nhiều. Giữa lúc này Vương cho Lê Ngân, Lê Bôi, Lê Văn An dẫn thủy quân và 70 chiếc thuyền dùng đường bể vào tăng cường cho đạo quân đánh Tân Bình. Quân ta đuổi quân địch vào tới Tân Bình, Thuận Hóa, thế mạnh như chẻ tre, giặc không sao chống đỡ nổi.
Thế là từ Tây Đô trở vào Nam, quân ta làm chủ, trừ mấy thành lẻ tẻ. Ở đây, ta mộ thêm được mấy vạn binh sĩ nữa để đưa ra mở mặt trận miền Bắc. Từ đấy quân ta mỗi ngày một mạnh, tinh thần quân dân lên rất cao, các tướng tôn Vương lên làm "Đại Thiên Hành Hóa" nghĩa là thay trời làm việc để tăng thêm uy tín với nhân dân.

3- Cuộc Tổng Phản Công Giặc Minh (Mặt Trận Miền Bắc)
Ban trinh sát của ta lúc này biết rõ giặc tập trung hầu hết các đại tướng ở hai nơi quan trọng là Nghệ An và Đông Đô, còn các đồn ải khác lực lượng của giặc rất mong manh. Vương liền tiến quân ra Bắc Việt lập một trận tuyến theo đường vòng cánh cung đánh vào các miền Thiên Quan, Quảng Oai, Quốc Oai, Gia Hưng, Quy Hóa, Đà Giang, Tam Đái, Tuyên Quang là những căn cứ giáp Thượng Du về hai phía Tây Bắc. Trận tuyến này do Khu Mật Đại Sứ Phạm Văn Khảo, Thái Úy Lý Triện phụ trách đón viện binh của giặc từ Vân Nam kéo xuống do đường thủy hay đường bộ.
Một trận tuyến thứ hai kéo từ Khoái Giang, Bắc Giang, Lạng Giang, Thiên Trường, Kiến Xương, Tân Hưng, Ninh Giang do Lưu Nhân Chú và Bùi Bị điều khiển phòng viện binh từ Lưỡng Quảng tiến sang và chiếm đánh miền Đông Nam Trung Châu xứ Bắc. Thêm vào lực lượng Đông Nam có Đinh Lễ và Nguyễn Xí cũng đem một đạo quân ra tiếp theo đánh thốc lên.
Tại Tây Bắc, Lý Triện lấy được Quốc Oai và Tam Đoái rồi đánh xuống Đông Quan. Trần Trí đem quân ra đóng Ninh Kiều và Ứng Thiên, (theo Trần Trọng Kim các nơi này chắc là vùng huyện Từ Liêm, Thanh Oai, về quãng sông Nhuệ và sông Đáy) có lẽ để tránh sự uy hiếp và phong tỏa thành Đông Quan nhưng bị thua trận, phải rút về đóng phía Tây sông Ninh Giang khúc trên sông Đáy.
Tháng chín hơn một vạn viện binh Vân Nam kéo sang dưới quyền tiết chế của Vương An Lão. Lý Triện bàn với Phan Văn Xảo đem mộ ngàn quân đón đánh ở Tam Giang (Việt Trì). Giặc bị giết và chết đuối ở đây rất nhiều. Còn Lý Triện và Đỗ Bí theo riết Trần Trí, cố ý không cho hai cánh quân mới cũ của giặc hợp nhất. Trần Trí lại bại trận một phen nữa, bị đuổi đến làng Nhân Mục mất một tướng là Lý Vi Lạng và chết hơn 1.000 binh.
Hai cánh quân của ta thắng trận xong tập hợp làm một, trở lại bao vây Đông Quan. Giặc thấy thế mỗi ngày một nguy ở ngoài Bắc nên Trần Trí phải gửi thư gọi Phương Chính ở Nghệ An ra, gần như phải hy sinh mặt trận miền Nam để cứu lấy căn bản. Phương Chính được tin Đông Quan nguy ngập liền để Thái Phúc giữ thành Nghệ An, vội xuống thuyền theo đường bể ra Bắc.
Từ giai đoạn này trở đi, chiến thuật, chiến lược của Việt quân thay đổi hẳn vì lực lượng và quân số của ta có thể dồi dào như của địch. Tại các địa điểm sơn cước dĩ nhiên ta vẫn phải lợi dụng các nơi hiểm trở để phục binh đón giặc, còn các miền đồng bằng ta mở các trận địa chiến đại quy mô, do thế ta mới bao vây được giặc ở Đông Đô, Tây Đô và Nghệ An là các căn cứ quan trọng và mạnh mẽ nhất của đối phương. Lương thực cũng sung mãn vì bóng cờ "Đại Thiên Hành Hóa" tới đâu nhân dân các miền quê tự ý hợp nhau cung đốn trâu bò, rượu thịt, vừa để quân đội dùng, vừa để khao thưởng các trận đại thắng. Thật bõ lúc có lần hai tháng phải đào củ ráy, cắt măng vầu và giết voi, ngựa để nuôi sống nhau trong những ngày đen tối ở Chí Linh.
Phương Chính vừa xuống thuyền ra Bắc thì Vương cho Lê Ngân, Lê Văn An, Lê Bôi, Lê Thận, Lê Văn Linh, ở lại tiếp tục vây chặt thành Nghệ An, còn ngài đem quân theo đường bộ đuổi cấp Phương Chính. Ra đến Thanh Hóa, ngài cho đánh Tây Đô nhưng giặc cố thủ nên đánh không được, quân ta đến đóng ở Lội Giang.

4- Trận Tuy Động
Tháng 11, Minh Đế phái Chinh Di tướng quân Vương Thông và Tham tướng Mã Anh đem 5 vạn quân sang cứu Đông Quan. Trần Trí và Phương Chính bị lột hết chức tước, đặt dưới quyền sử dụng của các tướng mới. Tới nơi, Vương Thông tập họp cả quân cũ và mới được 10 vạn, cùng ta quyết chiến một trận lớn.
Trận thế của quân Minh liền sắp đặt như sau:
a) Vương Thông dàn quân ở bến Cổ Sở (thuộc huyện Thạch Thất, phủ Quốc Oai Sơn Tây).
b) Phương Chính đóng ở Sa Thôi (thuộc huyện Từ Liêm)
c) Mã Kỳ đóng ở Thanh Oai (bên bờ Nhuệ Giang). Các dồn ải đặt liên tiếp nhau dài hơn 10 dặm để tiện việc thống nhất hiệu lệnh và tương trợ.
Bên ta, Lý Triện và Đỗ Bí đem quân và voi đến Ninh Kiều phục ở Cổ Lãm nhử Mã Kỳ tới. Mã Kỳ đến cầu Tam La chỗ giáp giới huyện Thanh Oai và Từ Liêm thì bị phục binh của ta đánh, nhiều kẻ phải chạy xuống đồng lầy và bị chém tới hơn 1000 người. Quân ta đuổi theo tới làng Nhân Mục bắt được 500 tên, riêng Mã Kỳ một người một ngựa trốn thoát.
Lý Triện thừa thắng đánh luôn tới cứ điểm của Phương Chính. Phương Chính thấy Mã Kỳ bại cũng không dám chống với quân ta cùng Mã Kỳ về hợp với Vương Thông vẫn đóng nguyên vẹn ở bến Cổ Sở. Tại đây, đại quân của Vương Thông sắp đặt kế phục binh chờ quân ta đến tấn công. Quả nhiên Lý Triện tới. Quân Minh giả thua nhử quân Việt đến thế trận có cắm chông sắt của họ. Tại đây, voi bị chông không tiến lên được, quân mai phục của giặc đổ ra, Lý Triện thua chạy về giữ Cao Bộ (huyện Thanh Trì) và gọi quân của Đinh Lễ và Nguyễn Xí đến. Ngay đêm ấy, 2000 viện quân và 2 con voi đến hợp với quân Lý Triện chia ra phục ở Tuy Động thuộc huyện Mỹ Lương và Chúc Động thuộc huyện Chương Đức, phía Đông sông Đáy chỗ ngã ba thá. Ở đây, ta bắt được do thám của giặc, biết Vương Thông đã chuyển lực lượng đến Ninh Kiều và có một đạo quân đang lén đánh vào mặt sau quân Lý Triện. Họ chỉ chờ có tiếng súng hiệu là hai bên đánh lối gọng kìm vào quân ta.
Biết được mưu giặc, bên ta định luôn kế hoạch và phân phối lực lượng theo chiến lược lừa giặc vào tròng. Đinh Lễ cho người bắn súng, quân giặc liền tiến vào chiến trường Tuy Động. Ở đây, trời đang mưa đường lầy lội. Quân ta bốn mặt đánh ập lại. Thượng thư Trần Hạp và nội quan Lý Lương bị chém. Quân Minh xéo lên nhau và nhảy cả xuống sông nghẽn cả dòng nước.
Giặc chết ở đây tới 5 vạn người và bị bắt sống hơn một vạn cùng rất nhiều khí giới, đồ đạc. Trận Tuy Động đáng kể là một trận lớn nhất từ ngày có cuộc chiến tranh giải phóng. Trận này xảy ra hồi tháng 10 năm Bính Ngọ (1426). Xét về quân số của đôi bên trong trận Tuy Động, ta thấy có điều đáng hoài nghi. Nói rằng quân Vương Thông chết tới 5 vạn và bị bắt hơn 1 vạn mà quân của Đinh Lễ, Lý Triện chỉ mấy nghìn mà thắng được như thế có khác nào lấy tay xua đám ruồi nhặng. Quân Minh đâu lại hèn quá như vậy!  Con  sông  Đáy  về  hạt  Chương  Mỹ    con  sông  nhỏ  dẫu    ngập  xác  chết  cũng chẳng chứa đựng tới 5 vạn người trên một khúc, vì chiến trường Tuy Động chỉ loanh quanh trong khu vực huyện Chương Mỹ. Cổ sử của ta (Việt sử) ắt có điều thiên vị mà nói ngoa như vậy. Đã đành rằng trong trận này có đại tướng xuất binh và là một trận mà địch quân muốn gây dựng lại uy thế. Sự thực, ta chỉ nên nghĩ rằng trận Tuy Động là một trận lớn, quân số của giặc nhiều hơn quân ta gấp năm, bảy mà thôi và giặc đã đại bại nên sau đó phải rút cả vào thành Đông Quan.

5- Việt Quân Phong Tỏa Đông Đô
Bình Định Vương đang đóng ở Lội Giang (Thanh Hóa) thì được tin mặt trận miền Bắc của ta thắng thế. Xét cần giải quyết mặt trận này để kết liễu chiến tranh, vì lực lượng của địch mười phần đã suy nhược tới sáu bảy và ta đã thu phục được gần hết các đất đai trong nước, Vương liền tiến đại quân ra Bắc.
Tới nơi, việc phân phối quân đội thủy bộ được dễ dàng vì địch đã rút hết binh đội vào thành Đông Quan.
Bùi Bị đem một vạn bộ binh bí mật đóng ở Tây Dương Kiều (?). Quân của Vương hạ trại ngay ở gần thành Đông Quan. Thủy quân của giặc tan rã, các chiến thuyền từ Hát Giang thuận giòng sông Nhị tới đóng ở bến Đông Bộ Đầu.
Từ khi Bình Định Vương có mặt tại trận tuyến Bắc Việt, nhân tài hào kiệt ra đón chào và nô nức theo đi đánh giặc, Vương tùy theo khả năng của mọi người mà giao phó trách nhiệm.
Bấy giờ các tướng Minh ở nơi xa thấy Đông Đô lâm vào cảnh cơ nguy và nền đô hộ của họ không có tương lai nên nhiều kẻ chán nản mở cửa thành xin quy phục theo lời chiêu hàng của Nguyễn Trãi. Bình Định Vương xét có thể lập được guồng máy chính quyền để tăng cường tinh thần chiến đấu và lòng tin cậy của nhân dân trong giai đoạn chót, nên chia ngay Bắc Việt ra làm bốn đạo:

1) Tây đạo gồm trấn Tam Giang, Tuyên Quang, Hưng Hóa.
2) Đông đạo gồm trấn Thượng Hồng, Hạ Hồng, Thượng Sách, Hạ Sách, và lộ An Bang.
3) Bắc đạo gồm trấn Bắc Giang và Thái Nguyên.
4) Nam đạo gồm Khoái Châu, Lý Nhân, Tân Hưng, Kiến Xương, Thiên Trường.
Đối với Vương Thông và các tướng lĩnh trong thành Đông Đô, Bình Định Vương cùng quan Hàn Lâm Thừa Chỉ Nguyễn Trãi xét họ đường đường là những quân nhân có tên tuổi của Bắc triều, không thể dùng từ lệnh chiêu hàng, mà cần bàn cuộc giảng hòa bằng lời thư khéo léo, mềm mỏng để giữ thể diện cho họ rút về nước là hơn, khỏi kéo dài chiến tranh và bớt sự hao tổn tài sản, tính mạng nhân dân. Nguyễn Trãi liền viết thư cho Vương Thông, cương nhu đủ giọng, cởi buộc đủ các lẽ. Có khi họ Nguyễn không từ miệng cọp vào thành Đông Quan và nhiều thành khác, lấy lẽ lợi hại chiêu dụ các tướng của địch.
Thái độ của Vương Thông và đồng bọn thế nào?
Bên trong, các tướng lĩnh Minh từ Vương Thông, Sơn Thọ trở xuống đều nhận thấy tình thế lúc này của họ là tuyệt vọng, cũng muốn có cuộc bãi binh nhưng lại thắc mắc về cái nhục chiến bại. Rồi sau họ cũng thuận việc giảng hòa và lục tờ chiếu của vua Minh niên hiệu Vĩnh Lạc (1407), nói về việc khôi phục họ Trần để cùng họ Vương lo liệu cuộc đình chiến. Bấy giờ, có người tên là Hồ Ông xưng là cháu ba đời của vua Nghệ Tông, trốn ở Ngọc Ma, Vương cho đón về đổi tên là Trần Cao, lập lên làm vua, Vương xưng là Vệ Quốc Công. Sau đó, Vương làm sớ lên Minh Đế xin tôn lập Trần Cao làm Quốc Vương nước Nam và đính ước với Vương Thông gọi quân các nơi về họp ở Đông Đô để sửa soạn việc hồi hương. Công chuyện nhường như ổn thỏa thì bọn Việt gian phản đối. Chúng khéo nhắc chuyện bãi chiến xưa kia giữa binh đội nhà Nguyên với các tướng nhà Trần đã xảy ra một việc thiếu thành thực khi Ô Mã Nhi về Tàu, Hưng Đạo Vương cho gia nhân ngầm đục thuyền khiến Ô Mã Nhi phải bỏ mạng trên Bạch Đằng Giang.  Bọn  Vương  Thông  bấy  giờ  đang  bị  khủng  hoảng  tinh  thần  liền  nghe  bọn  họ (Trần Phong, Lương Nhữ Hốt...) Sở dĩ mấy kẻ Việt gian đó phá cuộc giảng hòa bởi chúng không những sợ mất địa vị lại còn lo nguy đến tính mạng của chúng cùng vợ con. Vương Thông vì thế sinh ra gian dối, bên ngoài mềm mỏng với Bình Định Vương, bên trong ngầm sai người về Tàu xin viện quân của Minh triều vừa cầu cứu cả Cố Hưng Tô, trấn thủ Quảng Tây. Hồi tháng 6 năm Đinh Tị (1427), đạo quân Quảng Tây tới cửa ải Pha Lũy (có lẽ thuộc Lạng Sơn) bị các tướng của ta là Lê Lưu, Lê Bôi đánh tan khiến họ Vương đành thúc thủ chờ viện binh chính thức.
Trong giai đoạn này, Việt quân khắp mọi nơi đều giữ thế công và quân Minh giữ thế thủ vì không đủ tinh thần mở các trận đại quy mô nữa. Bình Định Vương vừa đánh vừa tung hịch đi khắp nơi để chiêu hàng những trấn thành còn đang nằm trong tình thế chờ đợi. Đầu năm Đinh Tị (1427), bọn Thái Phúc và Tiết Tụ giữ thành Nghệ An và Diễn Châu mở cửa xin hàng.
Bình Định Vương tiến đóng đại bản doanh ở Bồ Đề, một căn cứ ở phía Bắc sông Nhị để chỉ huy việc công phá thành Đông Quan. Trịnh Khả đánh cửa Đông, Đinh Lễ đánh cửa Nam, Lê Cúc đánh cửa Tây, Lý Triện phá cửa Bắc.
Trong lúc quân Minh suy nhược, ta mất hai đại tướng vì khinh địch. Lý Triện giữ Từ Liêm không đề phòng cẩn thận bị quân của Phương Chính đánh lén tử trận. Đinh Lễ, Nguyễn Xí đóng ở Tây Phù Liệt (Thanh Trì) mang 500 quân tiếp viện cho lực lượng Lê Nguyễn bị quân Vương Thông bao vây ở Mỹ Động, thuộc Hoàng Mai. Hai tướng bị bắt. Riêng Nguyễn Xí trốn thoát, còn Đinh Lễ bị giết.
Một mặt vây đánh ráo riết thành Đông Quan, một mặt Vương thiết quân luật để giữ trật tự trong quân dân như sau:
- Cấm tả đạo (chuyện ma quỷ để lừa dối dân chúng).
- Những dân bị loạn ly phải siêu tán được trở về nguyên quán làm ăn như cũ.
- Vợ con và thân nhân của những ai làm việc với giặc được phép lấy tiền để chuộc tội.
- Tù binh được đưa về Thiên Trường, Lý Nhân, Kiến Xương, Tân Hưng, nuôi nấng tử tế.
Đối với dân thì như vậy, còn đối với các phần tử của chính quyền có ba điều răn này:
- Cấm lừng khừng
- Cấm khi mạn
- Cấm gian dâm
Các tướng sĩ phải theo 10 điều quân kỷ dưới đây:
1) Trong quân không được làm điều huyên náo.
2) Tránh những tin đồn nhảm làm hoang mang lòng người.
3) Lâm trận thấy cờ phất, trống giục thì phải tiến.
4) Thấy kéo cờ dừng quân thì ngừng bước.
5) Nghe chiêng đánh hồi quân thì phải lui.
6) Giữ nghiêm hàng ngũ.
7) Phải lo việc quân trước việc gia đình.
8) Cấm ăn cắp hối lộ của dân đinh phải đi lính và làm sổ sách mập mờ.
9) Phải công bằng trong việc xét công trạng binh đội.
10) Tránh việc gian dâm, trộm cắp.
Tướng sĩ nào phạm vào một trong 10 điều răn này cũng đủ bị tội chém.
Nhờ có quân lệnh nghiêm ngặt như vậy nên dân chúng rất có cảm tình với quân kháng chiến và nhiệt liệt tham gia cuộc tranh đấu.

6- Trận Chi Lăng
Tin Vương Thông thua trận Tuy Động, Trần Hạp bỏ mạng, đại quân hao tổn rất nhiều đã chấn động cả triều Minh. Vua Minh liền phái Chinh Lự phó tướng quân An Viễn Hầu Liễu Thăng, Tham Tướng Bảo Định Bá Lương Minh, Đô Đốc Thôi Tụ, Binh Bộ Thượng Thư Lý Khánh, Công Bộ Thượng Thư Hoàng Phúc, Thổ Quan Hữu Bố Chính sứ Quảng Tây tiến vào Việt Nam. Một đạo khác do Chinh Nam tướng quân kiêm Quốc Công Mộc Thạnh, Tham Tướng Hưng An Bá Từ Hạnh, Tân Ninh Bá Đàm Trung điều động gồm 5 vạn lính và 1 vạn con ngựa đồng thời sang tiếp viện cho lực lượng của Vương Thông đang bị vây hãm ở Đông Đô. Quân Liễu Thăng tràn vào cửa Pha Lũy (Nam Quan), quân Mộc Thạnh vượt qua cửa Lê Hoa, tương truyền thuộc Tuyên Quang.
Tin viện binh đến đã được mang ra thảo luận rất sôi nổi.
Trái với ý kiến của nhiều tướng lĩnh, Bình Định Vương cho rằng nhân dịp này đem hết sức mạnh để lấy Đông Đô là hạ sách mà đánh tan quân cứu viện được thì tất nhiên Đông Đô không đánh cũng phải hàng. Như vậy là bắn một mũi tên được hai con chim.
Việc này được mọi người hoan nghênh, Vương liền hạ lệnh cho dân chúng các vùng Lạng Giang, Bắc Giang, Tam Đái, Tuyên Quang, Tuy Hóa tản cư, áp dụng kế thanh dã (vườn không nhà trống). Các cứ điểm được sắp đặt kỹ càng để đợi viện quân của đối phương, và quân giặc đến thì đánh ngay, bởi chúng vượt dặm trong ít ngày tới nơi phải mệt nhọc, quân ta được nhàn nhã sung sức tất có hy vọng chiến thắng dễ dàng.
Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Lê Linh, Lê Thụ lĩnh 1 vạn tinh binh và 5 con voi phục ở ải Chi Lăng chờ quân Liễu Thăng, Phạm Văn Xảo, Lê Khả, Lê Trung, Lê Lý chia quân các nơi chặn giặc.
Tướng giữ ải Nam Quan (Phá Lũy) là Lê Lựu (V.N. Sử Lược chép là Trần Lựu) thấy giặc vừa đông vừa mạnh tự lượng không chống nổi rút về Ai Lưu. Giặc tiến đánh Ai Lưu, Lê Lựu rút về Chi Lăng. Giặc tiến đánh Chi Lăng thì gặp phục binh của ta. Lê Lựu ra khiêu chiến nhử giặc đuổi theo. Nghe tiếng pháo hiệu nổ, biết Liễu Thăng và quân bản bộ đã vào đúng trận thế, các tướng Lê Sát, Lưu Nhân Chú hô quân mai phục bổ vây chặt chẽ. Giặc hoảng hốt chen nhau, dầy xéo nhau mà chết, Liễu Thăng cùng 100 quân kỵ chạy đến chỗ bùn lầy thì không tiến được nữa, bị chém ở núi Mã Yên. Trận này khởi từ ngày 18 tháng 9 đến ngày 20 thì kết liễu, chủ tướng chết cùng hơn một vạn binh sĩ. Đạo quân tiếp ứng ba vạn người của Lê Lý vừa kịp đến, nhân cái đà thắng trận ùa vây đánh quân Minh chém được Lương Minh ngày 25. Lý Khánh lâm bước nguy kịch ba hôm sau cũng tự sát trong đám loạn quân. Còn lại Hoàng Phúc, Thôi Tụ, đem tàn quân chạy về thành Xương Giang (thành này xây ở xã Thọ Xương phủ Lạng Giang). Nửa đường họ bị quân Lê Sát đuổi kịp đánh cho tơi bời. Thôi Tụ liều chết chạy được tới thành Xương Giang thì thành này đã treo cờ Việt quân. Chiếm được thành này là tướng Trần Nguyên Hãn. Thôi Tụ đành phải rút lui ra ngoài đồng lập trại và đắp lũy để chống giữ.
Lúc này trời mưa bão, giặc không tiến được. Đêm tối Thôi Tụ cho bắn súng làm hiệu để quân trong hai thành Đông Quan và Chí Linh tới cứu, không biết hai nơi này cũng đang lâm nguy. Bình Định Vương chia quân chặn hết các địa điểm thủy bộ từ cửa ải Mã Yên, Chi Lăng và Pha Lũy. Trần Nguyên Hãn được đặc ủy chẹn đường vận lương của giặc. Thôi Tụ, Hoàng Thúc biết tiến thoái đều không có lối, xin hòa nhưng ngầm di binh đến thành Chí Linh. Vương biết mưu gian, cho Lê Văn, Lê Ý xông vào chém được hàng vạn thủ cấp, bắt sống được Thôi Tụ và Hoàng Phúc cùng rất nhiều tù binh. Thế là đạo quân Liễu Thăng chưa vào tới miền đồng bằng Bắc Việt đã bị cái cảnh trúc chẻ ngói tan vô cùng bi đát.
Mộc Thạnh đem quân đến cửa Lê Hoa gặp các tướng Phạm Văn Xảo, Lê Khả. Theo mật lệnh của Vương, các tướng bố trí quân mai phục nhưng không được vội giao chiến vì Mộc Thạnh là một lão tướng có kinh nghiệm chiến trường, không hành quân một cách xốc nổi hẳn còn chờ xem sự thành bại của Liễu Thăng rồi mới hành động. Khi diệt được đạo quân của Liễu Thăng, vương cho dẫn một viên chỉ huy, ba viên Thiên Hộ trong số tù binh cùng sắc thư ấn tín của Liễu Thăng đưa đến hành doanh của Mộc Thạnh. Được rõ sự thật, Mộc Thạnh hết sức kinh hoàng bỏ chạy, bị các tướng Xảo, Khả đuổi đánh và cũng phá tan nốt đạo quân này ở ngòi Lĩnh Thủy. Hơn một vạn quân Minh bị giết ngoài những kẻ bị ngã xuống khe ngòi bỏ mạng không sao kể xiết. Mộc Thạnh một người một ngựa trốn thoát.

7- Quân Minh Xin Hòa Giải
Tới giai đoạn này viện quân của Minh triều bị đại bại, tinh thần của đối phương ở nhiều trấn thành xa xuống rất mạnh. Nhiều tướng lĩnh Minh xin quy phục, chỉ còn 5 thành: Tây Đô, Cổ Lộng (nền cũ của thành này còn ở làng Bình Cách, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định), Đông Quan và Chí Linh vẫn chưa xao xuyến lắm.
Đáng lẽ quân ta tổng tấn công các thành đó trong lúc quân dân của chúng ta đang thừa hăng hái, Bình Định Vương sai viên Thông Sự Đặng Hiếu Lộc dẫn Thôi Tụ, Hoàng Phúc và một số tù binh cùng quả ấn song hổ và cờ kiếm, sổ sách đưa vào thành Đông Quan. Trước đây bọn Vương Thông thấy quân ta phô những khí giới bắt được trong lúc hạ thành Xương Giang và tuy nghe thấy viện quân thua to nhưng vẫn còn phân vân, nay được thấy hiển nhiên tình trạng của Hoàng Phúc, Thôi Tụ thì tuyệt vọng và hoảng sợ hết sức. Bên ngoài chúng thấy Việt quân dựng đồn thắp lũy dự định công phá, lại càng mất mật.
Mưu thuật này đạt được đúng kết quả mong muốn là đánh một đòn nặng vào tâm lý địch giữa lúc họ đang khủng hoảng tinh thần. Biết tình thế hoàn toàn đổ vỡ, Vương Thông, Sơn Thọ cử phái viên là Thiên Hộ họ Hạ đến đại bản doanh của Bình Định Vương đề nghị thành thực cầu hòa và xin mở đường cho chúng lui binh về nước.
Tướng sĩ và nhân dân không tán thành cuộc hòa giải vì lòng người còn căm giận sự tàn bạo trước đây của giặc Minh.
Dư luận còn đang phân vân, Nguyễn Trãi bàn:
- Giặc Minh tàn bạo nhân dịp này giết hết chúng đi là phải, nhưng phải nghĩ nước mình là nước nhỏ, nước chúng lớn gấp mấy chục lần thì xung đột với chúng chỉ là sự bất đắc dĩ. Nếu mối thù ngày một thêm sâu, giặc mất thể diện lại kéo binh sang nữa thì cuộc chiến tranh biết bao giờ mới dứt được. Sao bằng chấp thuận cuộc hòa hiếu để tạo phúc cho sinh linh hai nước. Thả Vương Thông và đồng bọn về, hẳn chúng không còn lòng nào trở sang nữa. Xem như bài biểu dấu trong thỏi sáp của y gửi về Minh triều có câu: "Xin thôi đừng vì miếng đất hẻo lánh một phương mà làm nhọc nhằn quân lính đi xa muôn dặm. Bây giờ muốn đánh lại phải huy động đại quân như buổi ra đi, đại tướng phải sáu bảy người vào hạng Trương Phụ. Nhưng dù lấy lại được thì sự giữ sau này cũng vẫn khó lòng..."
Vương gật đầu khen phải, nói:
"Phục thù báo oán là cái thường tình của mọi người, nhưng bản tâm người nhân không muốn có việc giết người bao giờ, huống hồ người ta đã hàng mà giết thì không hay. Thỏa cái giận một lúc mà đeo cái tiếng muôn đời giết kẻ đầu hàng, sao bằng cho muôn vạn người cùng sống để tránh cuộc chiến tranh cho đời sau, lại còn được tiếng thơm lưu truyền sử xanh mãi mãi..."
Qua câu nói trên đây của Bình Định Vương Lê Lợi, ta thấy rằng người xưa cũng quan niệm giết kẻ đã hạ khí giới là nhỏ mọn, tầm thường, đối với đạo đức còn là điều bất nhân nữa. Ngoài ra, các nhà chính trị thuở đó cũng đã rõ sức mình sức người, nên trước đời bấy giờ cho tới sau này, tiền nhân ta luôn luôn có thái độ dè dặt, khiêm nhượng mỗi khi đuổi xong kẻ thù. Thái độ này quả là khôn ngoan lắm vậy.
Sau việc bàn luận này, Vương cho lập đàn thề ở phía Nam thành Đông Quan hẹn đến tháng chạp thì quân Minh phải về nước. Còn với dân chúng, Vương tuyên lời cáo dụ cho biết chiến tranh đã kết liễu và nền độc lập của nước ta đã khôi phục xong.
Các tướng lĩnh Minh còn lại ở các thành khi ấy là:
Tại Đông Quan có Vương Thông, Mã Anh, Lý An, Trần Trí, Sơn Thọ, Mã Kỳ, Phương Chính. Tại Tây Đô có Hà Trung. Tại Chí Linh có Cao Tường.
Họ phải nộp lại cho quân ta bọn người Nam lĩnh quan chức của nhà Minh cùng những binh dân bắt hiếp phải theo. Chúng ta sửa đường xá, cấp phát thuyền bè cho bọn họ tùy tiện hai đường thủy bộ để hồi hương.
Số tù binh cùng hàng binh và vợ con của chúng có tới 10 vạn người cũng được trao trả cho họ. Xem con số này, ta phải rùng mình về cái nạn ăn bám, cái nạn đục khoét của bọn giặc Minh và thê tử, thân nhân của chúng trong mười năm cắm sào trên đất nước ta.
Theo Trúc Khê trong cuốn "Nguyễn Trãi", số người Tàu vừa quân vừa dân được hồi hương là 30 vạn. Theo Trần Trọng Kim, Bình Định Vương giao cho Mã Anh 2 vạn tù binh và cho Phương Chính, Hoàng Phúc, Sơn Thọ 500 chiếc thuyền cùng lương thảo đầy đủ để trở về bằng thủy đạo, Vương Thông lĩnh bộ binh đi sau và được tiễn biệt rất hậu.
Theo sự suy cứu của chúng tôi, con số của hai ông đưa ra có lẽ không sát sự thực. Số tù binh và hàng binh có thể tới hai ba vạn, tàn quân trong tay Vương Thông ít nhất cũng còn một hai vạn, quân của bọn Hoàng Phúc, Thôi Tụ mang sang nước ta chuyến cuối cùng dầu bị chết nhiều cũng còn vài vạn, cộng với các viên chức hành chính và vợ con của họ ở ngót 500 nha môn và nhân dân theo chúng sang bên này làm ăn hoặc báo hại phải trên 10 vạn. Vậy theo con số của Trúc Khê e quá sự thật, của Trần Trọng Kim thì ít quá. Cứ xem trong thời Tây thuộc, kiều dân Pháp kể cả binh đội thường trú thời bình còn tới 50 ngàn. Với bọn người Minh trong thời chiến tranh và do sự gần gũi hai nước Việt Hoa, con số có thể lên tới gấp đôi, gấp ba.

8- Việc Cầu Phong
Về việc cầu phong, các nhà lãnh đạo thuở đó, như trên đã nói, đã cố tránh sự thất thể diện cho Minh triều nên đã đưa Trần Cao ra làm bung xung cho hợp với tinh thần tờ chiếu của vua Minh niên hiệu Vĩnh Lạc (1407). Minh Tuyên Tông, do lời báo cáo của bọn quan lại và tướng tá ở An Nam về, cũng hiểu rõ địa vị của Trần Cao chỉ là một bù nhìn, nhưng vì thất trận và cũng thiệt hại quá nhiều binh mã nên đành chấp thuận việc cầu phong cho êm chuyện, nhất là quần thần đều tán thành cuộc bãi chiến với phương Nam.
Lễ Bộ Thị Lang là Lý Kỳ sang tuyên chiếu phong Trần Cao làm An Nam Quốc Vương và bãi tòa Bố Chính.
Tháng chạp năm Đinh Tị, bọn Vương Thông thất thểu về đến Long Châu. Thấy tình trạng của binh tướng không sao gắng gượng được nữa, Minh Đế đành ban sắc dụ trả nước An Nam và khuyên giữ theo lệ triều cống khoảng năm Hồng Vũ47 xưa.
Về phương diện tài liệu, chúng tôi thấy cần chép bài chiếu xin cầu phong, đại lược như sau:
"Khi vua Thái Tổ Cao Hoàng Đế mới lên ngôi, tổ tiên tôi là Nhật Khuê vào triều cống trước hết, bấy giờ Ngài có ban thưởng và phong tước vương. Từ đó nhà tôi vẫn nối đời giữ bờ cõi, không bỏ thiếu lễ triều cống bao giờ.
Mới rồi, nhân họ Hồ thoán nghịch, vua Thái Tông Văn Hoàng Đế đem quân sang hỏi tội. Sau khi đã dẹp yên rồi, ngài có hạ chiếu tìm con cháu họ Trần để giữ lấy dòng dõi cúng tế. Bấy giờ quan Tổng Binh Trương Phụ tìm chưa được khắp, đã xin đặt làm quận huyện.
Nguyên tôi lúc trước vì trong nước có loạn, chạy trốn qua xứ Lão Qua, cũng là tìm chốn yên thân mà thôi, không ngờ người trong nước vẫn quen thói mọi, nhớ đến ân trạch nhà tôi thuở trước lại cố ý ép tôi phải về, bất đắc dĩ tôi cũng phải theo.
Dẫu rằng trong khi vội vàng, bị người trong nước cố ép, nhưng cũng là cái tội tôi không biết liệu  xử.  Mới đây tôi đã có xin lỗi trước hàng quân, nhưng không ai chịu

47 Niên hiệu của Minh Thái Tổ (1368 - 1398)

nghe, bấy giờ người nước tôi sợ phải tai vạ, liền đem nhau ra phòng bị các cửa ải, cũng là một kế giữ mình.
Ngờ đâu quan quân xa xôi mới đến thấy voi sợ hãi, tức khắc vỡ tan. Việc đã như vậy, dầu bởi sự bất đắc dĩ của người trong nước cũng là lỗi của tôi. Nhưng bao nhiêu binh mã bắt được đều được thu dưỡng tử tế, không dám xâm phạm một chút nào.
Dám xin Hoàng Thượng ngày nay lại theo như lời chiếu của vua Thái Tông Văn Hoàng Đế tìm lấy con cháu họ Trần, nghĩ đến cái lòng thành triều cống trước nhất của tổ tiên tôi ngày xưa mà xá cái tội to như gò núi ấy không bắt phải phạt nặng bằng búa rìu, khiến cho tôi được nối nghiệp ở xứ Nam, để giữ chức triều cống.
Tôi đã sai người thân tín mang tờ biểu tạ và đưa trả ấn tín, nhân mã tới chốn kinh sư, nay lại xin đệ tâu những danh số ấy."
Ngoài tờ biểu này, sứ bộ là các ông Lê Thiếu Đĩnh, Lê Quang Cảnh, Lê Đức Huy, còn dâng các phương vật sau đây:
1) Hai người vàng để thay mình;
2) Một lư hương bằng bạc;
3) Một đôi bình hoa bằng bạc;
4) Ba chục tấm lượt;
5) Mười bốn đôi ngà voi;
6) Mười hai bình hương trầm;
7) Hai vạn nén hương duyến;
8) Hai mươi bốn cây hương trầm;
(ngoài ra còn nộp hai cái dấu đài ngân, đôi hổ phù của Chinh Lự phó tướng quân, cùng sổ quân đã bị bắt).
Giặc đã ra khỏi bờ cõi, công cuộc giải phóng dân tộc đến đây là thành công trọn vẹn. Bình Định Vương cử ông Nguyễn Trãi làm bài tuyên cáo quốc dân tức là bài Bình Ngô Đại Cáo. Bài Bình Ngô Đại Cáo là một áng danh văn chính trị được ghi vào văn học sử nước nhà, chẳng những người đồng thời của Ức Trai tiên sinh phải khâm phục mà đến ngày nay cũng được coi là một tác phẩm bất hủ. Trúc Khê dịch ra văn quốc âm như sau:
Thay trời làm việc, Hoàng Thượng dạy rằng:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước vì khử bạo
Nước Đại Việt ta Nền văn hiến cũ
Non nước bờ cõi đã khác,
Bắc Nam phong tục vẫn riêng.
Cơ đồ gây dựng trải Triệu, Đinh, Lý, Trần,
Đế bá tranh hùng cùng Hán, Đường, Nguyên, Tống Tuy mạnh yếu từng khi có khác,
Nhưng hào kiệt chẳng thuở nào không. Cho nên:
Lưu Cung tham công mà phải thua, Triệu Tiết muốn lớn càng mau mất. Toa Đô đã bị bắt ở cửa Hàm Tử,
Ô Mã phải chết ở sông Bạch Đằng.
Xét lại việc xưa, Hãy còn chứng rõ
Gần đây, nhân:
Họ Hồ ngang ngược, Lòng người căm hờn,
Quân Minh thừa dịp hại dân,
Đảng ngụy manh lòng đem bán nước. Hơ lũ đầu đen trên lửa bỏng
Đẩy phường con đỏ xuống hang sâu.
Dối trời hại dân, gian xảo đủ muôn nghìn lối; Gây binh nhóm loạn, tàn hại trải hai mươi năm,
Nhân nghĩa vứt đi hoài, vũ trụ tưởng chừng muốn sập; Thuế má vét cho đẫy, núi khe sạch nhẵn như chùi.
Kẻ bị ép xuống khơi mò ngọc, cá nuốt sóng vùi. Bẫy dân cạm đặt khắp nơi nơi,
Vét vật lưới chăng từng chốn chốn.
Dẫu loài sâu bọ cỏ cây, khôn bề rảnh sống; Đến kẻ góa bụa, cùng khổ khó nỗi an thân Máu mỡ dân chúng, nay xây mai dựng.
Chốn châu Lý nặng nề sưu dịch; Trong xóm làng quạnh vắng cửi canh.
Múc cạn nước Đông Hải dễ mà rửa sạch thanh nhơ;
Đẵn hết trúc Nam Sơn, chẳng đủ biên ghi tội ác. Thần, người đều căm giận;
Trời đất chẳng dong tha.
Ta, phát tích tự núi Lam Sơn, Náu hình trong nơi hoang dã. Trước thù lớn làm ngơ không thể,
Cùng giặc già chung sống được sao! Đau lòng não ruột đã ngoài mười niên, Nếm mật nằm gai, phải đâu một buổi!
Quên ăn, bỏ ngủ, dùi mài các sách lược thao; Xét xưa nghiệm nay, suy cứu mọi lẽ hưng phế!
Đồ hồi chính định, Thức ngủ không quên .
Giữa khi quân nghĩa nổi lên, Chính lúc thế giặc đang mạnh Buồn nỗi nhân tài còn ít ỏi, Tuấn kiệt còn vắng thưa.
Chạy chọt sau trước không đủ người, Trù hoạch mưu mô còn thiếu kẻ.
Chỉ vì lòng cứu dân không nguôi nửa khắc; Cho nên xe đãi hiền dành sẵn một bên.
Nhưng đợi người, người vẫn xa xăm Mà việc mình mình càng nóng sốt. Giận tặc đồ chưa trừ khử được, Buồn quốc bộ vẫn truân khiển hoài, Linh son hương cạn đến hàng tuần;
Khôi huyện quân không còn một toán. Bởi trời muốn thử ta để trao nhiệm vụ, Nên ta càng gắng chí để chống gian nan
Tụ tập các đám lưu dân, tay vác cần câu ra đánh giặc; Gắn bó một lòng phụ tử, rượu hòa nước lã để khao quân. Lấy yếu chống mạnh hoặc đánh lúc bất ngờ,
Lấy ít địch nhiều, hoặc dùng quân mai phục
Rút lại thì lấy đại nghĩa mà thắng được hung tàn; Lấy chí nhân mà đè được cường bạo.
Dải bồ tát sấm ran chớp giật, Miền Trà Lân trúc chẻ, ngói bay. Sĩ khí nhân thế càng tăng thêm,
Quân thanh nhân thế càng lừng lẫy.
Một bọn Trần Trí, Sơn Thọ, nghe hơi mà bở vía:
Mấy gã Lý An, Phương Chính nhịn thở cầu thoát thân; Thừa thắng ruổi dài, Tây kinh đã thu phục.
Thuận đường thẳng tiến Đông Đô lại lấy về.
Máu Ninh Kiều lênh láng thành sông, tanh trôi muôn dặm.
Tây Tốt Động (Chúc Động) ngổn ngang đầy nội, như để nghìn năm. Trần Hiệp (Hạp) là tâm phúc của giặc đã phải bêu đầu;
Lý Lương là sâu mọt dân ta lại liền bỏ mạng. Vương Thông nhảy vào chữa cháy mà càng cháy, Mã Anh xông đến gỡ nguy mà càng nguy.
Bó tay đợi chết họ đã quẫn cùng; Không đánh tự tan, ta dùng mưu thuật. Vẫn tưởng chúng phải thay lòng đổi ý; Không ngờ họ còn giở chuyện bày trò.
Vì ý kiến một người, gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác; Tham công danh một buổi, để cười cho tất cả nhân gian.
Do đó thằng nhãi Tuyên Đức (vua Minh) nối giáo không ngừng Khéo sai thằng Liễu Thăng đem dầu chữa cháy,
Đinh Mùi tháng chín, Liễu Thăng dẫn binh từ Khâu Ôn tiến đến; Năm ấy tháng mười, Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam kéo sang, Ta đã đặt phục binh đánh cho giập đầu;
Sau lại đặt kỵ binh, chẹn cho đứt cuối.
Ngày mười tám, Liễu Thăng bị đánh, sa cơ ở Chi Lăng;
Ngày hai mươi, Liễu Thăng bị thua bỏ mạng ở gò Yên Ngựa (Mã Yên) Ngày hai mươi lăm, Bá Tước Lương Minh lâm nguy phải tử trận; Ngày hai mươi tám, Thượng Thư Lý Khánh cùng kế phải quyên sinh. Ta đưa mũi nhọn rạch phăng,
Họ quay đầu giáo đánh lộn;
Kế đó bốn mặt thêm quân để vây bọc;
Định đến trung tuần tháng mười sẽ diệt trừ. Bèn tuyển những đội quân gấu hùm,
Và sai những bầy tôi nanh vuốt. Voi uống khiến nước sông vơi cạn, Gươm mài nên đá núi thủng mòn. Một trận mà ngạc mổ kình phanh, Hai trận mà chim tan, thú giãn.
Tổ kiến lớn phá toang đê núng, Trận gió to rung trút lá khô.
Đô Đốc Thôi Tụ quỳ gối xin thương. Thượng Thư Hoàng Phúc cúi đầu chịu trói.
Lương Sơn, Lạng Giang, thây chết nằm bề bộn; Xương Giang, Bình Than, máu đỏ nhuộm lênh lang. Gió mây đến nỗi bàng hoàng,
Nhật nguyệt ra chiều ảm đạm,
Quân Vân Nam bị ta chẹn ở Lê Hoa, hồ đồ sợ bón mà trước tự vỡ mật;
Quân Mộc Thạnh bị ta phá ở Cần Trạm, dầy đạp lẫn nhau mà chạy lấy thoát thân Lãnh câu máu chảy đầy sông, nước vang tiếng rú;
Đan xá thây trồng khắp nội, cỏ đẫm màu hoen. Cứu binh hai đạo đã vỡ tan tành;
Cùng khấu các thành đều cởi giáp hàng phục. Tướng giặc bị cùm, van vi họ đã xin cho toàn mạng;
Thần võ chẳng giết, khoan hồng ta cũng mở lượng hiếu sinh. Bọn Tham Chính Phương Chính, Nội Quan Mã Kỳ,
Trước được cấp năm trăm chiếc thuyền, đã vượt bể mà vẫn hồn kinh phách tán; Lũ Tổng Binh Vương Thông, Tham Chính Mã Anh,
Lại được cấp mấy nghìn cỗ ngựa, đã về nước mà còn mặt xám mày xanh. Họ đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng,
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức. Chẳng những mưu kế đã xâu xa nhiều lắm, Cũng là xưa nay chưa nghe thấy bao giờ.
Xã tắc từ đây sẽ vững yên, Non sông từ đây sẽ đổi mới. Càn khôn đã bỉ mà lại thái,
Nhật nguyệt đã mờ mà lại trong. Đặng mở nền bình trị muôn năm, Đặng rửa vết thẹn thùng nghìn thuở?
Âu cũng do trời đất tổ tông linh thiêng,
Đã lặng thầm giúp vì mới được thế
Ôi! Ba quân rong ruổi, hoàn thành công đại định. Mừng nay bốn bể thăng bình, bá cáo lời duy tân từ đó, Bảo khắp thiên hạ, ai nấy đều hay.

Nhà Hậu Lê
1) Lê Thái Tổ
2) Lê Thái Tông
3) Lê Nhân Tông
4) Lê Thánh Tông
5) Lê Hiến Tông
6) Lê Túc Tông
7) Lê Uy Mục
8) Lê Tương Dực
9) Lê Chiêu Tông
10) Lê Cung Hoàng


I. Lê Thái Tổ (1428 - 1433)
Trước đây, vì vấn đề thể diện của nhà Minh, Bình Định Vương phải đưa Trần Cao ra cho hợp lý "phù Trần diệt Hồ" mà bọn Trương Phụ đã tung ra trong lời hịch. Nay việc chiến tranh đã yên, nếu Trần Cao đóng vai nguyên thủ, tình thế sẽ ngang trái bởi quốc dân quan niệm vị cộng chủ của quốc gia phải là người có công ơn với đất nước và có tài đức khả dĩ để chế phục nhân tâm. Trần Cao biết địa vị mình sẽ là điều khó xử cho quốc dân nên bỏ trốn vào châu Ngọc Ma (phủ Trấn Ninh), sau bị bắt và phải uống thuốc độc mà chết.
Bình Định Vương lên ngôi năm Mậu Thân (1428), đặt quốc hiệu là Đại Việt.
Ngài cho sứ sang Tàu cầu phong nhưng nhà Minh không nghe đòi phải kiếm người khác thuộc dòng nhà Trần để lập làm vua. Hai ba lần biểu qua sứ lại, các phụ lão nước Nam vẫn khai họ Trần không còn ai nữa, sau vua Minh phải thuận.
Nước ta cứ ba năm phải cống nhà Minh một lần và lần nào cũng phải đúc hai người bằng vàng gọi là "Đại thân kim nhân" để thế mạng cho Liễu Thăng và Lương Minh là 2 viên đại tướng đem viện quân sang bị ta đánh bại và tử trận. Âu cũng là một cách bòn rút của triều Minh khi họ phải gạt nước mắt rời bỏ mảnh đất phương Nam béo bở này. Nước ta nhỏ mà các lân quốc Đông Nam Á cũng chỉ là những tiểu dân tộc không thể hợp thành được một sức mạnh để chống lại Trung Quốc, đành thi hành câu "tránh voi chẳng hổ mặt" miễn là họ đừng phạm vào chủ quyền của chúng ta. Việc thần phục chỉ là một chuyện hình thức mà thôi. Các triều đại trước đã áp dụng mánh lới ngoại giao này, các triều đại sau cũng không thể làm khác được.
Vua Thái Tổ phong thưởng cho các công thân, đó là việc tất nhiên phải làm trước. Đứng đầu quan văn là Nguyễn Trãi, đứng đầu võ quan là Lê Văn. Các đại thần có Trần Nguyên Hãn làm Tả Tướng Quốc, Phạm Văn Xảo giữ chức Thái Úy.
Công thần chia ra làm ba bậc để hưởng tước. Bậc nhất được hưởng tước Thượng Trí Tự. Bậc nhì được tước Đại Trí Tự. Bậc ba được Trí Tự.

1- Học Chính
Vua Thái Tổ cho đặt trường Quốc Tử Giám ở kinh đô, lấy các thanh niên con các quan và con thường dân tuấn tú vào học tập (theo Trung Quốc thời cổ). Ở các phủ, các lộ cũng mở các trường để thông việc học khắp dân gian. Ngài cho lập Minh Kinh khoa buộc các quan văn võ tứ phẩm trở xuống phải thi về kinh sử và các môn võ. Có lẽ đây là một khoa thi có tính cách bổ túc, bởi trong thời kháng chiến chưa có sự đào luyện nhân tài. Ở các lộ cũng mở khoa Minh Kinh để các người ẩn dật ứng thí và xuất đầu lộ diện.
Những tăng nhân (Phật Lão) cũng phải khảo hạch. Ai hỏng thì phải hoàn tục.
Năm Thuận Thiên thứ hai (1429), triều đình mở khoa thi Hoành Từ ở nơi dinh cũ Bồ Đề. Thượng Thư Lê Văn Linh làm Đề Điệu, quan Thừa Chỉ Nguyễn Trãi làm Giám Thị. Trong những đầu bài ra cho sĩ tử khoa này, có bài thơ "Chân cho chính trực" và bài hịch  Thiên  hạ  cần  vương,  lấy  đỗ  6  người    Mạc  Thiên  Tích,  Đào  Công  Soạn,  Trịnh Thuấn Du, Phan Phù Tiên v.v...

2- Luật Pháp
Vua Thái Tổ cho thi hành hình luật nhà Đường. Có 5 thứ hình phạt: tội xuy, tội trượng, tội đồ, tội lưu và tội tử.
1) Tội xuy, chia ra 5 hạng từ 10 roi đến 50 roi.
2) Tội trượng cũng vậy, từ 60 đến 100 trượng.
3) Tội đồ có ba hạng: đồ làm dịch đinh, làm lính chuồng voi, làm lính đồn điền.
4) Tội lưu có ba hạng: lưu đi châu gần là vào Nghệ An, đi xa là vào tới châu Bố Chính - đi ngoại châu là tới Tân Bình.
5) Tội tử có ba bậc: tội thắt cổ và chém, tội chém bêu đầu, tội lăng trì.
Trong hình luật còn có việc Bát Nghị, tức là tám trường hợp giảm khinh cho các công thần và quốc thích. Ai được vào hạng bát nghị thì Hình Quan phải tâu lên để vua xét lại.
Những cựu thần hay công thần từ ngũ phẩm trở lên nếu phạm tội đồ hay tội lưu thì được tha. Con cháu của các người ấy phạm tội thì được giảm. Quan viên và quân dân lỡ phạm tội lưu thì được chuộc. Những người già 80 tuổi trở lên, những con trẻ từ 10 tuổi trở xuống hay có tật nguyền cứ theo thứ tự được khoan giảm, kẻ phạm tội mà ra tự thú cũng được ân giảm. Trong nước bấy giờ có nhiều kẻ du đãng, ham cờ bạc rượu chè, bỏ việc làm ăn, để sửa đổi phong hóa các nhà đương đạo tỏ ra rất nghiêm khắc. Kẻ đánh bạc phải chặt ngón tay tới ba phân. Kẻ đánh cờ phải chặt ngón tay một phân. Không có lý do xác đáng họp nhau rượu chè phải đánh 100 trượng. Người chứa kẻ ăn uống cũng phải chịu trách nhiệm và chịu hình phạt nhẹ hơn.
Luật pháp của đời Hậu Lê kể ra có phần quá khắt khe nhưng có lẽ các nhà cầm quyền thấy nước nhà bị bại hoại lâu năm cần phục hưng nhanh chóng nên phải khắc nghiệt với những kẻ lười biếng hoặc ham những việc đàng điếm, xa xí. Sử chép sự nghiêm khắc này có đem lại nhiều kết quả về thực hành. Để hiểu thêm chính sách kiệm cần của vua Lê Thái Tổ, xin nhắc rằng thấy dân nước nghèo nàn, công quỹ không dồi dào, nhà vua hạ chiếu cấm các quan không được bày các lễ nghi khánh hạ tưng bừng ở điện đình, không được tham nhũng và trễ biếng. Vua quan còn tự hạn chế những điều xa xỉ, tất nhiên luật pháp không dung sự đàng điếm phóng túng ở nơi dân dã.
3- Hành Chính
Nước ta chia làm bốn đạo (Đông - Tây - Nam - Bắc, gồm toàn thể các tỉnh từ trung châu lên đến các vùng thượng du Bắc Việt), ngay khi vua Thái Tổ ra bình định Đông Đô. Nay toàn cõi Việt Nam gió yên sóng lặng, triều đình lập thêm một đạo nữa gọi là Hải Tây đạo. Hải Tây đạo có các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Tân Bình và Thuận Hóa tức Cửu Chân và Nhật Nam xưa kia.
Đứng đầu mỗi đạo có một quan Hành Khiển (cũng như chức Tổng Đốc) trông nom kiểm soát mọi việc quân sự chính trị. Các cơ cấu hành chính hương thôn chia ra ba bậc: đại tư xã có trên một trăm người, đặt ba xã quan cai trị; trung xã có trên 50 người đặt hai xã quan; tiểu xã có trên 10 người trở lên đặt một xã quan.
4- Cải Cách Điền Địa
Dân ta là một dân chuyên sống về nông nghiệp, có rất ít công nghệ và thương mại. Ai không có đất cày thì rất khó khăn về cách sống. Trong thời kháng chiến nhiều người lẩn tránh việc quân nên mua bán được nhiều ruộng nương, trái lại những người phải tòng quân khi mãn chiến trở về thường tấc đất cắm dùi không có. Muốn lập lại thế quân bình trong dân chúng về phương diện kinh tế và xã hôi, Thái Tổ định ra phép quân điền. Nhờ sáng kiến này, nhà nước có một số ruộng và đất công (công điền, công thổ), chia cho mọi người từ quan đại thần (để thưởng công lao giúp nước lúc nguy vong) đến các người già yếu, cô quả (để nâng đỡ những người cùng quẫn). Phép quân điền nay đã đưa lại cho nước ta một chế độ tư hữu tài sản và được duy trì cho đến ngày nay.
5- Binh Chế
Khi còn cần dùng binh đội để đánh giặc Minh quân số của vua Thái Tổ từ cuộc tổng phản công ở Đông Đô là 25 vạn người. Quân Minh rút lui, triều đình cho giải ngũ 15 vạn về quê làm ăn, còn giữ lại 10 vạn đóng giữ các nơi. Số lính này lại chia ra làm 5 phiên, một phiên ở lại lưu dịch, bốn phiên kia cho về làm ruộng rồi cứ luân chuyển để thay đổi nhau.
6- Việc Giết Công Thần
Vua Lê Thái Tổ làm vua được 6 năm thì mất, thọ 49 tuổi, đã để lại nhiều công ơn cho đất nước, do dự nghiệp giải phóng dân tộc, phá tan ách xâm lăng. Mưu trí tài ba của Ngài thật không có chỗ nào đáng chê trách, duy trong thời Ngài trị vì, Ngài đã nghe lời dèm pha mà giết oan hai ông Phạm Văn Xảo và Trần Nguyên Hãn là hai người đã lập được nhiều công lớn (Ông Nguyễn Trãi cũng đã có phen bị hạ ngục); thật là đáng tiếc!
Sử gia cận đại Trần Trọng Kim viết đến đây đã than cho những người xấu số ấy như sau:
"Nghĩ mà buồn thay cho mấy người công thần đời xưa chỉ lầm vì hai chữ công danh (!) mà đem tấm lòng son sắt đi phù tá quân vương trong lúc nguy nan, mong được chút hiển vinh để cho thỏa cái chí trượng phu ở đời (!), ngờ đâu chim bay đã hết, cung tốt cất đi, thỏ lanh chết rồi, chó săn phải giết; đến khi công việc xong rồi thì không những là một thân mình cũng không được trọn vẹn mà cả họ hàng thường cũng vạ lây. Thế mới biết chỉ có Trương Tử Phòng nhà Hán là người kiến cơ hơn cả!"
Đây là một ý kiến có phần xác đáng nhưng không khỏi là một tư tưởng tiêu cực.
Theo thiển ý của chúng tôi, việc giết hại công thần là điều đáng trách và cũng đáng buồn cho chuyện đời, khi gian lao nguy hiểm thì có nhau mà lúc vinh hoa phú quý lại là lúc xa nhau, ngờ nhau để một ngày kia sát phạt lẫn nhau. Từ vạn cổ, nhân sự thường như vậy và cũng khó bề nói lẽ dại khôn. Người trượng phu xuất thế, há chỉ vì hai chữ công danh, nước loạn dân tàn há có thể điềm nhiên tọa thị? Rồi sự nghiệp có hai phần: phần tranh đấu cho nước non buổi loạn ly và phần trị bình lúc sóng yên bể lặng. Nhân tài một quốc gia không thể đầu hôm, sớm mai mà nẩy nở được, nếu ai cũng theo Trương Tử Phòng sau khi trị loạn rồi thì tịch cốc tòng tiên, vậy sứ mệnh trị bình để ai gánh vác? Ngoài ra, các danh thần lương tướng sau việc dẹp loạn, yên dân cũng còn nhiều hoài bão giúp nhà giúp nước thêm nữa, đâu có thể nửa đường dứt gánh cho đành. Vậy thì nhiệm vụ con người ta đến đâu phải làm tới đó, kể chi đến điều hay dở rủi may, sẽ xảy đến cho mình sau này. Đã tự nhận là đấng trượng phu thì phải quan niệm sự đời khác người một chút. Nhà văn hào Alfred de Vigny, trong bài "La mort du loup", đã viết mấy câu thơ này đáng kể về tư tưởng hy sinh, khắc kỷ, như luận ý trên đây:
"Gémir, pleurer, prier est également lâche! Fais énergiquement ta longue et lourde tâche, Dans la voie où le sort a voulu t'appeler,
Puis après, comme moi, souffre et meurs sans parler"
(Kêu cầu, than, khóc đều là hèn nhát; hãy cương quyết làm nhiệm vụ dài lâu và nặng nề của mình trên con đường mà số mệnh đã gọi. Rồi sau, như ta, hãy chịu đau khổ và chết đi không thèm hé miệng.)

II. Lê Thái Tông (1434 - 1442)
Vua Thái Tông lên ngôi mới mười một tuổi. Lê Sát được cử làm quan Phụ Chính, mọi việc triều chính đều do ông quyết định.
Ông xuất thân là một võ tướng, vì có công trong thời đánh đuổi giặc Minh nên được phong đến Đại Tư Đồ. Vì ít học nên khi giữ địa vị lớn ông hay lạm quyền và có tính kiêu ngạo. Một số triều thần không chịu khuất phục ông đều bị hãm hại.
Được ít lâu, vua Thái Tông tuy còn ít tuổi nhưng thông minh, dần dà việc triều chính nhà vua nắm giữ lấy. Ngài giết Lê Sát để thâu lại quyền binh, nhưng sau vì không có người phụ tá đắc lực can ngăn nên ngài đắm say tửu sắc và thiếu nhiều đức tính của một bậc đế vương.
Ta hẳn nhớ những người tay chân của vua Thái Tổ hầu hết là những võ tướng thiếu học. Có một số người có học là những văn quan nhưng lại ở chức nhỏ vì đến sau, trừ Nguyễn Trãi là một nhà văn học uyên bác, ngay tiên sinh tuy địa vị lớn nhưng do tính ngay thẳng thường bị số đông dèm pha mà không được tin dùng lắm. So sánh với hai tiền triều Lý, Trần buổi đầu thì triều Hậu Lê kém hiền tài rõ rệt.
Dưới đời vua Thái Tông, thiên hạ thường bị nhiều tai trời, ách nước, hạn hán, sâu hoàng trùng cắn lúa phá hại mùa màng, dân gian bị đói khổ. Tại vài miền sơn cước có đôi ba đám giặc Mường, Mán nổi loạn, có khi nhà vua phải thân chinh, có khi cho các quan đi đánh dẹp. Còn các lân bang như Xiêm La, Ai Lao, Chiêm Thành, nhờ uy thế của vua Thái Tổ nên vẫn có sự giao hảo và tiến cống.
Việc thi cử được chỉnh đốn lại như sau: 5 năm một lần thi Hương, 6 năm một lần thi Hội. Phép thi thì kỳ đệ nhất làm một bài kinh nghĩa, bốn bài tứ thư nghĩa (giải thích các điều trong tứ thư) mỗi bài phải từ 300 chữ trở lên; kỳ đệ nhị làm bài chiếu, chế, biểu; kỳ đệ tam làm bài phú, kỳ đệ tứ làm bài văn sách từ một ngàn chữ trở lên.
Năm Nhâm Tuất (1442), mở khoa thi Tiến Sĩ (đời Trần có khoa thi Thái Học Sinh tức là khoa thi Tiến Sĩ đời Hậu Lê). Các ông nghè là những người đỗ tiến sĩ được ghi tên vào bia đá để khuyến khích nhân tài về văn học. Bia tiến sĩ được đặt ở Văn Miếu là nơi thờ Khổng Phu Tử, ông tổ Nho Giáo có từ thủa đó.
Việc tiền tệ cũng có sửa đổi: cứ 60 đồng là một tiền, lụa thì cứ dài 30 thước, rộng một thước 5 tấc (một thước của ta tương đương 40cm) là một tấm; vải thì dài 24 thước hoặc 22 là một tấm, giấy thì 100 tờ là một tập.

Cái Án Lệ Chi Viên
Mùa thu tháng 7 năm Nhâm Tuất, (năm Đại Bảo thứ ba 1442), vua Thái Tông ngự giá đi Đông Tuần đến duyệt binh ở thành Chí Linh là nơi cách Côn Sơn không xa. Nguyễn Trãi một thời đã cáo quan về trí sĩ ở đấy, bởi nhìn thấy trong triều thưa vắng người trung chính, bè đảng quyền thần Lê Sát ngồi đầy, vả thù nhà nhục nước đã trả xong nên ông xin về để tránh những tai vạ bất ưng có thể vương vào mình. Về Côn Sơn, ông lấy gió trăng, thơ văn, sách vở làm bạn quên lãng sự đời, nhưng chẳng bao lâu lại bị vua Thái Tông vời ra trao cho chức Kim Tử Vinh Lộc Đại Phu, Nhập Nội Hành Khiển, Môn Hạ Tỉnh, Giám Thị Đại Phu, Hàn LÂm Viện Thừa Chỉ Học Sĩ coi việc tam quân và kiêm việc quân dân bạ tịch, từ tụng ở hai đạo Tây Bắc, ông lại phải về triều cung chức, cũng hy vọng mang cái sở học đền đáp ơn trên và phụng sự dân tộc.
Được tin Thái Tông về Chí Linh, Nguyễn Trãi đón rước xa giá về Côn Sơn. Theo Việt Nam Sử Lược vua Thái Tông gặp Thị Lộ là thiếp yêu của quan Hành Khiểm rất có tài sắc ở đây, rồi nhà vua cho nàng theo giá về kinh thành. Điều này xét ra không đúng. Trúc Khê tác giả cuốn "Nguyễn Trãi" viết: "Thị Lộ đã được gần vua khá lâu trước cuộc duyệt binh ở Chí Linh. Nàng được vời vào cung giữ việc dạy các cung nhân với chức Lễ Nghi Học Sĩ. Rồi nhà vua đã say mê nàng. Nguyễn Trãi tuy biết việc này nhưng chỉ đành bấm bụng và Thị Lộ cũng không thể có một thái độ nào khác là thụ động mối tình vương giả ấy. Nàng được lệnh về Côn Sơn để cùng Nguyễn Trãi lo việc đón tiếp sau đó nàng theo giá hoàn cung với nhà vua cùng một lúc"48.
Ngày mồng 4 tháng 8, ngự đạo về đến huyện Gia Định (nay là Gia Bình, thuộc tỉnh Bắc Ninh) gặp trời tối phải nghỉ lại ở Lệ Chi viên (làng Đại Lai) là một trại trồng vải, xưa kia là chốn ly cung của các triều Lý, Trần. Đêm hôm ấy, nhành hoa thược dược được thấm nhuần cơn thụy vũ, rồi rạng ngày mồng 5, Thị Lộ trong màn ngự nhảy ra kêu thất thanh.
Vua Thái Tông lạnh dần. Ngự Y dùng đủ mọi phương để cứu mà vẫn vô hiệu. Nửa đêm mồng 6, xa giá về đến kinh sư mới khua chuông báo cho thần dân biết hung tín. Ai nấy đều hết sức xôn xao. Sự thật vua Thái Tông mất chỉ vì trải một đêm tửu sắc quá độ rồi cảm nhiễm sương gió.
Cái chết đột ngột của ông vua 20 tuổi, không ốm, không đau trong tay một người đàn bà, và người đàn bà đó là thiếp yêu của một vị trọng thần, quả là một điều đáng nghi ngờ. Trong triều đình, vì không a dua với bọn tiểu nhân, Nguyễn Trãi lại giữ địa vị lớn đã từng bị nhiều sự ghét ghen hiềm khích, thì đây là một dịp tốt để họ rửa hờn báo oán và tranh giành ảnh hưởng. Về phía bọn quan liêu như vậy đã là mối nguy lớn, về phía Hoàng Gia, cái chết của Thái Tông càng tai hại hơn cho họ Nguyễn. Nguyên bà phi Nguyễn Thị Ánh, người làng Bố Vệ, huyện Đông Sơn, xứ Thanh Hóa, sau buổi tiến cung chầu hầu vua Thái Tông đã sinh được Hoàng Tử Bang Cơ hồi tháng 6 năm Đại Bảo thứ hai (1411), và tháng 11 năm ấy Hoàng Tử Bang Cơ được lập làm Thái Tử sau khi Thái Tử Nghi Dân bị truất vì bà mẹ có tội. Trong giai đoạn này Thị Lộ vào làm Lễ Nghi nữ học sĩ. Rồi nàng đã chiếm được lòng yêu của ông vua đa tình, hiếu sắc.
Ngoài chuyện ghen ghét nhau ở chốn phòng khuê, lại còn việc bà Tiệp Dư Ngô Thị Ngọc Giao, người làng Đông Bàng, huyện An Định, tỉnh Thanh Hóa, sinh quý tử làm bà lo ngại cho địa vị của mình và của con. Ngô Diệp Tư bị cáo dính líu với Huệ Phi (con gái Đô Dốc Lê Ngân) về việc mời thầy mo làm bùa để cầu được vua yêu, nhân thế Huệ Phi bị giáng xuống làm Tư Dung, Tiệp Dư bị xử phát lưu, được Nguyễn Trãi xui Thị Lộ lĩnh

48 Có sách chép lúc này họ Nguyễn đang đi kinh lý Bắc Đạo.

thu giam, có ý bảo toàn cho mẹ con Ngô thị. Thái Tông bằng lòng truyền giao cho nàng đem giữ Ngô Tiệp Dư ở chùa Hoa Văn. Nguyễn Trãi thường sai người đem tiền gạo cấp dưỡngcho người đàn bà bất hạnh này. Mùa thu năm Đại Bảo thứ ba, Tiệp Dư sinh ra Hoàng Tử Tư Thành, Thị Lộ xui bà đem con trốn đi.
Về Thị Lộ, còn một điều nữa cần biết. Khi vua Thái Tông tin yêu, nàng từng bàn luận cùng vua nhiều việc, cũng có thể vì thế mà làm mất lòng nhiều người nữa.
Ở vào hoàn cảnh từ cung cấm ra tới triều đường, nhiều kẻ ghét ghen như thế thì Ức Trai tiên sinh và Thị Lộ tránh sao cho khỏi cái thảm họa chu di.
Thị Lộ và Nguyễn Trãi bị bắt giam liền.
Ngày 16 tháng 8 năm Nhâm Tuất (1442), niên hiệu Đại Bảo thứ ba, lịch sử nhà Hậu Lê đã chép một cái án phản quốc của một vị đại công thần, anh hùng dân tộc, bi thảm và bất công hơn cả cái án Hàn Bành (Hàn Tín và Bành Việt) đời Hán Cao Tổ.
Trước Nguyễn Trãi có cái chết vô lý của Trần Nguyên Hãn và Phạm Văn Xảo, sau họ Nguyễn trong những kẻ đã nằm gai nếm mật cùng người hào kiệt đất Lam Sơn lại thêm một số nữa... họ chết một cách thảm khốc, cũng do tay một người đàn bà và bọn tiểu nhân, mà nguyên nhân vẫn không ngoài những mối lợi riêng tây. (Theo Chu Thiên, bà Tuyên Từ Thái Hậu sợ con bà Ngô Diệp Tư ứng vào điềm lành sẽ giành được ngôi con mình vừa được lập làm Thái Tử, bà sẽ mất quyền nên khi vua Thái Tông băng hà, bà liền mưu với các đại thần Nguyễn Xý, Lê Khả, Lê Khắc Phục, nhân cái chết bất thình lình của vua Thái Tông mà giết luôn ông Nguyễn Trãi, sợ ông cản trở việc tôn lập vị vua còn bế ngửa, sau này bà giết luôn đến cả bọn Khả và Phục, e bọn này có lúc hồi tâm trở lại làm lung lay địa vị của bà).
Người đời sau đọc lịch sử, viết lịch sử, nhớ đến huân nghiệp vĩ đại của Nguyễn tiên sinh và các bạn đồng chí không khỏi có sự ngao ngán cho công lý thời phong kiến.


III. Lê Nhân Tông (1443 - 1459)
Vua Thái Tông làm vua được chín năm, thọ được 20 tuổi, Hoàng Tử Bang Cơ lên nối ngôi hãy còn ẵm ngữa (chưa đầy hai tuổi). Bà Từ Tuyên Thái Hậu rủ rèm dự chính. Phụ tá của Thái Hậu là các vị đại thần Lê Khả, Lê Khắc Phục, Nguyễn Xý.
Trong những năm bà Tuyên Từ cầm quyền, có mấy việc quan trọng là đặt ra mười bốn điều hộ luật về tư đền, sửa đổi chương trình khoa sử (bỏ thi ám tả và thi kinh nghĩa, chỉ có thi viết và thi tính), đào sông Bình Lỗ (theo Khâm Định Việt Sử thì sông Bình Lỗ chảy từ Thái Nguyên về đến Phù Lỗ, một địa hạt thuộc tỉnh Phúc Yên, có lẽ là sông Cà Lồ chăng?), để tiện việc vận tải và giao thông trong nước
Bà Thái Hậu lại làm thêm việc giết hại công thần nữa, sau khi mưu với Lê Khả, Lê Khắc Phục, Nguyễn Xý, giết Nguyễn Trãi như trên đã nói.
Lần này đến lượt chính bọn Lê Khả, Lê Khắc Phục (theo Chu Thiên trong cuốn Lê Thánh Tông là Trịnh Khả, Trịnh Khắc Phục là nạn nhân của bà, việc chém giết này cũng đã gây mối dư luận rất sôi nổi trong nước.
Năm Quý Dậu (1453), Nhân Tông mới bắt đầu tham chính. Có lẽ ngài đã nghe được những  lời  chỉ  trích  của  nhân  dân  về  việc  sát  hại  công  thần  nên  ngài  cho  truy  tặng những người đã quá cố và cấp ruộng quan điền cho con cháu các ông Nguyễn Trãi, Lê Sát, Lê Ngân, Lê Khắc Phục.
Phan Phù Tiên được ủy soạn bộ Quốc Sử từ đời Trần Sơ cho đến hết thời Minh thuộc được tất cả 10 quyển.
Trước đây các vương hầu và các quan văn võ ăn bổng lộc bằng thuế 50 hộ hay là 100 hộ (nhà) tùy theo phẩm trật.
Bên ngoài, Chiêm Vương Bí Cai thường đem quân quấy rối Hóa Châu. Quân ta nhiều lần vào chinh phạt nhưng vẫn không sao dứt. Năm Bính Dần (1446), các ông Lê Thụ, Lê Khả được triều đình cử đem quân điếu phạt Chiêm Thành, chiếm được thành Chà Bàn, bắt được Bí Cai cùng các phi tần đem về Thăng Long. Cháu vua Bồ Đề là Ma Kha Qui Lai được triều đình lập lên thay Bí Cai.
Chiến công năm Bính Dần đã có ảnh hưởng lớn ra ngoài biên giới nên năm Mậu Thìn (1448), xứ Bồn Man xin quy phục nước ta. Từ đó Bồn Man được đổi tên là châu Quy Hợp. Châu này gồm các thung lũng, đồi núi ở phía Đông Nam giáp Nghệ An, Quảng Bình, phía Tây Bắc giáp Thanh Hóa, Hưng Hóa.
Trong 16 năm (1443-1459), tuy chính sự không có gì đặc sắc nhưng dân được làm ăn dễ chịu, và Nhân Tông hẳn cũng là một ông vua hiền. Giữa khi thuận buồm xuôi gió, bỗng xảy ra cuộc thí nghịch của Lạng Sơn Vương Nghi Dân vào năm Kỷ Mão (1459).
Nghi Dân mưu với bọn Phạm Đồn, Phan Ban, Trần Lang và Điện tiền Chỉ Huy Sứ Lê Đắc Ninh, nửa đêm bắc thang đột nhập vào hoàng thành nơi cửa Đông, nhảy vào cung đâm chết vua Nhân Tông. Thị Hậu Phó Chưởng là Đào Biểu chống lại quân phiến loạn cũng bị giết.
Sáng hôm sau Nghi Dân cho giết cả bà Tuyên Từ Hoàng Thái Hậu rồi tự lập làm vua, đổi niên hiệu là Thiên Hưng, cho sứ sang Tàu cầu phong. (Nghi Dân là con cả vua Thái Tông, anh Cung Khắc Vương Khắc Xương, vua Nhân Tông Bang Cơ và vua Thánh Tông Tư Thành).

Phản Ứng Của Triều Đình
Cuộc đảo chánh xong xuôi được 8 tháng thì giữa triều Lê lại sinh biến, có lẽ nếu Nghi Dân đừng nghe lời xiểm nịnh và giết các cựu thần, khéo vỗ về nhân tâm thì chưa dễ bị phản ứng của các triều thần. Cái chết oan uổng của nhiều quan lại đã gây trong tâm hồn những kẻ còn lại một cuộc khủng hoảng và đưa đẩy họ qua phía phản động, dầu họ muốn hay không. Đây là một vấn đề tự vệ. Họ hợp được với nhau, vì vậy họ thành một sức mạnh. Nhưng do việc này, ta thấy đầu óc của giới quan liêu thuở đó hèn yếu, nhút nhát, thiếu đoàn kết, đáng lẽ họ phải có ngay sức mạnh kể trên để trả thù cho ông vua mà hàng ngày họ thề thốt trung thành.
Tháng sáu năm Canh Thìn (1460), đến lượt Thái Bảo Á Quận Hầu Đinh Liệt, Nguyễn Xí, Nhập Nội Đại Kiểm Lê Vĩnh Trường, Xạ Kỵ Vệ Úy Tổng Tri Lê Niệm, Ngự Tiền Trung Quân Tổng Tri Lê Khoái, Ngự Tiền Hậu Quận Tổng Tri Trịnh Văn Lê, Bắc Đạo Thiêm Tri Trịnh Đạc, Điện Tiền Đô Chỉ Huy Sứ Nguyễn Đức Trung với con là Thiết Độ Tả Quân Đại Đội Trưởng Nguyễn Yên, Điện Tiền Tư Chỉ Huy Sứ Lê Yên, Lê Giai, âm mưu với nhau đóng cửa thành mở cuộc bạo động. Lê Nhân Thuần chém Trần Lang, quân thủ túc ùa vào giết bọn Phạm Đồn, Phan Ban ngay giữa Nghị Sự Đường. Còn Lê Đắc Ninh và hơn trăm dư đảng cũng bị hạ sát nốt.
Việc này thành tựu, các đại thần tuyên bố phế bỏ Lạng Sơn Vương Nghi Dân, giáng xuống tước Lê Đức Hầu (lấy ý khuyên theo đạo đức). Nhưng sau đó, Lê Lăng bưng mâm lụa trao cho Nghi Dân bắt tự thắt cổ. Về vấn đề lập vua mới, đa số đề nghị lập Bình Nguyên, tức Gia Vương Tư Thành, (tước này của Nghi Dân phong cho Tư Thành trước đây khi vừa lên ngôi xong), căn cứ vào chỗ Ngài thông minh tài đức, duy Lê Lăng đòi lập Cung Vương, nhưng Cung Vương vốn không ưa công danh phú quý, lại thấy cái ngôi cao vị cả thường gây ra nhiều tai họa nên hết sức khước từ, các quan đành đem xe giá đến Tây Điện để mời Gia Vương.

IV. Lê Thánh Tông (1460 - 1497)
- Việc chính trị
- Tổ chức hương thôn
- Việc đinh
- Cấp hành chính
- Các địa hạt hành chính
- Quan chế
- Thuế đinh
- Thuế điền thổ
- Nông nghiệp
- Luật pháp bảo vệ dân quyền
- Quyền lợi xã hội
- Tổ chức võ bị
- Các võ công dưới đời Hồng Đức
- Trận đánh Bồn Man và Lão Qua
- Văn trị của nước ta dưới đời Hồng Đức

Ngày  mồng  8  tháng  sáu  năm  ấy,  vua  Thánh  Tông  lên  ngôi  tức  vị    điện  Tường Quang. Ngài đổi niên là Quang Thuận, vẫn nhún nhường cho đến năm Quang Thuận thứ tám mới xưng trẫm và Hoàng Thượng chế cáo.
Ngày mồng mười có lễ phát tang vua Nhân Tông và bà Tuyên Từ Hoàng Thái Hậu cùng truy tặng Đào Biểu chức Thị Hậu Chánh Trưởng, trật tòng lục phẩm.
Cuộc đảo chính tháng sáu kết liễu, tháng 10 có việc định công thưởng tước các công thần Trung Hưng và cấp ruộng công thần thế nghiệp từ 100 mẫu đến 350 mẫu.

1- Việc Chính Trị Của Vua Thánh Tông
Xã hội Việt Nam vào đầu Lê triều về phương diện tổ chức đã có quy củ và trình độ sinh hoạt của dân chúng đã lên tới mức khả quan. Những sự lộn xộn dưới đời Trần mạt, qua thời Minh thuộc và trong giai đoạn kháng chiến đều đã được san phẳng hết. Trước vấn đề này ta phải nhớ đến công lao của Nguyễn Trãi, người đã luôn luôn hoạt động và tranh đấu cho quyền lợi nhân dân. Đã nhiều lần giữa triều đường, ông bài xích bọn Lê Sát, khi đó làm Tể Tướng lấy lòng vua bày ra nhiều thứ thuế khóa. Ông đã mua thù chuốc oán vì dân, vì nước. Để đền bù cho ông, cũng có thời sự trung trực và lòng ái quốc của ông đã thắng, nên đời Lê Sơ đã để lại được nhiều ân nghĩa trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Ngoài ra nhờ phép quân điền của triều đình, mọi người dân nhứt là các cùng dân đều có ruộng đất để sinh nhai, công nghệ trong nước được phát đạt, nghề khắc gỗ in sách thịnh hành giúp rất nhiều trong việc truyền bá tư tưởng học thuật (việc này do quan Thám Hoa Hồng Liên là Lương Như Mộc dạy bảo), cửa Vân Đồn, Lục Đầu và các cửa sông có nhiều thuyền bè buôn bán ra vào tấp nập.

2- Tổ Chức Hương Thôn
Cơ cấu cai trị ở các hạ tầng nhân dân là hương thôn vẫn theo các đời Lý, Trần, tuy có thay đổi về hình thức và danh từ, nhưng nguyên tắc vẫn không khác. Xã quan bây giờ đổi ra Xã Trưởng và hạn định mỗi xã được cử ba người gọi là xã chính, xã sử, xã tư; xã nhỏ cử hai hai người xã sử, xã tư; các viên chức này là những đại diện của nhân dân về trí thức và hạnh kiểm. Khi dân bầu xong, họ còn phải được quan trên phúc hạch lại (năm Quang thuận thứ ba, điều lệ thi hành về việc bầu xã trưởng như sau: hội đồng toàn dân lựa chọn hoặc lấy người cao niên, hoặc giám sinh, sinh đồ mà học nghiệp chưa thành đạt, hoặc phần tử thuộc lương gia tử đệ từ ba mươi tuổi trở lên. Bầu sai nguyên tắc sẽ phải tội). Nếu cần thêm người giúp việc thì cho phép lấy thôn trưởng. Để tránh bè đảng, ở một làng người nào đã ra làm xã trưởng thì người cùng họ với xã trưởng không được ra giữ thêm chức xã trưởng thứ hai.
Các xã được ấn định như sau: một trăm nhà là xã nhỏ. Hai trăm nhà là xã lớn. Nếu xã nào thêm đinh thì đổi bậc theo hệ thống và nguyên tắc tổ chức kể trên. Khi có sự đổi thay này, ruộng đất cũng được chia lại.
Xem đơn vị hành chính đời Lê Sơ, nhỏ nhất mà được gần 100 nhà, thì đủ biết nhân khẩu của nước ta từ giai đoạn này đã tiến rõ rệt. Trước đây, dưới thời Minh thuộc và dưới các tiền triều chỉ mới có lập ra Lý có 110 hộ (mỗi hộ là một nhà). Còn các cấp xã về thời Trần Sơ, dân số là bao nhiêu ở mỗi cấp không thấy các cổ sử ghi chép. Theo sự kê cứu gần đây của một vài học giả, dân số toàn quốc đời Lê Sơ đã có tới 6, 7 triệu.

3- Việc Đinh
Dưới đời Lý có lập sổ Tướng Tịch ghi tất cả số dân trong làng gồm các quan văn võ, binh lính, hoàng nam, lão hạng và phế nhân. Đời Trần có Đơn Sổ tức là sổ này. Hồi Minh thuộc có Hoàng Sách.
Đến đời vua Lê Thánh Tông, ngài lập sổ Hộ Tịch cứ 3 năm xem lại một lần gọi là Tiểu Điển, 6 năm duyệt lại gọi là Đại Điển. Sổ Hộ Tịch chia ra sáu hạng:
1) Tráng hạng là những người chọn để làm lính.
2) Quân hạng là những nông dân có đủ tư cách để động viên.
3) Dân hạng là những người dân ở nhà đóng sưu thuế và chịu tạp dịch.
4) Lão hạng là những người già từ sáu mươi tuổi trở lên.
5) Cố hạng là những người vô sản đi làm mướn.
6) Cùng hạng là những người vô sản và vô nghề nghiệp.
Nhà nào có ba đinh thì cắt vào hàng tráng, một vào hàng quân, một vào nhà dân. Nhà có sáu đinh: hai tráng, một quân, ba dân. Những người phiêu bạt không được ghi tên vào sổ Bạ, những người kiều cư cũng phải có tên tuổi trong Bạ. Các quan phủ, huyện, phải duyệt các sổ bộ trước khi đệ về Kinh để chuyển sang các sổ của Bộ.
4- Cấp Hành Chính
Một chức Tổng Kỳ được đặt ra như Chánh Tổng ngày nay có nhiệm vụ liên lạc các xã với nhau ngoài các cấp dưới dùng vào việc cai trị nhân dân.
Trên có các chức Huyện Thừa, Tri Châu, Tri Phủ, Đồng Trị. Các chức này thuộc triều đình bổ dụng.
5- Các Địa Hạt Hành Chính
Vua Thái Tổ trước kia chia nước ra làm năm đạo (Nam, Bắc, Đông, Tây và Trung Đô). Dạo có chức Hành Khiển là chức quan cao nhất, có lẽ như chức Tổng Đốc gần đây. Đạo chia ra Lộ, đứng đầu có chức An Phủ Sứ và trấn có chức Trấn Phủ Sứ như chức Tuần Phủ hay Quản Đạo. (Tuần Phủ là quan đầu tỉnh Trung Châu. Quản Đạo là quan đầu tỉnh Thượng Du).
Đến vua Thánh Tông, nước ta được chia làm 12 đạo:
1) Thanh Hóa
2) Nghệ An
3) Thuận Hóa
4) Thiên Trường
5) Nam Sách
6) Quốc Oai
7) Bắc Giang
8) An Bang (Quảng Yên)
9) Hưng Hóa
10) Tuyên Quang
11) Thái Nguyên
12) Lạng Sơn
Mỗi đạo có ba Ty: Đô, Thừa, Hiến.
Đô có hai viên: chính, phó Đô Tổng Binh coi việc quân. Thừa có Thừa Chính: chánh, phó sứ coi việc cai trị. Hiến có hai viên Hiến Sát: chánh, phó coi việc Tư Pháp. Lại có chức Giám Sát Ngự Sử xét công việc các đạo, như chức Thanh Tra Hành Chính và chính trị đời nay.
Năm Quang Thuận thứ 10 (1469), Thánh Tông cho vẽ lại bản đồ nước ta đổi tên 12 đạo ra làm 12 Thừa Tuyên. Mỗi Thừa Tuyên có số phủ huyện như sau:
- Thanh Hóa, có 12 phủ, 16 huyện, 4 châu.
- Nghệ An, có 8 phủ, 18 huyện, 2 châu.
- Thuận Hóa, có 2 phủ, 7 huyện, 4 châu.
- Nam Sách đổi ra Hải Dương, có 4 phủ, 18 huyện.
- Thiên Trường đổi ra Sơn Nam, có 14 phủ, 42 huyện.
- Quốc Oai đổi ra Sơn Tây, có 6 phủ, 24 huyện.
- Bắc Giang đổi ra Kinh Bắc, có 4 phủ, 19 huyện.
- An Bang, có 1 phủ, 3 huyện, 4 châu.
- Hưng Hóa có 3 phủ, 4 huyện, 17 châu.
- Lạng Sơn có 1 huyện, 7 châu.
- Thái Nguyên đổi ra Ninh Sóc, có 3 phủ, 8 huyện, 7 châu.
- Trung Đô đổi là phủ Phụng Thiên, có 2 huyện.
Tháng sáu năm Hồng Đức thứ hai, ta chiếm được của Chiêm Thành từ Thuận Hóa trở vào đặt thêm được Thừa Tuyên, Quảng Nam, gồm 3 phủ, 9 huyện.
Đến năm Hồng Đức thứ 21 lại sửa bản đồ thêm lần nữa và đổi Thừa Tuyên ra xứ.

6- Quan Chế
Đây là các cấp bộ tối cao tại triều đình. Đến đời vua Thánh Tông cũng có sự chỉnh đốn. Trước đây, quan chức đặt theo triều Trần, có Tả, Hữu Tướng Quốc rồi đến Lễ Bộ, Lại Bộ, Nội Các Viện, Trung Thư, Hoàng Môn. Qua thời Nghi Dân đặt ra 6 bộ và 6 khoa (Lại, Bộ, Lễ, Binh, Công, Hình). Nay ngài bỏ Nội Các Viện, Tả, Hữu Tướng Quốc, lập ra Hàn Lâm Viện và đặt thêm 6 tự (Đại Lý Tự, Thái Thường Tự, Quang Lộc Tự, Thái Học Tự, Hồng Lô Tự, Thượng Bảo Tự) và chức Đông Các Đại Học Sĩ để bổ dụng văn thần cùng ban thêm tước tam Thái (Thái Sư, Thái Phó, Thái Bảo), tam Thiếu (Thiếu Sư, Thiếu Phó, Thiếu Bảo) để thưởng các vị trọng thần có công lớn. Các quan ở 6 bộ có: Thượng Thư. Tả Hữu Thị Lang, Lang Trung Viện Ngoại Lang, Tư Vụ. Các quan ở 6 khoa có: Đô Cấp Sự Trung, Cấp Sự Trung, Lang Trung. Các quan 6 Tự có: Tự Khanh, Thiếu Khanh, Tự Thừa. Ngoài ra còn các quan chức coi về học vụ, binh vụ, các tòng quản, tân quan.
Theo tờ Dụ "Hiệu Định Quan Chế", ngày 26 tháng chín năm Hồng Đức thứ hai (1471), tổng số quan chức văn võ nội ngoại toàn quốc có tới 5370 và chia ra như sau:
A- Quan trong văn võ và cả tổng quản có 2755 vị:
1) Văn quan 899 vị.
2) Võ quan 1910 vị.
3) Tòng quan 446 vị.
B- Quan ngoài, văn võ mọi chức có 2615 vị:
1) Văn quan 926 vị.
2) Võ quan 857 vị.
3) Tòng quan 41 vị.
4) Tập chức 791 vị.
Xét tinh thần lời Dụ kể trên thì việc đặt các quan lại theo nguyên tắc phân quyền và nguyên đới trách nhiệm. Tỉ dụ Lại Bộ cắt bổ nhân viên không hợp khả năng thì Lại Khoa được phép bác bỏ. Lễ Bộ nghi chế sai bậc, Lễ Khoa được phép đàn tấu: Hình Khoa luận công việc của Hình Bộ trái phải nhẹ nặng v.v... Nhà vua lại rất nghiêm ngặt đối với những phần tử thiếu sự liêm khiết, do đó điều 138 Hình Luật đời Hồng Dức định rằng:
"Ăn lễ làm trái phép thì phạt từ 1 quan đến 10 quan và bị bãi chức, từ 10 đến 19 quan bị đày; từ 20 quan trở lên chém. Các người được Bát Nghị ăn lễ từ 1 quan đến 9 quan phạt 50 quan; từ 20 quan trở lên, phải tội đồ làm phu. Của hối lộ bỏ vào kho một phần, một phần trao trả bản chủ"
Kẻ ăn hối lộ có tội mà kẻ hối lộ quan lại cũng phải bị trừng phạt. Kẻ nào đi lo việc cho người khác cũng phải tội, nhưng nhẹ hơn sự chủ; lễ vật đều sung công.
Lại đáng chú ý một điều: vua Thánh Tông đặt thêm quan mà ngân sách quốc gia không tăng, vì lương bổng của các quan ít hơn trước. Ngoài số lương, các quan được tiền phụ cấp chức vụ khi đi kinh lý và tiền gạo cung mừng của dân khi nhậm chức. (Xin coi Việt Sử Tân Biên quyển 2 trang 538).
Xét ra số lương bổng của các quan ít ỏi như vậy do giá sinh hoạt đời xưa có lẽ không cao, phần cổ nhân có đức tiết kiệm, ngoài ra các quan từ tứ phẩm trở lên còn có phần ruộng ở làng; các quan tuổi từ 65 được xin về hưu trí, những người làm nha lại có thể xin về từ 60 tuổi.
- Xin coi vấn đề thuế khóa dưới đây:

7- Thuế Đinh
Trừ những lão nhiêu 60 tuổi trở lên, Hoàng Đinh là những người vị thành niên (dưới 18 tuổi), những người thuộc vào tráng (hạng tòng quân) cùng những người phế tật, mỗi người dân phải nộp thuế đồng niên là 8 tiền. Đối với thuế đinh đời Trần đánh vào ruộng (ai có một hai mẫu đóng 1 quan; 3, 4 mẫu đóng 2 quan và theo tỷ lệ mà tăng lên, trừ cùng đinh không phải nộp thuế). Đời vua Hiển Tông mỗi xuất đóng 1 quan 2 tiền, đời vua Thần Tông (1649-1662) mỗi xuất đinh không phục dịch việc quan phải đóng 3 quan năm tiền như thế thì đinh sưu đời Hồng Đức nhẹ hơn nhiều.

8- Thuế Điền Thổ
Chia ra làm ba hạng:
A) Nhất đẳng điền: mỗi mẫu đồng niên phải nộp 60 thưng thóc (10 thưng là một
đấu) và tiền 6 quan.
B) Nhị đẳng điền: mỗi mẫu đồng niên phải nộp 40 thưng và 4 quan.
C) Tam đẳng điền: mỗi mẫu phải nộp 20 thưng và tiền 3 quan.
Ruộng bãi trồng dâu cũng chia làm ba hạng, thuế nhẹ hơn hoặc nộp bằng tơ hay bằng tiền. Ruộng tư điền không phải nộp thuế.
Thổ trạch là đất để ở có hạn định như sau: Quan viên được 80 thước (5 sào 5 thước). Quân dân chức sắc được 50 thước (3 sào 5 thước) không phải chịu thuế, còn ngoài diện tích hạn định phải nộp theo thuế ruộng.
Nếu so sánh với thuế của các tiền triều, chế độ thuế lệ dưới đời Lê Thánh Tông có sự dè dặt, các nhà cầm quyền ắt đã tiết kiệm nhiều lắm để khỏi phiền dân. Ngoài ra sử chép: kho tàng thuở đó không được sung túc. Năm Quang Thuận đầu tiên tức là năm vua Thánh Tông vừa lên ngôi, tháng sau đã có ngay Chiếu yêu cầu quân dân nộp thóc cho nhà nước. Ai hưởng ứng được bổ đi làm chức toán quân. Tỉ dụ ai nộp 200 hộc được bổ quan chánh thất phẩm; nộp 150 hộc bổ tòng thất phẩm; 100 hộc bổ chánh bát phẩm, con cái đều được miễn quân dịch.

Nông Nghiệp
Vua Thánh Tông rất hiểu biết vấn đề dân sinh mà vấn đề dân sinh ở nước ta là một sứ nông nghiệp đều quy tựu xung quanh việc mở mang ruộng đất, canh cửi và đê điều. Năm quang Thuận thứ bảy, tháng 12, ngài hạ Chiếu bắt các quan phủ huyện khuyến khích nhân dân cày cấy và trồng dâu nuôi tằm.
Tháng 8 năm Hồng Đức thứ 6 (1475), Ngài đặt hai ty Hà Đê trông nom việc đê điều, phòng lụt lội cho dân và mùa màng. Trong việc khuếch trương nông nghiệp cũng như việc bảo vệ đê điều có quan chuyên môn là Hà Đê Ty Sứ và Khuyến Nông Sứ. Trong nước bấy giờ có 53 ty Hà Đê và 53 ty Khuyến Nông. Ngoài ra, nhà nước lập ra 42 sở Đồn Điền khẩn hoang các miền thượng du đặt dưới quyền 13 quan Đồn Điền chánh sứ, 31 sở Tầm Tang, 18 sở Điền Mục kén chọn giống trứng tằm tốt, dạy dân việc nuôi tằm ươm tơ cho đúng phương pháp.
10- Luật Pháp Bảo Vệ Dân Quyền
Luật pháp đời Lê phỏng theo luật pháp đời Chu Đường bên Trung Quốc, nhưng có sửa đổi lại nhiều.
Trừng trị những tội thường phạm có 5 bậc (Ngũ hình):
1) Suy hình, xử riêng đàn bà, đánh bằng roi từ 10 đến 50 roi.
2) Trượng hình, đánh bằng gậy đầu bịt đồng, xử riêng đàn ông từ 60 gậy đến 100 gậy.
3) Đồ hình, là tội đầy ba bậc:
a) Dịch đinh: phải làm phu hầu cơm nước trong quân, đàn bà làm vườn, nuôi tằm
b) Tượng phương: đàn ông làm lính chuồng voi, đàn bà phải thổi cơm, đều bị thích hai chữ vào trán.
c) Đồ chủng diễn: đàn ông phải làm phu các đồn điền, đàn bà xay lúa giã gạo, bị thích vào trán bốn chữ, đeo một khóa chân.
4) Lưu hình là đầy đi xa có 3 bậc:
a) Lưu cận châu (Nghệ An) bị phạt 90 gậy thích sáu chữ vào mặt, đeo một khóa chân.
b) Lưu ngoại châu (Bố chính) phạt 90 gậy, thích 8 chữ vào mặt, đeo hai khóa chân.
c) Lưu viễn châu (Quảng Nam) phạt 100 gậy, thích 10 chữ vào mặt, đeo 4 khóa chân.
5) Tử hình tội chết có 3 bậc:
a) Giảo (thắt cổ).
b) Chém (bêu đầu).
c) Lăng trì (tùng xẻo).
Luật hình đời Hồng Đức cũng theo Chu lệ, định ra Thập ác là:
1) Mưu phản: làm nguy xã tắc.
2) Mưu đại nghịch: phá hủy tông miếu.
3) Mưu bạn: phản ước theo giặc.
4) Ác nghịch: giết cha mẹ, chú, bác, cô, dì, anh chị, cha mẹ, chồng, ông bà, v.v...
5) Bất đạo: giết cả một nhà 3 người.
6) Đại bất kính: tỏ ra vô thần, ở lầu vua, đi xe vua, lạm dụng nghi vệ Thiên Tử.
7) Bất hiếu: chửi cha mẹ, không để tang.
8) Bất mục: mưu sát hay đánh các người họ phải để tang 3 tháng và 5 tháng.
9) Bất nghĩa.
10) Nổi loạn: thông dâm với người cùng họ để tang 5 tháng, với vợ lẽ ông. Các tội này đều xử vào tội tử hình cả.
Xét tỉ mỉ nội dung bộ Lê Triều Hình Luật tức là bộ luật đời Hồng Đức, các luật gia ngày nay rất cấp tiến, rất dân chủ và đã để một chấm son trong lịch sử tư pháp Việt Nam.
Quả vậy, ta thấy Lê triều bảo vệ triệt để quyền lợi và an ninh của nhân dân không bỏ rơi tầng lớp xã hội nào, nhưng cũng có vài trường hợp quá khắc nghiệt đối với luật pháp hiện hữu, và trái lại cũng có trường hợp khinh giảm rất nhân đạo, đáng khen hơn đời bây giờ.

11- Quyền Lợi Xã Hội
Do mục đích tránh sự chênh lệch quá đáng về tài sản, vua Thánh Tông đề phòng việc lạm quyền của quan liêu, quý tộc hay chiếm nhiều đất công nên ra luật lệ sau đây và thi hành ngay từ nơi kinh đô:
Vườn nhà ở kinh đô, quan Nhất Phẩm được ba mẫu, Nhị Phẩm hai mẫu, Tam Phẩm một mẫu, Tứ Phẩm năm sào, Lục, Thất Phẩm hai sào, Bát, Cửu Phẩm, thường dân một sào. Ai lạm chiếm bị phạt trượng 50 gậy, biếm một tư. Đã có vườn ao rồi mà còn biệt lập nơi khác, tội tăng thêm một bậc, trừ những người có công được đặt tứ.
Ai chê bỏ tiền đồng nát, bán cao giá, tích trữ hàng hóa để đầu cơ đều bị tội và hàng hóa bị tịch thu. Những ai cậy thế hà hiếp người ta trong việc mua bán, tội cũng vậy.
Kẻ hống hách nhiễu dân để lấy của cũng coi như trộm thường, giảm một bậc. Tài chủ sợ người quyền thế đem cho cũng tội như vậy, nếu của đó chưa lấy về trượng 60 gậy, biếm 3 tư.
Ngự trù (bếp nhà vua), bếp nhà quyền quý hà liễm mọi vật ở chợ, ức hiếp người bán, giám thị và người ở chợ cũng bị giải quan phạt tội đồ, gia chủ bị phạt. Giám thị a tòng không can thiệp, trượng biếm tùy theo nặng nhẹ. Người ngoài bắt được sẽ có thưởng.  Lấy  gian  rau  quả  của  người,  trượng  biếm.  Các  quan  chức  vị  nể  người  nhà quyền quý không trình đều bị phạt.
Cấy ruộng quá hạn không nộp thóc, trượng 80 gậy. Tái phạm phải nộp thóc gấp đôi đền vào kho. Tái phạm lần nữa phần ruộng bị tịch thu. Ruộng công giao cho thì nhà nước thu về, còn ruộng khẩu phần lấy một nữa.
Kẻ nào nặc danh đầu thư để hại người (ném đá dấu tay) coi là quấy rối xã hội, nếu có ảnh hưởng đến quốc gia đại sự thì chém, việc thường thì lưu viễn châu, gia sản tịch biên. Người nào biết và tố cáo được thưởng nhiều, ít, tùy theo việc nặng nhẹ. Viết thư phỉ báng thời chính: lưu cận châu, nhẹ thì đầy làm lính chuồng voi. Nếu người giữ việc nhận thư không hủy lá thư đó để nhân dân biết mà truyền tụng, bị suy 50 roi, biếm một bậc.
Các quan nhận thư nặc danh đó lấy làm căn cứ để buộc tội người ta, gia thêm một bậc.
Các quan làm việc hình án kéo dài công việc, quá kỳ hạn mà không xong sẽ bị phạt.
Quá 1 tháng: biếm, quá 3 tháng: bãi chức.
Các cường hào sợ tội, đón cướp sớ tấu giữa đường hay bắt giam người mang sớ tấu, đều bị lưu hay xử tử. Nếu sớ đó đã qua 4 cửa Hoàng Thành rồi mà việc này còn xảy ra, tội lại tăng lên một bậc.
Giả chúc thư, văn khế, trượng 80 gậy, đồ theo nặng, nhẹ.
Gả chồng cho con đã thành hôn cho người khác, đồ làm lính hầu cơm nước. Người lấy sau biết mà cứ lấy cũng bị tội đồ, nếu không biết, được miễn tội. Người con gái trả về cho chồng trước, người này không nhận nữa thì được đền lại sính lễ. Trai hỏi vợ, đã đưa sính lễ sau lại bỏ không lấy, phạt trượng 80 gậy và mất sính lễ.
Luật Hồng Đức cũng hết lòng bảo vệ phong hóa nữa nên đặt ra nhiều điều khoản để trừng trị những kẻ vi phạm. Thêm vào đó triều đình còn công bố 24 điều răn để đưa nhân dân đến chỗ lành mạnh và đạo đức.

12- Tổ Chức Võ Bị
Quân số trước đây của vua Lê Thái Tổ có 10 vạn người chia ra 5 phiên, 1 ban ở lại gọi là lưu ban tập luyện và phòng vệ, bốn phiên kia được giải ngũ về tiếp tục nông nghiệp rồi cùng nhau lần lượt thay đổi. Binh sĩ lưu ban thuộc về năm đạo vệ quân dưới quyền vị Tổng Quản. Trên Tổng Quản có Đô Tổng và Đổng Tổng Quản, dưới có Chánh, Phó Đội Trưởng và Cửu Phẩm Ngũ Trưởng.
Tháng 7 năm Quang Thuận thứ tư (1463), năm Vệ Quân đổi ra 5 phủ Đô Đốc:
- Thanh Hóa, Nghệ An, thuộc Trung Quân Phủ.
- Nam Sách, An Bang (tức Quảng Yên) tức Đông Quân Phủ.
- Thiên Trường tức Nam Định, thuộc Nam Quân Phủ.
- Quốc Oai tức Sơn Tây, Hưng Hóa, thuộc Tây Quân Phủ.
Ngoài 5 phủ này còn có Phụng Trực Quân gồm quân đội hai miền sơn cước Thái Nguyên và Tuyên Quang.
Mỗi phủ có 6 vệ. Mỗi vệ có 5 hay 6 sở. Mỗi sở có 400 người. Phủ có Tả, Hữu Đô Đốc, Đô Đốc Đồng Tri, Đô Đốc Thiêm Trị. Sở có Quản Lĩnh, Phó Quản Lĩnh, Chánh Võ Úy, Phó Võ Úy.
Sở chia ra làm nhiều ngũ. Mỗi ngũ có một Tổng Kỵ.
Vua Thánh Tông đổi Vệ Quân Tùy Thân Cục (tức Ngự Lâm Quân) ra làm hai Vệ Tả Hữu Võ Lâm Quân, kén con các quan từ lục phẩm đến tam phẩm sung vào các vệ ấy.
Năm Quang Thuận thứ tám (1467), Ngài đặt thêm ra hai đạo Nội, Ngoại Chư Quân. Nội quân có 66 ty, 51 vệ. Ngoại quân có 26 vệ. Mỗi ty có 100 người. Mỗi vệ có 5 sở, mỗi sở có 12 đội, mỗi đội có 20 người. Tính ra Nội quân có 51 vệ và 225 sở, 3060 đội, được tất cả 61.200 người cộng với 6.600 người ở 66 ty thành tổng số 67.800 người. Ngoại quân 26 vệ có 130 sở thành 1.560 đội, tổng số 31.200 người. Tất cả Nội, Ngoại gồm 9 vạn 9 nghìn người, cộng với số quân 5 phủ và quân Phụng Trực chừng 7 vạn là 16 vạn, thêm vào còn số quân trực vệ trong cung.
Ngoài ra, các quan Đô Đốc, Tổng Tri chăm giảng tập trận đồ cho sĩ tốt và đặt 31 điều quân lệnh để tập thủy chiến, 32 điều tập tượng trận, 27 điều tập mã trận, 42 điều tập bộ trận.
Từ năm Quang Thuận thứ tám, cứ 3 năm 1 lần có một kỳ khảo hạch về võ nghệ để kiểm soát lại việc học tập của quân đội. Ai tứ thắng được thưởng một chiếc áo và 1 quan 5 tiền; ai tam thắng được một chiếc áo. Nhị thắng 2 bình được 6 tiền. Ai nhất thắng được ba tiền, 4 bình thưởng 20 đồng, kẻ nào thua cũng bị phạt theo như vậy.
Nội, Ngoại quân, quan từ ngũ phẩm trở lên thì bắn 5 phát, chém tay 4 phát, đánh mộc 1 phát, cũng có định cấp bậc để thưởng phạt.
Lại    luật  chương  quân  chính  gồm  43  điều    đến  quá  nửa  nếu  vi  phạm  sẽ  bị chém. Tỉ dụ: tiết lậu quân cơ, hậu quân lui không tiếp viện tiền quân, đặt điều quái gở dị đoan để mê hoặc binh sĩ, đào ngũ v.v...
Vua Thánh Tông lại chú trọng cả đến quyền lợi của các quân lính. Những người thuộc quân hạng, tức là để dùng vào việc quân khi cần tới, được phần ruộng tốt, nộp thuế nhẹ, nên tháng 11 năm đầu Hồng Đức (1470), Ngài gọi ngay một lúc được thêm 26 vạn quân đi Nam chinh.
Tinh thần thượng võ thuở đó được lên cao do sự khuyến khích của triều đình nên có cả các vị quan văn xuất thân khoa bảng cũng xin đổi sang võ chức (Tiến Sĩ Phạm Phổ làm Chỉ Huy Sứ, Ngô Lôi, Lê Dũng làm Tổng Binh, Nghiêm Ích Khiêm làm Đô Chỉ Huy Sứ, Nguyễn Trinh làm đến Binh Bộ Thượng Thư v.v...)

13- Võ Công Dưới Đời Hồng Đức (Cuộc Nam Phạt Của Thánh Tông)
Trước kia, tướng nước Chiêm là Trà Duyệt, người ở Thi Nại, giết Quốc Vương là Bí Do rồi tự lập làm vua, sau truyền cho em là Trà Toàn, muốn học đòi Chế Bồng Nga nên đem quân cướp phá Hóa Châu của ta vào năm Hồng Đức nguyên niên (1470). Quan Trần Thủ ở đây là Phạm Văn Hiện chống không nổi phải giữ thế thủ và cho phi báo về triều đình.
Ngày 6 tháng 10, nhà vua hạ lệnh kén hoàng đinh từ 15 tuổi trở lên được 26 vạn quân. Quân đội sắp lên đường, ngọn cờ Nam Chinh phấp phới bay thì bài chiếu Bình Chiêm được tuyên ra để báo cáo quốc dân lý do của cuộc chiến đấu và tình trạng Việt Chiêm qua bao nhiêu thế hệ.
Lan Quận Công Đinh Liệt, Kỵ Quận Công Lê Niệm lĩnh 10 vạn quân đi tiên phong. Ngày 18, đại quân tiến vào đất Chiêm. Ngày mồng 2 tháng giêng là ngày Tết Nguyên Đán, e quân sĩ chơi bời sinh nản, ngài mở cuộc thi thuyền và tập trận cùng sai thổ tù Thuận Hóa là Nguyễn Vũ vẽ bản đồ Chiêm Thành để rõ các nơi hiểm yếu. Các thổ tù , phiên tù các nơi cùng sứ thần Ai Lao là Quang Bình, trấn thủ là Đầu Nguyệt là Lạng Lê vào chầu và dâng hương vật.
Cuộc giao tranh bắt đầu ngày 5 tháng hai. Việt quân được phân phối như sau:
Ngày mồng sáu, Lê Hy Cát, Hoàng Nhân Thiện và tướng tiên phong Lê Thế, Trịnh Văn Sái đem 500 chiến thuyền và 3 vạn tinh binh, nửa đêm bí mật ra cửa bể Yểm Tọa chèo gấp vào cửa bể Sa Kỳ (nay ở huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi) đắp lũy chắn đường rút lui của giặc.
Sáng ngày thứ 7, vua thân đem hơn 1000 chiếc thuyền và 7 vạn quân tiến vào cửa Tân Yên và Cửu Tọa (nay là Đại Yêm và Tiêu Yêm, thuộc Quảng Nam) trưng cờ Thiên Tử, dóng trống tiến vào trận địa. Bộ binh Đại Tướng Nguyễn Đức Trung cũng mật chuyển binh đội giữ các ngã đường sơn cước.
Về phần quân Chiêm, Quốc Vương và em là Trà Toàn cùng sáu vị đại thần đem 5000 quân và voi, lặng lẽ tiến đến gần đại doanh của vua Thánh Tông, có lẽ định đánh lén mặt sau nhưng thấy uy thế của quân ta hùng dũng mất ngay tinh thần, vội rút ngay về Chà Bàn, đến núi Mộ Tô thì gặp Tả Đô Đốc Lê Hy Cát. Giặc hoảng sợ chạy lên núi cao bị Lê Niệm thúc quân đánh tan và chém được một đại tướng hộ giá, tiến đên Mễ Cần giết được hơn 300 quân giặc và bắt được 60 tên. Trà Toàn thấy em bị đại bại, thất vọng, cho sứ sang xin hàng. Vua cho dừng quân nghỉ ngơi, sau thấy Trà Toàn có thái độ không minh bạch nên ngày 27, đại quân đánh vào thành Thi Nại. Ngày 29, quân ta xiết chặt ba vòng vây quanh thành Chà Bàn. Ở đây, Việt Chiêm kịch chiến. Chiêm bị hại tới 4 vạn quân, bắt sống tới 3 vạn, trong đó có Trà Bàn và cả Hoàng Gia.
Cuộc chiến tranh Nam Bắc đến đây chấm dứt. Ngày mồng 2, có chiếu sửa soạn ban sư về kinh.
Trà Toàn bị bắt, tướng là Bồ Tri Trì chạy vào Phan Lung (Phan Rang) tự xưng vương và cho sứ xin triều đình ta thừa nhận để tiếp tục tiến cống. Vua Thánh Tông ưng thuận. Em Trà Toàn là Trà Toại, trước đây thua chạy vào núi, cho người sang kêu với nhà Minh. Lê Niệm được cử đem 3 vạn quân, vào bắt sống được đem vào kinh sư. Do dụng ý chia rẽ nhân tâm để dân Chiêm yếu đi, vua Thánh Tông cắt Chiêm Quốc ra làm 3 nước, chia cho Bồ Tri Trì một phần năm đất cũ, còn bao nhiêu làm thành hai nước là Nam Phan và Hóa Anh trao cho Trà Toại và một thân vương. Còn đất Chà Bàn, đất Đại Chiêm và Cổ Lũy là bờ cõi cũ của ta trước đây bị Chiêm lấy mất mới trao cho hàng tướng Ba Thái làm Tri Phủ Đại Chiêm; Da Thủy làm Thiêm Tri Phủ; Đổ Tử Xuân làm Tru Châu Cổ Lũy được quyền tiền trảm hậu tấu đối với quân phiến loạn.
Đầu tháng tư, quân Nam chinh về tới Nghệ An. Ngày 11 tháng tư, Trà toàn bấy lâu được ngự giá, vì buồn và xấu hổ nên sinh bệnh mà chết. Vua truyền chém đầu, dựng cờ trắng ở đầu thuyền đề mấy chữ: "Đầu Trà Toàn, vua nước Chiêm Thành" để phấn khởi tinh thần dân chúng.
Ngày 22, làm lễ dâng tù tại nhà Thái Miếu ở Lam Kinh (Thanh Hóa) rồi tiến về Thăng Long.
Tháng 6, vua hạ chiếu lấy những đất mới của Chiêm làm Thừa Tuyên Quảng Nam, đổi Đại Chiêm Cổ Lũy ra 2 huyện: Hà Đông, Y Giang cho thuộc phủ Thăng Hoa (nay thuộc Quảng Nam) đổi Châu Nghĩa Tư ra ba huyện: Bình Sơn, Nghĩa Giang, Mộ Hoa thành phủ Tư Nghĩa (nay đất Quảng Ngãi); chia Chà Bàn làm 3 huyện: Bồng Sơn, Phù Ly, tuy Viễn thành phủ Hoài Nhân (Quy Nhơn ngày nay) rồi tùy xa để lưu các tội nhân. Vua cho san (phá) cái đỉnh núi cao nhất ngoài bờ biển giáp địa giới nước Nam Ban (Phan Rang) để dựng cái bia làm giới hạn, gọi núi ấy là núi Thạch Bi (nay là dẫy núi giáp giới Phú Yên, Khánh Hòa chạy dài xuống bể thành mũi Varella).
Về việc Trà Toại cho sứ sang khiếu nại với nhà Minh, vua Minh có thư sang buộc vua ta trả lại đất Chiêm Thành; vua Thánh Tông lấy lời lẽ nhũn nhặn, khéo léo mà xóa bỏ chuyện này. Vua Minh cũng phải thôi, ngay mấy lần có việc khám xét địa giới Bắc Thủy, Minh triều cũng chỉ lấy làm lệ, việc hòa hảo giữa các quốc gia phải chăng tùy theo tỉ lệ sức mạnh?

14- Trận Đánh Bồn Man và Lão Qua
Rợ Bồn Man (nay đất Trấn Ninh), và Lão Qua (nay là Luang Prabang) ở phía Tây nước ta tự ý xin lệ thuộc nước ta từ năm Mậu Thìn (1448), dưới đời vua Nhân Tông và đổi ra Quy Hợp. Địa phận của họ có nhiều núi rừng hiểm trở, đường giao thông gập ghềnh khó khăn, vì họ hay ỷ vào lợi thế sơn xuyên, thường đem quân vào quấy phá biên giới Việt Nam. Mỗi lần xâm phạm bờ cõi của ta, họ đều kiên kết với nhau. Năm Quang Thuận thứ 9, quan Tổng Binh Khuất Định cùng Đồng Tổng Binh Nghiêm Nhân Thọ, Tán Lý Quân Vụ Nguyễn Đồng phải đi đánh dẹp họ từ Long Động đến Mộc Châu (Mộc Châu thuộc tỉnh Hòa Bình, bấy giờ ở trong địa phận Hưng Hóa), gặp 300 tên giặc đánh tan được liền tiến thẳng đến Cấu Lộng trên sông Mã. Khuất Định hợp cả quân vệ Gia Hưng thuộc quyền quan Tổng Tri Lê Miễn tiến đến Kỳ Trúc, lại có quân hai châu Đồng, Việt và thổ binh mọi giúp sức chặn các đường xung yếu. Giặc thấy quân ta mạnh và có mặt khắp nơi, tan vỡ ngay. Khuất Đinh sai người lấy điều họa phúc khuyên bảo, chúng đều xin hàng phục.
Qua năm sau, quân Bồn Man lại noi theo vết cũ. Tháng ba, vua thân chinh đi dẹp nhưng đến bến Bình Nam, nhà vua thấy quân ta đã thắng trận nên trở về cung.
Mười năm sau tức là vào năm Kỷ Hợi, Hồng Đức thứ 10 (1479), ngày mồng 7 tháng sáu, vua lại hạ một bài chiếu rất dài kể tội Bồn Man. Có lẽ Ngài thấy không thể không dung tha được việc cướp phá luôn luôn của họ và coi họ như cái dằm trong xương nên lần này cương quyết trừ dứt cái nạn Bồn Man để bảo vệ nhân dân ở các miền biên giới phía Tây (Hòa Bình, Thanh Hóa, Nghệ An) đã bao nhiêu năm mất làm, mất ăn vì họ.
Thái Úy Sùng Quận Công Lê Thọ Vực, Phò Mã Đô Úy Thống Lĩnh Đông, Bắc quân và nhiều Đô Đốc, Đại Tướng, được lệnh đem 20 vạn quân tinh nhuệ đi tiểu trừ.
Tháng 7, ngày 22, vua hạ chiếu thân chinh, kén 18 vạn quân đặt dưới quyền Đại Tướng Đô Đốc Lê Đình Ngạn, Lê Lộng, Lê Nhân Hiếu chia năm đạo đánh thẳng vào Lão Qua. Quân Lão Qua vỡ tan ngay. Ngày 18 tháng 10, vua tới Phù Liệt đã nghe tin đại thắng và lúc này quân ta đã chiếm đóng được thủ phủ của Lão Qua, chiếm được nhiều quý vật. Vua Lão Qua trốn mất. Đại quân đến hạ lưu sông Kim Sa (có lẽ sông này chảy ở phía Bắc, qua tỉnh Tây Khương và Tứ Xuyên), giáp Miền Điện. Triều đình Miến Điện sợ quân ta tiến vào nước họ, vội đưa thư đến triều đình, quân ta mới rút về. Hạ tuần tháng 1, ngự giá trở về Kinh.
Mùa xuân năm sau, ta mở cuộc chinh phạt Bồn Man và cũng huy động tới 30 vạn binh sĩ. Ngoài tội xâm lăng bờ cõi, Bồn Man còn đáng ghét vì đã xui Lão Qua quấy phá nước ta. Đi đến nơi, quân Bồn Man tan vỡ ngay. Tù trưởng Bồn Man là Cầm Công sợ quá bỏ chạy rồi chết. quân ta vào thành đốt phá, dân Bồn Man có chừng 9 vạn, sau vì chinh chiến và chết đói, còn độ vài ngàn người.
Vua Thánh Tông chia đất Bồn Man làm bảy huyện, đặt ra phủ Trấn Ninh và cho quan đến cai trị, nhưng ngài vẫn phong thân nhân của Cầm Công là Cầm Đồng làm Tuyên Úy Đại Sứ để trông nom thổ dân.
Xét các võ công trên đây, ta thấy đời Hồng Đức đã thanh toán được một cách khả quan vấn đề biên giới. Chiêm Thành, Lão Qua quấy rối nước ta từ đầu Thiên Chúa kỷ nguyên, hết đời nọ đến đời kia, gây nên hận thù truyền kiếp. Ta dầu muốn yên họ cũng không để ta yên, chỉ vì các dân tộc này ngu muội không tự lượng sức mình lại có tính hiếu chiến, thật là tự chuốc lấy cái vạ diệt vong, sau này họ lại có thói a tòng với các vương triều Trung Quốc đánh vào hậu tuyến của chúng ta mỗi khi Việt Nam giao tranh với Bắc phương. Tỉ dụ trong cuộc chiến tranh giữa Mông Cổ với Việt Nam hoặc trong thời Minh thuộc, đã có khi họ lĩnh việc "Bắc tiến" (!), có khi họ lừa dối sang giúp ta đánh quân Minh thì là lúc họ phản ta, vua Lê Thái Tổ trong những ngày tháng khởi nghĩa đầu tiên đã lao đao vì ngón độc thủ của họ (Lão Qua). Giờ đây, dân họ bị tiêu diệt, nước bị qua phân không phải là vô cớ và oan uổng.
Vua Lê Thánh Tông khi huy động đại quân mở cuộc Nam chinh đã tuyên cáo quốc dân "Rửa cái hổ của các tiền triều" tức là nhắc con dân Việt Nam cái thù truyền tử nhược tôn giữa ta với các man dân lân cận. Nếu chẳng cay nhau đến tột bực, có lẽ đâu quân lực toàn quốc nhót 30 vạn mà tung ra hết, thì ta hiểu triều đình của ta quyết liệt đến thế nào với Chiêm Thành, Lão Qua và Bồn Man. Lại xem việc cướp phá thành, đặt quận huyện thì rõ rệt nhà vua đã thực hiện câu không đội trời chung với các địch quốc dị chủng.
Sau mấy chiến công oanh liệt này, các nhà chép sử phải ghi rằng: cuối thế kỷ XV, đời Hồng Đức đã gỡ được cho dân tộc cái họa biên cảnh miền Tây, Nam. Ngoài những thắng lợi về chính trị, ta còn đoạt được thắng lợi về đất đai cùng kinh tế nữa. Từ đó, ta thu được nhiều thuế má, sản vật quý giá (yến sào, đồi mồi, ốc trai, sừng tê, sà cừ, tơ lụa, các tượng đá rất đẹp, voi v.v...) Lại do sự xúc tiếp Việt Chiêm mật thiết hơn hết thảy bao giờ, ta cũng lượm được của họ ít nhiều điều hay về ca nhạc, kiến trúc, tập tục khoáng đạt khiến nền văn hóa của ta được phong phú thêm.

15- Văn Trị Của Nước Ta Dưới Đời Hồng Đức
Trình độ văn học nước ta đến Lê triều đã tới mức khả quan. Nó bắt nguồn mạnh mẽ từ đời Tiền Lê, qua đời Hậu Lý. Trong mười thế kỷ Bắc thuộc, việc học mới kể là sơ khai, tuy ta đã có một số người văn tự. Từ Lý, nó đã có một cái gì là nền tảng, vì các khoa thi, việc tuyển trạch nhân tài đã đều đều, đến đời Trần thì văn học của ta có đà tiến. Nhờ có mấy thế kỷ độc lập liên tiếp, việc văn học không hề bị gián đoạn, cho đến cả thời Minh thuộc hai chục năm, việc học của dân ta cũng không ngừng lúc nào (các quan nhà Minh cũng đôn đốc mở các trường học khắp nước và trọng dụng nhân tài để giúp họ). Ngay cả khi vua Lê Thái Tổ đang kháng chiến tại Đông Đô (năm Bính Ngọ, 1427), ngài cũng có mở khoa thi. Trong khoa thi này, bọn ông Đào Công Soạn 26 người đỗ Giáp Đệ và 6 người đỗ Ất Bảng. Rồi cuộc bình định vừa xong, vua Thái Tổ mở luôn khoa Minh Kinh lấy các ông Trịnh Thuấn Du, Phan Phù Tiên, Nguyễn Thiên Túng, Võ Văn Trinh, Nguyễn Khắc Hiếu là những danh thần của hai triều sau này.
Năm Thuận Thiên thứ tư (1431), Thái Tổ mở khoa Hoành Từ, kén con cháu các quan, các thanh niên tài tuấn trong dân chúng vào làm học sinh thi cận, thị ngự tiền và giám sinh ở Quốc Tử Giám, sung làm sinh đồ các phủ. Khoa thi Tiến Sĩ thứ nhất đời Lê là khoa Nhâm Tuất năm Đại Bảo thứ ba, có tới 450 người ứng thí, có 33 người trúng cử,  3  vị  nhất  giáp  tam  khôi  đều  còn  thanh  niên  cả,  đáng  kể  nhất    Trạng  Nguyên Nguyễn Trực 26 tuổi, Bảng Nhỡn Nguyễn Như Đỗ 19 tuổi, Thám Hoa Lương Như Học ngoài 30 tuổi, nổi danh cả ở Trung Quốc (Nguyễn Trực đi sứ được người Tàu cho đỗ Trạng Nguyên bên ấy). Với các khoa thi sau, số thí sinh càng nhiều thêm, rồi đến đời Thánh Tông, năm Quang Thuận thứ tư (1436), số cống sĩ lên đến 1400 người. Việc học thịnh đến như vậy là nhờ chỗ nhà Vua rất sùng thượng việc văn học. Ngài mở rộng nhà Thái Học, hàng năm tế đức Khổng Tử long trọng, đặt ba lớp Quốc Tử Giám, lấy thêm sinh viên lưu trú, làm kho bí thư để chứa các sách. Cách của Ngài cho kén nhân tài nhằm vào đức hạnh rồi mới đến văn học và do sự tuyển lựa trước của Hương Lý, thí sinh mới được đệ đơn thi.
Năm Nhâm Ngọ (1462), Quang Thuận thứ ba, Ngài định cứ ba năm một kỳ thi, năm trước thi Hương thì năm sau thi Hội. Thi Hương thì cứ nhằm vào những năm Tỵ, Mão, Ngọ, Dậu; thi Hội vào những năm Sửu, Thìn, Mùi, Tuất. Trong nước, ngài đặt 12 trường thi Hương; 7 trường tại Sơn Nam, Phụng Thiên, Hải Dương, Kinh Bắc, Sơn Tây, Thanh Hoá, Nghệ An. Mỗi trường có 4 quan giám thí do Hàn Lâm Viện cử ra. Còn năm trường: Tuyên Quang, Hưng Hóa, Thái Nguyên, Lạng Sơn, An Bang. Mỗi trường có hai quan giám thí do tòa Thừa và tòa Hiến ở đấy cắt ra. Ngài ban tờ dụ "Khuyến Học" cho sĩ tử toàn quốc, lời lẽ đầy đủ như cha dạy con, thày bảo trò, thật là ân cần tha thiết, điều hơn lẽ thiệt chỉ rõ như ban ngày, nhờ vậy làn sóng văn học tràn khắp nơi Kinh kỳ ra ngoài dân dã. Số người tài cao học rộng mỗi ngày một nhiều. Năm Nhâm Ngọ (1462) cả 12 trường thi có tới 60000 người dự thì rõ việc học khả quan thế nào. Số cống sĩ khoa Tiến Sĩ Ất Mùi, Hồng Đức thứ sáu (1475) tăng lên gấp ba. Số người này trước kia không quá hai ba chục, từ đó lên tới 60 mỗi khoa.
Đỗ Trạng Nguyên tức là đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ, đệ nhất danh được hàm chánh lục phẩm. Bảng Nhỡn tùng lục phẩm. Thám Hoa chánh thất phẩm. Hoàng giáp tức nhị giáp tiến sĩ xuất thân, tòng thất phẩm. Tam giáp đồng tiền sĩ xuất thân hàm chánh bát phẩm.
Các tân khoa đầu tiên được Viện Hàn Lâm, sau theo phẩm trật được bổ Giám Sát Ngự Sử, Tri Phủ, Tri Huyện.
Để  tỏ  lòng  tôn  trọng  nhân  tài,  vua  Thánh  Tông  đãi  yến  các  vị  tân  khoa    vườn Quỳnh Lâm, ban mũ áo, cờ biền cho vinh quy. Ngài còn cho dựng bia ở nhà Thái Học mỗi khoa, trên có bài thuật quang cảng khoa thi, nói ý tốt của nhà vua, dưới khắc tên và trú quán các vị tiến sĩ theo thứ tự hơn kém. Ngày 15 tháng tám năm Hồng Đức thứ 15, mười một chiếc bia tiến sĩ được dựng lên một lúc ở Văn Miếu thành Thăng Long, biểu dương tinh thần trọng học và hiếu học của dân tộc Việt Nam. Các ông nghè triều Lê kể từ khóa đầu tiên của bản triều là khóa Nhâm Tuất đều có tên trong các bia đó. Các khoa thi sau cũng được hưởng sự long trọng này, tiếc rằng các bia sau không dựng đúng ngày đó để việc kỷ niệm có ý nghĩa hơn đối với lịch sử khoa cử.
Thiết tưởng cũng nên chép ra đây ít lời khuyến cáo và khích lệ trong một vài tấm bia để tỏ lòng kỳ vọng của triều đình đối với kẻ sĩ:
Người học trò được khắc tên vào phiến đá này rất may mắn thay. Phải mong làm điều trung nghĩa. Danh và thực phải giống nhau, việc làm theo sự học để thành công nghiệp lớn lao rực rỡ khiến cho thiên hạ về sau mong theo tiếng tốt, hâm mộ đức hay, ngõ hầu trên không phụ lòng nhân của triều đình đã hết lòng nuôi dạy, dưới không uổng cái công uẩn xúc của mình khi bình sinh, thì cái phiến đá này khắc ra lâu đời không nát.
Nếu chỉ khoe văn chương bên ngoài mà thiếu đức hạnh ở trong, kiến thức học hành sai lạc, hạnh kiểm hỏng, danh giá hư thì chỉ làm phiến đá kia thêm vết. Ví như bất trung bất hiếu thì tên đục đi. Chẳng phải cái ý của triều đình mong cho sĩ quân tử như vậy; chẳng phải sĩ quân tử tự đãi mình như thế. Ôi, bé đi học, lớn ra làm cái chí cung kính chi dụng, người ta ai ai cũng có. Từ nay về sau phàm là người học trò sinh ở đời này, dự vào lối học này nên để ý đến. (Trích bia khóa Đinh Mùi, Hồng Đức thứ 18 Thân Nhân Trung soạn).
Nếu xét tổng số Tiến Sĩ đời Lý Trần, (đời Trần gọi Tiến Sĩ là Thái Học Sinh), đến triều Thành Thái nhà Nguyễn vừa đây là 2335 vị, thì số Tiến Sĩ triều vua Thánh Tông chiếm quá 1/5, trong số 30 ông Trạng, Quang Thuận và Hồng Đức có tới 9 ông. Lại có điều đặc biệt bữa là cái vị khoa mục đều trẻ tuổi cả (Trạng Nguyên Vũ Kiệt đỗ năm 20 tuổi. Tiến Sĩ trẻ nhất là Nguyễn Nhân Thiệp, đỗ khóa Bính Tuất, mới 15 tuổi). Ngoài ra, triều đình còn lấy cả mhững người không đỗ đạt lớn nhưng có văn tài, đức vọng để giữ các trọng trách nữa, đủ hiểu quan niệm về nhân tài thời Hồng Đức rộng rãi và thực tế biết chừng nào. (Bộ Công Vụ đời nay tưởng nên lưu ý đến việc này). Rồi do cái chính sách thiết tha chiêu hiền đãi sĩ ấy, do cái tinh thần sùng thượng đạo đức văn học cao tột bực, kẻ sĩ thời đó đã hết lòng trung quân ái quốc và sau này, vận Lê nghiêng ngửa có nhiều người đã dám sát thân để thành nhân vậy.

Nhà Hậu Lê Xuống Dốc
V. Lê Hiến Tông (1497 - 1504)
Kế nghiệp vua Thánh Tông là Thái Tử Tăng tức vua Hiến Tông. Thái Tử là con cả trong số 14 con trai và 20 con gái của nhà Vua.
Vua Hiến Tông là một ông vua thuần hòa, thông minh, không hề gắt với ai bao giờ và kẻ có lỗi còn được Ngài khuyên như êm ái. Chính sách của Ngài là tiếp tục sự nghiệp của tiền triều, mọi mối giềng khuôn phép đều nhất nhất để nguyên vẹn. Có lẽ Ngài không có sáng kiến nên chỉ lo theo đuổi đường lối của vua Thánh Tông để lại, và như ta thấy, số quần thần cũ vẫn đông đủ, trước kia với Thánh Tông thì nước ta được mở mang nhiều, vậy mà với Hiến Tông ta không thấy có sự tiến bộ hay sự mới lạ nào hết. Phải chăng vì Hiến Tông cho rằng chính sách cũ của vua cha đã tận thiện, tận mỹ rồi chớ phải đâu số nhân tài của tiền triều để lại vẫn đủ nay vua Thánh Tông qua đời lại không làm nổi thêm việc gì nữa? Theo chúng tôi, ở dưới chế độ quân chủ, độc tôn, vận mệnh và sự tiến hóa của dân tộc thường chịu quá nhiều ảnh hưởng của vị chúa tể. Nước sinh phát đạt, nhân tài nẩy nở nhiều, chính sự được giải quyết mỹ mãn. Trái lại, với một ông vua tầm thường thiển cận thì bộ máy nhà nước bị ngừng trệ hoặc thoái bại, mặc dầu nước có người hiền và dân có khả năng tiến hóa...
Nhờ có uy thế của tiền triều từ trong ra ngoài nên dưới đời Hiến Tông tuy không có sự tiến bộ nào hơn thuở trước nhưng nước vẫn được yên ổn. Hiến Tông chú ý nhiều đến việc nông tang, đê điều, sông ngòi, đắp đường làm guồng nước để tiện nghề cầy cấy. Đối với việc văn học, nhà vua cũng trông nom chăm sóc. Tóm lại vua Hiến Tông là một ông vua bảo thủ và nhà Hậu Lê đến đời vua Thánh Tông đã làm cho dân tộc Việt Nam cường thịnh đến mực nào thì đó là mực chót. Ta còn phải nghĩ rằng may cho dân tộc là vua Thánh Tông đã làm khá nhiều việc.
Vua Hiền Tông trị vì được 7 năm thì mất thọ được 44 tuổi. Sau Ngài , dòng họ Lê bắt đầu suy nhược như nhiều vương triều khác.

VI. Lê Túc Tông (1504- 1505)
VII. Lê Uy Mục (1505 - 1509)
Người con thứ ba của vua Hiến Tông tên là Thuần lên ngôi sau khi Hiến Tông qua đời, tức là Túc Tông.
Sau 6 tháng ở ngôi Túc Tông mệnh một. Anh Ngài là Tuấn được triều đình tôn lập tức là vua Lê Uy Mục. Vừa nắm được quyền hành, Uy Mục đã giết ngay bà tổ mẫu Thái Hoàng Thái Hậu, quan Lễ Bộ Thương Thư Đàm Văn Lễ và quan Đô Ngự Sử Nguyễn Văn Bật để trả cái thù trước đây, khi vua Hiến Tông qua đời, ba người này không tán thành việc mình lên ngôi.
Lê Uy Mục rất tàn ác, say mê tửu sắc, đêm nào cũng uống rượu với cung nhân, lúc sau quá chén thường đem giết cung nhân. Cái thú khác của Uy Mục là bắt quân sĩ lấy gậy đánh nhau để mua vui trong khi người ta vỡ đầu, xẻ tai.
Tính hung bạo và vô nhân đạo của Uy Mục khiến dân bất phục vì vậy trong nước xẩy ra nhiều giặc giã, trộm cướp. Rồi Uy Mục biết mình không được cảm tình của dân chúng nên phải dùng một số ngoại thích có sức mạnh vào cung làm túc vệ, do sự kiện này, Mạc Đăng Dung, cháu bảy đời Trạng Nguyên Mạc Đĩnh Chi, lúc hàn vi làm nghề đánh cá ở Hải Dương nhờ sức khỏe và võ nghệ hơn người, đỗ Đô Lực Sĩ, được trọng dụng dần tới chức Đô Chỉ Huy Sứ là một võ chức tối cao trong triều đình, sau này đã gây nên một cuộc đảo lộn thời cuộc trên nửa thế kỷ (1527-1529).
Ngoài ra, vua đã thất chính như vậy, thì không lạ gì một số công thần cùng tông thất bị đánh đuổi, dân gian bị hà hiếp hay có nhiều đại thần bỏ quan trốn đi nữa.
Sứ Tàu qua Việt Nam nhận thấy Uy Mục bạo ngược, phản trắc, gọi Uy Mục là Quỷ Vương.
Tháng chạp năm Kỷ Tỵ (1509) cháu vua Thánh Tông là Oanh tức Giả Tu Công là anh em thúc bá với Uy Mục bị bắt giam, đem tiền lót cho quân canh ngục trốn thoát về Tây Đô, triệu tập được các cựu thần, đem quân áp đảo thành Thăng Long bắt Uy Mục và Hoàng Hậu Trần Thị đem giết. Cuộc đảo chính thành công, Giản Tu Công lên ngôi tức vua Tương Dực.

VII. Lê Tương Dực (1510 - 1516)
Ông vua thứ bảy của nhà Hậu Lê cũng không hơn gì Uy Mục, trái lại còn xa xỉ và đàng điếm hơn. Mực sống của dân chúng đang bốc cao dưới mấy đời vua trước bắt đầu ngưng trệ, kho tàng của nhà nước cạn sạch dần. Vua ủy cho Vũ Như Tô xây một chiếc Cửu Trùng Đài và một cái đền 100 nóc. Quân dân nhật dạ làm luôn mấy năm không xong, hao tốn tiền và sinh mạnh rất nhiều.
Vua lại cho đóng thuyền và tổ chức những đội binh phụ nữ để chèo thuyền rong chơi múa hát ở Tây Hồ. Trong đám phụ nữ mua vui cho nhà vua có cả các cung nhân của tiền triều, đáng lẽ vua phải kiêng kỵ điều đó nhưng nhà vua cũng chẳng đếm xỉa đến luật lệ của hoàng gia, đạo đức của dân tộc nên tư thông với cả bọn người đó. Vào cái thời người ta còn sùng thượng nền luân lý Khổng Mạnh, đây là cái điểm đáng chú ý và càng không thể tha thứ nếu những kẻ vi phạm lại là các vua chúa, những người đáng lý phải làm gương mẫu cho trăm họ. (Sứ nhà Minh phê bình vua Tương Dực có tướng lợn, đó là điềm loạn vong sắp xẩy ra).
Việc thuế má đời bấy giờ vẫn theo các đời trước nhưng không rõ hàng năm thâu hoạch được những gì cho nhà nước. Sử chỉ chép dưới đời vua Tương Dực thuế vàng và thuế bạc đồng niên thu được:
Vàng thập, thứ tốt nhất gọi là "kiêm kim" được 480 lượng; vàng cửu 2883 lượng; bạc 2930 lượng.
Nay vua Tương Dực lập lại thể lệ và thu được là:
Vàng "kiêm kim" 449 lượng; vàng cửu 2901 lượng; bạc 6125 lượng. Số vàng bạc thu vào kho tùy nhà vua tiêu dùng theo sở thích.
Việc văn học không thấy nói có phát triển được phần nào duy có ông Vũ Quyền làm quan Binh Bộ Thượng Thư soạn xong được bộ Đại Việt Thông Giám gồm hai phần, từ thời Hồng Bàng đến giai đoạn Thập Nhị Sứ Quân là ngoại kỷ. Còn từ nhà Đinh đến đời Hậu Lê là bản kỷ, tất cả có 26 quyển, ông Lê Trung được viết bài tổng luận.

Các Mối Loạn
Thế kỷ XVI của nhà Hậu Lê đã đánh dấu bằng nhiều mối loạn ly trong nước, điều dĩ nhiên phải sinh ra khi quốc chính bại hoại. Một số lương thần như các ông Lê Trung, Lương Đắc Bằng v.v... người thì già người thì chết, người thì cáo quan về ở ẩn, không còn người đứng đắn đủ uy tín ngăn cản những hành động trái lẽ của vua Tương Dực và giữ vững triều cương. Đây là dịp những kẻ chọc trời khuấy nước và bất mãn với chế độ tập hợp dân chúng đói khổ nổi lên chống lại triều đình. Tình trạng này ngày càng mở rộng vết đau thương của trăm họ. Trần Duy Nhạc và Ngô Văn Tổng dấy quân ở Kinh Bắc hoành hành khắp vùng Đông Ngạn và Gia Lâm. Trần Tuân đánh phá Sơn Tây. Phùng Chương quấy miền Tam Đảo. Trần Công Ninh chiếm giữ Yên Lãng (Phúc Yên).
Tại Nghệ An có bọn Lê Hy, Trịnh Hưng, Lê Văn Triệt vùng vẫy. Đáng kể kiệt hiệt là thầy chùa Trần Cao mạo xưng con cháu họ Trần cùng con là Thăng, tướng là Phạm Ất người Chiêm Thành thấy sấm nói ở phương đông có thiên tử khí cùng với đồ đảng dấy quân ở huyện Thủy Đường chiếm đóng tỉnh Hải Dương và huyện Đông Triều tuyên truyền mình là Đế Thích giáng sinh. Nhân dân nhẹ dạ lại tin chuyện quỷ thần, theo Trần Cao tới hàng vạn. Bọn này tiền binh đóng ở Bồ Đề bên kia sông Nhị Hà sửa soạn tấn công thành Thăng Long. Nội bộ Lê triều trong giai đoạn rối ren này đáng kể là nghiêm trọng.
Quân của triều đình sang đánh. Trần Cao lui về Châu Sơn thuộc phủ Từ Sơn (vẫn trong địa hạt Kinh Bắc). An Hòa Hầu là Nguyễn Hoằng Dụ đem binh ngăn đón loạn quân tại Bồ Đề phòng vệ kinh đô.
Đáng lẽ vua Tương Dực phải tỉnh ngộ, phải sửa đổi tư cách để định quốc an dân trong tình thế nhiễu nhương này, trái lại nhà vua vẫn giữ mọi tính hư hèn, khinh rẽ, bạc đãi các đại thần và do đó tự đào hố chôn mình. Nguyên Quận Công Trịnh Duy Sản vốn có công đánh giặc từ lâu, nhưng vì trực tính, hay can vua trong các việc đàng điếm, nhà vua không bằng lòng, và có lần hạ lệnh đánh họ Trịnh trước sân rồng. Uất ức cho thân thế mình là kẻ rường cột của nhà nước bị nhục một cách vô lý, Trịnh mưu cùng các thủ túc là Lê Quang Độ và Trịnh Chí Sấm sẵn binh đội trong tay giả tiếng đi đánh giặc nửa đêm đem quân phá cửa Bắc Thần vào giết vua Tương Dực.
Vua Tương Dực trị vì được 8 năm, thọ 24 tuổi.

IX. Lê Chiêu Tông
X. Lê Cung Hoàng  (1516 - 1527)
Theo Việt Nam Sử Lược cũng như nhiều cuốn sử do người Pháp viết (Cours d'histoire D'Annam par Maybon et Russier. Pays d'Annam par C.Luro v.v...) trong khi nhà Hậu Lê xuống dốc có nhiều sự lộn xộn và rất bi đát dưới đây:
Sau khi vua Tương Dực bị hạ sát thì bọn Trịnh Duy Sản họp các quan trong triều tôn lập Mục Ý Vương là Quang Trị mới lên 8. Một người không tán thành là Võ Tá Hầu Phùng Mại bàn nên lập cháu ba đời vua Thánh Tông là _ con của Cẩm Giang Vương lúc đó đã 14 tuổi. Bọn Trịnh Duy Sản sẵn lực lượng quân sự trong tay thấy có sự phản đối liền đem chém ngay Phùng Mại tại giữa Nghị Sự Đường, có lẽ để ra oai với những phần tử khác còn lưỡng lự hoặc có ý chống họ.
Quang Trị lên ngôi chưa kịp đặt niên hiệu thì Trịnh Duy Đại anh của Trịnh Duy Sản cầm đầu phe đối thủ của Sản cướp thiếu quân đem vào Thanh Hóa. Quang Trị vào Tây Kinh được ba hôm thì bị giết, vì lý do gì không thấy sử nói tới.
Còn Cẩm Giang Vương là _ nói trên được bọn Trịnh Duy Sản tôn lập thay cho Quang Trị tức là Chiêu Tông rồi đưa vào Tây Kinh, có lẽ tình thế bấy giờ khẩn trương lắm. Giặc Trần Cao lợi dụng sự bối rối của triều đình liền tiến qua sông Nhị đánh vào kinh thành rồi tiếm hiệu xưng vương ở đây. Thế giặc lúc này rất lớn. Triều đình vào tới Tây Kinh truyền hịch đi mọi nơi tập trung quân đội ra Đông Đô trừ giặc.
Đứng đầu các tướng lĩnh và cựu thần bấy giờ là bọn Trịnh Duy Sản, Nguyễn Hoằng Dụ, Trịnh Tuy, Trần Chân chia binh đánh vào Đông Đô, vây hãm các các mặt khiến Trần Cao phải bỏ chạy lên Lạng Sơn. Triều đình lại trở về Đông Đô là Trịnh Duy Sản được cử đem quân đuổi theo Trần Cao. Trịnh khinh địch bị tử trận và giặc sau khi hạ được họ Trịnh quay lại Bồ Đề nhưng bị Thiết Sơn Bá, Trần Chân phá được. Trần Cao lại rút về Lạng Sơn thấy không thực hiện được giấc mộng Bá Vương nên nhường binh quyền cho con là Thắng rồi cắt tóc đi tu để tránh mọi sự truy tầm.
Trong lúc này vua Chiêu Tông vẫn làm vua nhưng với cái tuổi 14 dĩ nhiên ông vua thơ ấu ấy không làm nổi việc gì. Ông thành bù nhìn hay con người máy của các đại thần và các chúa phong kiến. Giờ đây giữa triều đường các phe đảng mọc ra như nấm, ai ai cũng nêu danh nhà vua để hành động và tranh giành ảnh hưởng trong lúc từ thôn quê ra tới thành thị giặc cướp hoành hành, nhân dân nheo nhóc đói khổ.
Rồi các đại thần thù hằn nhau, đem quân đánh lẫn nhau, chẳng một ai không vỗ ngực phò vua, giúp nước, an dân... Trịnh Tuy bất hòa với Nguyễn Hoằng Dụ. Hai bên đánh  nhau  mãi,  vua  can  không  được.  Trần  Chân  đem  binh  giúp  Trịnh  Tuy,  Nguyễn Hoằng Dụ phải chạy vào Thanh Hóa.
Lại một phen nữa, Trịnh Duy Đại (kẻ cướp và giết vua Quang Trị) mưu phản bị người tố cáo nên phải giết cùng với các dư đảng. Trong lúc này một lực lượng thứ ba ra đời: Mạc Đăng Dung. Vua Chiêu Tông vời họ Mạc lúc này là Vũ Xuyên Hầu đang cầm quân ở Hải Dương về đánh Nguyễn Hoằng Dụ. Mạc Đăng Dung được thư riêng của Nguyễn Hoằng Dụ không đem quân vào Nam nữa.
Trong triều bấy giờ Trần Chân giữ nhiều quyền binh. Có người nói họ Trần mưu phản. Vua Chiêu Tông liền cho vời họ Trần vào thành rồi đóng cửa giết. Bộ tướng của Trần Chân là Hoàng Duy Nhạc, Nguyễn Kính, Nguyễn Áng nghe tin họp quân đánh phá kinh thành. Vua phải xuất bôn, cho người vào Thanh Hóa mời Hoằng Dụ ra nhưng Hoằng Dụ từ chối, nhà vua lại phái sứ giả qua Hải Dương tìm Mạc Đăng Dung vì không còn trông cậy vào ai được nữa. Mạc Đăng Dung đem vua về Bồ Đề cho người mật dụ Hoàng Duy Nhạc, Nguyễn Kính. Bọn ấy xin giết Chư Khải, Trịnh Hựu, Ngô Bình đã xui vua hại chủ tướng của họ, rồi sẽ về hàng. Vua ưng theo giết ba người kia, vậy mà bọn phiến loạn vẫn không chịu giải binh. Chúng lại liên kết với lũ Trịnh Tuy, Nguyễn Sư lập Lê Do lên làm vua đóng hành điện ở Từ Liêm. Thế giặc rất mạnh, vua lại cho triệu Hoằng Dụ ra để hợp lực cùng Mạc Đăng Dung đối phó với loạn quân, Hoằng Dụ đem quân ra đánh trước bị bại trận lại phải rút về Thanh chỉ còn họ Mạc trở lại để giải quyết tình thế. Được ít lâu họ Mạc trừ được bọn Lê Do, Trịnh Tuy và Nguyễn Sư, bắt được Trần Cao, hàng phục được Hoàng Duy Nhạc, Nguyễn Kính, Nguyễn Áng rồi phò vua trở lại kinh thành. Quyền binh của triều đình từ đấy lọt sang tay Mạc Đăng Dung và thanh thế họ Mạc từ đó bốc lên rất mạnh.
Triều đình bấy giờ chia làm 2 cánh: một phò Mạc Đăng Dung, một chống lại Đăng Dung. Trong những người không tán thành quyền lực mới, có kẻ bị giết, có kẻ cáo quan ra về.
Vua Chiêu Tông ngầm bàn với bọn Phạm Hiến, Phạm Thứ dùng võ lực trừ khử Mạc Đăng Dung và cử người vào Tây Kinh bảo Trịnh Tuy đem binh ra tiếp ứng. Sau khi âm mưu này đã được quyết định, nhà vua trốn lên Sơn Tây ngay đêm ấy để tính việc ra binh. Sáng hôm sau Mạc Đăng Dung hay tin biến, liền cử Hoàng Duy Nhạc đem quân đuổi theo nhưng Nhạc tới huyện Thạch Thất thì bị quân sở tại giết được. Mạc Đăng Dung liền lập ngay Hoàng Đệ lên thay tức là Cung Hoàng đổi niên hiệu là Thống Nguyên để yên lòng dân. Mạc Đăng Dung sợ quân đội của vua Chiêu Tông sẽ đánh vào kinh thành nên thiên cả triều đình mới về đất Gia Phúc nay là Gia Lộc tỉnh Hải Dương. Xét việc này, ta thấy lực lượng của thuở ấy cũng khá mạnh bởi được hào kiệt các nơi theo về rất nhiều nên họ Mạc phải di chuyển triều đình mới đi nơi khác. Tiếc thay vua Chiêu Tông phần còn ít tuổi, phần bất tài nên không đối phó nổi với thời cuộc trong một giai đoạn vô cùng nghiêm trọng. Vua chỉ nghe bọn hoạn quan Phạm Điền, các việc quan trọng đáng lẽ phải bàn với các đại thần và tướng lĩnh. Dần dần, lòng người chán nản, rời rã. Vua lại cho vời Trịnh Tuy ở Thanh Hóa đem binh ra giúp mấy lần nhưng Trịnh Tuy do dự, có lẽ cũng hiểu qua tình trạng của vua Chiêu Tông. Sau Trịnh Tuy cũng thuận lòng đem ra Bắc Hà hơn một vạn binh sĩ. Một việc vụng về đã xẩy ra. Vua Chiêu Tông nghe lời bọn Phạm Điền giết Nguyễn Bá Kỷ, thuộc tướng của Trịnh Tuy làm cho Trịnh bất bình. Trịnh liền bắt vua đem về Thanh Hóa, thật là một việc vô tình đã trực tiếp dọn đường sửa lối cho Mạc Đăng Dung bước vào Thăng Long nắm lấy địa vị chúa tể Bắc Hà. Không một ai chối rằng đất Bắc thuở ấy là cái nhà vô chủ bỏ ngỏ?
Năm Giáp Thân (1524) lực lượng Nam Hà của vua Chiêu Tông và Trịnh Tuy bị binh tướng miền Bắc tấn công tại chỗ, Trịnh Tuy thua trận rồi chết, vua Chiêu Tông bị bắt cũng bị hạ sát ở Đông Hà thuộc huyện Thọ Xương, làm vua được 11 năm, thọ 26 tuổi.
Vua Chiêu Tông mất, lịch sử Việt Nam mở màn cho một triều đại mới: triều Mạc. Và từ đây tấn trò tam phân ngũ liệt đã diễn ra trên sân khấu Việt Nam làm đổ chan hòa biết bao nhiêu máu và nước mắt của con dân đất Việt từ sông Nhị Hà tới bờ Nhật Lệ.

Phần 3 - Chương 11
Nhà Mạc (1527-1667)

- Mạc Đăng Dung (1527-1529)
- Mạc Đăng Doanh (1530-1540)
- Mạc Phúc Hải (1541-1546)
- Mạc Phúc Nguyên (1546-1561)
- Mạc Mậu Hợp (1562-1592)

I. Mạc Đăng Dung (1527-1529)
1- Tình Trạng Việt Nam Đầu Thế Kỷ 16
Đầu thế kỷ 16, vua Thái Tổ nhà Hậu Lê, với sự hậu thuẫn mạnh mẽ và kiên quyết của toàn dân, đã lập lên một sự nghiệp bất hủ trong sử xanh là đánh đuổi được quân xâm lăng ra khỏi bờ cõi, sau 10 năm chiến đấu đầy hy sinh gian khổ.
Từ Thái Tổ đến Thánh Tông, hùng khí của dân tộc Việt Nam mạnh như sóng cồn, nếu đem so sánh Việt Nam với các lân quốc Á châu thì ta có thể tự hào rằng mình là một quốc gia cường thịnh bậc nhất ở Đông Nam Á về mọi phương diện.
Văn trị, võ công rạng rỡ đến thế là tột bực, đến cả vấn đề cương vực cũng được mở rộng hơn bao giờ hết. Ta nhớ rằng dưới đời Hậu Lê, biên giới Việt Nam đã đi sâu vào đất Chàm, vua Thánh Tông đã xua đuổi Chiêm quân đến Phan Lung rồi chia Chiêm quốc thành ba tiểu quốc.
Trong giai đoạn lịch sử này, ngó về cục diện Âu châu, ta thấy nước Pháp vừa mới phục hồi được ít lâu sau cuộc Bách niên chiến tranh (Guerre de cent ans) và nước Anh còn đang đau khổ trong các cuộc khói lửa vô cùng tàn hại (Guerre des deux Roses) trên khắp mọi nơi trên đảo quốc. Đây là nhận xét của giáo sư Jean Chesneaux, tác giả cuốn "Contribution à l'histoire de la Nation Vietnamienne", xuất bản tại Ba Lê (1955), kể ra để khen ngợi với đời Hồng Đức nước Việt Nam đã văn minh thịnh trị, ngay so cả với nhiều nước lớn ngày nay ở Âu châu vào thời ấy.
Đáng tiếc đến hết đời vua Thánh Tông thì cái đà tiến hóa của dân tộc bị ngừng lại. Lý do của sự ngừng tiến là bởi các vua kế vị Thái Tổ, Thánh Tông, Hiến Tông đều nhỏ tuổi cả và như thế kém cả tài lẫn đức nên không những không thúc đẩy thêm được cái đà tiến hóa của dân tộc mà còn đi đến chỗ dật lùi rồi dần sa vào hố suy vong.
Từ vua Tương Dực tới Chiêu Tông và Cung Hoàng, vương quyền bại hoại rõ rệt, do đó các đại thần tướng lĩnh tha hồ mà tranh giành quyền hành. Mối loạn bắt đầu. Tính ra từ vua Thái Tổ đến Cung Hoàng là lúc khởi sự cường thịnh, đến lúc tàn tạ vừa đúng một thế kỷ (1428-1527), sau 10 vị vua lớn nhỏ.
Theo tác giả "Xã hội Việt Nam", khi nhà Hậu Lê mới dấy nghiệp, các lãnh tụ phong kiến đều vừa là quan liêu vừa là địa chủ. Bấy giờ họ còn non nớt và còn biết e dè uy quyền của nhà vua xây dựng trên những nguyên tắc thương dân thương nước, họ chưa dám tác yêu, tác quái. Các quyền lợi của họ một phần đã do ân sủng vì công lao chiến đấu với vua Thái Tổ trước đây mà có, sau này lại do sự bóc lột dần dần mà lớn lên mỗi ngày, buổi đầu là do những căn nguyên chính đáng rồi sau do chỗ lạm quyền lạm thế. Tới khi uy quyền của nhà vua sút đi thì uy quyền của họ lại mạnh thêm. Ngoài ra, giữa các quan liêu, phú hào, họ càng đông thì mầm chia rẽ càng nhiều, rồi một cơ hội đã thuận tiện cho mầm chia rẽ đó là nước Đại Việt từ thế kỷ XV đã thành một quốc gia rộng lớn nhưng nền kinh tế phát triển không kịp, lãnh thổ chia sẻ quá nhiều vào các quan liêu, phú hào, sau này triều đình yếu hèn quá không kiểm soát nổi họ. Rồi bọn này mạnh bao nhiêu, sự bóc lột và áp chế nhân dân nhiều bấy nhiêu. Dân có đau khổ mà kêu trời thì "thiên cao, hoàng đế viễn". Trong cái tình trạng bế tắc ấy, chính người dân cũng muốn phiến động để tìm ra lối thoát.
Thế là giữa các phần tử của chính quyền đã có sự cạnh tranh chia rẽ mà chính quyền vì không bênh vực nổi quyền lợi của nhân dân nên đối với nhân dân cũng thành giáo, mộc, thù nghịch, thì xã hội Việt Nam sớm chầy phải tan rã và đi sang một thế khác. Đó là lý đương nhiên.
Cái không khí nghẹt thở ấy đã phát sinh từ đời vua Uy Mục đến Chiêu Tông, luôn 20 năm ròng rã mới nẩy ra cuộc biến loạn trên toàn cõi Việt Nam kể cũng đã muộn.
Dưới đây, chúng tôi xin giới thiệu ba nhân vật đã tranh hùng, tranh bá, đã chịu trách nhiệm làm tan rã nền thống nhất của nước nhà và đã gây nên bao nhiêu cảnh núi xương, sông máu từ Cao Bằng vào tới bờ sông Nhật Lệ: Mạc Đăng Dung, Trịnh Kiểm, Nguyễn Hoàng.

2- Tiểu Sử Của Mạc Đăng Dung
Mạc Đăng Dung thuộc dòng dõi Trạng nguyên Mạc Đỉnh Chi và là cháu 7 đời của ông, quê ở Đông Cao, một làng thuộc huyện Bình Hòa, tỉnh Hải Dương. Huyết thống của ông như vậy đáng kể là cao quý. Sau cha mẹ ông dời sang làng Cổ Trai thuộc huyện Nghi Dương, tỉnh Kiến An bây giờ. Đến thế hệ của ông thì đã sa sút nhiều nên gia đình ông phải sinh sống bằng nghề đánh cá nhưng nhờ có sở trường võ nghệ, họ Mạc thi đậu Đô lực sĩ dưới thời vua Uy Mục, rồi trên hoạn lộ ông tiến bước dần đến tước Vũ Xuyên bá. Ông thăng Vũ Xuyên hầu dưới đời vua Chiêu Tông và được giao trọn binh quyền thuở ấy, sau khi Hoàng Duy Nhạc vì báo thù cho chủ (Trần Chân) mà gây loạn ở kinh thành.
Theo Đặng Đình Long, tác giả "Ai vô xứ Nghệ", lý lịch của họ Mạc có những chi tiết đặc biệt như sau:
Họ Mạc thuộc dòng dõi Cơ Chất Khiết tức là con cháu họ Cơ nhà Châu làm vua bên Trung Hoa. Gặp hồi suy vong nhà Châu mất nước, Cơ Chất Khiết về ở quận Trác Lộc rồi ra làm Chấp kích lang với nhà Hán. Có công nên được đổi thành họ Mạc và được cai trị đất Trịnh Ấp. Ngày nay ở hạt Nhâm Khâu phủ Hà Gián còn có nơi gọi là Mạc Châu, đó là chỗ phát tích của họ Mạc. Về sau con cháu Mạc Chất Khiết đều hiển đạt cả, rồi dần dần thiên cư về mé Nam Trung Hoa. Đến thời nhà Tống, họ Mạc ở đất Quảng Đông rất thịnh. Rồi một chi họ Mạc ở đất Phiên Ngung di cư sang làng Lũng Động, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, rồi đến đời Mạc Hiển Tích mới phát đạt.
Mạc Hiển Tích đỗ văn học thủ tuyển năm Bính Dần, niên hiệu Quang Hựu triều vua Lý Nhân Tông làm quan đến Thượng thư. Em Mạc Hiển Tích là Mạc Hiển Quan đỗ văn học niên hiệu Quang Hựu, năm Kỷ Tỵ, huynh đệ đồng triều, sự nghiệp rất hiển hách. Sau năm đời đến Mạc Đỉnh Chi.
Mạc Đỉnh Chi hiệu là Tiết Phu, người bé nhỏ, tướng mạo cực xấu nên người ta thường cho là hầu tinh giáng thế. Mạc Đỉnh Chi thông minh rất mực, đỗ Trạng nguyên năm Giáp Thìn niên hiệu Hưng Long triều vua Trần Anh Tông, đi xứ Tầu có tài ứng đối được vua Tầu phong cho: "Lưỡng quốc Trạng nguyên" rồi về nước làm quan đến Đại liêu Bang Tả bộc Xa, tính rất thanh liêm, sau xin từ chức về quê dậy học. (Nay ở xã An Ninh còn di chỉ nền nhà học tức là Trạng nguyên cổ đường. Làng Long Động thờ làm Thành hoàng).
Con Mạc Đỉnh Chi là Mạc Khán, Mạc Trực đều đỗ Hương Cống làm chức Viên Ngoại Lang đời Trần Dụ Tông. Đến đời thứ tư, một chi sang đất Ma Khê, huyện Thanh Hà rồi lại phân sang làng Cổ Trai thuộc huyện Nghi Dương. Ở Cổ Trai hai đời thì sinh ra Mạc Đăng Dung.
Trong việc thay  đổi cảnh trên sân khấu chính trị nước ta bấy giờ, ngoài việc của Chiêu Tông bại trận bị giết, còn lại vua Cung Hoàng, bà Thái hậu cùng đám quan liêu không thuận theo chiều gió mới bị rơi rụng là lẽ dĩ nhiên. Những nhân vật tuẫn tiết bấy giờ có các ông Vũ Công Duệ, Ngô Hoán, Đô ngự sử Nguyễn Thái Bạt, Lễ bộ Thượng thư Đàm Thận Huy, Tham chính sứ Nguyễn Duy Tường, Quan sát sứ Nguyễn Tự Cường, Bình hồ bá Nghiêm Bá Kỳ, Đô ngự sử Lại Kim Bảng, Hộ bộ Thượng thư Nguyễn Thiệu Trị, Phó Đô ngự sử Nguyễn Hữu Nghiêm, Lễ bộ Tả thị lang Lê Vô Cương, hết thảy là những người có cơm dầy áo nặng với cựu triều. Theo Việt Nam Sử Lược, họ đã mắng chửi họ Mạc, nhổ vào mặt họ Mạc hoặc ôm ấn nhẩy xuống sông tử vận. Đây là phản ứng kiểu tiêu cực của những kẻ yếu thế hay thất thế và chỉ là những hành động tuyệt vọng mà thôi. Một số người khác như Lê Công Uyên, Nguyễn Ngã, Nguyễn Thọ Tường đã khởi nghĩa ở Thanh Hóa bằng binh đao nhưng thất bại. Sau có Lê Ý nổi quân ở đất Mã Giang, mấy lần thắng được quân Mạc nhưng sau cũng bị tiêu diệt vì khinh địch.
Nhà Mạc bắt đầu từ năm Đinh Hợi (1527), lấy niên hiệu là Minh Đức. Mặc dù họ Mạc bị một số cố thần nhà Lê không tán thành để giữ tiết tháo. Vừa ra nắm giữ chính quyền Mạc Đăng Dung đã ra công thu dụng các cựu thần của tiền triều, các con cháu các nhà danh gia vọng tộc và truy phong cả những người tuẫn tiết.
Mạc Đăng Dung lên làm vua, theo Minh sử, có ban bố tân chính sách gồm 59 điều luật để áp dụng cấp thời về việc trị nước. Rất tiếc sử ta cũng như sử Tầu không nói rõ 59 điều của họ Mạc ra sao.
Mạc Đăng Dung trị vì được 3 năm thì theo lối nhà Trần nhường ngôi cho con là Mạc Đăng Doanh rồi về ở Cổ Trai làm Thái Thượng hoàng. Tuy vậy Mạc Đăng Dung vẫn trực tiếp điều khiển quốc chính.
Năm Canh Dần (1530) Mạc Đăng Doanh lên ngôi lấy niên hiệu là Đại Chính, làm vua đến năm 1540 thì mất, truyền ngôi lại cho con là Mạc Phúc Hải. Mạc Phúc Hải lấy niên hiệu là Quảng Hòa.
Từ Mạc Đăng Dung đến con cháu, triều Mạc vẫn theo đuổi những công cuộc của nhà Lê và có nhiều thiện chí trong việc trị dân giúp nước. Trật tự được phục hồi dần, việc canh nông được khuyến khích, việc thi cử học hành được mở mang. Mạc Đăng Dung lại cho đúc tiền sắt, tiền đồng để tiện dụng trong việc mua bán. Uy quyền của nhà Mạc nhờ vậy mà thấu khắp cõi Bắc Việt. Trong khi này các lực lượng đối lập bị dồn hết vào Thanh Hóa, Nghệ An, và Thuận Hóa.

2- Vụ Trần Thiêm Bình Thứ Hai Trong Lịch Sử Việt Nam
Trong lúc xã hội Việt Nam đi dần đến chỗ đều hòa, thăng bằng, người dân đang tu tạo sự nghiệp sau hai chục năm nước nhà lụn bại về mọi phương diện, một bọn quan lại nhà Lê không thắng nổi họ Mạc lại phải dùng cái chước hèn hạ nhất và cũng tai hại nhất là sang lậy van con cháu Minh Thành Tổ, đúng cái vai trò vô sỉ của bọn Bùi Bá Kỳ, Trần Thiêm Bình đã làm hơn một thế kỷ trước.
Tâm lý của người Minh trước kia thế nào thì sau này cũng lại thế. Bài học lịch sử xưa đã ghi rằng: khi quân Minh cất quân sang đánh nhà Hồ có tuyên ngôn rằng để dựng lại họ Trần, rồi khi nhà Hồ bị tiêu diệt, quân Minh dở mặt lập ngay cuộc đô hộ. Vậy với chuyện thứ hai này, con cháu Minh Thành Tổ sẽ tử tế, nhân đức hơn chăng?
Bọn Trần Thiêm Bình chưa có kinh nghiệm về Bắc phương còn tha thứ được một phần nào, chứ bọn cố thần nhà Lê đầu thế kỷ 16 không còn bào chữa tội lỗi vào đâu nữa.
Ngoài bọn người phản đối họ Mạc bằng những xuẩn động này, một bọn người khác đàng hoàng hơn, giữa thanh thiên bạch nhật, tung gươm giáo đo tài thử sức với họ Mạc bằng thực lực riêng của mình, tuy phải khoác cái nhãn hiệu "Phù Lê" để có lớp vàng son chính nghĩa. Đó là Nguyễn Kim, Nguyễn Hoàng, Trịnh Kiểm v.v...
Còn Minh Triều lần này, nghĩ ngợi thế nào về vấn đề nước Nam? Cuốn "Quận huyện thời đại chi An Nam" do tác giả Lê Chinh Phụ biên soạn đã kê cứu khá đầy đủ những cuộc bàn luận của vua tôi nhà Minh và cũng nhân đây xin nhắc cả đến những quan niệm của Trung quốc từ Hán, Đường, Tống, Nguyên về dân tộc và đất đai nước ta. Ai thiết tha đến sử học xin lưu ý đến đoạn này.
Lê Chinh Phụ viết: Theo Minh Sử cuốn 182, Lưu Đại Hạ Truyện, từ vua Lê Thái Tổ đến Lê Thánh Tông, Việt Nam là nước hùng cường đánh Chiêm dẹp Lào, có phen lại dám phạm cả biên cảnh các tỉnh Quảng Đông (Quỳnh Lôi), Quảng Tây (Long Châu, Hữu Bình), Vân Nam (Lâm An, Quảng Nam, Trấn An) các tiền triều Trung quốc cũng làm ngơ. Đến đời vua Tuyên Đức bấy giờ, triều Minh cũng không muốn gây sự đến Việt Nam nhưng Thái giám Uông Trực muốn được vua yêu muốn lập biên công, nhận thấy Lê Thánh Tông trước đây không thành công trong việc đánh Lão Qua đã dâng kế hoạch chiếm An Nam49.
Uông Trực kiếm bản văn kế hoạch chiếm An Nam năm Vĩnh Lạc đưa ra, Đại Hạ Nặc không tán thành, mật báo với quan Thượng thư Du Tử Tuấn rằng: "Nếu dấy binh đánh An Nam thì miền Tây Nam Trung quốc không khỏi tơi bời trong khói lửa ..." Tử Tuấn nghe ra liền đề nghị bãi bỏ ý kiến của Uông Trực.
Vương Miễn phụng mệnh Minh đế qua khám xét việc rối ren do An Nam gây ra tại Quảng Đông trở về cũng xin động binh để hạch tội Lê Thánh Tông liền bị giam vào ngục Cẩm Y Vệ (Thật đáng ngạc nhiên là không thấy cuốn sử Việt Nam nào nói đến vụ này).
Chiếu xét các việc trên đây ta thấy triều Minh rất kiêng nói đến vấn đề biên giới phương Nam (hẳn là do vang bóng các chiến công diệt Minh của Lê Thái Tổ) rồi cái tâm lý ấy đã hiện trong bài biểu của Đại Học sĩ Từ Phổ như sau:
"Chúng tôi được biết Hoàng đế rất có lòng nhân, không phân biệt Di, Hạ. Nhưng trộm xét: Xuân Thu truyện có nói đấng vương giả không trị di địch, vậy việc ngự di và trị nước không cùng, nước An Nam tuy theo chính sóc quan chức nhưng vẫn là ngoại di cậy có thế hiểm hay chống lại thiên triều nhưng thường được các liệt thánh bỏ qua.
Chúng tôi lại thấy trong Tổ huấn chép: Mọi rợ bốn phía đều ngăn sông cách bể, ở hẻo lánh xa xôi, được đất của họ cũng không đủ tổn phí, được dân của họ cũng không đủ sai khiến; nếu họ không lượng sức mà làm bậy, xâm phạm biên cảnh của ta chỉ chuốc lấy điều tai hại mà thôi. Còn ta đánh dẹp cũng không nên, e con cháu sau này cậy giầu mạnh, ham chiến công nhất thời vô cớ hưng binh sẽ tổn hại sinh mạng dân chúng. Lời khuyên bảo của Liệt thánh thật là quảng đại, xác đáng cho vạn thế huống chi ngày nay binh mã mạnh yếu thế nào chưa rõ, hao tổn tiền bạc nhiều để chiếm mảng đất không cỏ mọc chẳng là một việc vô ích thì lại càng không nên".
Ngự Giao Ký quyển 8 có ý phản đối như sau:
Bọn Từ Phổ coi nước An Nam là ngoại di, đất An Nam không cỏ mọc, việc đánh An Nam là vô ích. Họ đã quên rằng từ đời Tống trở về trước Giao Chỉ đã thuộc Trung quốc hơn ngàn năm. Trong khoảng thời gian dài rằng rặc này, An Nam đã chịu một chế độ chính trị, văn hóa như các quận huyện của người Hán. Là một Đại học sĩ mà không hiểu biết một sự thực trong một ngàn năm lịch sử há chẳng là điều quái gở sao?
Năm Hồng Đức thứ 8 tháng 6 mùa Hạ, quan Trung thư nói về An Nam như sau:

49 Việc này không đúng vì vua Lê Thánh Tông, trái lại có đánh qua Lão Qua và thành công. Uông Trực nghe lầm hay cố ý xuyên tạc sự thật để lập biên công chăng?

"Đất An Nam ở tận phía Tây Nam, gốc không phải là đất Hoa Hạ, phong tục riêng biệt, nếu gọi là xứ mọi rợ thì các rợ khác khó sánh kịp, có thể nói trái lại An Nam là một nước văn hiến nên lấy lễ độ mà dẫn dắt..."
Ngự Giao Ký quyển 3 viết: Đức Minh Thái Tổ chưa từng có ý coi An Nam thuộc các rợ. Lời Tổ huấn mà bọn Từ Phổ đã nêu ra là: "Mọi rợ bốn phương trong đó không có đất An Nam" là đúng, vả lại từ Hán đến Đường, trải qua các triều đại khác dều cho đất Giao, Quảng là vùng đất phì nhiêu, tại sao đời Minh lại quan niệm về Giao Chỉ khác Hán, Đường?
Ta có thể kết luận rằng đời Minh đa số triều thần ngán việc binh bị với Việt Nam, lại sợ trách nhiệm bởi thuở đó nước ta đang hùng mạnh, nên nói nước ta là đất cỏ không mọc được, người chẳng đủ để sai khiến, của cải chẳng là bao nhiêu chỉ là để làm nản lòng tham của triều đình vốn sặc mùi thực dân đế quốc mà thôi. Thực ra một số khá đông người Minh rất hiểu nước ta ở chỗ văn hiến, kiêng nể chúng ta ở chỗ quật cường và không dám xử với ta như với các dân mọi rợ.
Đó là điều vô cùng vinh hạnh cho nòi giống Việt Nam. Nhưng đến đời Minh Thế Tông (1522-1566) con mắt của Bắc phương lại bắt đầu dòm ngó về phương Nam vì một số cố thần nhà Lê đã sang cáo tỏ mọi việc biến loạn trong nước. Thêm vào đó có vụ này:
Năm Gia Tĩnh 15, mùa Đông nhà vua sinh hoàng tử, theo lệ thường ban chiếu cho các nước phụ thuộc biết để đến mừng. Lễ Bộ là Hạ Ngôn trình: Nước An Nam bỏ cống từ hai chục năm nay ... Nhà vua có ý bất bình rồi vấn đề Nam chinh được đặt ra bàn đi xét lại hằng tháng. Tuy đa số đình thần không tán thành như trên đã nói, vua Minh vẫn quyết định việc xuất binh "hỏi tội". Vua cho Hạ Ngôn họp bàn với Binh bộ để tổ chức việc xâm lược, một mặt cho hai quan Cẩm Y qua xét tình hình Việt Nam, mặt khác ra lệnh cho quan trấn các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam chỉnh đốn quân lương đợi ngày hưng sự. Công tác cật vấn tội danh giao cho Thiên hộ Đào Phượng Nghi. Các tỉnh Tứ Xuyên, Hồ Quảng, Phúc Kiến, Giang Tây cũng phải dự trữ các thứ quân nhu để cung cấp cho đoàn quân "Nam phạt".
Bộ Lễ và Bộ Binh sau đó đã ra chỉ thị cần thiết cho các tướng lĩnh viễn chinh.

4- Một Cuộc Chiến Tranh Tâm Lý
Quân đội của Cừu, Mao tới Nam Quan thì ngừng lại. Họ cũng tung ra lời hịch như bọn tiền bối50 của họ, rất thương dân An Nam và thương họ Lê rồi hứa ai bắt được cha con họ Mạc sẽ được thưởng hai vạn lạng bạc và quan tước. Bề khác, họ đưa thư lại cho Mạc Đăng Dung đòi phải sang nộp sổ sách điền thổ thì được tha chết.
Theo Việt Nam Sử Lược (trang 273): "Đến ngày 11 tháng 5 Canh Tý 1540, Mạc Đăng Dung thấy quân Minh sửa soạn sang đánh, sợ hãi quá chừng, bèn để Mạc Phúc Hải ở lại giữ nước, rồi cùng bọn Vũ Như Quế cả thẩy hơn 40 người, tự trói mình ra hàng, sang chịu tội ở cửa Nam Quan, lậy phục xuống đất để nộp sổ sách điền thổ và sổ dân

50 Tiền bối nói đây là Trương Phụ, Hoàng Phúc...

đinh, lại xin dâng 5 động là: động Tế Phù, động Kim Lạc, động Cổ Xung, động Liễu Cát,
động La Phù và đất Khâm Châu. Lại đem vàng bạc dâng riêng cho nhà Minh.
Quan nhà Minh tuy làm bộ hống hách nói đem binh sang đánh, nhưng cũng sợ phải cái vạ như mấy năm bình định ngày trước, và lại được tiền bạc của Mạc Đăng Dung rồi, cái lòng vị quốc cũng nguội đi cho nên mới tâu với vua Minh xin phong cho Mạc Đăng Dung làm chức Đô Thống Sứ hàm quan nhị phẩm nhà Minh."
Một sự kiện cần được chú ý để hiểu rõ thái độ của triều Mạc khi nhà Minh sai Cừu Loan và Mao Bá Ôn đem quân sang Việt Nam vào năm Đinh Dău tức là năm 1573 ( ba năm trước khi Mạc Đăng Dung thân gặp các đại diện Minh triều) lúc nghe tin Minh dấy quân, triều Mạc chỉ cử một phái đoàn ngoại giao do Nguyễn Văn Thái cầm đầu. Sử không chép phái đoàn này đã thu xếp cách nào mà việc binh giữa nhà Minh và ta lại êm trong 3 năm51 rồi tới năm Canh Tý (1540) lại thấy nhà Minh đem lực lượng võ trang sang ta.
Về phía Minh đế, ta thấy có chi tiết này đáng kể: Minh triều buổi đầu quả có cương quyết diệt nhà Mạc để cướp nước Việt Nam nên đã cử Đô Đốc Cừu Loan và Tán Lý Mao Bá Ôn vào loại danh thần lương tướng của họ đem quân lên đường, vua Minh đã tặng một bài thơ lời lẽ rất trang trọng, đầy thân mến và khuyến khích. Nguyên văn bài thơ đó như sau:
Đại tướng Nam chinh đởm khí hào Yên hoành thu thủy nhạn linh đao Phong xuy đà cổ sơn hà động Điện thiển tinh kỳ nhật nguyệt cao
Thiên thượng kỳ lân nguyên hữu chủng Huyệt trung lân nghị khởi năng đào Thái bình đãi chiến qui lai nhật
Trẫm giữ tiên sinh giải chiến bào Lược dịch:
Đại tướng Nam chinh khẳng khái sao Lưng đeo sáng quắc nhạn linh đao Gió lay trống trận sơn hà động
Chớp nhoáng cờ đồn nhật nguyệt cao Trời thẳm kỳ lân sinh giống sẵn
Hang sâu kiến cỏ trốn đằng nào? Thái bình khi chiếu đòi về nước Trẫm cửi dùm khanh áo chiến bào

51 Phải chăng đây là một thắng lợi chính trị mà sử thần hai triều Lê, Nguyễn muốn làm mờ đi?

Tới khi họ Mao tiếp xúc với ta, tương truyền Mao với cụ Trạng Giáp Hải của nhà Mạc đã trao đổi thư từ để dò xét thái độ nhau. Trên trường ngoại giao Hoa Việt, việc này gần như một thủ tục đặc biệt vốn có trước khi định đoạt chiến hay hòa.
Nguyên xướng của Mao Bá Ôn là: Vịnh Cánh Bèo52
Tùy điền trục thủy mạo ương châm Đáo xứ khan lai thực bất thâm Không hữu bản căn không hữu cán Cảm sinh chi tiết cảm sinh tâm
Đồ trừ tự xứ minh tri tán
Đản thức phù thì ná thức trầm Đại để trung thiên phong khí ác Tảo qui hồ hải tiện nan tầm.
Lược dịch:
Ruộng nước lênh đênh nhỏ tựa kim Nơi nơi trông thấy mọc nông mèm Đã không cành cỗi còn không gốc Dám có rễ mầm lại có tim
Nào biết nơi tan duy biết tụ Chỉ hay khi nổi nọ hay chìm Giữa trời giông tố thình lình nổi Quét bạt ra khơi hết kế tìm.
Đại biểu nhà Mạc đã trả lời:
Cẩm lân mật mật bất dung châm Đối diệp liên căn bất kế thâm Thượng dữ bạch vân tranh thủy diện Khẳng giao hồng nhật chiếu ba tâm Thiên tùng lãng đả thanh nan phá Vạn trận phong xuy vĩnh bất trầm Đa thiểu ngư long tàng giá lý
Thái công vô kế hạ câu tầm. Lược dịch:
Vẫy gấm khen dầy chẳng lọt kim Lá liền dễ mọc kệ nông mèm

52 Với cái đầu đề "Vịnh Cánh Bèo" Mao Bá Ôn đã có ý khinh thị triều Mạc, hẳn Mao muốn ví dân ta mỏng manh như cánh bèo mà Trung Quốc là giông tố giữa trời đánh tan cánh bèo biệt tích như chơi. Mao không ngờ đại biểu của triều Mạc đã trả lời họ một cách hào hùng, ngạo nghễ không kém. Ta có thể nghĩ rằng chính bài thơ họa vần này với hùng khí của nó đã làm cho Trung Quốc hoảng sợ mà chịu bãi binh và tất nhiên Mạc Đăng Dung có mặt ở đó, Trạng Giáp Hải mới dám cương quyết ăn miếng, trả miếng.

Mây bạc không cho soi thủy diện Ánh hồng đâu dễ rọi ba tâm Sóng dồn ngàn lớp không xô vỡ Gió rập muôn cơn khó đánh chìm Rồng cá ít nhiều nương dưới đó Cần câu Lã Vọng hết mong chờ.
Sau cuộc gặp gỡ này Minh triều bãi binh và phong cho Mạc Đăng Dung chức Đô Thống sứ như trên đã nói và nhà Mạc nhường cho nhà Minh 5 động ngoài biên giới (Việt Nam Sử Lược kể cả Khâm Châu, đây là điều sai lầm vì đời Lý đã định biên giới với Trung quốc mấy trăm năm trước thì Khâm Châu là một địa hạt lớn, đã từ lâu thuộc về nội địa Trung quốc).
Có thể nói rằng đây là một thắng lợi ngoại giao đặc biệt của nhà Mạc, vì cùng đứng trước một trường hợp mà nhà Minh đã quyết định đánh nhà Hồ, trái lại đã lui quân và thông hiếu với nhà Mạc. Tránh được một cuộc chiến tranh với một đại cường quốc giữa lúc trong nhà gặp cảnh huynh đệ tương tàn, nhân dân bạc nhược, mà chỉ mất ít vàng bạc và 5 động biên giới, nếu nhà làm sử công bằng hẳn chẳng đòi gì hơn nữa.

5- Cái Án Mạc Đăng Dung:
Theo cáo trạng của Trần Trọng Kim trong Việt Nam Sử Lược trang 274:
"Mạc Đăng Dung đã làm tôi nhà Lê mà lại giết vua để cướp ngôi, ấy là người nghịch thần, đã làm chủ một nước mà không giữ lấy bờ cõi, lại đem cắt đất mà dâng cho người, ấy là một người phản quốc. Làm ông vua mà không giữ cái danh giá cho trọn vẹn, đến nỗi phải cửi trần ra trói mình lại, đi đến quỳ lậy trước cửa một người tướng của quân nghịch để cầu lấy cái phú quý cho một thân mình và một nhà mình, ấy là một người không biết liêm sỉ.
Đối với vua là nghịch thần, đối với nước là phản quốc, đối với cách ăn ở của loài người là không có nhân phẩm; một người như thế ai mà kính phục? Cho nên dẫu có lấy được giang sơn nhà Lê, dẫu có mượn được thế nhà Minh bênh vực mặc lòng, một cơ nghiệp dựng nên bởi sự gian ác hèn hạ như thế thì không bao giờ bền chặt được. Cũng vì cớ ấy mà con cháu họ Lê lại trung hưng lên được ..."
Xét bản cáo trạng và cả lời luận tội của tác giả Việt Nam Sử Lược ta thấy có vẻ dễ dàng và quá giản dị khiến ta ngạc nhiên về lối suy luận của tác giả, một nhà Nho kiêm cả tân học. Căn cứ vào cuốn sử nào mà Trần Trọng Kim đã hạ những nhát búa quá nặng nề đối với nhà Mạc, một triều đại mà ta không thể phủ nhận tinh thần phục vụ quốc gia của họ? Trên tờ Đời Mới năm 1951 ông Lê Văn Hòe có viết một bài khảo luận khá đầy đủ để minh oan cho Mạc Đăng Dung. Họ Lê đã tỏ ra có công tâm trong vụ này.
Theo ông Lê thì cả sử Tầu lẫn sử ta đã vô tình hay hữu ý; hữu ý có bề nhiều hơn trong việc miệt thị đối phương. Đó là thói thường của họ, mà gần đây cả các sử gia Âu châu cũng không tránh khỏi thói xấu này53. Sử Tầu đã chép hai bà Trưng bị quân Đông Hán bắt được, xin làm tì thiếp không được rồi bị đem về chém ở Lạc Dương, bà Triệu Thị Trinh thì gọi là Triệu Ẩu (chữ Ẩu có nghĩa là mụ, đã phô bầy rõ sự hằn học, cục cằn của sử gia Tầu khi nói đến một nữ anh hùng cách mạng của một địch quốc).
Sử ta như Việt Sử Toàn Thư, Đại Nam Thực Lục là những cuốn sử do chúa Trịnh sai chép từ đời Lê Trang Tông đến Gia Tông, đến sử nhà Nguyễn thì lại càng dễ hiểu. Họ Mạc đã thí vua Chiêu Tông, và đầu độc Nguyễn Kim tổ phụ nhà họ Nguyễn, tóm lại nhà Mạc là kẻ thù số một của cả Trịnh lẫn Nguyễn luôn từ năm 1527 đến 1592. Hai bên đều nhúng tay vào máu của nhau khá nhiều thì các sử gia của Trịnh và Nguyễn há dám giữ mực vô tư chăng? Dưới thời quân chủ độc tôn, phong kiến chuyên chế, đa số các nho thần chỉ biết uốn ngòi bút theo giòng tư tưởng của nhà vua, nhà chúa thì ta không lạ gì nếu họ Mạc bị bôi nhọ, và sự nghiệp ngót 150 năm của Mạc triều bị lãng bỏ để lu mờ với thời gian.
Chúng ta hãy đi vào các chi tiết:
Mạc Đăng Dung bị buộc là nghịch thần, vì giết vua cướp nước, cắt đất dâng địch, thiếu liêm sỉ, nhân phẩm, gian ác không được bền vững lâu dài.
Mở cuốn sử đời Hậu Lê, coi đoạn nói về các vua Túc Tông, Uy Mục, Tương Dực, Chiêu Tông, ta thấy các ông vua này hầu như vừa bước lên ngai vàng đã chém giết lẫn nhau, đồng thời giết cả các đại thần. Dĩ nhiên việc này phải xẩy ra vì mỗi ông vua hay ông hoàng thường có một phe nhóm riêng, do đó khi một vị bị hạ thì nhiều thủ túc thành nạn nhân của thời cuộc.
Vua Uy Mục còn giết theo cả bà Thái hoàng thái hậu (chết theo có hai đại thần Đàm Văn Lễ, Nguyễn Quang Bật). Giản Tu giết Uy Mục rồi làm bao nhiêu chuyện hoang dâm, vô đạo khác, xây đắp rất nhiều điện đài, hao tốn công nhu và nhiều sinh mạng.
Có thể coi thời đó là một thời không đại loạn chăng? Ai chịu trách nhiệm về các mối loạn  này?  Các  ông  vua  trên  đây    còn  xứng  với  địa  vị  nguyên  thủ  của  mình  nữa chăng?
Hậu quả của những hành động trên đây là triều đình từ đó bị một cuộc khủng hoảng tinh thần rất trầm trọng. Quan to quan nhỏ hoang mang, dân chúng cũng lo sợ, ai ai cũng thảng thốt sẽ đến lượt mình bị lôi kéo vào các cuộc tranh giành ảnh hưởng. Rồi các việc trên đây thành một cái rớp. Nó mở đường cho bao nhiêu cuộc phiến động khác, đúng câu "Thượng bất chính hạ tắc loạn".

53 Theo lời giáo sư thạc sĩ Sử Địa Melzi d'Eril người Ý đã gặp chúng tôi trong một hội nghị các giáo sư sử địa Việt Nam tại Bộ Quốc Gia Giáo Dục (ngày 12 tháng 12, 1958), các nhà sử học Âu Châu cũng có cái tật xàm báng ngoại quốc khi viết đến một sự kiện lịch sử có liên can giữa nước mình với nước láng giềng.
Ông Lê Văn Siêu tác giả Văn Học Đời Lý cũng thường đồng ý với chúng tôi về chỗ không thể quá tin sử liệu, vì sử thần đời sau thường xuyên tạc sự việc đời trước để phỉ báng theo lệnh của vua chúa. Nếu không có óc suy luận, ta sẽ vô tình tiếp tay cho một bọn văn phiệt, tay sai của phong kiến trả thù báo oán một cách quá ư hèn nhát cho các ông chủ.

Ngoài các kẻ đã bị chết, có kẻ oan, có kẻ chẳng oan, còn lại mấy nhân vật khác không kém quan trọng, đó là Trần Chân, Mạc Đăng Dung, Nguyễn Hoằng Dụ v.v... là những nhân vật có đầu óc, có khí cương cường và cũng có cả quyền bính. Tất nhiên các con người ấy, dầu muốn hay không, đã phải có một thái độ nào đối với thời cuộc, chớ đâu chịu ép trong cái thế bị động. Họ biết rằng nếu nằm ép trong cái thế bị động thì chắc chắn phải đi đến chỗ chết uổng hay sống hèn. Họ còn nghĩ rằng thời có loạn, anh hùng mới có dịp thi thố tài ba, xây dựng sự nghiệp.
Vì vậy Mạc Đăng Dung chẳng xuất hiện vào giờ phút này tất nhiên cũng có kẻ khác bước ra để làm một cuộc cách mạng. Họ Mạc không ra tay cũng không xong, vì vua Chiêu Tông đã mưu với Phạm Hiến, Phạm Thư hạ sát họ Mạc, khi Mạc vừa trừ xong nhiều vụ loạn đời bấy giờ (loạn Trịnh Tuy, Trần Cao, Lê Do, Hoàng Duy Nhạc v.v...) bởi dẹp xong các vụ loạn này thanh thế Mạc Đăng Dung bốc lên như gió.
Tóm lại vào thời các vua Tương Dực, Uy Mục, triều đình đã suy đốn, hôn ám, vô đạo, thác sinh đủ mối loạn, trên không ra trên, dưới không ra dưới, nghi ngờ mà giết nhau, hoang mang mà hại nhau, người làm tôi không còn biết đạt chữ trung vào đâu nữa.
Tác giả Nho Giáo cũng là họ Trần, đã từng nói đến chữ Trung và chữ Trinh quá thiên về lý thuyết, không nhìn thấy các tội ác của mấy ông "quỷ vương" nhà Hậu Lê nên đã khép Mạc Đăng Dung vào tội nghịch thần.
Ông Lê Văn Hòe trái lại, nói: "... Muốn họ Mạc cung cúc tận tụy thờ các vua Uy Mục, Tương Dực thật là bắt Võ Thang thờ Kiệt Trụ"54 Và triều Lê rối loạn hai chục năm rồi Mạc Đăng Dung mới bước lên sân khấu để thay trò đổi cảnh, kể ra đã chịu nghe ngóng lòng người, xét suy thời cuộc nên tới năm Đinh Hợi mới nhẩy ra lãnh vai trò hoán cải chánh sự không thể bảo là vội vã và thiếu thận trọng.
Ông Lê còn nghĩ nếu giết vua là nghịch thần bất kể trường hợp hữu lý hay không thì lịch sử các quốc gia chỉ có và chỉ nên có một dòng họ làm vua mà thôi chăng? Lý Công Uẩn cướp ngôi nhà Tiền Lê, Lê Hoàn tư thông với Dương Hậu thay thế nhà Đinh, Trần Thủ Độ lừa gạt một cô gái nhỏ (Lý Chiêu Hoàng), xét việc họ Mạc cướp ngôi nhà Hậu Lê còn đàng hoàng hơn. Hạ sát vua Chiêu Tông, Mạc chỉ có mục đích hủy bỏ cái bình phong mà các lãnh tụ phong kiến đã dùng để che đậy hành động mưu đồ vương bá của họ và vì cả lý do bảo vệ cho chính bản thân nữa.
Và đứng trên quan điểm nhân dân thì lại càng vô lý, nếu người ta muốn rằng đám vua quan ác bạo thối nát đời bấy giờ cứ đè đầu cưỡi cổ người dân mãi mãi. Không có họ Mạc ra đời thuở đó, thì trong nhân dân cũng phải có một người khác nhẩy ra để thiết lập trật tự mới. Có bao giờ trong một quốc gia chỉ có một dòng họ duy nhất xứng đáng để làm vua, còn những dòng họ khác chỉ đủ tư cách làm thứ dân mà thôi?
Điều gàn dở của mấy nho thần viết sử đã thiếu lý luận và nhận xét thực tế, cứ luôn luôn đem chữ Trung và Trinh ra đọc như kinh nhật tụng, dậy người ta Trung, Trinh một cách bừa bãi, bất kể trường hợp nào. Nói cách khác, cuộc sống của con người vô cùng

54 Sự so sánh có phần quá bạo một chút.

phức tạp, mỗi chặng đường đi phải có một lối xử thế riêng, đâu có thể lúc nào cũng Trung và Trinh một cách máy móc, phải chăng cái sở học của thời phong kiến tai hại và lạc hậu là ở chỗ này?
Tác giả Kim Vân Kiều là Nguyễn Du cũng nặng về giáo lý Khổng Mạnh mà còn có câu này:
Xưa nay trong đạo đàn bà
Chữ trinh kia cũng có ba bẩy đường
Có khi biến, có khi thường
Có quyền nào phải một đường chấp kinh
thì ta thấy tuy Nguyễn Du không làm sách dậy người ta Trung, Trinh mà ông hiểu chữ Trung, Trinh rất là khoáng đạt, sáng suốt.
Nay chúng ta thử hỏi "Họ Mạc có thể hết lòng phù trợ con cháu vua Thái Tổ nhà Hậu Lê được chăng?"
Một thời đại hỗn loạn như thời Tương Dực đế, Uy Mục đế, Hoàng gia cũng kéo bè kéo đảng, các triều thần tướng lĩnh cũng năm lòng bẩy dạ, chẳng ai tin ai thì Mạc Đăng Dung có thiết tha phù Lê diệt ngụy cũng không được. Mạc dẹp xong các mối loạn, quy phục được các lực lượng phiến động, uy tín tất nhiên lên cao thì bao nhiêu kẻ ghen ghét xúm nhau dèm pha khiến họ Mạc dầu muốn hay không cũng phải bước từ thế thủ sang thế công, nhất là có sẵn binh lực trong tay. Ở địa vị họ Mạc, không ai làm khác hơn.
Còn việc cắt đất cầu hòa của họ Mạc?
Để bãi một cuộc chiến tranh với một cường quốc trong khi dân mình yếu hèn, rối loạn. Họ Mạc phải cắt năm động thổ mán vùng thượng du, thật ra chưa là bao. Đây không hơn không kém là cái lối cũ nước Tấn hiến ngọc và ngựa quý cho nước Ngu, Hán Cao Tổ nhường Quang Trung cho Hạng Vũ khi xưa để hòa hoãn với địch trong một giai đoạn. Lịch sử cổ kim Đông Tây, chuyện này rất thường. Ngay gần đây, năm 1854, Nhật phải  mở  hải  cảng  Hạ  Điền,  Châu  Quan  cho  Mỹ,  mở  Deshima  cho  Hòa  Lan  vào  giao thương, và gượng gạo đón chào cả Pháp, Bồ Đào Nha cùng một lúc.
Năm 1876, Nhật mạnh sau cuộc duy tân, đến lượt Nhật bắt Triều Tiên mở ba hải cảng cùng đặt ngoại trị pháp quyền ở đây. Trung Hoa với nhà Thanh gần đây phải cắt Hương Cảng cho Anh, nhường Mãn Châu cho Nhật, đó là chuyện yếu phải nhường mạnh, thiếu gì việc như vậy, hôm qua cũng như hôm nay.
Tóm lại trên trường chính trị quốc tế, việc nhường đất để giảng hòa, để bãi một cuộc binh đao tai hại hơn, các nhà lãnh đạo vẫn phải làm. Nhà viết sử không chiếu xét kỹ tình thế mà cứ hạ lời phê phán gắt gao không khỏi có sự cố chấp, nông cạn.
Trái lại không lượng sức mình mà đưa cả dân tộc vào chiến tranh đến nỗi mất cả xứ sở, chết chóc muôn vạn sinh mạng, đó mới là xuẩn động và đáng trách. Tại đây chúng tôi xin ngừng lại để chúng ta cùng suy tưởng: cái bại trận dưới thời nhà Hồ chưa đủ cho ta rút kinh nghiệm sao? Nước ta dưới thời Uy Mục, Chiêu Tông có nên có một chính sách găng trì với nhà Minh không? Nếu nói rằng không thì Mạc Đăng Dung nhường năm động ngoại biên là có ý thức sáng suốt về thời vụ và đó là một hành động khôn khéo cần được tán thưởng.
Ngoài việc nộp 5 động, Việt Nam Sử Lược còn nói Mạc Đăng Dung cửi trần, tự trói mình trước cửa viên của địch có thật chăng? Sử nào chép chuyện này?55
Chúng tôi e rằng việc này đã căn cứ vào tài liệu trong An Nam Truyện quyển 231 có nói đến quyết định của vua Minh Thế Tông là: "Nếu cha con họ Mạc chịu trói và quy hàng thì sẽ tha tội chết". Theo chúng tôi đây chỉ là cách nói mà thôi cũng như câu "Bó giáo lai hàng", còn trên thực tế miễn có sự quy thuận của đối phương chứ có mấy khi người ta áp dụng hẳn hoi hình thức này. Trái lại nếu người ta bắt được kẻ địch tự trói ra hàng thì kẻ đó khó lòng mà thoát chết (tỷ dụ trường hợp tướng Phạm Ngô Cầu giữ thành Thuận Hóa cho họ Trịnh năm Bính Ngọ (1786) thấy quân Tây Sơn mạnh quá vội xé áo bào và tự trói mình xin hàng thì bị Nguyễn Huệ mang giết).
Nay xét tình trạng và tâm lý của Mạc Đăng Dung thuở đó có thể có chuyện tự trói mình trước cửa viên của Mao Bá Ôn không?
Chúng tôi quyết đoán rằng không, bởi vì lúc này trong nước có lực lượng của vua Lê Trang Tông và Nguyễn Kim đang dấy động, bên ngoài thì quân Minh đang đánh ở biên cương, họ Mạc dại gì mà nghe giặc tự trói mình để lao mình vào cuộc phiêu lưu vô cùng nguy hiểm. Một con người xuất thân hàn vi rồi trở thành danh tướng, đánh Đông dẹp Bắc hạ bao nhiêu kẻ địch lợi hại, con người ấy phải là một kẻ anh hùng lỗi lạc, đâu có thể dễ tin giặc Bắc như vậy. Trong trường hợp này đàn bà con nít cũng chẳng khờ khạo đến thế.
Một chứng cớ nữa về sự khôn ngoan của Mạc Đăng Dung là khi Mao Bá Ôn đưa thư sang đòi Mạc nộp sổ sách ruộng đất, nhân dân và chịu tội thì được tha chết như Việt Nam Sử Lược đã chép, họ Mạc chỉ phái bọn Nguyễn Văn Thái lên Nam Quan để điều đình. Việc này xẩy ra vào năm Đinh Dậu (1537). Phái đoàn Nguyễn Văn Thái thành công nên Bắc quân không tiến vào nội địa nước ta nữa.
Rồi tháng 11 năm Canh Tý (1540) quân Bắc lại sang. Lần này họ Mạc biết rõ tình ý của nhà Minh chỉ làm chuyện diệu võ dương uy mà thôi, nên đã thân hành lên gặp người Minh. Sự thật đôi bên cần giáp mặt nhau để cùng quyết định mọi vấn đề đã nêu ra ba năm trước mới có tính cách đại cương, sơ bộ mà thôi.
Một điểm khác, ngoài điểm tâm lý của Mạc Đăng Dung, trong việc đụng chạm với người Minh thuở ấy đã nói khá nhiều ở trên, còn thái độ của Mạc Đăng Dung cũng cần phải xét để hiểu Mạc Đăng Dung có hèn như Việt Nam Sử Lược đã nói không. Ta xem bài thơ xướng họa giữa Mao Bá Ôn và cụ trạng Giáp Hải nhà Mạc thì càng rõ, kẻ xướng có vẻ kiêu căng mà người họa không kém phần ngạo nghễ.
Nào biết nơi tan duy biết tụ Chỉ hay khi nổi nọ hay chìm

55 Việt Vương Câu Tiễn ngày xưa khi mất nước phải đem cả vợ con cùng các đại thần sang giữ ngựa cho vua Ngô Phù Sai, rồi nếm phân đoán bệnh cho Phù Sai để thi hành kế hoạch phục quốc của Phạm Lãi, các nhà viết sử còn không ai chê, huống hồ chỉ có chuyện trần vai áo, dầu có chăng nữa!

Giữa trời giông tố thình lình nổi Quét bạt ra khơi hết kế tìm.
(Mao Bá Ôn)
Sóng dồn ngàn lớp không xô vỡ Gió rập muôn cơn khó đánh chìm Rồng cá ít nhiều nương dưới đó Cần câu Lã Vọng hết mong chờ.
(Trạng Giáp Hải)
Vua tôi nhà Mạc đã dám ăn miếng trả miếng đến nơi đến chốn như vậy mà bảo rằng chính những người này đã phải quỳ lậy trước cửa tướng của địch, ta có thể tin được chăng? Và cứ khẩu khí bài thơ họa của nhà Mạc đã đáp lại bài nguyên xướng của Mao Bá Ôn ở trên, từng điểm thì đủ rõ, ta thấy nếu Minh quá găng thì Mạc cũng dám đo gươm thử giáo. Vậy họ Mạc không hèn như người ta đã nói.
Trần Trọng Kim còn cho rằng Mạc đã xây dựng sự nghiệp trên sự tàn ác nên không bền. Lời phê phái này lại càng hàm hồ nữa. Ông Lê Văn Hòe cho rằng người ta đã cố ý quên rằng nhà Tiền Lê, nhà Hậu Lý, nhà Trần và các chúa Trịnh sau này cũng đi đường lối ấy. Các xã hội phong kiến bao giờ cũng gây ra những cuộc đảo lộn ngai vàng. Nó hư hỏng ngay từ nền tảng, khuôn nếp hay hệ thống tổ chức thì mối loạn là một tình trạng thường trực không sao tránh được nếu không làm gì có nhà Đường, nhà Tống, nhà Nguyên, nhà Minh bên Trung quốc.
Nếu cho rằng nhà Mạc đã làm việc gian ác, thì Trần Thủ Độ âm mưu với Trần Thị (vợ vua Lý Huệ Tông) đem cháu trai vào cung bầy cuộc hôn nhân để chiếm ngôi nhà Lý. Thủ Độ lại lấy vợ của Huệ Tông là em gái họ mình, giết hết con cháu nhà Lý, ép vua Trần Thái Tông bỏ Chiêu Hoàng lấy chị dâu là vợ Trần Liễu, anh ruột Trần Cảnh đã có thai 3 tháng, ra lệnh cho con cháu nhà Trần lấy nhau, các hành động đó có gian ác không? Vậy mà họ Trần còn làm vua được 175 năm.
Nhà Tây Sơn sau này dấy nghiệp lên trừ tham nhũng của bọn Trương Phúc Loan, đạp đổ chế độ tồi bại của hai họ Trịnh, Nguyễn ở miền Nam Bắc Hà, giải nạn xâm lăng cho dân tộc, oanh liệt đàng hoàng như vậy mà chỉ ở ngôi có 24 năm, có nói được là bền chăng?56
Nhà Mạc phát khởi từ năm 1527 đến 1667 mới tuyệt hẳn. Nhìn vào việc mở mang văn học, chính trị, kinh tế, ta thấy họ Mạc cũng đã có nhiều thiện chí với dân với nước và với sự lâu bền trên đây bảo rằng dân không theo, không mến sao được. Tiếc rằng nhà Mạc khởi nghiệp chưa lâu, trong nước đã có phong trào qua phân Nam Bắc rồi

56 Ông Lê Văn Hoè quên không kể Mạc Đăng Dung vì tình thế đã giết một ông vua (Chiêu Tông) nhà Lê, trái lại họ Trịnh sát hại năm bảy ông mà cũng kéo dài nghiệp chúa tới trên hai thế kỷ (238 năm). Như thế có gian ác không? Sự nghiệp của họ Trịnh có gọi là lâu bền chăng?

nước Việt Nam ở vào thế chân vạc (Trung Nam Bắc), Bắc thuộc Mạc, Trung từ Thanh đến Nghệ thuộc Lê-Trịnh, Nam từ Bố Chính (Quảng Bình) trở vào thuộc Nguyễn, gây nên bao nhiêu cuộc lộn xộn để rồi cùng mang tội với quốc dân.
Tóm lại cái án Mạc Đăng Dung cần phải xóa bỏ trên bộ quốc sử của chúng ta để tránh một sự vu khống và thóa mạ tiền nhân một cách bất công và vô lý. Chúng tôi tin rằng các trí thức và học giả ngày nay suy xét hay bầy tỏ sự việc không hàm hồ như một số sử thần của thời phong kiến vừa qua.

Phần 3 - Chương 12 Loạn Phong Kiến Việt Nam Nam, Bắc Triều (1527-1592)
- Nguyễn Kim và Trịnh Kiểm
- Biến cố tại Nam Triều
- Những cuộc thất bại của Nam Triều

1- Nguyễn Kim và Trịnh Kiểm:
Mạc Đăng Dung lên ngôi, một số người bất cộng tác với tân trào hoặc tuẫn tiết, hoặc chạy thất tán đi các nơi, còn có một số chạy sang Lào. Thủ lãnh của những người này là Nguyễn Kim (hay Nguyễn Hoằng Kim) con Nguyễn Hoằng Dụ là một võ tướng dưới đời Chiêu Tông, cũng có nhiều tài năng, có chí lớn và cũng nắm giữ một phần binh sĩ trong tay.
Nguyễn Kim thay cha nắm binh quyền, vì Hoằng Dụ sau vụ đại loạn ở Thăng Long rút về Tây Kinh ít lâu thì mất. Bấy giờ Kim đã từng làm Hữu vệ Điền tiền tướng quân, An thanh hầu dưới đời nhà Lê.
Kim trốn qua Ai Lao được vua Xa Đẩu cho nương náu ở xứ Cầm Châu thuộc phủ Trấn Man, tỉnh Thanh Hóa. Tại đây Kim lo tìm con cháu nhà Lê để dễ hiệu triệu các cựu thần.
Năm Quý Tỵ (1532) Kim kiếm được người con út của vua Chiêu Tông là Duy Ninh lập lên tức vua Trang Tông. Trong việc mưu đồ đại sự, Kim đã thâu nạp được một kiện tướng là Trịnh Kiểm. một thảo dã anh hùng, xuất thân tại xã Sóc Sơn, huyện Vịnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Kiểm có tài đảm, có mưu lược tuy không được học hành nhiều vì hàn vi thuở nhỏ. Sử sách chép về ông rất ít cũng như chép về Mạc Đăng Dung rất sơ sài từ lý lịch, thân thế đến sự nghiệp khiến ta thấy rõ rệt các sử thần cận đại không dám nói dài về Mạc Đăng Dung cũng như Trịnh Kiểm bởi hai người này là tử thù của cả hai nhà Lê, Nguyễn.
Phe Nguyễn Kim ở Cầm Châu được bẩy, tám năm, chiêu binh luyện mã đến năm Canh Tý (1540) thì đã có một lực lượng kha khá về đánh Nghệ An. Hai năm sau quân vua Trang Tông tiến ra Thanh Hóa rồi năm sau nữa (1543) Kim nắm hẳn được Nghệ An và thu phục được cả Tây đô (Thanh Hóa) bởi Tổng trấn nhà Mạc là Dương Chấp Nhất ra hàng.
Theo Việt Nam Sử Lược, Dương Chấp Nhất ra hàng là một âm mưu của nhà Mạc. Năm Ất Tỵ (1545) Nguyễn Kim tiến ra Sơn Nam (vùng Nam Trung châu Bắc Việt gồm các tỉnh Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình, Hà Nam) đi tới huyện Yên Mô (Ninh Bình)  thì bị ngộ độc mà chết. Người ta đã cho rằng chính Dương Chấp Nhất đã đánh thuốc độc.
Nguyễn Kim chết đi, binh quyền dĩ nhiên sang tay Trịnh Kiểm. Kiểm thấy cuộc Bắc tiến bất lợi vì cái tang của chủ tướng liền rút quân về Thanh rồi lập Hành Điện ở đồn Vạn  Lại  (huyện Thụy Nguyên, tỉnh Thanh Hóa) để chỉnh bị thêm quân lực và lương thực. Tại đây phe vua Trang Tông đã bắt đầu có thanh thế và nhiều nhân sĩ đã tìm đến giúp, tỉ dụ Phùng Khắc Khoan tức Trạng Bùng và Lương Hữu Khánh.
Bấy giờ Việt Nam chia ra làm hai lực lượng đối thủ một ở miền Bắc, kể từ Sơn Nam đổ ra thuộc ảnh hưởng của nhà Mạc gọi là Bắc triều. Thanh Hóa trở vào là thuộc khu vực của nhà Lê hay là Nam triều. Tương đối cho tới năm Bính Ngọ (1546) là năm Mạc Phúc Hải mất, truyền ngôi cho con là Mạc Phúc Nguyên lấy niên hiệu là Vĩnh Định, Bắc Hà còn mạnh hơn Nam Hà.
Về phía Nam Hà, năm Mậu Thân (1548) cũng xẩy ra một biến cố: vua Trang Tông chết, Trịnh Kiểm lập thái tử Duy Huyên lên ngôi tức vua Trung Tông cũng vắn số sau 8 năm. Vua Trung Tôn không có người kế tự theo dòng đích tôn của vua Thái Tổ. Trịnh Kiểm bấy giờ nắm giữ hết quyền hành tính tự lập làm vua nhưng còn do dự chỗ chưa chắc được lòng người nên bí mật phái sứ giả ra Hải Dương hỏi ý kiến cụ Trạng Nguyễn Bỉnh Khiêm (tức Trạng Trình người làng Cổ Am thuộc tỉnh này). Nguyễn Bỉnh Kiêm là Trạng nguyên đời Mạc với Phùng Khắc Khoan (Trạng Bùng) là anh em cùng mẹ khác cha nổi danh đời bấy giờ về cái học uyên bác y nho lý số, nhất là về thuật số, ông được người ta coi như là một nhà tiên tri biết việc năm trăm năm trước, năm trăm năm sau. Ông có để lại một tập sấm truyền nói rất đúng về cả những thời cuộc xẩy ra gần đây.
Vì ông đã từng làm tôi triều Mạc, dù bấy giờ đã về ở ẩn nhưng bởi lẽ thế nước chia đôi, lẽ thuận nghịch cũng chưa về hẳn bên nào nên ông có một thái độ rất dè dặt mỗi khi người ta hỏi đến việc quốc sự. Có thể nói rằng tuy ông đứng ngoài vòng chính trị, nhưng ông vẫn là cố vấn lâm thời cho các chính khách thuở đó. Với sứ giả của Trịnh Kiểm, ông trả lời gián tiếp bằng cách ngoảnh bảo với đầy tớ rằng: "Năm ngoái mất mùa, thóc giống không tốt, đi tìm giống cũ mà gieo mạ". Rồi ông lại sai đầy tớ ra bảo chú tiểu quét chùa và dâng hương để ông ra chơi. Ông bảo tiểu: "Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản".
Sứ trở về Thanh thuật lại từng lời nói, từng cử chỉ của cụ Trạng Trình, Kiểm hiểu nên không thi hành dự định cướp ngôi nhà Lê nữa rồi đi tìm người cháu huyền tông ông Lê Trừ là anh ruột vua Thái Tổ, tên là Duy Bang (ở làng Bố Vệ, huyện Đông Sơn).
Nhà Mạc đến Mạc Phúc Nguyên thì không còn dám coi thường lực lượng của nhà Lê, sai Mạc Kính Điển (chú của vua Mạc) làm đại tướng đem binh vào Thanh tới 10 lần nhưng lần nào cũng không có kết quả. Trịnh Kiểm tiến ra Sơn Nam trước sau cũng đến 6 lần cũng chẳng thắng lợi hoàn toàn lại trở về. Duy năm Kỷ Mùi (1599) Trịnh Kiểm huy động tới 6 vạn quân ra Bắc đánh các tỉnh Sơn Tây, Hưng Hóa, Thái Nguyên, Kinh Bắc, Lạng Sơn rồi vòng xuống Hải Dương theo chiến lược phá hàng rào trước đột nhập vào Đông Đô sau, bởi kinh nghiệm đánh thẳng vào quân chủ lực của nhà Mạc thì không đủ sức.
Trên con đường cánh cung đó, Trịnh đã đánh bại được quân Mạc tưởng có nhiều hy vọng thành công thì nhà Mạc cũng khôn khéo chẳng kém, cử đại quân của Mạc Kính Điển theo đường bộ đánh gấp vào Thanh Hóa là sào huyệt của nhà Lê. Trịnh Kiểm hay tin hoảng sợ vội vã bỏ mặt trận Việt Bắc về cứu hậu phương của mình.
Tình hình này cứ nhùng nhằng mãi, khi thì Mạc Nam chinh, khi thì Lê Bắc tiến, chẳng bên nào được thua dứt khoát cho tới năm Tân Dậu (1561) Mạc Phúc Nguyên qua đời, con là Mạc Mậu Hợp lên nối ngôi.

2- Biến Cố Tại Nam Triều
Năm Canh Ngọ (1570) Trịnh Kiểm hết số, trao binh quyền cho con trai là Trịnh Cối, nhưng Trịnh Cối thiếu nhiều đức tính làm lãnh tụ, ưa rượu chè, sắc dục, không chuyên cần như cha nên tướng sĩ mất cảm tình.
Em Trịnh Cối là Trịnh Tùng liền mưu với bọn Lê Cập Đệ, Trịnh Bách rước vua về Vạn Lại là nơi hành điện cũ của nhà Lê. Ý Tùng lúc này là muốn cướp địa vị của anh. Tất nhiên Nam triều nẩy ra nội chiến vì sự tranh giành của hai anh em Trịnh Tùng. Nhà Mạc không bỏ lỡ dịp tốt này, cất luôn 10 vạn binh vào Tây Đô, Trịnh Cối tự liệu không chống nổi liền hàng nhà Mạc được giữ quan tước như cũ.57
Những ngày đầu, quân Mạc thừa thế tiến lên sông Mã, đóng ở đất Hà Trung rồi vây An Trường là chỗ căn cứ then chốt của vua Lê (thuộc huyện Thụy Nguyên).
Vua Lê Anh Tông thấy thế nguy dời về Đông Sơn, phong Trịnh Tùng làm Tả Thừa tướng thống  lãnh  binh đội để chống  nhà  Mạc. Quân Nam do sự khéo léo của Trịnh Tùng đã trấn giữ được các địa điểm trọng yếu nên Mạc Kính Điển đánh mãi không xong, phải rút về Bắc.58
Xét ra vào thời đó, hai quân Nam Bắc đã gặp một trở ngại lớn nhất là về vấn đề chuyển dịch và tiếp vận. Mỗi khi chiến cuộc kéo dài thì đám quân ở xa tới không chịu nổi rồi phải bỏ ra về, do đó ta không lạ sự tấn công của bên này cũng như bên kia luôn luôn khó khăn, thế hệ này qua thế hệ khác.
Tạm  yên  với  quân  Mạc, vua Lê phong cho Trịnh Tùng làm  Thái úy, Trưởng  quốc công và khao thưởng binh sĩ, lại sai Phùng Khắc Khoan chiêu tập các hoang dân ở Thanh Hóa trở về làm ăn và chỉnh đón lại mọi việc chính trị, quân sự. Giờ phút này Trịnh Tùng nắm mọi quyền, lên mặt hống hách.

57 Theo C. B. Maybon thì Trịnh Cối bị các binh tướng không phục nên phải trốn sang Mạc.
58 Cũng theo C.B. Maybon trong "Histoire moderne du pays d'An-nam", một số bộ đội của nhà Mạc chạy vào Thuận Hóa bị Nguyễn Hoàng là con Nguyễn Kim đón đánh tan tành.

Vua Anh Tông lo ngại bàn với Lê Cập Đệ tính trừ Trịnh Tùng. Công việc chưa ra sao thì Trịnh Tùng biết được liền dùng mưu giết Cập Đệ. Vua Lê thấy thế nguy và không còn thế lùi, liền cùng bốn con rời bỏ Tây Đô chạy vào Nghệ An. Sau khi vua xuất ngoại, Trịnh Tùng cho rước ngay hoàng tử thứ 5 là Duy Đàm ở làng Quảng Thi, huyện Thụy Nguyên về làm vua lấy hiệu là Thế Tông, một mặt cho Nguyễn Hữy Liên đem quân đuổi theo vua Anh Tông. Vua Anh Tông vào tới Nghệ An, thế cùng chạy vào ẩn ở một vườn mía bị quân Trịnh tóm được. Tùng cho giết vua rồi tuyên cáo vua thắt cổ tự vận.
Từ năm Quý Dậu (1573) đến Quý Mùi (1583) quân Nam triều vẫn giữ vững được đất đai từ Thanh tới Nghệ. Các tướng Mạc là Mạc Kính Điển, Nguyễn Quyện, và Mạc Ngọc Liễn nhiều lần mang quân vào đánh chỉ hao binh tổn tướng mà thôi. Sau Mạc Kính Điển có Mạc Đôn Nhượng thay thế, cũng vẫn được thua một vài trận lại bỏ ra về cho tới năm Quý Mùi (1583) Bắc triều lâm dần vào giờ phút đen tối trước khi bị tận diệt.

3- Những Cuộc Thất Bại Của Bắc Triều
Như trên chúng ta đã nói, cho tới năm Quý Dậu (1573) lực lượng của Bắc triều có phần xung mãn hơn lực lượng của Nam triều nhưng người cầm quân của Bắc triều là các tướng lãnh, thân vương nhà Mạc không sành chiến thuật, chiến lược như họ Trịnh ở miền Nam, do đó Mạc chỉ mua lấy sự hao binh tổn tướng. Rồi cũng từ năm Dậu, Trịnh Tùng áp dụng kế cố thủ để đợi quân Mạc vào, càng va chạm bao nhiêu càng tổn thất bấy nhiêu. Tãt nhiên như vậy, Trịnh ở tình trạng sức số thủ có thừa, sức tấn công thì đuối. Việc tấn công của họ Mạc có khi theo thế gọng kìm là đánh cả vào Thanh Hóa do đường bộ và đánh thốc cả vào hậu tuyến của Tây Đô là Nghệ An. Với cuộc hành quân đại quy mô này Mạc phải chia quân làm hai cánh nhưng không đủ sức nên chẳng thâu lượm được thêm kết quả nào đáng kể.
Trong giai đoạn này, họ Trịnh  dưỡng được sức quân đội và đến năm Quý Mùi thì lực lượng Nam triều bắt đầu mạnh mẽ. Rồi năm nào quân Nam Hà cũng ra quấy phá Sơn Nam để lấy thóc gạo về. Chắc chắn là Tây Đô không sẵn thực phẩm như vùng Sơn Nam, ngay từ bấy giờ đã là kho gạo như ngày nay.
Nam triều mạnh thì Bắc triều không những đình chỉ việc tấn công mà chỉ còn đủ sức để giữ thế thủ mà thôi. Ngay tại thành Đại La (Vào đời Lý là Thăng Long thành, thủ đô cũ của Đại Việt ta) Mạc cũng cho xây đắp lại: lũy đắp tới ba tầng, hào cũng thành ba lần vậy mà vẫn không đủ chống lại quân Nam. Do vậy mà Trịnh Tùng cương quyết cả phá Thăng Long để ăn thua một lần chót với họ Mạc.
Năm Tân Mão (1591) Trịnh Tùng bố trí cuộc Bắc tiến như sau: phòng xa quân Mạc đánh vào hậu tuyến của mình như trước đây khi Trịnh Kiểm đem quân ra Bắc (hành quân năm Kỷ Mùi 1559). Trịnh Tùng bèn chia một phần lượng phòng thủ ở nhà do Diễn Quận công Trịnh  Văn  Hải,  Thái Quận công Nguyễn Thất Lý trấn  giữ các cửa bể xét quân Mạc có thể tiến vào, Thọ Quận công Lê Hòa giữ Tổng hành dinh là toàn hạt Tây Đô.
Đạo quân tiến ra Bắc gồm có 5 đội, tổng số là hơn 5 vạn có các quan Thái phó Nguyễn Hữu Liên, Thái úy Hoành Đình Ái, Lân quận công Ngô Cảnh Hữu mỗi người phụ trách một đội. Riêng Trịnh Tùng lãnh đại quân hai vạn người tiến ra Ninh Bình. Binh tướng Nam hà lần này hăng hái hơn bao giờ hết.
Mạc Mậu Hợp cũng điều động tới 10 vạn quân (quân bốn vệ và năm phủ) để ứng chiến. Mạc Ngọc Liễn và Nguyễn Quyện làm tả hữu dực, Mạc Mậu Hợp dẫn trung quân tiến đánh.
Quân Trịnh tinh thần cao, chiến đấu rất mạnh nên chẳng bao lâu quân Mạc thua to chạy về Thăng Long. Bấy giờ Tết Nguyên Đán đã đến, Trịnh Tùng ngừng chiến cho binh sĩ nghỉ ngơi, rồi qua tháng sau (giêng Nhâm Thìn 1592) Trịnh Tùng thiết ba điều quân luật để gây cảm tình với dân chúng Bắc Hà:
- Không được lấy đồ ăn và củi đuốc của dân.
- Không được cướp bóc và phá hủy vườn tược.
- Không được hiếp dâm và giết người vì tư thù.
Thấy thế bất lợi, vua nhà Mạc đặt các tướng Mạc Ngọc Liễn, Bùi Văn Khuê và Nguyễn Quyện chống nhau với quân Trịnh ở Thăng Long, còn mình đem quân qua sông Nhị Hà đóng ở làng Thổ Khối. Mặc dù thành cao hào sâu, cuộc phòng thủ đáng kể là chu đáo, quân Mạc vẫn thua vì thành lũy bị phá hết. Bọn Bùi Văn Khuê và Mạc Ngọc Liễn bỏ chạy, Nguyễn Quyện bị bắt.
Sau cuộc toàn thắng này, Trịnh Tùng cho san phẳng thành Thăng Long rồi rút về Thanh Hóa. Sử không chép nguyên nhân việc rút quân của Trịnh Tùng sau khi hạ được thành Thăng Long và tại sao quân Trịnh không thừa thắng để tiêu diệt họ Mạc, có lẽ tại Trịnh nhận thấy sức quân mình không đủ giữ cũng như không đủ để bình định một cách chu toàn toàn bộ miền Bắc. Hơn nữa rút quân về sớm để quân sĩ nghỉ ngơi sau cuộc viễn chinh, ắt kết quả của sự chiến thắng hôm nay sẽ làm nức lòng họ trong cuộc hành quân Bắc phạt tương lai.
Về phần nhà Mạc không nhìn vào cuộc thất bại chua cay này để tu chỉnh lại quân đội, trái lại Mạc Mậu Hợp đã bạc đãi tướng sĩ, trễ nãi chính sự, đắm say tửu sắc, lại còn có thái độ chán nản của kẻ chiến bại (Mạc Mậu Hợp thấy vợ Bùi Văn Khuê có nhan sắc, định giết Khuê để chiếm lấy. Khuê hoảng sợ chạy sang hàng Trịnh Tùng. Sau này Mạc Mậu Hợp thất bại hẳn thì riêng cái tính hiếu sắc cũng đủ thành nguyên nhân cho họ Mạc tiêu ma sự nghiệp rồi. Xưa nay các ông vua cũng như các ông tướng hiếu sắc có bao giờ được ở địa vị trọn vẹn).
Sử không chép trận cuối  cùng giữa Mạc và Trịnh vào tháng nào năm Nhâm Thìn (1592), có lẽ nghỉ ngơi được ít lâu quân Nam lại tiến ra Thăng Long. Đôi bên gặp nhau chặng đầu tại cuối huyện Ý Yên và huyện Phong Doanh tỉnh Nam Định. Mạc mất 70 chiến thuyền, tướng chỉ huy là Trần Bách Niên ra hàng.
Chặng thứ hai, quân Nam ra tới Bình Lục (Hà Nam) kéo lên thanh Oai, đóng ở bãi Tinh Thần (thuộc xã Thanh Thần, huyện Thanh Oai) bằng đường thủy rồi ra tới Hát Giang.
Thủy quân nhà Mạc cầm cự không nổi, bị mất hàng trăm chiến thuyền. Mạc Mậu Hợp chạy sang Kim Thành (Hải Dương) thì quân Nam được lịnh đuổi theo. Vào thành Thăng Long, Trịnh Tùng thâu được rất nhiều của cải và bắt được Quốc mẫu của nhà Mạc (mẹ của Mạc Mậu Hợp). Một số quan nhà Mạc 17 người xin đầu hàng là Đỗ Uông, Ngô Tạo v.v...
Đại quân của Trịnh Tùng đóng ở huyện Vĩnh Lại. Phạm Văn Khoái được lệnh tiến lên huyện Yên Dũng và Vũ Ninh (Bắc Giang) bằng đường sông. Mậu Hợp chạy lên bộ vào ở ẩn một ngôi chùa ở huyện Phượng Nhỡn thì có kẻ tố cáo. Mạc Mậu Hợp bị Phạm Văn Khoái bắt được và giải về Thăng Long làm tội sống ba ngày rồi chém đầu đem bêu ở Thanh Hóa.
Trước ngày tàn của mình, Mạc Mậu Hợp đã cử Mạc Toàn thay thế để rãnh tay chống với quân Trịnh. Con Mạc Kính Điển là Kính Chỉ cũng tự lập làm vua cùng 100 người trong hoàng tộc và các quan văn võ lại cố quy tụ phen nữa ở huyện Thanh Lâm, chiêu tập quân đội được hơn 7 vạn người (Đây là tài liệu của Việt Nam Sử Lược trang 28159). Mạc Toàn lại theo Mạc Kính Chỉ. Thanh thế quân Mạc nổi lên, chiến cuộc kéo dài được ít tuần. Sau Trịnh Tùng tự mình đem quân sang huyện Cảm Giang và Thanh Lâm đánh rất gắt, bắt được Kính Chỉ cùng 60 thủ túc của họ Mạc.
Theo tài liệu Maybon, có lẽ đúng hơn, thì Mạc Toàn bị bắt sau Mạc Mậu Hợp ít lâu do đó Mạc Kính Chỉ mới lên kế vị; có lẽ nào Mạc Toàn còn ở bên ngoài mà Mạc Kính Chỉ lại lên thay rồi Mạc Toàn lại chạy về với Kính Chỉ như Việt Nam Sử Lược đã nói.60
Điều chắc chắn là sau đó cả Mạc Toàn cùng Kính Chỉ đều bị tử hình cùng một ngày, chỉ khác kẻ bắt trước kẻ bắt sau.
Mặc dù bị chém giết bắt bớ nhiều như vậy, con cháu nhà Mạc vẫn không tuyệt. Nhà Mạc còn chiến đấu dai dẳng cho tới hơn 80 năm sau nữa (1677) mới hết hẳn61.
Tính ra nhà Mạc khởi nghiệp từ 1522 đến 1592 mới tạm ngừng, vừa đúng 65 năm ở ngôi ngự trị suốt cả miền Bắc, lấy Thăng Long làm thủ đô, đàng hoàng như mọi triều vua trước và sau. Duy từ 1592 trở đi, con cháu họ Mạc bắt đầu tàn, phải rời khỏi Thăng Long để lên chiếm cứ từ Trung du và duyên hải miền Bắc lên đến Cao Bằng cho tới 1667 mới tuyệt.
Vậy sử thần cần chép rằng nhà Mạc có hai thời kỳ. Thời kỳ thứ nhất là thời ngự trị toàn cõi miền Bắc, hưng thịnh như các tiền triều. Thời kỳ thứ hai là thời kỳ thất thế chỉ

59 Trong giờ phút đen tối này mà chỉ trong ít ngày nhà Mạc lại chiêu mộ ngay được sáu, bẩy vạn quân thì rõ lòng dân không phải không theo họ Mạc. Có lẽ nhà Mạc bại vì những người lãnh đạo kém tài mà thôi. Việt Nam Sử Lược trong trang 282 nói: ỔChỉ tiếc vì họ Mạc không ai chịu theoỖ Chúng tôi không đồng ý theo lẽ trên
60 Theo Mạc triều thế phổ thì Mạc Kính Chỉ là chú ruột Mạc Mậu Hợp, tức là ông chú của Mạc Toàn. Ta có thể nghĩ rằng lúc này họ Mạc đang suy bỉ mà ông cháu tranh nhau ngôi vị chăng? Nếu có sự tranh giành thì Mạc Toàn khi nào lại theo Kính Chỉ. Vậy xin lưu ý độc giả sự kiện này cho hợp với sự thật.
61 Các sử gia Pháp cũng chép sau khi rút khỏi thủ đô Thăng Long, nhà Mạc còn kéo dài được hơn 80 năm nữa

còn nắm giữ được nửa xứ Bắc từ vùng Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên trở lên mà thôi, cũng kéo dài được trên nửa thế kỷ nữa.
Sau cuộc đại thắng nhà Mạc, Trịnh Tùng cho người đón vua Thế Tông ra Thăng Long và mở tiệc ăn mừng cùng khao thưởng tướng sĩ. Từ giai đoạn này nhà Lê trở về cố đô, còn con cháu nhà Mạc bị phiêu bạt khỏi miền Trung châu xứ Bắc nhưng vẫn không thoái chí.
Năm sau, tông thất nhà Mạc là Mạc Ngọc Liễn lại tôn lập con Mạc Kính Điển là Mạc Kính Cung giữ châu Yên Bắc ở đất Lạng Sơn làm căn cứ nhưng chẳng bao lâu lại bị Thái úy Hoàng Đình Ái đuổi sang Long Châu. Nấn ná tại đây được ít tháng, Mạc Ngọc Liễn lâm bịnh rồi trước khi chết để thư lại cho Kính Cung khuyên đừng tranh giành với họ Trịnh nữa: "Nay nhà Lê lại nổi lên được, đó là việc trời định, dân có tội gì mà khổ mãi vì chiến tranh? Nên đành phận mình ở nước ngoài, còn hơn là ganh nhau lại rước người Tàu sang, làm hại cho dân nước".
Lời khuyến cáo tốt đẹp này không được con cháu họ Mạc nghe theo, nay xưng vương nơi này, mai dấy quân nơi khác khiến họ Trịnh cũng lao tâm khổ trí khá nhiều. Và sở dĩ con cháu họ Mạc còn hoạt động, một phần cũng bởi nhà Minh vẫn tiếp tục giúp đỡ mà dân chúng cũng chưa bỏ hẳn họ Mạc.
Theo Việt Nam Sử Lược trong đám con cháu họ Mạc còn có Mạc Kính Chương xưng Tráng Vương ở Đông Triều, Quảng Yên bị Trịnh Tùng cử trấn thủ Hải Dương là Phan Ngạn đánh dẹp và bắt được. Lại có Mạc Kính Dụng (con Mạc Kính Chỉ) giữ đất Yên Bắc (Lạng Sơn) xưng Uy Vương sau cũng thất bại.
Năm Kỷ Hợi (1599) vua Thế Tông qua đời, hoàng tử Duy Tân lên thay, lấy hiệu Kính Tông. Năm sau, bọn Phan Ngạn, Ngô Đình Hàm và Bùi Văn Khuê nổi loạn ở cửa Đại An (Nam Định) vì họ Trịnh kiêu hãnh và lộng quyền thái quá. Về phía con cháu nhà Mạc cũng không ngừng chống đói, phần bọn Bùi Văn Khuê cũng có một lực lượng đáng kể nên Trịnh Tùng lại rút quân về Thanh Hóa.
Nhà Mạc trước tình thế này liền tôn thứ mẫu của Mạc Mậu Hợp là Bùi Thị lên làm Quốc mẫu rồi đón Mạc Kính Cung ở Cao Bằng về, tiếp tục chiến tranh ở trung châu Bắc Việt.
Sau bọn Bùi Văn Khuê và Phan Ngạn nghi ngờ mà giết lẫn nhau, còn Ngô Đình Hàm chạy qua phía nhà Mạc.
Trịnh Tùng lúc này lo chống Mạc ở miền Bắc, lại ngại họ Nguyễn ở phương Nam đánh thốc lên nên cho người vào gặp Nguyễn Hoàng lúc này kế nghiệp cha là Nguyễn Kim làm trấn thủ ở Thuận Hóa. Được rõ thái độ của Nguyễn Hoàng không có ý phá Trịnh vì kiêng nể nhà Lê nên Trịnh Tùng có thể đem quân ra Bắc phen nữa. Thủy, bộ đại quân của Trịnh bắt được Bùi Thị giết đi còn Mạc Kính Cung chạy thoát được về Cao Bằng.
Dưới đời vua Lê Thần Tông (1619-1643) Mạc Kính Cung lại nhiều lần chiêu tập được những quan lại bất mãn của họ Trịnh khởi binh đánh nhau với họ Trịnh. Năm 1625, Kính Cung cũng bị bắt rồi bị giết. Mạc Kính Khoan là cháu Mạc Kính Cung về hàng vua Thần Tông, được phong tước Thái úy Thông quận công, cho giữ đất Cao Bằng nhưng con là Mạc Kính Hoàn không chịu nộp cống,   năm 1660 chúa Trịnh Tạc lại đem quân đánh lui nhiều phen, sau Kính Hoàn theo Ngô Tam Quế chống lại nhà Thanh bị tướng Trịnh là Đinh Văn Tả chiếm mất Cao Bằng. Hoàn chạy sang Long Châu bị quân Thanh bắt được giải sang trả cho Trịnh. Từ đấy họ Mạc hết quật khởi, nhưng con cháu có nhiều người được về làm quan với nhà Lê.

Phần 3 - Chương 13
Nước Việt Nam Từ Bắc Vào Nam (1674-1775)

1- Họ Trịnh Làm Chúa Miền Bắc
Như ta thấy từ đầu Thế kỷ thứ XVI, sân khấu chính trị Việt Nam đã trở nên một bãi chiến trường đẫm máu suốt cả một trăm năm giữa hai họ Mạc Trịnh qua thượng bản XVII thì họ Mạc suy tàn, họ Nguyễn tại Thuận Hóa bắt đầu thay thế vào vai trò của họ Mạc cũng không ngoài mục đích tranh giành vương bá, cả hai họ Trịnh Nguyễn đều nêu cao chiêu bài "Phù Lê".
Họ Trịnh bắt đầu từ Trịnh Kiểm chưa có thái độ gì quá đáng nhưng vì Trịnh Tùng sau khi dẹp được họ Mạc liền lên mặt kiêu hãnh với khắp mọi người, lấn áp cả Vua, bất chấp dư luận quốc dân, Trịnh Tùng còn lộng hành thêm nữa vì đã thành công trong việc bang giao với nhà Minh, tuy việc này không được thắng lợi đầy đủ như vua Lê và họ Trịnh mong muốn để thêm uy tín trước nhân dân.
Khi họ Trịnh đã vào được Thăng Long và thấy tình thế bất lợi, người nhà Mạc sang kêu với vua Minh rằng họ Trịnh nổi lên tranh ngôi chớ không phải con cháu nhà Lê.
Một phái đoàn của Minh triều được cử sang Nam Quan khám xét.
Tháng 3 năm Bính Thân (1596) các quan nhà Lê là Hộ Bộ thượng thư Đỗ Uông, Đô Ngự Sử Nguyễn Văn Giai (sau lại có hai hoàng thân Lê Cánh, Lê Lựu cùng Công Bộ Tả Thị Lang Phùng Khắc Khoan) đem 10 người kỳ mục, 100 cân vàng 1.000 cân bạc, và cái ấn An Nam Đô Thống Sứ của nhà Mạc và cái ấn An Nam Quốc Vương của vua Lê ngày trước lên trình các quan nhà Minh.
Các quan nhà Minh đòi vua Lê Thế Tông phải lên gặp họ. Trịnh Tùng đành cử Hoàng
Đình Ái, Nguyễn Hữu Liêu đem một vạn quân đi hộ giá.
Nhà Minh đòi phải nộp người vàng và ấn vàng như cũ, rồi không chịu đến hội. Chờ không lâu được vua Thế Tông lại trở về.
Tháng tư năm sau, nhà Minh lại mở cuộc họp thứ hai cũng vẫn tại Nam Quan. Lần này 5 vạn quân đi hộ vệ nhà vua cũng do Hoàng Đình Ái chỉ huy, chừng e quan nhà Minh trở mặt bắt vua Lê chăng.
Cuộc đàm phán thành tựu vì phái đoàn của nhà Lê chịu nhận chức Đô Thống Sứ và cử phái đoàn sang nộp cống tại Yên Kinh, sau này Phùng Khắc Khoan còn dâng sớ cố nài nhà Minh phong vương cho vua Lê. Từ đó hai nước có sự thông sứ như trước còn nhà Mạc thì được nhà Minh can thiệp nên nhà Lê phải để cao bằng thuộc quyền nhà Mạc.
Năm  Kỷ  Hợi  (1599)  Trịnh  Tùng  tự  Xưng  làm  Đô  Nguyên  Súy,  Tổng  Quốc  Chính Thượng Phụ Bình An Vương, chỉ cho vua Lê thu thuế 1.000 xã gọi là lộc Thượng tiến và 5.000 lính làm quân túc vệ, 7 con voi và 20 chiến thuyền. Rồi Trịnh Tùng lập phủ Liêu là một triều đình riêng gồm Lục Phiên (cũng như lục bộ), tự quyền đặt quan, thu thuế, bắt lính và chỉ khi nào có dịp long trọng đặc biệt mới mời vua ra để thiết triều hay tiếp sứ. Tóm lại vua Lê chỉ còn hư vị, mọi quyền hành đều qua phủ Chúa hết. Từ đó chế độ phong kiến toàn thịnh ở Việt Nam ra đời và con cháu nhà chúa đuợc cả quyền thế tập với danh vị là Thế Tử (thái tử là con vua, thế tử là con chúa).
Trước sự hống hách của Trịnh Tùng, vua Kính Tông (là con vua Thế Tông, mất năm Kỷ hợi 1599) húy là Duy Tân lên ngôi năm 1600 (niên hiệu Thận Đức) không chịu nổi, nhân con Trịnh Tùng là Trịnh Xuân muốn tranh quyền với anh cả là Trịnh Tráng liền mưu giết Trịnh Tùng. Công việc bại lộ Trịnh Tùng bức vua thắt cổ giữa năm 32 tuổi. Hoàng tử Duy Kỳ lên thay tức là Thần Tông
Năm Quý Hợi (1623) binh quyền của nhà chúa được chia cho Trịnh Tráng và Trịnh Xuân, một làm chánh, một làm phó. Nhưng Trịnh Xuân không chịu, nổi loạn đốt Kinh thành, Trịnh Tùng phải chạy về xã Hoàng Mai (một làng ngoại ô Hà Nội ngày nay) ngụ tại nhà Trịnh Đỗ. Trịnh Tùng dụ được Trịnh Xuân đến rồi giết đi. Mấy hôm sau thì Trịnh Tùng mất ở chùa Thanh Xuân, thuộc huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông. Vì thời cuộc bấy giờ còn rối ren, dư đảng của Trịnh Xuân còn hoạt động, Trịnh Tráng phải tạm thời đưa vua về Thanh Hoá. Tráng được vua phong làm Thái Uý Thanh Quốc Công, Tiết Chế Thủy Bộ Chư Quân.
Sau này dẹp xong Mạc Kính Khoan, bình định được Đông Đô. Trịnh Tráng lại rước vua ra Bắc và tự xưng là Nguyên Súy Thống Quốc Chính, Thanh Đô vương.
Kể từ thế kỷ XVI, có thể nói rằng uy quyền của con cháu vua Lê Thái Tổ không còn gì nữa, họ Trịnh còn công khai giết vua này, lập vua khác, làm mưa gió trên sân khấu chính trị miền Bắc như không còn biết có ai dưới mắt nữa.
Lúc này (1644) bên Trung Quốc nhà Thanh dấy nghiệp và thay thế nhà Minh sau khi Quế Vương, ông vua chót của tiền triều chạy qua Miến Điện thì bị bắt và bị giết

2- Họ Nguyễn Xưng Hùng Tại Phương Nam
Đường vô xứ Nghệ quanh quanh,
Non xanh nước biết như tranh họa đồ.
Ai vô xứ Nghệ thì vô?62

62 Đây là câu ca dao tuyên truyền cho nhà Lê khi mới nổi lên ở hai miền Thanh-Nghệ.

A. Giai đoạn thứ nhất
Trong khi họ Mạc, Trịnh chống nhau gay gắt, đồng thời với Trịnh Tùng (kể từ khi Trịnh Kiểm qua đời là năm Canh Ngọ (1570) một nhân vật kiệt hiệt không kém bắt đầu lộ diện, Nguyễn Hoàng.
Nguyễn Hoàng là con thứ hai của Nguyễn Kim mà các sử thần nhà Nguyễn đã đề cao vai trò phù Lê diệt Mạc và bị tướng nhà Mạc là Dương Chấp Nhất đánh thuốc độc năm Ất Tỵ (1545).
Dòng họ Nguyễn kể từ Nguyễn Hoằng Dụ với Nguyễn Kim đã được thiên hạ liệt kê vào các anh hùng thời đại, rồi tới con cháu là Nguyễn Uông, Nguyễn Hoàng người ta cũng thấy có nhiều khả năng và thủ đoạn lợi haị. Trịnh Kiểm là kẻ tinh đời thấy hai ông em vợ sớm muộn có thể trở thành nguy hiểm cho cái địa vị độc tôn của mình thuở ấy. Anh em Hoàng bấy giờ đang từng phục vụ dưới cờ của Trịnh Kiểm, lập được nhiều công lao. Nguyễn Uông được phong làm Lạng Quận Công, Hoàng được tưóc Đoan Quận Công. Rồi Nguyễn Uông chết. Người ta ngờ Uông đã bị độc thủ của ông anh rể. Ư Kỷ là Thái Phó của nhà Lê bây giờ và là anh cả của mẹ Nguyễn Hoàng thấy thế nguy hiểm khuyên Nguyễn Hoàng một thời giả ngây dại để khỏi bị Trịnh Kiểm để ý63. Trong lúc này gia thần của Kiểm là Nguyễn Hùng Long thúc dục Kiểm trừ Nguyễn Hoàng để tránh hậu họa.
Sau này Nguyễn Hoàng ngày đêm tìm cách lánh xa Trịnh Kiểm, thấy không còn cách nào hơn là nhờ bà Ngọc Bảo (chị của Nguyễn Hoàng) vận động cho mình đi vào Thuận Hóa với chức vụ Trấn Thủ. Dịp may là lúc này Thuận Hóa thường vẫn bị người Chàm quấy rối, mặc dầu đất này đã thuộc về ta từ một thế kỷ. Thêm vào đó Thuận Hóa cũng như Quảng Nam hay bị nhà Mạc đem quân vào đánh để chia lực lượng của nhà Lê. Trịnh Kiểm bèn chấp thuận đề nghị của vợ.
Người ta nói rằng trong khi có mưu định đi Thuận Hóa, Nguyễn Hoàng đã cho người ra Hải Dương hỏi ý kiến cụ Trạng Trình. Cụ đang đứng ngắm hòn giả sơn trước nhà và tại đây một đàn kiến đang bò theo chân ngọn núi. Cụ chỉ vào giả sơn nói: "Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân"64. Thế là Hoàng yên trí lên đường vào cuối năm Mậu Ngọ (1558) đời vua Anh Tông, mang theo một số bà con họ hàng và binh sĩ vốn ở đất Thanh Nghệ. Hoàng bấy giờ đã 34 tuổi.
Nơi đồn trú đầu tiên của Nguyễn Hoàng là xã Ái Tử (sau gọi là kho Cây khế) thuộc huyện Đăng Xương, tỉnh Quảng Trị ở giáp ranh của hai phủ Tân Bình và Triệu Phong.
Tại Quảng Nam bấy giờ cũng có một quan Tổng binh là Nguyễn Bá Quýnh.Vào năm Kỷ Tỵ (1569) Hoàng ra chầu vua ở An Tràng, lại sang thăm Trịnh Kiểm rất là thân thiết. Qua năm sau (1570) Trịnh Kiểm cho triệu Nguyễn Bá Quýnh về kinh. Quảng Nam từ đó hợp vào Thanh Hóa và đặt dưới quyền của Hoàng, định lệ mỗi năm Hoàng phải nộp

63 Nguyễn Kim khi xưa có gửi Ư Kỷ nuôi Nguyễn Hoàng từ năm hai tuổi để rảnh tay chạy qua Ai Lao vận động sự giúp đỡ của quốc vương xứ này cho con cháu nhà Lê.
64 Nghĩa là: một giải Hoành Sơn có thể bao dung cho vạn đời. Cụ Trạng khuyên Hoàng vào Thuận Hóa để yên thân.

400 cân bạc và 500 tấn lụa. Chuyện này thành tựu, Hoàng cho người con thứ sáu vào trấn Quảng Nam và khuếch trương mọi việc.
Các sử sách từ trước đến nay chép về Nguyễn Hoàng đều có sự khen ngợi ông là người khôn ngoan, có tài tổ chức, biết cách trị dân nên được dân chúng rất mến yêu. Chẳng bao lâu vùng Thuận Hóa của ông trở nên trù phú sầm uất. Sau khi Hoàng vào Thuận Hóa được một năm hai tỉnh Thanh Nghệ bị lụt to, nhiều dân ở các vùng lụt đã di cư vào Thuận Hóa để nhờ cậy.
Năm Nhâm Thân (1572) Trịnh Kiểm vừa mất, Trịnh Tùng và Trịnh Cối dành nhau quyền bính như trên đã nói, sau đó Trịnh Cối thua chạy sang hàng nhà Mạc. Lúc này (1572) Mạc động binh dánh cả Trịnh lẫn Nguyễn tại Thanh Hóa và Thuận Hóa nhân giữa Nguyễn Hoàng và Trịnh Tùng có sự xung đột nhưng Mạc không thành công.
Nguyên  Trịnh  Tùng  vừa  nắm  được  địa  vị  thay  cha  liền  khiến  ngay  Tham  đốc  Mỹ Lương (Mỹ Lương là người huyện Khang Lộc, phủ Quảng Ninh tỉnh Quảng Bình ngày nay) vào Thuận Hóa thâu thuế nhưng bề trong có lẽ Mỹ Lương được chỉ thị mật65 đi đánh Nguyễn Hoàng thì phải hơn. Hai em là Văn Lan và Nghĩa Sơn được lĩnh chức thủ vệ. Được cơ hội thuận tiện bọn này chiếm luôn huyện Võ Xương (phủ Triệu Phong tỉnh Quảng Trị bây giờ) và Minh Linh trong khi Mỹ Lương do đường núi vượt qua địa phận Bái Trời và Cam Lộ tới Ngọa Kiều cách thành Quảng Trị bốn cây số về phía Nam. Đây có giòng sông nối Quảng Trị vào Thừa Thiên. Rồi hai đạo quân của Trịnh đánh nhất loạt vào căn cứ của Nguyễn Hoàng.
Nhờ được biết trước kế hoạch này, Nguyễn Hoàng cũng chia quân làm hai cánh, một giao chỉ huy cho Trương Trà gốc gác ở Tống Sơn (cùng quê với Hoàng) đón đánh quân Nghĩa Sơn. Còn Hoàng thân giữ mạn Ngọa Kiều, quân Trịnh bị đánh bất ưng tan vỡ ngay. Mỹ Lương bị bắt sống rồi bị giết, doanh trại bị đốt sạch sẽ. Còn quân của Trương Trà gặp quân Nghĩa Sơn ở trên quan lộ phía Bắc Quảng Trị ba chục cây số tại làng Phúc Thị. Quân Nguyễn lúc đầu bị bất lợi vì chủ tướng bị bắn không còn gượng được, đã tính tháo chạy thì vợ Trương Trà vội mặc quân phục thay chồng chỉ huy lại thúc quân tiến lên. Người đàn bà này họ Trần và chính bà ta đã chém được Nghĩa Sơn. Văn Lan thấy anh tử trận núng thế đành rút về với họ Trịnh.
Năm Nhâm Thân (1572) sau khi đánh Thanh Nghệ vô kết quả (dưới quyền chỉ huy của Mạc Kính Điển) thì quân Mạc tiến vào Thuận Hóa do tướng Lập Bạo (tước Quận Công người Bố Chính) kêu gọi. Mạc còn cho 60 chếc thuyền do hải đạo vào đóng làng Hồ Xá và Lãng Uyển qua cửa Việt. Theo sách "Việt Nam Khai Quốc" thì lục quân của nhà Mạc có 1.000 người đi từ Khang Lộc tới.
Hai bên cách nhau chừng vài cây số thấy quân Mạc mạnh và thiện chiến vì đã đánh nhiều ở chiến trường miền Bắc. Hoàng liền dụng mưu. Ông kiếm được một cô gái thật đẹp là Ngô Ngọc Lâm66 (người làng Thế Lai huyện Hương Trà) sai mang vàng lụa sang

65 Vụ Mỹ Lương và Lập Bạo đánh quận Thuận Hóa có thể được coi là một chuyện miền Bắc thử sức miền Nam xem mạnh yếu thế nào. Trịnh lấy cớ cho người vào Thuận Hóa thâu thuế cốt để Thuận Hóa không ngờ thì đánh mới dễ có kết quả.
66 Ngô Thị sau được gả cho một vị quan của chúa Nguyễn.

cầu hòa. Lập Bạo chịu liền tin rằng Trịnh Nguyễn xung đột với nhau thì Mạc với Nguyễn đoàn kết để diệt Trịnh là điều hợp lý và có lợi.
Lập Bạo không phòng xa nên lúc đến gặp Nguyễn Hoàng thì bị quân của Nguyễn phục kích bắn chết và đánh tan hết quân của Lập Bạo, một bọn chịu hàng được đưa vào  khẩn  hoang    vùng  Tây  Bắc  Quảng  Trị  (vùng  Bái  Trời)  lập  được  thêm  36  làng quanh Cồn Tiên.
Năm Quý Tị (1593) vào tháng năm, Trịnh Tùng đuổi được nhà Mạc ra khỏi thành Thăng Long nhưng lực lượng của nhà Mạc vẫn còn hoạt động ở nhiều nơi. Nguyễn Hòang đem quân đội ra chúc mừng vua Lê thắng trận và ở lại Bắc Hà luôn 8 năm để giúp vua. Ông lập được nhiều chiến công nhưng họ Trịnh vẫn không hết e ngại.
Tháng 5 năm Canh Tý (1600) bọn Phan Ngạn, Ngô Đình Hàm, Bùi Văn Khuê nổi loạn chống họ Trịnh. Nguyễn Hoàng tình nguyện đi chinh phạt, rồi Hoàng cho đốt doanh trại và đem thẳng quân bản bộ do đường thủy qua cửa Đại An về Thuận Hóa.
Trịnh Tùng cho binh sĩ đuổi theo nhưng không kịp.
Về được đến nhà, sau đó 5 tháng Hoàng đem con gái là nàng Ngọc Tú ra gả cho Trịnh Tráng là con Trịnh Tùng và đồng thời lấy lời nói khéo dâng biểu xin lỗi vua Lê Thế Tông cùng họ Trịnh.
Sau khi Hoàng thoát khỏi nanh vuốt của họ Trịnh, Trịnh cho Thiêm Đô Ngự Sử Lê Nghĩa Trạch mang một bức tâm thư vào cho Hoàng. Chúng tôi gọi là bức tâm thư vì Trịnh Tùng không lấy danh nghĩa triều đình mà viết cho Hoàng, trái lại Tùng lấy tình cháu mà gởi thư cho cậu ruột. Bức thư này viết rất khéo léo, rất chánh trị đã đề cập đến các vấn đề dưới đây:
1) Ca ngợi tài đức của Nguyễn Hoàng, những tài đức này do tổ tiên là những bậc anh hùng hào kiệt để lại.
2) Nêu cái tình thân mật đặc biệt giữa Hoàng và Tùng nói riêng giữa hai họ Trịnh- Nguyễn nói chung.
3) Nói đến sự nghiệp phục hưng hoàng triều, diệt Mạc phù Lê là công lao của hai họ.
4) Nhắc nhở đến điểm Trịnh vẫn luôn luôn đề bạt Nguyễn vào những chức vụ quan trọng trong nước; ngay cả khi Trịnh dẹp xong Mạc vô cùng vất vả gian lao Hoàng mới ra Bắc mà vẫn được giữ chức lớn (quản đốc phủ Hà Trung thuộc tỉnh Thanh Hóa và 7 huyện thuộc Sơn Nam với chức Hữu Tướng).
5) Trách Hoàng nhân địp có vụ loạn Bùi Văn Khuê, Phan Ngạn, Hoàng xin đi đánh rồi về thẳng Thuận Hóa. Trong việc này Tùng phàn nàn Hoàng và có ý ngờ Hoàng bí mật nhúng tay vào vụ loạn hay đồng lõa với phiến loạn mà Tùng không dám nói ra một cách quyết liệt.
6) Khuyến cáo Hoàng kíp sửa đổi những điều lầm lỡ, cho người mang thư ra xin lỗi vua Lê cùng lo nộp thuế cho Triều đình để cung ứng cho các nhu cầu của Nhà nước, như thế là vẫn giữ được thanh danh của mình và của tổ tiên, nếu cứ ngang ngạnh nhà vua sẽ đem quân trị tội, e lúc đó là hối tiếc quá muộn.
Rồi Hoàng tiếp được thư này rất niềm nở, hậu đãi sứ giả, theo lời Tùng dâng biểu lên vua Lê và đề nghị kết thông gia với Tùng như trên đã nói...
Về vấn đề lương thuế giữa nhà Lê và họ Nguyễn, sử chép có những vụ lôi thôi như sau:
Năm Bính Tuất (1586) Tùng cho Hiến Sát Sứ Nguyễn Tạo vào Thuận Hóa khám xét ruộng đất. Do việc này ta thấy việc Hoàng đóng góp với Lê triều bây giờ có lẽ rất sơ khoáng, nên kể từ 1600 tình thế giữa hai họ Trịnh-Nguyễn trở nên căng thẳng, việc thuế cống hẳn thất thường cho tới 1620 vấn đề thuế má đã thành cớ cho Trịnh đem quân vào hỏi tội Nguyễn.
Sau những vụ lộn xộn với hai họ Trịnh, Mạc trên đây Hoàng được rảnh tay để mở mang địa phương của mình về mọi mặt chính trị, kinh tế, xã hội và quân sự.
Với Chàm năm 1607 Hoàng có mở cuộc kết giao và do một phái bộ ngoại giao gởi đến, nhưng việc này không được lâu bền. Hai năm sau Chàm xua quân vào đất Quảng Nam bị Hoàng đánh lui sau đó Hoàng chiếm thêm của Chiêm Thành một phần đất để lập ra tĩnh Phú Yên gồm ba phủ dưới đây :
1) Phủ Thăng Hoa có 3 huyện: Lê Giang, Hạ Đông, Hi Giang.
2) Phủ Tư Nghĩa có 3 huyện: Bình Sơn, Mộ Hóa, Nghĩa Giang.
3) Phủ Hoài Nhơn có 3 huyện: Bồng Sơn, Phù Ly, Tuy Viễn.
Sử gia Pháp Maybon còn nói rằng Hoàng thành công trong việc kiến tạo giang sơn và sự nghiệp ở miền nam nhờ ở bàn tay của một số quan lại và tướng lãnh miền Bắc đã mến cái đức của Hoàng mà tới.
Rồi với cái thời gian 55 năm yên ổn từ 1572 đến 1627, họ Nguyễn đã xây dựng được khá nhiều cơ sở ở Nam Hà với 3 tỉnh Quảng Bình, Thuận Hóa, Quảng Nam, và dần dần trở nên cường thịnh. Do những thực lực khuếch trương kể trên sau này họ Trịnh phải chịu công nhận nền tự chủ của họ Nguyễn và lấy con sông Gianh làm đường phân giới cho hai miền Nam Bắc.

B. Giai đoạn thứ nhì.
Trong giai đoạn đầu tiên ta thấy Trịnh-Nguyễn chưa ra mặt chống nhau. Cả hai tuy bên trong muốn ăn gan nuốt mật nhau nhưng vẫn e dè sự dị nghị của quốc dân, nên thư đi từ lại vẫn dùng lời lẽ nhân nghĩa, ôn hoà. Đôi bên còn tiếp tục thông gia với nhau    Trịnh  còn  đề  nghị  thăng  tước  cho  chúa  Nguyễn    khác  (địa  vị  của  chúa Nguyễn chỉ kém chúa Trịnh mà thôi. Trịnh được phong vương còn Nguyễn chỉ đuợc đến tước Công là hết. Tước của Hoàng tới 1593 là Đoan Quận Công, còn khi Hoàng vào làm Trấn thủ Thuận Hóa, Hoàng mới được có chức Thái Phó). Việc này khiến họ Nguyễn rất uất ức, vì Nguyễn nghĩ rằng ít nhất địa vị của mình phải ngang địa vị của Trịnh, bởi họ Nguyễn đã có công trung hưng nhà Lê.
May nhờ được rảnh rang trên nửa thế kỷ, Nam Hà xây dựng tổ chức được mọi việc trở nên hùng mạnh không thiếu về một phương diện nào, thì sự kình địch, sự ghen ghét giữa hai họ càng nẩy nở thêm lên cho tới năm Canh Thân (1620) cuộc xung đột bằng sắt máu bùng ra không còn che đậy được nữa.
Quân lực của Trịnh-Nguyễn nếu so sánh có khác nhau nhiều. Những giáo sĩ ngoại quốc từng ở Việt Nam thuở đó kể rằng bộ binh của Bắc Hà có tới 100.000 người, 500 thớt voi, 500 chiến thuyền lớn, mỗi chiến thuyền có ít nhất là 3 chiếc thần công (đại bác) yểm hộ. Theo A. de Rhodes, lực lượng thủy quân này với sự mau lẹ của hỏa lực có thể khuất phục được cả chiến hạm Âu Châu thường vãng lai trên bờ biển Trung Hoa thuở đó.
Về quân lực của nhà Nguyễn, các sử của ta không thấy nói rõ rệt mà các nhà viết sử ngọai quốc cũng không đưa ra được những con số nào khả dĩ chuẩn đích, người ta chỉ biết rằng Nguyễn ít lính và chiến thuyền hơn Trịnh, bởi sông ngòi ở đây chật hẹp nên chúa Nguyễn không tính đến thủy chiến chăng? B. Vachet trong cuốn ký ức lục về Nam Hà do Linh Mục L. Cadière xuất bản năm 1943 (Mémoire sur la Cochinchine) nói tuy vậy trong năm 1674 các chúa Nguyễn có 133 chiến thuyền, nhưng lục quân của họ Nguyễn đáng kể hơn cả. Các giáo sĩ cũng nói Nguyễn có tới 40.000 quân chia ra như sau:
15.000 canh phòng biên giới -- 9.000 đặt tại Kinh đô -- 6.000 phòng vệ Hoàng Gia và các thân vương -- 1.000 trấn các tĩnh.
Nhờ sự giao dịch với người Bồ Đào Nha, có thể Nguyễn đã tu chỉnh được một phần nào về vũ khí của mình như đóng tàu chiến, đúc súng đại bác và xây thành đắp lũy rất là kiên cố để chống nhau với quân Bắc. Và nói đến thành lũy là nói đến lũy Trường Dục và thành Đồng Hới do Đào Duy Từ kiến thiết quả đã bảo vệ được miền Nam rất có nhiều hiệu lực, nếu không, với những cuộc tấn công ào ạt của miền Bắc, tình thế của Nam Hà khó mà giữ vững.

Phần 3 - Chương 14
Trịnh - Nguyễn Phân Tranh (1627-1775)

Giai Đoạn Gây Hấn Công Khai
Trong những năm đầu của thế kỷ XVII chính sự Trung Quốc đi đến chỗ biến chuyển mạnh mẽ, nhà Minh đã chống đỡ một cách rất yếu ớt cuộc tấn công của nhà Thanh bấy giờ đã thôn tính gần hết hai phần Hoa Bắc và Hoa Trung, con cháu nhà Mạc tại miền Cao Bắc Lạng mất hậu thuẫn về phía Trung Quốc tuy chưa hoàn toàn quỵ hẳn nhưng sự vẫy vùng cũng đã trở nên uể oải. Trịnh không còn thắc mắc nhiều như xưa về kẻ thù sát nách ấy nên liền chỉ ngọn cờ "Điếu phạt" về Nam Phương. Lúc này con chim Bằng Thuận Hóa cũng đã đủ lông đủ cánh để bay bổng dưới vòm trời Việt Nam (Đinh Mão 1627).
Trịnh nhận định rằng nếu không sớm diệt Nguyễn Thị thì rồi đây Nguyễn cũng sẽ tai hại không kém gì Mạc vừa qua, nhất là con cháu của Nguyễn Hoàng nhiều thủ đoạn, lắm mưu trí không thua gì ông cha. Trịnh lại còn bồn chồn bởi nỗi Thuận Hoá được một số chuyên viên Bồ Đào Nha và Pháp giúp đỡ rất lợi hại về việc đóng các tàu chiến và đúc các đại bác theo kiểu tây phương, mà về phần Bắc Hà vẫn chưa lợi dụng được ngoại quốc vào công cuộc đấu tranh của mình. (Maybon chép rằng năm Giáp Dần (1614) chúa Sãi được Jean de la Croix người Bồ Đào Nha mở lò đúc súng ở Thuận Hóa. Nơi có lò đúc súng bây giờ vẫn mang tên là Phường Đúc).
Nguyễn Hoàng mất năm Quý Sửu (1613) thọ 89 tuổi, kế vị Nguyễn Hoàng là Nguyễn Phúc Nguyên con thứ 6, dân chúng gọi là chúa Sãi (từ chúa Sãi họ Nguyễn thêm chữ Phúc làm đệm).
Chúa Sãi được cha tiểu di: đất Thuận Quảng này, bên Bắc có núi Hoành Sơn, có sông Linh Giang; phía Nam có núi Hải Vân và Bi Sơn là đất dụng võ trời dành cho kẻ anh hùng. Phải biết thương dân và rèn luyện quân sĩ để gầy dựng sự nghiệp muôn đời...
Mười  năm  sau    ngoài  Bắc  Trịnh  Tùng  qua  đời,  Quý  Hợi  (1623),  Trịnh Tráng nối nghiệp. Tráng liền cho người vào Thuận Hóa đòi số thuế mà miền Nam không đóng góp cho triều đình từ 1620, biết rằng họ Nguyễn sẽ chẳng nộp nhưng có thế họ Trịnh mới có cớ hưng binh hỏi tội được67.

67 Từ 1620 Sãi Vương quả không nộp thuế cho nhà Lê về hai xứ Thuận Hóa và Quảng Nam. Họ Trịnh cho đòi lương thuế chỉ là để biết thái độ của họ Nguyễn mà thôi.

Công Bộ Thị Lang Nguyễn Duy Thì và hoạn quan Phan Văn Trị được cử vào Thuận Hoá đòi thuế chúa Nguyễn.
Sãi Vương trả lời sứ giả Bắc Hà rằng Thuận Quảng mất mùa luôn không thể nộp lương thuế cho triều đình, xin khất chừng nào được mùa sẽ hay.
Thiết tưởng cũng cần chép ra đây tờ sắc mà Trịnh Tráng đã lấy lời vua Lê gởi tới chúa Sãi để hiểu rõ thái độ của đôi bên:
"Hoàng thượng sắc dụ cho Thái Bảo Thụy Quận Công là Nguyễn Phúc Nguyên được biết rằng:
Mệnh lệnh triều đình đạo làm tôi phải tuân thủ,
Thuế má phủ huyện, tướng cõi ngoài không được tự chuyên.
Trước đây Trẫm có sai Công Bộ Thượng Thư Nguyễn Duy Thì, Bá Khê Hầu Phan văn Trị vào Thuận Hóa đạo đạt tình ý, chỉ bảo đường họa phúc để cho tỉnh biết mà phục tùng quyền chính triều đình. Không ngờ nhà ngươi mang lòng dùng dằng, tối đường tới lui, nói thoái thác cho lôi thôi ngày tháng, để đến nỗi thuế má thiếu thốn, không đủ việc chi nhu, đạo làm tôi như thế đã phải chưa? Nhà ngươi nay nên đổi lỗi trước giữ gìn phép tắc. Phàm ngạch thuế trong hai xứ Thuận Quảng từ năm Quý Hợi về trước, có phải đã mất mùa thì xá cả cho; còn từ năm Giáp Tý đến nay phải tính cho đủ theo lệ trước tải thuyền đem ra nạp cho đủ; và phải chỉnh tề binh mã, hoặc thân đến kinh đô triều hạ, hoặc phải sai con đi thay, để coi xem nghi vệ trong nước, và để tỏ giãi tấm lòng làm tôi. Nếu thế thì triều đình sẽ phong thêm cho tước vinh hiển, để rạng tỏ đến tổ tông. Nhược bằng thoái thác không đến thì tức là phạm tội với triều đình.
Khâm tai dụ sắc"
Thấy sứ giả về không, Trịnh Tráng lại cho sứ quay lại Thuận Hóa một lần nữa. Lần này Tráng không nói đến chuyện thuế mà đòi chúa Sãi cho con ra chầu và lấy 30 con voi cùng 30 chiếc thuyền để cống nhà Minh. Chúa Sãi khước từ nốt nhưng tiếp đãi sứ giả thì rất ân cần trọng hậu.

Đại Chiến Lần Thứ Nhất (Đinh Mão - 1627)
Trịnh Tráng liền cương quyết gởi Đô Đốc Nguyễn Khải và Thiếu Bảo Nguyễn Danh Thế tháng 8 năm bính Dần (1626) đem 5.000 quân làm tiền phong, còn mình đem đại binh và rước vua Lê đi đánh họ Nguyễn sau. Quân trịnh gồm 2 đạo: một do Nguyễn Khải đã đến đóng ở Hà Trung sẵn chờ lệnh của Trịnh Tráng. Một đạo dĩ nhiên quan trọng hơn là đại quân do vua Lê và Trịnh Tráng chỉ huy. Theo Maybon và Alexandre de Rhodes, tổng số quân đội thủy lục của Bắc Hà bấy giờ có tới 200.000. Xét ra với cuộc đại chiến thứ nhất này Trịnh Tráng đã tính quyết liệt ăn thua với họ Nguyễn. Còn ngày thường thì quân chính quy chỉ có tới 50.000 mà thôi.
Sãi vương được tin quân Bắc tiến vào liền phong Hoàng Thân Vệ lãnh quyền Tiết Chế, lục quân trao cho Nguyễn Hữu Dật chức Giám chiến. Con đẻ của chúa là Nguyễn Phúc Trung chỉ huy thủy quân để tiếp tay cho Nguyễn Hữu Dật nếu cần dến.
Quân Bắc đến thì đóng ngay ở phía bắc sông Nhật Lệ thuộc hữu ngạn. Quân Nam cũng cắm trại bên sông này.
Bắt đầu kỵ binh của Bắc do Lê Khuê cầm đầu xông vào đánh quân của Sãi Vương tính gây một cuộc lộn xộn lớn nhưng quân Nam nhờ có đại bác chống trả lại rất có hiệu lực.
Quân Bắc liền rút về giữ các cồn cát nổi lên ở cửa sông để tránh hỏa lực của quân Nam. Đêm đến quân Nam nhân nước thủy triều dâng lên liền tiến đến đánh úp trại của Nguyễn Khải bằng đại bác. Quân của Khải rối loạn thì Tráng đem viện binh tới nên quân Trịnh được bình tĩnh trở lại và đánh chiếm được một phần quân nhu của quân Nguyễn.
Quân Nguyễn rút lui một hồi rồi tung tượng binh ra. Quân Trịnh hoảng sợ bỏ chạy để lại nhiều xác chết trên bãi chiến truờng.
Tráng vẫn còn ham chiến, chỉnh đốn lạì quân sĩ ở một nơi xa đó, và tính tái chiếm luôn phen nữa.
Nguyễn Phúc Dật và một tướng tùy thuộc là Trương Phúc Gia liền lập mưu viết một lá thư nặc danh gởi đến cho Tráng nói ngoài Bắc đang có cuộc chuẩn bị dấy loạn của Trịnh Gia và Trịnh Nhạc là anh em của Tráng. Tráng sinh nghi lại thấy quân mình bị đẩy lui nhiều phen và bị thiệt hại nhiều liền rút quân về hậu tuyến.
Cuộc chiến tranh này đã kéo dài đúng bốn tháng, xuất quân vào ngày đầu tháng ba dương lịch, rút lui vào đầu tháng bảy.

Đại Chiến LầnThứ Hai (Canh Ngọ - 1630)
Trận đánh này khai diễn vào mùa đông do Nguyễn Đình Hùng (cháu gọi bằng ông của Nguyễn Ư Kỷ). Mục tiêu là châu Nam Bố Chính đang do Nguyễn Tịch coi giữ và đóng ở Dinh Ngói.
Tịch tử trận, tất cả địa phương này về tay quân Nguyễn. Trai tráng ở đây bị quân Nguyễn xung vào làm lính được 24 đội, đổi tên cũ ra Dinh (ý nghĩa cũ của Dinh là nơi vua chúa ở, năm 1626 Dinh đổi ra Phủ. Sau này Dinh chỉ có nghĩa là một đơn vị hành chánh mà thôi, và đặt ở đây một quan Trấn Thủ. Dưới đời Võ Vương sau này giang sơn của họ Nguyễn chia ra làm 12 dinh tức là tỉnh bộ ngày nay).
Trương Phúc Chấn được cử đến làm Trấn Thủ đầu tiên ở địa hạt này.
Đầu năm 1634 quân Bắc lại vào.
Bia Trường Kiều chép rằng: vào tháng 12 (31 tháng 12, 1633 - 28 tháng 1, 1634) Trịnh Tráng họp quân thủy bộ mở cuộc Nam chinh.
Chúa Nguyễn cử Nguyễn Hữu Dật làm Đốc Chiến cà Chưởng Cơ ra ngăn địch. Quân Trịnh ngừng lại và giữ thế thủ cách Đồng Hới không xa.
Hữu Dật ra lệnh tấn công. Quân Trịnh yếu thế trở nên rối loạn, thiệt hại đến một nửa rồi bỏ chạy. Lúc này người con thứ ba của chúa Sãi tên là Ánh ngầm tổ chức một cuộc đảo chính và thông đồng với chúa Trịnh.
Năm Tân Vị (1631) con cả của Sãi Vương là Kỳ Trấn Thủ Quảng Nam chết. Ánh bấy giờ là Chưởng Cơ được thay thế cùng với em là Tứ (con thứ tám của chúa Sãi) giữ chức Tham tướng (phó tướng). Sãi vương không ưa Ánh vì tính kiêu ngạo và bất nhất nên có phần nghi ngờ bèn đặt một ký lục tên là Phạm rất thân với người con thứ hai của chúa là Nguyễn Phúc Lan (chúa Thượng) để dò xét Ánh.
Sau này nhờ có Phạm mà chúa Sãi biết Ánh có dị chí. Về phần Ánh biết rằng không thể  với  vài  trăm  thủ  túc    cướp  được  địa  vị  của  cha  nên  Ánh  phải  nhìn  về  Trịnh. Nhưng Quảng Nam xa, chỉ còn cách xin ra Quảng Bình làm Trấn Thủ thì Ánh mới dễ tư thông với Trịnh được. Do đó Ánh mới cử người ra điều đình ngầm với Lý Minh là văn chức ở tỉnh Quảng Bình vận động nhân dân đòi triệu hồi Trấn Thủ Tuấn là cháu của chúa Nguyễn Hoàng rồi xin cho Ánh ra thay. Sãi Vương thấy dân kêu ca vì sự hà khắc của Tuấn nên tin lời và cho Ánh ra Quảng Bình. Nhưng khi sắc phong tới Quảng Nam, Ánh lại vắng mặt bởi cuộc đi săn luôn một tuần lễ. Chúa giận nên cử Nguyễn Cửu Kiều.
Ánh vẫn không thoái chí cho hỏi dò Lý Minh về Kiều. Lý Minh nói Kiều là người nhút nhát, nếu quân Trịnh vào ắt Kiều sẽ bỏ chạy.
Được tin Trịnh Tráng vội đưa quân vào Nhật Lệ. Chúa Sãi liền mang quân cự địch.
Khi quân Trịnh - Nguyễn đối diện nhau, Trịnh bắn đại bác làm hiệu cho Ánh. Nhưng rồi Trịnh không thấy động tĩnh về phía Nam quân. Trịnh sinh nghi, vội lùi quân lại nghe ngóng. Tình trạng này kéo dài luôn mấy tuần, chúa Trịnh rất bực tức.
Sau quân chúa Sãi tiến lên đánh, quân Trịnh thua bỏ chạy.
Trịnh đành mang quân trở về Bắc và để Nguyễn Khắc Liệt ở lại giữ Bắc Bố Chính.

Đại Chiến LầnThứ Ba (Ất Hợi - 1635)
Chúa Sãi mất năm Ất Hợi 1635, Nguyễn Phúc Lan là con lên thay tức là Công Thượng Vương và việc đầu tiên là tiến quân chiếm miền Bắc Bố Chính.
Theo giám mục Alexandre de Rhodes: Bắc Bố Chính bị quân Nguyễn chiếm vào năm 1640. Sự kháng cự của quân Trịnh không được bền bỉ, rồi Trấn Thủ là Nguyễn Khắc Liệt bỏ chạy về Bắc, vợ con bị bắt làm tù binh. Nguyễn Khắc Liệt ra đến Thăng Long thì bị Tráng bắt giam rồi để chết đói (xin nhắc Trịnh Tráng là bố vợ của Nguyễn Khắc Liệt).
Vì quân Nguyễn lo chuẩn bị chiến tranh và đã chiếm một phần miền Bắc Bố Chính nên chúa Trịnh sốt ruột lại đem quân vào Nam tháng hai năm Quý Tỵ. Đại quân do Thái Bảo Trịnh Tạc và Trịnh Lê hai con của chúa cầm đầu với sự giúp đỡ của Thị Lang Nguyễn Quang Minh, Tự Khanh Phạm Công Trứ (một sử thần có tiếng của nhà Lê) và Nguyễn Danh Thọ. Hai quân gặp nhau tại Trung Hòa, (Tức Mỹ Hòa ngày nay) gần cửa sông Gianh về hữu ngạn. Tướng Nguyễn là Bùi Công Thắng chống không nổi bị bắt và bị giết (hay bị tử trận, chỗ này sử không nói rõ). Quân Trịnh thừa thắng tiến luôn vào cửa Nhật Lệ. Tháng ba, chúa Trịnh đem vua Lê Thần Tông đến An Bài lập Tổng hành dinh (An Bài là một làng cách sông Gianh về phía Bắc 4 cây số). Chiến sự bị ngưng ở đây vì trời nóng quá, quân Trịnh bị bệnh dịch chết hại rất nhiều, phải rút về, để lại 10,000 quân để phòn thủ, và chờ dịp khác tấn công. Quân Trịnh về Bắc được vài tháng thì vua Lê Thần Tông nhường ngôi cho con cả là vua Lê Chân Tông, vào tháng 10 năm Quý Tỵ (1643).

Đại Chiến LầnThứ Tư (Mậu Tý - 1648)
Tháng 6 năm 1647, Lê Chân Tông ra lệnh cho các địa phương miền Bắc kiểm soát những người lành mạnh bổ sung quân số.
Năm sau là năm Mậu Tý 1648 chúa Trịnh Tráng cử Lê Văn Hiển giữ chức Đô Đốc (các sách khác nói là Trịnh Đào) tước Tiến Quận Công lĩnh quyền tổng chỉ huy quân đội Nam  chinh.  Quân  Trịnh  tiến  thẳng  đến  cửa  sông Nhật Lệ.  Tướng  giữ căn  cứ này là Hoành Lễ đánh không lại vội xin tiếp viện của Trấn Thủ Quảng Bình là Nguyễn Cửu Kiều. Kiều cho Tham tướng là Nguyễn Triều Văn đi cấp cứu, nhưng Triều Văn vốn hèn nhát, đi tới nửa đường thì dừng lại, do đó quân Trịnh đi thẳng một mạch tới gần tỉnh lỵ Quảng Bình (bấy giờ là Dinh), đóng tại tả ngạn sông Nhật Lệ trước làng Văn La. Quân Nguyễn ở đây do Cai đội Trương Triều Lương và Trương Triều Nghi đem quân cự địch, bị tử trận. Ký Lục Thanh Hội tới đánh cũng bại trận phải rút về bên kia sông. Quân Trịnh thừa thế đuổi theo tới làng Võ Xá (giữa sông) là vào đúng giữa Quảng Bình dinh, một phần tiến theo hữu ngạn sông Nhật Lệ, tiến đến An Đại (tức Long Đại ngày nay), ngừng trước lũy Trường Dục. Lúc này Trịnh Đào lập hành doanh tại Nam Bố Chính gần Dinh Ngói. Rồi thành Đồng Hới và Dinh Mười lọt vào tay quân Trịnh. Trấn Thủ Nam Bố Chính là Trương Phúc Phấn thất vọng trước những thắng lợi liên tiếp của quân Trịnh liền lui quân vào phòng tuyến thứ hai do Đào Duy Từ xây từ 1630 tức là đồn Trường Dục để cự địch. Thành xây bằng cát nên bị đại bác của Trịnh bắn thủng toang khiến quân Nguyễn kinh khủng mười phần tháo chạy đến sáu bảy. Phấn cứ điềm nhiên thúc trống phất cờ tiếp tục trận đánh, cho quân lấy thuyền chở cát lấp lại các chỗ bị phá. Tên của quân Trịnh như mưa rào vào chỗ Phấn ngồi. Nhờ có sự can đảm và cố thủ này quân  tiếp  viện  của  Nguyễn  kịp  tới  do  Thế  tử  Nguyễn  Phúc  Tần  cầm  đầu  (tức  Hiền Vương sau này). Quân bộ có Thế Tử Lộc giữ chức Chưởng Dinh, Tống Hữu Đại là Trấn Thủ Cựu Dinh, và Giám chiến Nguyễn Hữu Dật chỉ huy. Thủy quân do Tham Tướng Nguyễn Triều Văn, nhưng trận đầu vẫn giành thắng lợi cho quân Trịnh.
Quân tiền phong của Nguyễn đến An Đại (trước đồn Trường Dực) thì Dật bàn với Thế tử Lộc chia nhau đóng các nơi hiểm yếu, vì biết rằng Bắc quân không thông thạo địa hình địa vật ở đây.
Cũng lúc này Thế tử Nguyễn Phúc Tần kéo đến Quảng Bình gần sát quân Trịnh lợi dụng đêm tối tung tượng binh bất thình lình đánh vào trại của Trịnh hồi canh năm. Nguyễn Hữu Tấn chỉ huy 100 con voi trong công tác này, còn Thế tử Nguyễn Phúc Tần đi sau với đại quân. Quả nhiên quân Trịnh bị đánh bất ngờ bỏ chạy về Đồng Hới thì bị quân Nguyễn đem thủy quân chờ ở Cẩm La chỗ đường bộ đi qua sông đón đánh chết hại rất nhiều. Sử của Nguyễn triều chép rằng trong các trận đánh giữa hai quân Trịnh Nguyễn chưa trận nào khốc liệt bằng trận này, khiến một câu tục ngữ còn nhắc lại rằng:
"Hiểm nhất Lũy Thày, Thứ nhì đồng lầy Võ Xá"
bởi ở đây quân Nguyễn nhờ có ưu thế của núi sông khiến quân Trịnh bị chết hại vô kể.
Trong trận này Trịnh bị bắt mất mấy tướng và vài ngàn binh sĩ. Trịnh Đào thấy tiền quân bị bại trận liền rút lui, bị quân Nguyễn đuổi tới sông Gianh.
Chiến tranh tới đây thì ngừng lại do cái chết của Công Thượng Vương cũng đi đốc chiến vào tháng hai năm ấy tức là lúc khởi chiến. Công Thượng Vương tới làng Trung Chỉ, cách Quảng Trị độ 10 cây số vào ngày 25 tháng 2 thì bị bệnh. Đến ngày 18 tháng 3 thì tình trạng quá nguy kịch, phải đưa chúa về Thuận Hóa bằng đường thủy, đến phá Tam Giang thì mất trên thuyền, vào ngày 19 tháng 3 năm Mậu Tý. Nguyễn Phúc Tần lên thay, tức là Hiền Vương. Bảy năm sau lại tái chiến với quân Trịnh.

Trận Đánh Thứ Năm Tại Nghệ An (Ất Vị - 1655)
Tháng tư sau Ất Vị 1655 cuộc xung đột lại tái diễn. Lê Văn Hiểu ra lệnh cho Phạm Tất Toàn đem quân vượt sông Linh Giang đánh vào Nam Bố Chính. Chúa Hiền cử Nguyễn Hữu Dật và Nguyễn Hữu Tiến (Tấn) đối chiến với quân Trịnh ở đây. Quân Trịnh bị đánh bất ngờ, Phạm Tất Toàn phải đầu hàng và Bắc Bố Chính đổi chủ. Quân Nguyễn liền chia ra đánh Hoành Sơn. Quân của Lê Hữu Đức giữ không nổi bỏ chạy nhờ vậy mà quân Nguyễn đánh ra dinh Hà Trung. Lê Văn Hiểu ra công cự địch nhưng cũng thua rồi cùng Lê Hữu Đức chạy về An Trường. Nguyễn Hữu Tiến đánh Thạch Hà, Tham đốc của Trịnh là Đặng Minh Tác ra hàng. Văn Hiểu và Hữu Đức kéo quân về đóng đồn ở Đại Nại cố giữ không cho quân Nguyễn đi xa hơn. Nhiệm vụ đánh vào Hà Trung sẽ trao cho hậu quân... Chúa Trịnh Tráng thấy bọn Lê Văn Hiểu bại trận cho sứ triệu về Kinh giáng chức (Hiểu bị đạn ở chân về đến nửa đường thì chết), và cho Trịnh Trượng vào thay với chức Thống lĩnh, kinh lược đất Nghệ An.
Đầu tháng 8 năm Ất Vị 1655, Trịnh Trượng đến Lạc Xuyên cách Bắc Hà Trung 15 cây số thì hạ đồn. Võ Văn Thiêm đem 50 chiến thuyền đóng ngay tại cửa sông Kỳ La là thủy đạo lên đến đồn Hà Trung. Thấy quân Bắc tới Hữu Dật và Hữu Tiến bàn nhau lui binh về sông Gianh, bí mật đặt lục quân phục kích ở Lũng Đông, thủy quân giữ cửa Ròn. Nhưng quân Trịnh không mắc bẫy vì biết Hữu Dật và Hữu Tiến là hai danh tướng của Nguyễn có nhiều thủ đoạn. Nhử địch không xong và thấy đã hơn một tháng quân Trịnh không cử động, Hữu Dật và Hữu Tiến liền thay đổi chiến lược.
Đây là giai đoạn thứ hai của chiến dịch năm Ất Vị:
Nguyễn chia quân đóng hết các nẻo đường. Tiền quân của Trương Phúc Hùng, Phù Dương, thuần Đúc và Khuê Thắng đánh vào quân tuần thám của Trịnh ở Hà Trung. Quân  Trịnh  bị hại, quân Nguyễn tiến vào Lạc Xuyên. Trịnh Trượng thua chạy về An Tràng, sau bị giáng chức xuống Đô Đốc.
Trước tình thế nghiêm trọng này, chúa Trịnh Tráng lo ngại cử Tây Định vương Trịnh Tạc (con của chúa) vô Nam. Tháng 9 năm ấy Tạc mang đại quân vào Nghệ An rồi đóng ở An Tràng. Rồi sau hai tháng Thanh Đô vương lại kêu Trịnh Tạc về để Hữu đô đốc Ninh quận công Trịnh Toàn thay thế.
Quân Bắc đóng ở An Tràng từ tháng 9, qua tháng sau mới hoạt động, tiến đánh Kỳ Hoa. Hữu Tiến rút quân của mình ra khỏi Lạc Xuyên và tới đóng ở Hà Trung (có lẽ để nghe ngóng thực lực của Trịnh). Nhưng đến tháng 11 quân Trịnh lại trở về An Tràng.
Vào tháng 12 (Ất Vị) quân Trịnh đóng ở Minh Lương vào đánh huyện Kỳ Hoa trước đã về hàng Nguyễn.
Tháng giêng năm Bính Thân (1656) quân Nguyễn Bắc tiến đuổi được quân Trịnh tới sông Tam Chế thì bị một lực lượng Bắc Hà đánh lui. Trận này quân Trịnh thắng khá oanh liệt nên nhiều tướng lĩnh được thăng thưởng ngay lập tức.
Tháng hai Hữu Dật tiến đến Hồng Lĩnh (quân kéo từ Bắc xuống Nam qua hai huyện Nghị Xuân và Thiên Lộc) rồi gặp Võ Văn Thiêm đang cho thủy quân đổ bộ.
Hai bên giáp chiến. Quân Trịnh ở đây cũng như ở nhiều nơi khác lại rút về An Tràng. Hữu Dật và Hữu Tiến tập hợp các cơ đội về Vân Cát (huyện Thạch Hà) Chúa liền cho đem vàng lụa đến khao thưởng. Vào tháng 5, Trịnh Nguyễn lại khởi chiến. Trịnh Toàn mang quân đến Thạch Hà. Đào Quang Nhiêu (Trấn thủ cũ của Nghệ An) và Dương Hồ đóng ở Đại Nại, Hương Bộc ở ngoài thành (thành Hà Tĩnh bấy giờ) với bộ binh. Quận Công Thung, Lê Sĩ Hậu, Bùi Sĩ Lương đem thủy quân đóng ở cửa Nam Giới và cửa Sót. Võ Văn Thiêm đóng ở Đơn Giai (cửa sông Vinh). Bọn Hữu Dật thấy quân Trịnh kéo đến cũng động viên quân đội thủy lục để ứng chiến. Thủy quân của Nguyễn do Dương Trí kéo đánh cửa Nam giới do Quận Công Thung giữ. Tại đây cuộc thủy chiến đã diễn ra: Quận Công Thung bị đánh rất nguy được Trịnh Toàn cho Quận Công Lý đến cứu viện. Về phần Hữu Dật cũng đem bộ binh chạy tới tăng cường cho Dương Trí đang ở giữa khơi đánh quân Trịnh rất hăng đến nỗi thủy quân Trịnh vừa bị thủy quân Nguyễn tấn công mà trên bộ đại bác của Nguyễn cũng nã xuống tới tấp.
Quận Công Lý chạy được, Quận Công Thung bị bắt với ba chục chiến thuyền. Phò Mã Trịnh đến giải cứu bằng thủy quân nhưng lại rút lui vì hỏa lực của Nguyễn dữ dội quá. Các tướng của thủy quân Trịnh là Lê Sĩ Hậu, Bùi Sĩ Lương, Nguyễn Hữu Sắc, Thái Bá Trật cũng chạy hết. Hữu Dật liền tiến đánh Trịnh Toàn tại bến đò Hoạt, cố bao vây nhưng bị đánh lui phải bỏ về cửa Nam Giới thủ thế với Dương Trí.
Trong lúc nầy ở phía Nam cách đó không xa quân Nguyễn bị quân Trịnh đánh thua. Tiến quân của Nguyễn do các tướng Phúc Khang, Phù Dương bao vây tướng Đào Quang Nhiêu của Trịnh tại Hương Bộc rất ngặt, Trịnh Toàn liền đến cứu. Toàn trao cờ lệnh cho Đốc Thị Dương Hồ làm bùng cháy lòng ái quốc và trung thành rất hăng, còn Toàn tự mình dẫn đạo kỵ binh sát phạt quân Nguyễn như vũ bão. Nhờ có viện quân tới, Đào Quang Nhiêu mở rộng cửa thành đánh ra, quân Nguyễn bị đánh dồn dập cả hai mặt chịu không nổi phải thua chạy. Tại Đại Nại quân Bắc cùng quân Nguyễn cũng giao tranh kịch liệt. Quân Nguyễn bị thua và mất một số lớn binh sĩ, voi ngựa và vũ khí. Tướng Nguyễn là Nguyễn Cửu Kiều bị trọng thương ở trận nầy rồi chết (Kiều mất vào năm 58 tuổi, là em vợ của Sãi Vương). Bại trận luôn hai lần, quân Nam phải rút về Hà Trung, quân Bắc đuổi theo nhưng không dám vượt qua làng Tam Lộng, huyện Cẩm Xuyên. Hữu Tiến liền nghĩ ra một kế hoạch phục kích quân Trịnh ở các thủy lộ bằng thủy quân của mình ở Phù Thạch thuộc huyện La Sơn, Triều Khẩn thuộc huyện Hưng Nguyên, Việt An thuộc huyện La Sơn, lại cho Hoàng Tín nấp ở bên sông Minh Lương huyện Thiên Lộc với một số chiến thuyền, còn đại quân của Hữu Dật thì mai phục ở làng Nam Ngàn (La Sơn). Xem cách bố trí này của Hữu Tiến thì Tiến đoán Trịnh vừa thắng hai trận lớn ắt thừa thế sẽ từ Hà Tĩnh tiến vào Nghệ An nên cho quân ẩn nấp ở các nẻo đường thủy chờ chận đánh quân Trịnh. Thủy quân của Nguyễn phần lớn bấy giờ để ở Lam Giang.
Được biết Hữu Dật đang có mặt ở Nam Ngàn, Trịnh Toàn cử hai tướng là Quận công Tào Nham và Diễn Thọ đi đánh. Đạo quân nầy bị rơi vào ổ phục kích của Nguyễn và hai tướng bị chết về tay Đỗ Tín. Còn Trịnh Toàn qua Bình Hồ (La Sơn) gặp quân Hoằng Tín cũng thiệt hại nhiều nhưng chạy được về An Tràng.
Xét ra đôi bên cũng không hơn kém nhau bao nhiêu. Quân Trịnh bấy giờ không tiến được hơn đành chỉ cố thủ ở miền Bắc sông Lam mà thôi.
Tháng 7 năm 1656, Hiền Vương do tin thắng trận định đem binh lên Bắc Bố Chính nhưng lại thấy mình rút về Hà Trung nên ngừng lại ở An Trạch (Nam Quảng Bình).
Những tháng chót của năm Bính Thân (1656) hai phe Trịnh Nguyễn đều im hơi lặng tiếng. Có lẽ người ta đã muốn dưỡng sức cho quân dân sau những chiến trận vô cùng khốc liệt. Về phần Nguyễn tuy thường thắng trận nhưng thực lực của miền Thuận Quảng rõ rệt không đủ để theo đuổi một chiến cuộc trường kỳ. Về phần Trịnh đã bị bất lợi nhiều cũng xuống tinh thần và cần phải cởi yên bỏ giáp còn do nội tình bối rối nữa vì Trịnh Tráng lâm bệnh sắp thở hơi tàn. Trong nhà anh em lại có sự nghi ngờ nhau nên Trịnh Tạc đang hành quân ở Nghệ An đột nhiên được gọi về Thăng Long. Trịnh Tạc đã được  phong  vương  để  thay  Trịnh  Tráng  nhưng  giữa  Trịnh  Tạc    Trịnh  Toàn    sự ghen ghét. Tháng 5 năm ấy, con Trịnh Tạc là Trịnh Căn được phong thế tử mang chức Thái Bảo, tước Quận công, tháng sáu được cử vào Nghệ An làm Thống Lĩnh bề ngoài để giúp Trịnh Toàn nhưng bề trong có ý kiểm soát và chia xẻ quyền hành của chú. Rồi liên tiếp mấy tháng sau nhiều mưu thần võ tướng được lĩnh chức mới gửi vào Nghệ An trong đó có Trịnh Căn và Trịnh Đống. Tháng 11 năm Bính Thân (1656) quân đội Bắc hà lại chuyển động và tiến xuống miền Nam Lam Giang. Trịnh Toàn đóng ở Quảng Khuyến tại huyện Thiên Lộc; Trịnh Căn cắm trại cũng ở huyện này đào hào đắp lũy phòng nhau Rối Toàn có ý mang hết binh đội về An Tràng, Trịnh Căn lo ngại lui về đóng ở Phù Long huyện Hưng Nguyên, tình thế rất là gay go.
Chúa Hiền tiến quân lên Dinh Trạm (Nam Quảng Bình) rồi lên đến Dinh Mười.
Ngày 16 tháng 4 năm Đinh Dậu (1657) chúa Thanh Đô vương qua đời. Trịnh Tạc liền thanh toán ngay vấn đề Trịnh Toàn, và bắt giam Toàn vì không về Bắc chịu tang. Một số thủ túc của Toàn sợ cháy thành vạ lây chạy qua đầu hàng quân Nam.
Toàn chịu bó tay về Thăng Long sau khi trao hết quyền binh cho Trịnh Căn. Số phận của Toàn ít ngày sau là bị giam và chết trong ngục. Rồi Trịnh Căn được thay Trịnh Toàn làm chủ Nghệ An. Quân Nam bấy giờ vẫn tiếp tục giữ thế thủ. Tháng 6 năm ấy Trịnh Căn khởi chiến, chia quân ra ba đạo vượt sông Thanh Chương (sông Vinh). Quân Nam lùi rồi phản công. Trịnh Căn thấy quân mình núng thế liền đến cứu viện cho Đặng thế Công. Quân Nam thua chạy. Nhưng tuy được quân Trịnh vẫn rút về An Tràng và khao thưởng tướng sĩ.
Đến tháng 9, Trịnh Căn phái Thắng Nham đi chiếm thành Đồng Hôn ở vào một vùng ẩm thấp e bị nước lụt nên sau quân Trịnh lại rời tới Thổ Sơn Hạ. Quân của Hữu Dật nhân một cơn mưa to gió lớn, nước sông dâng lên cao tấn công quân Trịnh ở đây. Quân Bắc bỏ chạy.
Bấy giờ bảy huyện ở phía Nam sông Lam-Giang (thuộc tỉnh Nghệ An) là huyện Kỳ Hoa, Thạch Hà, Thiên Lộc, Nghi Xuân, La Sơn, Hương Sơn và Thanh Chương đều thuộc về quân Nguyễn cả. Đầu năm Mậu Tuất, Trịnh Tạc gửi thêm tướng sĩ mới cho Trịnh Căn. Trận giặc này kéo dài khiến hai bên đều hao tổn mạnh. Tháng 5 (năm 1658) vua Lê Thần Tông phải ra sắc dụ yêu cầu nhân dân giúp gạo. Triều đình tùy theo số gạo mà cấp chức tước. Chúa Nguyễn cũng bắt dân Nghệ An nhập ngũ và đóng thuế khiến dân chúng vùng mới chiếm đóng rất là bất mãn. Trong những tháng chót của năm 1658 đôi bên vẫn tiếp tục đánh nhau, từ tháng 7 đến tháng 8, cùng có phen được thua nhưng tình thế của Trịnh cũng như Nguyễn vẫn không thay đổi là bao nhiêu.
Rồi suốt năm 1659 hai quân Trịnh Nguyễn cũng vẫn không có hoạt động quan trọng. Quân Nam thấy mình không mạnh nên không tiến đánh. Quân Bắc cũng chủ trương đợi thời.
Tháng 9 năm 1660, Hữu Tiến đem quân vượt sông Tam Chế đánh vào đồn Do Nha.
Binh sĩ xa nhà đã lâu, chán nản nên đào ngũ rất nhiều, Hữu Tiến phải trở về.
Sau này Trịnh lại chuyển binh qua sông Lam giang, tiến đánh Lận sơn, Tả Ao. Quân Nguyễn rút về Hoa Viên đến đóng ở Nghi Xuân. Lúc này hai đại tướng của Nam Hà là Hữu Tiến và Hữu Dật bất hòa với nhau nên rút hết quân lực về Nam Bố Chính. Quân Nam rút đến Hoành sơn thì quân Trịnh đuổi kịp, đôi bên cùng thiệt hại rất nhiều. Rút cục Trịnh về đóng ở Kỳ Hoa, Nguyễn giữ cửa Nhật Lệ. Bảy huyện ở vùng sông Lam lại trở về đất Bắc. Trịnh Căn cho Đào Quang Nhiêu ở lại làm Trấn thủ Nghệ An, trông coi thêm cả Bắc Bố Chính rồi về Thăng Long. Chiến dịch Nghệ An xét ra đã kéo dài tới 6 năm.

Đại chiến lần thứ sáu (Tân Sữu - 1661)
Trịnh Căn về Thăng Long hồi tháng hai năm Tân Sửu như trên đã nói do hai cớ: Cớ thứ nhất để hưởng thụ sự chào đón tưng bừng của vua quan và nhân dân miền Bắc đối với người anh hùng chiến thắng miền Nam. Cớ thứ nhì là để binh sĩ có dịp nghỉ ngơi sau nhiều năm gian lao, mệt mỏi rồi cuối năm Sửu, Trịnh lại khởi chiến68.

68 Cương Mục nói Trịnh khởi trận đánh vào tháng 10 nhuận. Theo De Calendrio Sinico của P. Hoàng thì vào tháng 7. Thực Lục cho rằng cuộc khởi hấn Trịnh - Nguyễn nhằm vào tháng chạp (tức là 20 tháng 1 - 17 tháng 2, 1662).

Trịnh Căn vẫn giữ chức Thống lĩnh; Đào Quang Nhiêu làm Thống Suất69 Lê Hiến và Hoàng Nghĩa là Đốc Suất thêm 3 Đốc Thị là Lê Sĩ Triệt, Trịnh Thì Tế và Thân Tuấn. Lần này chúa Trịnh rất khôn khéo, mời vua Lê Thần Tông đi dự chiến để lấy thêm uy tín vì dân Hà Tĩnh và Bố Chính vừa đây nghiêng ngả theo Nguyễn. Vừa đóng ở Phủ Lộ trên hữu ngạn sông Gianh mà trước đây không lâu chúa Hiến đã có dịp đến hạ Tống hành dinh. Quân Trịnh chia ra 3 đạo: Thủy quân đến đóng ngay tại cửa sông Nhật Lệ. Bộ binh qua sông Gianh tiến vào Nam Bố Chính, còn đại quân bắt đầu từ làng An Nam chỗ bờ biển đến chân núi Châu Thị70. Thành này có tác dụng bao lấy thành Đồng Hới về phía Tây. Người ta đặt đại bác ở đây và hai quân đối diện nhau chỉ cách có bức thành này mà thôi. Trịnh cho một quan tham mưu là Hoàng Trung mang lọng vàng và hương án cùng vài tên lính đến dụ địch bằng một sắc chỉ của vua Lê.
Tướng giữ đồn là Vân Trạch không chịu tiếp sắc và đã bắn chết Hoàng Trung rồi đôi bên nổi lệnh đánh nhau kịch liệt tại tả ngạn sông Rào Dinh. Chúa Hiền cho lệnh rút quân tới phía sau thành Đồng Hới để cố thủ vì rào lũy phía trước không đủ vững để che chở cho quân đội.
Quân Trịnh lại tiến đóng tại làng Trần Ninh, phía Bắc thành Đồng Hới, giữ con đường biển vào làng Chính Thỉ (tức Trung Ngãi bây giờ) gần phía Tây thành Đồng Hới, như thế là Trịnh giữ cả đường đi vào miền núi. Hữu Dật lại rút về Vũ Xá (Dinh Quảng Bình tức Lưu Đồn). Nhiều lần Trịnh muốn đánh mà không thấy quân Nguyễn ra mặt71, sự thực Nguyễn trốn đánh bởi không đủ sức chống chọi thì cứ kéo dài sự cố thủ để quân Trịnh  hao  mòn  về  lương  thực    lợi  hơn.  (Các  vùng  Nam,  Bắc  Bố  Chính      chiến trường lâu năm nên quân đội của đôi bên không nhờ được một thứ gì của dân sở tại). Quả nhiên sau một tháng quân Trịnh nao núng về điểm này, bấy giờ Hữu Dật mới bất thần đánh vào hậu tuyến của Trịnh trong một đêm tối, nhưng trận đánh ở đây cũng không có lợi gì đáng kể. Tháng ba năm Nhâm Dần (1662) quân mệt, lương hết Trịnh Tạc lại ra lệnh rút quân về Bắc. Vua Thần Tông về đến Thăng Long thì mất vào tháng
9. Thái tử Duy Vũ lên thay tức là vua Gia Tông.
Trong dịp này Hữu Dật và Hữu Tiến đắp thêm một cái lũy nữa là lũy Trần Ninh bên hữu ngạn sông Nhật Lệ có ý ngăn thủy quân của Trịnh. Bên tả ngạn đối chiến với lũy Trần Ninh, Nguyễn cho xây thêm lũy Sa Phụ về phía đầu sông tục gọi là Đồng Cát.

69 Theo Việt Nam Sử Lược: Đào Quang Nhiêu làm Tổng Suất, ý nghĩa vẫn như vậy.
70 Theo sự kê cứu của C.B. Maybon thì thành này có lẽ xưa kia đã do Trịnh Toàn đắp nên có tên là Lũy ông Ninh. Ninh là tước Ninh Quận Công của Toàn, vì thành này cũng đi từ đường quan lộ đến chân núi như sử sách của triều Nguyễn đã nói. Vậy lúc này quân Nguyễn chỉ có sửa lại mà thôi.
71 Bia Trường Kiều dựng ở phía nam thành Đồn Hới cách vài cây số, từ 1661-1662 chép: quân Trịnh không dám nhìn quân Nguyễn tận mặt. Lời nói ngoa này đã bị các sử liệu khác đính chính bởi 10 năm sau vào 1672 quân Bắc còn kéo vào đánh Nam Hà lần nữa, làm cho chúa Nguyễn hết sức lo lắng. Đây là một trong nhiều chứng cớ tỏ rằng sử thần của Triều Nguyễn thường hay xuyên tạc sự thực để làm đẹp lòng vua chúa.

Đại chiến lần thứ bảy (Nhâm Tý - 1672)
Tháng 6 năm Nhâm Tý (1672), tức là 10 năm sau hai họ Trịnh, Nguyễn còn xô sát với nhau một lần nữa và lần này là lần chót. Trịnh Căn làm thủy quân Nguyên súy. Lê Hiến làm bộ quân Thống suất. Quân Bắc có 100 ngàn nhưng phao đồn có 180000. Vua Lê Gia Tông cũng có mặt trong cuộc đại chiến này bên cạnh Tây Vương Trịnh Tạc.
Quân Nam lúc này có tân nguyên soái là Thế tử Thuần (tên lúc nhỏ là Hiệp)72 mới hai mươi tuổi, phụ tá có Vệ úy Mai Phúc Lãnh, Ký Lục, Võ Phi Thừa làm Tham mưu, Chưởng cơ Trương Phúc Cang con thứ Trương Phúc Phấn (đã nổi danh trong nhiều trận vào năm 1648) và Nguyễn Đức Báu. Phấn giữ chức Tiên Phong hữu dực, Báu làm Tiên Phong tả dực. Ty Tướng Thần Lại73 lo liệu việc thâu thuế bằng tiền bạc hay thóc gạo để cung  cấp  cho  quân  đội  sung  vào  ba  kho    Lai  Cách  (Bắc  Quảng  Trị)  An  Trạch  và Trường Dục (Nam Quảng Bình) Tượng binh có 5 đội mỗi đội có 150 voi trận.
Tháng 7 năm ấy Hiệp mang quân đến Quảng Bình, Hữu Dật trước đây giữ chức Chưởng Dinh được thay Hữu Tiên đang làm Đổng Suất ở Lưu Đồn hồi tháng sáu nay phụ trách giữ thành Sa Phụ (xây năm 1662). Mỹ Đức Trấn Thủ dinh Quảng Bình nay được coi Chính Lũy là phần chính của thành Đồng Hới ở mạn Bắc sông Lệ Kỳ. Trương Phúc Cang được ủy giữ Trấn Ninh để đón cuộc tấn công đầu tiên của Trịnh. Triều Tín, Trấn Thủ dinh Bố Chính giữ thành Đồng Hới về phía Tây. Thuần Đức Trấn Thủ Cựu Dinh, giữ phần thành giáp núi Đầu Mâu (cũng về phía Tây, chắc nơi này cần giữ ráo riết hơn cả). Thuận Trung Cai Cơ đóng ở cầu Mũi Nại (nơi làm muối) ngay ở đầu ngã ba sông Nhật Lệ và Lệ Kỳ (sau này quân Nguyễn cũng đắp một cái lũy nhỏ gọi là Lũy Ngang, vì lũy này chạy ngang theo thành Đồng Hới ra sông, thành một phòng tuyến thứ hai).
Tham Tướng Tài Lê lĩnh thủy quân cho đóng một hàng rào cây lớn ở cửa sông đề ngăn cản sự đột nhập của các chiến thuyền của Trịnh. Nhìn vào việc bố trí này ta nhận thấy thủ và lục quân của Nguyễn có ý đóng liền nhau để dễ liên lạc và tiếp ứng cho nhau. Tháng 8 quân Trịnh kéo đến Bắc Bố Chính.
Tháng 9, quân Trịnh tấn công quân của Triều Tín, tướng giữ thành Đồng Hới, được thắng lợi. Trịnh còn cho tập trung một ngàn chiến thuyền ở cửa sông Gianh và sông Nhật Lệ. Quân thủy bộ có thể hoạt động cùng nhịp. Chiến cuộc xem chừng gay go.
Chúa Hiền thấy lực lượng quân Bắc quá hùng hậu hợp các quan tỏ ý lo ngại bàn nên đánh hay nên giữ. Toàn thể đều đề nghị cố thủ để khai thác lối "Tiêu hao chiến".
Ngày 23 tháng 9 năm Ất Vị hai quân thủy lục của Nguyễn lên đường để lại hai đạo thủy quân phòng bị hậu tuyến và cửa Thuận An lấy dân quân năm quận miền Nam Quảng Bình gồm tỉnh Quảng Trị và Thừa Tiên lập các đồn theo dọc bờ biển từ Đồng Hới vào tới phía Đông kinh thành Thuận Hóa.
Thành Đồng Hới bị nhiều lần nao núng, suýt lọt vào tay quân Trịnh.

72 Hiệp là con thứ tư của Chúa Hiền.
73 Tướng Thần Lại là Ty coi việc lương thuế như nha Quân Nhu ngày nay.

Hữu Dật phải đến tiếp cứu còn Hiệp tự đem quân đến trợ lực cho Sa Phụ.
Chiến sự đang khai diễn gắt gao thì chúa Trịnh Tạc ra lệnh kéo quân về, vì đánh lũy Trấn Ninh mấy tháng trời không chuyển, thời tiết lại quá xấu (mưa lạnh buốt vì có gió Đông Bắc). Trịnh Căn bị bệnh nặng ở Linh Giang. Lê Gia Tông lui về Phù Lộ, thuộc tả ngạn sông Gianh. Theo Đại Nam Liệt Truyện, Đại Nam Thực Lục chứng minh quả quân Nguyễn bị đánh lùi nên vua Lê, chúa Trịnh mới vào được tới miền Nam Bố Chính.
Trước khi lên đường về Thăng Long, chúa để Lê Thời Hiến ở lại làm Trấn Thủ ở Nghệ An, Lê Sĩ Triệt làm Đô Đốc Hà Trung giữ các căn cứ trọng yếu vùng sông Gianh.
Từ đó sông Gianh là đường phân giới cho hai miền Nam Bắc, chiến sự ngừng lại cho đến năm Bính Ngọ (1786) tức là năm thứ 47 đời Lê Cảnh Hưng nhà Tây Sơn dấy nghiệp thì Nguyễn vong mà Trịnh cũng mạt.

Phần 3 - Chương 15
Sự Nghiệp Của Hai Họ Trịnh Nguyễn Trên Lịch Sử Việt Nam

A - Các Hoạt Động Của Họ Trịnh
1- Vấn Đề Họ Mạc Và Việc Giao Thiệp Với Nhà Thanh
Cuộc đại chiến năm Nhâm Tỵ (1672) chấm dứt thì từ đó đến 1775 tức là vừa đúng một thế kỷ, nhân dân Việt Nam được thoát khỏi sự khủng khiếp gây nên bởi khói lửa mịt mù, xương rơi máu đổ dồn dập liền trong 45 năm.
Người dân Việt Nam ngày nay cũng nên tìm hiểu hai họ Trịnh Nguyễn đã làm những gì khác ngoài việc tranh giành ngai vàng, nghiệp chúa, khiến nhân dân phải điêu đứng, lầm than qua bao nhiêu thế hệ. Tội của họ đối với quốc dân là điều rõ rệt không phải nói nhiều, tuy nhiên ta cũng phải nhận họ cũng có làm được ít nhiều công chuyện có lợi ích để ta có thể giảm bớt một phần nào những lỗi lầm và trách nhiệm.
Vấn đề dẹp họ Mạc có phải là một sự nghiệp của họ Trịnh chăng?
Theo quan niệm của các sử thần cận kim, người ta cho rằng có công đánh dẹp con cháu nhà Mạc. Chúng tôi muốn hỏi rằng Trịnh đánh Mạc cho ai? Cho nhà Lê chăng? Cho nhân dân chăng? Thiết tưởng không! Theo chúng tôi việc đánh Mạc của Trịnh chỉ là chuyện hai thú dữ đứng trước một miếng mồi, không chia xẻ được thì chỉ còn nước một kẻ sống một kẻ phải chết nghĩa là cái thuyết phù Lê hay vì dân của họ Trịnh cũng như dân của họ Nguyễn chỉ là ngụy ngôn, là thuyết che đậy manh tâm cá nhân mà thôi.
Tóm lại, dẹp Mạc trước quan điểm của chúng tôi chỉ là sự nghiệp riêng của dòng họ Trịnh. Việc này xét ra chẳng lợi gì cho nhân dân hết. Chúng ta còn có thể nghĩ rằng nếu Mạc không bị Trịnh hất nhào sớm, ngay từ khi Mạc Đăng Dung vừa lên ngôi đã tiếp tục mọi chính sách cai trị, kinh tế, khoa cử, trọng dụng nhân tài như các tiền triều, ai dám bảo Mạc không thể là một triều đại đứng đắn, há phải than tiếc một cách buồn cười mấy ông hoàng đế ấu trĩ, hoặc hôn ám, vô đạo, như Tương Dực, Uy Mục, hoặc bất tài, bất lực như Chiêu Tông để cho mấy ông đại thần đua nhau lợi dụng. Chúng ta không nên vì thế coi việc tiêu diệt nhà Mạc là một sự nghiệp của Trịnh đối với dân tộc ta để kỷ công vào lịch sử...
Nhà Minh cáo chung vào năm 1663, nhà Thanh lên thay, cho sứ sang ta dụ triều cống. Chúa Trịnh Tạc cho sứ đem cống vật sang Yên Kinh xin mở cuộc giao hiếu và câu phong cho vua Lê theo tục lệ cũ. Bốn năm sau vua Khang Hy cho sứ sang phong cho vua Lê làm An Nam Quốc Vương.
Cuộc giao hiếu này xét ra nên có, vì mềm dẻo với kẻ mạnh để được yên thân vẫn là một chính sách khôn ngoan thuộc đường lối cổ truyền của các nhà chính trị xưa kia của chúng ta. Cũng do chỗ biết kết thân này nên sau tuy có đôi khi xảy ra việc giặc cướp ở các vùng biên giới hoặc có chuyện tranh chấp đất đai ở các điểm lân cận của hai nước, nhưng đôi bên vẫn nhường nhịn lẫn nhau.

2- Luật Pháp
Luật pháp đời bây giờ vẫn theo đời Hồng Đức. Mọi tội khinh, trọng đều qui định vào 5 thứ: suy, trượng, đồ, lưu, tử, từ nhẹ nhất đến nặng nhất.
Chỉ khác là xưa thì có thể lấy tiền chuộc tội, nhưng đến đời Trịnh Tạc đặc ân này của triều đình bị chấm dứt nghĩa là phạm tội thì phải chịu hình, trừ riêng những ai thuộc các trường hợp bát nghị. Ngoài ra cũng có sửa đổi về tội lưu (cũng thuộc tội trọng) là tội phải chặt hai bàn tay và đày đi xa. Đời chúa Trịnh Cương và vua Dụ Tông tội này cải sang chung thân. Trường hợp nhẹ hơn là phải chặt một bàn tay và đày ra ngoại châu (cũng như biệt xứ ngày nay) thì ấn định đổi làm tội đồ 12 năm. Ai phải tội chặt hai ngón tay trỏ và phải lưu cận châu nay đổi làm tội đồ 6 năm, những kẻ phạm tội cướp không thuộc vào những lệ này.
Đời chúa Trịnh Tạc phép xử kiện cũng phân loại để định đoạt nặng nhẹ:
a) Mưu, sát, đạo, kiếp thuộc về đại tụng (tức là đại hình).
b) Hộ, hôn, ẩu, đả thuộc tiểu tụng (tức là tiểu hình).
Có điều đặc biệt về vấn đề xử kiện và đi kiện là quan án xử không minh phải phạt tiền. Đi kiện được xử công bằng mà còn đi kiện nữa thì cũng phải phạt tiền.
Để xét xử các vụ hộ, hôn, điền thổ, trộm cướp nhà vua cũng đặt thứ tự như án mạng thì cấp Phủ. Huyện xét trước rồi đệ lên Thừa ty và Hiến ty họp nhau duyệt lại.
Việc trộm cướp ở kinh thành thì có quan Đề lĩnh xử (ở các trấn thì quan Trấn thủ xét. Trấn thủ ngày xưa là chức võ quan kiêm cả việc hành chính. Chế độ trấn thủ áp dụng vào thời chưa có thái bình thật sự).
Xin nhắc rằng việc kiện dầu nhỏ, dầu to mà các Huyện, Phủ, Thừa ty, Trấn ty xét không xong, người dân còn có thể khiếu lên Hiến ty, Giám sát, Đề lĩnh và Ngự sử đài, tới ngự sử đài là tới triều đình tức là đến nhà vua. Ngự sử đài có nhiệm vụ đưa ra Chính đường (như hội đồng nội các của chính phủ đời nay) vào tháng chạp mỗi năm bản phúc trình về các vụ tố tụng đã duyệt lại các cấp dưới trở lên, đề nghị cải cách, tu bổ luật pháp và thủ tục tư pháp và luật lệ kháng án (việc này do sáng kiến của Trịnh Cương).
Thời hạn xử án cũng được ấn định như sau: việc án mạng thì bốn tháng phải xử xong, trộm cướp, điền thổ thì 3 tháng; hôn nhân, ấu đả thì 2 tháng, không được kéo dài bất kể lẽ nào vì sợ mất thì giờ và công ăn việc làm của dân.
Sử còn chép rằng triều đình có lệnh cho các cấp hành chính tìm cách giảm bớt những việc tố tụng xét ra vì ảnh hưởng sâu xa và lâu dài của thời ly loạn, dân tình, dân phong bê bối quá do đó mà xẩy ra nhiều vụ tranh chấp, bất hòa. Kiện lắm dân cũng coi thường mà quan cũng phát ngán, vậy ý của chính quyền là lo ngăn ngừa bớt việc kiện cáo (chỉ dụ ban hành từ năm 1718).

3- Binh Chế
Buổi đầu đời Trung Hưng là lúc họ Trịnh khởi đánh họ Mạc, số quân vào lúc thịnh nhất    56.000  người  bởi  binh    chỉ    thể  tuyển  mộ    riêng  hai  tỉnh  Thanh  Nghệ. Nhưng sau khi đuổi được họ Mạc ra khỏi miền Trung châu Bắc Việt (1592) thì binh lực của Trịnh mới được nhiều hơn vì đồng bằng miền Bắc vừa là kho người vừa là kho của. Binh chia ra làm hai hạng: Ưu binh và Nhất binh. Ưu binh là lính mộ ở ba phủ thuộc tỉnh Thanh Hóa và bốn phủ thộc tỉnh Nghệ An (Đàng trong). Nhất binh là lính tuyển ở bốn trấn ngoài Bắc (Đàng ngoài): Sơn Nam, Kinh Bắc (Bắc Ninh), Hải Dương, Sơn Tây cứ 5 xuất đinh bắt một người sung quân ngũ. Lính Ưu binh đóng ở Kinh đô, được nhiều đặc ân, đặc quyền như được cấp công điền và cả chức sắc.
Lính Nhất binh phục vụ tại các trấn, phục dịch các quan, có việc loạn ly và chiến tranh mới được gọi đến, còn bình nhật thì về làm ruộng. Đến đời chúa Trịnh Doanh có nhiều giặc dã ở nhiều nơi nên phải gọi lính tứ trấn, động viên cả thảy được 115.000 hợp thành các đơn vị lớn nhỏ như sau:
1) Đội gồm có : 20 người.
2) Cơ gồm 20 đội có: 400 người.
3) Vệ gồm từ 5 đến 6 cơ : 2000 hay 2400 người. (Bên Vệ có Tư là đơn vị có: 100 người).
Đến Trịnh Cương (1709-1729) là lúc Nam Bắc đã đình chiến khá lâu, việc tuyển mộ và bao dưỡng quân đội cũng cáo chung. Xưa kia triều đình cho phép các quan lớn nhỏ tùy sức chiêu mộ trai tráng làm lính. Ai mộ được nhiều thì được cấp nhiều ruộng đất để có lợi tức dùng vào việc nuôi quân cung cấp cho chiến tranh, nay thì không còn nữa.

4- Quan Chế
Về việc này họ Trịnh cũng thay đổi một phần vào chế độ quan lại đã do đời Hồng Đức lập ra. Xưa kia phụ trách về chính trị cấp tối cao trong triều đình là hai quan Tham tụng và Bồi tụng, quyền hành như chức Tể Tướng.
Dưới có lục bộ Thượng thư:
1) Đứng đầu Lục bộ là Lại bộ, cơ quan tuyển dụng, thuyên chuyển, thăng thưởng, trừng phạt các nhân viên trong bộ máy Nhà nước.
2) Hộ bộ coi về điền thổ, thuế khóa, chi thu của Nhà nước.
3) Lễ bộ coi việc học hành, thi cử, lễ nghi, tế tự, định các phẩm phục, phù ấn, việc làm chương, biểu, săp đặt các sứ bộ ngoại giao, âm nhạc, xướng ca.
4) Binh bộ coi các võ quan, binh sĩ, động viên, quốc phòng như bộ Quân lực hay bộ Quốc phòng ngày nay.
5) Hình bộ tức là bộ Tư pháp coi việc án từ, tu chỉnh luật pháp.
6) Công bộ lo xây đắp đường xá, cầu cống, thành trì, dinh thự, đào sông, lấp ngòi, khai thác rừng núi.
Năm  Mậu  Tuất  (1718)  đời  vua  dụ  Tông,  để  tiện  việc nắm hết quyền  hành,  Trịnh Cương lập phủ Liêu là một cái triều đình thứ hai để tự do quyết định mọi việc lớn nhỏ. Từ đó phủ Liêu át hẳn triều đình do sự hoạt động của lục Phiên (Phiên ở đây thay Bộ) còn khi nào tiếp sứ Tàu hay có quân quốc trọng sự chúa Trịnh mới đem các quan đến họp với vua Lê.
Về võ bị trước kia có ngũ phủ: Tung quân phủ, Đông quân phủ, Nam quân phủ, Tây quân phủ, Bắc quân phủ. Mỗi phủ đặt đưới quyền một Đô đốc.
Mỗi phủ đây có ý nghĩa như một quân khu ngày nay. Tỉ dụ: dưới đời vua Lê Thánh Tông, Thanh Hóa, Nghệ An thuộc về Trung quân; Hải Dương, An Bang thuộc Đông quân; Sơn Nam, Thuận Hóa, Quảng Nam thuộc Nam quân; Tam Giang, Hưng Hóa thuộc về tây quân; Kinh Bắc, Lạng Sơn thuộc về Bắc quân.
Năm quân phủ này được đặt đưới quyền hai cơ quan cao như bộ Tổng tư lệnh đời bây giờ tức là Chưởng phủ sự và Thự phủ sự. Hai cơ quan này được đặt ra từ vua Huyền Tông và chúa Tây Vương Trịnh Tạc (1657 - 1682).
Giới quan lại xưa nay chỉ có hai ban: văn và võ, nhưng để kiện toàn chánh sách chuyên chính, họ Trịnh lập thêm một ban nữa là Giám ban. Ban này có vai trò như một nha Tổng giám đốc hành chánh và chánh trị mà nhân viên là Nội giám tay chân của chúa.
Quan lại cứ sau mấy năm lại khảo hạch một lần, những kẻ bất tài bị loại, những kẻ sút kém năng lực phải giáng.
Hưu bổng của quan lại được định như sau: quan nhất phẩm mỗi năm được lĩnh 400 quan tiền, dân lộc của bốn năm xã; quan nhị phẩm được 300 hoặc 250 quan tiền của hai ba xã; quan tam phẩm được từ 150 đến 250 quan của một hai xã; quan tứ phẩm được 150 quan của một xã; quan ngũ phẩm được 100 của một xã.
Để tránh những vụ lạm dụng, áp bức dân chúng, triều đình cấm những quan lại lập trang trại ở địa phận đang thuộc quyền cai trị của mình.
Bộ máy cai trị đời Trung Hưng cho tới An Đô Vương Trịnh Cương đáng được coi là lành mạnh nên các sử gia Pháp khen tốt đẹp vào bậc nhất.

5- Chế Độ Thuế Khóa
Muốn việc thuế khóa được minh bạch, chúa Trịnh Cương đã cải cách nhiều. Tỉ dụ, chúa sai các quan Phủ, Huyện, quan Thừa sát và Hiến sát định phép đo đạc và làm sổ thuế điền thổ khiến không còn ai ẩn nặc để trốn thuế hay bớt thuế. Chúa lại lập cả ngạch thuế mới đánh về rừng mỏ, sửa sang các hải cảng ở hai tỉnh Thanh, Nghệ cho thuyền buôn ngoại quốc ra vào buôn bán và lấy thuế thương chính.
Điền thổ chia làm ba hạng: hạng nhất mỗi mẫu đóng đồng niên 1 quan, hạng nhì 8 tiền, hạng ba 6 tiền. Số thâu hoạch nhờ phép mới này mà tăng lên rất nhiều. Về thuế đinh, trước cứ 6 năm sổ hộ tịch phải làm lại một lần. Đồng niên mỗi xuất đinh tùy giai cấp xã hội và tình trạng tài sản phải đóng một quan tám gọi là thuế thân. Thời ông Phạm Công Trứ làm quan Tham Tụng (năm Kỷ Dậu - 1669 - đời vua Huyền Tông) xin đặt ra phép bình lệ nghĩa là mỗi làng chỉ phải làm sổ đinh nhất định một lần, rồi mỗi làng cứ chiếu theo số xuất đinh đã ghi trong sổ mà nộp thuế cho quan. Nếu làng nào đẻ thêm hay có người chết đi số tiền nộp về thuế đã ấn định một lần thì cứ theo thế mà nộp mãi, nghĩa là không tăng không giảm nữa. Với phép này ta thấy Tham Tụng họ Phạm muốn giản dị hóa vấn đề thuế đinh cho rằng khó tin và khó kiểm soát số sinh và số tử hàng năm, tốt hơn hết Nhà nước khoán trắng cho thôn xã tùy tiện bổ bán với các đinh miễn sao đủ số thuế nhất định hàng năm thì thôi74.
Đến năm Quí Tị (1713) đời vua Dụ Tông sử chép: số dân nội tịch phải đóng thuế cho triều đình cả thảy chỉ được 206.315 xuất (đinh). Có lẽ sử chép sai việc này!
Xin nhắc rằng giữa thế kỷ 15 đời Lê Thái Tổ, ông Nguyễn Trãi được lệnh kiểm tra nhân khẩu bấy giờ đã biết tổng số nhân dân có tới khoảng 7 triệu người (dĩ nhiên cả nam, phụ, lão ấu).
Ngoài hai thứ thuế chính trên đây, còn một thứ thuế nữa là tiền sưu dịch, thứ tiền để Nhà nước chi dụng vào việc xây dựng cầu cống, đường xá, tế tự, giữ gìn đê điều v.v... các quan cũng liệu bổ bán cho các xuất đinh.
Mười năm sau tức là năm Quí Mão (1723) Tham Tụng Nguyễn Công Hãng thay đổi phép thuế đinh điền theo kiểu nhà Đường bên Tàu như sau:
a) Phép tô (thuế điền thổ) cứ mỗi mẫu công điền phải nộp 8 tiền thuế, ruộng cấy hai mùa thì chia ba, quan lấy một phần thóc.
Đất bãi của quan thì mỗi mẫu phải nộp 1 quan 2 tiền; Ruộng dâu mỗi mẫu nộp một nửa bằng tơ, chỗ nào không trồng dâu thì nộp bằng tiền.
Ruộng tư điền xưa không phải chịu thuế (!) đến đầu thế kỷ 18 mới phải nộp: ruộng hai mùa mỗi mẫu 3 tiền. Ruộng một mùa chịu 2 tiền.
b) Phép dung (thuế thân) Mỗi xuất đinh đồng niên đóng một quan 2 tiền. Sinh đồ (học trò bận khoa cử), lão hạng (từ 50 đến 60 tuổi) và hoàng đinh (từ 17 đến 19 tuổi) chỉ phải đóng có một nửa.
c) Phép điệu (tiền sưu dịch) Mỗi xuất đinh phải đóng nhất định 6 tháng một kỳ vào mùa Hạ và mùa Đông, mỗi kỳ 6 tiền không như trước làm đến đâu gọi dân đóng góp đến đấy, có điều phiền nhiễu lôi thôi hơn nhiều.

74 Sau này trong thời Pháp thuộc việc ruộng đất được đo đạc cẩn thận vậy mà ở nhiều nơi chính phủ thuộc địa cũng còn thi hành lối "khoán trắng" này.

6- Các Thứ Thuế Linh Tinh
1) Thuế tuần ty - thuế này đánh vào các thuyền buôn đi lại trên các dòng sông. Bấy giờ có tất cả 23 sở tuần ty trong nước. Tre, gỗ nứa, lá gồi thì cứ đánh lấy 1/10, hàng tạp hóa thì đánh lấy 1/40.
2) Thuế  muối  -  Năm  Tân  Sửu  (1721)  Trịnh  Cương  đặt  quan  Giám  Đương  (quan Thương Chính ngày nay) để đánh thuế muối, cứ 10 phần thì phải nộp 2 phần vào thuế. Người buôn muối phải có thẻ của Giám Đương mới được mua muối mà phải mua của quan trước sau mới được mua của người làm muối. Vì muối phải chịu thuế nên giá cao tới một tiền một đấu muối, dân sự ta thán rất nhiều. Năm Nhâm Tí (1713) chúa Trịnh Giang bỏ thứ thuế nầy.
Đến năm Bính Thìn (1746) chúa Trịnh Doanh lại lập việc đánh thuế muối chia ra 50 mẫu ruộng muối thì phải làm một bếp, mỗi bếp phải nộp cho nhà nước 400 hộc muối làm thuế (mỗi hộc muối bấy giờ giá là ba tiền, mỗi tiền là 60 đồng kẽm).
3) Thuế thổ sản - Năm Giáp Thìn (1724) đưới đời Trịnh Cương các thứ thổ sản như vàng, bạc, đồng, kẽm, sơn, than, gỗ, diêm, tiêu, tre, gỗ, tơ lụa, quế, cá, mắm, rượu, mật, dầu, giấy, chiếu, vải v.v... phải chịu thuế.
Về đời Trịnh Giang, giặc giã nổi lên như ong, nhà nước phải chi tiêu nhiều mà vấn đề sổ sách kế toán cho tới bấy giờ chưa được thiết lập nên không biết được tình trạng công khố, chúa mới cho các Hộ phiên lập sổ sách chi thu đồng niên để liệu trước vấn đề ngân sách hàng năm.
Chúa Trịnh Giang ấn định thể lệ khai mỏ, giảm bớt thuế cho người Việt nhưng đánh thuế nặng vào Huê kiều. Dưới đời Lê Thuần Tông, chúa lại khuyến khích việc in các sách Tứ Thư, Ngũ Kinh, sử ký và các loại sách học do nơi người Việt để khỏi mua của Tàu và chúa còn cấm không cho Tàu nhập cảng sách vào đất Việt nữa. Riêng về điểm này chúa Trịnh Giang được sử gia Pháp rất ngợi khen. Vấn đề khai mỏ vào thời chúa Trịnh cũng có nhiều điều phức tạp đối với người Tàu. Trước chúa Trịnh Giang, chúa Trịnh Cương đã phải ấn định số người Tàu sang khai mỏ ở nước ta chỗ đông nhất chỉ được tới 300 người, chỗ vừa 200 người, chỗ ít là 100 bởi để cho họ tập trung đông quá rất khó giữ gìn an ninh, trật tự. Vậy mà về sau công nhân Tàu có chỗ đông tới hàng vạn người hay sanh sự đánh nhau và quấy nhiễu dân chúng làm triều đình có phen phải huy động quân đội đánh dẹp như trừ giặc vậy75. Xin lưu ý rằng: nhân công khai mỏ phần nhiều là những người Nùng, Thổ sinh quán ở các vùng biên giới Hoa Việt (giáp Quảng Đông và Quảng Tây) tính tình ngang ngược và thường là những thổ phỉ nên phải áp dụng biện pháp cứng rắn trên đây.
Sau này chúa Trịnh Giang phải sửa đổi và đưa ra thêm nhiều điều lệ mới về vấn đề khai mỏ của người Tàu lúc bấy giờ vẫn chưa ổn định về nhiều phương diện. Sử còn

75 Tại Thái Nguyên hai họ Trương, Cát người Tân quê ở Trào Châu, chuyên nghề khai mỏ đúc quặng đã có lần tụ tập được tới vạn người để hưởng ứng với quân Nghĩa Dũng Điển Châu của nhà Thanh sau này theo Tôn Sĩ Nghị sang xâm chiếm nước ta.

chép rằng trong việc khai mỏ người Tàu thu 10 phần ta không được một, hẳn họ đã gian lận, ta không có chuyên viên để kiểm soát chăng?
Còn mỏ của chúng ta thì có khá nhiều ở các tỉnh Hưng Hóa, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Thái Nguyên. Tại các nơi này có vàng, bạc, kẽm, đồng v.v... nhưng phương pháp khai mỏ của người Tàu bấy giờ cũng chưa được chu đáo lắm.

7- Việc Đúc Tiền
Đến đời Lê Trung Hưng người ta còn tiêu tiền đúc của đời Hồng Đức. Đời Trung Hưng nối tiếp việc này cho các trấn tự lập sở đúc tiền lấy nên nhiều việc lạm dụng đã xảy ra.
Năm Quí Dậu (1753), chúa Trịnh Doanh muốn chấm dứt tình trạng này đã cho bỏ các sở đúc tiền ở tứ trấn, chỉ giữ lại hai sở ở gần kinh thành.
Năm Bính Thân (1776) đời vua Lê Hiển Tông, Trịnh chiếm được Thuận Hóa lại mở ở đây một lò đúc tiền, đúc thêm ba vạn quan tiền Cảnh Hưng nữa.
Ta còn thấy đời bấy giờ đúc cả bạc lạng nữa. Mỗi lạng trị giá 10 đồng, mỗi đồng ăn hai tiền. Bạc ấy chặt ra tiêu cũng được.

8- Sự Đo Lường
Cho tới năm Giáp Thìn (1664) việc đo lường ở nước ta vẫn cứ 6 hạp là một thăng, có chỗ gọi là thưng. Thưng có lẽ là đồ đo lường lớn nhất để đong ngô, khoai, đậu, đỗ, và nhỏ nhất là đấu. Đấu cũng có đấu lớn đấu nhỏ nữa cho tới gần đây ở các vùng quê miền Bắc vẫn dùng.
Chúng tôi ngờ thăng là đồ đo lường của Tàu mang sang từ lâu chớ không phải của ta có từ trước. Theo Việt Nam Sử Lược trang 314, ông Phạm Công Trứ định lại, lấy một cái ống gọi là Hoàng chung quản làm chừng. Ống này đựng được 1.200 hột thóc đen gọi là thược, rồi cứ 10 thược là một hạp, 10 hạp làm một thăng, 10 thăng làm một đấu, 10 đấu làm một hộc76.
Theo Hoa Bằng tác giả Quang Trung Nguyễn Huệ, Anh Hùng Dân Tộc thì thưng là đơn vị đong lường ngày xưa: cứ 10 hợp (hạp) là một thăng (thưng), một thưng bằng 316 tấc khối tức là 10.354.688 công thăng ngày nay.

9- Học Chính và Khoa Cử
Về việc học vào thế kỷ XVII các triều đình nước ta vẫn không có gì thay đổi, khoa cử cũng vậy. Nho học vẫn được tôn sùng, duy việc học hành, khoa cử bị gián đoạn ít nhiều vì nội tình rối ren của quốc gia từ thượng bán thế kỷ thứ 16. Khi nhà Mạc còn thịnh

76 Đời nhà Hồ tư điền phải đóng 5 thăng thóc; trước đó nhà Trần chỉ thu 3 thăng, thăng hay thưng cùng theo một nghĩa. Xin coi Quang Trung Nguyễn Huệ, Anh Hùng Dân Tộc trang 24 -- những dòng cuối cùng của phần chú thích.

(1527) Mạc vẫn mở khoa cử để tuyển dụng nhân tài ở Thăng Long, còn nhà Lê bấy giờ còn thất thời chỉ đủ thì giờ lo việc binh nhung mà thôi.
Tới năm Canh Thìn (1580), nhà Lê mới mở được khoa thi ở Tây Đô. Cách thức thi cử còn sơ lược và cứ ba năm mới có một kỳ thi Hội. Ngót một thế kỷ sau (1664) đời vua Huyền Tông, chúa Trịnh Tạc mới qui định lại thể thức thi Hội. Còn thể lệ thi Hương tới năm Mậu Ngọ (1678) cũng có chỉnh đốn lại. Từ đó 3 năm có một kỳ thi Hương. Trường thi đặt tại Thanh Hóa, Sơn Nam (Nam Định) Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải Dương, Thái Nguyên, Hưng Hóa, Tuyên Quang, Lạng Sơn và Yên Quảng.
Sử chép rằng: tuy vậy thi Hương còn "hồ đồ" lắm, không nghiêm như dưới đời Hồng Đức. Đời Dụ Tông niên hiệu Bảo Thái, có lệ nộp tiền Minh Kinh là tiền kinh phí cho các quan trường. Năm Canh Ngọ (1750) đời Cảnh Hưng, nhà nước thiếu tiền, ai nộp được ba quan gọi là tiền thông kinh thì được thi, khỏi phải khảo hạch (!) Sự kiện này đã gây nhiều vụ lộn xộn làm mất uy tín của khoa cử do đó người làm ruộng, kẻ đi buôn, học hành lỗ mỗ cũng nạp quyển để thi. Vào đến trường học chen chúc nhau, có kẻ bỏ mạng, nhiều người còn làm những trò gian lận như thuê người gà bài, thí sinh với quan trường thông gian, khiến người ta có cảm tưởng là đi học chợ chớ không phải là đi thi nữa. Chúa Trịnh Cương cũng mở cả trường dạy võ, đặt quan giáp thụ trông coi. Học sinh thường là con cháu các quan đến học võ kinh, chiến lược, cứ một tháng một lần tiểu tập, ba tháng một lần đại tập. Ngoài ra trường học vào cấp sơ đẳng thì vẫn do nhân dân tự động mở lấy khắp thành thị và thôn quê do tư nhân, các ông đồ xuất thân là các vị khoa mục hay các nhà nho số phận hẩm hiu với cử nghiệp, các quan trí sĩ hay các người không muốn ra làm quan với bản triều. Về phần Nhà nước cũng có mở trường cho các thanh niên ưu tú đến học như Quốc Tử Giám. Giảng dạy ở đây là quan Tế Tửu hay Tư Nghiệp, mỗi lần tiểu tập, ba tháng một lần đại tập để bình luận văn thơ, thi phú và khảo hạch năng lực của các nho sinh. Mùa Xuân, mùa Thu thì tập vũ nghệ, (đánh côn, đánh quyền, bắn cung, cưỡi ngựa, múa khiên, múa gươm, giáo, chạy bộ v.v...). Mùa đông, mùa Hạ thì tập võ kinh (phần lý thuyết). Ba năm Nhà nước mở một khoa thi võ. Võ sinh phải biểu diễn các môn kể trên rồi vào vấn đáp là để duyệt khảo phần lý thuyết.
Năm  Canh  Thân  (1740)  chúa  Trịnh  Doanh  cho  lập    miếu  thờ    Thành  Vương Khương Thái Công, Tôn Vũ Tử v.v... Đàng sau có miếu thờ Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn và có cả miếu thờ Quan Vân Trường.
Xuân Thu đôi lần triều đình cử các quan ra tế lễ.

10- Việc Chép Sử
Cho tới đời Lê Trung Hưng chúng ta mới có bộ Đại Việt Sử Ký gồm các bộ chánh sử làm trong hai triều Trần Lê do ông Lê Văn Hưu biên soạn, bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư do ông Ngô Sĩ Liên làm ra thế cho bộ sử trên mất đi, bộ Đại Việt Sử Ký Tạc Biên của Phan Phù Tiên phụng mệnh vua Lê Nhân Tông chép tiếp vào bộ Đại Việt Sử Ký nay cũng không còn.
Đến đời vua Lê Tương Dực, ông Vũ Quỳnh được lệnh soạn ra cuốn Đại Việt Thông Giám Thông Khảo xong vào năm 1511 cũng như bộ Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên chép từ đời Hồng Bàng đến đầu năm Đại Định của Lê Thái Tổ (1428).
Năm 1665 ông Phạm Công Trứ soạn bộ Đại Việt Sử Ký Bản Kỷ Tục Biên là một công trình không riêng của ông (phần sáng tác của ông Phạm Công Trứ từ Lê Trang Tông đến hết đời Lê Thần Tông (1662)) sau chúa Trịnh Tạc sai ông và nhiều người khác sửa và xét lại.
Đến năm Bính Thìn (1676) vua Hy Tôn sai Hồ Sĩ Dương xét lại bộ quốc sử, chẳng bao lâu họ Hồ mất đến Lê Hy và Nguyễn Quí Đức chép nối từ đời vua Huyền Tông đến vua Gia Tông gọi là Quốc Sử Thực Lục.
Năm Ất Vị (1775) đời Cảnh Hưng, chúa Trịnh Sâm sai các ông Nguyễn Hoàn, Lê Quí Đôn, Ngô Thời Sĩ, Nguyễn Du chép thêm từ Hy Tông đến Ý Tông gọi là Quốc Sử Tân Biên.

Phần 3 - Chương 16
Những Vụ Phiến Loạn Dưới Đời Chúa Trịnh

- Loạn dân quê miền Bắc
- Loạn quí tộc nhà Hậu Lê

1- Từ Vụ Loạn Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ Đến Vụ Hữu Cầu
Từ 1527 đến 1638, ta không thấy sử chép có vụ phiến loạn nào đã xảy ra từ Mạc khởi nghiệp đến đời vua Lê Thần Tông.
Nhưng đến đời chúa Uy Nam Vương Trịnh Giang thì nhiều việc giặc dã liên tiếp bùng nổ ở nhiều nơi trong nước. Lý do là Trịnh Giang thất chánh đã giết vua lại còn tàn sát các đại thần như Nguyễn Công Hãng, Lê Anh Tuấn v.v... và ăn chơi xa xỉ, dâm đãng khiến công quỹ thiếu hụt, sưu thuế nặng nề.
Ở các trấn bấy giờ có Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ nổi lên tại làng Ninh Xá, huyện Đường An (Hải Dương); Hoàng Công Chất, Võ Đình Dung ở đất Sơn Nam; ở Sơn Tây có Nguyễn Danh Phương, Nguyễn Diên, Tế, Bồng; tại vùng duyên hải (Bắc Việt) có Nguyễn Hữu Cầu, và ở Thanh Nghệ có sự hoạt động của Lê Duy Mật (ở Thăng Long chạy vào).
Đây là những tổ chức phiến loạn lớn, còn các đám cướp hay giặc cỏ thì nhiều không kể xiết. Các tổ chức phiến loạn lớn đều tuyên bố "Phù Lê diệt Trịnh". Toán đông có tới hàng vạn người theo, toán nhỏ cũng tới hàng ngàn đi cướp phá thành thị, thôn quê, quan quân địa phương dẹp không nổi77.
Tình thế trong nước rối ren như vậy mà Trịnh Giang vẫn cứ dâm dật vô độ, đào hầm làm nhà ở đưới đất để tránh sấm sét, chính sự giao cho các hoạn quan là bọn Hoàng Công Thụ tha hồ làm các điều xằng bậy, nhân dân ta thán khôn xiết.
Thấy thế nguy, một số đại thần của phủ Liêu là Nguyễn Quí Cảnh, Nguyễn Công Thái, Võ Công Tế họp nhau gây cuộc đảo chính, truất được Trịnh Giang rồi tôn em chúa là Trịnh Doanh lên thay. Sau khi nội tình phủ Liêu đã ổn định, một số tướng lãnh có tài trị loạn được cử đi đánh dẹp. Đó là các ông Hoàng Nghĩa Bá, Hoàng Ngũ Phúc, Phạm

77 Có điều đáng chú ý là dân nổi loạn đời Lê-Mạc đi đánh phá các nơi chỉ có ít giáo, mác, gậy gộc và vác cả cầy bừa đi chiến đấu. Giáo sư J. Chesneaus ví các vụ loạn này giống phong trào Vendée đã ghi trong lịch sử nước Pháp năm 1793.

Đình Trọng, Nguyễn Phan, Bùi Thế Đạt. Chúa Trịnh Doanh và Trịnh Sâm thân làm Tổng chỉ huy đoàn quân bình định đời bấy giờ. Thế quân phiến loạn đang lên rất mạnh.
Vụ khởi loạn xảy ra vào năm Kỷ Mùi (1739) tại Hải Dương sau lan tràn ra vùng Từ Sơn,  Nam  Sách    Hồng  Châu  (ba  tỉnh  Bắc  Ninh,  Hải  Dương,  Hưng  Yên),  lĩnh  tụ  là Nguyễn Cừ, Nguyễn Tuyển, Vũ Trác Oanh và Nguyễn Diên.
Cừ chiếm đất Đỗ Lâm thuộc Gia Phúc.
Tuyển giữ Phao Sơn thuộc Chí Linh (Hải Dương) cũng xây thành đắp lũy và liên lạc với nhau chống quân triều. Binh lính của họ có tới mấy vạn người, quan quân đánh không nổi, nhiều người bị bắt, bị giết.
Năm Canh Thân (1730) bọn Vũ Đình Dung, Đoàn Danh Chấn, Tú Cao ở làng Nhân Già thuộc trấn Sơn Nam, cũng ùa theo phong trào, hợp dân chúng giết được quan Đốc Lĩnh là Hoàng Kim Qua, thế lực rất mạnh.
Năm Tân Sửu (1741) lực lượng của bọn Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ yếu dần. Quan Thống Lĩnh Hải Dương là Hoàng Nghĩa Bá phá được đồn Phao Sơn. Tuyển bỏ chạy rồi chết. Vũ Trác Oánh biệt tích, còn Cừ chạy ngược lên Lạng Sơn được ít tháng lại quay xuống Đông Triều nhưng cạn lương thực phải rút vào Ngọa Vân sơn rồi bị quan Hiệp Đồng Phạm Đình Trọng bắt được đóng cũi đem về Kinh trị tội.
Nhưng kiệt hiệt nhất trong đám lĩnh tụ loạn quân đời bấy giờ có Nguyễn Hữu Cầu cũng người tỉnh Hải Dương trước có theo Nguyễn Cừ làm tùy tướng được mệnh danh là Quận He.
Cầu có sức khoẻ hơn người, lắm mưu cơ, đảm lược, xuất quỷ nhập thần. Nhiều khi bị bao vây nhiều vòng, chỉ một mình một ngựa Cầu phá nổi trùng vi. Binh đội tan rã, chỉ mấy hôm sau Cầu lại kêu gọi được hàng vạn người theo rất dễ dàng. Nguyên do Cầu không làm loạn vì mình nên cướp được thóc gạo, của cải bao nhiêu đem chia hết cho dân nghèo, nhờ vậy quân của Cầu đi đến đâu cũng được dân ủng hộ, quân lương muốn lấy bao nhiêu cũng có. Nói cho phải Cầu cũng thuộc loại thảo dã anh hùng, có hoài bão phù nguy cứu khổ như ai.
Đối thủ của Hữu Cầu là đám vua chúa mục nát, tham quan nhũng lại, các gian thương, các nhà trọc phú, các cường hào ác bá.
Khi chủ tướng Nguyễn Cừ bị bắt, Cầu mang dư đảng về Vân Đồn, giữ núi Đồ Sơn, một thời vô cùng oanh liệt, nổi tiếng là hùm thiêng vùng duyên hải.
Năm Quí Hợi (1743) Cầu giết được Thủy Đạo Đốc Binh là Trịnh Bảng, tự xưng là Đông Đạo Thống Quốc Bảo Dân, Đại Tướng Quân.
Với hai chữ "Bảo dân", Hữu Cầu đã nêu cao chính nghĩa của cuộc chiến đấu và thủ đoạn quỷ quyệt khôn lường của Hữu Cầu, đã từng làm binh tướng của Triều đình nhiều phen thất điên bất đảo, riêng có Phạm Đình Trọng mới đủ tài đối chọi với Cầu.
Được cử đi đánh Hữu Cầu trước tiên bấy giờ là Hoàng Ngũ Phúc, một đại tướng của chúa Trịnh. Quân triều vây quân phiến loạn ở núi Đồ Sơn. Hữu Cầu phá được chạy về Kinh Bắc (Bắc Ninh). Tại đây quan Trấn Thủ Trần Đình Cầm và quan Đốc Đồn Võ Phương Đề chống không nổi bỏ cả ấn tín thoát thân.
Kinh Bắc mất, Thị Cầu cũng bị hạ, tin này chấn động đến Thăng Long. Hoàng Ngũ Phúc và Trương Khuông quay binh trở lại thâu được Kinh Bắc nhưng thế quân của Hữu Cầu đang mạnh. Trương Khuông chống không nổi ở làng Ngọc Lâm (huyện Yên Dũng, tỉnh  Bắc  Giang),  thống  lĩnh  Đinh  Văn  Giai  cũng  bại    Xương  Giang  (cũng  thuộc Bắc Giang), nhờ vậy loạn quân lại trở về phong tỏa Thị Cầu. Chiến trường lần này là Xương Giang. Chúa Trịnh Doanh cử Phạm Đình Trọng đến hợp sức với Hoàng Ngũ Phúc. Hữu Cầu thua trận mất một tùy tướng là Thông và nhiều quân nhu, chiến mã. Đến năm Bính Dần (1749) ngôi sao của Hữu Cầu bắt đầu lu mờ nên Cầu cho người ngầm mang vàng về đút lót cho Đỗ Thế Giai và quan Nội giám là Nguyễn Phương Đĩnh để hàng. Chúa Trịnh Doanh bằng lòng phong cho Cầu làm Hướng Nghĩa Hầu, cử quan Thiêm Tri là Nguyễn Phi Sảng đem Dụ ra cho Phạm Đình Trọng bảo bãi binh.
Trọng với Cầu có cái thù không đội trời chung vì Cầu đã đào mả mẹ Trọng đổ xuống sông nên Trọng cương quyết theo đuổi Cầu đến cùng.
Trọng trả lời Nguyễn Phi Sảng: "Kẻ làm tướng ở ngoài biên mới hiểu sự thế của biên cương, mệnh vua có khi không thể theo được. Ông được lệnh vua thì cứ đi gọi giặc về hàng, còn tôi có phận sự đánh giặc, tôi cứ đánh".
Nói rồi Trọng cất quân đi ngay, hăng hái hơn bao giờ hết. Bọn Đỗ Thế Giai thấy Trọng không tuân lệnh chúa giận lắm nhân có việc Trọng cho người tuyển mộ tân binh ở các huyện Tứ Kỳ, Thanh Hóa. Vĩnh Lại và Thượng Hồng đặt làm 4 cơ, giao cho hai thủ hạ cai quản liền dèm pha với Chúa. Chúa không nghe vì tin sự trung thành của Trọng, nên gửi Trọng một bài thơ để Trọng yên lòng.
Thấy kế hoạch của mình không thành, Hữu Cầu đành tiếp tục chiến đấu từ miền Đông qua miền Nam. Một hôm Hữu Cầu bị đuổi đến Cẩm Giang (Hải Dương) đem quân lén về đánh úp Thăng Long nhân lúc bất ngờ.
Quân Cầu tới bến Bồ Đề thì trời hừng sáng. Trịnh Doanh đem quân ra bến Nam Tân chống thì quân của Phạm Đình Trọng cũng về kịp. Quân Cầu bị hai phía đánh dồn lại, thua chạy. Từ khi thất trận ở Bồ Đề, quân lực của Hữu Cầu suy giảm nhiều. Cầu phải kết hợp với đảng Hoàng Công Chất đi cướp phá vùng Thần Khê, Thanh Quan.
Phạm Đình Trọng và Hoàng Ngũ Phúc đuổi theo, Chất chạy vào Thanh Hóa, Cầu vào Nghệ An. Tại đây Cầu lại nhập với một lĩnh tụ khác là Diên ở Hương Lãm (huyện Nam Đường, nay là Nam Đàn) vẫn bị quan quân theo ráo riết đến Hoàng Mai thì Cầu hết thời (Hoàng Mai thuộc Thanh Hóa), bị bắt đóng giải về nộp cho chúa Trịnh (vào năm Cảnh Hưng thứ 12).

Vụ Loạn Nguyễn Danh Phương
Phương cũng xuất đầu lộ diện cùng thời Hữu Cầu nghĩa là vào năm 1740, bắt đầu vào làm đàn em của hai loạn tướng đời bấy giờ là Tế và Bổng ở Sơn Tây. Tế và Bổng không may bị Võ Tá Lý, lĩnh chức Chinh Tây đại tướng quân, bắt được ở huyện An Lạc thuộc phủ Vĩnh Tường (Vĩnh Yên).
Danh Phương mang dư đảng về Tam Đảo (tỉnh Vĩnh Yên) tổ chức lại hàng ngũ, trữ lương và tuyển mộ thêm người, mặt khác danh Phương cho người đến điều đình với các  quan  để  ra  hàng.  Trong  giai  đoạn  này  nhiều  tỉnh  Đông  Nam  đang  bị  rối  ren  vì những cuộc đánh phá của Nguyễn Hữu Cầu và Hoàng Công Chất nên triều đình tán thành ngay đề nghị của Danh Phương để được rảnh tay ở địa phương này. Nhưng thực ra, Danh Phương chỉ trá hàng để có thì giờ sửa soạn thêm quân lương mà thôi và để nghiên cứu thực lực của quan quân. Sau đó, Danh Phương cũng hoạt động chẳng kém gì Hữu Cầu và trở thành mối lo cho Triều đình tại vùng tam giác Vĩnh Yên, Sơn Tây, Việt Trì.
Năm Giáp Tí (1744), Phương có tới hơn một vạn quân, hạ đồn tại Việt Trì cướp phá Bạch Hạc là một huyện bên kia sông, chống nhau với Sơn Tây là Văn Đinh Ức. Danh Phương bị vây nhưng lại thoát được sang làng Thanh Linh, (huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Yên).
Địa phương này vừa có rừng núi vừa có đồng bằng, đủ thế tiến thoái và rất lợi về chiến lược, Danh Phương đóng đại bản doanh ở trên núi Ngọc Bội (giáp huyện Bình Xuyên và Tam Dương) lập thêm hai đồn, một ở Hương Canh gọi là Trung đồn, một ở Ức Ký (?) tự xưng là Thuận Thiên Khải Vận Đại Nhân.
Danh  Phương  dựng  cung  điện,  đặt  quan  chức,  đánh  thuế    lên  tới  tỉnh  Tuyên Quang, thanh thế một thời vang dậy khắp vùng Trung du đất Bắc luôn 10 năm ròng (Phương còn có một tục danh nữa là Quận Hẻo). Trước cái tầm quan trọng của vụ loạn này, chúa Trịnh Doanh phải thân mang đại quân đi đánh. Năm Canh Ngọ (1750), quân của chúa tiến theo đường Thái Nguyên phá được ngoại đồn của Phương (Ức Ký) rồi tấn công vào Trung đồn (Hương Canh). Loạn quân bắn như mưa để cản trở quân triều, Chúa Trịnh giận lắm, rút gươm trao cho Nguyễn Phan là một tướng chỉ huy bên cạnh: "Phải phá cho được đồn này nếu không sẽ chiếu theo quân luật trị tội".
Nguyễn Phan cổi chiến bào, xuống ngựa đi bộ lấy lời khảng khái khích động binh sĩ và xông vào trận. Binh sĩ cảm động ùa theo hết rất là hăng hái. Trận đánh trở nên vô cùng mãnh liệt, chẳng mấy lúc đồn Hương Canh bị hạ.
Danh Phương lui vào hậu tuyến giữ Ngọc Bội. Trịnh Doanh, và Nguyễn Phan bỏ quân tiến theo, thế quân triều mạnh như nước lũ, quân của Danh Phương chống không nổi, bỏ chạy. Danh Phương chạy đến núi Độc Tôn, làng Tĩnh Luyện, huyện Lập Thạch (Vĩnh Yên) thì bị bắt. Trịnh Doanh đem quân trở về Thăng Long, tới nửa đường (làng Xuân Hy, Huyện Kim Anh, Tỉnh Phúc Yên) gặp quân của Phạm Đình Trọng giải Hữu Cầu tới.
Chúa mở tiệc khao quân ở đây. Trước khi bị đưa về Kinh để chịu tử hình, Phương phải dâng rượu, Cầu phải thổi kèn cho yến tiệc của binh tướng triều đình thêm phần vui vẻ.
Thật là:
"Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn".

Vụ Loạn Hoàng Công Chất
Họ Hoàng nổi lên cùng một thời với các lĩnh tụ phiến loạn là Nguyễn Hữu Cầu, Nguyễn Danh Phương, Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ, và chiến đấu được lâu dài hơn các bạn đồng hội, đồng thuyền. Hoàng khởi sự từ thời chúa Trịnh Giang đóng vai chúa tể miền Bắc tức là từ năm 1740 đến năm Kỷ Sửu (1769) mới hết. Trường hoạt động buổi đầu của họ Hoàng là đất Sơn Nam, tung hành từ phủ Khoái Châu sang đến Xuân Trường (Hưng Yên và Nam Định), Năm Ất Sửu (1745), quân đội của Hoàng cũng rất mạnh, phá được lực lượng của Trấn thủ Sơn Nam là Hoàng Công Kỳ, giết được viên tướng này. Binh sĩ của chúa Trịnh cũng phải huy động rất nhiều và do các tướng lĩnh có nhiều thành tích điều khiển đánh dẹp rất nhọc nhằn và mãi cũng không diệt được hẳn.
Chất lưu động qua nhiều nơi, hợp với một lĩnh tụ khác là Thành khi thì cướp phá Thanh Hóa, khi thì ra Hưng Hóa. Năm Tân Tị (1760), Thành bị bắt. Chất yếu thế chạy lên đóng tại động Mạnh Thiên (Bắc Hưng Hóa) mượn thế rừng núi, trấn giữ gần đó (có lẽ là Đồn Vàng, Yên Lập, Cẩm Khê, thuộc tỉnh Phú Thọ ngày nay). Vị trí chiến lược vùng nầy rất thuận lợi vì Hưng Hóa nằm bên cạnh sông Thao, gần hai đường thủy bộ, khi mạnh thì tiến xuống được Việt Trì sát vùng Thượng du hoặc xuống Hòa Bình vào Thanh Hóa. Khi yếu thì chạy ngược lên Yên Báy hay qua Tuyên Quang là vùng núi xứ Bắc. Có hồi quân của Hoàng cũng đông tới hàng vạn người.
Mãi tới năm Kỷ Sửu (1769), Thống lĩnh đại đoàn Nguyễn Thục được lệnh chúa Trịnh Sâm mang đại quân từ Sơn Tây đánh vào đại bản doanh (Mạnh Thiên) của Hoàng rất ráo riết, nhưng quân triều vào tới nơi, Hoàng đã bị bệnh mà chết. Con Hoàng là Hoàng Công Toản kháng cự không nổi, chạy ngược lên Vân Nam biệt tích, từ bấy giờ còn dư đảng của Hoàng cũng tan rã hết.

2- Loạn Quí Tộc Nhà Hậu Lê
Dự vào cuộc phiến động chung năm Mậu Ngọ (1738), có các Hoàng thân Lê Duy Mật, Lê Duy Quí, Lê Duy Trúc (Lê Duy Quí và Lê Duy Mật là con vua Lê Dụ Tông. Lê Duy Trúc là con vua Lê Hy Tông). Ba người này âm mưu giết họ Trịnh nhưng chẳng may công việc không thành, phải bỏ chạy vào Thanh Hóa. Sau Duy Quí và Duy Trúc phải bịnh chết.
Sử gia C.B. Maybon nói khi cuộc đảo chính này bị bại lộ, Trúc và Quí bị họ Trịnh bắt được và giết chết. Riêng Lê Duy Mật chạy thoát vào Thanh Hóa với một số đông đồng đảng.
Duy Mật chạy vào Thanh Hóa. Tại đây đã có những trận đánh kịch liệt vào những tháng đầu năm Canh Thân (1740), Lê Duy Mật có bắt được một tướng của Trịnh là Phạm Công Thế. Duy Mật hỏi: "Ông là người khoa giáp sao lại theo quân nghịch (chỉ họ Trịnh)?"  Công  Thế  cười  đáp:  "Lâu  nay  danh  phận  không    thì  làm  sao  phân  được thuận nghịch!" Nói xong, Công Thế vươn cổ chịu chém. Xem câu trả lời của Công Thế là một trí thức thử thời thì đủ rõ Bắc hà đã quá ngán cả vua lẫn chúa, danh nghĩa của triều đình đã bị nhân dân coi rẻ; từ người bình dân đến kẻ trí thức chỉ biết mạnh đâu âu đấy và mạnh ai người ấy làm, lẽ thuận nghịch mờ tối như đêm ba mươi tháng chạp.
Năm ấy, quân đội của Duy Mật vùng vẫy từ đất Thanh ra Hưng Hóa, lại được sự cộng  tác  của  một  nhóm  loạn  quân  do  tên  Tương  chỉ  huy  giữ  đồn  Ngọc  Lâu  (thuộc huyện Thạch Thành) sau đồn này bị hạ, Tương tử trận. Duy Mật không cầm cự nổi ở vùng Thanh phải rút vào Nghệ An rồi sang Trấn Ninh, chiếm đóng núi Trình Quang sửa hào, đắp lũy làm kế cố thủ. Cũng có nhiều khi quân của Lê Duy Mật kéo ra đánh phá ngoài  Sơn  Nam78  khiến  Trịnh  cũng  không  yên  tâm.  Năm  1753,  Trịnh  Doanh    cho người vào Thuận Hóa yêu cầu Võ vương cho quân Trịnh qua đường Cam Lộ vào đánh Lê Duy Mật. Võ vương không chịu (có ý ngờ quân Trịnh lợi dụng để đánh quân mình chăng?).  Nhiều  lần  quân  Trịnh  cũng  bắt  được  quan  tướng  của  Duy  Mật,  nhưng  vẫn không nắm được ông Hoàng thất thế này, và tuy Duy Mật không mạnh lắm đối với thời cuộc nhưng vẫn như cái dằm trong xương tủy của họ Trịnh.
Về phần Duy Mật năm Giáp Tý (1764), cũng có cử người tới gặp Vũ Vương yêu cầu giúp đỡ. Vũ Vương cũng không khứng chịu vì thấy cần phải giữ thái độ trung lập cho khỏi gây hấn với chính quyền miền Bắc.
Năm Đinh Hợi (1767), Trịnh Doanh qua đời, Thế tử Trịnh Sâm lên thay thế. Duy Mật thấy quân lực của mình đã khá, nhân cơ hội Bắc hà đổi chủ, liền Bắc tiến đánh vào đất Hương Sơn và Thanh Chương, thấy không lợi lại rút về Trấn Ninh. Trịnh Sâm cho người đem thư vào dụ nhưng không được nên mới quyết tâm đánh Duy Mật cho kỳ được. Năm Kỷ Sửu (1769), ba đại tướng của Trịnh là Bùi Thế Đạt làm thống lĩnh đất Nghệ An, Nguyễn Phan làm Chính đốc lĩnh đất Thanh Hóa, Hoàng Đình Thế làm Đốc binh đất Hưng Hóa, được cất ba đạo quân vào đánh Duy Mật.
Bùi Thế Đạt và Nguyễn Phan cho quân phong tỏa núi Trình Quang. Duy Mật thấy thế cô không đủ sức cự địch liền cố thủ, nhưng con rể của Duy Mật làm phản mở cửa lũy quân Trịnh vào. Duy Mật biết không thoát chết liền cùng vợ con đứng lên một đống thuốc nổ tự đốt mà chết.

78 Sơn Nam chia ra hai khu: Sơn Nam hạ và Sơn Nam thượng. Các tỉnh miền Nam Trung Châu Bắc Việt gồm Nam Định, Thái Bình, Hà Nam, Ninh Bình v.v... là Sơn Nam hạ. Sơn Nam thượng gồm các tỉnh miền Trung du. Kinh đô Thăng Long đóng ở giữa.

Phần 3 - Chương 17

B- Các Hoạt Động Của Chúa Nguyễn
- Thuế khoá
- Binh chế
- Quan chế
- Ngân quỹ của Nam Hà
- Các địa hạt hành chính
- Việc cầu phong với Tàu
- Chiếm đất của Chiêm Thành

Nhìn vào các tổ chức của Nam Hà kể từ sau cuộc bãi chiến một trăm năm, ta thấy một sự phát triển mạnh mẽ rõ rệt.
Cương giới của Nam Hà mỗi ngày tiến sâu vào xứ Chàm, rồi bị Chàm lấn hết thì bóng người Việt di dân lại thoáng trong các vùng Thủy Chân Lạp. Cuộc Nam tiến được đà và nếu không bị vấp váp là nhờ ở chỗ con cháu Chế Bồng Nga mỗi ngày thêm suy nhược mà triều đình Chân Lạp cũng luôn luôn lục đục hồi cuối thế kỷ XVII. Được thụ hưởng cả một nền văn minh cũ của miền Bắc sáng ngời qua các tổ chức, các quy mô lập quốc vô cùng tốt đẹp dưới đời Hồng Đức, nên con cháu Nguyễn Hoàng bắt đầu rập theo đúng khuôn mẫu của miền Bắc trong các việc cai trị, đặt thuế, khai khẩn, học hành, thi cử, nhưng nhiều khi Nam Hà cũng phải đối phó với những nhu cầu mới, khác hẳn với Bắc hà.

1- Thuế Khóa
Về việc lập sổ thuế, định các ngạch thuế, năm 1632, Sãi Vương đã áp dụng phương pháp Bắc hà (của Lê Thánh Tông - 1465) cho đến bây giờ còn được thi hành ở miền Bắc, nghĩa là cứ mỗi sáu năm lại có một cuộc kiểm tra lớn, ba năm có một cuộc kiểm tra nhỏ. Dân chúng thì chia ra làm 8 hạng (Bắc chỉ có 6 hạng).
Để đánh thuế ruộng cho sát với thực tế thì sau vụ gặt chính (vụ mùa) quan đến từng địa phương khám rồi mới định hạng ruộng nào mới phải nộp bao nhiêu thuế.
Thuế hoa màu căn cứ vào diện tích của điền thổ và những thứ màu mỡ nào (ngô khoai, đậu, v.v...) đã được trồng trọt, cùng với giá trị của ruộng đất nữa.
Thuế nộp bằng thực chất (tức là thóc gạo hay ngô khoai v.v..) hoặc bằng tiền bạc.
Đời chúa Hiền đặt ra một Ty Khuyến Nông để giải quyết vấn đề khẩn hoang và cũng để phân hạng các đất ruộng đã cầy cấy, trồng trọt.
Nhiều dinh điền hay đồn điền (do quân nhân khẩn trưng) có từ thế kỷ thứ XV do các vua chúa miền Bắc chiếm được của Chàm nay nằm trong khu vực của họ Nguyễn được đem cấp phát cho các quan lại có công lao nhiều nhất để làm thực ấp.
Ngoài việc điền thổ chia ra làm ba hạng, chúa Nguyễn còn lập ra một thứ gọi là thu điền và khô thổ nghĩa là loại ruộng đất xấu nhất. Loại điền thổ này được đặt ra để có phần công bình hơn vì liệt vào đệ tam đẳng điền vẫn là điều oan uổng cho dân.
Công điền thì cấp cho dân cày cấy để nộp thuế, còn tư điền là ruộng khẩn hoang
được cho làm của tư.
Thuế Đinh -- Chúa Sãi lập ra 8 hạng thuế đinh đánh vào cho dân chúng và ngoại kiều gọi là thuế tỷ lệ nộp bằng tiền. Giá biểu kể từ hai quan đến năm tiền. Ngoài ra còn nhiều thuế linh tinh khác như thuế gia súc, thuế cúng giỗ, thuế chuyển vận thóc lúa (ắt hẳn các quan thâu tại chỗ rồi tải về kho, đáng lẽ dân phải mang đến nộp tại các tỉnh chăng ?)
Thuế mỏ và thương chính -- Tại Thuận Hóa và Quảng Nam có mỏ vàng, Quảng Ngãi có mỏ bạc, Bố Chính có mỏ sắt.Việc khai khẩn các mỏ này đã đem lại cho chúa một số thuế lớn.
Tàu bè ngoại quốc qua lại ở các cửa bể phải chịu thuế nhập cảng và xuất cảng. Tỉ dụ tàu ở Thượng Hải và Quảng Đông tới phải nộp 3.000 quan, lúc trở ra phải nộp 1/10. Tàu ở Ma Cao (của Bồ Đào Nha) và Nhật Bản nộp 4.000 quan, về 400 quan. Tàu Tiêm La ở Lã Tống đến có lẽ mua bán kém hơn nên chỉ phải nộp 2.000 quan và 200 quan. Tàu các nước Tây phương phải nộp gấp đôi tàu Ma Cao và Nhật Bản (8,000 quan và 800 quan). Số thuế này chia ra làm 10 thành, nộp kho 6 thành, còn bao nhiêu cho các quan lại và binh lính của ty Thương Chính.

2- Ngân Quỹ Của Nam
Năm Quý Dậu (1753), đời Vũ Vương, ngân quỹ được kiểm điểm để xét việc chi thu thì thấy có năm được hơn 338.100 quan tiền mà chi ra lại nhiều hơn (364.400 quan). Có năm thu trên 423.300 quan, phát ra 369.400 quan. Vàng thu được 830 lạng - Bạc thu được 240 lạng, có năm thu được 390 lạng, đó là về giáp ngân còn dung ngân thì được 2.400 lạng, có năm chỉ được 1.800 lạng; thứ kế ngân có năm được 10.100 đồng, có khi ít hơn được 400 đồng, lại có năm chẳng được đồng nào.

3- Binh Chế
Binh có hai loại đầu, cũng như ngoài Bắc được gọi đi quân dịch; những trai tráng khỏe mạnh thì sung thẳng vào quân ngũ và một số được gọi dần có tính cách trừ bị. Việc binh bị đối với các chúa miền Nam là một việc quan trọng nhất, gồm những đơn vị dưới đây:
- Ở hạ tầng là Thuyền hay Tiểu đội, có từ 30 đến 50 người cùng làng hay thuộc làng lân cận. Đội có từ hai ba đến năm Thuyền do một Đội trưởng hay một Cai đội trông. Cơ gồm có nhiều đội thường có tới từ 6 đến 10 Thuyền, có cơ đặc biệt gồm có tới 60 thuyền. Quân số có từ 250 đến 600 người, do một cai cơ hay trưởng cơ chỉ huy. Đời bấy giờ có 5 cơ: Trung cơ, Tả cơ, Hữu cơ, Hậu cơ và Tiền cơ.
- Dinh gồm có một số quân ngang với cơ do một Trưởng dinh điều kiển. Dưới quyền Trưởng dinh có các Trưởng cơ (theo sự khảo cứu của các sử gia Pháp quân số của các đơn vị trong binh đội Nam Hà hay thay đổi về quân số, nghĩa là quân số khi thăng khi giảm không nhất định).
Số quân của miền Nam bấy giờ có độ 30.000 người.
Năm Tân Mùi (1631), chúa Sãi mở trường bắn, trường tập voi, tập ngựa và sở đúc súng đại bác (Trên đây đã nói có người Pháp lai Bồ Đào Nha là Jean de la Croix đã giúp chúa Sãi về việc này và cơ sở đúc súng gọi là phường Đúc ở Thuận Hóa ngày nay).

4- Địa Hạt Hành Chính
Vào giữa thế kỷ XVIII, sông Gianh đã thành đường phân giới cho hai miền Nam -Bắc.
Họ Nguyễn chỉ còn có thể mở cương vực về phương Nam.
Thời chiến tranh với Trịnh năm 1634, Nam Hà mới có 4 dinh Quảng Bình dinh, Chính dinh gồm có Thừa Thiên Quảng Trị vùng Nam và vùng Trung ương. Quảng Nam dinh và Trấn Biên dinh (là tỉnh Phú Yên ngày nay).
Năm Giáp Tý (1744), Vũ Vương xưng vương hiệu, đổi phủ ra điện và chia Nam Hà ra 12 dinh.
1) Chính dinh (Phú Xuân). 2) Cựu dinh (Ái Tử) Quảng Trị. 3) Quảng Bình dinh. 4) Vũ Xá dinh. 5) Bố Chính dinh. 6) Quảng Nam dinh. 7) Phú Yên dinh. 8) Bình Khang dinh. 9) Bình Thuận dinh (đất chiếm của Chiêm Thành). 10) Trấn Biên dinh. 11) Phiên Trấn dinh. 12) Long Hồ dinh (đất chiếm của Chân Lạp).
Cầm đầu mỗi dinh là một võ quan với chức vụ trấn thủ để coi cả hành chính lẫn quân sự. Phụ tá có Cai bộ là viên quan coi về Ngân khố và một Ký lục tức là một phán quan. Còn phủ Quảng Nghĩa và phủ Quy Nhơn thì thuộc về Quảng Nam. Mỗi phủ có Tuần phủ và quan Khám lý trông nom mọi việc. Đất Hà tiên thì gọi là Trấn có quan Đề Đốc cai trị.
Dinh  đầu  tiên  của  họ  Nguyễn  gọi    Ái  Tử  thuộc  huyện  Đăng  Xương,  gần  tỉnh  lỵ Quảng Trị. 13 năm sau (1570), Nguyễn Hoàng dời qua làng Trà Bát cũng cùng huyện ấy, tức là Cát dinh. Đến năm Bính Dần (1626), Chúa Sãi dời vào Phúc An thuộc huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên để xa chiến cuộc và đổi dinh ra phủ.
10 năm sau, chúa Thượng lại dời phủ vào làng Kim Long (huyện Hưng Trà, tỉnh Thừa Thiên). Năm Đinh Mão (1687), chúa Nguyễn Phúc Trân lập Chính dinh ở làng Phú Xuân. Chỗ phủ cũ làm nhà Thái Tông miếu thờ chúa Hiền.

5- Quan Chế
Ở Chính dinh là chỗ Thủ phủ của chúa Nguyễn có đặt ra ba ty để giúp mọi việc chính trị:
1) Xá sai ty giữ việc từ tụng, văn án có quan Đô tri và Ký lục đứng đầu.
2) Tướng thần lại ty giữ việc thâu thuế, phát lương thực cho các đạo binh của Chúa, có quan Cai bạ trông nom.
3) Lệnh sử ty giữ việc tế tự, tết nhất và cấp bổng cho quân đội của Chính dinh, có quan nha úy phụ trách.
Mỗi ty lại có quan Cai hợp, Thủ hợp và các Lại ty để điều hành mọi việc.
Còn ở các dinh khác, có nơi chỉ đặt Lệnh sử ty kiêm cả Xá sai ty và Tướng thần lại ty, giải quyết mọi vấn đề quân nhân chính, thuế khóa, tứ tụng, dinh điền, sổ sách v.v... Nơi nào quan trọng thì được sử dụng nhiều nhân viên.
Cấp hành chính dưới là các phủ, huyện, có Tri phủ, Tri huyện và các Đề lại, Thông lại. Ngoài ra có Huấn đạo, Lễ sinh chuyên việc cúng tế ở địa phương.
Đến đời chúa Thượng (Nguyễn Phúc Lan 1635-1648), có thêm chức Nội tả, Ngoại tả, Nội hữu, Ngoại hữu gọi là tứ trụ tức là bốn đại thần trong triều.
Xin nhắc võ quan trên các cấp chưởng dinh, Chưởng cơ, Cai cơ, Cai đội là các cấp người thường được giữ còn những địa vị quan trọng hơn thì do các anh em và thân thuộc của nhà chúa giữ, tỉ dụ chức Nguyên soái, Đô đốc, Trấn thủ v.v...
Quan lại phục vụ ở kinh đô và các dinh đều được tuyển dụng bằng khoa cử, tuy nhiên một số đã theo chúa Nguyễn Hoàng từ 1558 và năm 1600 (khi Hoàng ra Bắc chuyến sau và chuyến cuối cùng khi trở về có được một số người theo).Từ 1632, chúa Sãi mở khoa thi để lấy người vào các chức vụ Tri phủ, Huấn đạo, Lễ sinh.
Trong chương trình khoa cử về đời chúa Hiền có một sáng kiến; năm 1675, chúa mở thêm một kỳ vấn đáp, trước kia chỉ có thi viết mà thôi.Với kỳ vấn đáp, các khóa sinh được hỏi về nhiệm vụ của quân nhân và công dân đối với thời cuộc và chính quyền cùng với quan niệm của họ đối với vua Lê và chúa Trịnh79. Hồi đó, bảy người được tuyển dụng vào 7 ty tư pháp.
Ngoài những kỳ thi bất thường trên đây để lấy nhân tài, còn những khoa thì cứ 6 năm một lần mở ra tại các tỉnh vào đầu mùa Xuân.
Ai đỗ thì được miễn các tạp dịch cho tới kỳ đại khảo sau. Qua được kỳ thi ở các tỉnh, khóa sinh được dự kỳ thi mùa Thu thuộc bực cao hơn.
Năm Đinh Hợi (1647) chúa Nguyễn lập ra hai bực thi: thi Chính đồ và thi Hoa văn.
Chương trình thi Chính đồ gồm có: kỳ đệ nhất thi tứ lục - kỳ đệ nhị thi thơ phú - kỳ đệ tam thi văn sách. Hội đồng giám khảo có quan Tri phủ, Tri huyện làm sơ khảo, quan

79 Đây là một thứ trắc nghiệm để xét lập trường chính trị của khóa sinh.

Cai bạ, Ký lục, Vệ úy làm Giám khảo. Khóa sinh trúng tuyển chia làm ba hạng: hạng thứ nhất được gọi là Giám sinh được bổ làm Tri phủ, Tri huyện - hạng thứ nhì gọi là Sinh đồ được bổ làm Huấn đạo; hạng thứ ba cũng gọi là Sinh đồ được bổ làm Lễ sinh hoặc làm Nhiêu học. Thi Hoa văn cũng mất ba ngày. Mỗi ngày khóa sinh phải làm một bài thơ. Ai đậu được bổ làm Tam ty (phủ chúa). Năm Ất Hợi (1695), chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) mở khoa thi tại phủ chúa gọi là thi Văn chức và thi Tam ty. Thi Văn chức có tứ lục, thơ phúc, văn sách. Thi Xá sai ty thì khảo về binh vụ, quân lương, từ tụng. Thi tướng thần lại ty và Lệnh sử ty thì chỉ có một bài thơ thôi.
Năm Canh Thân (1740), dưới đời Vũ vương Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765) quyền lợi của khóa sinh được định như sau: những người đậu kỳ đệ nhất gọi là Nhiêu học được miễn sai 5 năm; đậu kỳ đệ nhị và đệ tam được miễn sai vĩnh viễn; ai đậu kỳ đệ tứ gọi là Hương cống, sẽ bổ Tri phủ, Tri huyện.
Xét chương trình thi cử của Nam Hà bấy giờ, ta thấy sơ lược quá so sánh với các tiền triều (Trần và Hậu Lê); sự kiện này cho phép ta nghĩ rằng các nhà cầm quyền Nam Hà có lẽ chỉ biết ngày đêm lo việc chiến tranh, nhân dân cũng bị lôi cuốn theo trong công chuyện này nên tuy cuộc đình chiến luôn một thế kỷ mà việc văn học, khoa cử vẫn chưa tiến được nhiều.

6- Việc Cầu Phong Với Tàu
Năm 1702, Minh Vương đã thấy giang sơn mình đã mạnh, đủ sức đối thủ với miền Bắc không cần e dè như xưa là phải ẩn núp sau cái chiêu bài phù Lê, đã cử một sứ bộ mang đồ tiến cống và một tờ biểu sang Quảng Đông xin cầu phong với Tàu, xin cam kết xưng thần nạp cống đều đặn.
Triều đình nhà Thanh tuy vẫn mê vàng bạc và các quý vật của nước Việt nhưng cũng không dám quá trâng tráo, vừa bắt tay với vua Lê lại cười duyên với họ Nguyễn, do đó việc cầu phong cũng hỏng và hậu lễ cũng trả về, căn cứ vào lẽ không thể thừa nhận hai chính quyền trên một quốc gia.
Năm 1756, Vũ Vương cũng xin cầu phong nhưng không thành.

7- Chiếm Đất của Chiêm Thành
Năm Tân Hợi (1611) Nguyễn Hoàng qua đời, họ Nguyễn có đem quân đánh vào nước Chiêm Thành lấy đất lập ra phủ Phú Yên, chia ra làm hai huyện Đồng Xuân và Tuyên Hóa.
Việc đánh Chiêm không vất vả, gian lao như ngày xưa vì từ hồi vua Lê Thánh Tông mang đại quân vào đất Chiêm đến bây giờ, Chiêm bị kiệt quệ không sao ngóc đầu lên được. Đến khi họ Nguyễn vào hùng cứ phương Nam. Chiêm Thành vẫn không ra khỏi tình trạng suy bại.
Năm 1617, họ Nguyễn lập Trấn Biên dinh cũng là đất lấy của xứ Chiêm.
Năm 1653, chúa Chiêm là Bà Thấm đánh phá phủ Phú Yên bị tướng Hùng Lộc dưới đời chúa Hiền đánh bại phải dâng thư xin hàng. Lại thêm một dịp cho người Việt mở rộng thêm cương thổ: chúa Hiền lấy đất của Chiêm lập ra Thái Ninh phủ sau đổi ra Diên Khánh (tức là Khánh Hòa ngày nay) đặt dinh Thái Khang giao cho Hùng Lộc làm Trấn thủ, còn từ Phan Lang trở vào vẫn để cho Chiêm làm chủ.
Năm 1693, chúa Chiêm là Bà Tranh bỏ việc tiến cống bị Minh Vương (Nguyễn Phúc Chu) sai tổng binh Nguyễn Phúc Kính (con Nguyễn Hữu Dật) đem quân hỏi tội bắt được với cận thần là Kế Bà Tử và Tả Trà Viên cùng quyến thuộc là Ba Ân đem về Phú Xuân. Đất đai của Chiêm còn lại bị chúa Nguyễn đổi ra làm Thuận Thành phủ. Tả Trà Viên và Kế Bà Tử được lãnh chức Khám Lý và ba người con của Bà Ân được làm Đề Đốc giữ Thuận phủ. Chúa Nguyễn lại bắt dân Chiêm thay y phục, từ đó ăn mặc như người Việt.
Năm sau (1694), Thuận phủ lại phải đổi ra làm Thuận Thành trấn, và Kế Bà Tử được làm Tả Đô đốc để trị dân và thâu thuế cho chúa Nguyễn80.
Năm Đinh Sửu (1697), chúa Nguyễn đặt ra phủ Bình Thuận, lấy Phan Rí và Phan Rang là huyện Yên Phúc và huyện Hòa Đa. Thế là đất Chiêm từ đấy mất hẳn trên địa đồ, sau khi các đại thần và thân nhân của Chiêm đã thành những công chức của nước Việt và hoàng gia Chiêm từ đó không còn uy tín nữa.

80 Trong dịp này, dân Chiêm được một người Tàu cầm đầu, nổi lên chống lại cuộc đô hộ của người Việt, nhưng cuộc khởi nghĩa của họ thất bại nên cuối năm 1694, chúa Nguyễn đặt Kế Bà Tử lên làm Đô Đốc để giữ cả quyền hành chính và quân sự. Đổi Phủ ra Trấn, chúa Nguyễn có ý thiết lập đất này ra một đạo quan binh để áp dụng một chính sách cứng rắn, bởi dân Chiêm vốn không bao giờ chịu phục hẳn.
Mục lục

Việt sử Toàn Thư – Phạm Văn Sơn 1

Việt sử Toàn Thư – Phạm Văn Sơn 2

Việt sử Toàn Thư – Phạm Văn Sơn 3


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét