Trang

Thứ Bảy, 14 tháng 12, 2019

Việt Sử Toàn Thư-Phạm Văn Sơn (3)

Việt Sử Toàn Thư (tiếp 2)

Phần 3 - Chương 18
Cuộc Chiến Tranh Cuối Cùng Của Hai Họ Trịnh - Nguyễn (1774)

Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm và Tướng Hoàng Ngũ Phúc vào Thuận Hóa. Trịnh Sâm lên làm chúa thay Minh Đô vương Trịnh Doanh (1740-1767) được hai năm thì triều đình Nam hà của Vũ Vương gặp biến (Vũ Vương mất 1765); phụ chính Trương Phúc Loan chuyên quyền, chế độ hà khắc tham nhũng của y và bè lũ đã đưa nhân dân đến chỗ nổi lên chống đối vì đói khổ, chẳng khác chi những phản ứng của đồng bào nhân dân Bắc hà dưới đời chúa Trịnh Giang, Trịnh Doanh 25 năm về trước.
Tại Nam hà, ngoài vụ các nông dân dấy loạn còn cả giới thương nhân bắt đầu thành hình từ ngày có các nhà buôn ngoại quốc ra vào buôn bán. Bọn người này cũng bị quan lại đời bấy giờ nặn bóp quá đáng. Anh em nhà Tây Sơn khởi nghiệp được là nhờ ở chế độ ung nhọt kể trên đã gieo căm hờn vào lòng mọi người, từ chốn đồng quê ra các nơi đô thị.
Năm 1761, trước khi lên làm chúa, Trịnh Sâm đã đánh dẹp được nhiều vụ loạn ở Hưng Hóa. Ông còn đang nức lòng vì cuộc chiến thắng trước đây thì Nam hà suy sụp như thúc dục ông thôn tính miền này mà xưa kia tiền nhân ông suốt 54 năm ròng không giải quyết nổi. Năm 1770, Sâm xua quân vào Trấn Ninh.
Dự vào cuộc Nam chinh có Hoàng Ngũ Phúc làm Thống tướng, Bùi Thế Đạt là phó, Phan Lê Phiên và Uông Sĩ Điển làm Tham biện ; Đoàn Nguyên Thục làm Đốc thị Nghệ An ; ngoài ra lại có thêm mấy danh tướng nữa như Hoàng Phùng Cơ, Hoàng Đình Thể. Nguyễn Lệ và Hoàng Đình Báu lĩnh quân đội thủy lục của 33 dinh từ Thanh Hóa vào Nghệ An và của các đạo Đông Nam có tới 36.000 người. Để trấn tĩnh nhân tâm ở miền ranh giới (chắc là Nam Bố chính), họ Hoàng vừa tới nơi liền gởi thư cho viên Trấn thủ ở đây nói rằng quân Bắc hà chỉ có mục đích đem quân vào trừ "giặc Tây Sơn", nếu quân Tây Sơn bại rồi thì quân Bắc sẽ rút về ngay. Đây là một thủ đoạn của họ Trịnh để tránh sự nghi ngờ của quân dân miền Nam. (Theo Cương Mục)
Bức thư của Ngũ Phúc được chuyển ngay tới tay Huệ Vương. Tướng Bắc được thư trả lời ngay nhưng cũng là lúc Tống Hữu Trương được cử làm Thống suất quân đội ở Lưu Đồn và hoàng thân Nguyễn Phúc Thiệp, Trấn thủ Bố Chính, thi hành nhiệm vụ cản đường quân Trịnh.
Tính ra quân Trịnh khởi xuất vào tháng 5 năm Giáp Ngọ (1774), và những vụ thư đi thư lại xảy ra vào ba tháng bảy, tám và chín năm ấy.
Vào tháng 9 (Giáp Ngọ), Hoàng Ngũ Phúc tới Bắc Bố Chính. Trần Giai là viên Tri phủ của Nam hà cai trị ở địa phương này làm phản, tố cáo mọi điều lợi hại của chúa Nguyễn nên Ngũ Phúc vừa ra lệnh cho Nguyễn Ngô Điền dựng trại ở gần chợ Ba Đồn, vừa cho một cánh quân vượt qua sông Gianh trong đêm tối đến chiếm đóng ở Cao Lao, trên tả ngạn con sông này.
Huệ Vương phải thân chinh vào tháng 7 năm ấy (1774) nhưng đến cửa Tư Dung thì ngừng lại bởi được tin quân Trịnh đã tiến đến nội địa của mình ở phía Bắc. Chúa vội vàng trở về Huế cùng với Thế tử Nghiêm và cho viên Cai đội Quí Lộc cùng viên Câu Kê81 Kiêm Long ra đón quân Bắc và mở tiệc khao quân làm kế hoãn binh.
Ngũ Phúc hiểu nội tình bối rối của Nam hà nên cứ tiến quân. Thế tử Thiệp, Trấn thủ Nam Bố chính, và Ký lục Bảo Quang thấy quân Trịnh mạnh quá liền rút về thành Đồng Hới thì quân của tướng Trịnh là Hoàng Đình Thể đã đến chân thành Trấn Ninh. Các Cai đội coi kỵ binh của Nguyễn là Hoàng Văn Bật, Lê Thập Chí và nhiều tướng tá khác của Nam hà phải mở cửa thành xin hàng.
Nghe quân Trịnh đến nơi, Thế tử Thiệp và viên Thống suất quân đội ở Lưu Đồn là Tống Hữu Tường bỏ chạy.
Quân Trịnh phá ngay lũy này, chiếm đóng hết tỉnh Quảng Bình và tiến đến Hồ Xá tức là nơi giáp giới Quảng Trị về phía Bắc.
Việc này diễn ra vào tháng 11 (cuối năm 1774). Tĩnh Độ vương Trịnh Sâm nghe tin việc Nam chinh được thắng lợi cũng đem quân vào để tăng cường cho Hoàng Ngũ Phúc.
Đại quân đến Hà Trung vào tháng 11 ta, gần lúc họ Hoàng tiến tới Hồ Xá.
Tại đây, Hoàng tuyên bố với quân dân Nam hà rằng chủ trương của quân Bắc là tới trừ quyền thần Trương Phúc Loan, sau đó là diệt "giặc Tây Sơn" chớ không có ý gì khác. Triều đình Nam Hà cảm thấy sự hèn yếu của mình vội bắt họ Trương nộp cho quân Trịnh, nhưng Hoàng vẫn tiến quân; và để yên lòng dân binh đội không trưng cờ và đánh trống82.
Lại một phen nữa, Hoàng Ngũ Phúc gửi thư cho Huệ Vương yêu cầu hợp quân trừ Tây Sơn. Dĩ nhiên chúa Nguyễn không chịu mắc lừa, liền cho hai Thế tử Thiệp và Đặng đem đại quân ngăn quân Trịnh.
Bề khác, chúa Nguyễn cho Cai đội Tuyên Chính và Tham mưu Thành Đức trá hàng để tìm cách phá quân của Ngũ Phúc, cử Cai đội Phẩm Bình ra Quảng Bình và Bố Chính vận động nhân dân đánh vào hậu tuyến của Trịnh.

81 Câu Kê là một chức quan Thư lại ở mỗi phòng sở hành chính.
82 Theo Hoa Bằng, tác giả Quang Trung Nguyễn Huệ, Trương Phúc Loan đã đút lót hàng ngàn lượng vàng cho tướng Trịnh để mua lại cái đầu của mình mà vẫn không xong.

Kế hoạch nào của chúa Nguyễn cũng thất bại: Phẩm Bình bị bắt, Thế tử Thiệp bị tướng Trịnh là Nguyễn Tấn Khoan và Hoàng Phùng Cơ đánh bại. Thế tử Đặng bỏ trốn không dám giao tranh.
Không bị sức kháng chiến nào cản trở, quân Ngũ Phúc bấy giờ chỉ còn cách kinh thành Thuận Hóa độ 20 cây số.
Chúa Nguyễn cố thủ, cử Thế tử Chất là con thứ 6 của vua Võ Vương lĩnh lục quân, Thế tử Định lĩnh thủy quân ra ngăn quân Bắc. Tại đây lực lượng còn lại của Nam Hà mong manh, ít ỏi rõ rệt nên chống trả rất yếu ớt, sau đó quân Bắc vượt được qua sông Ba Trục, đi đến đâu thắng đến đấy, binh tướng của Nguyễn bị giết hoặc chạy dài thảm bại không sao kể xiết.
Còn lại Chưởng Cơ của Nam Hà khi đó là Nguyễn Văn Chính ngăn quân Trịnh không nổi bị tử trận ngay tại chỗ rồi ngày 28 tháng 12 (29-1-1775) quân Trịnh kéo vào kinh đô của họ Nguyễn.
Huệ Vương cho Tống Phúc Đạm là Tham mưu của quân đội Hoàng gia tập họp tàn quân cố ngăn quân Trịnh ở cửa Bắc để các Đội trưởng của các đội Tả thủy, Trung thủy và Tiền thủy là Võ Di Nguy, Nguyễn Các và Trương Phúc Đĩnh có đủ thời giờ gấp rút sửa soạn thuyền bè cho chúa chạy trốn.
Ngày Mậu Thân 930-1-1775), thuyền chúa Nguyễn lẩn qua cửa Tư Dung tiến ra biển chạy vào Quảng Nam. Nguyễn Phúc Dương con Thế tử Hiệu cũng rút bằng đường bộ qua đèo Hải Vân vào cửa Hàn.
Thuận Hóa Thất Thủ.
Từ giờ phút này quân Bắc giữ quyền chủ động ở chiến trường cho tới khi Quảng Nam mất nốt. Sau đó đối thủ của họ Trịnh trên thực tế chỉ còn có Tây Sơn mà thôi.
Bấy giờ quân của chúa Tĩnh Đô vương ở Hà Trung nghe tin Hoàng Ngũ Phúc đã chiếm được Phú Xuân mừng lắm cho người đem 100 lạng vàng thưởng cho Ngũ Phúc và 500 lạng bạc cho các tướng sĩ, lại phong cho Ngũ Phúc chức Đại Trấn phủ ở Thuận Hóa để giải quyết nốt mọi việc ở Nam Hà rồi rút về Thăng Long.

Phần 3 - Chương 19 Nhà Tây Sơn (1778-1802)
- Vua Thái Đức
- Vua Quang Trung
- Vua Cảnh Thịnh

1- Tiểu Sử Của Nhà Tây Sơn
Năm 1772 Lịch sử Việt Nam ghi rằng có ba anh em họ Nguyễn:  anh cả là Nhạc, người thứ hai là Lữ, thứ ba là Huệ xuất thân ở giới thương nhân thuở đó đã tổ chức cuộc Cách mạng quanh vùng Quy Nhơn và An Khê83. Chữ Tây Sơn chỉ rằng trong thời khởi thủy giẫy núi phía Tây đã là sào huyệt của anh em nhà họ Nguyễn.
Cuộc Cách mạng được toàn thể nhân dân hưởng ứng, nghĩa là có cả nông dân lẫn thương nhân, một số khách trú sinh sống từ lâu ở đây (theo tài liệu của các giáo sĩ và các nhà du hành Barrow đã đặt chân vào đất Tây Sơn năm 1793).
Gia đình của anh em Nguyễn Nhạc chuyên nghề bán cau là một thứ sản phẩm rất thông dụng ở khắp các thị trường trong nước.
Phong trào Tây Sơn, cứ lời thuật lại của giáo sĩ Diego de Jumilla đã bắt đầu hoạt động mạnh vào tháng 4 năm 1773. Quân đội của Tây Sơn từ miền núi phóng xuống các thôn quê, vào các chợ búa giữa ban ngày. Họ có đủ gươm, giáo, súng, nỏ nhưng không hại tính mạng và tài sản của ai hết. Trái lại, họ tuyên ngôn làm cái việc công bằng, thẳng thắn, chỉ trừ khử bọn quan tham lại nhũng, những kẻ trọc phú lưu manh và trộm cướp. Họ lấy của người giàu phân phát cho kẻ nghèo, chỉ dành cho họ một phần nào thóc gạo mà thôi. Ai chống thì họ giết, biết điều thì thôi.
Một giáo sĩ Tây Ban Nha kể rằng họ đã tự xưng là những người theo mệnh trời để thi hành công lý và giải phóng nhân dân khỏi ách quan liêu phong kiến đúng như điều các nhà cách mạng xã hội chủ trương ngày nay.


83 Ngày nay du khách qua vùng An Khê, cách Pleiku chừng 85 cây số, tới thăm làng Cửu An, nơi trrước kia còn phụ thuộc tỉnh Bình Định, và còn kêu là Tây Sơn ấp. Ở đây, giữa những khu rừng âm u, hiu quạnh, đột khởi một quả núi tục gọi là núi Chà Diêm. Vào khoảng năm 1778, ba anh em Nguyễn Nhạc đã dựng kho thuốc súng và luyện tập quân đội tại khu vực này.

Cũng như những cuộc khởi nghĩa của nông dân Châu Âu đời Trung Cổ, họ được giới nhà chùa, Phật giáo và Lão giáo ủng hộ nhiệt liệt, chính Nguyễn Lữ cũng là một nhà sư trước đây và sau này Lữ được coi gần như một vị giáo chủ ở Nam Hà ; ngoài ra các người Mọi, các sắc dân thiểu số, và theo sử gia Pétrus Ký, có cả vị vua cuối cùng của người Chàm cũng tiếp tay cho họ.
Rồi quân Tây Sơn đi đến đâu, thắng đến đó như trận cuồng phong lướt cỏ.
Sử ta có chép về lý lịch của anh em nhà Tây Sơn có đưa ra một số chi tiết như sau: Ông tổ của ba anh em nhà họ Nguyễn thực ra là họ Hồ và cũng là ông tổ của Hồ Quý Ly, con người đã cương quyết làm cuộc cách mạng quốc gia hết sức táo bạo dưới đời Trần về mọi phương diện mà Việt sử Tân Biên quyển hai đã nói đến.
Đến đời anh em Nguyễn Nhạc thì chi nhánh của bọn Nhạc đã lưu lạc vào tới huyện Phù Ly, nay đổi là Phù Cát thuộc tỉnh Bình Định (Xưa kia họ Hồ phát tích ở tỉnh Chiết Giang bên Tàu, tổ là Hồ Hưng Dật sang nước ta từ đời Ngũ Quý đến ở làng Bào Đột huyện Quỳnh Lưu, sau dời ra Thanh Hóa).
Sự phiêu lưu của gia đình các ông Nhạc, Lữ, Huệ, xảy ra từ đời Trịnh-Nguyễn phân tranh. Các ông cũng như nhiều đồng bào khác bị đưa vào ấp Tây Sơn84, thôn Cửu An, thuộc phủ Hoài Nhơn, theo chương trình khẩn hoang các vùng đất mới chiếm của Chiêm Thành.
Thân sinh ra các ông là Hồ Phi Phúc, sau đổi sang ngụ ở ấp Kiện Thành, nay là làng Phú Lạc, huyện Tuy Viễn.
Nguyễn Nhạc bấy giờ xuất thân chỉ là một biện lại tại Vân Đồn, hay cờ bạc rồi vì tiêu sạch tiền thuế đến lúc cùng đường phải trốn vào rừng và đi làm giặc.
Sử của Nguyễn triều chép như vậy có đáng tin chăng? Dầu sự kiện này có đúng chăng nữa thì ta cũng phải nghĩ rằng dưới một chính thể ung nhọt, vô trách nhiệm đến nỗi dân chúng đói rách chết nửa xứ thì người dân có nên có phản ứng này hay phản ứng khác không? Nếu anh em ông Nhạc tiêu tiền thuế vào cờ bạc hay dùng số tiền này vào việc dấy quân lật đổ đám vua quan mục nát thì những hành động đó cũng là những điều tất nhiên không thể tránh được. Chứng cớ là trước phong trào Tây Sơn tại Nam Hà cướp giặc dã nổi lên như ong rồi.
Chúng ta lại nên nhớ rằng gia thế của bọn ông Nhạc bấy giờ cũng phong túc và anh em ông hẳn là những tay hào hiệp, có nhiều uy tín tại địa phương mới phát động nổi một phong trào cách mạng.
Nguyễn Nhạc là con người can đảm và mưu trí nên việc hạ thành Quy Nhơn để khởi thanh thế của ông đã là một câu chuyện kỳ thú: ông ngồi vào cũi giả bị nhân dân bắt đem nộp quan tỉnh lấy thưởng.

84 Danh hiệu Tây Sơn mà anh em ông Nhạc được mang là do nơi cư ngụ này.

Tuần phủ ở đây là Nguyễn Khắc Tuyên tưởng thật cho khiêng cũi vào thành, nhưng đến nửa đêm Nhạc tháo cũi chui ra mở cửa thành cho quân của mình xông vào đánh đuổi quân quan một cách bất ngờ, trở tay không kịp.
Thành Quy Nhơn lọt vào tay Tây Sơn, từ đấy anh em ông Nhạc, Huệ có một căn cứ để xuất phát đi các nơi khác. Trong số người Tàu tiếp tay, có hai lãnh tụ là Lý Tãi và Tập Đình cũng mộ quân theo.
Quân Tây Sơn đặt xong đại bản doanh ở đây, tổ chức binh đội có qui củ và trang bị đủ khí giới là lúc ngọn cờ cách mạng tiến ra Quảng Nam rồi chẳng bao lâu Quảng Nghĩa, Bình Thuận cũng mất nốt.
Ngay lúc đầu chúa Nguyễn bị quân Trịnh do tướng Hoàng Ngũ Phúc đuổi phải chạy vào Quảng Nam nương náu chưa được vài tháng ở Bến Ván ; tại đây chúa lập cháu là Nguyễn Phúc Dương lên làm Đông Cung để lo việc khôi phục và phòng xa nếu mình bị rủi ro đã có người kế vị ngay cho kịp với thời cuộc.
Tây Sơn vẫn tiến lên, quân Bắc vẫn đi xuống, chúa Nguyễn bị kẹp giữa hai gọng kìm, trốn tránh vào Trà Sơn, sau rốt phải cùng cháu là Nguyễn Phúc Ánh xuống thuyền chạy vào Gia Định.
Đông cung Nguyễn Phúc Dương ở lại xứ Quảng, đóng đồn ở làng Câu Để thuộc huyện Hòa Vinh cũng không làm được gì đáng kể. Nhạc liền nghĩ ra kế hoạch lợi dụng danh nghĩa của ông Hoàng đang thất thế này để vơ vét thêm một số người trong các giới quân dân còn lại đang theo giúp Đông cung hoặc vẫn có cảm tình với dòng Chúa. Nhạc cho dụ Đông Cung Dương về Hội An bề ngoài để cùng chống quân Bắc.
Tại đây ít ngày sau Tây Sơn phải đương đầu với quân của Hoàng Ngũ Phúc khi đó đã vượt được qua đèo Hải Vân, đánh được đồn Trung Sơn và Câu Để.
Nhạc cho Tập Đình làm tiên phong, Lý Tài làm trung quân, tự mình làm hậu tập. Binh sĩ của hai viên tướng Tàu này phần đông là người Quảng Đông, vóc to lớn, mình để trần ai nấy đều sử dụng một thanh phạng có vẻ rất lợi hại, dữ tợn.
Chiến trường bấy giờ là làng Cẩm Sa (thuộc Hoa Vinh).
Tiền  đội  của  Trịnh  đánh  không  nổi,  Ngũ  Phúc  phải  cử  ngay  Hoàng  Đình  Thể  và Hoàng Phùng Cơ đem kỵ binh đánh áp lại hai bên, quân Tập Đình núng thế phải rút về bến Bản và Đông cung được đưa về Quy Nhơn trong khi chiến cuộc đang khai diễn.
Sau trận đắc thắng này, quân Trịnh vào đóng ở Quảng Nam.

2- Tây Sơn Diệt Nguyễn Tại Nam Việt
Như ở trên ta đã thấu từ 1775, Việt Nam có thêm một lực lượng chính trị và quân sự mới: lực lượng Tây Sơn, một mầm non tuy chớm nở nhưng rất mạnh trong khi hai lực lượng cũ là Trịnh, Nguyễn đang đi tới chỗ suy tàn.
Lão tướng Hoàng Ngũ Phúc đã phải rỉ tai các tướng tá của mình để cùng thông cảm mối nguy ấy. Sau đó Ngũ Phúc được chúa Sâm gọi ra Bắc. Ông mất trên đường về. Bọn tùy tướng là Hoàng Phùng Cơ, Hoàng Đình Thể, Nguyễn Trọng Đăng, Phạm Ngô Cầu được ở lại chiếm đóng Thuận Hóa.
Tây Sơn và Trịnh hòa hoãn với nhau luôn hai năm và Trịnh chỉnh đốn lại mọi cơ sở ở Thuận Quảng cho có sự đồng hóa với Bắc hà.
Còn Tây Sơn, một bề xin phục tòng Bắc hà và xin phụ trách ba phủ Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Phú Yên lại xin lĩnh cả việc truy kích Cựu Nguyễn85 (con cháu Nguyễn Hoàng) đang lưu vong ở Gia Định, một bề đem Đông cung Dương về An Thái và Hà Tiên để nếu cần sẽ lợi dụng Đông cung làm bung sung hầu hiệu triệu thần dân của chúa Nguyễn cho dễ. Hơn thế nữa, Tây Sơn còn bí mật liên lạc với Thân vương Nguyễn Phúc Hiệp đang giữ trọng trách đương đầu với tình thế trong khi Duệ Tông đi trốn.
Hiệp lúc này có mặt ở Phú Yên. Nhạc gả con gái là Thọ Hương cho Đông cung và ép lên ngôi, rồi bất thình lình Nhạc cho Huệ đánh úp Phú Yên. Quảng Nam lúc này mất mùa. Hai tướng của Nguyễn còn lại là Nguyễn Quyên và Nguyễn Khôi không đủ quân lương cũng bỏ trốn nốt.
Chiếm được Quãng Nam, Tây Sơn tràn xuống Qui Nhơn. Việc này xảy ra vào mùa Đông năm Ất Mùi (1775). Qua năm sau Nguyễn Lữ với chức Tiết Chế đánh được Sài Gòn, Gia Định. Duệ Tông chạy qua Biên Hòa sau nhờ được tướng Đỗ Thành Nhân chiếm lại được Sài Gòn. Nhưng lương thực và kho tàng ở đây đã bị Tây Sơn chuyển về Qui Nhơn hết sạch.
Bắt đầu từ 1776 thanh thế Tây Sơn lớn trông thấy. Nhạc cho đắp lại thành Chà Bàn làm kinh đô, dựng cung điện, định triều nghi ngang nhiên xưng Tây Sơn Vương, phong Nguyễn Lữ làm Thiếu phó, Nguyễn Huệ làm phụ chính.
Tay chân của Tây Sơn Vương (Nhạc) bấy giờ hầu hết là những tay giang hồ, vong mạng, những kẻ bấc đắc chí trong đó có Nguyễn Hữu Chỉnh là một mưu sĩ thất thế bên Trịnh chạy sang. Chỉnh là thủ túc của Hoàng Ngũ Phúc xưa kia. Phúc chết, Chỉnh đi với con nuôi Phúc là Hoàng Đình Bảo. Sau khi Kiêu binh đảo chánh ở Bắc Hà, bỏ Trịnh Cán lập Trịnh Khải, giết Đình Bảo thì Chỉnh chạy qua hàng ngủ Tây Sơn, Chỉnh đã đưa ra bài sách Phù Lê diệt Trịnh để đem Bắc Hà sang một khúc quanh rộng lớn của lịch sử.
Năm Bính Thân, nhờ bọn Lý Tài và Tập Đình (trước đã theo Tây Sơn) Đông Cung Dương trốn khỏi tay Tây Sơn vào Gia Định. Bọn này lập Dương lên làm Tân Chinh Vương và tôn Duệ Tông làm Thái Thượng Vương, chiếm được Sài Gòn nhưng đến năm Đinh Dậu (1777) thì bị Nguyễn Lữ đem quân vào đánh bắt và giết chết. Trốn thoát, bấy giờ có Nguyễn Ánh vừa được 17 tuổi, là cháu Thái Thượng Vương (gọi Võ Vương bằng ông và là con Chương Võ, con thứ hai của Định Vương), sau này trở nên đối thủ lợi hại của nhà Tây Sơn và là Thế tổ của triều Nguyễn.
Năm sau (Mậu Tuất - 1778) Nhạc xưng đế lấy niên hiệu là Thái Đức, phong Huệ làm Long Nhương tướng quân. Sau 8 năm vất vả gian lao, Nhạc cũng bước lên ngai vàng bệ

85 Tây Sơn được gọi là Tân Nguyễn.

ngọc như ai, không tài không chí gây sao nổi sự nghiệp như vậy, giữa một thời đại loạn.

3- Nguyễn Huệ Đuổi Quân Xiêm
Từ năm Nhâm Dần (1782) ngôi sao của Nguyễn Huệ, người em út của Hoàng Đế
Thái Đức, bắt đầu sáng rực.
Huệ là một thiên tài đặc biệt về quân sự. Lối hành quân của ông là tốc chiến, tốc thắng, biến hóa như thần. Hiệu lệnh của ông tất nghiêm minh; kỷ luật của ông là kỷ luật thép. Và đức tính làm tướng của ông đáng kể nhất là chỗ biết chia bùi, xẻ đắng với tướng sĩ, lấy ân uy và lấy cả đảm lược để chinh phục lòng người.
Ra trận ông đi trước ba quân, lúc nguy nan ông tỏ ra bình tĩnh hơn ai hết; gặp những vấn đề khó khăn, những việc mà người ta phải bở vía kinh hồn thì ông thường nảy ra có một khối óc thông minh, lỗi lạc phi thường.
Từ lúc ông ra làm nghề tướng giữa lúc nước nhà ly loạn khắp nơi, đến khi thở hơi cuối cùng xông pha trăm trận, ông chưa hề biết chiến bại. Lúc này vua Thái Đức lo củng cố mọi vấn đề chính trị, xây dựng triều đình, lập các qui mô như các đế vương thì Huệ là người được trao quyền đại tướng đi đánh Đông dẹp Bắc. Tại miền Nam con cháu họ Nguyễn và thủ hạ còn cựa quậy. Huệ bốn lần mang quân vào Gia Định.
Năm ấy tại Ngã bảy (Thất Kỳ Giang) một trận đại chiến xảy ra Huệ đem mấy trăm chiến thuyền vượt cửa Cần Thơ xung đột với Nguyễn quân ở đây. Quân Nguyễn bại to.
Vào tháng tư, Huệ kéo quân đến Lữ phụ bầy trận ngảnh lưng xuống nước đánh nhau với Nguyễn Ánh, lại thắng oanh liệt hơn bao giờ hết, Ánh phải bỏ chạy tháo thân ra đảo Phú Quốc.
Có một người Pháp giúp Ánh tên là Manuel điều khiển thủy quân không trốn nổi phải đốt tàu mà chết.
Năm sau (Quí Mão 1783) Chu Văn Tiếp, từ Phú Yên vào, cũng vượt cửa Cần Thơ, tính cứu Gia Định để đón Nguyễn Ánh đã từ Phú Quốc trở về nội địa.
Trong trận này một tướng kỳ kiệt của Nguyễn Ánh là Nguyễn Huỳnh Đức bị bắt. Bấy giờ Đức có phận sự giữ đoạn hậu cho Ánh chạy ra Côn Lôn. Nếu trời không mưa to gió lớn, sóng gió mịt mù thì Ánh đã có thể bị phò mã Tây Sơn bấy giờ là Trương Văn Đa bắt được. Thuyền của Tây Sơn bấy giờ bị đắm nhiều, quân Tây Sơn đành phải rút lui, còn họ Nguyễn lại trốn được ra Phú Quốc.
Xong trận này Huệ lại về Qui Nhơn. Trương Văn Đa được cử làm Trấn thủ Gia Định. Tôi trung của họ Nguyễn bây giờ có các tướng Nguyễn Văn Hoàng, Tống Phúc Khương, Tống Phúc Lương, Lê Văn Câu. Triều đình lưu vong này khởi binh từ Long Xuyên lên Sa Đéc, tiến đánh Sài Gòn.
Sài  Gòn  vào  năm  1780  lại  bị  quân  Nguyễn  tái  chiếm.  Nguyễn  Lữ  bỏ  chạy  về  Qui Nhơn. Trong năm ấy (1780) Nguyễn Ánh xưng vương, phong Đỗ Thành Nhân làm Ngoại Hữu, Phụ Chính Thượng Quốc Công, đặt quan cai trị, thu thuế, mộ binh và làm chiến thuyền.
Sau đó ít lâu, đã có phen Ánh cử Đỗ Thành Nhân và Hồ Văn Lân đem binh can thiệp vào việc Chân Lạp, lập con Nặc Tôn là Nặc In lên làm vua và để Hồ Văn Lân ở lại giữ quyền bảo hộ.
Trong dịp này Đỗ Thành Nhân có ý cậy công, lộng quyền lại bị dèm pha bị Nguyễn Vương giết đi, quân Đông Sơn là quân bản bộ của họ Đỗ nổi lòng công phẫn bỏ đi, một số chống lại cũng gây cho họ Nguyễn nhiều điều phiền phức86.
Tháng mười năm Tân Sửu (1781) Tiêm La cho quân xâm lấn Chân Lạp (Cao Miên) do lệnh của quốc vương Trịnh Quốc Anh. Hai tướng Chất Tri và Sô Xi điều khiển binh sĩ kéo vào đất của Nặc In khi đó đặt dưới quyền bảo hộ của chúa Nguyễn.
Nguyễn Ánh liền sai Chưởng Cơ là Nguyễn Hữu Thụy đem 3.000 quân sang Chân Lạp cứu nguy. Tại Chân Lạp, bọn tướng Tiêm hòa với tướng Việt rồi đem quân trở về gây cuộc đảo chính. Trong dịp này, quốc vương Tiêm La cho bắt vợ con của hai anh em Chất Tri đem giam giữ.
Chất Tri trở lại thì vừa đúng lúc Tiêm La đang bị cuộc nội loạn và thủ lãnh loạn quân là Phan Nha Văn Sản. Về đến nước Chất Tri truy tầm được quốc vương Trịnh Quốc Anh giết đi và tự xưng vua lấy hiệu là Phật Vương sau khi trừ được cả bọn Phan Nha Văn Sản.
Em là Sô Xi được phong làm Đệ Nhị Quốc Vương, cháu là Ma Lạc làm Đệ Tam Quốc Vương, rồi họ Chakkri lưu truyền đến ngày nay, và các vua Tiêm đều xưng là Rama.
Năm Giáp Thìn (1784) Nguyễn Ánh lại rước quân Tiêm La về giúp. Hai tướng Tiêm là Chiêu Tang và Chiêu Sương kéo sang Nam Việt hai vạn quân và 300 chiến thuyền, đi đến đâu quấy nhiễu dân chúng rất là tai hại.
Quân Tiêm thắng được Trương Văn Đa tiến đến tận Long Hồ, được tin này Nguyễn Huệ vội vào ngay Gia Định, áp dụng chiến thuật lùi để nhử địch vào các địa điểm chiến lược của mình là Định Tường.
Tại Xoài Nút, Huệ đặt phục binh bên Rạch Gầm. Quân Tiêm đến thì quân của Huệ đổ ra bất thình lình đánh cả hai mặt thủy bộ. Quân Tiêm xoay trở không kịp, chết và bị thương mười phần chỉ còn một hai chạy về nước.

3- Nguyễn Huệ Đánh Thuận Hoá
Trong những tháng cuối cùng của năm Giáp Thìn (1784), người ta có thể nghĩ rằng Tây Sơn đã kiểm soát hết Nam Hà vào tới Hà Tiên (Mạc Cửu lúc này cũng đã chết rồi) còn Nguyễn quân tuy chưa bị tan rã hoàn toàn nhưng chỉ còn là một lực lượng không

86 Năm 1777 Tây Sơn chiếm được Sài Gòn, Đỗ Thành Nhân đem quân Đông Sơn đánh chém được Tư Khấu Oai của Tây Sơn. Nhờ chiến công này Nguyễn Ánh lại có thực lực sai Lê Văn Quân ra đánh Bình Thuận và Diên Khánh.

đáng kể, phải đào vong ra nước ngoài hầu như không có tương lai. Tại Thuận Hóa tướng lĩnh của Bắc Hà trước kia là bọn Bùi Thế Đạt, Lê Quý Đôn và Phan Lệ Phiên, nay là Tạo quận công Phạm Ngô Cầu, Trấn thủ cũ của Sơn Nam hay mê tín, đầu óc tầm thường.
Năm Bính Ngọ (1786) Phạm Ngô Cầu cho Nguyễn Phú Như vào dò xét nội tình Tây Sơn. Khi Phú Như gặp Nguyễn Hữu Chỉnh tức là chỗ cố nhân, những điều hay dở của Thuận Hóa, cả chuyện lính Tam phủ đảo chính Trịnh Cán và nạn đói ở Bắc Hà, Phú Như cũng cho lọt hết vào tai Chỉnh.
Tây Sơn liền quyết định lợi dụng ngày cơ hội thuận tiện này để Bắc tiến.
Bấy giờ là cuối năm Giáp Thìn. Sau một thời gian sửa soạn, ngày 18 tháng 5 năm ấy, Huệ làm Long Nhương Tướng Quân Tiết chế thủy bộ chư quân, Vũ Văn Nhậm làm Tả đô đốc, Nguyễn Hữu Chỉnh làm Hữu đô đốc vừa do đường thủy, vừa do đường bộ vượt Hải Vân Quan đánh cho tới khi hết đạn, hết sức thì tự vẫn.
Quân Tây Sơn ra đến Thuận Hóa. Trấn thủ thành này là Phạm Ngô Cầu cử Hoàng Đình Thể cùng hai con ra kháng cự. Thể xông pha giết được vài trăm quân Tây Sơn nhưng khi hết đạn thì không được tiếp tế. Xét ra Cầu đã bị đòn phản gián của Nguyễn Hữu Chỉnh do một bức thư cố để lọt vào tay Cầu nói Thể đã bí mật hàng Tây Sơn. Thể liền quay trở lại tính giết Cầu thì cờ Tây Sơn đã bay trên mặt thành.
Hai con Thể vì bị trọng thương đã ngã gục ở chiến trường. Tỳ tướng Vũ Tá Kiên cũng tử trận. Thể đành tự tử trên mình voi cho khỏi nhục.
Phú Xuân thất thủ rồi đến lượt hai đồn Cát Doanh, Đồng Hải, thuộc hai tỉnh Quảng Trị, Quảng Bình cũng bị hãm do quân của Nguyễn Lữ, rồi mất nốt. Lữ ở lại trấn giữ Thuận Hóa, Nguyễn Hữu Chỉnh lĩnh một đạo thủy quân tiến ra Bắc trước. Nguyễn Huệ chỉ huy hậu quân theo sau, hẹn gặp nhau ở bến Vị Hoàng (Nam Định).

5- Nguyễn Huệ Ra Thăng Long (Sơn Nam Thất Thủ)
Quân Tây Sơn cả hai đạo thủy lục rầm rộ tiến ra Bắc Hà thế mạnh như gió bão. Bấy giờ là cuối tháng 5 năm Bính Ngọ (1786).
Chỉnh ra cửa Việt Hải (sau này đổi ra Việt An) rồi vào bến Nghệ An, cho du binh
đánh phá lung tung khiến dân tình bên Trịnh xao xuyến vô cùng.
Tướng giữ thành Nghệ An là Bùi Thế Tuy (con Bùi Thế Đạt) đốt doanh trại bỏ trốn. Tướng giữ thành Thanh Hóa là Tạ Danh Thủy cũng chạy. Nhờ không có sự trở ngại, quân của Chỉnh tiến dễ dàng tới Vị Hoàng (ngày 6 tháng 6 Bính Ngọ 1786) lấy được trăm vạn hộc thóc (mỗi hộc chừng 60 lít).
Chỉnh cho đốt lửa để làm hiệu từ non Côi, lửa bốc lên khiến ở xa Huệ đang dẫn một ngàn chiến thuyền theo gió Đông Nam tiến ra, trông thấy biết lục quân đã ra tới Sơn Nam.
Chẳng bao lâu hai quân gặp nhau ở Vị Hoàng, thế càng mạnh thêm. Triều đình Bắc Hà được tin, vô cùng sửng sốt, vội cử Trịnh Tự Quyền thống lĩnh 27 Cơ hiệu ra ngăn quân Tây Sơn.
Quyền đã loanh quanh mất 10 ngày mới chuyển được quân khỏi thành Thăng Long được 30 dặm, chúa Trịnh cử thêm Đinh Tích Nhưỡng là một danh tướng về thủy chiến (Nhưỡng là dòng Đinh Văn Tả, chức Liễn Trung hầu, quê ở Hàm Giang, huyện Cẩm Giàng tỉnh Hải Dương).
Vùng Sơn Nam đã trở nên bãi chiến trường khốc liệt cho hai bên, trong khi dân chúng già trẻ lớn bé đều hoảng hốt bồng bế nhau đi lánh nạn. Nhất là dân kinh thành như sống trong một cơn sốt rét. Bọn quan lại, văn cũng như võ, việc nước thì không lo, chỉ để ý việc chôn của, gìn giữ vợ con; giữa lúc này khói lửa chiến tranh bốc mù trời.
Nước lụt bấy giờ mới cạn, gió Đông Nam thổi không ngừng. Thuyền Tây Sơn dương buồm thẳng tiến. Quân Trịnh nạp đạn vào súng Bảo lân bắn ào ạt. Quân Tây Sơn lui vào bên sông chờ tối đến mới từ từ thả vài chục chiến thuyền sang mặt trận của Trịnh có đủ binh sĩ, kẻ giáo người kích.
Quân Trịnh bắn như mưa để ngăn lại. Thuyền Tây Sơn chìm dần trong im lặng.
Trời tảng sáng, nhìn ra Nhưỡng mới biết đã bắn hết đạn vào những thuyền chỉ có
đám binh sĩ kết bằng rơm của địch.
Biết mắc mưu, Nhưỡng liền cho quân bỏ thuyền chạy lên cạn thì đại đội thủy quân Tây Sơn sấn đến, đạn bắn vèo vèo như chuyển cả núi sông, các cổ thụ bên bờ cũng gãy đổ răng rắc. Quân Trịnh vẫn lùi.
Quân Nam xông lên đuổi, quân Bắc chết như rạ. Hai cánh quân của Trấn thủ Sơn Nam và của Trịnh Tự Quyền làm thế ỷ dốc cho Nhưỡng, thấy thủy quân đại bại mất tinh thần, liền tan vỡ.
Quân của Tây Sơn không gặp sức kháng chiến nào đáng kể nữa, liền tiến mãi vào Hiến Doanh (Phố Hiến tỉnh Hưng Yên).
Sơn Nam thất thủ ngày 24 tháng 6 năm Bính Ngọ (1786).

Phòng Tuyến Thứ Hai Của Trịnh Tan Vỡ
Bọn Trịnh Tự Quyền và Đinh Tích Nhưỡng bại trận càng làm cho triều đình Bắc Hà điên loạn.
Ưu binh và Nhất binh (lính Tam phủ) hàng ngày vẫn vỗ ngực khoe trung thành với vua và chúa vì thuộc Quí hương87, bảo nhau mỗi nhóm rút một nơi. Ở lại đương đầu với quân Nam Hà chỉ còn quân Bắc: Nghĩa binh.

87 Vua Lê, Chúa Trịnh xuất thân ở Thanh Hóa nên chỉ tin ở đám binh sĩ Thanh-Nghệ-Tỉnh và biệt đãi họ, do đó mà giữa quân dân đời Trung Hưng có sự chia rẽ. Gặp biến, sự thế lại càng bi đát. Kiêu binh bỏ

Và còn vài tướng lĩnh có liêm sĩ và tiết nghĩa là: Thạc Quận Công Hoàng Phùng Cơ với 500 quân nghĩa từ Sơn Tây về hộ vệ kinh thành. Quận Thạc cùng 8 con (kể cả rể) đem binh ra đóng ở hồ Vạn Xuân88 dàn trận đồ ở bến Thúy Ái (cùng thuộc huyện Thanh Trì). Chúa Trịnh đem hết tinh binh ra ngoài cửa Tây Long, bày trận dưới Ngũ Long Lâu.
Trận này khai diễn vào ngày 25 tháng 6 năm Bính Ngọ.
Quân Tây Sơn thừa thắng ở Sơn Nam liền nuốt giải trường giang (Nhị Hà) tiến lên bến Nam Dư để đánh bất thần vào quân Trịnh. Lúc này, đại đội chu sư của Nguyễn Huệ tới nơi thì tại bến Thúy Ái quân Trịnh còn neo thuyền, lên bãi chơi, chưa có phòng bị gì hết. Tây Sơn tới, quân Trịnh hoảng hốt không kịp xuống thuyền nữa, chạy tán loạn trong khi súng Cự thần của Nam Hà bắn như tưới. Một kẻ can đảm: Ngô Cảnh Hoàn, Quản Tiền Phong Cơ của Trịnh, cương quyết ở lại chống địch rồi bị tử trận trên mặt nước. Tiền Phong Cơ gục rồi mà Hoàng Phùng Cơ không hay. Đang khi Hoàng ăn cơm thì quân Tây Sơn đã vây chung quanh, khiến Phùng Cơ chỉ còn nước bỏ chạy.
Một đội quân của Trịnh do Mai Thế Pháp cố chặn đường Tây Sơn, nhưng bộ thuộc tan vỡ dần, Pháp túng thế nhảy xuống sông tự vẫn.
Trong trận này 6 con của Quận Thạc bị trúng đạn chết cả, Quận Thạc thấy thế nguy, đành kéo con trai là Hoàng Phùng Gia và con rể là Nguyễn Trọng Thu cùng vài chục binh sĩ liều chết mở một đường máu chạy về Hưng Hóa. Trong khi này, hồ Vạn Xuân là mồ chôn hầu hết quân Trịnh.
Vượt  được  tiền  tuyến  của  Trịnh  tức    sau  khi  đánh  tan  quân  Hoàng  Phùng  Cơ, Nguyễn Huệ rần rộ xông lên bến Tây Luông. Tiếng hỏa hổ nổ ầm ầm ghê rợn, tiếng binh sĩ hò hét và rên rỉ biến trận Tây Luông thành một cảnh địa ngục hỗn loạn gớm ghê máu chảy đầu rơi ào ạt. Chúa Trịnh phất cờ lệnh hò ba quân tiến. Quân Tây Sơn như hùm beo thấy mồi cũng lần xả vào địch như để nuốt chửng.
Nhưng xông vào trận chỉ có quân Nam hà mà thôi, còn quân Bắc Hà chẳng ai dám liều mạng. Chúa Trịnh liền thúc voi quay về vương phủ thì trên cửa Tuyên Võ cờ Tây Sơn đang phất phới bay.
Lịch sử ghi: Chúa Khải bỏ Thăng Long sau cuộc bại trận hết sức bi thảm vào ngày 26 tháng năm Bính Ngọ (1786).
Khải chạy đến làng Hạ Lôi tỉnh Phúc Yên thì bị dân ở đây bắt nộp cho Nguyễn Huệ.
Dọc đường Khải nhờ đêm tối rút dao đâm cổ mà chết (28-6 Bính Ngọ).

chạy trước và chạy đến đâu thì dân chúng giết đến đấy. Với đám quân dân nghịch nhau như nước với lửa, ngai vàng nghiệp chúa của Lê, Trịnh cũng đủ đổ rồi, còn kể chi những nguyên nhân khác.

88 Hồ Vạn Xuân tức là đầm Vạn Phúc thuộc huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông ở bên ngoài thành Thăng Long.

Huệ Gặp Vua Lê
Thắng trận xong, quân Tây Sơn vào đóng giữ hoàng thành rất nghiêm chỉnh, không động chạm đến tài sản và tính mạng nhân dân.
Theo Cương Mục quyển 46, tờ 23b-25b thì trong khi còn hành quân ở Vị Hoàng, Huệ đã phái một tỳ tướng đem binh bí mật đến Thăng Long để hộ vệ Hoàng gia (vua Lê). Khi quân Tây Sơn tới, các hoàng tử hoảng hốt nhưng viên tỳ tướng dâng tờ mật thư của Huệ báo trước cuộc vấn an, bấy giờ vua Lê mới an lòng.
Ngày 26 tháng 6, Nguyễn Huệ dẫn bọn Công Chỉnh và các tướng tá vào cung Vạn Thọ. Trước mặt nhà vua, ông chúa Tây Sơn có những cử chỉ hết sức khiêm nhượng.
Trong cuộc đàm thoại, Huệ nói quân Nam hà ra Bắc chỉ có ý phù Lê diệt Trịnh và làm theo lòng trời.
Lúc này các cựu thần đi lánh nạn hết không còn một ai, vua Lê nghe lời Chỉnh cho đi tìm Phan Lê Phiên, Trần Công Sán, Uông Sĩ Điển đến lo việc thù tiếp vị thượng khách.
Rồi ít bữa sau dân chúng lại lục đục kéo nhau trở về, chợ búa lại họp, các hoạt động hàng ngày lại tiếp tục theo nhịp sống bình thường.
Qua hôm sau, vua Lê sai người sang phong cho Nguyễn Huệ (Huệ trú tạm bên Trịnh phủ) làm Nguyên Súy, Dực Chính Phù Vận Uy Quốc Công.
Huệ nhận rồi sai người vào hoàng cung tạ ơn, nhưng trong lòng có ý bất mãn, nghĩ rằng triều đình Bắc Hà lấy chức tước phong cho mình có ý lung lạc và coi Huệ vào loại người không biết gì chăng.
Công Chỉnh khéo léo lắm mới làm cho Huệ nguôi giận và sang thảo luận với vua Lê kiếm cách làm đẹp lòng người đang nắm trong tay vận mệnh Hoàng Gia và Bắc Hà. Rồi người ta đi đến chỗ gả cho chủ súy Tây Sơn cô gái thứ hai mươi mốt của nhà vua là Ngọc Hân công chúa bấy giờ mới 16 tuổi, nhan sắc rất mặn mà89, lại có tài văn chương thi phú.
Vài ngày sau, bệnh tình của nhà vua thêm trầm trọng, rồi mất vào ngày 17 tháng 7 năm Bính Ngọ (1786), sau 47 năm ở ngôi làm bù nhìn cho họ Trịnh.
Do sự chấp thuận của Nguyễn Huệ, Hoàng Tôn Lê Duy Kỳ được nối ngôi lấy niên hiệu là Chiêu Thống90.

89 Thời nào người đàn bà cũng đóng những vai trò hết sức quan trọng để giải quyết những nổi khó khăn trong tình thế đặc biệt. Ở đây người ta mượn cái nụ cười của giai nhân để đè dẹp ngọn lửa giận của Tây Sơn có thể đốt cháy cả Bắc hà bấy giờ.
90 Về việc Duy Kỳ lên ngôi "Lê Quý Kỷ Sự" chép: "Tự tôn không xin phép trước với chúa Tây Sơn, vội lên ngôi ngay trước linh cữu của vua Hiến Tông rồi lại tự tiện phát tang xong mới cho người sang báo với Huệ. Huệ giận lắm. Công chúa Ngọc Hân phải mật sai người tin cho Duy Kỳ sang xin lỗi Huệ mới yên.

Nguyễn Huệ về Nam
Trước khi cất quân ra Bắc Hà, sợ "kiểu mệnh" theo lời của Nguyễn Hữu Chỉnh, Huệ đã gửi thư91 về Qui Nhơn "Xin đại cử Bắc phạt". Vua Thái Đức có ý không bằng lòng vội cho người ra Phú Xuân đòi đình chỉ việc Bắc tiến thì Huệ đã ra tới Thăng Long và đã hạ được hết thảy lực lượng của Bắc Hà. Nhạc đành sửa soạn lên đường, biết rằng cử người ra gọi Huệ cũng không được. Tháng 8 năm Bính Ngọ, với 500 thân binh và 100 con voi, Nhạc lật đật ra Thăng Long tuyên bố đi tiếp ứng cho Nguyễn Huệ để tránh mọi điều dị nghị.
Lại một phen nữa cờ Tây Sơn tiến ra Bắc Hà.
Được báo động vua tôi nhà Lê và dân chúng Thăng Long nôn nao, hoảng hốt. Gặp vua Lê, vua Thái Đức tuyên bố một câu rất chững chạc:
"Họ Trịnh chuyên quyền, chúng tôi đem quân ra đây chỉ có ý giúp nhà vua mà thôi. Nếu đất Bắc Hà của Trịnh thì một tấc chúng tôi cũng lấy, nhưng của nhà Lê thì một tấc chúng tôi cũng không tưởng, chỉ mong nhà vua giữ vững kiền cương rồi "hai nước" chúng ta đời đời giao hảo"...
Trước sự dứt khoát này, vua tôi nhà Lê mới hết lo lắng và binh tướng Tây Sơn cũng hoan hỉ, bởi vì họ chỉ mong sớm trở về với gia đình. Trong dịp này, Vũ Văn Nhậm vốn ghét Nguyễn Hữu Chỉnh, liền bàn với Nguyễn Huệ bí mật rút về Nam bỏ Chỉnh lại cho dân Bắc Hà sửa trị.
Rồi giữa canh ba đêm ấy, quân Tây Sơn lặng lẽ kéo đi mang theo của cải, kho đụn Bắc Hà sau khi cho người từ giã riêng vua Chiêu Thống.
Sớm hôm sau Chỉnh mới biết tin, sợ quá vội cùng vài gia nhân chạy ra bờ sông, cướp một chiếc thuyềm buồm, chèo gấp vô Nghệ. Một số người kẻ chợ đuổi lấy gạch, đá ném theo, Chỉnh tự tay giết vài người mới thoát được.
Quân Huệ đến Nghệ An thì Chỉnh cũng tới kịp. Huệ có ý ngượng bên ngoài mà bề trong thì rất khó chịu, nhưng cũng vổ về Chỉnh. Huệ nói: "Người Bắc chưa thật lòng với ta, danh tướng của họ như Đinh Tích Nhưỡng, Hoàng Phùng Cơ vẫn còn hoạt động, ông nên ở lại Nghệ An cùng Nguyễn Văn Duệ để đề phòng mai hậu mới được".
Sau đó, Huệ dặn ngầm Vũ Văn Nhậm rằng: "Chỉnh ở lại Nghệ An là quê hương của hắn, phải xem kỹ mọi hành động, đồng thời theo dõi lòng người đối với hắn yêu ghét thế nào, cấp báo cho ta hay..."
Về phần Chỉnh, từ ngày không được theo sát Bắc Bình vương Nguyễn Huệ, Chỉnh đã thấy mình ở cái thế tiến cũng khó mà thoái cũng dở, biết Nguyễn Huệ cơ mưu ghê gớm, đã không tin thì tai họa sẽ đến chưa biết giờ phút nào. Chỉnh đành ráo riết kiếm các tay lưu vong, lập cơ ngũ ngầm có ý chiếm hẳn Nghệ An gây thế tam phân thiên hạ. Nguyên sau khi Tây Sơn trở về Phú Xuân, vua Chiêu Thống vừa lên ngôi, đình thần toàn là những kẻ bất tài nên giòng họ Trịnh có Trịnh Lệ và Trịnh Bồng lại xuất đầu lộ

91 Huệ sợ chưa có lệnh vua anh, đã đem quân ra Bắc là mạn phép, làm liều.

diện tranh nhau làm chúa, noi theo thói cũ. Vua Chiêu Thống bất đắc dĩ phải để Trịnh Bồng tái lập phủ Liêu và phong Bồng làm Án Đô Vương. Bồng lại hiếp vua như các tiên chúa họ Trịnh rồi trong dịp này các hào mục ở các địa phương lấy danh nghĩa vua Lê cũng nổi lên như mười hai sứ quân xưa kia. Chính sự Bắc Hà đã rối, lại thêm nạn đói kém, dịch lệ bùng ra càng tăng thêm cảnh lầm than, khổ cực. Vua Chiêu Thống không còn cách gì đối phó đành cho sứ giả vào Nghệ An, khẩn thiết mời Chỉnh ra Bắc Hà yên dân trừ loạn92, Chỉnh liền để người tay chân là Lê Duật ở lại với Nguyễn Văn Duệ, còn mình thì cùng quân đội, phất cờ "hộ vệ" kéo ra Thăng Long.
Quân của Chỉnh tới đâu, quân Trịnh Bồng bỏ chạy đến đó, Chỉnh ung dung bước vào Thăng Long, tiền hô hậu hét. Cái địa vị cao quý của ông chúa cuối cùng họ Trịnh, một buổi mai đã sang tay chủ mới: Nguyễn Hữu Chỉnh.
Vua Lê Chiêu Thống phong cho Chỉnh chức Bình Chương Quân Quốc Trọng Sự, Đại Tư Đồ Bằng Trung Công để thưởng công đã dẹp được kẻ lộng quyền.
Việc đầu tiên của Chỉnh ở Triều Lê là chiếm đóng Trịnh phủ làm Đại bản doanh, xin phong cho con là Nguyễn Hữu Du làm "Thế tử" lập dinh ở phía Đông, cắt đặt tay chân vào các địa vị trọng yếu trong triều và ở các trấn. Sau này các quan lại tâu vua phong cho Chỉnh tước Nhất Tự Công, được mở phủ và đúc ấn quân Võ Thành, viện khu mật thuộc về cả đấy93.
Từ đó mọi việc Chỉnh đều quyết đoán lấy, không hỏi ý vua Lê, rút cục về phần vua Lê, tránh được nạn Trịnh Bồng thì lại rơi vào cái họa Cống Chỉnh, khác chi chuyện quỷ tha ma bắt.
Không khí chính trị Bắc Hà lại nặng nề như trước. Vua ngán, dân buồn, con thuyền quốc gia vẫn bồng bềnh trong cơn sóng dữ.
Chỉnh dò xét biết nhiều người bất mãn với mình, bởi các quan có một số cáo bệnh về ở ẩn nơi núi, bể hay đồng ruộng nên tìm cách mua chuộc bằng việc mở khoa thi, tuyển dụng nhân tài.
Rồi trước những việc chuyên quyền của Chỉnh đã có phen vua Chiêu Thống mưu với bọn cận thần Ngô Vi Quý vời Nguyễn Hữu Chỉnh vào tiền điện để đánh thuốc độc cho chết, nhưng khi vua gặp Vũ Trinh đem chuyện này ra bàn thì Trinh gạt đi, lấy lẽ đang có tin Tây Sơn lăng bức ngoài biên thùy, triều đình lại chưa ổn, lòng dân còn xao xuyến, hãy còn cần Chỉnh làm móng vuốt, nhất là Chỉnh chưa có hình tích gì gian trá bất tín. Chiêu Thống nghe ra mới bỏ việc này đi, nhưng sau cũng có người mách Chỉnh việc này.
Chỉnh từ đó có ý chán nản, ít nhòm ngó vào việc nước, mà hào kiệt các nơi lại rạo rực.

92 Trịnh Bồng sau cuộc bại vong đã bỏ đi tu và từ đó không ai thấy tông tích của ông ta nữa.
93 Phủ quân Võ Thành có uy quyền như Bộ Tổng Tư Lệnh quân đội ngày nay.

Tin của Duật từ Nghệ An đưa ra cho biết anh em Tây Sơn đang lủng củng với nhau, Chỉnh liền có ý muốn lật đổ Tây Sơn, mật giao kết với Nguyễn Văn Duệ thực hiện mưu "Nam Bắc phân trị"94.
Vũ Văn Nhậm trước đây đã được giao phó nhiệm vụ dò xét về bọn Duệ và Chỉnh được rõ dự định này liền dùng binh phù gọi Duệ về Nam; Duệ không chịu e rằng anh em vua Tây Sơn bất hòa với nhau, mình là tướng cũ của Nhạc, về chuyến này có điều bất lợi chăng. Duệ tính luôn chuyện thông đồng với Chỉnh để cùng chống lại với Bắc Bình vương. Trong việc này Duệ có sự kết cấu với Tham nghị Nguyễn Đình Viện.
Vũ Văn Nhậm cho chạy thư vào báo cáo với Bắc Bình Vương tình hình Nghệ An, Vương trao ngay cho Nhậm toàn quyền giải quyết vấn đề Duệ và Chỉnh.
Quân Nhậm đi gấp, sau một ngày đêm đến trại Kỳ Hoa. Duệ hoảng sợ dặn Đình Viện giữ lấy Nghệ An, còn mình trốn về với Nhạc.
Tại đây tướng lĩnh Nghệ An bất đồng chánh kiến, Đình Viện cùng các con đánh lộn nhau với Nguyễn Thuyên nên khi Vũ Văn Nhậm tới thì Nghệ An lại sang tay quân đội Nam Hà, không tốn một mũi tên, hòn đạn.
Trong khi bầu trời chính trị Việt Nam còn vẩn đục, một việc khá buồn cười đã xảy ra là triều đình Bắc Hà cử sứ bộ do Trần Công Sán cầm đầu vô Nam đòi Nghệ An (việc này vào tháng ba năm Đinh Mùi - 1787). Lúc này Phú Xuân đã phái Vũ Văn Nhậm đem quân ra chiếm đóng trấn này95.
Sứ bộ vào đến Nghệ An thì Vũ Văn Nhậm đã có mặt tại đây mở tiệc khoản đãi sứ giả rất trọng hậu. Đối với việc đòi đất Nghệ An, Nhậm cười bảo Sán rằng: "Nghệ An là một cấp nhỏ, có nghĩa lý gì đối với đại cục mất còn, sứ bộ đi thêm mệt sức, uổng công mà thôi... chỉ e chim đã lìa tổ, trở về khó có cành mà đậu!".
Câu này làm cho Ngô Nho hoảng sợ, Nho bàn với Công Sán nên đổi quốc thư đòi đất Nghệ An làm bức thư cầu Tây Sơn cho vua Lê được tập phong, nhưng Công Sán không chịu.
Đến Phú Xuân quốc thư dâng lên, Bắc Bình Vương coi xong nổi nóng, liền mạt sát ngay Chỉnh và mắng triều đình Bắc Hà có ý phỉnh phờ lừa gạt. Sứ giả không đổi nét mặt, ung dung biện luận từng điểm và khá lâu.
Khi đó trời đã tối, Bắc Bình vương bảo Công Sán: "Các ông cứ về sứ quán nghỉ ngơi để ta nghĩ kỹ vài lần rồi sẽ liệu định". Sán đỡ lời luôn: "Đại vương nghĩ một lần cũng

94 Mưu Nam Bắc phân trị là lấy Hoành Sơn và Linh Giang (sông Gianh) làm phân giới rồi chia ra hai miền Nam Bắc như các tiền triều để cùng hưởng phú quý. Lại có sách chép: Nghe tin Duệ có ý thông đồng với Chỉnh, Bắc Bình Vương liền phái Nguyễn Văn Đức ra đóng ở Diễn Châu (Nghệ An) để cùng trông coi trấn này, nhưng khi Duệ và Đức biết Nam hà đang có mâu thuẫn nội bộ bèn viết thư cho Chỉnh bàn cùng hợp lực kéo vào Nam gây loạn, khi thành công sẽ chia nhau đất đai như trên đã nói, nhưng Chỉnh do dự nên việc này không thành.
95 Đây là một việc thiếu tâm lý vì Tây Sơn và nhà Lê chưa thật tình ở tốt với nhau, lại còn đang nghi ngờ nhau là đàng khác.

đủ, nghĩ vài lần e lẫn chăng? Tôi đây xin liều chết cho rồi". Vương giận lắm truyền nhốt sứ bộ mỗi người một nơi.
Bây giờ giữa Huệ và Nhạc không khí đang nặng nề. Người ta ngại nội tình bất ổn này lọt vào mắt của phái bộ Bắc hà, rồi Bắc Bình Vương đưa trăm lạng bạc nói là của Công chúa (Ngọc Hân) gửi tặng sứ bộ. Đô đốc Vũ Văn Nguyệt được lệnh tiễn đưa sứ bộ về Bắc bằng đường biển cùng 20 kẻ tùy tùng đến cửa bể Đan Nhai, Nguyệt ngầm sai đục thuyền, cả phái đoàn đều bị chết chìm cả. Hôm ấy là ngày 11 tháng 4 năm Đinh Mùi.

6- Chim Bằng Gãy Cánh (Quân Tây Sơn Ra Bắc Lần Thứ Hai)
Giữa lúc Nguyễn Hữu Chỉnh đang sống những giờ phút vinh quang nhất thì Vũ Văn Nhậm theo kế hoạch của Bắc Bình Vương liền viết thư ra hỏi tội thông đồng với Nguyễn Hữu Duệ. Bấy giờ Chỉnh đã hiểu rõ Nghệ An đổi chủ rồi và cũng biết sức mình còn kém Tây Sơn, vội viết thư cho Vũ Văn Nhậm để giải thích thái độ của mình, đại ý nói mình vẫn trung thành với Bắc Bình Vương vì bị kẻ yêu người ghét nên có nhiều điều phao vu oan uổng.
Được  thư  Chỉnh,  Nhậm  cũng  hồi  âm  an  ủi  Chỉnh    khuyên  Chỉnh  nên  dẹp  nốt Nhưỡng rồi về Nam để tỏ lòng ngay thẳng.
Sau này Huệ và Nhạc giảng hòa với nhau, Bắc Bình Vương trong một hội nghị quân sự tại Quảng Nam đã nêu ra vấn đề Nguyễn Hữu Chỉnh.
Bắc Bình Vương cáo tội Chỉnh ôm chân vua Lê như họ Trịnh xưa kia, rồi truyền lệnh cho Ngô Văn Sở và Phan Văn Luân ra Nghệ An họp bàn với Vũ văn Nhậm để mở cuộc Bắc phạt. Nhưng trước khi hai tướng trên đây lên đường, Bắc Bình vương đã ra lệnh riêng với Sở rằng Vũ Văn Nhậm là một tướng tài nhưng cũng không đáng tin, phải canh chừng96. Tháng 11 năm Đinh Mùi, đoàn quân bách chiến của Tây Sơn đã ra tới Thanh Hóa. Ngựa trạm chạy rầm rập trên đường báo tin về Thăng Long. Quang cảnh nhân dân chạy loạn, già trẻ, lớn bé bồng bế nhau nheo nhóc lại tái diễn trong làn không khí đầy lo âu gần như nghẹt thở ngày nào.
Vua Lê nhóm họp các tướng lĩnh, đại thần ngay tại phủ của Chỉnh.
Sau một cuộc thảo luận, Nguyễn Như Thái được cử làm Thống lĩnh, Ninh Tốn làm Tham Tán Quân Vụ cùng tiến quân vào Thanh Hóa. Tại đây quân của Lê Duật đã bị quân của Ngô Văn Sở đi men núi, lén qua sông Tất Mã (sông Mã)97 đánh vào sau lưng.
Quân Duật phải bỏ chạy giữa đêm tối, đến Cao Động thì lại thấy quân của Văn Sở đằng trước mặt. Lâm vào thế gọng kìm, trước sau dồn lại, quân của Duật tan vỡ trong

96 Văn Nhậm là tả quân của Bắc Bình Vương nhưng là rể của vua Thái Đức. Bắc Bình Vương có bụng nghi ngờ cho rằng Văn Nhậm dầu sao vẫn có cảm tình với bố vợ nhiều hơn với mình rồi kinh nghiệm cho hay trên đường chính trị khi người ta đã nghi nhau là sẽ kiếm cách giết nhau.
97 Sông Mã ở vào khoảng tiếp giáp ba huyện Thụy Nguyên, An Định và Vĩnh Lộc thuộc tỉnh Thanh Hóa.

cơn hoang mang, khủng khiếp. Khi đại quân của Nguyễn Như Thái tới Châu Cầu98 thì được tin Lê Duật tử trận rồi. Quân của Thái được hai vạn gồm quân tinh nhuệ của bản đạo và các đạo khác. Ninh Tốn bàn đem quân giữ núi Tam Điệp (đèo Ba Dội) lợi dụng thế hiểm và chỗ cao, nơi này còn là hàng rào ngăn cách Đàng trong với Đàng ngoài.
Quân của Thái vội gấp rút đến giữ bến đò Gián Khẩu, một phần lớn đi tắt đến bến đò Nghệ99 tính đánh vào phía sau quân Tây Sơn, nhưng đến Điềm Xá100 thì gặp lực lượng Đàng trong đại bại chạy về Sơn Minh101.
Kế hoạch của nhà Lê là chiếm trước đèo Ba Dội thì quân Thái bắt đầu lên đường, quân Tây Sơn thắng Lê Duật xong đã vội đến chiếm núi Tam Điệp xong rồi.
Đã bất lợi ngay trận đầu, nay lại được tin quân Tây Sơn cách mình chỉ có vài dặm, Thái hoảng hồn không ngờ Tây Sơn đã tiến nhanh quá sức tưởng tượng. Một trận kịch chiến xảy ra từ sáng đến trưa, đã cô thế lại không có quân tiếp ứng, Thái cùng binh sĩ bị đánh tan hoang, riêng Ninh Tốn đại bại như đã đem lại một cơn sốt rét cho chính quyền Bắc Hà.
Vua Lê Chiêu Thống cũng hoảng hốt chạy sang trao cho Chỉnh cờ Tiết và cây Việt để Chỉnh toàn quyền với tình thế. Chỉnh vẫn làm ra vẻ cứng để yên lòng vua Lê, rồ thân mang ba vạn quân kéo xuống Hoàng Mai, cắt Hữu Du cầm Ngũ Duệ cơ quân đi trước. Du đến sông Thanh Quyết thì ngừng lại, đắp lũy ở Bắc ngạn sông ấy và dựng 18 đồn. Bấy giờ vào tháng chạp, đêm xuống càng rét nhiều, quân lính của Du đang đốt lửa sưởi thì quân Vũ Văn Nhậm ập tới và cứ nhằm chỗ có lửa sáng mà bắn.
Quân Du vỡ ngay lập tức. Chỉnh ở Bình Vọng (tức làng Bằng thuộc phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông) nghe báo quân Du thua vỡ, đang bối rối thì Du chạy về tới.
Chỉnh hạ lệnh rút về Thăng Long để mời vua Chiêu Thống sửa soạn đi lánh nạn và mang cơ thiếp của mình chạy102 đi Kinh Bắc tính nhờ Nguyễn Cảnh Thước là một tướng dũng lược đáng tin cậy và ở đây thành trì kiên cố, lại có sông ngăn cản, ít nhất lợi về thế thủ trong khi chờ gọi được quân Cần vương tới.
Rồi vua Lê sang nhà Chỉnh cùng chạy khỏi Thăng Long.
Chập tối Vũ Văn Nhậm đã kéo được quân vào thành. Vua và hoàng gia chạy được qua sông (sông Nhị). Đến đây quân lính trốn hết quá nửa chỉ còn 430 người và 60 cỗ ngựa (phút cuối cùng Hữu Chỉnh còn thu nhặt được vài ngàn binh để ủng hộ vua qua sông chạy sang Bắc...)

98 Châu Cầu là xã sở tại huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam.
99 Bến đò Nghệ thuộc Trại Nghệ, làng Đại Hữu, huyện Gia Viễn tỉnh Ninh Bình.
100 Một làng thuộc huyện Gia Viễn
101 Tục gọi là Sơn Miêng, nay thuộc phủ Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông.
102 Vợ con Chỉnh ở làm tin bên Tây Sơn; khi Chỉnh ra Bắc lần sau chỉ có mang hầu và con nàng hầu mà thôi.

Bộ tướng của Vũ Văn Nhậm là Nguyễn Văn Hòa được lệnh đuổi theo đám người bại trận. Tới núi Tam Tầng thuộc huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang thì Hòa theo kịp Chỉnh. Hòa chia quân làm hai đạo, một đạo đi vòng sau núi đánh tập hậu. Chiến thuật này làm quân  của  Chỉnh  rối  loạn  ngay.  Hữu  Du  bị bắt và bị chặt đầu ngay, còn Chỉnh đang phóng ngựa chạy thì bỗng bị ngã vật xuống do ngựa bị thương. Quân Tây Sơn liền trói Chỉnh bỏ vào cũi mang thẳng về Thăng Long.
Với giọng hách dịch, Vũ Văn Nhậm kể tội Chỉnh từ chân tơ, kẽ tóc rồi vặn hỏi tại sao làm phản. Chỉnh không van nài, chỉ đáp gọn một câu: "Chỉ vì cái thế như vậy".
Rồi Chỉnh bị xé xác.

Phần 3 - Chương 20
Một Võ Công Oanh Liệt Nhất Của Việt Nam Cuối Thế Kỷ 18

- Cái chết của Vũ Văn Nhậm
- Chiến sự Việt Thanh
- Cuộc giao thiệp giữa Tây Sơn với nhà Thanh
- Việc mở mang chính trị của vua Quang Trung

1- Cái Chết Của Vũ Văn Nhậm
Chỉnh bại trận bị phanh thây, về phía hoàng gia nhà Lê cũng trải nhiều khổ cực. Vua Chiêu Thống sai Lê Quýnh cùng 30 người tông thất đưa bà Hoàng thái hậu, ba Hoàng phi và Hoàng tử lên Cao Bằng. Từ đó nhà vua chạy lạc lõng từ Hải Dương về Sơn Nam cùng mấy kẻ tôi trung. Bọn Đinh Tích Nhưỡng thấy thế nhà Lê suy tàn cũng quay ra làm phản. Vua Chiêu Thống đành chạy qua Tàu cầu cứu. Nhà Lê tính ra trị vì dân tộc Việt Nam hai phen (Tiền Lê và Hậu Lê) được 360 năm tuy được một thời trung hưng nhưng chỉ đóng vai bù nhìn cho nhà Chúa. Rồi chúa đổ thì vua cũng tàn (1788).
Về phần Vũ Văn Nhậm bình định xong Bắc Hà liền thiết lập ngay bộ máy cai trị để chấm dứt chính quyền của con cháu nhà Lê, và cho người đi kiếm vua Chiêu Thống nhưng không được. Nhậm phải cử Sùng Nhượng Công Lê Duy Cẩn lên làm Giám Quốc cho yên lòng dân Bắc Hà.
Thủ đoạn chính trị này cũng không bưng mắt được sĩ dân ở đây, do đó vị Giám Quốc chỉ có vài Hoàng thân và vài võ tướng theo mà thôi.
Vũ Văn Nhậm, từ ngày diệt được Chỉnh có ý kiêu ngạo và độc đoán khiến bọn Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân làm Tham Tán Quân Vụ bất bình103. Nhân trước đây, Bắc Bình


103 Trước đây Nhậm là tướng của chúa Nguyễn, bị bại trận hồi tháng 5 năm Bính Ngọ (1786) tại Gia Định. Nhậm đã toan tự vẫn cho vẹn tiết thì Nguyễn Huệ dụ hàng bởi Nhậm đã từng làm Tiết Chế của Nam Hà tỏ ra là một tướng có tài. Huệ mang Nhậm về làm tả tướng rồi Nhậm được vua Thái Đức gả con gái cho. Địa vị của Nhậm như vậy đáng kể là tốt đẹp. Sau ít lâu anh em Tây Sơn bất hòa. Nhậm cố giữ thái độ trung lập nhưng vẫn không quên mình là rể của Trung Ương Hoàng Đế rồi trong khi có nội biến Nhậm đã có phen xin về Quy Nhơn triều kiến. Huệ tất nhiên không cho lại còn đẩy ra Nghệ An rồi trao cho sứ mạng Bắc phạt để trừ Cống Chỉnh. Nhậm thành công như ta đã thấy rồi giữ vai chủ tể tại Thăng Long giữa lúc vua tôi nhà Lê lạc lõng bốn phương trời. Cái công lớn này càng làm cho Huệ nghi ngại,

Vương Nguyễn Huệ vốn có óc đa nghi bởi Nhậm là con rể của vua Thái Đức nên đã dặn Sở và Lân canh chừng và cho chia xẻ quyền hành để kiềm chế Nhậm một phần nào. Nhậm mất lòng họ, Sở liền ngầm báo cáo về Phú Xuân rằng Nhậm có ý tự vương (Theo Thanh Triều Sử Lược và Lê Kỷ Dã Sử). Làm đại tướng ở ngoài cõi, uy danh lớn bao nhiêu thì dễ bị người ghen ghét bấy nhiêu rồi số phận của Nhậm đã bị kết liễu một cách bi thảm sau đó ít ngày.
Bắc Bình vương được mật thư của bọn Sở lập tức lên đường. Mười ngày sau, Vương ra tới Thăng Long (Mậu Thân - 17880 hồi canh tư. Vương ập vào Tổng hành dinh giữa lúc Nhậm đang ngủ say, Vương cho võ sĩ đâm chết Nhậm ngay trên giường.
Giải quyết xong vấn đề Vũ Văn Nhậm, Vương họp các quan văn võ của mình và của nhà Lê để tổ chức tân chính quyền.
Nguyễn Huệ đặt bốn trấn tướng phụ trách quân sự tại Sơn Nam, Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải Dương là Hòa Nghĩa hầu, Lôi Quang hầu, Nguyệt Quang hầu, và Hám Hổ hầu. Bốn võ quan khác giữ bộ Lại, Chính Ngôn hầu giữ bộ Hộ, Ước Lễ hầu giữ bộ Lễ và Lộc Tài giữ bộ Hình cũng là tay chân của Vương từ Phú Xuân ra. Tất cả những người này đều thuộc quyền Đại tư mã Ngô Văn Sở và thuộc cấp bộ Trung ương. Một số quan nhà Lê như Phan Huy Ích, Ngô Thì Nhậm, Vũ Huy Tấn, Trần Bá Lãm chỉ đóng vai phụ thuộc trong bộ máy chính quyền đời bấy giờ mà thôi. Ở cấp phủ, huyện thì Vương cho đề cử, nghĩa là theo lối giới thiệu để có quan cai trị, tại các địa phương gồm hai loại: Văn phân Tri và Võ phân Xuất. Còn những lại viên thuộc các Ty thì tùy sự tuyển dụng của Ngô Văn Sở.

2- Chiến Sự Việt Thanh
Việc vua Chiêu Thống mất nước, Tây Sơn lập tân chính quyền ở Bắc Hà được hai cố thần nhà Lê là Nguyễn Huy Túc và Lê Duy Đản vượt biên giới sang báo cáo cho Tổng đốc Lưỡng Quảng là Tôn Sĩ Nghị và Tuần phủ Tôn Vĩnh Thanh. Bọn này liền dâng sớ lên xin vua Càn Long gấp rút lợi dụng cơ hội này sang chiếm nước Nam, bề ngoài lấy danh nghĩa dựng lại họ Lê và trừ quân Tây Sơn. Vua Càn Long chấp thuận luôn đề nghị này và ra lệnh chu biện việc ăn ở cho cung quyến vua Chiêu Thống cùng cho nhà vua theo quân Thanh về Nam chinh. Việc đã quyết định xong, triều Thanh liền huy động binh    bốn  tỉnh  Vân  Nam,  Quí  Châu,  Quảng  Đông,    Quảng  Tây  được  tất  cả  là 200.000 người, chia làm ba đạo kéo vào nội địa nước ta104. Đạo thứ nhất do chính họ Tôn và Đề đốc Hứa Thế Thanh chỉ huy theo đường Nam Quan đổ xuống.
Đạo thư nhì do Đề tổng họ Ô, lĩnh quân Vân Quý (hai tỉnh Vân Nam, Quí Châu) từ Tuyên Quang tiến sang.

nhất là bọn Ngô Văn Sở phần muốn lập công, phần khó chịu về sự độc đoán của Nhậm trước kế hoạch thôn tính Bắc Hà, thường gởi báo cáo mật về Phú Xuân cho Bắc Bình Vương. Những báo cáo này tất nhiên là những bản án nặng nề đối với Chế Nhậm.

104 Trước khi quân Thanh lên đường Tôn Sĩ Nghị họp tướng sĩ đã đưa ra tám điều quân luật.

Đạo thứ ba do Điền châu Tri phủ, Sầm Nghi Đống từ Cao Bằng kéo vào.
Ngô Văn Sở được tin quân Thanh kéo sang tới tấp liền nhóm các văn võ quan liêu nhà Lê sau khi tướng Trấn thủ Lạng Sơn là Phan Khải Đức hàng giặc, phó tướng Nguyễn Văn Diễm thế cô rút về Kinh Bắc với Nguyễn Văn Hòa.
Một bức thư ký tên Giám Quốc Sùng Nhượng Công, Lê Duy Cẩn được đưa sang xin hoãn binh với Tôn Sĩ Nghị. Rồi các tướng Tây Sơn mở cuộc thảo luận.
Nhiều kẻ bàn dùng phục binh đánh quân Thanh như vua Thái Tổ nhà Lê diệt bọn Liễu Thăng, Lương Minh trước đây duy Ngô Thì Nhậm chủ trương kế hoach, nhử giặc vào sâu nội địa, thủy quân rút về Biện Sơn trước, lục quân kéo vào đóng giữ núi Tam Điệp rồi báo tin vào cho Bắc Bình Vương.
Chiến lược này được chấp thuận, binh sĩ các đạo đều được lịnh về hội ngay dưới cờ của Tiết Chế Ngô Văn Sở tại bờ sông Nhị vào năm hôm sau.
Sở bàn kế hoạch lui quân.
Riêng Phan Văn Lân khảng khái xin đem 1000 quân đi đánh. Trời bấy giờ rét buốt. Quân Tây Sơn vượt sông Nguyệt Đức đánh vào quân Thanh đang đóng ở núi Tam Tầng. Súng đạn của Thanh bắn ra như mưa. Quân Tả Hữu Dực bắn châu vào quân Tây Sơn chết rất nhiều. Tôn Sĩ Nghị lại phái một toán kỵ binh từ mạn thượng lưu vượt qua sông đánh úp lấy đồn Thị Cầu. Đồn này phát hỏa, Lân cả sợ rút về.
Ngày 21 tháng 11 năm Mậu Thân (1780) không còn một bóng quân Tây Sơn ở trên đất Bắc, thành Thăng Long bỏ ngỏ, quân của Nghị vào đóng và tướng doanh của Nghị đặt tại Tây Long Cung. Theo lời vua Thanh đã dặn lấy xong thành này rồi trao ấn cho Duy Kỳ để tấn phong làm An Nam Quốc Vương. Đây là một chước để ràng buộc lấy lòng dân...
Ngày 22, Sĩ Nghị làm lễ ở điện Kính Thiên để làm lễ sách phong cho vua Lê Chiêu Thống.
Trước biến cố năm Mậu Thân, nông dân Bắc Hà đã mất luôn mấy vụ mùa liền, cảnh huống rất là nheo nhóc, bi thảm. Quân Thanh tới nhân dân càng điêu đứng thêm. Đã đói lại loạn mà loạn luôn mấy năm thì còn sức nào mà chịu nổi. Bọn ngoại nhân ỷ thế làm bậy, hàng ngày như đánh người, cướp của, hãm hiếp đàn bà con gái không còn kiêng nể một thứ gì.
Tình dân đã rối ren mà hoàng gia cùng quan liêu cũng hết sức lủng củng do tính nhỏ nhen vụng dại của vua Chiêu Thống khiến nhiều người sinh chán nản. Nguyên vừa về đến Thăng Long vua Chiêu Thống đã nghĩ ngay đến sự đền ơn trả oán: đàn bà trong tông thất lấy tướng tá của Tây Sơn đã có mang vậy mà vua Chiêu Thống sai mổ bụng, lấy thai quăng đi để chết cả mẹ lẫn con; ba vị Hoàng thúc bị chặt chân quăng ra giữa chợ, Hoàng đệ Duy Lưu, Trấn Thủ Tuyên Quang Phạm Như Toại, Phò mã Dương Hành, Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Nguyễn Hoàn, Phan Lê Phiên, Mai thế Uông v.v... kẻ bị tử hình, người bị cách chức giáng chức khiến bà Thái Hậu phải bất bình: "Ta cay đắng mới xin được quân đến cứu. Nay đền ân mai trả oán, phá hoại thế này nước nhà phỏng còn gì nữa? Việc hỏng đến nơi rồi!"
Còn việc quân đáng lẽ phải thúc đẩy gấp thì thầy trò vua Chiêu Thống chẳng hề nghĩ đến, khiến nhiều đạo quân Cần vương phải chán nản. Sau nhiều người thúc dục vua Chiêu Thống mới cho dựng ba cái đồn tại Bắc ngạn sông Thanh Quyết tỉnh Hà Nam làng Nhật Tảo và ở làng Ngọc Hồi tỉnh Hà Đông.
Sau  Nghị  mới  quyết  định  sang  Xuân  vào  mồng 6 sẽ xuất sư và bảo Lê  Quýnh  là người được vua Chiêu Thống cử sang giục Nghị ra quân rằng: "Nếu muốn đi gấp thì thầy trò nhà ngươi cứ việc đem quân tiến trước cũng được".
Ngày 24 tháng 11 năm Mậu Thân (1788) Ngô Văn Sở từ núi Tam Điệp cho tin cấp báo về Phú Xuân việc quân Tôn Sĩ Nghị dưới danh nghĩa "cứu Lê" đem quân vào Thăng Long, khí thế rất mạnh mẽ.
Bắc Bình Vương tỏ ra rất bình tĩnh.
Các tướng sĩ yêu cầu ngài hãy chính vị hiệu để buộc lấy nhân tâm, dương thanh thế rồi sẽ tiến quân ra Bắc. Bắc Bình Vương cho là phải liền cho đắp đàn Giao ở Bàn Sơn, phía Nam núi Ngự Bình tế cáo trời đất và làm lễ đăng quang.
Từ giã Bàn Sơn, đoàn quân thủy bộ của Bắc Bình Vương như hùm beo, tràn đầy hùng khí rầm rộ tiến ra Bắc Hà mạnh như thế chẻ tre, bạt núi. Ngày 29 đại quân tới Nghệ An. Ở đây Vương cho lấy thêm lính mới, cứ ba xuất đinh lấy một, quân số cộng lại được 10 vạn và tượng binh được vài trăm con. Thân quân Thuận, Quảng chia làm 4 doanh: Tiền, Hậu, Tả, Hữu, lính mới sung vào Trung quân.
Trừ đám tân binh còn những thân quân của Vương vốn được tập tành thuần tục đã lâu, chiến đấu dẻo dai, bơi lội giỏi, đi đứng rất nhanh. Vương nảy ra sáng kiến để cuộc Bắc tiến được cực kỳ thần tốc, cho hợp ba người làm một tốp rồi lần lượt thay phiên để võng nhau (chắc hẳn lúc đó võng làm bằng tre vì tre là thứ vật liệu dễ có nhất ở khắp nước ta và có thể làm thành chiếc võng dản dị nhất và mau chóng nhất).
Nhờ có sự chuyển vận tối tân và kỳ dị này quân Tây Sơn đi rất nhanh và đỡ cả sự mệt nhọc. Ngày 20 tháng 12 năm ấy đại quân đến núi Tam Điệp nơi tiếp giáp của hai tỉnh Thanh Hóa và Ninh Bình. Tư Mã Sở và Nội Hầu Lân ra đón cùng xin chịu tội đã phải rút lui trước quân địch. Vua Quang Trung chỉ quở trách qua loa.
Để nuôi lòng kiêu căng của giặc, vua Quang Trung vừa cho gấp rút tiến quân vừa cử một sứ đoàn gồm 8 người đi theo Trần Danh Bính đến gặp Tổng đốc họ Tôn với ba đạo bẩm văn (một của Lê Duy Cẩn, một của các cựu thần nhà Lê, một của nhân dân) bày tỏ sự tình phải thay nhà Lê và ngỏ ý "cung thuận" với "thiên triều", đồng thời nhà vua lại nộp trả bọn tuần dương binh của nhà Thanh có bốn chục người bị tướng Tây Sơn bắt được khi còn đóng ở Thăng Long.
Tôn Sĩ Nghị xé thư, giết Trần Danh Bính và giam toàn thể nhân viên sứ đoàn lại, rồi truyền hịch kể tội vua Quang Trung và cho biết sẽ bắt nhà vua cùng đánh tới Quảng Nam cho sạch cả gốc lẫn ngọn.
Ngày 30 tết, quân Tây Sơn vượt qua bến đò Gián Khuất. Tướng nhà Lê trấn giữ Sơn Nam (Nam Định) là Hoàng Phùng Nghĩa hoảng sợ bỏ chạy về sông Nguyệt Quyết thuộc huyện Thanh Liêm tỉnh Hà Nam. Bọn thám tử của nhà Thanh cũng bở vía lẩn nốt bị đuổi đến Phú Xuyên (Hà Đông) rồi bị bắt hết. Giặc mất liên lạc nên không biết chiến cuộc đã xẩy ra bất lợi cho chúng tại miền Nam trung châu xứ Bắc thuở đó.
Mồng 3 tháng Giêng Kỷ Dậu (1789), nửa đêm giặc Thanh đang ngủ kỹ trong đồn Hà Hồi, tiếng loa, tiếng trống bỗng nổi lên, tiếng gào thét thay đổi nhiều giọng như có thiên binh vạn mã đang ào tới gây nên một cuộc khủng khiếp như trời sắp long, đất sắp lở.
Quân Thanh không còn hồn vía liền kéo ngay cờ hàng. Quân của Vương ở đây không tốn một mũi tên, một hòn đạn, đàng hoàng vào tiếp thu quân nhu và khí giới của giặc. Ngày mồng 5. Đầu trống canh năm, vua Quang Trung cho thu quân lương vào một khu rồi truyền đốt sạch. Ngài quấn chiếc khăn vàng ở cổ tỏ lòng quyết tử với giặc rồi xắn áo cưỡi voi thúc quân xung phong vào phá đồn Ngọc Hồi; đi trước ngài là đạo tượng binh hơn một trăm con. Đạo tượng binh này có hiệu lực như một đoàn thiết giáp xa phá đồn trại rất mạnh.
Quân Thanh ứng chiến bằng kỵ binh, nhưng ngựa gặp voi hoảng sợ, rống lên rồi chạy nhảy tán loạn. Địch bị tan vỡ ngay hàng ngũ, vội vã rút vào trong cố giữ. Lũy của giặc có cắm chông sắt tua tủa. Đạn của giặc trong đồn bắn ra như mưa rào. Quân ta vẫn tiến một cách cảm tử. Để tránh tên đạn, quân ta lấy 60 tấm ván gỗ, cứ ba tấm xếp lại thành một bó ngoài phủ rơm nhào với bùng rồi 10 người khiêng một bó đi trước, lưng  đeo  đoản  đao,  theo  sau  20  khinh  binh  tiến  thành  hàng  chữ  nhất.  Trời  tối  mịt không trăng, không sao. Quân Thanh đốt thuốc súng khói mù mịt bốc ra do gió Bắc thổi tới, quân ta mờ mắt, thế trận gần như ngừng lại rồi lát sau trời quay gió nồm khói lại trở lại phía địch. Đám quân có ván rơm liền lăn xả vào tiền tuyến, quăng ván xuống đè lấy chông. Bọn có đoản đao ùa theo, lướt qua làn đạn, phá cửa lũy tràn vào đồn như nước lũ.
Tại đây hai quân đánh giáp lá cà. Lớp này ngã lớp kia lại xông tới. Sắt thép va vào nhau vang lên những tiếng lanh lảnh, như gào thét ghê hồn. Thân người đổ xuống như rạ. Mùi thịt cháy khét lẫn với mùi thuốc súng và máu tanh nồng lộn mửa. Lửa đỏ rực góc trời. Người ngựa chỉ là những bóng đen nhào lộn, lăn xả vào nhau, vung gươm giáo đâm nhau tới tấp như diễn một cảnh loạn xạ trong âm ty, địa ngục.
Súng nổ rền động cả không gian trong đêm dầy đặc. Muôn nghìn tiếng hò hét, tiếng kêu khóc chen nhau giữa tiếng trống, tiếng loa, tiếng thanh la gây nên một không khí đầy khủng khiếp đè nặng xuống chiến trường. Cuộc chém giết mỗi lúc một thêm tàn ác, man rợ, cuồng nhiệt.
Quân Thanh chịu không nổi cắm đầu, cắm cổ chạy. Chính họ lại rơi vào các máy ngầm hay các nơi có rắc chông do họ đặt sẵn từ trước. Địa lôi nổ ầm làm chúng tan ra như xác pháo. Đồn Ngọc Hồi thất thủ. Đoàn quân chiến thắng của ta hò reo tiến thẳng về phía Thăng Long hạ thêm được hai tiền đồn của giặc ở đây là đồn Văn Điển và Yên Quyết.
Giặc tổn thất quá nửa phần quân số, tai hại nhiều hơn cả là các tướng lĩnh: Đề đốc Hứa Thế Hanh, tiên phong Trương Triều Long, Tả dực Thượng Duy Thăng v.v... bỏ mạng ngay tại chiến địa. Cùng lúc này là lúc quân Tây Sơn đang thắng ào ạt, một đạo quân do Đô Đốc Long cầm đầu theo kế hoạch đã tiến đến Khương Thượng, vây kín đồn binh của Sầm Nghi Đống. Quân Bắc cố cầm cự, nhưng khi kiệt sức đến nơi vẫn không được tiếp ứng người và đạn dược. Chủ tướng họ Sầm không chịu hàng, trốn ra Đống Đa thắt cổ tự vẫn trên một cành đa. Cuộc chiến đấu đã kéo dài được suốt một đêm, tới sáng thì dứt. Tàn binh của giặc chạy tản ra các nơi. Vua Quang Trung đã liệu trước đặt sẵn quân từ Thanh Trì sang Hà Đông chỗ thì đón đánh, chỗ làm nghi binh khiến từ làng Đại Áng sang đến làng Quỳnh Đô hàng vạn quân Thanh bị chết vì voi giày đạp hay bị phục kích.
Khoảng giờ Thân (4 giờ chiều) mồng 5 Tết, vua Quang Trung cùng đại quân và 80 thớt voi ung dung tiến vào kinh đô nhà Lê đúng lời đã hẹn từ 20 tháng Chạp. Chiếc áo bào đỏ của người anh hùng dân tộc qua nhiều trận huyết chiến đã đổi ra màu đen cháy vì hơi khói của thuốc súng.
Ngày hôm trước (mồng 4) Tôn Sĩ Nghị được tin báo cấp tốc rằng các đồn Hà Hồi, Ngọc Hồi bị phá, đã cho Thang Hùng Nghiệp đi cứu thì sáng sớm đã thấy phía Tây Bắc chìm trong khói lửa, súng nổ không ngớt. Kỵ binh đi dọ thám về cho hay đồn Điền Châu cũng đã bị hạ, quân Nam đang ầm ầm kéo vào các cửa ô. Nghị mất tinh thần không kịp đóng yên ngựa cùng vài thân binh vượt cầu phao trên sông Nhị Hà chạy sang Bắc Ninh.
Quân đội các doanh cũng chạy theo chủ tướng, xô đẩy nhau không còn chút gì là trật tự. Cầu phao bị đè nặng, chịu không nổi rồi hàng vạn con người bị hất xuống lòng sông làm tắc cả giòng nước. Tiếng rên than, kêu khóc vang cả một góc trời. Nghị chạy đến Phượng Nhỡn nghe nói quân Tây Sơn từ mặt Đông sắp tới chẹn đánh, sợ quá. Mấy kẻ thủ túc vất vả cả sắc thư, cờ hiệu, bài lệnh, ấn tín cho dễ thoát thân. Hai đạo quân của Vân Nam, Quí Châu vừa sang tới Tây Sơn nghe Nghị thua chạy cũng vội rút lui nốt. Thế là chỉ trong vòng 7 ngày chiến đấu ào ạt, vua Quang Trung đã tiêu diệt được hai trăm nghìn quân Thanh mau như chớp nhoáng. Đây là một vũ công oanh liệt đáng xếp vào bậc nhất trong các vũ công lớn lao của các danh tướng cổ kim trên thế giới.
Nhưng quân ta còn bắt được một tài liệu vô cùng quí giá do Tôn Sĩ Nghị quẳng bỏ hay đánh rơi trong lúc hốt hoảng trên con đường gần Phương Nhỡn. Đó là một sắc thư bí mật của vua Càn Long gửi họ Tôn có những chỉ thị đánh chiếm nước ta để làm thuộc quốc như xưa.

3- Cuộc Giao Thiệp của Tây Sơn với Thanh Đình
Tin Tôn Sĩ Nghị và hai chục vạn quân Thanh bị đại bại ở Thăng Long bay về đến Bắc triều làm cho vua Càn Long và các đình thần vô cùng căm tức. Rồi Thanh triều cử ngay Phúc Khang An thay Tôn Sĩ Nghị làm Lưỡng Quảng Tổng Đốc để xuất 50 vạn quân, định ngày kéo xuống Việt Nam. Biết chưa phải lúc gây một cuộc trường chiến với nhà Thanh, vua Quang Trung cho quan sang giao thiệp với Phúc Khang An và Thang Hùng Nghiệp là Tả Giang Binh Bị Đạo để mở cuộc giảng hòa. Phúc Khang An thấy quân ta đang mạnh nên trong bụng đã có ý muốn làm hòa lại được vua Quang Trung cho vàng bạc nên cùng Các thần là Hoà Thân đề nghị bãi binh.
Phúc Khang An còn đề nghị phong vương cho Nguyễn Huệ vì con cháu nhà Lê không còn đủ tư cách làm chủ nước Nam nữa. Việc này được thực hiện vào ngày 26 7 năm Kỷ Dậu (1789). Để biết mặt người anh hùng đã phá cả 20 vạn quân của Tôn Sĩ Nghị nhanh như chớp nhoáng, vua Càn Long giáng chỉ vời Quốc Vương An Nam sang chầu. Vua Quang  Trung  chọn  Phạm  Công  Trị    hình  giáng  giống  mình  đi  thay  trá  làm  quốc vương. Cùng đi với giả vương có Ngô Văn Sở, Đặng Văn Chân, Phan Huy Ích, Võ Huy Tấn. Tổng Đốc Lưỡng Quảng và Tuần phủ Quảng Tây phải đưa phái đoàn lên Yên Kinh. Tại đây vua Quang Trung được tiếp đón rất long trọng và lúc về nước được vua Càn Long sai thợ vẽ làm một bức ảnh truyền thần để ban cho cùng các quý vật.
4- Chính Trị Của Vua Quang Trung (Việc Nội Trị)
Sau khi nhà Thanh đã thừa nhận vua Quang Trung là Quốc Vương An Nam, Lê Duy Kỳ (vua Chiêu Thống) ở lại đất Tàu, nhưng ở trong nước em là Hoàng ba Lê Duy Chỉ vẫn hiệu triệu các cố thần nhà Lê mưu việc khôi phục.
Duy Chỉ nhờ có thổ tù châu Bảo Lạc, trấn Tuyên Quang là Khoan Triều chiêu binh mãi mã, khi ẩn khi hiện ở vùng Thượng du Bắc Hà. Binh đội Tây Sơn dẹp mãi không yên.
Sau này Duy Chỉ hoạt động dần xuống các vùng Trung du như Mục Mã, Thái Nguyên và chiếm giữ Tuyên Quang, Cao Bằng làm căn cứ để xuất phát xuống Thăng Long. Tại đây Duy Chỉ được bọn Nùng Phúc Tấn và Hoàng Văn Đồng giúp sức.
Có thời ông Hoàng ba nhà Lê đã liên kết được cả với chính quyền Vạn Tượng, Trấn Ninh, Trịnh Cao và Quí Hợp mưu đánh Nghệ An.
Năm Canh Tuất (1790) Đại tổng quản Trần Quang Diệu và Đô đốc Nguyễn Văn Uyển đem 5.000 binh của trấn Nghệ An đi đánh dẹp. Thắng được liên quân của nhà Lê ở đây, quân Tây Sơn vây luôn vùng Bảo Lạc là nơi lẩn lút cuối cùng của Duy Chỉ. Duy Chỉ bị bắt sống cùng với hai thổ tù kể trên nhốt vào cũi đem về Thăng Long. Ngoài việc đề kháng của Lê Duy Chỉ đáng kể hơn cả, còn những vụ chống đối lẻ tẻ có tính cách địa phương như vụ Trần Quang Châu vào năm Quang Trung thứ nhất (1788) - vụ Dương Đình Tuấn người huyện Yên Thế (Bắc Giang) đem hai con và cháu chống nhau với Tây Sơn khi vua Chiêu Thống chạy đến huyện Nhân Mục (1788) - vụ Phạm Đình Đạt gồm hai anh em là tạo sĩ Phạm Đình Phan và tiến sĩ Phạm Đình Dữ, tại Võ Giàng (Bắc Ninh) v.v... Các liệt sĩ này đều thất bại hay tử tiết để thỏa lòng trung với một triều đại mà họ nặng cảm tình theo giáo lý Khổng Mạnh, hoặc để tỏ sự bất cộng tác với tân chính quyền.
Việc Quân Sự
Vua Quang Trung lên ngôi từ 1788 đến 1792 thì mãn phần, như vậy chánh quyền trong tay ngài không được lâu dài là bao nhiêu. Lại nữa, trong 5 năm đó ngài có mấy khi được ngơi tay, rảnh trí để lo việc nội trị nếu ta bàn đến việc nội trị của ngài.
Tuy nhiên về tổ chức binh chế đời Tây Sơn ta thấy cũng có vài điều đáng chú ý. Như nhiều triều đại trước, Tây Sơn cũng có ngũ quân: Tiền, hậu, trung, tả, hữu. Đó là 5 đạo quân trong hồi đánh nhau với nhà Thanh. Ngoài ra nhà vua còn nhiều đội quân đặc biệt khác lấy hiệu là: Tả bật, Hữu bật, Ngũ chế, Kiện thành, Thiên cán, Thiên trường, Thiên sách, Hổ bôn, Hổ hầu, Thị lân, Thị loan. Ta có thể đoán ngũ quân là năm đạo quân căn bản và 11 đội quân sau đây là những đạo quân đặc biệt để tăng cường cho ngũ quân và thường được cử đi bình định hay chiến tranh đại qui mô mới sử dụng đến cả ngũ quân. Ngũ quân và 11 đội quân trên đây hợp thành quân chủ lực của quốc gia.
Còn ở các phủ huyện thì quân Tây Sơn chia ra từng đạo, cơ, đội, lấy Đạo thống cơ, Cơ thống đội, có võ phân xuất cầm đầu.
Dưới triều Tây Sơn vì đánh ngoại xâm là một việc hết sức quan trọng, đã có phen chính quyền tổng động viên đinh tráng từ 12, 13 đến 60 tuổi.
Tinh thần chiến đấu của binh đội Tây Sơn theo nhận xét của nhiều nhà truyền giáo ngoại quốc, rất là cao. Người lính nào cũng gan dạ, thuần thục, một chống nổi mười nên đánh đâu thắng đấy.
Nghe lời Ngô Thời Nhậm vua Quang Trung theo chính sách nhà Chu, nhà Hán lấy người đồng tính làm tay chân để giữ vững địa vị và chính quyền, do đó ngài phong cho con cả là Quang Toản làm Thái tử, Quang Thùy làm Khanh công, lĩnh Tiết Chế Bắc Thành thống xuất thủy bộ chư quân, Quang Bàn làm tuyên công, lĩnh Đốc trấn Thanh Hóa kiêm Tổng lý quân dân chính.
Bên cạnh ba vị hoàng tử này có các quân thần, danh tướng giúp sức.
Quan Chế
Bộ máy triều đình có những quan chức như sau: Cấp trung ương: Tam công, Tam thiếu, Đại chủng tể, Đại tư đồ, Đại tư khấu, Đại tư không, Đại tư cối, Đại tư lệ, -- Thái úy, Ngự úy, Quán quân, Tham đốc, Tham lĩnh, Trung thư sảnh, Trung thư lệnh, Phụng chính, Thị trung đại học sĩ, Hiệp biện đại học sĩ, Thị trung ngự sử, Lục bộ thượng thư, Tả, hửu đồng nghị, Tả, hửu phụng nghị, Tư vụ, Hàn lâm.
Tại các trấn có: về võ có Trấn thủ, văn có Hiệp trấn.
Tại mỗi huyện có: Võ phân suất, Văn phân tri, Tả quản lý, Hữu quản lý. Văn quan phụ trách binh lương, thuế khóa, từ tụng. Võ quan cai quản và thao luyện binh đội.
Hành chính xã, thôn có:
- Xã trưởng ,thôn trưởng, tổng trưởng (như chánh tổng đời nay).
Các Địa Hạt Hành Chính Trong Nước
Tình hình chính trị, xã hội trong nước dưới triều Tây Sơn mới được ổn định hoàn toàn từ Đàng trong ra tới Đàng ngoài, tức là từ Trung Việt trở ra Bắc Việt. Còn miền Nam Việt bấy giờ thuộc Đông Định Vương Nguyễn Lữ nhưng vẫn luôn luôn bị quân Cựu Nguyễn (Nguyễn Ánh) đánh phá nên chưa sắp đặt, mở mang được bao nhiêu. Riêng về đất đai thuộc ảnh hưởng của Quang Trung thì phải kể từ Thuận Hóa ra Bắc. Vua Quang Trung cho Nguyễn Thiếp tức là La Sơn Phu Tử xây dựng lại Nghệ An một đô thành nữa gọi là Trung Đô. Nhà vua rời ra đó có ý muốn khống chế miền Bắc về chính trị cũng như quân sự. Trung đô thành lập xong thì Thăng Long đổi ra Bắc Thành, hẳn để người ta quên dần nhà Lê, một vương triều dài 360 năm đã đặt nhiều kỷ niệm sâu đậm trong lòng nhân dân.
Bắc Hà từ đời nhà Lê đã chia ra 11 xứ (hay trấn):
1) Xứ Nam (Sơn Nam). 2) Xứ Đông (Hải Dương). 3) Xứ Bắc (Kinh Bắc). 4) Xứ Đoài (Sơn Tây). 5) Xứ Yên Quảng (Hải Ninh). 6) Xứ Lạng (Lạng Sơn). 7) Xứ Thái (Thái Nguyên). 8) Xứ Tuyên (Tuyên Quang). 9) Xứ Hưng (Hưng Hóa). 10) Xứ Thanh (Thanh Hóa). 11) Xứ Nghệ (Nghệ An).
Chín xứ trên được để nguyên vẹn, duy hai xứ Sơn Nam và Thanh Hóa có sự thay đổi như sau:
A) Sơn Nam nay thành hai trấn: phía trên gọi là Nam hay Thượng trấn. Phía dưới giáp biển gọi là Nam Hạ hay Hạ trấn. Phố Hiến trước là sở lỵ của Sơn Nam, bây giờ là sở lỵ của Hạ trấn đóng ở Vị hoàng cách Phố Hiến vài dặm; còn của Thượng trấn thì đóng ở Châu Cầu tỉnh Hà Nam.
B) Thanh Hoá cũng chia làm hai: nửa ra Bắc gọi là Thanh Hoá ngoại; nửa về Nam gọi là Thanh Hóa nội.
Mỗi xứ (tức tỉnh) gồm có một số phủ, huyện và châu (nếu gần sơn cước), rồi mỗi phủ, huyện chia ra nhiều tổng, xã, nếu xã lớn thì chia thêm ra thôn.
Kẻ chợ là thành Thăng Long trước đây nay gồm một phủ, hai huyện và mười tám phường.
Thuế Khóa và Nông Chính
Dưới đời Lê dân phải đóng một thứ tiền xâu dịch cũng có thể coi như là một thứ thuế dùng vào các việc đê điều, tạp dịch. Thuế này còn được gọi là "điệu" hay "điệu tiền". Nhà nước thu của dân rồi khi có việc tạp dịch lấy tiền này mà thuê mướn người làm. Đây là một thứ thuế bắt chước phép cố dịch của nhà Đường (618-906). Đến đời Quang Trung thì phép đánh thuế này bỏ đi có ý giảm bớt sự gánh vác cho dân. Từ năm có giặc Thanh sang nước ta (1788) loạn ly đã hại, dân lại mất mùa luôn luôn, thêm vào dịch lệ tràn khắp nơi dân chết quá nửa. Nhà nước phải đánh thuế vào các tư điền để lấy gạo, lúa.
Trong giai đoạn này đinh thì ít, điền thì nhiều, nhiều nhà giàu bỏ ruộng không nhận để đỡ nộp thuế. Tập "Hân Các Anh Hoa" của Ngô Thời Nhậm có chép bài chiếu "Khuyến Nông" của vua Quang Trung nêu ra hai điều mà chính quyền đời bấy giờ lo lắng nhất là:
1) Sao cho ruộng đất xuất sản được nhiều.
2) Sao cho nhân khẩu gấp rút tăng gia để dân số chóng đông đảo.
Đối với điều thứ nhất, vì ruộng bị bỏ hoang nhiều nên kém sinh sản lượng. Nhà nước ra lệnh cho những người di cư trốn tránh sưu dịch hay sang ở quê mẹ, quê vợ, hay vì đi buôn bán xa xôi nếu đã ngụ đâu thì trên ba đời mới được ở lại nơi đó, còn phải trở về sinh quán làm ăn. Những người này được lĩnh hay phải lĩnh ruộng đất để cầy cấy, không được từ chối. Các xã trưởng, thôn trưởng phải xem lại sổ đinh và điền thực sự có bao nhiêu. Hai thứ sổ sách này phải trình các viên phân suất, phân tri ở huyện đệ lên triều đình xét, rồi quan sẽ đến khám lại cho việc bổ thuế được công bằng.
Nếu xã nào không cương quyết áp dụng lệnh hồi cư và thể lệ cư ngụ đều bị nghiêm trị. Nếu xã nào để ruộng hoang đến hạn mà chưa khai khẩn thì chức dịch phải chịu trách nhiệm nghĩa là chiếu theo ngạch thuế điền cũ mà nộp gấp bội.
Ruộng tư khi đã sáp nhập vào hạng công điền thì thuế tính theo ngạch công điền. Các mệnh lệnh trên đây xét ra chỉ có mục đích đem lưu dân về làng cũ, khuyến khích và thúc đẩy các nông gia cầy cấy để xây nền thịnh vượng chung cho quốc gia mà thôi. Ruộng tư và ruộng công bấy giờ được chia làm 3 hạng để chịu riêng mỗi hạng một thứ thuế.
Công điền:
Hạng nhất mỗi mẫu nộp: 150 bát thóc Hạng nhì mỗi mẫu nộp: 80 bát thóc Hạng ba mỗu mẫu nộp: 50 bát thóc
Cả ba hạng mỗi mẫu phải nộp một tiền quý về thuế thập vật và 50 đồng kẽm về thuế khoán kho. (mỗi bát nói đây độ nửa lít).
Tư điền:
Hạng nhất mỗi mẫu nộp: 40 bát thóc Hạng nhì mỗi mẫu nộp: 30 bát thóc Hạng ba mỗi mẫu nộp: 20 bát thóc
Cả ba hạng mỗi mẫu phải nộp mỗi mẫu 30 đồng kẽm về thuế khoán kho, còn tiền thập vật theo như ruộng công trên đâỵ
Ngoài thuế ruộng, triều Quang Trung cũng theo lệ cũ đánh những thứ thuế như dung tiền (thuế thân do chúa Trịnh đặt ra từ năm Quí Mão 1723 mỗi xuất là một quan hai tiền), cước mễ v.v...
Năm Quang Trung thứ tư, trong nước khắp nơi đều được mùa vì mưa hòa gió thuận. Cuộc sinh hoạt đã bắt đầu đầm ấm, phát đạt tới nửa phần thuở thanh bình trước do chính sách ưu ái nhân dân của triều đình. Xin nhắc rằng nếu năm nào có tai trời ách nước, triều đình lại ra ân xá thuế, giảm tội cho dân chúng.
Chính sách nhân hậu này của triều Tây Sơn được nhiều người ngoại quốc ca ngợi và minh chứng: tỉ dụ nhà du hành người Anh là ông Crawford đến viếng nước ta vào năm 1822 là năm vua Gia Long đã mất, và Minh Mạng lên ngôi được 3 năm. Ông chống hẳn lại những lời phê bình bất công của một số sử gia Tây phương đối với nhà Tây Sơn. Ông viết như sau:
"Bảo rằng nhân dân khao khát dòng vua chính thống dược khôi phục như một số người Tây phương chỉ biết có tán tụng vua Gia Long chưa chắc đã đúng và triều Tây Sơn đâu có thất nhân tâm như thế. Tôi được một số nhà buôn Trung Hoa đã sinh sống lâu năm tại xứ này dưới quyền chúa Nguyễn và cả dưới quyền nhà Tây Sơn đoan chắc với tôi rằng các nhà cầm quyền Tây Sơn cai trị dân chúng còn công bằng và khoan hòa hơn nhà vua hiện tại (chỉ Minh Mạng và phụ vương của ngài là vua Gia Long)..."
Việc Dùng Nhân Tài Việc Học và Khoa Cử
Quang Trung Hoàng Đế tuy là một quân nhân thượng võ, múa gươm trên mình ngựa mà lấy thiên hạ, nhưng sau cuộc đại định cũng đã tỏ ra biết chú trọng đến nhân tài, văn hóa và chính trị. Trong các sự việc này nhà vua có nhiều sáng kiến đặc biệt phát sinh ở một tinh thần cách mạng và quốc gia rất sáng suốt và cấp tiến.
Trong việc dùng người, nhà vua biết phục thiện nghĩa là nghe ai là kẻ tài giỏi hoặc hiền đức, nhà vua biết lấy lễ tân sư (vừa coi là khách vừa coi là thầy) để mời tham gia việc nước. Đó là trường hợp đối xử với Nguyễn Thiếp tức La Sơn Phu Tử, Nguyễn Đăng Trường, Ngô Thời Nhậm, Phan Huy Ích v.v...
Về việc học, nhà vua cho lập trường học từ ở các thôn xã trở lên, dùng đền, chùa làm nơi giảng dạy. Các Huấn đạo được cử đến đây để khuếch trương nền giáo dục. Dưới quyền các quan Huấn đạo là các nho sĩ lựa trong đám người có học và có hạnh.
Khoa thi Hương được mở ra để lấy khóa sinh tú tài, hạng ưu được vào quốc học, hạng thứ cho vào xã học.
Các ông Cống triều Lê cũng được đắc dụng, nếu chưa làm chức gì triều đình vời ra nhận các chức Huyện quan hay Huấn đạo.
Các cựu nho sinh và sinh đồ phải đợi khoa thi, nếu là hạng ưu thì lấy đỗ, hạng liệt thì bãi về xã học.
Còn loại sinh đồ mua bằng ba quan (đời Lê cần tiền đã có việc buôn quan, bán tước, việc học hành thi cử cũng thành chuyện thương mãi nên mất cả giá trị) thì cũng bị loại làm dân nghĩa là phải chịu những sự gánh vác các tạp dịch như mọi người chớ không được miễn như xưa.
Đáng chú ý là việc trọng dụng chữ Nôm đã biểu lộ một tinh thần quốc gia mãnh liệt, một ý niệm cách mạng rất thực tế của vua Quang Trung, nghĩa là tuy trong khoa cử, học hành chữ Nho vẫn được dùng nhưng trong chiếu, biểu, sắc, dụ, thi phú, văn Nôm đã được đặc vào một địa vị quan trọng.
Việc Đúc Tiền và Sự Thay Đổi Thái Độ với Mãn Thanh
Vốn là con người có óc thực tế, vua Quang Trung sau khi lên ngôi liền nghĩ ngay việc đúc tiền bằng đồng để tiêu dùng trong nước và có sự thuận tiện trong việc thương mãi.
Rồi đồng tiền "Quang Trung Thông Bảo" được thay đồng tiền Cảnh Hưng khắp chợ cùng quê. Năm Quang Trung thứ tư (1791) do cần chuẩn bị việc đánh Mãn Thanh, nhà vua đã cho đi thu hết các đồ bằng đồng tốt trong nước để đem làm binh khí và đúc tiền cho rộng tài nguyên.
Nhà vua rất chú trọng đến việc khuếch trương kinh tế, thương mãi ra tới bên ngoài nên phái người sang điều đình với Mãn Thanh mở chợ ở Bình Thủy Quan thuộc tỉnh Cao Bằng và ở Du Thôn ải, tỉnh Lạng Sơn.
Vua Quang Trung lại còn xin lập Nha Hàng ở phủ Nam Ninh thuộc tỉnh Quảng Tây cũng không ngoài mục đích đưa dân ta sang làm ăn buôn bán với Trung Quốc.
Các điều yêu cầu trên đây được vua Thanh thỏa mãn cả, nhưng một việc nhà vua không hài lòng, dó là chuyện đòi bảy châu thuộc Hưng Hóa xưa.
Vua Quang Trung lấy làm tức giận lắm và càng hăng hái trong ý chí vẽ lại mảnh địa đồ Việt Hoa để rửa cái hận nghìn thu trên Lịch Sử bị mất đất về phương Bắc.
Nhưng trước khi tính chuyện đánh Thanh, nhà vua cho quấy rối nội địa Trung Quốc bằng cách lợi dụng đảng "Thiên Địa Hội" làm chuyện khiêu khích Mãn Thanh. Người của đảng chính trị này là những di dân, chí sĩ của nhà Minh thuộc giống Hán vốn bất phục triều Thanh bí mật tổ chức cơ quan này tính xoay lại thời thế.
Các biên thần nhà Thanh tuy biết rõ Đại Việt có bí mật nhúng tay, nhưng cũng phải bấm bụng chịu vì thấy lực lượng quân sự của nước ta đang thịnh phát.
Bãi Việc Cống Người Vàng
Một quốc hận đáng kể cho người Việt từ đời Hậu Lê tới nay còn là một kỷ niệm chua cay, tức là việc cống người vàng.
Nguyên trong cuộc kháng Minh vào ngày 20 tháng 9 năm Đinh Mùi (1427) hai tướng của Bình Định Vương Lê Lợi là Lê Sát và Trần Lựu chém được Chính Lự tướng quân An Viễn Hầu Liễu Thăng của địch tại Mã Yên Sơn (làng Mai Sao, thuộc Ôn Châu tỉnh Lạng Sơn) nhà Minh lấy làm đau đớn lắm vì Liễu Thăng là một danh tướng của họ. Sau này hai nước mở cuộc giảng hòa, Minh triều đã bắt đền chúng ta phải đúc người vàng thế mạng cho viên tướng tử trận đó.
Vua Lê Thái Tổ thấy dân tình đau khổ, nheo nhóc từ cuộc bại trận của nhà Hồ đến nhà Hậu Trần, rồi lại 10 năm chiến tranh vừa xong, trước sau ngót ba chục năm ròng, không muốn kéo dài thêm chiến họa e hao mòn dân số và tài nguyên quốc gia nên phải nhắm mắt chấp nhận điều kiện trên đây của Minh triều.
Sau Tiền Lê đến Mạc và các vua Lê đời Trung Hưng cũng vẫn tiếp tục việc cống người vàng. Nhà Tây Sơn khi đã yên vị không chịu lệ này do đó vua Quang Trung có gửi thư cho Phúc Khang An xin bãi bỏ, vua tôi nhà Thanh phải nghe theo.
Đi xa hơn nữa, năm Nhâm Tý tức Quang Trung thứ 5, nhà vua bắt đầu thi hành công chuyện nói trên. Ngài gửi cho bọn biên thần nhà Thanh hai bức thư liên tiếp nhờ đề đạt lên vua Càn Long ngỏ ý cầu hôn với công chúa Thanh và đòi đất Lưỡng Quảng để làm quốc đô. Sự thực nhà vua chỉ muốn làm một việc khiêu khích để lấy cớ khởi binh nếu Thanh đình bác bỏ lời yêu cầu của Đại Việt.
Hai việc yêu sách105 của vua Quang Trung nêu trong tấu chương đều được đem ra đình nghị và đều được chuẩn cả: việc xin hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây thì vua Thanh ưng cho một, tức là cho tỉnh Quảng Tây để đóng đô. Việc cầu hôn được mỹ mãn hơn nghĩa là sau ngày tiếp Nam sứ tại _ Lương Các, vua Càn Long liền sai bộ Lễ sửa soạn nghi lễ cưới gả và định ngày cho Công chúa lên đường. Xem thế ta đủ hiểu thuở bấy giờ nhà Thanh đã nhượng bộ đến bực nào đối với Đại Việt ta. Tiếc thay sau đó mấy hôm thì sứ đoàn được tin vua Quang Trung mất vào ngày 29 tháng 7 (Nhâm Tí 1792, miếu hiệu là Thái tổ Vũ Hoàng Đế)106.
Câu chuyện khôi phục Lưỡng Quảng trên bản đồ của người Việt hay cuộc đánh chiếm Trung Quốc và cuộc nhân duyên Việt Hán từ đấy tan ra mây khói vì vua Quang Trung qua đời rồi thì nhà Thanh còn sợ ai nữa!
4- Vua Chiêu Thống Bị Nhục Trên Đất Tàu
Sau khi Tôn Sĩ Nghị bại trận chạy về Nam Ninh (Quảng Tây) Khang An đến thay Sĩ Nghị, vì đã có chủ trương giải hòa với nhà Tây Sơn nên cho người đưa vua Chiêu Thống về Quế Lâm cùng một số văn thần võ tướng là các ông Lê Duy Án, Đinh Nhạ Hành, Đinh Lịnh Dận, Trần Huy Lâm, Lê Doãn, Phan Khải Đức v.v... Khang An cho Đinh Nhạ Hành giữ chức thủ bị Toàn châu, Phan Khải Đức làm Đô Tư Liễu Châu còn những người khác bị phân tán đi nhiều nơi. Duy chỉ vài người thân thần của nhà vua được ở lại.
Tháng 4 năm Kỷ Dậu (1789) vua tôi nhà Lê vào yết kiến Khang An xin xuất quân về đánh quân Tây Sơn, Khang An tìm cớ khất quanh rồi khuyên nhà vua và các bề tôi nên cắt tóc thay áo theo Tàu để khi về nước, Tây Sơn sẽ không nhận được mặt. Vua tôi nhà Lê tin lời cho rằng việc binh cần phải biến trá, có ngờ đâu Khang An chỉ muốn mượn hình thức này để tâu lên vua nhà Thanh rằng: "Vua nước Nam là Lê Duy Kỳ không muốn xin viện binh nữa, đã gióc tóc, thay áo, sống theo người Tàu và xin ở lại đất Tàu". Vua nhà Thanh liền xuống chỉ bãi binh và triệu vua Lê lên Yên Kinh. Đến đây được mấy hôm, Đô thống Nhương Hoàng Kỳ là Kim Giản, phụng chỉ vua Thanh phong chức Tả lĩnh và trao mũ áo quan Tam phẩm cho vua Chiêu Thống.
Nhà vua biết mình bị lừa đau đớn lắm bèn cùng bề tôi là Phạm Như Tùng, Nguyễn Quốc Đống, Nguyễn Viết Triệu, Lê Quý Thích uống máu ăn thề, định sống chết thế nào cũng xin cho được viện binh mới nghe. Nếu việc này không xong thì xin cho hai tỉnh Thái Nguyên, Tuyên Quang để phụng thờ tổ tiên hoặc xin về nước hợp cùng Cựu Nguyễn ở Gia Định mưu việc khôi phục.
Thấy thái độ quyết liệt của vua tôi nhà Lê, Kim Giản bàn với Hòa Thân di chuyển vua Chiêu Thống và các vong thần mỗi người đi một nơi. Việc này xảy ra vào năm Tân hợi

105 Theo Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện, sơ tập quyển 30, tờ 41b cũng như gia phả của họ Vũ thì có việc cầu hôn và đòi Lưỡng Quảng trên đây nhưng nhiều sách khác chép lại có vài chi tiết sau là khi sứ đoàn đến đất Tàu nghe được tin vua Quang Trung mất liền bỏ tờ biểu khiêu khích kể trên và đổi ra tờ biểu "CÁO AI" báo tin buồn cho Thanh đình biết.
106 Vua Quang Trung bị chứng huyết vận mà mất. (Huyết vận là chứng bệnh bị hoa mắt, choáng váng cả người) Sử chữ nho, theo Hoa Bằng chép: "... Một hôm vào buổi chiều đang ngồi chợt bị huyết vận..."

(1791), kẻ đi Phụng Thiên, người đi Trực Lệ riêng Phạm Đình Thiện, Đinh Nhạ Hành ở lại hầu vua.
Một hôm vua Chiêu Thống cưỡi ngựa đến tư dinh Kim Giản để can thiệp về vụ các tùy thuộc bị lưu đày, nhà vua gặp Kim Giản vào chầu vua Càn Long ở vườn Viên Minh, lính canh gác không cho Chiêu Thống vào vườn, người đi hầu vua Lê là Nguyễn Văn Quyên thấy bọn lính Tàu vô lễ với chúa mình liền lấy gạch ném vào chúng và hết lời chửi rủa. Bọn lính xúm vào đánh Quyên chẳng bao lâu Quyên bị bệnh mà chết.
Từ giai đoạn này trở đi, Chiêu Thống biết rằng hết trông cậy vào người Thanh, nên tuyệt vọng, thân thể cùng tinh thần mỗi ngày một hao mòn. Qua tháng 3 năm Nhâm Tí (1792) hoàng tử lên đậu mùa rồi chết. Nhà vua càng đau đớn thêm rồi thở hơi thở cuối cùng vào tháng 10 năm Quí Sửu (1793), thọ 28 tuổi. Nhà Thanh lấy lễ tước Công mà mai táng ở ngoài cửa Đông Trực. Sáu năm sau, tháng 11 năm Kỹ Mùi (1799) đời vua Gia Khánh, Hoàng thái hậu cũng qua đời. Xét ra, trên Lịch sử vua Chiêu Thống là một ông vua xấu số nhất. Thuở ấu trí cha là Lê Duy Vĩ bị chúa Trịnh hạ sát, mẹ con bị cầm tù khá lâu đến khi lên ngôi thì bị cảnh quốc phá, gia vong rồi bị nhục trên đất Tàu cho tới lúc không còn gượng sống thêm được nữa.

Những Cuộc Chiến Tranh Cuối Cùng Giữa Tân Nguyễn và Cựu Nguyễn

1- Nguyễn Vương Quật Khởi (Tây Sơn Mất Gia Định)
Sau cuộc bại trận tháng tư năm Ất tị (1785) tại Mỹ Tho cùng với quân Tiêm, Nguyễn Ánh chạy qua Vọng Các nương nhờ Quốc vương xứ này sau bao nhiêu phen đào vong qua các đảo Phú Quốc, Côn Lôn, Cổ Cốt, Panjang. Rồi Nguyễn Ánh gặp Giám mục Bá Đa Lộc cũng đi tị nạn tại một hòn đảo gần vịnh Komponsom. Vào tháng 2-1784, Giám mục bàn với Nguyễn vương nên cầu viện nước Pháp để gỡ nước cờ bí. Bấy giờ người Anh, người Hòa Lan, người Bồ Đào Nha cũng có ý giúp Nguyễn Vương, nhưng chúa Nguyễn đã theo lời Bá Đa Lộc. Cuối năm 1784 Giám mục mang Thế tử Cảnh xuống tàu đi Pondichéry (thuộc địa của Pháp ở Ấn Độ) để qua Pháp.
Sứ đoàn rời Pondichéry vào tháng 7-1786 và tháng hai năm sau đã bước chân lên đất nước Pháp. Giám mục đã hết lòng vận động giữa Pháp đình về việc giúp cho Nguyễn, điều này theo sự trình bày của Giám mục còn có lợi cho nước Pháp là chiếm được một thị trường quan trọng ở Á Châu, một đất dụng võ ở Viễn Đông và với Nam Hà, Pháp có thể ngăn cản bước tiến của người Anh ở địa phương này nếu hợp tác được với Tây Ban Nha đang làm chủ quần đảo Phi luật Tân, lại nữa giúp chúa Nguyễn sau này thành công thì việc truyền giáo cũng có nhiều tương lai ở xứ này.
Vua Louis XVI liền ký hiệp ước tại Versailles ngày 28-11-1787 thuận giúp Nguyễn Vương 4 chiến hạm, 1750 sĩ quan và binh sĩ có đủ súng đạn (Điều 2) Giám mục thay mặt Nguyễn Vương nhận quyền sở hữu về cửa Hàn (Tourane) và đảo Côn Lôn sẽ thuộc cả Việt lẫn Pháp (Điều 5), nước Pháp được độc quyền thương mại trên khắp lĩnh thổ của Nguyễn Vương (Điều 4). Người Pháp được tự do đi lại và trú ngụ ở nước Nam, còn người ngoại quốc nào muốn nhập cảnh ở đây thì phải có sự chấp nhận trước của nước Pháp. Việt và Pháp lại tương trợ về quân sự mỗi khi hữu sự (Điều 8 và9).
Trong khi Giám mục hoạt động ở Pháp thì Nguyễn Vương còn nương náu trên đất Tiêm đã giúp vua Tiêm đánh quân Miến Điện và Mã Lai vào cướp phá xứ này Nguyễn Vương được tin anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ lủng củng với nhau và quân của Nhạc ở Gia Định đã rút nhiều về Qui Nhơn, Nguyễn Vương liền cho người bí mật đến Hà Tiên cổ võ nhân tâm và tổ chức binh đội. Rồi Nguyễn Vương phải trốn về Nam Việt vào một buổi tối, sợ vua Tiêm giữ lại.
Tháng 7 năm Đinh Vị (1787) quân Nguyễn đánh vào Long Xuyên có kết quả. Nguyễn Vương mạo một bức thơ để Nguyễn Lữ hiểu lầm thái độ của viên Trấn thủ Sài Côn là Phạm Văn Tham, lợi dụng sự nghi ngờ của tướng Tây Sơn, Nguyễn Vương chiếm Sa Đéc, Vĩnh Long rồi đóng quân ở Mỹ Tho dùng nơi này làm căn cứ.
Ngày 7- 9-1788 Nguyễn-Vương đánh được Gia Định đuổi được tướng Phạm Văn Tham đang quyết tử giữ thành này. Từ giờ này trở về sau thành Gia Định nằm mãi mãi trong tay họ Nguyễn.
Nguyễn Vương liền thi hành ngay ở đây chính sách định quốc an dân. Việc cờ bạc, đàng điếm, mê tín nhảm nhí đều cấm ngặt. các ngạch thuế khóa được đặt ra để lấy tiền nuôi quân đội và việc khẩn hoang, trồng trọt được thúc đẩy rất là mạnh mẽ. Mười hai Điền Tuấn quan trong đó có Trịnh Hoài Đức, Ngô Tòng Chu, Lê Quang Định được cử ra để dạy bảo dân làm ăn cầy cấy. Thuế ruộng nộp bằng thóc. Ruộng đồng bằng nộp 100 cơ (mỗi cơ là 42 bát), ruộng đồi núi nộp 70 cơ trở lên. Binh sĩ cũng như phủ binh nộp đủ thì miễn cho một năm tạp dịch. Nhà nước cấp trâu bò và nông cụ cho ai quá nghèo rồi các thứ này được trả bằng thóc vào ngày mùa. Nguyễn Vương còn tổ chức các đồn điền ở những vùng cao nguyên. Khai khẩn ở đây là những đội gồm quân lính và dân chúng gọi là đồn điền đội, mỗi người phải nộp đồng niên 6 hộc thóc. Dân mộ được 10 người trở lên đi làm đồn điền thì cho làm cai trại và miễn sưu dịch. Nhờ có sự khôn khéo này Nam Kỳ xưa kia hoang vu dần dần trở nên trù phú, đông đảo và vui vẻ. Người ngoại quốc ra vào buôn bán tấp nập. Bấy giờ Nguyễn Vương chú ý rất nhiều đến việc mua các đồ đồng, sắt, gang, thép để làm quân khí và trả bằng ngũ cốc cùng đường cát.
Nguyễn Vương đang gặp may thì nhều người Pháp do Giám mục Bá Đa Lộc chiêu mộ đã tới giúp. Nguyên hiệp ước Versailler tuy đã ký nhưng Pháp đình còn giao cho Toàn Quyền De Conway ở Ấn Độ nghiên cứu lại. Tướng De Conway phần vì không ưa giám mục, phần thấy chính giới Pháp có ý rụt rè về việc xuất quân bởi kém cả khả năng tài chính, ông ta lại sợ trách nhiệm nữa nên đã bác bỏ hiệp ước kể trên. Giám mục không còn cách nào khác hơn là xuất tài lực riêng của mình ra để chiêu binh, mộ tướng cho họ Nguyễn.
Tháng 9-1788, các tàu Dryade, Garonne, Đại úy Cook và Moyse mang nhiều vũ khí đến Sài Côn và một số võ quan Pháp là: Olivier, Dayot, Vannier, Laurent Barizy, de Forsans phần nhiều sở trường về hải quân và tổ chức các ngành quân đội theo lối Âu châu. Xét ra Giám mục đã đóng vai trò một Bộ trưởng Chiến tranh và Ngoại giao rất đắc lực cho Nguyễn Vương.
Từ giai đoạn này quân Gia Định mỗi ngày một mạnh bởi được chỉnh bị và cải tổ theo Tây phương về chiến thuật cũng như về chiến lược.
Tháng 3 năm Quí Sửu (1793) thế tử Cảnh được lập làm "Đông Cung" lãnh chức coi Tả quân danh.
2- Nguyễn Vương Tấn Công Vào Qui Nhơn Lần Thứ Nhất
Được Gia Định làm căn cứ có đủ thóc gạo nuôi quân, ngay năm sau là năm Canh Tuất, vào tháng tư (1790) vương cho Lê Văn Câu là Chưởng Tiền Quân đem 5000 quân thủy bộ ra đánh thành Bình Thuận. Võ Tánh và Nguyễn Văn Thành về Gia Định. Lê Văn Câu ở lại giữ Phan Rí. Sau việc thất bại này Câu bị lột hết chức tước, lấy làm xấu hổ nên uống thuốc độc mà chết.
Những việc xuất quân của Gia Định trên đây xét ra không lợi. Bấy giờ là tháng 7, gió Bắc thổi mạnh phải đợi gió thuận thủy quân mới đi đánh nhau được. Cuối mùa Xuân năm Nhâm Tí (1792) quân Gia Định, do các tướng Nguyễn Văn Trương, Nguyễn Văn Thành, Dayot, Vannier đem các chiến hạm, chiến thuyền ra đánh thủy quân cuả Tây Sơn ở Thị Nại (cửa Qui Nhơn) rồi bỏ về.
Năm sau, Quý Sửu (1793) Thế tử Cảnh được chỉ định giữ Gia Định, Nguyễn Vương tự lĩnh thủy quân cùng bọn Nguyễn Văn Trương, Võ Tánh đánh vào Nha Trang, lấy hai phủ Diên Khánh và Bình Khang rồi tiến ra đánh phủ Phú Yên; trong khi này lục quân của Tôn Thất Hội, Nguyễn Huỳnh Đức và Nguyễn Văn Thành tấn công Phan Rí.
Thủy  quân  Gia  Định  toàn  thắng,  nhưng  lục  quân  Gia  Định  chỉ  hạ  được  phủ  Bình Thuận mà thôi. Vương liền gọi bọn Thành tiến lên cùng hợp sức đánh Qui Nhơn. Trước thế mạnh của Gia Định, tại Thị Nại, Nguyễn Nhạc sai Thái tử Nguyễn Bảo ra cầm trợ. Vương cho Võ Tánh, Tôn Thất Hội, Nguyễn Văn Thành đánh tập hậu, quân Tây Sơn thua to phải chạy về giữ thành Qui Nhơn. Thành này bị quân Gia Định phong tỏa rất là nguy ngập.
Vua  Thái  Đức  phải  cho  người  ra  Phú  Xuân  cầu  cứu  vua  Cảnh  Thịnh  tức  Nguyễn Quang Toản vừa lên kế vị Quang Trung (1792). Quân của Toản vào giải vây, Nguyễn Vương liệu sức chống không nổi viện quân liền rút hết binh sĩ về Diên Khánh (tức Khánh Hòa ngày nay) rồi trở lại Gia Định và giao cho Nguyễn Văn Thành giữ Diên Khánh, Nguyễn Hoàng Đức giữ Bình Thuận.
Bọn Phạm Công Hưng giải vây cho thành Qui Nhơn xong thì vào lấy hết kho tàng và ra mặt chiếm đóng thành khiến vua Thái Đức uất lên, hộc máu mà chết. (Nguyễn Nhạc làm vua được 16 năm).
Cảnh Thịnh phong cho Nguyễn Bảo tước Công, cấp lộc một huyện gọi là Tiểu triều rồi cử Lê Trung và Nguyễn Văn Huấn ở lại giữ Qui Nhơn. Tuy vậy Bảo vẫn giận và qua hàng Nguyễn Vương107.
Cuộc chiến tranh giữa Tân Nguyễn và Cựu Nguyễn vẫn tiếp tục. Quân Nguyễn tuy thường thắng trận nhưng vẫn không chiếm được Qui Nhơn. Năm 1797, vua Cảnh Thịnh đem nhiều lực lượng đến bảo vệ Qui Nhơn. Nguyễn Vương phải bỏ việc tấn công thành này rồi mang quân đánh lén cửa Hàn, phá được nhiều chiến thuyền của Tây Sơn rồi rút về Sài Côn.
Đầu 1798, Nguyễn Bảo đánh được vào Qui Nhơn báo tin cho Nguyễn Vương ra hợp sức, nhưng quân Nguyễn chưa ra kịp thì thành Qui Nhơn lại bị Phú Xuân tái chiếm và Bảo bị giết.

3- Qui Nhơn Thất Thủ Lần Thứ Hai Và Thứ Ba
Đầu năm Giáp Dần (1794) như ta đã thấy Tây Sơn cho tướng Nguyễn Văn Hưng đem bộ binh vào đánh Phú Yên, Trần Quang Diệu vây thành Diên Khánh. Đông Cung Cảnh phải cầu cứu về Gia Định. Đại binh của Nguyễn Vương ra giải vây được thì Diệu rút quân về. Võ Tánh ra thay Đông Cung Cảnh để giữ Diên Khánh.

107 Theo C. B. Maybon.

Năm sau Diệu trở lại. Diên Khánh bị uy hiếp nặng nề, Nguyễn Vương lại đem thủy sư ra cứu. Lúc này giữa triều Tây Sơn, các đại thần bất hòa với nhau vì vua Cảnh Thịnh quá non nớt. Năm Ất Mão (1795) Thái sư Bùi Đắc Tuyên cho Ngô Văn Sở ra Bắc thay Võ Văn Dũng. Dũng về Phú Xuân đến trạm Hoàng Giang gặp Trung thư lịnh Trần Văn Kỷ phải tội bị đầy ra đây. Kỷ vốn được Dũng quý trọng đã xui Dũng về trừ Bùi Đắc Tuyên. Dũng nghe theo nên liền mưu với Phạm Công Hưng đem quân vây nhà Bùi Đắc Tuyên vào một đêm tối. Con Tuyên là Trụ đang ở Qui Nhơn cũng bị bắt nốt. Bọn Dũng còn lấy lệnh vua sai Tiết chế Nguyễn Quang Thùy giải Ngô Văn Sở về Phú Xuân. Những người này đều bị cáo làm phản và dìm xuống sông mà chết. Thế lực nhà Tây Sơn từ đấy sút kém hẳn.
Năm Đinh Tị (1797) đánh không được Qui Nhơn, Vương để Nguyễn Văn Thành và Đặng Trần Thường ở lại giữ Diên Khánh. Ảnh hưởng của Gia Định vẫn chưa ra khỏi địa phương này.
Năm Kỷ Vị (1799), Vương lại mang đại quân thủy bộ ra đánh Phú Yên, Qui Nhơn. Riêng thành Qui Nhơn cho đến bấy giờ rất là kiên cố, quân Nguyễn ra công mấy lần mà vẫn không lấy được. Năm ấy, Giám mục Bá Đa Lộc cùng Đông Cung Cảnh cầm đầu một đạo quân lớn đến bao vây phen nữa. Tháng tư Nguyễn Vương dẫn thủy quân đánh vào cửa Thị Nại. Hậu quân Võ Tánh và Hữu quân Nguyễn Huỳnh Đức đổ bộ lên đóng ở Trúc Khê. Tiền quân có Nguyễn Văn Thành ra đánh Phú Yên rồi được lệnh đi tiếp ứng cho Võ Tánh.
Ba đạo quân khác theo đường bộ, đạo thứ nhất có quân Lào hợp sức nhắm vào Thanh Hóa làm mục tiêu; đạo thứ nhì men theo bờ bể, đạo thứ ba đi con đường ngắn nhất đến Qui Nhơn, nối tiếp với các đạo quân đang đổ bộ. Các đồn Tây Sơn thuộc tiền tuyến bảo vệ thành Qui Nhơn bị mất dần vào tay các tướng Lê Văn Duyệt và Võ Tánh. Triều đình Phú Xuân cho Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng đem binh vào cứu nhưng đến Quảng Ngãi thì Tây Sơn bị quân của Nguyễn Văn Thành ngăn lại ở Thạch Tân.
Đạo quân của Vũ Văn Dũng đến Chung Xá cũng ngừng lại, đêm tới có người trông thấy con nai trong rừng lạc ra liền reo lên: Con nai! Quân Tây Sơn nghe lầm ra là: Quân Đồng Nai! liền bỏ chạy vỡ tan hết, Quân Nguyễn cứ thế đuổi đánh.
Trấn thủ thành Qui Nhơn lâu không thấy viện binh của mình đến lương thực lại cạn sạch đành mở cửa ra hàng. Nguyễn Vương đổi tên Qui Nhơn ra Bình Định từ đó.
Qui Nhơn bị mất, vua Cảnh Thịnh lại cho đại binh vào đóng ở Trà Khúc (Quảng Ngãi) tính đánh lấy lại Qui Nhơn nhưng vì trái mùa gió không dùng được thủy chiến phải rút về. Nguyễn Văn Giáp được lệnh ở lại Trà Khúc, Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng giữ Quảng Nam.
Về phía quân Nguyễn, một phần rút về Gia Định, một phần lại giữ Bình Định. Thành này  được  đặt  dưới  quyền  Phò      Tánh    Ngô Tùng Chu.  Trong dịp này vì trải nhiều vất vả, gian lao lại thêm thủy thổ bất phục Giám mục Bá Đa Lộc bị bệnh lỵ mà chết tại Thị Nại ngày 9-10-1799. Xác người được đưa về mai táng rất trọng thể ở Tân Sơn Hòa (Gia Định) và Giám mục được truy tặng tước Thái Phó Bí Nhu Quận Công.
Tuy mất Qui Nhơn, Tây Sơn vẫn không thoái chí nên đần năm sau (1800) Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng lại mang đại quân vào bao vây ở thành Qui Nhơn. Quang Diệu sai đắp lũy chung quanh thành, Văn Dũng đem hai chiếc tàu lớn và 100 chiến thuyền nhỏ ra đóng giữ cửa Thị Nại, đặt các hải đồn và đại bác quay ra mặt biển để phòng quân Nam ở ngoài khơi tiến vào. Trước một lực lượng quá hùng hậu lại do danh tướng chỉ huy, Võ Tánh cố thủ chờ quân Gia định ra tiếp sức.
Lúc này Nguyễn Vương cử Nguyễn Văn Thành, Lê Chất, Nguyễn Đình Đắc, Trương Tiến Bảo lĩnh ba đạo quân đánh vào Phú Yên rồi kéo ra đóng ở Thị Dã (thuộc Bình Định). Còn Ngài dẫn thủy quân tính phá Thị Nại. Kế hoạch này không có thực hiện được vì quân thủy bộ không liên lạc được với nhau. Một năm qua, tháng Giêng năm Tân Dậu (1801) quân Nguyễn do Nguyễn Văn Trương, Tống Phúc Lương, Lê Văn Duyệt, Võ Duy Nguy lại tấn công cửa Thị Nại, đốt được nhiều tàu, thuyền của Tây Sơn, khiến Vũ Văn Dũng phải chạy về hợp sức với Trần Quang Diệu; vòng vây của quân Tây Sơn lại càng xiết chặt vào thành Bình Định, rồi Võ Tánh cùng Ngô Tùng Chu hết lương thực, quân nhu tự sát, Võ Tánh làm lầu bát giác, chất cỏ rơm và thuốc súng ở dưới và tự hỏa thiêu, Ngô Tùng Chu cũng không ham sống, tử tiết bằng chén thuốc độc.
Trần Quang Diệu vào Bình Định, chiếu theo lời khẩn cầu của Võ Tánh đã tha chết cho mọi phần tử quân dân trong thành và làm lễ mai táng rất trọng thể cho hai kẻ chiến sĩ biết nêu cao gương tiết liệt.

4- Phú Xuân Đổi Chủ (15-6-1801)
Trong khi thành Bình Định lâm vào tình thế tuyệt vọng, Nguyễn Vương đã gởi mật thư bảo Võ Tánh lén bỏ thành này thì trái lại Võ Tánh đã khuyên vương nên lợi dụng lúc đại  quân của Tây Sơn  bị cầm chân ở Bình Định mà đánh úp Phú Xuân, Nguyễn Vương nghe theo để Nguyễn Văn Thành ở lại chống nhau với Quang Diệu và Vũ Văn Dũng, còn ngài đem thủy sư đánh vào cửa Tư Dung. Thủy sư của Vương gồm có 6 chiếc tàu Âu Châu do Vannier, Chaigneau, Forsans và De Barisy chỉ huy với một đạo quân đổ bộ 15.000 người. Ngày 11-6-1801 quân Nguyễn chia ra làm hai cánh tiến vào cửa sông Hương vừa tầm súng đại bác trên hải đồn. Các tàu và các pháo thuyền lớn chặn ngay cửa Hữu; 45 chiến thuyền có mái chèo và 300 chiếc pháo thuyền nhỏ chặn ở cửa Đông. Thủy quân của Nguyễn bị hỏa lực của Tây Sơn đẩy lui. Vương hạ lệnh cho binh sĩ lên bộ ngay khi đạn của Tây Sơn bắn rất ráo riết. Phò mã Nguyễn Văn Trị xông ra tính bắt sống hết đám thủy quân này thì bị Lê Văn Duyệt và Lê Chất đánh bọc hậu. Trị mất hết liên lạc với căn cứ phải bỏ chạy nhưng chưa quá vài trăm thước đã bị bắt.
Ba giờ sau Nguyễn Vương đã đứng trước kinh đô Phú Xuân, và ngày 15-6 là hai hôm sau Vương mới chính thức nhập thành. Lúc này vua Cảnh Thịnh và một số cận thần chạy được ra Bắc. Lê Chất đem bộ binh đuổi theo.
Sự thất bại của vua tôi nhà Tây Sơn (Cảnh Thịnh) đã chỗ vua thì nhỏ tuổi, các đại thần ghen ghét và tìm cách hại nhau, việc chính trị không ai ngó tới. Dân chúng trước tình trạng này mất cả tin tưởng và cảm tình, phần bị chiến tranh liên miên nên kiệt quệ mà sinh biến ở nhiều nơi, các tín đồ và đạo trưởng đạo Thiên Chúa cũng nổi lên; ở Thanh Hóa có Tù trưởng Mường là Hà Công Thái đánh phá, ở Nghệ An có tướng Nguyễn là Nguyễn Văn Thụy và Lưu Phúc Tường đem quân Vạn Tượng sang khiến tình thế của Tây Sơn thêm bấn loạn.

5- Nguyễn Vương ra Bắc Hà
Đầu tháng 7-1801, vua Cảnh Thịnh đổi niên hiệu ra Bảo Hưng rồi truyền hịch đi các trấn lấy thêm binh sĩ. Em là Nguyễn Quang Thủy được cử vào giữ Nghệ An. Tháng 11, vua Cảnh Thịnh đem quân 4 trấn ngoài Bắc và quân Thanh, Nghệ cả thảy ngót 30.000 vượt sông Linh Giang, 100 chiến thuyền vào đóng ở cửa Nhật Lệ. Nữ tướng Bùi Thị Xuân, vợ Trần quang Diệu cũng đem 5000 quân đi theo.
Nguyễn Vương thân ra chỉ huy chiến cuộc, Chưởng Trung Quân Bình Tây đại tướng quân Nguyễn Văn Trương dẫn thủy quân ra giữ Linh Giang thấy quân Tây Sơn mạnh phải rút về Đồng Hới. Nguyễn Vương phải tới trợ chiến. Phạm Văn Nhân và Đặng Trần Thưởng giữ mặt bộ.
Tháng giêng năm Nhâm Tuất (1802), Nguyễn Quang Thủy tiến đánh lũy Trấn Ninh nhưng không có kết quả. Vua Cảnh Thịnh toan lui quân nhưng Bùi Thị Xuân thúc voi vào trận cương quyết tiếp chiến hùng dũng và gan dạ phi thường. Trận đánh diễn ra từ sáng đến tối chưa ngã ngũ bề nào thì có tin của thủy quân của Tây Sơn bị thua ở cửa Nhật Lệ, quân Tây Sơn liền mất ngay tinh thần. Vua Cảnh Thịnh bỏ chạy ra Bắc. Ngày 15-2-1802, Nguyễn Vương về Phú Xuân để Nguyễn Văn Trương giữ Đồng Hới và cho Lê Văn Duyệt vào đánh lấy lại Qui Nhơn. Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng nghe quân mình bị bại ở Trấn Ninh, tháng 3 năm ấy bỏ thành Qui Nhơn rồi qua đường núi Ai Lao ra Bắc tính hội với vua Cảnh Thịnh.
Tháng 3 năm Nhâm Tuất (1802), Nguyễn Vương lên ngôi, đổi niên hiệu Cảnh Hưng ra Gia Long nguyên niên. Xét ra từ giờ phút ấy Vương khôi phục xong Phú Xuân, thâu lại được vùng Linh Giang vào đến Gia Định, thế là hoàn thành được sự nghiệp như ông cha thuở trước.
Giờ đây quân Nguyễn chỉ còn việc truy kích vua tôi nhà Tây Sơn. Bọn Trần Quang Diệu chạy ra Bắc đến châu Qui Hợp, xuống huyện Hương Sơn thì thấy Nghệ An đã mất cùng Bùi Thị Xuân liền chạy qua huyện Thanh Chương. Binh sĩ bấy giờ đã thất tán hết. Được ít lâu hai vợ chồng bị bắt. Vũ văn Dũng ra đến Nông Cống cũng bị một số phận như Diệu. Quân Nguyễn cứ rong ruổi ra Thanh Hóa, không còn gặp một sự kháng cự nào hết. Rồi đến lượt vua Tây Sơn cùng hai anh em là Quang Thùy, Quang Thiệu, Đô đốc Tú, Nguyễn Văn Tứ trốn tới huyện Phượng Nhỡn tỉnh Bắc Giang cũng bị bắt nốt. Riêng Quang Thùy, vợ chồng Đô đốc Tú tự vẫn được. Các phạm nhân của Nguyễn Vương đều bị mang về làm lễ hiến phù ở đền Thái miếu vào tháng 7 năm Nhâm Tuất (1802) rồi bị lăng trì (tội nhân bị xẻo thịt, đây là một hình phạt dã man nhất của đời phong kiến). Còn vợ chồng Trần Quang Diệu cũng bị xử tử hình: bà Bùi Thị Xuân và con gái hãy còn nhỏ tuổi, bị voi giày, (theo sử Pháp). Diệu có lẽ bị chém, riêng mẹ già của Diệu đã 80 tuổi được tha, vì Diệu đã không sát hại quân dân thành Qui Nhơn theo lời yêu cầu của Võ Tánh trước khi tử tiết năm Tân Dậu (1801). Mả vua Thái Đức và Thái tổ Nguyễn Huệ cũng bị quật lên, thây bị vứt đi, còn đầu bỏ vào chum giam vào ngục tối. Bọn văn thần của nhà Tây Sơn như Ngô Thời Nhậm, Phan Huy Ích ra hàng bị nọc đánh trước nhà Văn Miếu (Bắc Thành) rồi tha về. Riêng Ngô Thời Nhậm bị Đặng Trần Thường có hiềm riêng cho đánh đến chết...
Nhà Tây Sơn khởi đầu từ năm Mậu Tuất (1778) đến năm Nhâm Tuất (1802) thì cáo chung, được tất cả 24 năm. Trong 24 năm nhà Tây Sơn không ngơi tay đánh Đông dẹp Bắc nên sự nghiệp về nội trị không được là bao nhiêu. Nhưng nếu vua Quang Trung không sớm mất thì nhà Tây Sơn không phải chỉ để một số công vĩ đại trên Lịch sử là đuổi quân xâm lăng nhà Thanh mà thôi. Ví con người lỗi lạc, thông minh giàu sáng kiến và đảm lược ấy sống thêm ít năm nữa thì chính tình nước ta và cục diện Đông Nam Á rất có thể thay đổi lớn. Mông Cổ vào làm vua đất Tàu, người Mãn ngự trị Hoa tộc, với Nguyễn Huệ chưa quá 7 ngày đã dẹp tan được 20 vạn quân Thanh, ai bảo rằng dân tộc Việt Nam sẽ chẳng có phần ăn nói trên lục địa của con cháu Hoàng đế.
Tiếc rằng Thái Tổ qua đời, sau này con cháu bất tài, đại thần tướng lĩnh chia rẽ, nên triều đại Tây Sơn đã tàn tạ một cách bi thảm mở đường cho triều Nguyễn nổi lên được do sự giúp đỡ của Tây phương, nhưng nửa thế kỷ sau lại chìm đắm trong vòng lệ thuộc cũng do Tây phương mà ra.


Phần 3 - Chương 21 Người Âu Châu Sang Việt Nam
- Việt Nam dưới con mắt của người Pháp.
- Việc giảng đạo Thiên Chúa tại Việt Nam.

1- Việt Nam Dưới Con Mắt Của Người Pháp
Âu Á cùng chung một lục địa nhưng từ thế kỷ thứ III, năm 226 sau C.L. đã có người La Mã đi qua nước ta (khi đó còn gọi là Giao Chỉ) để sang nước Ngô, rồi tới thế kỷ VII có ít người theo đạo Cảnh Giáo (Nestoriens) mà người thứ nhất tên là Olopen đã từ Ba Tư đến kinh đô Hoa Lư của vua Đinh Tiên Hoàng.
Đến thế kỷ XIII, phái viên của chúa Mông Cổ là Marco Polo người Ý (nguyên quán ở thành  Venice)  cũng    lần  đi  công  cán  qua  Việt  Nam  cho  tới  thế  kỷ  XV  Chritophe Colomb tìm được Châu Mỹ, Vasco de Gama lần được qua Hải Vọng Giác (Cap de Bonne espérance) sang Ấn Độ Dương và qua cả Thái Bình Dương. Từ đó về sau người Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Hòa Lan tranh nhau sang Á Châu lập thị trường và chiếm đất làm thuộc địa (Bồ đến Áo Môn ở bờ biển Trung Quốc (1563), Tây Ban Nha chiếm quần đảo Phi Luật Tân (1568), Hòa Lan lấy đất Chà Và (1596) sau đó Anh và Pháp ló mặt ở Ấn Độ). Rồi nhiều người Tây phương từ thế kỷ XV, XVI và XVII đã biết đến nước ta trong thời Nam-Bắc phân tranh. Họ tới xứ ta để mở mang việc thương mại và cũng để lo thực hiện chủ trương đế quốc bởi lúc này dân tộc Á Đông chúng ta quá lạc hậu.
Năm 1614 một người Bồ Đào Nha tên là Jean de la Croix đến Thuận Hóa mở lò đúc súng giúp chúa Nguyễn. Một ít kỹ thuật gia Bồ còn dạy người Đàng Trong đóng tàu theo lối Âu Châu và tổ chức cả binh đội cho Nam Hà...
Những người Pháp đầu tiên đặt chân tới Việt Nam gồm hai loại: các nhà buôn và một số giáo sĩ trong đó người nổi danh hơn cả là giáo sỉ P. Alexandre de Rhodes. Sau một thời gian lưu lại Việt Nam, giáo sĩ trở về Pháp (1649) cho in tấm bản đồ đầu tiên của xứ An Nam, cuốn tự điển Việt--La Tinh--Bồ Đào Nha, và kế đó, vào năm 1652 cuốn Sử Ký Bắc Hà bằng tiếng La Tinh cũng được xuất bản...
Sau khi công ty của Pháp tại Ấn Độ được thành lập, viên giám đốc Franẫois Caran đã soạn thảo một kế hoạch đầy đủ với tham vọng tôn tính thị trường tại Viễn Đông. Vào năm 1666, củng cố địa vị tại vùng đảo Java xong, F. Caran có ý định mở một chuyến viễn du qua Nhật Bản rồi sẽ tới xứ Nam Hà để đặt cơ sở thương mại tại đây. Rủi thay, hoài bão đó không được thành tựu vì trong khoảng 1665 và 1667 nước Pháp gặp nhiều thất bại tại đảo Madagascar.
Năm 1678 một người Pháp tên là Boureau-Deslandes vào yết kiến chúa Trịnh ở Bắc Hà, dâng một bức thư của vua Louis XIV xin cho các giáo sĩ Pháp được vào giảng đạo tại Việt Nam. Năm 1682, giám mục Metellopolis và Lanneau tới Huế gặp chúa Hiền Vương và làm quà cho ngài hai cỗ đại bác.
Hai năm sau, công ty Ấn Độ phái một người Pháp tên là Chappelier ra Bắc. Tại đây ông này đã lập một cửa hàng. Nhận xét về xứ này, Chappelier viết: "Đất đai phì nhiêu, dân tình hiền hòa và có thiện chí buôn bán với ngoại quốc".
Năm 1686 một người Pháp tên là Verret được phép mở thương điếm ở cù lao Côn Lôn. Y báo cáo về cho Công ty, như sau:
"Cù lao không có dân cư ở, có nhiều đồ gia vị, cù lao chính có ba hải cảng tốt..."
Tuy nhiên báo cáo trên không được Công ty lưu tâm tới vì gặp những khó khăn liên tiếp về mặt tài chánh của Pháp thuở đó do chiến tranh gây ra. Mãi tới năm 1721, Công ty mới bắt đầu nghiên cứu những dự án về Nam Hà.
Từ giai đoạn này trở đi một ít người Hòa Lan, Bồ Đào Nha đã cho tàu cập bến cửa Thái Bình và cửa Luộc để giao dịch với vua chúa cùng dân chúng Bắc Hà. Họ được phép lập hiệu buôn ở Kẻ Chợ và Phố Hiến (Việt Sử Tân Biên quyển 3 đã nói đến).
Năm 1721, viên toàn quyền Pondichéry là Pierre Lenoir phái Renault sang Nam Hà để quan sát tình hình, và khác với Verret, ông này ít chú ý tới cù lao Côn Lôn. Renault cho rằng chính trong đất liền mới có nhiều điều đáng kể.
Vào năm 1723 Công ty gặp cơn khủng hoảng và không sao tiến lên được tới mức bình thường để duy trì các cơ sở cũ. Từ đó về sau, Công ty luôn luôn nghĩ đến Bắc và Nam Hà, đồng thời các chuyến tàu đặc biệt thường hay ghé vào các xứ này. Năm 1737 viên toàn quyền Pondichéry là Dumas gửi một bản phúc trình cho ban giám đốc Công ty nói về xứ Bắc Hà. Dumas nhận xét: "Xứ Bắc Hà đất đai phì nhiêu, khí hậu tốt lành và đặc biệt, gần Trung Quốc có nhiều mỏ đồng và nhiều đồ gia vị".
Rồi Dumas giao cho De la Baume, một người đã từng sống lâu năm ở Nam Hà, khảo xét về những thổ sản của xứ này. Nhưng mọi việc đều không đưa tới kết quả mong muốn.
Vào năm 1748, Công ty phái một nhân viên tên là Dumont tới miền Trung, ông này mở cửa hàng ở Hội An với ý định biến cửa bể này thành một trung tâm thương mại. Năm 1749 một người Pháp tên là Pierre le Poivre sang Nam Hà, vào cửa Hội An, xin yết kiến chúa Nguyễn và dâng tờ quốc thư cùng phẩm vật để tỏ tình giao hiếu của hai nước. Chúa Nguyễn cũng đáp thư lại, thuận cho người Pháp vào thông thương và được quyền mở thương điếm ở cửa Hội An.
Sau này những chuyến viễn du của Bennelat, của giáo sĩ d'Eucarpié, của tu sĩ Saint Phalle tới Việt Nam cũng đều có ý xem xét tình hình Việt Nam về mọi phương diện.
Vào 1753, Prolias-Leroux đề nghị mở một cửa hàng tại đảo Côn Lôn. Nhưng vì cuộc chiến tranh "Thất Niên" đem lại sự thất bại cho Pháp tại Ấn Độ nên Công ty này bị tan rã (1769) khiến dự định trên không được thành tựu. Vào cuối đời Louis XV, chương trình thiết lập cơ sở tại Việt Nam lại được đem ra nghiên cứu một lần nữa. Sau khi trình bày sự bành trướng và uy thế của Anh Cát Lợi tại Á Châu, một người Pháp tên là De Rothé cho biết: "Cho đến bây giờ chỉ còn Nam Hà nằm ngoài vòng ảnh hưởng của Anh Cát Lợi; nếu họ quyết định trước ta, thì chẳng bao giờ ta còn có thể đặt chân tới xứ này được nữa".
Xem các sự kiện đã kể trên, ta thấy nước Pháp cũng như nhiều nước Âu Châu đã thèm muốn nước ta rất nhiều và từ lâu chẳng cần phải có việc cáo tỏ của giám mục Bá Đa Lộc sau này hoặc có việc vua Gia Long khi còn là chúa Nguyễn Ánh yêu cầu họ mang binh sang nước ta. Việc xâm chiếm Việt Nam vào đời Tự Đức đối với nước Pháp nếu so với hành động thực dân của các nước Tây phương khác chỉ là lẽ tự nhiên phải xảy ra. Nếu sự việc này tới muộn là bởi Pháp chưa có hoàn cảnh thuận tiện từ hai thế kỷ trước mà thôi. Ngoài những thương nhân có ảnh hưởng đến thời cuộc Á Đông, phải kể cả một số giáo sĩ nữa, vì họ đã hoạt động không riêng gì cho tôn giáo.

2- Đạo Thiên Chúa
Xưa kia Âu Châu là một nơi có nhiều tôn giáo khác nhau. Dân tộc nào cũng có thần thánh riêng để thờ phụng, lấy các hiện tượng trong trời đất để tưởng tượng ra các thánh thần rồi làm các đền đài vĩ đại để cúng vái. Dân Hy Lạp, La Mã thờ thần Jupiter (Thái Dương), thần Apollo (thần Ánh Sáng). Riêng Do Thái thờ Jéhovah ở Jérusalem, tin rằng vị thần này sinh ra loài người và muôn vật trong vũ trụ. Khi La Mã làm chủ được cả đất Tiểu Á-Tê-Á và Tây Âu, đạo Do Thái trở nên suy tàn. Lúc này chúa Gia Tô108 ra đời lập ra thuyết trong trời đất chỉ có Thượng Đế là cao siêu, là vĩ đại, là nhân từ hơn cả. Thượng Đế đây tức là Chúa Trời có ba ngôi: ngôi thứ nhất là Cha, ngôi thứ hai là Con và ngôi thứ ba là Thánh Thần. Tuy chia ra ba mà vẫn là nhất thể. Chúa Trời cho con xuống thế làm người chịu đủ điều cực hình, khổ nhục để chuộc tội cho Nhân loại. Chúa Gia Tô khuyên người ta kính Chúa (Trời) và mến người, chỉ làm những điều ân ích và trút bỏ mọi oán hờn, ghen ghét. Công tội sau này sẽ được Chúa phán xét để lên Thiên Đường hay xuống địa ngục đời đời, kiếp kiếp...
Từ đời bạo chúa Néron cho tới các đế vương sau, đạo Thiên Chúa bị triệt hạ cấm đoán nhiều lần nhưng sau đến năm 325 đời vua La Mã Constantin do chỉ dụ Milan, đạo này được tự do truyền bá. Tuy vậy cho tới thế kỷ XVIII đạo Thiên Chúa còn gặp nhiều trở lực và phải tranh đấu rất nhiều với các đạo giáo khác mới tồn tại được đến ngày nay để thành một giáo lý được tin tưởng nhiều nhất ở các nước Tây phương. Đạo Gia Tô đã lần sang Á Đông trước thế kỷ thứ IV sau T.C. qua Ba Tư, qua đảo Socotora, Tích Lan, Malabar, Tartaria và Trung Quốc.
Những giáo sĩ đầu tiên trên đất Việt Nam là những ai?

108 Đạo Thiên Chúa còn gọi là đạo Gia Tô bởi chữ Gia Tô phiên âm ở chữ Christ mà ra.

Họ là những người Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha... tu sĩ cũng như lái buôn đều tự cho mình là những tên lính tiên phong cảm tử đi mở việc buôn bán với Á Châu để làm giàu cho xứ sở mình và đem đức tin Công Giáo đến với những người không tín ngưỡng ở khắp nơi trên thế giới. Hạt tiêu và linh hồn, đó là mục đích của những cuộc mạo hiểm vô cùng táo bạo của họ.
Đạo Công Giáo đến nước ta vào đời Hậu Lê, giữa lúc nền thống nhất của Việt Nam bị tan    do  sự  tranh  giành  quyền  lợi  của  các  ông  chúa  phong  kiến  Mạc  --  Trịnh  -- Nguyễn.
Theo Khâm Định Việt Sử, từ năm Nguyên Hòa nguyên niên đời vua Lê Trang Tông (1532-1533) khi giáo sĩ dòng Franciscan đến xứ Bắc đã có một người Tây Dương là I- Ni-Khu đi đường bể lén vào giảng đạo Thiên Chúa ở làng Ninh Cường, làng Quần Anh, huyện Nam Trực, làng Trà Lũ huyện Giao Thủy thuộc các tỉnh Nam Định, Thái Bình và Ninh Bình. Sau đó các giáo sĩ P. Busomi đến Nam Hà vào năm Ất Mão (1615) đời chúa Sãi, giáo sĩ Jean Rhodes đến giảng kinh Phúc Âm ở Phú Xuân, giáo sĩ Baldinoti vào xứ Bắc năm Bính Dần (1626) đời vua Lê Thần Tông, v.v...
Trong thuở sơ khai các giáo sĩ nhờ vào các thương gia mới có tàu bè qua Á Đông. Đầu thế kỷ XVII việc triều đình truyền giáo đã được tổ chức đầy đủ và tiến mạnh dần. Áo Môn (một địa điểm duyên hải của tỉnh Phúc Kiến) bấy giờ trở nên một trung tâm cho việc truyền bá đạo Thiên Chúa và là nơi phân phối các giáo sĩ đi các xứ Á Đông do người Bồ Đào Nha cầm đầu.
Đáng chú ý là sự mở mang Đế Quốc của Liệt cường Tây phương và việc bành trướng đạo Thiên Chúa cũng song hành đều nhịp, liên hệ với nhau, nên người Á Đông sau khi thấy nhiều dân tộc da vàng bị nô lệ hóa đã nhìn người Tây phương bằng con mắt căm hờn, với đạo Thiên Chúa họ cũng nghi ngờ về phương diện chính trị. Quả vậy, một số giáo sĩ đã là mật báo viên cho Hoàng Đế Tây Ban Nha và Pháp. Họ không thể làm khác hơn được bởi họ phải dựa vào quyền lực và sự cung cấp của Hoàng Đế Pháp-Tây Ban Nha mới có phương tiện qua Á Đông làm nhiệm vụ cao cả của họ. Rồi do sự cạnh tranh chính các nhà buôn cùng giáo sĩ của các nước Tây phương đã tố cáo nhau, dèm pha nhau nên các vua chúa của ta nghi ngờ họ là phải lắm. Đây là một trong nhiều nguyên nhân về việc bài đạo và giết đạo mỗi ngày thêm khốc liệt khiến lịch sử Công Giáo Việt Nam đã đầy huyết lệ từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX.
Buổi đầu trong thời Nam-Bắc triều, sau là thời Nam-Bắc phân tranh vua chúa Nam, Bắc Hà tỏ có nhiều cảm tình với các giáo sĩ. Thực ra không phải vì hâm mộ một đạo giáo, mặc dầu đạo giáo này có chủ trương Bác Ái, Nhân Hòa nhưng vì các vua chúa muốn lợi dụng các giáo sĩ để liên lạc với các nước Tây phương hòng có những kỹ thuật gia giỏi về quân sự, tài đóng tàu chiến, đúc súng đồng, đạn dược và mua được nhiều khí giới để hạ thủ đối phương.
Tới khi không lợi dụng được như ý muốn lại thấy người Tây phương chinh phục được nhiều nước ở Á Châu, các vua chúa sinh ra e sợ rồi quyết liệt thi hành chính sách bài đạo và bế quan tỏa cảng.
Từ năm Tân Tỵ (1631) trong Nam dưới đời chúa Thượng ngoài Bắc dưới đời Cảnh Hưng (1754) đã nổi lên nhiều phong trào giam cầm bắt bớ và giết tróc các đạo trưởng Tây phương cùng các tín đồ. Các giáo sĩ bị hại ở Bắc Hà nhiều hơn vì vua Lê, chúa Trịnh gần như thất bại trong việc kêu gọi người Tây phương đến giúp mình.
Một căn nguyên khác không kém phần quan trọng trong việc bài đạo là chỗ đạo Thiên Chúa bị hiểu lầm là một tà đạo, nghịch với thuần phong mỹ tục bản địa. Chính quyền cho kẻ theo đạo là những kẻ đi ngược với luân thường, bỏ rơi tiên tổ, khinh mạn vua quan, tóm lại tôn giáo này bị coi là có thể làm đảo lộn trật tự của xã hội đương thời từ gia đình ra tới ngoài đại chúng.

Phần 3 - Chương 22
Nhà Nguyễn (1802-1945)
- Gia Long (1802- 1820)          -Minh Mạng (1820- 1840)
- Thiệu Trị (1841- 1847)         - Tự Đức (1847- 1883)
- Dục Đức (1883) - Hiệp Hòa (1883)
- Kiến Phúc (1883- 1884)        - Hàm Nghi (1884- 1885)
- Đồng Khánh (1885- 1889) - Thành Thái (1889- 1907)
- Duy Tân (1907- 1916) - Khải Định (1916- 1925)

1- Thế Tổ xưng Đế hiệu:
Ngày 1/6/1802, Nguyễn Ánh làm lễ tại nhà Thế Miếu, lấy hiệu là Gia Long và tuyên bố cáo chung niên hiệu Cảnh Hưng của nhà Hậu Lê.
Tính ra Thế Tổ nhà Nguyễn đã chiến đấu suốt hai mươi lăm năm (1777-1802) để hoàn thành sự nghiệp thống nhất và bình định nước Việt Nam từ Cà Mau tới Nam Quan.
Trong một phần tư thế kỷ đó Người đã trải qua bao phen vào sinh ra tử, nhục nhả gian lao, nếu không phải là người có tài, có chí, cương quyết và nhẫn nại thì khó mà thành công được.
Đến khi bước lên ngai vàng, Thế Tổ vừa đúng 40 tuổi.
Lo việc trị loạn xong, Người bắt tay vào việc bình trị. Công chuyện này rất là phiền toái, khó khăn và vĩ đại.
Các cơ quan hành chính và các quan lại ở các địa phương bấy giờ đều thất tán hết, nay phải lập lại các sổ sách về đinh điền, thuế khóa và tuyển trạch nhân viên. Đồng ruộng bỏ hoang, kho tàng rỗng tuếch, cướp bóc lung tung, thật là một cuộc đổ nát hoàn toàn.
Việc thứ nhất là Người đổi tên quốc hiệu ra Việt Nam, chính thức dùng Phú Xuân làm kinh đô, tha cho dân một vụ thuế, thăng thưởng cho tướng sĩ, phong tước và cấp ruộng đất cho con cháu hai họ Lê, Trịnh để giữ việc khói hương.

2- Bộ Máy Chính Quyền Trung Ương:
Vua Gia Long không đặt ngôi hoàng hậu trong nội cung, và chức Bồi tụng, hay Tham tụng (tức là chức Tể tướng) ngoài triều đình để tránh những ảnh hưởng quá lớn về chính trị, do đó chỉ có chức Hoàng phi và cung tần trong biệt điện, việc nước thì có Lục bộ phụ trách. Mỗi bộ có một vi Thượng thư đứng đầu gồm Tả Hữu Tham Tri Tả, Hữu Thị Lang cùng các thuộc viên Lang Trung, Viên Ngoại Chủ Sự, bát cửu phẩm, thơ lại v.v...
Sáu bộ là:
1) Bộ Lại trông coi việc bổ dụng, thuyên chuyển, ban thưởng phẩm trật, khảo xét công trạng, phong tặng ấm tước, thảo các chiếu, sắc, dụ v.v...
2) Bộ Hộ chịu trách nhiệm về các việc đinh điền, thuế má, tiền bạc, kho tàng, hóa vật như bộ Tài chính và Kinh tế ngày nay.
3) Bộ Lễ lo việc tế tự, triều hạ, tôn phong, triệu hội, học chế, khoa cử, phong sắc cho bách thần, khen tặng các người sống lâu, tiết hạnh.
4) Bộ Binh bổ dụng, tuyển mộ binh tướng, tổ chức quân đội, mở các cuộc thao diễn, lập khoa thi võ cử, ban bố các mệnh lệnh hành quân v.v...
5) Bộ Hình xét hình án, sửa sang pháp luật, duyệt lại các án từ đáng nghi ngờ hay các đơn kháng tố tối cao.
6) Bộ Công phụ trách các công tác xây dựng cung điện, thành trì, hào lũy, tự tạo tàu bè, nghiên cứu các kiểu mẫu lăng tẩm, công thự, mua bán vật liệu, thuê mướn thợ thuyền.
Để kiện toàn việc chính trị cũng như hành chính, nhà vua lập Đô sát viện gồm Tả, Hữu Đô Ngự Sử và Tả, Hữu phó Đô Ngự Sử đứng đầu, cơ quan này giống như Nha Thanh Tra hành chính và chính trị đời nay nhưng rộng quyền hơn là có quyền cản ngăn nhà vua và đàn hặc các quan lớn, nhỏ nếu thấy việc gì trái với phép nước về phương diện này hay phương diện khác. Xét trong triều Gia Long bấy giờ chưa có quan nhất phẩm về hàng văn, các quân nhân hầu hết giữ các việc trọng yếu, có lẽ do tình thế đặc biệt buổi đó. Các việc thưởng phạt, truất biếm, bãi miễn đều có những thể lệ rõ ràng để tránh những việc lạm quyền và thiên vị.

3- Các Địa Hạt Hành Chính Lớn:
Đối với từng địa phương, vua Thế Tổ có một chính sách riêng biệt:
A) Tại Bắc Hà và Nam Hà, nhà vua đặt một quan Tổng Trấn để trông nom mọi việc. Quan Tổng Trấn Bắc Hà bấy giờ là Nguyễn Văn Thành, Tổng Trấn Nam Hà là Lê Văn Duyệt. Cả hai đều là võ quan cấp tương đối cao. Dĩ nhiên ý của nhà vua là vì việc loạn chỉ mới tạm yên, cần phải có võ tướng để toàn quyền hành động mới giải quyết được mọi vấn đề. Dưới quyền Tổng Trấn có phó Tổng Trấn, có quan Ký Lục và Cai Bạ giúp việc cai trị. Quan lại ở Bắc Hà được tuyển dụng trong các cựu thần của nhà Lê và các thổ hào sở tại.
Bắc Hà được kể từ Thanh Hóa ngoại tức là từ Ninh Bình trở ra, gồm 11 trấn chia ra làm 5 nội trấn: Sơn Nam thượng, Sơn Nam hạ, Sơn Tây Kinh Bắc, Hải Dương. Ngoại trấn có: Tuyên Quang, Hưng Hoá, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Quảng Yên là những tỉnh bao vây vùng Trung Châu từ Tây qua Đông (giáp biển). Nam Hà từ Bình Thuận trở vào là Gia Định thành gồm 5 trấn: Phiên An (thành Gia Định cũ) Biên Hòa, Vĩnh Thanh (Vĩnh Long và An Giang) Vĩnh Tường và Hà Tiên109.
Đứng đầu các trấn có các quan Lưu Trấn hay Trấn Thủ. Trấn lại chia ra phủ, huyện, châu (châu là đơn vị hành chính ở các vùng có rừng núi và đồng bào Thượng).
Miền Trung gồm: Thanh Hóa trấn, Nghệ An trấn, Quảng Nghĩa trấn, Bình Định trấn, Phú Yên trấn, Bình Hòa trấn (tức Khánh Hòa) và Bình Thuận trấn. Vùng Kinh Kỳ tức là các tỉnh trực tiếp với hoàng triều gồm bốn doanh: Trực Lệ Quảng Đức doanh (Thừa Thiên ngày nay), Quảng Trị doanh, Quảng Bình doanh, Quảng Nam doanh.
P. Cultru cho rằng Bắc Hà và Nam Hà bấy giờ tuy bị lệ thuộc về Phú Xuân nhưng không bị một chế độ cai trị nghiệt ngã vì vua Gia Long xét việc tập trung quyền hành thái quá là điều không thuận lợi.

4- Binh Chế:
Vua Thế Tổ sau khi thống nhất đất nước liền phong thưởng tướng sĩ. Ngài chỉnh đốn binh đội theo tục cũ: đối với quân chính quy cứ 7 xuất đinh từ 19 đến 25 tuổi lấy một Người ra lính thì gia đình được lĩnh một phần ruộng và cứ một năm chỉ ở trong quân ngũ một thời hạn là 4 tháng rồi lại được trở về quê làm ăn cày cấy 8 tháng, nhưng khi Nhà nước động dụng đến để làm các tạp dịch thì phải có mặt (xây thành, đắp lũy, mở đường v.v...), gặp thời chiến thì cứ ba xuất đinh lấy một.
Ở Bắc Hà thì 10 người lấy một tại trấn Tuyên Quang, Hưng Hóa, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên và Quảng Yên. Ở Nam Hà thì 8 người lấy một tại các làng đông đảo.
Ở kinh thành có ba loại lính: thân binh, cấm binh, và tinh binh. Thân binh mỗi vệ có 500 người và có 50 người binh tập quân nhạc. Ở các trấn thì có lính cơ, lính mộ. Các binh sĩ chia ra làm ba phiên: 2 phiên về làm ruộng, 1 phiên ở lại phục vụ rồi thay đổi cho nhau.
Vũ khí có: gươm, giáo, mã tấu. Súng có: đại bác, thạch cơ điểu thương (súng nhỏ) mổ bằng máy đá lửa. Có ba trường để tập bắn ở kinh thành gọi là xạ trường. Ở các cửa bể có các hải đài là đồn binh có đặt súng để bảo vệ an ninh và kiểm soát tàu bè ngoại quốc. Vua Gia Long đặt ở mỗi hải khẩu một cơ lính thủy và làm thuyền lớn bọc đồng để tuần phòng miền bể. Lính thủy được lấy ở hai doanh Quảng Đức và Quảng Nam, lập thành 6 vệ đóng tại kinh thành.

109 Năm 1802, Vua Gia Long phong cho cháu Mạc Cửu là Mạc Tư Thiêm làm Trấn Thủ địa phương này. Thiêm là con Mạc Thiên Tứ. Năm 1809 Thiêm chết, Vua Gia Long không tin người con cả của Thiêm nên đặt tạm một viên quan lại người Việt ở Hà Tiên. Tiêm La phản đối rằng Hà Tiên là đất của họ Mạc gây dựng. Năm 1826 Mạc Công Du con Thiêm được làm Hiệp trấn ở địa phương này sau thăng chức Trấn thủ, Hà Tiên lại thịnh vượng như xưa.

Cấp bậc về Võ ban: cũng như về Văn ban có 9 bậc: mỗi bậc có chánh, có tùng (phó). Cao nhất là: Trung quân, Tiền quân, Tả quân, Hữu quân, Hậu quân. Chức này vào cấp tướng coi một đạo quân gồm 8 đại đội và 9 cơ ( mỗi cơ có 60 binh sĩ ). Mỗi đạo quân có một số tượng binh.
Cấm quân là quân canh gác hoàng thành có 30.000 gồm lục quân, kỵ binh, tượng binh. Tổng số lục quân vào năm 1800 là 113.000 người (trong thời chiến), nhưng có thể lên tới 200.000 nếu có chiến tranh. Tổng số hải quân có 26.800 người, đó là theo lời của De Barisy, người đã cộng tác với nhà vua trong thời chiến tranh với nhà Tây Sơn.
Tàu chiến mang 16 đến 22 khẩu đại bác có 200 chiếc.
Thuyền chiến có 40 đến 44 tay chèo mang máy bắn đá cò 500 chiếc.
Thuyền lớn có từ 50 đến 60 tay chèo mang đại bác, máy bắn đá có 100 chiếc.
Binh đội thủy lục này đều luyện tập và áp dụng chiến pháp theo lối Âu Châu. Còn kỵ binh thì không có vì xứ ta nhiều núi non sông ngòi, chỉ có một ít để dùng vào việc liên lạc và bảo vệ hoàng thành.

5- Công Vụ:
Mỗi tỉnh có một số nhân viên phụ trách việc sửa sang đường xá, đê điều, sông ngòi. Nhà vua lưu tâm nhiều hơn cả là vấn đề đê điều ở Bắc Hà, vì xứ này hàng năm thuờng xảy ra việc lụt lội khiến Nhà nước phải bãi thuế cho dân. Cuối đời của vua Thế Tổ (1820) việc sửa sang đê điều ở đây mới tạm yên, tiếc rằng việc gìn giữ vẫn thường không được chu đáo lắm nên việc lụt lội vẫn còn xảy ra.
Các quan lộ trong nước đều được chăm nom, chỗ nào cách sông ngòi thì quan địa phương cho làm cầu. Cứ 15.000 trượng đường thì dân được lãnh 10.000 phương gạo. Từ cửa Nam Quan vào đến Bình Thuận, cứ 4.000 trượng đường có một trạm bên cạnh quan lộ để quan khách nghỉ ngơi, cả thảy có 98 trạm, còn từ Bình Thuận vào đến Hà Tiên đã có thủy đạo.
Ở mỗi trấn Nhà nước có một kho chứa thóc gạo phòng khi đói kém hay mất mùa để chẩn cấp hay bán rẻ cho dân.
Thành Huế được xây dựng vào năm 1813 hay 1814 đến 1820 mới xong. Thành hình vuông chu vi tới 5 đến 6 dậm theo kiến trúc Tây Phương kiểu Vauban (như thành Strasbourg của Pháp) có 24 pháo đài (mỗi pháo đài có 26 khẩu đại bác từ 18 đến 68 livres), do chính sở đúc của nhà vua làm ra. Thành cao chừng 4 thước tây có những cổng đá cao tới 60 thước Anh (peds) toàn bằng đá phiến rất lớn và dầy dặn, nóc cổng cao tới 8 thước. Đây là một công trình kiến trúc vĩ đại và kiên cố rất đáng khen ngợi nếu đem so sánh với những thành lũy ở cửa Hội An hay Nha Trang.

6- Việc Học Hành Và Luật Pháp:
Vua Thế Tổ cũng tôn trọng Nho học, biết rằng việc trị dân cần phải có nhân tài nên cho lập nhà Văn Miếu ở các doanh, các trấn thờ đức Khổng tử. Ngài lập Quốc Tử Giám (1803) ở Kinh đô để dạy cho các quan và các sĩ tử, mở khoa thi Hương lấy các người có học, có hạnh ra làm quan. Cũng trong năm này, Ngài cho ban hành hai đạo dụ về việc mở các trường ở các tỉnh, ấn định nhân viên giáo giới và chương trình học chế cùng tái lập các khoa thi ở các trấn. Ở mỗi trấn có một quan Đốc Học, một phó Đốc Học hay Trợ Giáo. Cứ tháng 10 hàng năm triều đình mở một kỳ thi.
Binh bộ thượng thư Lê Quang Định đã được phụ trách làm một cuốn Địa dư tức là cuốn Nhất Thống Địa Dư Chí biên soạn từ năm 1806 đến năm 1811. Vua Thế Tổ còn ra lệnh sưu tầm các sách sử ký liên hệ đến Lê triều và nhà Tây Sơn, kêu gọi dân chúng xuất trình các tài liệu bấy lâu thất tán vì ly loạn đem nộp cho các quan tỉnh lấy thưởng. Cũng năm này một số giáo viên được mời về kinh đô để chép sử. Năm 1818 Mạc Công Du là con cháu Mạc Cửu được lệnh sưu tầm các tài liệu về lịch sử đất Hà Tiên.
Về luật pháp, vua Thế Tổ đặt Nguyễn Văn Thành vào chức Tổng Tài để soạn một bộ luật mới. Nguyễn Văn Thành đã mang bộ luật của nhà Thanh ra chép lại gần trọn nguyên văn nên khi áp dụng bộ luật này đã có nhiều điều quá khe khắt. Xin nhắc rằng bộ luật của Thanh triều cay nghiệt là bởi vua quan nhà Thanh là người Mãn vào thống trị Hoa tộc tất nhiên nó không có thể có những điểm khoan hòa của bộ luật Hồng Đức.
Quốc  âm  như  ta  thấy  dưới  đời    Mạt    Tây  Sơn  đã  bắt  đầu  thịnh  đạt. Tới đời Nguyễn Sơ, thái bình trở lại thì mầm non của quốc âm cũng nảy nở mạnh dần. Bài văn tế tướng sĩ trận vong đọc tại Bắc Hà do Tổng trấn Nguyễn Văn Thành không rõ do ai viết, "Hoa Tiên chuyện" của Nguyễn Lai Thạch, "Kim Vân Kiều" của Nguyễn Du, là cả một sự tiên báo văn chương Việt Nam đang đi đến chỗ phong phú, sáng sủa để dân ta có thể bằng tiếng mẹ diễn tả được mọi điều tình cảm hay trình bày được mọi tư tưởng, vẽ nên mọi cảnh trí. Những tác phẩm này đến nay còn được coi là những áng văn chương đại bút trong đó phát xuất được nhiều tinh hoa của dân tộc.

7- Việc Tài Chính:
Tài chính là huyết mạch của quốc gia, là sinh khí của bộ máy Nhà nước, Gia Long quan niệm như vậy nên đã gia công chỉnh đốn mọi ngành thuế khoá như sau: 1/ Từ Quảng Bình đến Bình Thuận dân đóng thuế mỗi năm một lần từ tháng 4 đến tháng 6. 2/ Nghệ An, Thanh Hoá và Bắc Hà được nộp thuế làm hai lần.
Nguyễn triều lập ra Đinh bạ và Điền bạ cùng công bố nhiều đạo luật về công điền, công thổ do sự gian lận, ẩn nặc đã xảy ra bởi nhiều người đã lợi dụng thời chiến tranh đem bán hoặc tự chia nhau công điền, công thổ. Nay triều đình bắt chia lại và cấm ngặt việc bán công điền, cùng vào danh sách những người từ 18 đến 59 tuổi hầu tránh những trường hợp khai tử hay khai vắng mặt để khỏi đóng thuế này, nếu việc gian xảy ra không những đương sự phải phạt mà cả lý trưởng cũng phải chịu trách nhiệm (hoặc phạt trượng hay phạt tù). Kẻ tố cáo việc này được thưởng tiền hay được miễn tạp dịch, nhưng tố giác sẽ bị nghiêm hình110.
Thuế điền: chia ra làm ba hạng: nhất đẳng điền mỗi mẫu đồng niên nộp 20 thăng. Nhị đẳng điền 15 thăng. Tam đẳng điền 10 thăng. Còn thứ ruộng mùa đồng niên phải nộp 10 thăng.
Thuế đinh: Nghệ An ra nội ngoại Thanh Hóa mỗi xuất hàng năm phải nộp thuế thân từ 1 đến 2 tiền -- Mân tiền: từ 1 đến 2 tiền -- Cước mễ: 2 bát. Năm nội trấn Bắc Thành và phủ Phụng Thiên (Hoài Đức bây giờ) mỗi xuất phải nộp: thuế thân từ 1 đến 2 tiền. 1 mân tiền 1 tiền. Điệu tiền (tạp dịch) 6 tiền -- Cước mễ: 2 bát. Sáu ngoại trấn Bắc thành mỗi xuất phải nộp: thuế thân 6 tiền -- Mân tiền: 1 tiền -- Điệu tiền: 3 tiền -- Cước mễ: 1 bát (1803 và 1805).
Ngoài các thứ thuế kể trên, ta thấy dưới đời Gia Long còn những thuế đánh vào các quý vật như quế ở Thanh Hóa, yến sào ở Quảng Nam, gỗ, chiếu hoặc nộp bằng thực chất hoặc bằng tiền cùng lập ra quan thuế đối với ngoại quốc vào giao thương và các thuê khai thác các quặng mỏ. Nhà vua lại cho lập cả sở đúc tiền (1803 làm ra hai loại tiền đồng và tiền kẽm cùng đúc vàng bạc ra thành lương, thành nén. Tiền kẽm nặng 7 phân, một mặt in chữ Gia Long thông bảo, một mặt in chữ thất phân. Mỗi quan tiền nặng 2 cân 10 lạng. Giá vàng định là: một lượng vàng đổi lấy 10 lạng bạc. Nhà vua cũng chuẩn định lại các thước vuông, chế tạo ra thước đồng để đo ruộng. Năm Gia Long thứ 12, triều đình lập ra cân thiên bình để cân đồng, sắt, chì, và thiếc. Còn cân vàng thì dùng cân trung bình.

8- Việc Ngoại giao Với Nước Pháp:
Như chúng ta biết, chúa Nguyễn Ánh xưa kia gửi con (Thế Tử Cảnh) cho Giám mục Bá Đa lộc sang ngoại giao cầu viện trợ của Pháp hoàng Louis XVI nếu không có sự hiểu lầm, hoặc rụt dè của Pháp đình thì ngay từ thuở đó nước Pháp đã đặt được nhiều ảnh hưởng ở Việt Nam. Việc này còn bị ngăn trở nữa vì cuộc cách mạng (1789-1793) ở nước Pháp đã xảy ra thuở ấy, thêm vào là Pháp đã không dồi dào tài chánh cùng quân lực để tranh giành với Liệt cường ở các vùng Á Châu.
Sau này chúa Nguyễn Ánh đã thành công do sự giúp đỡ của Giám mục Bá Đa Lộc, một số tư nhân Pháp, và cả chính giới Pháp lại đề ra việc tái lập ngoại giao với Việt Nam.
Vẫn như dụng ý hai chục năm trước, Pháp muốn giành nhau với Anh quốc nhiều hơn cả vì Anh đã nắm được nhiều nguồn lợi từ Ấn Độ Dương qua Thái Bình Dương. Nay Pháp thấy cần chặn đứng lối tiến của Anh vào bờ biển Trung Hoa vì Trung Hoa là một miếng mồi ngon và vĩ đại hơn hết.

110 Về thuế khoá thời Gia Long theo Langlois (viết ngày 14 4 1804) và theo ký sự của Chaigneau ngày 12.5.1808, dân chúng đau khổ về chế độ thuế khóa của vua quan nhiều quá và về việc tạp dịch thì dân chúng không được trả bằng tiền hay bằng gạo (Tài liệu của giáo sĩ Cadière trang 60).

Năm 1812, theo lệnh Hoàng đế Nã-Phá-Luân (Napoleoné), Quốc vụ khanh d'Hauterive được xem xét lại vấn đề Việt Nam nhưng việc này lại gián đoạn vì sau đó ít lâu Nã-Phá-Luân bị lật đổ.
Dưới thời phục hưng của nước Pháp (Restauration), khi Bá tước Portal làm giám đốc các thuộc địa, một thân nhân của Dayot đã nêu ra ý kiến nước Pháp nên mở cuộc ngoại giao trở lại với Nam Hà rồi Pháp đình đã miễn nhiều thuế má cho các tàu buôn đi giao dịch với các xứ Viễn Đông.
Vua Gia Long lên ngôi được hai năm (1804) do lời đề nghị của Công ty Đông Ấn, Anh gửi xứ thần Sir Robert đến Việt Nam. Bấy giờ Chaigneau và Vannier đang có nhiều uy thế bên vua Gia Long đã xúi nhà vua khước từ ngoại giao với Anh, tuy vậy Anh còn đưa thư hai ba lần nữa nhưng Thế Tổ cũng vẫn từ chối.
Sau này vào năm 1803, một hạm đội của Anh gồm 7 chiếc tàu tiến vào Hà Nội bị quân ta đốt cháy, nhưng không thấy Anh phản ứng. Vào tháng 9 năm 1817, tàu La Paix của Pháp cập bến Đà Nẵng do nhà Balguerie và Sarget công ty giới thiệu đến.
Tàu này được tiếp đãi tử tế, sau đó là một chiếc tàu nữa của nhà Philippon. Tàu này không bán được hàng bởi không có hóa phẩm nào hợp với nhu cầu của địa phương. Vua Gia Long có trao cho họ một danh sách hóa phẩm để kỳ sau họ mang hàng tới và sẽ không bị lỡ.
Năm 1817, chiếc Cybèle đến Tourane vào tháng 12. Thuyền trưởng của tàu này là Bá tước Kergariou đã nhân danh Pháp hoàng Louis XVIII xin nhà vua thi hành hiệp ước 1787111 để Pháp được hưởng các quyền lợi ở Cửa Hàn và Côn Đảo. Lời yêu cầu này không được thỏa mãn. Đó là điều dễ hiểu vì chính nước Pháp đã không thi hành hiệp ước trước.
Năm 1819, hai chiếc tàu Larose và Henri cũng của mấy nhà trên đây gửi qua, vua Gia Long cũng vẫn mua bán với họ. Tiền nong và giá cả rất là sòng phẳng, phân minh. Trở về họ mua của ta đường, chè, lụa, mộc và bạc nén.
Tóm lại chỉ riêng về phương diện thương mại người Pháp được ưu thế và ưu thế này có thể dài lâu nếu vua Gia Long còn sống thêm nữa bởi ngài đã hàm ơn một số người Pháp giúp đỡ ngài trong việc tranh đấu với nhà Tây Sơn xưa kia.
Trong giai đoạn này thủ tướng De Richelieu có viết thư cho Chaigneau để hỏi thăm tình hình Việt Nam về nhiều phương diện và giới thiệu các tàu buôn cùng các thủy thủ, sau đó Chaigneau được thưởng Bắc Đẩu Bội Tinh.
Chaigneau trở về thăm nhà tháng 11/1819 được Pháp Hoàng giao cho chức Lãnh sự Pháp ở Việt Nam, có giấy tờ đàng hoàng với nhiệm vụ điều đình lập các thương ước với vua Gia Long.
Vua Louis XVIII gửi chiếu vua Gia Long một chiếc đồng hồ quả lắc, hai cây đèn thờ, các bình bằng đồng mạ vàng, 16 bức tranh chạm nổi về các trận đánh dưới thời Đế
111 Hiệp ước Versailles do Giám mục Bá Đa Lộc ký với Bộ trưởng ngoại giao Montmorin.
Chính, một khẩu súng trường kiểu mới nhất, một cặp súng lục và một tấm gương rất lớn (ở Huế vẫn còn giữ được tấm gương này).
Nhưng khi Chaigneau trở lại Việt Nam năm 1821, thì vua Gia Long đã tạ thế, vua Minh Mạng lên kế vị thì sự liên lạc Việt Pháp thay đổi hẳn. Trong thời vua Gia Long còn sống, người Pháp ở lại làm quan với Nguyễn triều có Philippe Vannier, Jean Baptiste Chaigneau, De Forsans và y sĩ Despiau. Những người này đã được nhà vua phong tước112 rất trọng hậu (trừ Despiau). Nhà vua miễn cho họ khỏi phải lạy khi vào chầu mà chỉ phải khấu đầu 5 lần. Mỗi người được 50 tên lính phục vụ tại tư dinh. Sau vua Gia Long qua đời thì những người Pháp trên đây bỏ về hết vì sự ghen ghét của các quan Việt Nam và sự ghẻ lạnh của vua Minh Mạng. Kể từ giai đoạn này trở đi cuộc giao tiếp giữa Nguyễn triều với nước Pháp bắt đầu nổi sóng gió.

9- Giao Thiệp Với Trung Quốc:
Sau khi lấy được Bắc Hà, vua Gia Long đã cử một sứ đoàn qua Tàu xin cầu phong. Cầm đầu sứ đoàn là Trịnh Hoài Đức. Sứ đoàn này chưa hồi hương thì cuối năm đó 1802, vua Gia Long cử luôn Binh bộ Thượng thư Lê Quang Định sang xin vua Gia Khánh nhà Thanh đổi tên cho nước ta. Năm sau 1802, triều đình Mãn Thanh cho Tổng đốc Quảng Tây sang làm lễ tấn phong cho vua Gia Long và đưa ra hai sắc dụ: một đặc tên nước ta là Việt Nam, một ấn định thể lệ tiến cống từ nay cứ hai năm một lần và cứ 4 năm một lần Việt Nam phái sứ bộ sang làm lễ triều kính. Lễ cống gồm có: ngà voi, sừng tê, lụa vải, gỗ trầm, cau khô. Rồi vua Gia Long thân hành ra Thăng Long để làm lễ thụ phong. Năm sau Gia Long lại cử sứ bộ sang cảm tạ vua Tàu tại Bắc Kinh. tháng 8 năm 1809, sứ đoàn Việt Nam sang mừng thọ vua Gia Khánh (lúc đó được 50 tuổi). Luôn từ 1813, 1817, và 1819 việc giao dịch giữa Gia Long và nước Tàu được đều hòa, êm đẹp.

10- Giao Thiệp Với Miên, Lào và Tiêm La:
Gia Long lên ngôi, nước Nam được yên trị, nước Cao Miên tuy mất đất (Thủy Chân Lạp) nhưng vẫn chịu thần phục Việt Nam. Từ lâu đời nước này hay bị ngươi Tiêm quấy rối nên vẫn phải nhờ Việt Nam che chở. Trong thời họ Nguyễn còn đang mắc míu với Tây Sơn, Tiêm La đã định lợi dụng cơ hội để phân chia đất Cao Miên đó là việc đã xảy ra hồi 1779 dưới đời quốc vương Trịnh Quốc Anh (Phya Tak) như trên đã nói.
Thời Tây Sơn còn nắm được miền Nam Việt (1794), Nặc Ấn lưu vong qua Vọng Các rồi được vua Tiêm La cho một đạo quân đưa về nước. Từ ngày đó hai tỉnh Battambang và Angkor nhượng cho Tiêm. Nặc Ấn mất năm 1796. Năm 1802 Miên mới có vua tức là Nặc Ông Chân, con Nặc Ông Ấn. Tuy đã thần phục Tiêm La, Ông Chân vẫn cử sứ đoàn ra chầu vua Gia Long tại Thăng Long. Thế là từ năm 1805 Miên làm tôi triều đình Việt
112 P. Vannier được gọi là Nguyễn Văn Chấn được phong Trấn Oai Hầu, J. B. Chaigneau là Nguyễn Văn Thắng được phong Thắng Tài Hầu, Victor Olivier là Ông Tín làm Vệ úy - Théodore Le Brun làm Cai đội Thạch đai hầu...
Nam và năm sau lại sang Vọng Các thụ phong. Tiêm không tán thành chính sách nước đôi này nên ngầm xui Nặc Ông Nguyên em Ông Chân nổi loạn. Ông Chân phải chạy sang Việt Nam cầu cứu. Tiêm liền tiến quân đánh thành La Bích và gửi thư cho vua Gia Long nói quân Tiêm vào đất Miên chỉ có ý thu xếp việc của hoàng gia Miên mà thôi. Vua Gia Long làm bộ tin lời vua Tiêm rồi cử Lê Văn Duyệt. Tổng trấn thành Gia Định dẫn 10.000 binh hộ vệ Ông Chân trở về nước: Tiêm và Nặc Ông Nguyên phải rút lui. Để phòng ngừa mầm loạn, Lê Văn Duyệt đặt chế độ bảo hộ trên đất Miên từ đấy và xây thành Nam Vang cùng thành La Lem. Sau đó vua Thế Tổ cử Nguyễn Văn Thụy đem
1.000 quân sang trấn giữ xứ này như một thuộc quốc.
Dù sao việc giao thiệp giữa triều Gia Long và Tiêm La vẫn giữ được sự hòa hảo. Từ 1802 trở đi hai bên vẫn có sự sứ bộ qua lại trao đổi tình thân thiện và tặng phẩm.
Tại Ai Lao, Việt và Tiêm cũng đặt ảnh hưởng nhưng không vì thế mà có sự gây lộn. Rồi quốc vương Ai Lao xin thân phục cả Việt lẫn Tiêm. Các rợ Cam Lộ ở các vùng Cao Nguyên hai tỉnh Thanh Nghệ, các dân thượng (Mọi) và Thủy Xá, Hỏa Xá (người Rhadé) cũng có cống phẩm đến để tỏ lòng tuân theo chính quyền của triều Nguyễn.
11- Bàn Về Loạn Phong Kiến Việt Nam:
Các nhà viết sử Pháp xưa và nay khi nói đến vua Gia Long và những trận giặc cuối cùng Tây Sơn và chúa Nguyễn đã không thể ngăn được những tiếng thở dài. Quả vậy, trận giặc này là một cuộc nội tranh, một cuộc xung đột chỉ liên hệ đến quyền lợi giữa hai dòng họ.
Theo ý này chúng tôi, hãy đặt ra vài câu hỏi:
1. Ngót 300 năm ly loạn từ đời Lê mạt 1527 đến 1802 là năm cuộc nội chiến kết liễu có phải tự người dân dấy loạn hay là tự hai họ Trịnh Nguyễn giành nhau ngôi bá chủ mà mở màn cho cảnh núi xương sông máu?. Đứng trên lập trường nhân dân, nhà làm sử phải có bổn phận lên án những kẻ gây loạn khiến dân đã điêu đứng lầm than. Ta thử nghĩ: dưới thời Trịnh Giang cũng như dưới thời Võ Vương vì tệ chính đói rét, dịch lệ, và giặc giã đã lượm đi quá nửa phần dân số; để theo đuổi chiến tranh Trịnh Nguyễn và Tây Sơn bắt lính cứ 10 người lấy tới ba bốn xuất ở mỗi làng, đám trai tráng này có đi chẳng có về, cuộc thủy chiến tại Thị Nại mấy tao làm chết tới ít nhất năm bảy chục ngàn sinh linh, đó là việc gần, còn kể con số nạn nhân chiến tranh trên khắp các nẻo đường đất nước luôn ba thế kỷ trước ngày bình định (1802) thì rõ rệt hàng triệu con người đã làm cô hồn trên các chiến trường từ Nam ra Bắc.
2. Như vậy, từ thế kỷ thứ XVI là từ buổi ở Việt Nam bị cái thảm cảnh thiên hạ tam phân (Mạc Trịnh Nguyễn, rồi sau là Tân Nguyễn và Cựu Nguyễn) đến cuối thế kỷ XVIII những vụ loạn ly đó là công hay tội của các ông Chúa phong kiến nước ta? Trong cuốn sách này chúng tôi đặt riêng ra chương "Loạn Phong Kiến Việt Nam" là do ý nghĩ kể trên để trái lại, chỉ tán thành, chỉ ca ngợi, chỉ hoan nghênh những trận giặc chống đế quốc, diệt xâm lăng mà thôi. Xương máu của người dân lành đâu có phải là những thứ để xây ngai vàng, nghiệp bá cho những cá nhân, cho những dòng họ!
3. Nước Việt Nam cũng như dân Việt Nam tự nó trên thực tế đã đồng nhất và bất phân, nhưng có chuyện qua phân, đó là do tham vọng của các nhà chính trị, các người lĩnh đạo. Mỗi kẻ năm quyền chúa tể một địa phương, nền thống nhất quốc gia tất nhiên bị tan rã. Thật chẳng khác chi hai võ sĩ đấu gươm trên võ đài, kẻ bại ngã gục, kẻ thắng đứng lại, không còn đối thủ nữa thì kẻ ở lại ca khúc khải hoàn, có gì lạ! dĩ nhiên quốc gia lại thống nhất. Riêng giữa hai họ Tân Nguyễn, Cựu Nguyễn, đồng ý với các sử gia Pháp, chúng tôi nghĩ rằng Việt Nam đã thống nhất dưới thời Tây Sơn bởi khi nhà Tây Sơn toàn thắng (1788), Nhạc làm Trung Ương Hoàng Đế, Huệ làm Bắc Bình Vương, Lữ làm Đông Định Vương, chúa Nguyễn Ánh lưu vong hải ngoại, ai đừng bảo khi đó Việt Nam không thống nhất? Sau này nhà Tây Sơn bị diệt, còn lại chúa Ánh, ai chia xẻ nước Việt Nam nữa mà chẳng thống nhất?
4. Còn việc mở rộng cương vực miền Nam tới đất Hà tiên, sát Vịnh Tiêm La cũng là một sự kiện tất nhiên của Lịch sử. Trịnh nắm được toàn cõi Việt Nam từ Linh Giang ra tới Cao Bằng. Nguyễn không khuếch trương thế lực thì tranh giành với Trịnh sao được! Huống hồ Nguyễn ở cạnh Chiêm Thành, một dân tộc đang bị hao mòn suy nhược do ảnh hưởng của nhiều chiến cuộc với nhà Hậu Lê xưa kia, không mở đất về phương Nam chẳng hoài lắm ru! Và còn đợi cơ hội nào khi mà Nguyễn đang cần có một cái vốn để chạy đua với miền Bắc? Ngoài ra cũng đừng quên rằng trong việc bành trướng cương thổ vào vùng Đồng Nai, chính người dân cày của chúng ta đã gây được nhiều thành tích. Một phần lớn những người dân ấy đã tự động vượt biển hay tràn qua đất Chiêm vào khẩn hoang tại Biên Hòa, Bà Rịa, Gia Định do đó ta có thể nói rằng chính họ đã viết nhiều trên những trang sử Nam tiến của dân tộc chúng ta.
12- Vài Ý Kiến Về Vua Gia Long:
Ở vua Gia Long, từ con người quân nhân đến con người chính trị có nhiều điểm khác biệt khiến ta phải coi vua Gia Long cũng là một nhân vật kỳ kiệt của Lịch sử trên nhiều phương diện. Nhân vật này có nhiều điều hay cũng như có nhiều điều dở.
Chiếu theo cỗi rễ thì Gia Long thuộc về một dòng họ có nhiều danh tướng, giầu mưu cơ, đởm lược, nhẫn nại, cần cù, thông minh, trác lạc nhờ vậy mà trong thời trung suy, Nguyễn Ánh mới 17 đã cầm đầu được binh tướng, nắm vững được lòng dân, bốn phen vinh nhục ở đất Gia Định, nhiều tao siêu bạt ngoài khơi, trôi dạt cả vào đất Tiêm, nương nhờ triều đình Vọng Các có lúc phải hy sinh cả tính mạng (trừ giặc Miên và Mã Lai cho Tiêm) để mua thiện cảm của người hòng có chỗ nương thân. Trên 20 năm ròng, vua Gia Long xông xáo khắp các chiến trường từ vùng Đồng Nai ra Thuận Hóa, vượt biển trèo non trong vòng khói lửa mịt mùng mà vẫn không bao giờ lui bước, con người ấy thật đáng là một chiến sĩ. Trước điểm này ta không thể không vỗ tay khen ngợi Thế Tổ nhà Nguyễn.
Về chính trị, khi sức cùng lực tận, Gia Long đã cho Giám mục Bá Đa Lộc đem con đi cầu cứu nước Pháp rồi luôn luôn giao thiệp khéo léo với các lân bang để lấy ngoại viện, nhờ đó chẳng những người Âu Châu mà cả các quân Tiêm, Miên, Lào thường qua lại đánh Tây Sơn giúp mình. Ngoại giao đến thế là khéo léo tuy rằng mang người ngoài về đánh anh em nhà là làm một hành động không đẹp nếu so với việc 12 sứ quân trên tám thể kỷ trước. Nhưng đến khi sự nghiệp đã thành, ngôi quốc chủ đã vững. Gia Long thay đổi luôn thái độ, lên tiếng kẻ cả với Tiêm, đặt Miên và Lào vào vòng lệ thuộc. Tiến thoái, kinh quyền đến thế quả thật là mau lẹ, quỷ quyệt... Tuy vậy vua Gia Long có ít nhiều sở đoản:
1. Các cộng sự viên người Pháp đã chê Thế Tổ ở điểm khi đang chiến tranh, ngài đã quá cẩn thận nên hay do dự, nếu biết đánh dấn Tây Sơn đang lúc đại thần, tướng lĩnh của họ chia rẽ thì ngày vinh quang của nhà vua còn sớm hơn nhiều.
2. Đối với các công thần, vì hay nghe lời sàm tấu Gia Long đã có khí quá bạc bẽo và tàn nhẫn, vì vậy Đỗ Thành Nhân, Lê Văn Cầu, Nguyễn Văn Thanh, Đặng Trấn Thường là những kẻ đã theo phò Nguyễn chúa từ lúc gian nan đều bị bất đắt kỳ tử. Đời Lê còn có trường hợp "Bát nghị"; Nguyễn triều với bộ luật của nhà Thanh y sao chính bản, chẳng nương nhẹ cho ai dầu kẻ đó đã có nhiều công lao hãn mã. Đến Minh Mạng, nắm xương khô của Lê Văn Duyệt và Lê Chất cũng không khỏi xiềng xích, và họ tội tình gì cho cam!
3. Khi suy bĩ, Gia Long biết cầu cứu nước Pháp, đã mục kích được dã tâm đế quốc của Liệt cường Tây Phương trước thời của ngài và cả trong thời ngài, vậy mà không tìm nổi một kế sách giữ nước cho khỏi "Bạch họa", chỉ biết "bế quan tỏa cảng", các triều đại kế tiếp cũng chẳng sáng suốt hơn làm gì mà không mất nước.
4. Đặt quốc đô ở Phú Xuân là một mảnh đất gầy, dân thưa, của ít về phương diện quân sự nơi này là một vị trí chiến lược bất lợi cả về thủy lẫn bộ. Trái lại Bắc Hà là cỗi rễ của dân tộc, nói gần là từ hai chục thế kỷ trở về đây ruộng đất phù nhiêu, dân cư đông đảo, anh hùng hào kiệt đời nào cũng sẵn chống xâm lăng nhiều phen như trúc chẻ, ngói tan. Vậy mà vua Gia Long bỏ thật là uổng. Phải chăng Gia Long đã e ngại những uy tín còn xót lại của hai họ Lê Trịnh, nhưng nếu đủ tài thi thố ân uy thì mình là thái dương mà các triều đại đã qua chỉ là những ngọn lửa tàn, đâu đáng sợ! Sau này Bắc Hà ly loạn liên miên, lòng dân khảng tảng vì triều đình ở quá xa rồi 50 năm sau giặc Pháp tiến vào nội địa của ta, hàng vạn quân của Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu, Tôn Thất Thuyết không chống nổi mấy chiếc tàu, vài trăm lính của Francis Garnier, H. Rivière và De Courcy. Đấy chẳng là sự vụng tính của vua Gia Long vì đã bỏ gốc lấy ngọn đó sao?
Còn về các qui mô lập quốc, ta thấy vua Gia Long cũng làm đủ mọi việc, tỏ được sự siêng năng, cần mẫn nhưng không có gì đặc biệt hơn các triều đại trước.
Thế Tổ mất năm Kỷ Mão (1819) ở ngôi được 18 năm, thọ 59 tuổi, miếu hiệu là Thế Tổ Cao Hoàng Đế.

II- Thánh Tổ (1820 - 1840)
- Việc nội trị
- Các vụ phiến loạn
- Việc ngoại giao 
- Việc Ai Lao
- Việc Chân Lạp  
- Việc cấm đạo

1- Hoàn Thiện Bộ Máy Chánh Quyền:
Tháng giêng năm 1820, lên kế vị vua Thế Tổ là Hoảng tử Đởm, niên hiệu là Minh Mạng. Bấy giờ, Ngài đã 29 tuổi lại sẵn óc thông minh, ham nghiên cứu việc triều chính, am hiểu văn học nên tới khi ra cầm quyền, có thể nói vua Minh Mạng không có chút gì bỡ ngỡ.
Ngài là một ông vua rất hoạt động nên trong 20 năm trị vì, Ngài đã làm được rất nhiều việc và trong đời Ngài cũng đã xảy rất nhiều điều quan trọng.
Ngài đặt thêm ra các tự, các viện. Hai cơ quan trọng yếu nhất là Nội các và Cơ mật viện. Trước đây vào hồi vua Thế Tổ đã có Thị Thư Viện coi các biểu, sách, chế, cáo, chương, tấu, sắc, mệnh v.v...Năm 1820, nhà vua đổi ra Văn Thư Phòng và năm sau ra Nội các, lấy các quan Tam Tứ Phẩm vào giúp việc.
Năm 1834, do nhiều việc quan trọng, cơ yếu, Ngài đặt ra Cơ Mật viện lấy các đại thần vào làm nhân viên.
Năm 1836, Ngài lập Tôn Nhân phủ. Cơ quan này trông coi mọi việc trong họ nhà vua cho có trật tự tôn ty và cấp dưỡng cho kẻ cơ ấu, giúp đỡ việc hiếu hỷ.
Quan chế được đặt từ Nhất Phẩm cho đến Cửu Phẩm, mỗi phẩm có 2 trật cho 2 ban văn  võ, đặt các chức Tuần phủ, Bố chính, Án sát, Lãnh binh v.v... ở các tỉnh (Minh Mạng thứ 20), các chức vị quan lại này còn tồn tại đến sau này và thay thế cho chế độ Tổng Trấn, Trấn Thủ, Lưu Trấn kể từ Minh Mạng thứ 12 theo lối nhà Thanh.
Để tránh nạn tham nhũng. Ngài phát cho quan lại hàng năm một số tiền dưỡng liêm tùy theo đẳng cấp.

2- Việc Học Hành Thi Cử:
Vua Minh Mạng rất chú trọng vào việc văn học để lấy nhân tài vào việc trị nước an dân. Ngài mở Quốc Tử Giám và cấp lương bổng cho các giám sinh.
Về tiền triều chỉ có thi Hương, sáu năm mới có một kỳ thi, nay đổi làm 3 năm một khoa, cứ năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu thi Hương; năm Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thi Hội, thi Đình.
Hai khoa thi này mở ra để lấy Tiến Sĩ, đến năm Minh Mạng thứ 10 (1829), nhà vua lấy thêm Phó Bảng ở những người trúng cách.
Vua Minh Mạng có một quan niệm rất sáng suốt về việc học. Ngài thấy lối học cử nghiệp chỉ chuyên về thi phú phù phiếm để thi lấy đỗ chứ không thể có một thực học là một lối học đi tới chỗ thấu đáo nhân tình, am hiểu việc đời một cách thực tế để mở mang xã hội, nâng cao trình độ dân sinh. Cái học từ chương cử nghiệp, than ôi, đến nay vẫn còn là một điều mà trong xã hội Việt Nam còn nhiều người ham chuộng. Kể cũng đáng buồn thay!
Ngài có lần đã nói:
"Lâu nay cái học khoa cử làm cho người ta sai lầm, Trẫm nghĩ văn chương vốn không có quy củ nhất định, mà nay những văn cử-nghiệp chỉ câu nệ cái hư sáo khoe khoang lẫn với nhau, biệt lập mỗi nhà một lối, nhân phẩm cao hay thấp do tự đó. Khoa tràng lấy hay bỏ cũng do tự đó. Học như thế thì trách nào mà nhân tài chẳng mỗi ngày một kém đi. Song tập tục đã quen rồi, khó đổi ngay được, về sau nên dần dần đổi lại".
Tiếc rằng biết điều này là một cái bệnh nguy hại cho sự tiến hóa của dân tộc, Ngài muốn canh cải nhưng lại không biết canh cải ra sao. Triều thần của Ngài lại phần nhiều chỉ là những hủ nho lạc hậu, nên không giúp đỡ được Ngài kế hoạch nào cho quốc phú dân cường. Sự thực nếu là cái cổ học thì cổ học không lầm bởi nó cũng rất vụ thực. Trái lại từ đời Đường cái học vụ thực suy tàn để trở nên cái học huấn hỗ, cái học tầm chương trích cú, chỉ lo việc khoa cử hơn là lo việc thiết yếu cho thiên hạ. Tóm lại cái học nghĩa lý đã mất, cái học mà Trình Tử đã nói ở câu: Phong chi tác dĩ lục hợp, quyển chi tắc thoát tăng ư mật kỳ vị vô cùng giai thực học dã (Phóng ra thì đầy cả vũ trụ, thu vào thì náu ẩn ở thâm tâm; Ý vị của nó vô cùng xác đáng nhưng người Tàu lầm mà ta cũng lầm theo.)
Sau này Phan Tây Hồ trong bài phú Lương Ngọc Tất Danh Sơn đã phải than dài:
- Đời chuộng văn chương, người tham khoa mục.
- Đại cô, tiểu cô, suốt tháng dùi mài.
- Ngũ ngôn, thất ngôn, quanh năm lăn lóc.
- Ngóng hơi thở của quan trường để làm văn sách.
- Chích có thể phải, mà Thuấn có thể sai.
- Nhặt dãi thừa của người Tàu để làm từ phú.
- Biền thì phải tứ, Ngẫu thì phải lục.
- Tíu tít những phường danh lợi.
- Chợ Tề chực đánh cắp vàng.
- Lơ thơ bao kẻ hiền tài, sân Sở luống buồn dâng ngọc.
- Ấy chẳng riêng gì kẻ vị thân gia, tham vì lợi lộc.
- Mà đến cả mấy kẻ quần chùng áo rộng trong một nước.
- Lùa vào mấy ngàn vạn nơi hắc ám địa ngục...

3- Sách vở
Ngài chăm lo văn hóa, khích lệ việc tu thư bằng những sự ban thưởng, cho nên vào thời Ngài nhiều sách có giá trị được ra đời.
1) Gia Định thống chí
2) Minh bột di hoán văn thảo của Trịnh Hoài Đức
3) Bản triều ngọc phả và 2 bản Ký sự của Hoàng Công Tào
4) Khai quốc công nghiệp điển chí (7 quyển) của Cung Văn Hi
5) Minh lương khải cáo lục của Nguyễn Đình Chính (34 quyển).
6) Cố sự biên lục của Vũ Văn Bưu
7) Khâm Định tiểu bình lưỡng kỳ phỉ khấu phương lược
8) Ngự chế thi tập... (2 cuốn sách này do các quan họp lại cùng soạn)
Ngoài ra, Ngài còn giải quyết được nhiều việc khác không kém phần quan trọng như sửa đổi phong tục vì trải bao nhiêu thời loạn ly, trật tự xã hội đổ nát, nhân tâm đồi bại. Ngài lập ra 10 điều răn bảo dân chúng để gây lại tinh thần luân lý của trăm họ. Ngài cho dựng nhà dưỡng tế để nuôi những người tàn tật, cô độc.
Việc đinh điền cũng có chỉnh đốn và kiểm soát chặt chẽ hơn. Ruộng đất ở Nam Việt được đo đạt lại, tính ra được 630.075 mẫu. Tổng số đinh toàn quốc là 970.516 xuất và 4.063.892 mẫu ruộng, đất.
Người Tàu sang làm ăn khai khẩn cũng được đối đãi tử tế. Đồng niên mỗi người phải nộp hai lạng bạc. Những người lão hạng và tàn tật chỉ phải chịu một nửa. Việc võ bị cũng được Ngài lưu ý rất nhiều: lập đồn ải, pháo đài ở các nơi hiểm yếu. Binh chế có thủy binh chia ra từng Cơ, Đội, Vệ, Doanh. Tiếc rằng việc binh bị thiếu người chuyên môn và có năng lực, lại thêm vào thời đó có quan niệm trọng văn khinh võ gây nhiều ảnh hưởng tai hại nên tuy nhà vua luôn luôn ra lệnh và khuyến khích, việc này chẳng tiến được là bao mà mỗi ngày còn suy nhược thêm nữa.
4- Những Cuộc Phiến Loạn
Những cuộc phiến loạn xẩy ra dưới thời vua Minh Mệnh suốt Trung, Nam, Bắc, kể từ năm 1822 đã do nhiều nguyên nhân:
A) Về phía ngoại bang, nước Tiêm la vẫn giữ thái độ hằn học về vấn đề Chân Lạp (chúng ta đã thấy ở trên đây) nên ngoài mặt tuy êm dịu nhưng bên trong Tiêm La vẫn tìm cơ hội để quấy rối Việt Nam.
B) Ngoài Bắc, một phần nhân tâm còn luyến tiếc Lê triều, vẫn chờ dịp nổi lên chống lại nhà Nguyễn và để khôi phục lại dòng họ Lê.
C) Bọn quan lại hay nhũng nhiễu dân chúng, dèm pha nhau, tâng công, nịnh hót mà nhà vua lại thường không minh, nhất là đối với kẻ công thần. Nhiều người trung lương đâm ra chán nản, trái lại phe gian nịnh nẩy nở mỗi ngày một nhiều, nước tất nhiên phải sinh loạn do đó ngoại quốc mới dám nhòm ngó vào.
Những vụ phiến loạn quan trọng đáng kể là vụ Phan Bá Vành khởi sự ở Nam Định, Lê Duy Lương ở Ninh Bình và Nông Văn Vân ở Tuyên Quang (vụ Phan Bá Vành xẩy vào năm 1826 đã làm cho quan quân của triều đình tổn hại rất nhiều, đến năm 1827 Nguyễn Công Trứ lúc đó làm Tham Biện được cử đi dẹp mới yên). Vụ Lê Duy Lương phát sinh vào 1832, tức là năm Minh Mệnh XIII ở Ninh Bình. Lê Duy Lương là con cháu nhà Lê cũng dấy động với các thổ tù là Quách Tất Công, Quách Tất Tế và Đinh Thế Đức, v.v... Vua Thánh Tổ huy động Tổng Đốc Nghệ Tĩnh là Tạ Quang Cự đem quân ra Ninh Bình cùng với Tổng Đốc Thanh Hóa là Nguyễn Văn Trọng đi đánh, sau vài tháng Lê Duy Lương bị bắt giải về Kinh trị tội và tất cả con cháu Lê bị đày ở Quảng Nam, Bình Định. Biện pháp này tỏ rằng chính sách "Phù Lê" đã chấm dứt.

Vụ Nông Văn Vân và Lê Văn Khôi
Việc Lê Duy Lương ngoài Bắc Hà chưa yên hẳn thì trong Nam Việt bấy giờ có Lê Văn Khôi cũng chống lại Triều đình. Vì Khôi là người Bắc và có anh em họ hàng ở Tuyên Quang nên có lịnh cho bắt các thân nhân của Khôi. Nông Văn Vân là anh vợ Khôi và là Tri Châu Bảo Lạc hồi đó hoảng sợ liền chiêu tập đồ đảng nổi lên cướp phá Tuyên Quang, Thái Nguyên, Cao Bằng và Lạng Sơn từ tháng 7 năm 1833 cho đến tháng 3 năm 1835 làm quan quân đã tổn phí rất nhiều. Dự vào việc tiểu trừ Nông Văn Vân có Sơn-Hưng-Tuyên Tổng Đốc Lê Văn Đức làm Tam Tuyên Tổng Quân Vụ, Hải An Tổng Đốc là Nguyễn Công Trứ làm Tham Tán và Ninh Thái Tổng Đốc Nguyễn Đình Phổ. Các tỉnh Thượng du hồi đó bị quân giặc vây hãm kịch liệt. Họ nhờ được thế rừng núi hiểm trở và lại thông thuộc các miền này, nên quan quân phải chật vật vô cùng mới dẹp xong.
Theo Việt Nam Sử Lược từ khi ông Lê Văn Duyệt mất đi, đất Nam Việt tuy là nơi lập nghiệp của nhà Nguyễn mà lại xẩy ra nhiều sự rối ren là vì vua Thánh Tổ thiếu sự rộng lượng đối với các cựu thần (trên đây chúng tôi đã nói qua về các vị đó) lại nghe bọn xu nịnh nên dân sự bị áp bức quá nhiều. Vụ án Lê Văn Duyệt đáng lẽ yên rồi thì Bạch Xuân Nguyên ra làm Bố Chánh Gia Định (bây giờ là thành Phan An) nói rằng phụng mật chỉ truy xét thêm về Tả Quân Lê Văn Duyệt. Lê Văn Khôi tuy là con nuôi của Lê Văn Duyệt nhưng vẫn bị nghi ngờ sẽ có phản ứng nên người ta bắt giam Khôi liền. Hành động này đã khiến cho Khôi nẩy ý làm loạn. Đêm 18-5 năm 1833 tức Minh Mệnh XIV, Lê Văn Khôi thông với các đồng đảng cùng một số tù nhân người Bắc trong lao và một số cũng ở trong trại giam hoặc ở bên ngoài được làm ăn như dân sự hay bị bắt làm lính hồi hương (27 người) phá ngục vào dinh Bố Chánh Bạch Xuân Nguyên và giết cả nhà. Tổng Đốc Nguyễn Văn Quế đem quân đến cứu cũng bị giết. Còn các quan khác như Án Sát, Lãnh Binh đều bỏ chạy cả chẳng bao lâu quân đội trong thành Phan An đều theo Khôi hết. Khôi bèn thiết lập các chức vị cho đảng viên, rồi tự phong cho mình làm Đại Nguyên Soái, lập triều đình riêng một góc trời. Sau đó Khôi cho đi đánh phá các nơi, chỉ trong một tháng, sáu tỉnh miền Nam lọt cả vào tay Khôi. Trong dịp này Khôi lấy danh nghĩa tôn phù một người con của Hoàng Tử Cảnh mất năm 1801. Vị Vương tôn đó bấy giờ đang ở Huế.
Nghe tin này vua Minh Mệnh cho giết ngay con cháu và chị dâu để bọn Khôi hết
đường lợi dụng.
Triều đình phái Tống Phúc Lương làm Thảo Nghịch Tướng quân và Nguyễn Xuân làm Tham Tán Quân Vụ cùng nhiều tướng tá đem quân thủy bộ vào đánh Khôi.
Trung quân của Khôi là Thái Công Triều trước kia là vệ úy người ở Thừa Thiên, coi về biền binh đóng ở Gia Định, khi Khôi dấy động liền theo Khôi nay thấy quân đội của Triều đình tới lại phản Khôi trở về với Triều đình.
Lê Văn Khôi đại bại ở nhiều nơi, sau chỉ cố thủ ở thành Phan An và cho người đi cầu cứu quân Tiêm La. Tiêm La liền đưa sang giúp Khôi 5 đạo quân, chia đường thủy bộ tiến vào Việt nam. Đạo thứ nhứt là 100 chiến thuyền vào Hà Tiên, đạo thứ hai là lục quân đánh Nam Vang (Pnom Pênh) mục đích chiếm Châu Đốc và An Giang, đạo quân thứ ba đánh Cam Lộ, đạo thứ tư đánh Cam Cát, đạo thứ năm đánh Trấn Ninh.
Chủ đích của Tiêm La tất nhiên không phải là đến giúp Khôi mà nhân cơ hội này cướp đất Chân Lạp và Nam Kỳ, họ tung quân ra đánh nhiều nơi để phân tán lực lượng của Việt Nam.
Triều đình ta liền huy động ngay quân lực để đối phó, Trương Minh Giảng và Nguyễn Xuân được lệnh giữ mặt An Giang về phía Tây Nam đánh đuổi được Tiêm ra khỏi bờ cõi. Việc này khởi từ tháng giêng năm Giáp Ngọ (1834) đến tháng năm thì kết liễu.

5- Việc Ngoại Giao Với Người Pháp
Vua Minh Mệnh không có cảm tình với người Pháp, điều này xét ra thuở đó cũng là một thái độ chung của người Á Đông đã coi người Âu Châu là bọn man di, là quân xâm lược.
Ngài đã không ưa người ngoại quốc vì lý do chính trị, lại không thích cả tôn giáo của Âu Châu, một thứ tôn giáo cách mạng mà nhiều vua chúa La Mã xưa kia đã kịch liệt đả phá. Ngài đã quyết liệt trong việc giết đạo, cấm đạo do đó nhiều giáo sĩ đã đặt cho vua Minh Mệnh biệt hiệu là "Néron Việt Nam". Với cộng sự viên người Pháp, Ngài cũng có ý lạnh nhạt nên khi Chaigneau trở lại Việt Nam, tuy các lễ vật được thâu nhận vui vẻ nhưng bọn ông không được trọng dụng nữa. Rồi nhà vua cho Chaigneau hay rằng không cần phải ký thương ước giữa hai chính phủ, người Việt Nam vẫn đối xử tốt đẹp với người Pháp là đủ.
Tóm lại vua Minh Mệnh chỉ thỏa thuận mua bán với người Pháp nhưng không chấp nhận xây dựng cuộc bang giao chính thức với nước Pháp, nên quốc thư của Pháp đình xin đặt Chaigneau làm Lãnh Sự Pháp ở Việt Nam không được đếm xỉa đến.
Năm 1822, tàu Cléopâtre đến Tourane; mặc dầu có sự can thiệp của Chaigneau tàu này cũng không được đổ bộ. Hai năm sau một thương thuyền khác bị quan ta làm khó dễ. Rồi ông Bougainville đến với tàu Thétis và L'Espérance ngạc nhiên là Chaigneau đã rời khỏi đất Việt113.
Vua Minh Mệnh không tiếp lấy cớ rằng ở đây không ai hiểu tiếng Pháp nên quốc thư của Pháp không phiên dịch nổi. Sự thực lúc này thiếu gì giáo sĩ Pháp đang truyền giáo ở Việt Nam để làm công chuyện đó cho triều đình của Ngài.
Tuy vậy cuộc giao thiệp giữa ta và Pháp không gián đoạn ngay sau khi hai ông Vannier và Chaigneau về Pháp. Người Pháp vẫn cố chấp nối lại mối liên lạc. Năm sau (1826) cháu Chaigneau là Eugène Chaigneau còn trở qua Việt Nam nhưng cũng không lượm được kết quả gì tốt đẹp, năm 1829 ông này phải bỏ về nước.
Xét ra các vua đầu tiên của nhà Nguyễn đã thấy cái Bạch họa lan tràn từ thế kỷ XVII và XVIII ở khắp Á Châu nên không muốn giao dịch với nước Tây Phương nào hết. Vua Gia Long đối xử tốt với người Pháp chỉ vì hàm ơn một số người Pháp đã giúp mình xưa kia nhưng trong thâm tâm vẫn có sự e dè. Đến đời Minh Mệnh thì người ta coi rằng không cần nể vì người Pháp nữa và không liên lạc mật thiết với Pháp càng khỏi gặp nhiều điều khó khăn phiền phức với các cường quốc Âu Châu khác.

6- Việc Ai Lao và Chân Lạp
A.- Năm Minh Mệnh thứ VIII (1827), Tiêm La đánh Vạn Tượng, Quốc Vương xứ này là A Nộ chống không nổi phải sang cầu cứu triều đình Việt Nam. Vua Thánh Tổ cho Thống Chế Phan Văn Thúy làm Kinh Lược Biên Soạn Đại Thần mang viện quân theo đường Qui Hợp và Lạc Phàm sang giúp. Việc xuất binh này bị thất bại.
A Nộ phải theo quân ta về Nghệ An đợi thu xếp quân sĩ xong sẽ đánh báo thù. Năm sau (1828) A Nộ chiêu mộ được quân Lào liền xin quan quân của ta hợp sức. Phan Văn Thúy và Nguyễn Văn Xuân, Nguyễn Khoa Hào được lệnh vua Thánh Tổ đem 3000 quân và 24 con voi đưa A Nộ về Trấn Ninh, rồi tiến vào Vạn Tượng (Vientiane). Đạo quân của ta và A Nộ lại bị thua phải xin viện binh Nghệ An. Vua Thánh Tổ chán việc này hạ lệnh bãi bỏ và chỉ phòng vệ các địa điểm biên giới mà thôi. Sau A Nộ chạy về Trấn Ninh bị thủ lĩnh Chiêu Nội bắt nộp cho Tiêm La.
Quân Tiêm được đà đánh dấn vào các miền phụ cận Quảng Trị. Thống Chế Phạm Văn Điển và Tham Tán Quân Vụ Lê Đăng Doanh cùng với các đạo quân ở Lào phải đi ngăn giặc, đằng khác gửi thư cho Tiêm La để trách cứ. Tiêm La trả lời khiêm nhượng rồi rút quân về. Tuy vậy Tiêm vẫn bí mật dung túng người Chân Lạp nổi lên chống lại chính quyền của ta hoặc hà hiếp Vạn Tượng và các xứ quy phụ triều đình Việt Nam. Rồi cuối năm Quí Tỵ (1833), Tiêm lại lợi dụng lời kêu gọi của Lê Văn Khôi mang quân vào nội địa Nam Hà và Chân Lạp như trên đã nói. Tóm lại Tiêm La từ khi mất quyền bảo hộ ở Chân Lạp vẫn hằn học với Việt Nam, lúc không sinh sự được với ta thì lại quay ra quấy rối Ai Lao và Chân Lạp, hoặc khi thấy có biến cố xảy ra trên đất Việt Nam liền nắm ngay cơ hội để xâm lấn.
113 Chaigneau và Vannier thấy sự lãnh đạm của nhà vua nên đã xin nghỉ vĩnh viễn để về quê hương vào ngày 15-11-1825. Đơn của hai ông này được chấp thuận ngay lập tức tuy có đủ hình thức nhã nhặn.

Xin nhắc rằng dưới đời Thánh Tổ nhiều xứ nhỏ thuộc về Ai Lao và ở sát đất nước ta cũng xin quy phục như đất Lạc Phàm, Tam Động (hai xứ này được triều đình của ta đổi làm hai phủ), Xa Hổ, Sầm Tộ (Sam-Teu), Mường Soạn (?), Mang Lan (Mường Lam), Trình Cố (Xiêng-Khô), Sầm Nứa (Sam-Neua), Mường Duy, Cam Cát (Kham-Keut) ở Ngọc Ma, Cam Môn và Cam Linh (các xứ này hợp thành ba phủ Trấn Biên, Trấn Định và Trấn Man. Phủ Trấn Biên chia ra làm 4 huyện, còn hai phủ Trấn Định và Trấn Man chia mỗi phủ làm 3 huyện.
Ở Cam Lộ thuộc Quảng Trị, các dân Mường, Mang Vang, Ná Bí, Thượng Kế, Tả Bang, Xương Thịnh, Tầm Bồn, Ba Lan, Mang Bổng, Lang Thời cũng xin nội thuộc và được chia ra làm 9 châu theo lệ triều cống. Có thể nói rằng đất Sầm Nứa, Trấn Ninh, Cam Môn và Savanhaket bấy giờ đã thuộc về Việt Nam dưới đời Thánh Tổ và nước ta bấy giờ kể cả các xứ nội phụ rộng lớn hơn bao giờ hết. Việc lệ thuộc của các xứ kể trên đã được ghi vào năm Đinh Hợi (1827) do ý muốn tránh sự quấy nhiễu của Tiêm La và được sự che chở của triều đình Việt Nam.
B.- Cuối năm 1834 vua nước Chân Lạp là Nặc Ông Chân qua đời không có con trai kế tự, quan phụ trách việc bảo hộ Chân Lạp là Trương Minh Giảng liền đặt em gái Nặc Ông Chân là Ang Mey lên làm Quận Chúa gọi là Ngọc Vân Công Chúa. Việc này được sắp đặt vào đầu năm Ất Vị (1835) rồi Chân Lạp được đổi ra Trấn Tây thành chia làm 32 phủ và 2 huyện. Trông nom việc quân dân xứ này trên có một Tham Tán Đại Thần, một Đề Đốc, một Hiệp Tán và dưới có bốn chánh-phó lãnh binh.
Năm Canh Tý (1840) Lê Văn Đức làm Khâm Sai Đại Thần và Doãn Uẩn làm phó cùng Trương Minh Giảng sang khám xét việc buôn bán, đặt các thứ thuế đinh, điền, đò giang, sản vật.
Sau này quan lại Việt Nam làm nhiều điều càn rỡ, lại bắt cả Ngọc Vân công chúa đem về Gia Định cùng đày bọn quan Chân Lạp là La Kiên, Trà Long ra Bắc Kỳ nên dân Chân Lạp bất mãn nổi lên đánh phá, Tiêm La lợi dụng dịp này giúp em Nặc Ông Chân là Ông Đôn khởi nghĩa, quan quân của ta dẹp mãi không xong. Tới khi vua Thánh Tổ mất (1840) thì các nhà cầm quyền của ta ở Trấn Tây thành phải rút về hết.

7- Việc Cấm Đạo
Buổi đầu vua Minh Mệnh mới lên ngôi, Ngài chưa có áp dụng ngay chính sách sắt máu với các đạo trưởng Tây phương và các tín đồ Thiên Chúa, nhưng dần dà triều đình Việt Nam thấy người Pháp đến Việt Nam có một thái độ ương ngạnh, tàu buôn Pháp thỉnh thoảng lại đổ bộ bí mật một số giáo sĩ vào nội địa mặc dầu người Pháp đã biết rõ chính quyền Việt Nam không ưa đạo này. Tỉ dụ năm Ất Dậu (1825) tàu Thétis vào cửa Hàn đã đem giáo sĩ Logerot tới một cách lén lút. Nếu ngược dòng lịch sử mà nói thì việc này chẳng phải là lần đầu. Các quan Việt Nam khám xét ráo riết mà vẫn không xiết được. Ngoài ra nhà vua đã ban nhiều đạo dụ để khuyên nhủ và nghiêm cấm dân chúng, còn với các giáo sĩ, Ngài cho mời về Huế để dịch các sách Tây ra tiếng Việt, thực ra chỉ để ngăn cản việc giảng kinh Phúc Âm mà thôi. Mọi phương sách rốt cuộc đều vô hiệu, rồi chính quyền Việt Nam dầu muốn dầu không đã phải đi đến chỗ quyết liệt. Đạo dụ cuối cùng tuyên bố xử tử hình những ai vi phạm lệnh và cả những ai chứa chấp giáo sĩ cũng như giáo dân. Năm ấy một giáo sĩ đã bị bắt và bị xử giảo, quân quan lục lạo khắp nơi, đốt nhà thờ, bắt giáo sĩ và giáo dân gần như loạn. Ngoài Bắc nổi lên nhiều phong trào chống nhà Nguyễn, tất nhiên có một số giáo dân dự vào các vụ phiến động này. Trong vụ đánh thành Phiên An, người ta bắt được Cố Du (P. Marchand, giáo sĩ này bị tra tấn rất nhiều nhưng vẫn không nhận có giúp Lê Văn Khôi) việc giết đạo từ đó (1834-1838) lại càng dữ dội hơn trước, nhưng sắt và máu của nhà vua chỉ làm cho các giáo dân say mê thêm đạo Thiên Chúa. Người Công Giáo cho rằng chết vì đạo là "chết vì Chúa" và sẽ được lên nước Thiên Đàng để hưởng hạnh phúc vô tận bên cạnh Chúa Trời.
Vua Minh Mệnh thấy mọi việc cấm đoán, giết chóc không có kết quả phải cử một sứ đoàn sang điều đình với chính phủ Pháp. Sứ đoàn tới nơi nhưng bị Hội Truyền Giáo Ngoại Quốc xin Pháp Hoàng Louis Phillippe đừng tiếp. Phái đoàn đành ra về, đến nước nhà thì vua Minh Mệnh đã mất. Rồi việc cấm đạo vẫn cứ tiếp tục mà việc truyền đạo, theo đạo cũng vẫn không ngừng, sau này Pháp chiếm được nước Việt Nam (cuối thế kỷ XIX) đạo Thiên Chúa mới chấm dứt được những trang thảm sử.

8- Bàn về Vua Thánh Tổ
Vua Thánh Tổ mất năm Canh Tý (1840), thọ được 50 tuổi, ở ngôi được 21 năm, miếu hiệu là Thánh Tổ Nhân hoàng đế.
Ngài là một ông vua biết chăm nom việc nước, bên trong sửa sang được các việc chính trị, quan chế, học hành, khoa cử, phong tục, thuế má, võ bị khiến trong nước có nền nếp chỉnh tề. Bên ngoài nhà vua và triều đình đánh Tiêm, dẹp Lào, thu phục được nhiều bộ lạc, gây được nhiều uy thế cho quốc gia nhưng không có sáng kiến nên việc canh cải không có gì đặc biệt lắm. Và xét cái căn bản của giai tầng trí thức đời đó, học chỉ vụ từ chương, cử nghiệp thì cũng khó mà có những nhân tài xuất sắc, lỗi lạc để làm những việc kinh bang, tế thế cho nhân dân được nhờ.
Tuy nhiên người ta không thể không quy trách nhiệm cho Ngài về các vụ loạn ly đã xảy ra ở Bắc Hà, Nam Hà và Chân Lạp do quan lại tham nhũng gây nên, đáng lẽ ở những miền xa xôi này nhà vua phải lựa đặt những cán bộ ưu tú, biết lấy ân làm uy, khéo léo vỗ về dân chúng, bởi từ lâu họ đã thiếu cảm tình với tân triều. Việc bảo hộ Chân Lạp rõ rệt kém chính trị là đi đến chỗ quá ngược đãi người bản xứ, khiến Tiêm La lợi dụng nhược điểm này kết hợp cùng dân Miên đánh ta bật ra khỏi Trấn Tây thành. Việc Lê Văn Khôi tuyên bố lập con Hoàng tử Cảnh để có chính nghĩa hoàn toàn là chuyện vu vơ mà nhà vua lại nỡ giết cả chị dâu góa cùng cháu nhỏ thì thật là quá lo cho cái ngai vàng của mình mà xả tình cốt nhụt114. Đến vụ án Lê Văn Duyệt và Lê Chất cũng đáng phàn nàn bởi khi sống đã không làm tội (mà họ cũng chẳng có tội gì đáng kể) đến khi họ chết lại đem ra hành hạ nắm xương khô, thật là bày một chuyện cười cho hậu thế.

114 Sử Pháp của C. B Maybon có chép chuyện này.

Còn về việc cấm đạo, giết đạo thiết tưởng cũng nên rộng xét cho nhà vua, vì Thiên Chúa Giáo bấy giờ quá mới đối với dân ta, lại có nhiều nghi lễ không hợp với tục lệ cổ truyền gần như làm đảo lộn một phần nào đời sống tinh thần của ta. Huống hồ mỗi dân tộc có một mối sùng kính riêng, ai chẳng cho điều sùng kính của mình là hay và khi mình có quyền tất nhiên phải bảo vệ điều sùng kính đó bằng đủ mọi cách. Thêm vào, tình hình chính trị ở Á Châu đang rối loạn từ Ấn Độ Dương qua Thái Bình Dương do các cuộc xâm lăng của các đế quốc Tây phương, vua chúa Á Đông nào mà chẳng ít nhiều tư tưởng bài ngoại, chỉ đáng hận rằng mình thua kém người thì việc bài ngoại chỉ đem lại sự thiệt thòi mà thôi.

III - Hiến Tổ (1841-1847)
- Cá nhân của vua Hiến Tổ
- Việc Chân Lạp và Tiêm La
- Cuộc đánh phá đầu tiên của Pháp ở Việt Nam

1- Cá Nhân của Vua Hiến Tổ
Vua Thánh Tổ thăng hà, Hoàng tử Miên Tông lên ngôi vào ngày 21 tháng giêng năm Tân Sửu (12-2-1841) lấy niên hiệu là Thiệu Trị. Nhà vua lúc này được 31 tuổi.
Vua Thiệu Trị cũng giống vua cha ở chỗ ham văn chương, sử ký nhưng tính tình thuần hòa hơn. Năm 1852, Ngài cho biên soạn cuốn Đại Nam Liệt Truyện Tiền Biên gồm đủ tình tiết về các nhân vật chính trị quan trọng của nước nhà. Ngài lại làm nhiều bài thơ vịnh các phong cảnh có tiếng trong nước đóng vào thành tập gọi là Ngự đề danh thắng đô hội thi tập và Ngự chế Bắc tuần thi tập, cũng soạn ra sách Ngự chế võ công thi tập để ca ngợi các việc đánh dẹp dưới đời Ngài.
Về việc chính trị, Ngài noi theo các qui mô của vua cha để lại, tỉ dụ việc học hành, thi cử, thuế má. Các bề tôi như Nguyễn Tri Phương, Lâm Duy Hiệp, Lê Văn Đức, Doãn Uẩn, Trương Đăng Quế, Võ Văn Giải hết sức phò tá để giải quyết những việc quan trọng, nhất là các việc giặc giã ở Nam Hà, việc chống đối của dân Chân Lạp, việc quấy phá của quân Tiêm. Các vụ lộn xộn này đã làm quân ta gian lao, vất vã khá nhiều.
Năm vua Thiệu Trị lên ngôi, Ngài có gửi sứ bộ qua Tàu để xin cầu phong. Năm sau, Ngài ra Hà Nội để làm lễ thụ phong. Năm 1845, hai sứ bộ đi Tàu liên tiếp, một để cảm tạ và một để mang đồ tiến cống.

2- Việc Chân Lạp và Tiêm La
Cuối đời Minh Mệnh giặc dã nổi lên ở Nam Kỳ và Chân Lạp không chịu phục tòng ta nữa. Triều đình cử các ông Trương Minh Giảng, Nguyễn Công Trứ, Lê Văn Đức, Nguyễn Tiến Lâm đi tiễu trừ mãi không xong, ở Nam Kỳ có cuộc dấy loạn của Lâm Sâm cùng bọn thày chùa tại Trà Vinh. Tại Chân Lạp (Cao Miên) người Miên hợp với người Tiêm đánh phá chính quyền bảo hộ của ta. Quan quân Việt Nam chống không nổi phải rút về, lúc đó vua Thiệu Trị vừa lên ngôi xong, triều đình Việt Nam phải chấp thuận đề nghị của ông Tạ Quang Cự xin bãi bỏ việc cai trị ở Trấn Tây thành (Chân Lạp). Rồi quân đội của ta trở về đóng ở An Giang. Trước đây ông Trương Minh Giảng phụ trách Trấn Tây thành, nay không đối phó nổi với tình thế phải rút lui, họ Trương lấy làm xấu hổ nên lâm bệnh, về đến An Giang thì mất.
Lúc các ông Nguyễn Tiến Lâm và Nguyễn Công Trứ dẹp xong giặc Lâm Sâm thì quân Tiêm mang binh thuyền vượt biên giới sang đánh phá. Quan quân của ta dưới quyền tổng chỉ huy của Lê Văn Đức đã chia làm ba đạo: Nguyễn Tri Phương, và Nguyễn Tiến Lâm giữ mặt Tiền Giang; Nguyễn Công Trứ và Nguyễn Công Nhân giữ mặt Vĩnh Tế; Phạm Văn Điển và Nguyễn Văn Nhân giữ mặt Hậu Giang, nhất tề tiến lên, quân Tiêm thua to phải rút về Trấn Tây thành. Quân ta không đuổi theo chỉ bố phòng các chỗ hiểm yếu mà thôi.
Nguyên khi quân ta ở Chân Lạp lui về Nam Kỳ thì người Tiêm La ở đấy đã ủng hộ Nặc Ông Đôn (em Nặc Ông Chân, chú của Ngọc Vân Công Chúa) về nước làm vua, sau đó họ đã áp chế dân bản địa quá đáng. Người Chân Lạp chịu không nổi lại sang cầu cứu Việt Nam. Bấy giờ vào năm Ất Tị (1845) tức là Thiệu Trị thứ 5, Vũ Văn Giải được lệnh thanh toán việc này. Hơn một lần nữa binh sĩ Việt Nam lại chỉ ngọn cờ sang đất chùa Tháp. Nguyễn Tri Phương, Doãn Uẩn, Tôn Thất Nghị phá được đồn Dây Sắt, thâu lại được thành Nam Vang (1845) hàng phục được 23.000 dân Miên. Nặc Ông Đôn và tướng Chất Tri bị quân ta vây ở Ô Đông (Oudon) nguy quẫn quá phải xin hòa vào tháng chín năm ấy. Rồi hai bên ký hòa ước, sau đó quân Việt Nam rút về đóng ở Trấn Tây đợi Tiêm thi hành các điều đã ký kết.
Tháng chạp năm Bính Ngọ (1846) Nặc Ông Đôn dâng biểu tạ tội và nộp các cống phẩm. Năm sau Ông Đôn được phong làm Cao Miên Quốc Vương và Ngọc Vân Quân Chúa phong làm Ngọc Vân Công Chúa. Mọi việc ổn thỏa quân Việt lại trở về An Giang và đất Nam Hà lại được yên lành như cũ.

3- Cuộc đánh phá đầu tiên của Pháp ở Việt Nam
Vua Thiệu Trị lúc mới lên ngôi có rõ rệt thái độ hòa hoãn với người ngoại quốc. Ngài không ghét đạo quá đáng như vua cha nhưng vẫn không bãi bỏ các sắc dụ cấm đạo và phóng thích những giáo sĩ cùng giáo dân.
Bấy giờ dư luận quần chúng Pháp vẫn chưa hết xúc động về những vụ tử đạo ở Việt Nam dưới đời Minh Mệnh. Tờ Annales de la Propagation de la Foi là một cơ quan truyền tín của hội Truyền giáo ngoại quốc luôn luôn nhắc nhở đến những việc giết đạo, cấm đạo rất là tàn nhẫn tại Việt Nam nên một số người Pháp đã yêu cầu Pháp đình can thiệp.
Ngày 24-2-1843, một chiến thuyền cỡ nhỏ của Pháp tên là Héroine vào cửa Hàn, viên Thiếu tá thuyền trưởng là Favin-Lévêque xin phóng thích cho 5 giáo sĩ bị kết án tử hình đang bị giam tại Huế trong đó có giám mục Michel. Quan của ta có ý lẩn trốn trước việc này sau Favin-Lévêque cương quyết tới Huế, ba tuần sau các giáo sĩ này được thả ra. Trước đấy hai năm, giám mục Lefebvre bị bắt ở Vĩnh Long rồi giải về Huế để chịu tử hình cũng được hải quân Thiếu tướng Cécile đem chiếc tàu Alemène vào Đà Nẵng xin cho. Nhưng việc bắt bớ giáo sĩ vẫn tiếp tục khiến chính phủ Pháp phải lên tiếng phản đối.
Năm Đinh Vị (1847) Đại tá Lapierre và Trung tướng Rigault de Genouilly có đệ lên vua Thiệu Trị một tờ kháng nghị của nước Pháp về việc cấm đạo, giết đạo và yêu cầu triều đình Việt Nam bắt chước nước Tàu cho người Pháp được tự do giảng đạo Thiên Chúa.
Đôi bên còn đang điều đình và công việc này đã kéo dài một tháng rồi mà vẫn chưa dứt khoát, các sĩ quan Pháp lại thấy 5 chiến thuyền của Việt Nam chuẩn bị tấn công, các hải đài cũng có sự hoạt động khác thường nên Đại tá Lapierre cử người sang yêu cầu các chiến thuyền Việt Nam đừng tiến ra khơi. Tối hậu thư này không được đếm xỉa đến nên tàu Pháp phải bắn trước rồi cuộc xung đột khai diễn ngay liền khi đó. Một giờ sau chu sư của ta bị phá tan. Lapierre không cho quân đổ bộ và ngày hôm sau rời khỏi cửa Hàn.
Vua  Thiệu  Trị  giận  lắm,  gửi  sắc  dụ  đi  các  tỉnh,  trọng  thưởng  những  ai  giết  được những giáo sĩ Tây phương, mặt khác Ngài cho tăng cường quân sự và việc chế tạo thêm quân khí. Nhưng sau biến cố này được vài tháng thì Hiến Tổ qua đời vào ngày 4- 11-1847 tức năm Thiệu Trị thứ bảy. Ngài làm vua được 7 năm và chết năm 37 tuổi.

Phần Thứ Tư
Việt Nam Mất Độc Lập Về Tay Pháp

Chương 1
IV- Dực Tông (1847 - 1883)

- Vua Tự Đức và tình thế nước ta giữa thế kỷ XIX
- Việc ngoại giao và cấm đạo
- Việc văn học và binh chế
- Hai vụ đảo chính
- Cuộc kinh lý của De Montigny
1- Vua Tự Đức và tình thế nước ta giữa thế kỷ XIX
Vua Thiệu Trị sau bảy năm ở ngôi thì hết số. Trước khi chết Ngài cử ông hoàng Hồng Nhậm là con thứ lên kế vị. Hồng Bảo tuy là con cả nhưng bị gạt bỏ vì ông này ham chơi bời, phóng đãng không được cảm tình của vua cha.
Hồng Nhậm bước lên ngai vàng vào tháng 10 năm Đinh Tị (1847) tại điện Thái Hòa, lấy niên hiệu là Tự Đức. Lúc bấy giờ nhà vua mới 19 tuổi, nhưng ngài đã có học nhiều. Có thể nói rằng ngài là một ông vua "từ chương" nhất của triều Nguyễn, thờ mẹ rất hiếu, tính tình điềm đạm, giản dị. Đối với quốc sự ngài rất chăm chỉ không bỏ sót một việc nào dầu nhỏ nhặt. Ngài làm ra ba tập Ngự Chế Thi Văn. Thập Điều Tự Học Diễn Ca và Luận Ngữ Diễn Ca. Hai tập sau có tính cách giáo dục cho hoàng gia và dân chúng.
Phò tá ngài bấy giờ có các ông Trương Đăng Quế, Vũ Trọng Bình, Hoàng Diệu, Nguyễn Tri Phương, Phan Thanh Giản là những bề tôi tận tâm và tận trung nhưng đối với nhiều biến cố hết sức lớn lao đời bấy giờ thì vua Tự Đức cũng như triều thần rõ rệt là không đủ tài đủ sức để đảm đương sứ mạng đối với quốc dân và lịch sử. Quả vậy, các nước Âu Châu thuở đó đối với dân ta nói riêng, đối với các nước Á Đông nói chung đã tiến bước quá xa. Họ tổ chức xã hội rất có qui củ, làm ra được nhiều máy móc tinh xảo để phục vụ đời sống hàng ngày, đóng được tàu bè, xe cộ, tha hồ ngược xuôi năm châu bốn bể, chế tạo ra máy điện máy nước vô cùng thuận tiện, lại biết làm các súng đạn hết sức lợi hại. Nhờ vậy kỹ nghệ, kinh tế, thương mại của họ phát đạt vô cùng, sản phẩm đủ thứ được đem bán. Còn ta thì thiếu sót hẳn cái học thực tế và cái thuật phú quốc cường binh, bởi không biết trông xa thấy rộng, ai ai cũng chỉ cho rằng nước Tàu là mạnh, tự cho mình văn minh còn người Tây Phương là dã man, mọi rợ. Giới trí thức do cái lò từ chương, cử nghiệp đào tạo luôn luôn nghĩ rằng thơ hay phú giỏi là đủ, bàn đến việc đời, việc nước thì chỉ biết đem các chuyện cổ nước Tàu ra làm mực thước. Thảng hoặc có người đã qua các nước Âu Châu đem chuyện văn minh, khoa học của họ ra mà bàn thì cho là ngụy ngôn, tà thuyết. Đó là trường hợp các ông Nguyễn Đức Hậu, Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Điều đã đi du học Tây phương năm Bính Dần (1866) trở về dâng lên nhiều bản điều trần xin canh cải nước nhà, hòng theo dịp các nước tân tiến thuở ấy, nhưng chẳng chịu nghe cả.
Năm Mậu Thìn (1868) tức là năm Tự Đức XXI ông Đinh Văn Điền ở Ninh Bình đã dâng sớ xin nhà vua khai mỏ vàng, lập dinh điền, mở cửa cho người ngoại quốc vào buôn bán, thao luyện quân đội, thêm lương cho sĩ tốt, bớt sưu thuế cho dân v.v... Từ năm Kỷ Mão (1879) đến năm Tân Tỵ (1881) ông Nguyễn Hiệp đi sứ Tiêm La, ông Lê Đĩnh đi sứ Hương Cảng cũng đều trình việc Tiêm La lập điều ước giao hảo với các nước Anh, Pháp, Ý, Phổ là khôn ngoan, nhờ đó Tiêm không bị họ gây sự và hiếp chế, vì ai cũng có quyền lợi. Tàu, Nhật cũng học theo Tây Phương nên đã bãi bỏ các công cuộc bài ngoại. Nhưng khi đem ra duyệt nghị, vì lòng tự ái cũng như do sự u mê, các quan đại thần của vua Dực Tông đều cho rằng các việc đã trình bày không hợp thời, rồi kiếm cớ bác bỏ đi. Tới khi nước Pháp đem binh hùng, tướng mạnh vào Việt Nam, chiếm đánh từ lục tỉnh ra tới Bắc Hà dễ dàng như vào chỗ không người, chỉ khổ đám dân đem làm mồi cho súng đạn mà nước mất vẫn hoàn mất. Còn đám người lãnh đạo bấy giờ mới thấy mình bất tài, bất lực, hối hận rằng mình ươn hèn, lạc hậu thì đã muộn.

2- Việc ngoại giao và cấm đạo
Cũng theo đường lối của hai triều Minh Mạng và Thiệu Trị, vua Dực Tông khước từ mọi việc giao thiệp với các nước ngoài, dầu việc giao thiệp chỉ có mục đích thương mại. Năm Canh Tuất (1850) là năm Tự Đức thứ ba, tàu Mỹ Lợi Kiên vào cửa Hàn có quốc thư xin thông thương không được tiếp nhận. Rồi từ năm 1955 và trên hai chục năm sau nữa các nước Anh, Pháp, Tây Ban Nha nhiều lần có tàu vào cửa Hàn, cửa Thị Nại và Quảng Yên xin mua bán với dân ta cũng không được.
Sau này Gia Định lọt vào tay Pháp, việc ngoại giao với các nước Tây Phương khó khăn, nhà vua mới thay đổi chính sách rồi đặt ra Bình Chuẩn Ty để coi việc buôn bán và Thượng Bạc Viện để giao dịch với các người ngoại dương, nhưng các người được ủy thác vào các việc này chẳng biết gì cả, bởi họ có đâu được học ngoại giao và điện thoại bao giờ...
Vua Tự Đức lên ngôi, đối với việc truyền bá đạo Thiên Chúa buổi đầu không gay gắt lắm tuy đã có ban hành dụ cấm đạo. Dụ này nói rằng người ngoại quốc nào giảng đạo sẽ bị xử tử hình, các linh mục Việt Nam không bỏ đạo sẽ bị khắc chữ vào mặt rồi phải đày đi các nơi lam chướng, còn dân chúng ngu muội thì các quan phải răn bảo chớ không được chém giết.
Nhưng khi có việc ông hoàng Hồng Bảo âm mưu gây cuộc đảo chính bị thất bại, vua Tự Đức thấy có bàn tay ngoại quốc bí mật nhúng vào bên trong, lại có cuộc thảo luận giữa các đảng viên phiến loạn với các giáo sĩ nên ngài cho thi hành ráo riết sắc dụ ngày 21.3.1851 là xử tử hình tất cả các giáo sĩ Âu Châu và Việt Nam trên khắp lãnh thổ nước nhà.  Các  giáo  dân  khi  ấy  bị  coi  như    đồng  lõa  với  quân  phản  nghịch.  Augustin Schoeffer là một giáo sĩ mới 29 tuổi bị chém ở Sơn Tây ngày 1.5.1851, năm sau có Jean-Louis Bonnard cũng phải trảm quyết ở ngoài Bắc và rất nhiều giáo dân nữa.
Năm 1855, một đạo dụ khác ra đời cay nghiệt hơn là trọng thưởng những ai bắt được các giáo sĩ và tố cáo được các giáo dân, do đó mà Pháp cùng Tây Ban Nha ít năm sau nắm được cơ hội dùng vũ lực ra mặt xâm chiếm nước ta.

3- Việc văn học và binh chế
Vua Tự Đức là một ông vua hay chữ nhất của họ Nguyễn. Ngài rất trọng Nho học, chăm về việc học hành, sửa sang việc thi cử. Ngài đặt Nhã sĩ khoa và Cát sĩ khoa để lấy người ra làm quan. Ngài lập Tập Hiền Viện và Khai Kinh Viện cũng như vua Lê Thánh Tông lập ra Tao Đàn để cùng các quan bàn sách vở, ngâm thơ phú hay thảo luận chính trị. Do lệnh ngài, bộ Khâm Định Việt Sử được biên soạn gồm các việc từ đời Hồng Bàng đến hết đời Hậu Lê...
Năm Tự Đức thứ XIV (1861) triều đình truyền cho các tỉnh lựa người khỏe mạnh ra làm lính Võ Sanh. Năm Ất Sửu (1865) có kỳ thi Võ tiến sĩ. Việc võ được xúc tiến bởi trong nước có nhiều cuộc phiến loạn xảy ra, nhưng tổ chức binh chế, việc huấn luyện vẫn theo lề lối cổ truyền chỉ có ảnh hưởng trong việc đối nội mà thôi. Còn đối với cơ giới hóa chiến cụ và chiến pháp của ngoại quốc rõ rệt là vô hiệu. Bấy giờ ta chỉ có súng điểu thương cũ phải châm ngòi đạn mới nổ (súng này có lẽ là súng hỏa mai ta còn thường thấy ở các vùng Mường, Thổ gần đây). Trong mỗi đội 50 người chỉ có 5 người được dùng súng này. Súng đã ít, việc tập bắn lại ít hơn. Mỗi năm chỉ bắn một lần, mỗi người lính chỉ được bắn có 6 phát đạn. Ai bắn quá số này phải bồi thường. Còn súng đại bác của ta đã nổ rất chậm lại hay hư hỏng. Trái lại, lúc này súng đại bác của người Tây Phương rất là lợi hại, súng trường nạp hậu, các đạn của ta chỉ là trò trẻ. Tình trạng quân sự hèn kém, chính trị hủ bại như thế là tự mình rước lấy sự bại vong rồi còn kêu ca vào đâu nữa.

4- Những vụ phiến động trong nước
Vua Dực Tông lên ngôi được ba năm (1850) đã cử những danh thần làm Kinh Lược Đại Sứ để đi khám xét công việc quân dân ở các khu vực trong nước. Tỉ dụ: Nguyễn Tri Phương  phụ  trách  xứ  Nam  Kỳ,  Phan  Thanh  Giản  coi  ba  tỉnh  miền  Nam  Trung  Việt, Nguyễn Đăng Giai kiểm soát ba tỉnh phía Bắc miền Trung. Nhưng từ năm Tân Hợi trở đi (1851) giặc dã nổi lên ở nhiều nơi, nhất là ở Bắc Kỳ. Ta thấy rõ rệt lòng dân ở đây còn tưởng nhớ đến nhà Lê nên đã dấy động để phá chánh quyền nhà Nguyễn. Có vài vụ loạn mà người cầm đầu xưng mình thuộc dòng dõi nhà Lê, đã lôi cuốn được khá nhiều nhân dân. Ngoài người trong nước phá trật tự an ninh, lại còn giặc Tàu tràn sang. Bọn này thuộc dư đảng Thái Bình Thiên Quốc do Hồng Tú Toàn tổ chức chống lại nhà
Thanh bị bại chạy qua nước ta. Chúng cướp phá các vùng thượng du khiến quan quân ta phải đi đánh dẹp vất vả. Đã thế dân còn phải chịu nhiều thiên tai như lụt lội, vỡ đường liên miên. Đê Văn Giang thuộc tỉnh Hưng Yên vỡ luôn 18 năm thì miền Nam Trung Châu là nơi đông dân nhất sao khỏi được rối loạn. Đây cũng là một trong nhiều nguyên nhân phát sinh ra những vụ phiến động của đồng bào Bắc Kỳ, nếu không có mục đích chính trị.
Cũng trong năm này có giặc Tam Đường do ba lãnh tụ: Quảng Nghĩa Đường, Lục Thắng Đường, Đức Thắng Đường hoành hành tại Thái Nguyên được quan Kinh Lược Nguyễn Đăng Giai đến phủ dụ nên đất Bắc được yên ổn một thời. Đến năm Giáp Dần (1854) Nguyễn Đăng Giai mất, Bắc Kỳ lại mất an ninh, trật tự như cũ.
Bấy giờ ở Sơn Tây có một người tôn phò Lê Duy Cự là con cháu nhà Lê lên làm minh chủ. Cạnh Cự có Cao Bá Quát làm quốc sư. Quát sinh ở làng Phú Thụy, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh. Đổ cử nhân, giữ chức giáo thụ phủ Quốc Oai tỉnh Sơn Tây. Ông này là một trí thức thông minh bậc nhất đời bấy giờ nên đã được tôn là "thần Siêu, thánh Quát" và đã có thơ ca ngợi tài của ông:
Văn như Siêu, Quát vô tiền Tấn
Thi đáo Tùng, Tuy thất thịnh Đường115
Con người có tài này chẳng may có tính kiêu ngông nên bị quan lại đương thời ghen ghét, vì vậy không bước cao được trên thang danh vọng. Lại nữa, ông thấy vua quan thuở đó hủ bại nên có ý bất mãn, do đó mà tay kiếm tính xây dựng lại thời thế.
Tháng Chạp năm ấy phó lãnh binh Sơn Tây là Lê Thuận dánh bắt được Cao Bá Quát rồi đem về chém tại làng. Vụ khởi nghĩa của Lê Duy Cự bùng ra cuối năm ấy mà vào khoảng tháng 5 thì có châu chấu phá hoại mùa màng dữ dội nên người ta gọi vụ loạn này là giặc châu chấu. Ông Quát chết rồi, bọn Lê Duy Cự còn hoạt động thêm được vài năm nữa. Vụ Cao Bá Quát không thể gọi là một đám giặc tầm thường vì là một đảng cách mạng có chủ trương lật đổ chính quyền nhà Nguyễn bởi nó không cướp của giết người như những vụ loạn khác.
Kế tiếp "giặc châu chấu" là vụ Lê Duy Minh do tên Tạ Văn Phụng mạo xưng dòng dõi họ Lê cùng với người đạo trưởng (trùm đạo Thiên Chúa) tên là Trường dấy động ở miền Quảng Yên vào tháng Chạp năm Tân Dậu (1861). Phụng đã làm lính mộ cho liên quân Pháp - Tây Ban Nha khi trung tướng Charner ra đánh Quảng Nam.
Lúc  này  tại  Bắc  Ninh    cai  tổng  Nguyễn  Văn  Thịnh  tức  cai  tổng  Vàng đã  xướng nghĩa và nổi danh một thời ở khắp xứ Bắc. Thịnh lập tên Uẩn cũng xưng là con cháu nhà Lê lên làm minh chủ kết liên với Phụng đánh phủ Lạng Giang, huyện Yên Dũng và Bắc Ninh nhiều phen rất nguy ngập. Để trừ bọn Phụng và Thịnh không những quan quân tại địa phương mà còn cả quân Kinh, quân Thanh Nghệ ra tiễu trừ dưới quyền chỉ

115 Tùng, Tuy đây là Tùng Thiện Vương và Tuy Lý Vương, cả hai đều là chú vua Dực Tông và nổi tiếng thơ hay văn giỏi.

huy của các đại thần như hình bộ thượng thư Trương Quốc Dụng làm Hải An tổng đốc, Sơn-Hưng-Tuyên tổng đốc Nguyễn Bá Nghi, tham tán quân vụ Đào Trí v.v...
Vụ loạn này cũng có tính cách chính trị và kéo dài được 4 năm (1861-1865). Sau đó có cả Nguyễn Tri Phương làm Tây Bắc tổng thống quân vụ đại thần ra tiếp sức. Bấy giờ lại có nhiều đảng giặc khác hoạt động ở Tuyên Quang, Thái Nguyên, Cao Bằng vừa là người Tàu vừa là người Thổ. Đã có lần Phụng cho người vào Nam Kỳ điều đình với thiếu tướng Bonnard đem quân ra giúp, hứa nếu thành công sẽ để cho Pháp bảo hộ, nhưng không xong vì lúc này Pháp còn lo củng cố xứ này và đang cần tạm thời có sự hòa hảo với triều đình Huế. Sau bọn Phụng chiếm miền duyên hải để tiện việc tiến thoái.
Cuối năm Quí Hợi (1863), Phụng đã tổ chức được đạo thủy quân gồm 500 chiếc thuyền ở ngoài đảo Cát Bà và Đồ Sơn, tính đánh vào Huế, chẳng may bị bão; nhưng thế lực của giặc đến năm Ất Sửu (1865) vẫn còn lớn. Đốc binh Ông Ích Khiêm được cử sang thương nghị với quân nhà Thanh ở Khâm Châu cùng tấn công thành Hải Ninh là căn cứ lọt vào tay Phụng từ lâu. Phụng thua to, theo đường bể chạy vào Quảng Bình, Quảng Trị, sau bị bắt về Huế trị tội.
Sau việc Phụng có đám giặc khách đánh được tỉnh Cao Bằng. Quan kinh lược Võ Trọng Bình và tuần phủ Phạm Chi Hương đem quân lên Lạng Sơn đánh dẹp, đến tháng 9 năm Ất Sửu mới yên.
Tính ra Bắc Kỳ mất trật tự luôn 15 năm, triều đình hao quân tổn tướng khá nhiều và bởi miền Bắc quá rối loạn nên triều đình đã phải ký hòa ước năm Nhâm Tuất (1862) để được rảnh tay đối phó với loạn quân kể trên.
Trong khi miền Bắc đang có nhiều cuộc rối ren thì ngay ở nội bộ của hoàng gia cũng nổi lên vài cơn giông tố nữa, đó là vụ âm mưu cướp ngôi của Hồng Bảo và cuộc đảo chính của ba anh em họ Đoàn, con rể Tùng Thiện Vương.

Vụ Hồng Bảo:
Như trên đã nói, An Phong Công Hồng Bảo là con cả nhưng là thứ xuất (con vợ thứ) và kém phong độ nên không được lên ngôi. Vào năm 1851, ông sinh ý dùng bạo lực của ngoại quốc để đoạt lại ngai vàng.
Trong bức thư đề ngày 23.2.1851 in trong Annales de la Propagation de Foi, giám mục Pellerin có nói rằng ông hoàng thất thế này đã điều đình với những người công giáo ở kinh thành để ủng hộ mình, hứa sẽ cho họ tự do hành đạo một cách đắc ý. Các giáo hữu hỏi ý kiến giám mục, giám mục nói rằng tôn giáo không tán thành việc tham gia chính trị như việc truất ngôi vua. Rồi cuối tháng Giêng năm 1851, nhân ngày Tết Nguyên Đán, Hồng Bảo sửa soạn trốn sang Tân Gia Ba, tính qua cầu viện người Anh thì bị bắt. Một hôm người ta thấy xuất hiện trên sông Hương một chiếc tàu nhỏ, còn ở ngoài cửa bể lân cận (chắc là cửa Thuận An) có một chiết tàu lớn nữa. Các nhà chức trách đã đến khám xét chiếc tàu nhỏ. Thấy có khí giới và các thứ đạn dược tích trữ trong tàu làm người ta phải nghi rằng tàu này tính dùng vào việc đem Hồng Bảo thoát ra ngoại quốc. Nếu như việc này xảy ra dưới đời Minh Mạng thì Hồng Bảo đã bị xử tội lăng trì rồi, nhưng với vua Tự Đức thì chỉ có sự canh chừng mà thôi. Hồng Bảo định tự tử, may mấy kẻ đầu tớ ngăn cản kịp. Rồi ông mặc áo chế, để đầu bù, ôm đứa con sáu tuổi vào đại nội khóc lóc thảm thiết. Ông trình bày với vua Tự Đức là ông không có ý trốn khỏi hoàng thành gọi người ngoại quốc về gây loạn mà để xa lánh nơi mà mọi người lìa bỏ ông, khinh bỉ ông bởi lúc này ông nghèo khó. Giờ ông xin qua Pháp để sống một cuộc đời thường dân. Nhà vua tin lời rồi vỗ về an ủi ông, lại ban cho ông 100 thoi bạc và một nén vàng cùng bảo ông không cần phải đi xa. Kẻ nào có ý làm hại ông, vua sẽ trừng phạt cho.
Tuy được sự khoan hồng đặc biệt như vậy mà Hồng Bảo vẫn nuôi ý chí cướp ngôi của em. Theo lời thư viết năm 1855, cũng của giám mục Pellerin, An Phong Công lại họp với một số người bất đắc chí, có nhiều cuồng vọng để tính đại sự phen nữa. Họ uống máu ăn thề rồi cho người ra ngoại quốc liên lạc với các đồng chí khác. Một người đã từ Tiêm La về, qua Cao Miên mang theo một nhà sư cũng là đảng viên nhưng đối đãi không được tử tế nên khi hai người về tới nội địa Việt Nam, nhà sư liền tố cáo âm mưu chính trị của bọn Hồng Bảo. Các đảng viên của Hồng Bảo bị bắt liền và bị tra tấn, đã khai mọi chi tiết về vụ mưu loạn kể cả chuyện cái tàu đậu ở bờ sông Hương và chiếc tàu ở ngoài khơi không  rõ quốc tịch nào, tên có khá đông người Tiêm La, Trung Quốc, Nam Kỳ và cả người Âu Châu nữa. Đoàn người này đợi mãi không thấy ai đến liên lạc nên phải chạy ra khơi. Việc này đã làm náo động cả kinh thành như sắp có giặc. Các nhà cầm quyền phải ra nghiêm lịnh mới trấn tĩnh được nhân tâm. Triều đình nghị án xử Hồng Bảo vào tội lăng trì, nhưng vua Tự Đức giảm xuống án chung thân. Hồng Bảo đã dùng chiếc vải trải giường thắt cổ chết cho khỏi nhục nhã. Con cháu phải đổi họ Nguyễn sang họ Đinh là họ mẹ và tài sản bị tịch thu hết.
Thảm sử huynh đệ tương tàn của anh em vua Tự Đức đến đây chưa là hết.
Giặc Chày Vôi: Năm Bính Dần (1886) là năm sau (Tự Đức thứ XIX), nhà vua cho xây Vạn Niên Cơ, tức Khiêm Lăng. Dân phu, binh sĩ phải phục dịch nhọc nhằn, vất vả. Đám người này tất nhiên không khỏi sự oán hận nhà vua. Ở kinh bấy giờ có ba anh em họ Đoàn: Đoàn Trung, Đoàn Hữu Ái và Đoàn Tự Trực muốn nổi lên lật đổ chính quyền đương thời. Họ khai thác ngay lòng căm hờn của dân chúng, lợi dụng họ làm công cụ cho cuộc phản nghịch. Họ Đoàn kết liên được với Trương Trọng Hòa, Phạm Lương lập ra Đông Sơn Thi Tửu Hội để che dậy hành vi chính trị của mình. Họ lấy danh nghĩa tôn phù Đinh Đạo là con ông hoàng Hồng Bảo (trên đây đã nói đến). Như vậy ta có thể hiểu rằng việc truất ngôi cửu ngũ của Hồng Bảo có lẽ đã khiến một phần nào nhân dân miền Trung bất mãn, bởi lòng dân thường không ưa chuyện bỏ trưởng lập ấu đã gây nên nhiều biến cố ở các dòng vua họ chúa. Dư luận của một vài người tông thất họ Nguyễn cho rằng động lực trong cuộc phản nghịch này một phần là do họ Đoàn muốn mưu đồ phú quý, lại còn có sự trả thù cho Hồng bảo và gây thanh thế cho Tùng Thiện Vương là nhạc phụ của họ Đoàn (Tùng Thiện Vương là chú vua Tự Đức). Hồng Bảo xét ra lại là học trò và là bạn thân của Tương An Công, em ruột Tùng Thiện Vương nữa. Ý kiến này đã được ông Bửu Kế, tác giả bài "việc Hồng Bảo bị truất" in trong Nguyệt San Đại Học số 8 ra tháng 3.1959. Theo chúng tôi, họ Đoàn thuộc loại người ngang tàng và bất mãn với chế độ, về phương diện này hay phương diện khác mà nổi lên, những điều mà ông Bửu Kế nói ra có thể chỉ là nguyên nhân phụ mà thôi. Rồi do uy tín của Tùng Thiện Vương, một số võ quan, binh sĩ và dân chúng đã dự vào cuộc phản nghịch của anh em họ Đoàn. Ta còn có thể nghĩ rằng chưa dễ Tùng Thiện Vương đã là người ngoại cuộc.
Bọn họ Đoàn lấy chùa Pháp Vân làm nơi tụ họp và chế tạo binh khí. Trong thành họ liên lạc được với Tôn Thất Cúc giữ chức hữu quân đại nội làm vây cánh, bên ngoài họ có người ở Khiêm Lăng tuyên truyền trong đám quân, dân kiến thiết nơi này qua hai câu:
Vạn Niên là vạn niên nào?
Thành xây xương lính, hào đào máu dân
Rồi  ngày  8  tháng  9  năm  Bính  Dần,  vào  lúc  canh  ba  nhóm  phản  nghịch  kéo  đến Khiêm Lăng bắt thống chế Nguyễn Văn Xa và các quan chức phụ trách việc xây Vạn Niên Cơ. Họ tuyên bố bãi bỏ công tác xây lăng, hô hào dân chúng về kinh thành hạ bệ đương kim hoàng đế và lập Đinh Đạo lên làm vua. Ai trái lệnh sẽ xử tử ngay tại chỗ.
Được một số người tham dự thêm nên đoàn quân của Đoàn Trưng lên tới chừng một ngàn, họ mang gươm, giáo, đùi, gậy và cả chày giã vôi116 rồi do cửa Nam họ kéo vào Ngọ Môn cướp thêm khí giới ở các kho Cẩm Y và Kim Ngô. Tôn Thất Cúc có mặt ở đây liền gia nhập đám phiến loạn. Thấy động, phó vệ úy Nguyễn Thanh và phó chỉ hy sứ Phạm Viết Trang đóng cửa chống nhau với giặc. Lúc này nhà vua nằm cách chỗ quân phiến loạn đang phá phách chỉ một bức tường. Chưởng vệ Hồ Oai xông ra hăng hái hơn cả, kêu gọi thị vệ và binh sĩ hết sức chiến đấu. Hai bên xô xát, bên phản nghịch yếu thế bỏ chạy dần. Ít giờ sau Đoàn Trưng bị thương và hai anh em đều bị bắt. Những cánh quân khác kế tiếp đạo tiền phong cũng bị tan rã khi nghe tin anh em Đoàn Trưng đã lỡ việc.
Sự thất bại của Đông Sơn Thi Tửu Hội không ngoài nguyên nhân là thiếu sự hậu thuẫn sâu rộng trong dân chúng, tổ chức quân lực không đầy đủ, sự công phẫn của nhóm quân dân tại Khiêm Lăng chỉ như ngọn lửa rơm chóng bốc mà chóng tàn, vì vậy vụ phiến động chỉ nổi lên được một vài giờ rồi bị dẹp tan ngay.
Sau vụ đại náo kinh thành này Đinh Đạo bị xử tử cả nhà, và sử của triều Nguyễn117 chép rằng bọn Đoàn Trưng đã "mượn tiếng phò Đinh Đạo", vậy thì vua Tự Đức đã làm đúng việc của vua Minh Mạng là chỉ mới nghe Lê Văn Khôi tung lời tuyên ngôn phò con hoàng tử Cảnh mà đã giết cả nhà chị dâu lẫn cháu ruột (bấy giờ gia đình đông cung Cảnh đang ở cả tại Huế trong khi đó vụ loạn tại Gia Định). Ngày nay người ta cho rằng cái án Đinh Đạo hoàn toàn giống cái án Cao Bá Nhạ, nó chỉ có ý nghĩa dưới một chế độ hà khắc của đám người tàn bạo mà thôi...

116 Do đó sau này vụ loạn này được gọi là giặc chày vôi.
117 Sử liệu dùng để viết bài này trích ở Quốc Triều Chánh Biên Toát Yếu, Khâm Định Việt Sử, Tiểu Sử Trần Tiến Thành của Đào Duy Anh, Tùng Thiện Vương của Ưng Trình và Annalles de la Propagation de la Foi của Hội truyền giáo người ngoại quốc.

Cùng một nhịp với vụ phản nghịch ở kinh thành, nhiều vụ loạn khác cũng nổi lên làm cho triều đình của vua Tự Đức thêm rối. Tại Quảng Ngãi giặc Đá Vách quấy nhiễu dân chúng. Quan tiễu phủ Nguyễn Tấn đánh dẹp mãi mới yên. Ngoài Bắc giặc Khách lại liên tiếp nổi lên, đó là dư đảng của Hồng Tú Toàn (Thái Bình Thiên Quốc) thất bại ở bên Tàu được Ngô Côn dẫn sang cướp phá các tỉnh miền Thượng du và Trung du. Triều đình phải nhờ quân Tàu sang dẹp hộ, thắng được Ngô Côn ở Thất Khê (năm Mậu Thìn 1868) nhưng đến tháng 7 năm ấy các quan tham tán Nguyễn Mại, phó đề đố Nguyễn Viết Thành tử trận, thống đốc Phạm Chi Hương bị bắt.
Thay thế cho các bại tướng kể trên, Vũ Trọng Bình ra làm Hà Ninh tổng đốc hợp sức với đề đốc Quảng Tây là Phùng Tử Tài lấy lại được Cao Bằng vào tháng 5 năm Kỹ Tỵ (1869). Ngô Côn chạy xuống Bắc Ninh vào cuối năm Canh Ngọ (1870), vây quân triều đình ở đây rồi bị quan tiểu phủ Ông Ích Khiêm bắn chết (theo lời dân chúng ở Tuyên Quang thì Ngô Côn bị bắt và xử chém ở đây).
Chủ tướng Ngô Côn tuy không còn nữa nhưng các bộ tướng là Hoàng Sùng Anh (hiệu cờ vàng), Lưu Vĩnh Phúc (hiệu cờ đen), Bân Văn Nhị, Lương Văn Lợi (hiệu cờ trắng) vẫn hoạt động ở các vùng Tuyên Quang, Thái Nguyên. Quan tổng thống quân vụ Bắc Kỳ là Đoàn Thọ lên hành binh ở Lạng Sơn bị Tô Tứ nửa đêm hãm thành bắt được và giết đi, còn Vũ Trọng Bình trốn thoát. Trước tình thế nghiêm trọng này triều đình vội phái Hoàng Kế Viêm và Tôn Thất Thuyết ra cứu viện. Qua tháng Tư năm Tân Mùi (1871) hình bộ thượng thư Lê Tuấn được phái thêm ra Bắc để tiếp ứng.
Vào tháng 11 năm ấy tại Quảng Yên, giặc Hoàng Tề thông với Tô Tứ và giặc Tàu Ô ở ngoài bể tràn vào. Sau Tề bị quan quân bắn chết ở huyện Thanh Lâm, tỉnh Hải Dương. Riêng quân Cờ Vàng và Cờ Đen là khó trị hơn cả. Sau nhờ chỗ chúng đánh phá lẫn nhau, quan ta dụ được Lưu Vĩnh Phúc cho giữ việc quản trị tỉnh Lào Kay, được thu thuế má để chống giữ với đảng Cờ Vàng ở Hà Giang. Tháng 7 năm Nhâm Thân (1872) Nguyễn Tri Phương được cử ra Bắc làm tuyên sát đổng sức đại thần để chỉ huy việc đánh dẹp.
Đến tháng 8 năm Ất Hợi (1875) Hoàng Sùng Anh về đóng ở làng Châu Thượng, phủ Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên bị quan tán tương quân vụ bắt được, bấy giờ mới hết nạn Cờ Vàng. Nhưng từ năm này đến năm Canh Thìn (1880) còn nhiều đám giặc khác nổi lên nữa (giặc Trận, giặc Lý Dương Tài). Quan Tàu và ta lại hiệp nhau đánh dẹp, sau bắt được loạn tướng họ Lý giải về Tàu. Vì đất Bắc loạn liên miên, triều đình đặt ra chức Tĩnh Biên Sứ để bảo vệ các tỉnh đường ngược. Nguyễn Hữu Độ và Trương Quang Đản được làm Tĩnh Biên phó sứ để trông coi hai đạo Lạng Giang và Đoan Hùng (thuộc Tuyên Quang) dưới quyền Tĩnh Biên sứ Hoàng Kế Viêm.
Trong những năm cuối cùng này triều đình lo nội trị đã đủ mệt lại gặp nhiều sự khó khăn với Pháp nữa thì rõ rệt là quá bất lực trước sự tiến triển quá gấp của tình thế.

Phần 4 - Chương 2
Pháp Ra Mặt Xâm Chiếm Việt Nam

- De Montigny đi công cán Á Châu
- Chiến sự từ Đà Nẵng vào Sài Gòn
- Ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ bị mất
- Pháp chiếm nốt ba tỉnh miền Tây

1- Nguyên nhân của việc Pháp xâm lăng Việt Nam
Từ đời Tự Đức nước Việt Nam đi dần tới chỗ ngã ba của lịch sử. Nước Việt Nam độc lập từ thế kỷ thứ X, sau ba thế kỷ nội chiến (1527) nguyên lực quốc gia bị hao mòn thì Tây Phương với một nền văn minh mới, một nguồn sinh lực dồi dào đã tràn sang Á Châu làm đảo lộn tình thế của hầu khắp các quốc gia. Vì kém hèn, cuối thế kỷ XIX chúng ta rơi vào vòng lệ thuộc của người da trắng. Nếu xét sự tiến triển của phong trào thực dân và đế quốc của Tây Phương khởi từ thế kỷ XV, cuộc chạy đua mãnh liệt để giành nhau thị trường cùng đất đai từ thế kỷ sau liên miên và ráo riết cho đến cuối thế kỷ XIX, việc đánh cướp lấy đất của người Việt như thế là quá muộn. Ngoài ra, biến cố có ảnh hưởng tai hại nhất cho Việt Nam là sự thất bại chính trị và quân sự của Trung Quốc vào cuối thế kỷ XIX sau trận chiến tranh nha phiến. Lần lần nhà Thanh ký các Nam Kinh Điều Ước, Trung-Mỹ, Trung-Pháp Điều Ước ký ngày 3-7-1844, 23-10-1884. Mười năm sau nữa Pháp mới cương quyết xâm chiếm Việt Nam. Một mặt Pháp bấy giờ đã có hoàn cảnh thuận tiện để xuất binh, mặt khác Pháp cho rằng nếu quân đội Pháp không gấp bước vào Việt Nam, có thể Anh sẽ đến Việt Nam trước. Thêm vào đó, một nguyên nhân nữa là chuyện nước Tàu vốn là "thiên triều" đối với Việt Nam còn bại trận thì Việt Nam nước nhỏ dân thưa dại gì mà chẳng thôn tính. Nếu như trong khoảng thời gian Pháp còn lúng túng với nội bộ cùng với liệt cường, vua chúa Việt Nam sớm có một chính sách đối ngoại khôn khéo, am hiểu thuật phú quốc cường binh thì chúng ta đâu phải viết những trang quốc sử bằng máu và nước mắt vào hạ bán thế kỷ XIX. Tiếng súng của trung tướng Rigault de Gnouilly và đại tá Lapierre vào mùa thu năm Đinh Vị (1847), tiếc thay, chưa đủ là một cảnh cáo cho cái triều đình hôn ám của vua Thiệu Trị.

2- Đặc phái viên Pháp De Montigny đến Việt Nam
De Montigny là lãnh sự Pháp ở Thượng Hải, tháng 11-1855 được đặc ủy từ Pháp sang Đông Nam Á bằng đủ mọi cách để thết lập các cơ sở chính trị và thương mại cho nước Pháp. Bấy giờ Pháp nhắm vào Tiêm La, Cao Miên và Việt Nam. Dĩ nhiên Việt Nam được chú trọng hơn cả.
Sau khi nhân danh hoàng đế Nã Phá Luân đệ tam ký xong với triều đình Tiêm La một hiệp ước chấp thuận cho Pháp được vào tự do buôn bán, giảng đạo, nghiên cứu khoa học, đặt đại diện ngoại giao, mua các bất động sản, De Montigny qua Cao Miên vào tháng 10-1856. Tại đây sứ giả Pháp cũng có một công tác tương tự nhưng bị Tiêm ngăn trở bởi Tiêm vẫn muốn giành độc quyền ảnh hưởng chính trị tại xứ Chùa Tháp (còn nếu Tiêm ký gấp với Pháp chỉ là kéo Pháp về phe mình cho có uy thế để khỏi bị Anh hiếp chế). Bị người Tiêm để ý, quốc vương Miên không dám ra mặt thân Pháp, rồi giám mục Michel chỉ mới thu xếp được một bức thư, trong đó vua Nặc Ông Tôn gửi Napoléon đệ tam xin Pháp che chở nước Mên. Tóm lại, với Cao Mên, De Montigny thâu lượm được gì.
Cuối tháng 10 ông tới Tourane bằng tàu Le Marceau. Đến trước tàu của viên đặc ủy này là chiếc Catinat vào ngày 16-9-1856. Thuyền trưởng của tàu Catinat là Le Lieur nói cho các quan Việt NamTourane biết có một bức thư đệ lên nhà vua do đặc ủy của Pháp mang đến. Và chỉ vài ngày nữa viên đặc ủy sẽ có mặt ở đây. Quan ta tiếp thư và bảo Le Lieur chờ hồi âm. Nhưng bức thư của De Montigny được mở ra coi rồi lại đem trả lại trên bãi biển. Le Lieur liền tuyên bố rằng việc quăng bức thư của nước Pháp trên bãi biển là cả một sự nhục mạ, và như vậy Việt Nam đã tuyên chiến với Pháp. Mấy ngày sau viên thuyền trưởng này thấy quân đội ở các hải đồn có phần hoạt động khác thường liền cho đổ bộ 50 tên lính và bắn vài phát đại bác vào đồn chính của ta. Đội quân đổ bộ của Pháp hạ được cổng đồn, quân ta bỏ chạy và bị bắt khoảng 40 người. Pháp hạ được thành Đà Nẵng, thu được 45 khẩu đại bác và một số thuốc súng rất lớn. Hôm sau quan ta trở lại điều đình, Le Lieur bảo phải đợi viên đặc ủy tới vì ông này mới đủ thẩm quyền nói chuyện với nhà cầm quyền Việt Nam. Nhưng De Montigny không lên Đà Nẵng mà đi thẳng qua Hồng Kông. Đến ngày 23-1-1957 De Montigny mới trở lại. Hai bên nói chuyện, De Montigny đưa ra việc xin tự do buôn bán, đặt lãnh sự ở Huế, đặt một thương điếm ở Tourane và việc truyền giáo. Triều đình Huế đều từ chối hết.
Cuộc thương thuyết thất bại. Trước khi rút lui De Montigny đã để lại cho sứ thần của vua Tự Đức một văn kiện nói rằng ông ta sẽ phải đệ trình với hoàng đế nước Pháp rằng vua Việt Nam đã khước từ ký kết với nước Pháp một hiệp ước trên những căn bản và hình thức đã được các nước văn minh công nhận, và nếu vua Việt Nam cứ giết đạo, cứ ngược đãi người Pháp, nếu nước Pháp phải trừng phạt thì đó là tại triều đình Việt Nam.
Kết quả của những sự lôi thôi trên đây là các việc giết đạo càng mạnh, càng gay gắt hơn bao giờ hết. Khắp trong nước, chỗ nào cũng có những vụ giết giáo dân, đốt nhà giáo dân và giáo đường. Một giám mục Tây Ban Nha là Diaz bị bắt và bị chém vào ngày 20-7-1857 tại Bắc Kỳ. Tin này bay về Paris, các nơi chính quyền nhao nhao lên tiếng, đòi phải đem quân lực sang đối phó thẳng tay với Việt Nam. Giám mục Pellerin và Huc được cử qua Việt Nam xét tình trạng của việc truyền giáo để về trần thuật tỉ mỉ các việc xảy ra. Rồi ngày 4-11-1857 trung tướng Rigault de Genouilly đang coi căn cứ hải quân Pháp ở Viễn Đông được lệnh mở ngay một cuộc thị uy mãnh liệt tại các vùng duyên hải Việt Nam. Nhưng bấy giờ nước Pháp đang đánh nhau với nhà Thanh nên ngày 31-8 năm sau tất cả hạm đội Pháp gồm 14 chiến thuyền và một tàu Tây Ban Nha mới kéo xuống được bờ biển Việt Nam. Ngày 1-9 Pháp gửi tối hậu thư cho các nhà cầm quyền ở Tourane, buộc phải nộp hết cả đồn ải và định giờ cho quan Việt Nam trả lời. Quá thời hạn, Pháp nổi súng, Việt Nam chống lại, nhưng nửa giờ sau bên Việt Nam ngừng bắn. Chỉ hai hôm cửa Đông và cửa Tây thành Đà Nẵng bị Pháp uy hiếp nặng nề, triều đình Huế cử Đào Trí và Trần Hoằng là tổng đốc Nam-Ngãi ra chống cự. Hai ông tới Đà Nẵng thì hai đồn An Hải và Tồn Hải đã thất thủ. Hữu quân Lê Đình Lý làm đô thống ra sau để tiếp ứng cho quân Nam Ngãi với một bộ đội 2000 người. Quân của Lý xô xát kịch liệt với quân Pháp ở Cẩm Lệ. Lý bị đạn được mấy hôm thì chết. Trước sức mạnh của Pháp, triều đình lại cử luôn Nguyễn Tri Phương làm đô thống và Chu Phúc Minh làm đề đốc hợp lại tăng cường cho lực lượng của Đào Trí. Rồi Nguyễn Tri Phương lập đồn Liên Trì, đắp lũy từ Hải Châu đến Phúc Ninh, cố ngăn bước tiến của Pháp-Tây. Rigult de Genouilly thấy quân Việt ở đây dồi dào tinh thần chiến đấu, lại có người cho tin 10000 quân Việt sắp từ Huế kéo vào nên ngừng lại. Và y cũng ngần ngại một phần nữa vì không thuộc đường giao thông từ Đà Nẵng ra Huế về mặt bộ. Bấy giờ là mùa Đông, tiến quân bằng hải đạo thì ngược gió, binh đội lại bị dịch tả. Viên trung tướng này còn thất vọng thêm ở chỗ không thấy có giáo dân nổi lên hưởng ứng nên đã kỳ kèo giám mục Pellerin vì trước đây giám mục đã đoan quyết như vậy. Lúc này giám mục cũng theo quân đội và có mặt trên chiếc tàu Némésis. Giám mục vừa xấu hổ, vừa tức giận nên bỏ về ở nhà tu Pinang tại Mã Lai. Còn Rigault de Genouilly thấy không thể vượt ra Huế được liền chú mục về Nam Kỳ rồi cương quyết để đại tá Toyon ở lại Đà Nẵng. Rigault de Genouilly đã rất thực tế: Nam Kỳ là xứ giàu, nhiều thóc gạo, lại xa chủ lực quân  của  triều  đình  Huế,  đánh  dễ      nhiều  nguồn  lợi. Tháng Giêng năm Kỷ Mùi (1859) lên quân nhổ neo kéo và Nam Kỳ. Kể từ giờ phút này đất nước Đồng Nai lâm vào khói lửa. Còn người thay R. de Genouilly là đô đốc Page, đến Đà Nẵng vào 19-10- 1859. Vào ngày 18 tháng sau Page cho hai pháo thuyền "Némésis" và "Phlégéton" ra khơi lần theo bờ biển bắn phá hết các hải đồn của Việt Nam.Việt quân chống trả ở đây rắt hăng nhưng pháo đội của Pháp-Tây ở các chiến hạm bắn lên đã hủy diệt được mọi cơ cấu bố phòng của Việt Nam. Tuy thắng trận mà Liên quân vẫn rút lui vào ngày 23-3- 1860 để sang tăng cường cho quân đội của hải quân trung tướng Charner đi đánh Tàu (Lúc này liên quân Anh-Pháp đang giao tranh với quân nhà Thanh tại Hoàng Hải).
Page sang Việt Nam với huấn lệnh ký một hòa ước với triều đình Huế, có mục đích xin bãi việc cấm đạo, giết đạo cùng đặt ba lãnh sự quán ở ba hải cảng tại Việt Nam và một đại diện ngoại giao bên nhà vua Tự Đức. Họ không đòi bồi khoản chiến tranh và nhượng đất chi hết cũng như với triều đình Mãn Thanh trước đây (1842-1847); và triều Mãn đã nhận các điều kiện này. Triều đình Huế không tỏ ý kiến nào về vấn đề này, chỉ xin gửi người sang ngoại giao với Pháp đình mà thôi. Pháp cho rằng Việt Nam có ý kéo dài cuộc thương thuyết để cho họ chán rồi họ phải đi. Do đó Page đã đoạn tuyệt cuộc giao thiệp và tiến đánh phía Bắc Tourane. Thiếu tá Dupré-Déroulède bị đạn chết trong trận này trên chiếc tàu Némésis.

3- Việt Nam mất ba tỉnh miền Đông
Ngày 2-2-1859 Rigault de Genouilly đem 2000 quân vào tấn công Nam Kỳ. Ngày 9-2 quân Pháp tới sông Đồng Nai và tàu lớn cũng vào được bến.
Miền Nam Việt khác hẳn miền Trung. Đây là vùng đồng bằng, nhiều sông lớn, sông con chạy ngoằn ngoèo ra biển. Có những chi lưu ăn vào sông Cửu Long, lại có những sông nhỏ nối vào sông Đồng Nai.
Hạm đội của Pháp bắn tan các hải đồn từ Vũng Tàu đến cửa Cần Giờ luôn trong hai ngày 10 và 11-2-1859, rồi ngược dòng sông mà tiến vào Gài Gòn. Các cơ cấu phòng thủ hai bên bờ sông của Việt Nam đều bị phá hủy tan tành. Ngày 15-2 họ tới Nhà Bè trước phòng tuyến phía Nam Sài Gòn và ngay chiều hôm đó họ đã hạ được một đồn binh của Việt Nam trong nhiều đồn binh khác. Ngày 16-2 họ tiến lên Tân Thuận Đông để vào sông Sài Gòn. Ngày 17-2 thiếu tá Jauréguberry, Dupré-Déroulède, đại úy Lacour trên pháo thuyền Avalanche đi thị sát ở tại phía Bắc thành Sài Gòn cách đồn phía Nam 1800 thước (thành này do Olvier dựng lên xưa kia và được xây lại vào năm 1837, một lũy bao bọc bên ngoài dài tới 1475 thước, trong có rừng và vườn cây xum xê, rậm rạp, nhà cửa san sát từ mé bờ sông cạnh Gia Định). Liên quân Pháp-Tây đổ bộ đánh mặt Đông Nam thành này. Ngày 18-2 Pháp pháo kích kịch liệt hơn. Quân Pháp vẫn tiến mặc dầu quân Nam trong thành bắn ra rất dữ dội. Các mặt khác do đại tá Lanzarotte, trung tá Raybaud chỉ huy cũng gây nên một tình thế khẩn trương cho quân Nam. Trọn ngày đầu, quân Pháp chưa rõ lực lượng của Việt Nam nên vừa đánh vừa nghe ngóng. Qua hôm sau, nhờ sự thám xét của Jaureguiberry và sự chỉ dẫn của giáo sĩ Lefèbvre, quân Pháp đã hiểu rõ tình thế thành Gia Định.
Rạng ngày 19-2 Pháp dốc hết lực lượng thủy bộ vào việc đánh thành. Tàu Phlégèton, Primauguel, El, Cano khạc đạn ầm ầm, thành Gia Định đổ dần từng quãng. Quân Phá vượt lũy, ném lựu đạn rồn bắc thang nhảy vào thành. Tổng đốc Võ Duy Ninh đích thân chỉ huy trên thành, hò hét ba quân không ngớt.
Rồi thành bị vỡ, Võ Duy Ninh tự tận. Liên quân Pháp-Tây vào thành lấy được 200 đại bác, 85000 cân thuốc súng, còn binh khí và thóc gạo nhiều vô kể, đốt hàng tháng chưa hết.
Đánh xong Gia Định trung tướng Rigault de Genouilly lại mở cuộc hòa giải nhưng triều đình Huế có ý loanh quanh rồi De Genouilly trở ra đánh Đà Nẵng phen nữa trước khi về Pháp nghỉ. Xét ra, từ Đà Nẵng đến Gia Định hai phen Việt Pháp đánh nhau và hai phen bàn việc giải hòa nhưng triều đình Huế đã bỏ mất cơ hội.
Rồi giữa Trung Quốc và Pháp lại tái chiến. Page được lệnh bỏ Tourane hợp với thủy sư đô đốc Charner để qua Tàu chỉ để một số quân đủ giữ các địa điểm đã chiếm đóng được ở Sài Gòn (700 quân Pháp và vài trăm quân Tây Ban Nha đặt dưới quyền của hải quân đại úy d'Ariès và đại tá Palanca).
Từ tháng 3-1860 đến tháng 2-1861 nhóm quân nhỏ này bị 12.000 quân Nam bao vây. Tướng chỉ huy của Việt Nam bấy giờ là kinh lược sứ Nguyễn Tri Phương. Lúc này Liên quân giữ một chiến tuyến từ Sài Gòn vào Chợ Lớn và 4 đồn giữa hai thị trấn này. Đó là đồn Cây Mai, Tân Kiểng, O Ma và chùa Berber. Đồn phía Nam của họ chỉ có 200 lính mà thôi. Đây là một chiến tuyến đường vòng để liên lạc với các căn cứ, vậy mà bên liên quân cầm cự suốt được một năm.
Trong đêm 3, rạng này 4 tháng 7-1860 quân Nam tấn công ồ ạt vào đồn Tân Kiểng nhưng thất bại và bị đẩy lui.
Ngày 24-10-1860 Trung Quốc và Pháp ký hiệp ước bãi binh thì toàn thể bộ đội của Pháp ở Tàu lại trở về Nam Việt (70 chiến hạm vừa để chuyên chở vừa để chiến đấu, 3500 lính, 17 đội thủy quân lục chiến, hai tiểu đoàn bộ binh, 4 lữ đoàn lính Tàu mộ ở Quảng Đông và Tourane, 12 đại đội thủy quân trọng pháo v.v...).
Ngày 24-1-1861 họ lên đường và ngày 7-2 đến Sài Gòn. Sau mấy ngày nghỉ ngơi và để chỉnh đốn lại hàng ngũ, đô đốc Charner cho đánh chiến tuyến Kỳ Hòa: Lục quân đánh thành phá lũy, thủy quân thì do sông cái, sông con chặn đường rút lui của quân Nam không cho tháo về Biên Hòa.
Cuộc xô xát của hai quân rất là kịch liệt. Pháp mất 300 quân nhưng ta bại, phải rút ra ngoài các vùng đồng ruộng. Họ tung ra một đạo quân lưu động đuổi quân ta tới Trảng Bàng. Pháo thuyền La Dragonne của họ tiến vào Tây Ninh. Sử gia Pháp P. Cultru cho rằng: "Nếu muốn, chắc chắn Liên quân bấy giờ có thể lấy được cả lục tỉnh Nam Việt thuở ấy...".
Sau cuộc đại thắng này, Charner cử trung úy Lespès sang Cao Mên nói cho vua xứ Chùa Tháp hay rằng nước Pháp đã chiếm Nam Kỳ làm thuộc địa và muốn có tình hòa hảo với vương quốc Mên.
Vua Mên gửi một sứ bộ sang chúc mừng Liên quân thắng trận. Đây là lần đầu có cuộc ngoại giao giữa Pháp và Cao Mên.
Rồi Charner xua quân tiến dánh Mỹ Tho. Quân Nam phục kích Liên quân ở nhiều nơi. Charner phải cho đi nghiên cứu các sông ngòi, từ ngày 1 đến 3-4-1861 thiếu tá Bourdais tấn công Mỹ Tho, phá được nhiều đồn ải nhưng rồi viên tướng này bị bắn chết trên pháo hạm số 18. Đại úy Quilo  lên thay và ngày 12-4 đến được Mỹ Tho.
Quân ta lúc này rút cả về phía Bắc Biên Hòa. Bấy giờ Nguyễn Bá Nghi được thay kinh lược sứ Nguyễn Tri Phương bị thương tại đồn Kỳ Hòa (tức Chí Hòa) phải ra Phan Rí dưỡng bịnh. Lúc Mỹ Tho bị chiếm thì Nguyễn Bá Nghi đến Biên Hòa với sứ mạng tiếp tục công cuộc chống Pháp. Thấy quân mình quá sút kém mà quân Pháp lại hùng dũng, có nhiều tàu và súng đồng lợi hại rõ rệt, Nghi liền gửi thư xin giải hòa với đô đốc Charner (không sách nào nói rõ việc nghị hòa này là do mệnh lệnh của ai). Charner nhận lời và đưa ra 12 điều kiện (xem Nam Bộ Chiến Sử, trang 93-94).
Rồi từ vua đến triều thần, hết thảy không tán thành yêu sách của Pháp. Dĩ nhiên đôi bên lại tiếp tục đối phó với nhau bằng súng đạn.
Pháp liền thiết lập các cơ quan hành chánh, buổi đầu do những người Pháp đảm nhiệm, nhưng sau cũng phải dùng người Việt làm các chức phủ, huyện.
Charner về Pháp ngày 29-11-1861. Đô đốc Bonard kế tiếp việc chinh phục và cai trị các vùng chiếm đóng. Vào khoảng đầu năm 1852. Pháp hoàng coi như đã hoàn thành việc chiếm Nam Việt để làm đất đứng ở Viễn Đông. Từ giai đoạn này trở đi họ bắt tay vào việc mở mang thương mại, nông nghiệp và kỹ nghệ ở đây.
Có vài điều đáng chú ý: Trước con mắt người Pháp, nước Việt bấy giờ có một tổ chức xã hội rất dân chủ. Các hương chức bầu ra các chức quyền ở thị trấn (!), công chức và quan lại chỉ thuộc nhà vua mà thôi, nghĩa là không chịu thuộc quyền của quý tộc như ở Âu Châu.
Nước ta cũng không có giai cấp. Quan ta chỉ biết có nhà vua. Họ không theo Pháp nên Pháp không lôi cuốn được họ. Tất nhiên Pháp chỉ còn nước vơ bậy bạ những phần tử lưu manh, vong bản ra làm tay sai cho mình mà thôi. Rồi Pháp phải phàn nàn rằng bọn này chẳng làm nổi việc gì đáng kể vì họ không có uy tín lại dốt nát.

4- Phản ứng của triều đình Huế
Từ tháng 6-1861 đến cuối năm này, chiến tranh lan rộng từ Gò Công, Cần Giuộc, Thủ Dầu Một, Tây Ninh và Trảng Bàng. Vua Tự Đức thông cáo cho nhân dân biết rằng triều đình sẽ thưởng tiền bạc, phẩm tước cho ai giết được giặc Pháp.
Bonard tung ra ba đạo quân đánh Biên Hòa (tháng Chạp 1861 - tháng 1-1862) rồi Biên Hòa và Bà Rịa bị thất thủ. Chiếm đến đâu Pháp đặt người cai trị đến đấy, thâu thuế má (30-1-1862), đặt đường giây thép từ Sài Gòn qua Chợ Lớn, Biên Hòa, Bà Rịa và Vũng Tàu, lập nhà thương, nhà in, nhà thờ, phủ thống đốc. Việc kiến trúc các cơ sở bấy giờ rất là sơ sài. Pháp mộ người Nam ta vào các bộ đội trú phòng (lính khố xanh) để đóng giữ Gò Công, Gò Giao, Cái Bè v.v...
Trong lúc này ông Quản Định phát động phong trào kháng Pháp, lấy Gò Công làm tổng hành dinh. Kháng chiến quân được nhân dân ủng hộ rất mạnh, và một số quan người Việt ở Vĩnh Long cũng dự vào việc kháng chiến nên ngày 20-3-1862 Bonard phải đem 1000 lính và 11 chiếc tàu chiến xuống đánh miền này. Ngày 22 cuộc xung đột diễn ra. Vĩnh Long bị chiếm vào buổi tối và ngày 23 Bonard vào thành.
Tháng 4 có cuộc giao tranh ở Mỹ Tho. Liên quân cũng lấy được tỉnh này dễ dàng. Nhưng  Liên  quân  đang  hoạt  động  tại  Vĩnh  Long,  Mỹ  Tho  thì    Chợ  Lớn  họ  bị  quân kháng chiến đốt phá và có vụ người Tàu giúp việc ở câu lạc bộ hải quân bỏ thuốc độc vào thức ăn của các tướng tá Pháp. Cơ đồ dường như khó khăn, lúng túng thì triều đình Huế yêu cầu thiếu tá Simon đang tuần hành dọc theo Đông Hải tháng 5 năm ấy, báo về súy phủ Sài Gòn rằng Huế muốn mở cuộc điều đình.
Bonard cho Simon trở ra Tourane gặp đại diện Nam triều để đưa điều kiện nghị hòa, hẹn 3 ngày phải điều đình xong và nộp trước 10 vạn quan tiền (1000 000 quan bấy giờ).
Ngày thứ ba, chiếc Hải Bằng có 40 chiếc thuyền nhỏ tháp tùng đi theo tàu Forbin của Pháp vào Sài Gòn đưa sứ bộ do Phan Thanh Giản và quan Binh Bộ Thị Lang Lâm Đức Hiệp cầm đầu. Tàu của ta có 23 khẩu đại bác cở thường đã han rỉ, quân lính ăn mặc rách rưới, lôi thôi đã làm trò cười cho lính Pháp. Nhưng người Pháp đã phải khâm phụ ông Phan Thanh Giản về sự thông minh và cử chỉ chững chạc.
Ngày 5-6-1862 hiệp ước thành hình. Đôi bên cùng thỏa thuận các điều khoản dưới đây:
1) Triều đình Việt Nam nhường ba tỉnh miền Đông cho Pháp (Gia Định, Biên Hòa và Định Tường).
2) Triều đình Việt Nam chịu khoản bồi thường chiến tranh cho Pháp-Tây là 4 triệu quan, phải trả hết trong vòng 10 năm.
3) Pháp-Tây trả lại cho triều đình Việt Nam tỉnh Vĩnh Long khi nào trật tự ở đây được vãn hồi.
Sử gia Cultru đạt câu hỏi ở đây: Tại sao Việt Nam lại chịu nhường tỉnh Gia Định cho Pháp? Nơi này là sinh quán của mẹ vua Tự Đức và là kho thóc của miền Trung.
Rồi sử gia này tự trả lời: "Nam triều đã không còn sức kháng chiến nữa. Lại thêm Bắc Kỳ đang rối loạn do đảng Lê Duy Phụng tự xưng là con cháu nhà Lê. Phụng đã liên lạc với Bonard để xin cộng tác nhưng bấy giờ Bonard chưa nghĩ đến việc thôn tính miền Bắc, bởi Bonard cho rằng miền này sẽ dành cho Tây Ban Nha.
Xét ra nếu Pháp tiếp tay cho Lê Phụng, có thể miền Bắc cũng mất nốt, do đó mà các nhà cầm quyền ở Huế đã vội vã ký với Sài Gòn cho xong, vì hòa với Sài Gòn mới có cơ cứu vãn Bắc Hà, vả chăng giữa hai kẻ địch, Pháp vẫn nguy hiểm hơn".
Quả vậy, yên với Pháp xong, vua Tự Đức liền tung hết quân lực ra Bắc, bắt được Phụng và đem ra lăng trì (là tội phân thây xé xác). Bàn cho kỹ thì vụ loạn Lê Phụng đã giúp cho Pháp rất nhiều vì nó đưa triều đình Huế vào cái thảm cảnh nhà cháy hai đầu, nếu không, chưa dễ gì có cuộc nghị hòa mau lẹ và có lợi cho Pháp như vậy. Nhưng tới nay người ta ngờ rằng biết đâu chẳng có bàn tay sai bí mật của Pháp trong các vụ loạn ở xứ Bắc.
5- Phong trào Nam Kỳ kháng Pháp
Triều đình Việt Nam hòa với Pháp nhưng nhân dân Việt Nam không thể tán thành việc hòa giải này. Đó là ý kiến ông Quản Định (tức Trương Định), người đã chiếm Gò Công và lôi cuốn đồng bào Nam Việt vào cuộc bài Pháp, trước cũng như sau việc nhượng ba tỉnh miền Đông.
Ông Quản Định trước đây chỉ là một võ quan cấp chánh quản, nhưng là con người có khí tiết và có nhiều nhiệt huyết đối với thời cuộc bấy giờ. Sau Hòa Ước 5-6 ông tăng cường quân sự, xây đồn lũy kiên cố hơn nên đô đốc Bonard phải mang toàn lực thủy bộ vây để đánh lấy Gò Công.
Rồi ta với Pháp lại điều đình, nhưng hai bên có chỗ bất đồng: Ta đòi Pháp trả lại ngay Vĩnh Long, nếu không Hòa Ước 5-6 sẽ không thể duyệt y trong một năm. Bonard trả lời không có hạn định thời gian nào cả và Huế phải bắt Quản Định giải giáp gấp mới được trả lại Vĩnh Long. Pháp bấy giờ vừa được thêm viện quân ở Thiên Tân về, cuộc ngoại giao vì đó đi dần đến chỗ tan vỡ. Nguyên do thứ hai: Ngày 2-12-1862 Huế vừa nộp xong một số tiền về bồi khoản chiến tranh cho Pháp thì hôm sau có lời yêu cầu xét lại hòa ước và xin bãi bỏ việc nhượng ba tỉnh miền Đông. Pháp đòi nội một tháng triều đình Huế phải duyệt y hòa ước.
Ngày 16-2 Việt-Pháp lại nói chuyện bằng súng đạn. Sài Gòn, Biên Hòa lại tơi bời trong khói lửa. Các đồn binh của Pháp lại bị quân ta tấn công. Mỹ Tho, Bà Rịa lần lượt cũng xảy ra nhiều cuộc xung đột.
Vào tháng hai năm sau (1863) quân của ông Quản Định bị bao vây ráo riết ở Gò Công. Trong lúc này thì đại úy Tricault, ủy viên ở bộ hải quân ở Pháp sang, mang theo chữ ký của Pháp Hoàng đã duyệt y Hòa Ước 5-6; đồng thời thủy sư đô đốc De la Grandière sang tạm quyền cho Bonard.
Bonard muốn cụ thể hóa thành tích của mình, đòi Huế phải duyệt y ngay Hòa Ước 5- 6 và dọa nếu triều đình do dự sẽ gây loạn ở miền Bắc. Lời hăm dọa này có kết quả.
Rồi ngày 2-4-1863 Bonard kéo một phái bộ ngoại giao gồm cả đại diện Pháp lẫn Tây Ban Nha ra Huế. Ngày 5-4-1863 họ được tiếp đón long trọng ở cửa Hàn. Năm hôm sau sứ bộ ra tới kinh đô (đi bằng võng) và ngày 14-4 hai bên Việt-Pháp làm lễ trao đổi văn kiện.
Ngày 19 Bonard rời Huế về Sài Gòn và ngày 30 tháng ấy ông ta về nghỉ ở Pháp và chết vào năm 1867.
Năm 1863 triều đình Huế lại cử Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ, Nguyễn Khắc Đồng với một đoàn tùy tùng 63 người mang đủ gạo nước vào Sài Gòn để nhờ tàu Pháp qua Paris.
Phái đoàn này đi từ ngày 4-6 và tới Âu Châu vào tháng 9-1863. P. Cultru nói rằng: "Họ đến đất Pháp vừa đúng lúc Pháp đình bắt đầu chán với các cuộc viễn chinh. Dư luận Pháp cho rằng các cuộc viễn chinh chỉ làm hao tổn tiền tài và sinh mạng. Tuy vậy vẫn có một số nhân vật chủ trương lấy đất Nam Việt làm thị trường và thuộc địa. Báo chí Pháp cũng bàn tán xôn xao về vụ phái đoàn Việt qua điều đình để chuộc lại ba tỉnh miền Đông.
Sau một tháng có mặt trên đất Pháp, phái đoàn mới được sự tiếp kiến chính thức. Trong dịp này, Pháp Hoàng đã nói một câu rất dõng dạc: "Nước Pháp rất khoan hồng với mọi quốc gia và sẵn sàng bảo vệ các dân tộc hèn yếu nhưng rất nghiêm khắc với những ai ngăn trở bước đi của nước Pháp". Nhưng viên thông ngôn là ông Aubaret vì không thạo tiếng Việt Nam đã dịch ra "phải biết sợ nước Pháp". Rồi người ta cho phái đoàn hay Pháp đình sẽ trả lời triều đình Huế trong vòng một năm. Tóm lại việc sửa đổi Hòa Ước 1862 có thể nói là vẫn loanh quanh, chưa ngã ngũ bề nào.
Phái đoàn Phan Thanh Giản về nước rồi, chính giới Pháp bàn chỉ nên giữ lấy Sài Gòn, Chợ Lớn và Vũng Tàu cùng một giải đất hẹp theo dọc sông Đồng Nai với sự bảo hộ sáu tỉnh Nam Kỳ, xét rằng  việc trực trị ở đây sẽ gặp nhiều điều phiền toái về mọi mặt. Aubaret là trung úy hải quân của thủy sư đô đốc Bonard, một nhân viên đã dự cuộc đàm phán về Hòa Ước 5-6-1862 đã viết nhiều sách truyện về Nam Việt, đưa ra nhiều ý kiến và đã được chính giới tán thành. Do đó mới có việc lập một chế độ chiếm hữu thâu hẹp. Việc này tuy được chấp thuận nhưng còn giữ bí mật. Rồi Aubaret được cử làm lãnh sự ở Vọng Các   và sẽ là công sứ Pháp ở Huế để đề nghị với vua Tự Đức các dự định do ông ta tạo tác nên.
Tháng Chạp năm 1863 ông Aubaret lên đường. Khi đô đốc De la Grandière được biết việc này, ông ta hết sức phản đối (trước khi đến Nam việt De la Grandière lại là người không tán thành lập thuộc địa ở Nam Kỳ). Theo De la Grandière, dầu nước Pháp thâu hẹp phạm vi chiếm đóng ở xứ này thì việc chi tiêu và sự khó khăn cũng sẽ không giảm đi phần nào.
Chính giới Pháp gồm nhiều quan chức và quân nhân có đầu óc thực dân nhao nhao phản đối dự án sửa đổi Hòa Ước 1862 của Aubaret, cho rằng xứ này giàu có, dân chúng cần cù, thuần thục, việc buôn bán rất phát đạt v.v... Việc phản đối này làm cho Pháp Hoàng xúc động rồi người ta gửi chỉ thị mới cho Aubaret. Năm 1864 ông này đến Sài Gòn. Giới thực dân đã đón tiếp ông một cách lạnh nhạt. Tháng 5 ông tới Huế với dự thảo hòa ước đem theo. Đôi bên mở cuộc đàm phán. Aubaret ký thuận về việc chuộc lại ba tỉnh miền Đông vào ngày 15-7-1864118, nhưng hiệp ước mới phải trình về Pháp đình để lấy sự phê chuẩn của nhà vua.

6- Pháp chiếm nốt ba tỉnh miền Tây
Trong khi Pháp xâm chiếm Nam Kỳ, thấy Cao Mên cũng là một quốc gia lạc hậu, lại còn yếu hèn hơn Việt Nam vừa lấy ngoại giao, chính trị để đặt chế độ bảo hộ ở xứ Chùa Tháp. Pháp cũng mất khá nhiều thì giờ với xứ này vì những vụ lộn xộn trong nội bộ hoàng gia và sự lấn áp của chính quyền Tiêm La. Lại thêm cuộc dấy quân của nhà cách mạng Pu Cam Bo xuất thân ở chốn thiền môn nhưng không đành lòng nhìn "Bạch họa" tràn qua nước mình. Nhưng cuộc quật khởi của Pu Cam Bo chẳng được tổ chức chu đáo và có đủ sức mạnh nên nhà chiến sĩ này nhiều phen phải thất bại, sau bị bọn đồng bào vong bản bắt và giết vào tháng 7-1857 để lấy công với Pháp.
Từ giai đoạn này Pháp được rảnh tay để nghĩ đến chuyện chiếm đoạt nốt ba tỉnh miền Tây của chúng ta. Về phía triều đình Huế đã thấy rõ manh tâm của người da trắng nói chung, của người Pháp nói riêng trên khắp các lãnh thổ Á Châu. Sau khi mất ba tỉnh miền Đông liền chuẩn bị quân sự để đối phó với người Pháp, vì biết rằng họ còn đi xa hơn nữa. Tổng đốc Vĩnh Long Trương Văn Uyển có tờ mật trình người Pháp có thể tiến binh đánh Vĩnh Long, và tương lai của An Giang, Hà Tiên rất là bấp bênh. Bấy giờ là năm 1866, tức là năm Tự Đức 19, đô đốc De la Grandière vừa ở Pháp trở qua, liền phái trung úy hải quân Paulin Vial đến Huế xin sửa lại Hòa Ước 1862 và chiếm lãnh nốt ba tỉnh miền Tây, lấy cớ là miền này rối loạn và quan quân của ta không giữ nổi trật tự.

118 Lúc này Cao Mên vừa ký hiệp ước công nhận chế độ bảo hộ của Pháp (11.8.1863) vừa bí mật ký với Tiêm La để nhường hai tỉnh Angkor và Battambang.

Triều đình Huế yêu cầu súy phủ Sài Gòn chờ đợi đại diện của mình vào thương lượng. De la Grandière thuận theo thì vài tuần sau cụ Phan Thanh Giản đến. Theo P. Cultru, tác giả Histoire de la Cochinchine francaise des (origines à 1883) cụ Phan chỉ nói đến chuyện Pu Cam Bo đang hoạt động ở Hà Tiên không có dính líu đến các quan lại Việt Nam ở Vĩnh Long như để kéo dài và khỏi phải giải quyết việc ba tỉnh miền Tây và điều này sẽ làm cho người Pháp quên đi hay chán nản.
Tháng 2, vào ngày 14 năm 1867 De la Grandière cho trung úy Monet de la Marek ra Huế đòi tiền bồi thường chiến tranh chưa được triều đình ta thanh toán đúng kỳ hẹn. Quan lại của ta từ chối và tuyên bố rõ cả việc không chịu nhượng ba tỉnh miền Tây.
Theo Nam Bộ Chiến Sử trang 161 của Nguyễn Bảo Hóa, bấy giờ tại Pháp đình Nã Phá Luân đệ tam thấy trong các triều thân phái thì chủ hòa, phái thì chủ chiến, lấy làm hoang mang về vấn đề Việt Nam nên đầu năm 1867 nhà vua phái trung tướng De Varannes sang Nam Kỳ điều tra tình hình. Rồi phái đoàn De Varannes về Pháp, sau đó có lệnh xâm lăng ba tỉnh thuộc vùng Hậu Giang của chúng ta.
Lúc này De la Grandière đã sửa soạn xong chiến sự miền Tây (sắp đặt lệnh hành quân, việc bố phòng các vị trí hiện hữu, tuyển mộ người cho bộ máy hành chính mới, lấy lính bản xứ để đưa đến các vùng sắp chiếm đóng v.v...).
Ngày 17 và 18-6 quân Pháp lên đường gồm 1.000 người Âu Châu và 4.000 lính tập. Ngày 20 De la Grandière có mặt trong trận đánh Vĩnh Long119. Hạm đội của Pháp gồm có các pháo thuyền "Mitraille, Bourdais, Alom Frah, Espignole, Glaive, Fanconneau, Hallebarde, Arc" và một đoàn tàu vận tải.
Nhờ có sa mù của buổi sớm mai, đoàn tàu chiến của Pháp tiến đến đậu trước thành Vĩnh Long mà bên ta không hay chi hết. Rồi họ đổ bộ, binh sĩ chĩa súng vào thành. Quá bảy giờ sáng thành bị vây hoàn toàn, ta mới biết!
Bộ tham mưu Pháp phái Legrand de la Liraye đem một tối hậu thư vào thành buộc quan ta phải nhượng Vĩnh Long, An Giang (Châu Đốc) và Hà Tiên. Quá hai giờ sau Pháp sẽ công phá thành.
Cụ Phan cùng án sát Võ Doãn Thanh hết sức lúng túng, xin hội kiến với De la Grandière và xin khoan hạn để hỏi ý kiến triều đình vì biết rằng không thể đối phó nổi bằng quân sự với Pháp.
Nhưng cuộc hội kiến vô kết quả. Hai người trở ra về thì thành đã bị mất. Hôm ấy là ngày 20-6-1867. Giữa lúc tuyệt vọng này, vị kinh lược sứ ba tỉnh miền Tây lại được tin báo: An Giang và Hà Tiên cũng vừa đổi chủ.
Cụ Phan bắt đầu tuyệt thực. Cụ khuyên các con đừng hợp tác với Pháp và mai táng mình ở quê nhà là làng Bảo Thạnh (Bến Tre). Sau 7 ngày cụ vẫn chưa chết, phải uống thuốc độc mới mất. Trước khi đặt chén vào môi, cụ mặc triều phục day mặt về phương Bắc lạy vọng 5 lạy. Ngày tuẫn tiết của cụ là ngày 7-8-1867. Cụ thọ đúng 71 tuổi. Vua

119 Khi ba tỉnh miền Tây lâm vào khói lửa thì quân kháng chiến của Trương Định, Nguyễn Trung Trực và Thủ Khoa Huân đã thất bại.

Tự Đức hay tin, rất giận về việc thất thủ miền Tây, liền cho lột hết chức tước của cụ và đục bỏ tên cụ ở bia tiến sĩ.

7- Những cuộc kháng Pháp ở Nam Kỳ
Giữa khi tình thế Nam Kỳ nghiêng ngửa trước những cuộc xâm lăng như vũ bảo của quân Pháp, mặc dầu điều kiện chiến đấu rất eo hẹp, hoàn cảnh hầu như tuyệt vọng mười phần đến chín, Nam Kỳ vẫn hăng hái trổi dậy.
Tại Biên Hòa, Mỹ Tho, Tân An có Thái Văn Nhíp và ông Quản Sư khởi nghĩa dưới khẩu hiệu "Dân chúng tự vệ". Tại Vĩnh Long, một số quan lại nhóm phong trào "Cần Vương", sau này có Phan Tôn và Phan Liêm là con cụ Phan Thanh Giản gia nhập. Tại Ba Động, Trà Vinh có Nguyễn Xuân Phụng phất cờ "Bình Tây sát tả"; rồi một thời trên khắp lãnh thổ lục tỉnh Nam Kỳ, cuộc cách mạng phản Đế tràn ngập khiến người Pháp tuy binh hùng tướng mạnh, vũ khí lợi hại phải xoay trở cực nhọc vô cùng liên miên tới hai chục năm ròng. Đó là lời thú nhận của Le Myre de Vilers, viên toàn quyền dân chính đầu tiên ở Nam Kỳ.
Về các anh hùng, nghĩa sĩ để lại ngày nay những thành tích oanh liệt trong lịch sử kháng Pháp miền Nam, chúng ta không thể quên ngoài ông Trương Định, tức Quản Định đã nói đến, các ông Nguyễn Trung Trực, Thủ Khoa Huân, Võ Duy Dương, tức Thiên Hộ Dương v.v... Hòa Ước 5-6-1862 thành hình thì nộ khí của đồng bào ở đây bốc ngút trời xanh, mặc đầu triều đình đã chịu chính thức chấm dứt chiến tranh với địch. Lòng ái quốc của nhân dân đã có phen làm lay chuyển cả đám người chủ hòa ở Huế. Do đó có khi triều đình lột chức của ông Trương Định và trái lại cũng có khi ngầm giúp các cuộc khởi nghĩa làm cho súy phủ Sài Gòn bực tức vô cùng.
Ông Nguyễn trung Trực là chiến sĩ cách mạng đồng thời với ông Trương Định chỉ huy nhiều trận du kích, phục kích từ Tân An qua Rạch Giá. Một lần giữa ban ngày, cùng 150 chiến hữu ông bày mưu xông vào đốt chiến thuyền Espérande do trung tướng Parfait điều khiển vào ngày 11-2-1861 tại rạch Vàm Cỏ bên làng Nhật Tảo. Đồng bào miền Nam còn lưu võ công táo bạo này trong hai câu:
Hỏa hồng Nhật tảo oanh thiên địa Kiếm bạc Kiên Giang khấp quỷ thần
Trường chiến đấu của ông đã mở rộng sang cả Thủ Thừa, Thuộc Nhiêu, Bến Lức, Phước Lý, Long Thành, Tân Uyên, liên lạc cả với quân triều, thanh thế vang dậy khiến Pháp phải treo giải để bắt ông. Từ năm 1862 đến 1868 Pháp ráo riết đánh gò Công, Tây Ninh, Bà Rịa, ông yếu thế phải lui về Hòn Chông, Kiên Giang rồi bị bắt. Ông không chịu hàng nên bị tử hình vào ngày 27-10 năm ấy
Ông Thủ Khoa Huân lãnh đạo phong trào "Dân chúng tự vệ" ở nhiều miền Hậu giang như Mỹ Tho, Rạch Gầm, Cai Lậy. Nhiều kẻ Việt gian đã bị ông thẳng tay trừng trị trong những công tác phục vụ ngoại nhân ở các lãnh vực hành chính và quân sự. Tháng 6- 1863, thua trận ở Thuộc Nhiêu (Mỹ Tho), ông chạy qua Châu Đốc, đã có khi triều đình bắt giam do chính sách bất nhất của nhà vua và các đại thần. Ông bị đem nộp cho Pháp. Vào năm 1864 ông phải đày sang đảo Reunion, sau được ân xá. Năm 1875 Pháp hoàn toàn cuộc xâm chiếm Nam Kỳ, ông lại khởi nghĩa lần nữa. Sau bị bắt và bị hành hình ở Cai Lậy vào ngày 15-4 năm Ất Hợi (1875). Nhân sĩ Trung-Nam-Bắc có nhiều thơ chữ Hán ca ngợi chí khí của ông, trong đó có bài dịch của tác giả khuyết danh như sau:
Ruổi dong vó ngựa báo thù chung Binh bại cho nên mạng mới cùng Tiết nghĩa vẫn lưu vùng vũ trụ Hơn thua xá kể với anh hùng Nổi xung mất vía quân Hồ Lỗ
Quyết thác không hàng rạng núi sông Thọ thủy ngày rày pha máu đỏ
Đảo Rồng hiu hắt ngọn thu phong.
Đồng bào Nam Kỳ ngày nay cũng thường nhắc đến ông Võ Duy Dương, tức Lãnh Dương là người khởi nghĩa ở Đồng Tháp Mười. Thấy ông giàu lòng ái quốc, triều đình phong cho ông chức lãnh binh vào ngày 22-7-1865. Ông đã có phen được một số lính Tagals, tức lính Lê Dương và một người Pháp tên là Linguet hâm mộ nghĩa cử của ông mà theo giúp. Ông tấn công binh đội của thủy sư đô đốc Roze ở Cái Bè, Mỹ Trà (Sa Đéc),  Mỹ  Quý,  chọc  thủng  phòng  tuyến  của  Pháp  do  các  tướng  Roubet,  Paris  de  la Bollardière, Passebox thiết lập. Bọn này phải chia quân làm ba đạo đổ bộ vào Đồng Tháp ngày 16-4-1865. Ở đây ông chỉ có 350 binh sĩ mà đánh quân Pháp chết cùng bị thương rất nhiều dưới những trận mưa đạn. Sau ông bị bịnh mà chết, phong trào "Dân chúng tự vệ" cũng mờ theo bóng người nghĩa sĩ.
Ngoài những vị anh hùng hữu danh kể trên còn biết bao nhiêu anh hùng vô danh mà lịch sử ngày nay không tìm ra được dấu vết, chứng tỏ rằng cho tới sau này (1945), cuộc đô hộ của Pháp tuy dài được trên 80 năm, nhưng các chính phủ thực dân đã không hẳn được ăn ngon ngủ kỹ.

Phần 4 - Chương 3 Pháp Quân Đánh Bắc Kỳ
- Francis Garnier ra Hà Nội
- Hòa Ước năm Giáp Tuất (1874)
- Thành Hà Nội bị đánh lần thứ hai
1- Nguyên nhân việc Pháp ra Bắc
Lục tỉnh Nam Kỳ thôn tính xong, nền hành chính đã được sắp đặt đâu vào đấy, việc khai thác nông nghiệp ở xứ này bắt đầu được tiến triển, Pháp liền ngó ra miền Bắc. Kế hoạch của Pháp là lối "tằm ăn lá dâu" chặt tay chân trước ắt cái đầu và cái thân phải tê liệt. Nếu đánh ngay Trung Kỳ không khỏi gây một xúc động lớn cho toàn quốc.
Năm 1886 Thiếu tướng De La Grandière sai Trung tá Doudard De Lagrée và Đại úy Francis Granier cùng mấy người Pháp lần theo sông Cửu Long để tìm đường sang Tàu. Ngày 16-10-1866 họ đã tới biên giới Trung Quốc nhưng tính riêng đường đi trước khi tới nội địa nước Tàu đã thấy có nhiều sự khó khăn, phái đoài thám hiểm này quay ra nghiên cứu tình trạng con sông Nhị Hà, Francis Garnier đã gặp một lái buôn Pháp là Jean Dupuis ở trên đấu Tàu. Họ đồng ý với nhau là đất Bắc có con sông Nhị Hà rất tiện lợi cho việc giao thông với Trung Quốc. Lúc này đảng Thái Bình Thiên Quốc đang hoành hành ở đây. Jean Dupuis được chúa tỉnh Vân Nam đặt mua các đại bác để chống nhau với quân nghịch. Y có dịp giao thiệp với Lưu Vĩnh Phúc là tướng Cờ Đen ở Lao Kay và thấy xuống Yên Báy có đường thủy ra biển dễ dàng nên quyết định dùng con sông Hồng Hà để chở hàng đến Vân Nam, xét con sông Thạch Giang của Tàu có nhiều ghềnh thác chở các đồ nặng vô cùng vất vả khó khăn. Jean Dupuis đến Bắc Kỳ (Quảng Yên) vào ngày 9-11-1872 điều đình với quan ta mở con sông này cho y đi lại buôn bán với Trung Quốc. Y xin chịu nộp thuế lưu thông và thương chính. Trước khi ra Bắc, Jean Dupuis đã được Súy Phủ Sài Gòn thuận giúp cho mọi sự dễ dàng để giao thiệp với các quan của ta và sẽ bảo vệ y để khỏi bị nạn giặc cướp ở đất Bắc. Thống đốc Nam Kỳ bấy giờ là lục quân Thiếu tướng D' Arhaud cho Trung tá hải quân Sénès đem tàu Bourayne ra Bắc Kỳ lên Hải Dương, Hà Nội, Bắc Ninh xem xét. Khâm sai Lê Tuấn yêu cầu Jean Dupuis đợi triều đình quyết định và hứa sẽ trả lời sau. Y đợi không thấy gì liền bỏ lên Hà Nội rồi thuê thuyền chở hàng thẳng đi Vân Nam. Bấy giờ là cuối năm Nhâm Thân (1872), đi với Jean Dupuis có mội lái buôn nữa là Millot. Jean Dupuis giao hàng cho quan Tàu được mọi sự yên ổn rồi lại được mua muối. Y về đến Hà Nội vào tháng tư năm Quý Dậu (1873) đem theo một bọn lính Cờ Vàng đang bị quan ta căm ghét. Millot trở vào Sài Gòn làm báo cáo tình hình Bắc Kỳ cho Súy Phủ. Xin nhắn rằng Bắc Kỳ bấy giờ đã là cả một vấn đề cho các nhà thực dân Pháp nên Súy Phủ Sài Gòn theo dõi việc Jean Dupuis rất có lợi và con sông Hồng Hà rất thuận tiện cho việc giao thương với Tàu, Đô đốc Dupré gửi ngay giấy về cho Bộ Hải quân nói Jean Dupuis đã hai lần ngược Vân Nam bằng con sông Hồng hà của xứ Bắc, con sông này là một lối mới rất tốt để qua Tàu nhưng nếu xứ này lọt vào tay một cường Quốc khác thì nước Pháp khó lòng mà đặt được nền thống trị của mình ở Viễn Đông sau này. Rồi Dupré xin dùng võ lực để tới đóng vùng đồng bằng sông Nhị (Nhị Hà tức là Hồng Hà), nếu gặp sự khó khăn với quan lại Việt Nam...
Lúc này Pháp biết Việt Nam yếu nên mỗi khi bàn đến việc gì, phe quân nhân đều chủ trương dùng sức mạnh, đến bọn lái buôn của họ cũng muốn ỷ vào quân đội để lấn áp ta. Do đó Muối là thứ sản vật cấm bán sang Tàu theo luật lệ của triều đình ta, Dupuis cũng bất chấp. Việc mở con sông Hồng Hà lúc đó cũng chưa có sự định đoạt, Dupuis tuyên bố trắng trợn rằng quan Tàu mua bán với y thì y không cần phải theo luật lệ của nước Nam, bởi nước Nam là chư hầu của Tàu. Quan ta cố nhẫn nại trước sự ương ngạnh của Dupuis, phải mời giám mục Puginier ở Kê Sở Lên can thiệp cho khỏi có sự phiền phức, vì triều đình ta đã có lệnh tránh sự lôi thôi với Pháp. Dẫu sao quan ta vẫn phải bắt hai tên khách Quan Tá Đình và Bành Lợi Ký do Dupuis mang sang Việt Nam, vì bọn này chở Muối và Gạo lên Vân Nam không có sự thỏa thuận của chính quyền. Dupuis trả thù cho bắt Quan huyện Thọ Xương và quan Phòng Thành Hà Nội đem xuống giam dưới tàu. Tóm lại bên ta cố tránh sự bất hòa, Dupuis cố tình gây sự. Sau triều đình sai quan Tham Trí Bộ Binh là Phan Đình Bình làm Khâm Phái ra thu xếp việc này. Ông Nguyễn Tri Phương liền mời Dupuis đến nói chuyện tại hội Quán Quảng Đông cho hay rằng việc giao thiệp giữa nước Pháp và Việt Nam đã minh định trong Hòa Ước năm Giáp Tuất (1862), việc chở Muối và Gạo đi Vân Nam là trái với hòa ước và luật bản quốc. Dupuis không chịu, cãi rằng y chỉ biết theo lệnh quan Tàu là đủ, rồi đứng dậy ra về. Sau triều đình phải giao cho sứ đoàn Nguyễn Tăng Doãn, Lê Tuấn và Nguyễn Văn Tường có nhiệm vụ vào Sài Gòn thương nghị việc ba tỉnh miền Tây, nhân thể yêu cầu Súy Phủ giải quyết việc Dupuis cho yên. Từ lâu Đô Đốc Dupré chỉ mong có cơ hội này, ông ta liền điện về Ba Lê rằng: "Việc Jean Dupuis đã thành công, cần chiếm Bắc Việt để mở đường thông thương sang Tàu.... Không cần viện binh, xin cho tự tiện nếu hỏng việc chịu lỗi."
Dupré lại cho Đại Úy Francis Garnier mang hai pháo thuyền 170 thủy binh và thủy quân lục chiến ra Hà Nội ghé qua Tourane vào ngày 15-10-1973, gửi cho triều đình Huế một bức thư trách cứ về việc dân công giáo bị ngược đãi ở Bắc Kỳ, ngỏ ý rằng Việt Nam không thể đóng cửa sông Hồng Hà là con đường duy nhất để giao thương với các tỉnh miền Hoa Nam và Đại Uý Francis Garnier phải ở lại Hà Nội để giải quyết vụ này cho xong...." Rõ rệt là lời nói của kẻ cả và về phía người Pháp, quân dân đều hiểu vừa đây họ hợp sức với Anh bắt nạt được cả Tàu là thượng quốc đối với Việt Nam thì họ còn ngại gì vua tôi Việt Nam ta nữa.

2- Pháp Quân Đánh Bắc Kỳ Lần Thứ Nhất
Trước khi lên đường để ra Bắc Francis Garnier viết thư về cho người anh ở bên Pháp như sau: "Súy Phủ đã cho tôi tùy thời ứng biến, việc gì hải quân Thiếu tướng cũng cậy ở nơi tôi. Vậy tôi sẽ vì nước Pháp mà cố gắng phen này..." Ngày 5-7-1873, Garnier ra tới Hà Nội liền đưa ra hai bản tuyên cáo: 1) hiệu triệu binh sĩ nên có những tác phong tốt đẹp với dân chúng phải giúp họ, luôn luôn tỏ ra công bằng và nhân hậu. 2) hiệu triệu dân chúng Bắc Kỳ rằng mình được Súy Phủ Nam Kỳ phái ra để xem xét mọi việc lộn xộn ở đây và để giúp đỡ dân Việt Nam, người Pháp muốn trừ các giặc cướp để xứ này được làm ăn yên ổn, thịnh vượng..." Lần đần gặp Nguyễn Tri Phương, y nói: "Tôi được lệnh ra thảo luận cùng ngài những căn bản một hiệp ước thương mại giữa hai nước. Do hiệp ước này chúng ta mở con sông Nhị Hà để làm đường giao thương, điều đó sẽ có lợi nhiều cho quý quốc. Vậy xin ngài cùng tôi thảo luận về thuế thương chính mà việc này sẽ nêu lên". Mặc dù lúc này đã có một đại diện của Triều Đình Huế, ông Phan Đình Bình, Nguyễn Tri Phương trả lời ông còn phải hỏi ý kiến của nhà vua. Thực ra, Nguyễn Tri Phương đã biết rõ thái độ của Pháp nhưng chưa biết xoay trở thế nào. Francis Garnier lại đòi đem quân vào đóng trong thành, quan ta phải nài nỉ mãi y mới chịu ra hạ trại ở Trường Thi. Lúc này, Garnier đã liên lạc được với Dupuis khi vừa tới Hải Dương và bây giờ Dupuis đang ở Kẻ Sặt (thuộc tỉnh Hưng Yên giáp Hải Dương), Garnier cho Dupuis biết chủ trương ra Bắc của mình và tỏ ý trông cậy vào Dupuis để thi hành mọi công tác vì Dupuis thông thạo các vấn đề đất Bắc. Được thư của Garnier, Dupuis đi đón Garnier bằng chiếc tàu Manhao, rồi cùng lên Hà Nội. Trong cuộc đàm thoại của Garnier và quan ta, giám mục Puginier làm thông ngôn. Garnier lờ hẳn việc Dupuis mà chỉ nói mình ra vì chuyện dẹp giặc và mở sự buôn bán cho nước Pháp, Y pha Nho và Tàu. Rồi chiến thuyền của Pháp từ Sài Gòn liên tiếp theo ra. Francis Garnier biết thế nào quan ta cũng chẳng chịu nên bàn với Dupuis việc sửa soạn đánh thành, còn bên ta thì chuẩn bị để ứng phó.
Đầu tháng Mười, F. Garnier viết thư cho ông Nguyễn Tri Phương trách quan Việt Nam đã ngăn trở việc thương mại của Jean Dupuis rồi cho quan Việt Nam biết dù muốn dù không y vẫn sẽ thi hành mệnh lệnh của Súy Phủ Sài Gòn.
Sáng hôm 15-10 năm Quí Dậu (1873) đại bác Pháp đã khạc đạn như mưa vào thành Hà Nội. Ông Nguyễn Tri Phương cùng con là phò mã Nguyễn Lâm lên thành thúc quân giữ Đông và cửa Nam. Hỏa lực của Pháp quá mạnh, chưa nói tới giờ đồng hồ thì phò mã Nguyễn Lâm tử trận. Ông Nguyễn Tri Phương bị thương nặng cùng quan Khâm sai Phan  Đình  Bình  bị  bắt  xuống  tàu.  Ông  Nguyễn  Tri  Phương  uất giận không chịu cho băng bó vết thương lại cương quyết chịu đói mà chết.
Xuất thân là một đại điền, làm quan từ đời Minh Mệnh trải qua ba triều vua, nhà cửa thanh bạch ông Nguyễn Tri Phương thật là một ông quan hết lòng vì nước, vì dân, hy sinh cả toàn gia cho xứ sở thật đáng làm gương sáng cho người đời trước cũng như đời sau vậy.
Còn quân Pháp hạ được thành Hà Nội liền đánh dấn vào các tỉnh Nam Định, Phủ Lý, Ninh Bình, Hải Dương và tuy họ chỉ có một nhóm cỏn con mà đi đến đâu quân dân Việt Nam cũng bỏ chạy tán loạn. Hautefeuille và 7 tên lính hạ được thành Ninh Bình và chỉ trong 20 ngày Pháp hạ được 4 tỉnh Trung Châu Bắc Ký. Cái hào khí của con cháu Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo đánh Tống diệt Nguyên thảm bại đến thế là cùng... mà cũng vì đâu?

3- Hòa Ước Giáp Tuất (15-3-1874)
Nghe tin Thăng Long và bốn tỉnh miền Trung Châu thất thủ vua Tự Đức liền cử ba ông Trần Đình Túc, Nguyễn Trọng Hợp và Trương Gia Hội ra điều đình ở Hà Nội; các ông Lê Tuấn làm Khâm mạng toàn quyền, Nguyễn Văn Tường làm phó vào Sài Gòn thương thuyết về biến cố vừa xảy ra ở Bắc Kỳ. Hoàng Kế Viêm lãnh chức Tiết Chế Quân Vụ để đối phó về mặt quân sự. Viêm được chủ tướng Cờ Đen là Lưu Vĩnh Phúc giúp đỡ trong việc chống Pháp.
Đôi bên Việt Pháp đang thỏa luận thì Francis Garnier được tin quân Cờ Đen đánh ào ạt vào thành Hà Nội do lối ô Cầu Giấy, Francis Garnier đem quân lên ứng chiến. Đại bác của Pháp bắn ra, quân Cờ Đen bị đẩy lui, Francis Garnier với 18 binh sĩ xông lên bị quân phục kích giết chết tại trận.
Tuy vậy, Việt Pháp ở Sài Gòn vẫn tiếp tục thương nghị và ngày 28 tháng Giêng năm Giáp Tuất (15-3-1874 (đôi bên cũng ký một hiệp ước trong đó "nguyên tắc bảo hộ" đã được nêu ra. Đại diện cho vua Tự Đức là Lê Tuấn và Nguyễn Văn Tường. Đại diện cho chính phủ Pháp là Đô Đốc Dupré. Hòa ước gồm 22 khoản, duy có những khoản dưới đây quan trọng hơn cả:
Khoản II. - Quan Thống Lãnh nước Pháp nhận quyền độc lập của Việt Nam từ nay không hệ thuộc nước nào nữa. Nếu nước Nam có giặc dã và cần thì nước Pháp sẵn lòng giúp và không yêu cầu gì.
Khoản III. - Vua Việt Nam phải đoan theo chính lược ngoại giao của nước Pháp. Quan Thống Lãnh lại tặng Vua Việt Nam: 1) Năm chiếc tàu có đủ máy móc và súng đạn. 2) 100 khẩu đại bác, mỗi khẩu có 200 viên đạn. 3) 1.000 khẩu súng trường và 5.000 viên đạn.
Khoản IV. - Quan Thống Lãnh nước Pháp hứa sẽ cho chuyên viên sang dạy lính thủy, lính bộ và các kỹ thuật gia các ngành để chỉ bảo mọi việc cho nước Nam như tổ chức việc thuế má và việc thương chính v.v...
Khoản V. - Vua Việt Nam nhường đứt 6 tỉnh Nam Kỳ cho nước Pháp.
Khoản IX. - Vua Việt Nam phải chấp nhận việc truyền bá đạo Thiên Chúa và việc dân chúng tự do theo đạo.
Khoản XI. - Vua Việt Nam phải mở cửa Thị Nại, Ninh Hải (Hải Phòng), thành Hà Nội và sông Nhị Hà cho việc giao thương của ngoại quốc.
Khoản XIII. - Nước Pháp được quyền đặt các lãnh sự ở các cửa bể và thị Trấn để
ngoại quốc vào buôn bán.
Khoản XV. - Người Pháp hay người ngoại quốc nếu có giấy thông hành của lãnh sự Pháp và chữ của nhà cầm quyền Việt Nam kiểm nhận thì được phép đi viếng các nơi trong nước.
Khoản XVI. - Người nước Pháp và ngoại quốc nếu có sự tranh tụng, thì quyền xét xử thuộc quyền lãnh sự Pháp.
Khoản XX. - Hòa ước này ký xong, thì nước Pháp sẽ đặt một sứ thần ở Huế để thi hành các điều đã giao ước. Nước Việt Nam cũng được đặt một sứ thần tại Ba Lê và Sài Gòn.
Sau việc ký kết này Thiếu Tướng Dupré về Pháp, tạm thay thế ông là Thiếu Tướng Krant. Tháng 6 năm đó hai ông Nguyễn Văn Tường và Nguyễn Tăng Doãn lại có mặt tại Sài Gòn để qui định với Pháp các điều lệ về sự buôn bán ở Việt Nam. Ngày 20 tháng 7 thương ước này được thành tựu.
Lễ phế chuẩn Hòa ước Nhâm Tuất được long trọng cử hành tại Huế vào ngày 13-4- 1875. Ngoài ra ta cũng không nên quên rằng trước khi Huế và Sài Gòn thảo thuận về Hòa ước Nhâm Tuất thì ông Philastre cùng với ông Nguyễn Văn Tường được cử ra Hà Nội để ổn định mọi việc. Philastre tới Cửa Cấm (Hải Phòng) thì được tin Lưu Vĩnh Phúc vừa hạ xong Francis Garnier. Philastre giận quá toan bỏ ra về. Nguyễn Văn Tường khuyên ông ta cứ lên Hải Phòng, Hải Dương để thi hành việc trả các thị Trấn cho Việt Nam, sau đó lên Hà Nội trả nốt mấy thị Trấn vùng Trung Châu rồi điều tra việc Francis Garnier. Ông Tường đã được tiếng có tài ngoại giao, ăn nói giỏi đã làm Philastre nguôi giận bằng một câu: "Hà Nội giết Đại Úy Francis Garnier thì cũng như Đại Úy Francis Garnier giết ông Nguyễn Tri Phương, việc đó xuất ư ngoại ý, bây giờ chúng ta bỏ về chẳng là uổng công lắm sao!" Ông Philastre vốn là người biết điều đành nghe theo rồi lên Hà Nội làm tờ giao ước trả lại các thành cho quan ta, sau đó ông ra lệnh rút quân Pháp xuống Hải Phòng đợi hòa ước ký xong thì về Sài Gòn hết. Bấy giờ là tháng giêng năm Giáp Tuất (1874) năm Tự Đức thứ 27. Được tin ông Philastre công cán xong, Súy Phủ Sài Gòn cử ông Rheinard ra thay để ông Philastre cùng ông Nguyễn Văn Tường vào Nam Kỳ định các điều ký kết về Hòa ước Nhâm Tuất để tướng Dupré kịp hồi hương.

4- Thành Hà Nội Bị Hạ Lần Thứ Hai
Sau 10 năm mắc míu vào chiến tranh với Phổ, Pháp mới được rảnh trí để nghĩ đến vấn đề Việt Nam. Chủ trương của Pháp, dĩ nhiên sớm muộn cũng phải chiếm hết nước này cho kỳ được. Nhưng Pháp đình ở xa ít am hiểu tình thế, nên tuy thường nhận được báo cáo của phái quân nhân thực dân, các quyết định của Thượng, Hạ nghị viên vẫn có nhiều dè dặt. Đến Súy Phủ Sài Gòn có mặt ở đây đã 20 năm rất rõ nội tình Á Châu nói chung và Tàu cùng Việt Nam nói riêng, cũng nhiều khi lúng túng, rồi khi thì Pháp đình do dự, khi Súy Phủ Sài Gòn ngần ngại, luôn luôn kẻ không người muốn còn các quân nhân thực dân (F. Garnier, H. Rivière v.v...) thì lại quá ham việc xâm chiếm nước này. Sự thực những tướng lãnh vẫn có lý bởi tình trạng nước ta bây giờ quá hèn kém, chính quyền với một ông vua chỉ ham ngâm vịnh, đám nho thần hủ bại chẳng biết tính trước, lo sau, quyền biến chậm chạp lúng túng như cho tay vào bị thì đuổi sao kịp sự tiến triển của thời cuộc.
Vì những điều sở đoản đó cuộc bại vong của Việt Nam đến ngày càng gấp, đáng lẽ trong thời gian 10 năm chiến trang Pháp Phổ khai diễn, triều đình ta phải có người tài định ra kế phù nguy cứu khổ thì chưa dễ hòa ước Patenôtre (ký năm 1884) đã ra đời. Xin kể sơ ra đây những điều vụng về và bất lực của mấy triều vua đời Nguyễn Sơ nhất là triều Tự Đức:
1) Việc cấm đạo, giết đạo trên quan điểm của Việt Nam là một việc hợp lý, nhưng không hợp thời, nên đã giúp cho Pháp một duyên cớ dùng võ lực can thiệp vào nội tình Việt Nam.
2) Ỷ lại vào Trung Quốc mà không rõ thực lực của họ đang suy bại, vẫn cứ tiếp tục cuộc bang giao với Tàu, xin Tàu mang quân sang dẹp giặc hộ (1878-1879) là trái với chiến lược ngoại giao đã thừa nhận với Pháp. Đây cũng là cớ để cho Pháp thôn tính nốt những phần đất còn lại của Việt Nam, đành rằng nếu chẳng có cớ này Pháp vẫn có cớ khác.
3) Có thái độ khuyến khích hay xúi giục quân Cờ Đen nhục mạ các đại diện Pháp ở Bắc Kỳ và ngăn trở hai người Pháp là Courtin và Villeroi có giấy thông hành của quan Việt Nam lên buôn bán với Vân Nam bị Cờ Đen chận lại ở Lao Kay.
4) Triều đình Huế có cử chỉ khiếm nhã với Khâm sứ Rheinard khiến ông này phải bỏ vào Sài Gòn.
Do các việc kể trên và các sự lôi thôi xảy ra gần nhất, Thống Đốc Le Myre De Vilers đã gửi công điệp ra Huế khiếu nại với vua Tự Đức, đã nêu các sự kiện này làm lý do việc xuất quân ra Bắc để "bênh vực quyền lợi của người Pháp".
Người mang mệnh lệnh của Sài Gòn chuyến này là Đại Tá hải quân H. Rivière. Trước khi lên đường H. Rivière được căn dặn như sau: "Biện pháp mở rộng và củng cố ảnh hưởng của chúng ta ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ là biện pháp chính trị và ôn hòa. Việc ta sắp làm chỉ là để đề phòng mà thôi. Dùng võ lực chỉ khi nào cần thiết hết sức...".
Ngày 26 tháng 3 Năm 1882, Henri Rivière rời bến Sài Gòn với hai chiến hạm Drac và Perseval, hai đội thủy và lục quân, một tiểu đội pháo thủ và một toán lính tập người Việt. Tổng số có độ 800 binh.
Chiều ngày mồng 2 tháng 4 dương lịch, Henri Rivière đến Hà Nội xuống đóng tại Đồn Thủy. Ở đây, Berthe De Vilers đã có hai đội lục quân rồi. Ngày 4, Henri Rivière vào thăm Tổng Đốc Hoàng Diệu. Ông Diệu cho Tuần Phủ Hoàng Hữu Xứng đón tiếp rất lịch sự, nhưng dù khéo léo đến đâu, khi một trong hai bên đã có hậu ý thì không làm sao tránh được sự xung đột, Tuần Phủ Hoàng Hữu Xứng hỏi vì cớ gì mà quân Pháp ra Hà Nội? Henri Rivière trả lời vì Pháp muốn bảo vệ tính mệnh và cuộc kinh doanh của người Pháp do quân Cờ Đen đe dọa và ngăn trở. Sau đó, quân lính Pháp hằng ngày nghênh ngang ra các phố phường gần như để khiêu khích và phao đồn sẽ vào đóng trong thành.
Thấy tình thế có vẻ đáng ngại, Hoàng Diệu liền cho mời quan Tiết chế quân vụ Hoàng Kế Viêm và Lưu Vĩnh Phúc ở Sơn Tây về đóng gần phủ Hoài Đức. Cánh quân này có độ 1.000 người, trong thành có 2.000 quân và 100 tướng tá. Kể về lượng thì Việt Nam hơn Pháp nhưng chiến cụ thô sơ, quân lính lại kém phần tinh nhuệ. Về phía quân Pháp, họ cũng sửa soạn tấn công.
Ngày 17 tháng Tư Dương Lịch, Henri Rivière báo tin cho Ba Lê biết sẽ hạ thành Hà Nội. Việc chiếm Sơn Tây, Bắc Ninh, Nam Định cũng đã chuẩn bị. Ông ra lệnh cho đội thủy quân ở Hài Phòng và ngoài vịnh Hạ Long kéo lên, gồm có các chiến hạm Hamelin, Drac và Perseval trên có 14 khẩu đại bác và 390 ngưòi, các tuần giang hạm Fanfare, Massue, Carabine trên có hai đại bác và ngót 30 người ở mỗi chiếc.
Năm giờ sáng ngày mồng 8 tháng 3 Nhâm Ngọ viên thông ngôn của Đại tá Henri Rivière là tên là Phong được lệnh đem tối hậu thư cho Tổng Đốc Hoàng Diệu. Bức tối hậu thư này do Phong dịch ra, Hán Văn từ hôm trước, trong đó có 3 điều như sau:
1) Phải nộp thành cho quân Pháp.
2) Các quan Việt Nam phải tới nộp mình tại lãnh sự quân Pháp.
3) Việc cai trị sẽ không thay đổi.
Nếu không tuân, đúng 8 giờ sáng quân Pháp sẽ đánh thành.
Thật là những điều kiện quá ngặt nghèo và khắt khe. Henri Rivière cũng như nhiều quân nhân khác còn lạ gì những người đại diện triều đình Huế sẽ từ chối việc thi hành ý muốn của hắn. Trước đây ngoài 20 năm, khi mất thành, Phan Thanh Giản đã uống thuốc độc tự sát (mất lục tỉnh và nột thành Sài Gòn cho Pháp). Mười năm qua, Tổng Đốc Nguyễn Tri Phương thua Francis Garnier tại Thăng Long cũng quyết tâm không ham sống. Giờ đây cũng một nhân vật đường đường đại diện cho triều đình, biểu dương cho liêm sỉ, cho giá trị của dân tộc đâu có thể nộp đất, dâng thành cho địch như vậy.
Tôn Thất Bá xin với Hoàng Diệu cho ra ngoài để điều đình với giặc lấy thêm một ngày nữa. Trong thành dòng thang dây xuống góc trông ra phía cửa Bắc (chỗ sở cảnh sát Hàng Đậu bây giờ) cho Bá xuống, lúc ấy đã 7 giờ. Việc xin điều đình này chỉ tỏ rằng về bên Việt Nam ta không muốn có chiến tranh và muốn lập một cuộc thương thuyết giữa triều đình Huế, và Súy Phủ Sài Gòn vì không thể làm gì hơn. Sau này Hà Thành thất thủ, Tôn Thất Bá có nhiều hành vi minh chứng rằng y xin ra ngoài với Henri Rivière chỉ là một gian kế để thông đồng với địch, quả nhiên sau đó y được nhận quyền lãnh mọi việc.
Giờ khói lửa đến.
Theo kế hoạch của Thiếu Tá Chanu, việc đánh thành đã do hai đạo quân, một đánh vào cửa Đông, một đánh vào cửa Bắc.
Đúng 8 giờ, đội thủy quân Retrouvey tiến vào cửa Đông. Khi gần tới thì ngưng lại để nã đại bác số 12 vào thành. Đồng thời ở ngoài sông 3 tàu chiến cũng cho đại bác khạc đạn vào thành liên tiếp nhằm phá cửa Bắc và pháo đài góc Tây Bắc. Hai phát trúng vào thành nhưng không chuyển được phần nào.
Quân trong thành cũng bắn ra ráo riết. Quân đội Retrouvey đánh cửa Đông cũng không ngoài ý phân tán lực tượng của Việt quân tức là để Việt quân phải cố sức chống đỡ về mặt này cho đội quân khác của Pháp tù phía Đồn Thủy tiến qua Yên Phụ đến công phá cửa Bắc.
Đội pháo thủ của Trung Úy Deviternes cũng chiếm được một chỗ đất cao, cách thành chừng 800 thước, đại bác cũng nhằm mé cửa Bắc và pháo đài góc Tây Bắc. Đạo quân này có 200 người gồm 100 tay súng trường, 50 thủy binh và 50 bộ binh dùng súng lục cùng thang tre. Sau đoàn này là một đội khác có 100 bộ binh và một đoàn pháo thủ. Hậu quân là 40 thủy binh do Thiếu Úy Fiashi điều động cùng tiến với Henri Rivière.
Ngoài pháo đài và mé cửa Bắc bị tấn công dữ dội, các dinh trại và kho tàng, nhà đạn cũng là mục tiêu cho quân Pháp do đại bác số 4 bắn vào không ngớt.
Xét ra thì một giải đất ngót 500 thước về mạn thành này đã do các đạo binh đánh vào 3 nơi kể trên vừa hải, vừa lục quân gồm theo các toán ngụy binh do người Pháp vừa mộ ở đây.
Cuộc giao tranh rất là đều nhịp: trong bắn ra, ngoài bắn vào liên tiếp. Những lớp nhà lá ở ngoại thành bị đạn cháy ngất trời, mỗi lúc một thêm to, tàn lửa bay lung tung. Quân Pháp phải luôn luôn đổi chỗ, kéo đại bác đi rất là vất vả.
Viên Chánh Suất đội hùng nhuệ đang thúc quân ứng chiến rất hăng thì bị trúng đạn ngã gục. Bố Chánh tuyên bố bỏ chạy vào kho thuốc súng thì vừa đúng lúc đại bác của Pháp thủ Deviternes bắn trúng. Lửa bốc cháy rừng rực, tiếng nổ inh tai, khói tỏa mịt mù. Lửa cháy mạnh quá đến nỗi những dãy nhà cách thành vài trăm thước cũng bị lửa lan tới.
9 giờ 15! Tình thế Việt quân đã có vẻ nguy ngập. Nhà kho, dinh trại nhiều nơi bị cháy do một số quân nội phản. Tin dữ cáo cấp Hoàng Diệu không sờn lòng, truyền lấy thêm quân và đạn dược lên cửa Bắc. Tiếc thay đại bác của ta không di chuyển được, phần bắn không có cách thay đổi gần xa nên hầu như vô dụng, do chỗ địch quân biết tiến thoái.
10 giờ 15! Quân Pháp toan thôi bắn nhưng Việt quân vẫn hăng lên Henri Rivière lại ra lệnh bắn phá kịch liệt. Đạn nhỏ, đạn lớn bắn như mưa trong nửa giờ dồn dập vào các kho tàng, doanh trại. Thỉnh thoảng có những tiếng nổ vang trời dậy đất, lửa bốc đùng đùng, tro tàn tung tóe khắp nơi.
Ở cửa Đông, thấy thế nguy, Đề Đốc Lê Trinh bỏ chạy, lãnh binh Lê Trực ở cửa Tây cũng rút. Thế là hai mặt bị tan vỡ cả. Ở cửa Nam, Thủy Sư lãnh binh Nguyễn Đình Đường còn cố chống giữ. Chỉ còn ở cửa Bắc do Hoàng Diệu và phó lãnh binh Hồ Văn Phong đốc chiến là còn mạnh.
10 giờ 45, đại bác của Pháp chợt im tiếng. Quân Pháp thay chiến lược. Họ xoay sang thế đánh giáp lá cà. Đại Úy Martin dùng mìn phá thành (cửa Bắc). Những tiếng nổ dữ dội ghê gớm phát ra, nhưng thành vẫn trơ trơ như đem cả cái kỳ công từ đầu triều Lý với sức cần cù của dân tộc Việt Nam non nghìn năm ra để đối phó với mọi phũ phàng của tình thế.
Rồi tại góc Tây Bắc, quân Pháp nhờ có thang tre trèo vào được, rầm rầm kéo xuống. Tiếng hò hét như long trời, lở đất, tiếng gươm dao lưỡi lê đụng chạm nhau nghe lạnh cả người. Cuộc hỗn chiến vô cùng ác liệt. Quân Việt vừa đánh vừa tháo trước những làn khói tỏa và trận mưa đạn.
Đại cục trông thấy đổ vỡ rõ ràng về phía ta.
Hoàng Diệu khi đó đầu đội khăn xanh, mình mặc áo the thâm, thắt lưng nhiễu điều buộc múi bên sườn, cùng 10 viên võ cử rút về phía Hành cung trong đám tàn quân.
Khi đến nơi, ông truyền: "Ai muốn về Kinh thì về, còn ai muốn đánh nữa thì lên Sơn Tây hợp với Hoàng Kế Viêm!"
Mọi người giải tán, ông cắn ngón tay chảy máu, viết trên mảnh lụa trắng mấy lời di biểu tạ tội cùng triều đình: "Thành mất không sao chịu được, thật hổ với nhân sĩ Bắc thành lúc sinh tiền. Thân chết có quản gì, nguyện xin theo Nguyễn Tri Phương xuống đất. Quân tướng muôn dặm, huyết lệ đôi hàng..."
Rồi ông trút bỏ khăn đội đầu, tròng vào cành đa trước miếu Quan Công mà tuẫn tiết.
H. Rivière hạ xong thành Hà Nội. Triều đình ta rất xúc động hạ lệnh cho hai quan Kinh Lược Chánh, phó sứ Nguyễn Chính và Bùi Ân Niên (tức Bùi Dị) cùng tướng Hoàng Kế Viêm rút quân ra Mỹ Đức. Việc đánh lúc này là bất đắc dĩ vì triều đình biết Pháp mạnh nên cho cầu hòa trước đã.
Đây là điều kiện của H. Rivière đã đưa ra cho đại diện của ta là Trần Đình Túc và Nguyễn Hữu Độ:
1) Pháp trả thành Thăng Long nhưng vẫn đóng ở Hành Cung.
2) Nước Nam phải nhận quyền bảo hộ của nước Pháp.
3) Nước Nam phải nhường Thị Trấn Hà Nội cho nước Pháp.
4) Pháp được quyền đặt Thương Chánh ở Bắc Kỳ sửa đổi lại các thể lệ, và tổ chức lại cơ sở Thương Chánh đã sẵn có và bổ người quản trị.
Các điều kiện này đều bị bác bỏ, vì bên ta còn đặt nhiều hy vọng vào Lưu Vĩnh Phúc để đối phó với Pháp: hơn thế nữa vua Tự Đức còn cho ông Phạm Thận Duật sang xin Thiên Tân can thiệp, không nhớ rằng từ 40 năm qua nước Tàu sau Nha phiến chiến tranh bị liệt cường chia xẻ đất đai, như vậy Tàu cứu mình còn chẳng nổi thì làm sao giúp ta được nữa, nhưng người Tàu vẫn có nhiều tham vọng thực dân. Nguyên sau khi Hà thành thất thủ được ta cần đến, Tổng Đốc Lưỡng Quảng là Trương Thụ Thanh đã đệ lên Thanh Đình tờ biểu lập lại đúng luận điệu của Tôn Sĩ Nghị xưa kia là nhân sự suy kém của nước Nam nên đem quân sang Thượng Du đợi khi có biến chiếm lấy các tỉnh miền Bắc sông Hồng Hà... Sau đó, Đường Cảnh Tùng, Từ Diên Húc và Tạ Kinh Bửu mang binh sang đóng ở Bắc Ninh và Tây Sơn.
Chủ trương của Pháp lúc này vẫn là khủng bố mạnh rồi đổi điều kiện để tiến dần tới chỗ lấy đứt nước Việt cho ít hại tiền tài và sinh mạng, vì vậy H.Rivière lấy xong thành Hà Nội thì ngưng lại không đánh nữa.
Henri Rivière đình chỉ chiến tranh được ngót một năm tại Bắc Kỳ, nhưng biết rằng quân Tàu vẫn can thiệp vào việc Việt Nam tất nhiên sẽ có nhiều sự khó khăn nên xin Pháp Đình tăng thêm quân số. Sau Sài Gòn được lệnh Ba Lê gửi thêm 750 người nữa cộng vào 400 lính bản bộ đã ra Hà Nội cùng với y hồi năm trước. Có thêm lực lượng lại được tin triều đình Huế nhường việc khai thác mỏ than Hòn Gay cho Tàu, nhưng Tàu không đủ kỹ thuật gia và tài lực, nên định nhường lại cho một công ty Anh. H. Rivière sợ mất quyền lợi cho Pháp liền vội kéo binh xuống chiếm ngay Hòn Gay vào ngày 12-3- 1883 không cần chờ lệnh của chính phủ.
Đánh chiếm xong Hòn Gay, H. Rivière được bọn Việt Gian báo hay cho rằng Tổng Đốc Nam Định đang huy động từ 15 đến 20 ngàn binh vào vây đường tiếp tế của mình qua Hải Phòng, liền cho Đại Úy Berthe De Vilers đánh thành Nam Định vào ngày 28-2 năm Quí Mùi (tức là 27-3-1883).
Quân ta cầm cự không được quá nửa ngày. Tổng Đốc Vũ Trọng Bình bỏ chạy, Đề Đốc Lê Văn Điếm tử trận, Át-sát-sứ Hồ Bá Ôn bị thương. Nhưng về phía Hà Nội, được sự cộng tác của quân Tàu, Tổng Đốc Bắc Ninh là Trương Quan Đản và phó Kinh lược Bùi Ân Niên đem quân đóng ở Gia Lâm tính tấn công nơi thủ phủ này. Hoàng Kế Viêm cử Lưu Vĩnh Phúc đánh phủ Hoài Đức trở lên theo kế hoạch uy hiếp Pháp cả hai mặt. Henri Rivière đem 500 quân tiến ra mạn Cầu Giấy bị quân Cờ Đen phục kích. H. Rivière đã tiêu ma sự nghiệp làm tướng ở đây cũng nhu Francis Garnier mười năm trước. Còn Berthe De Vilers thì bị trọng thương. Thảm sử này của quân đội viễn chinh Pháp được ghi vào ngày 13-4 năm Quí Mùi (tức là 19-5-1883). Lúc này bên Pháp, nội các Jules Ferry vừa lên cầm quyền, Hạ nghị viện còn đang do dự về việc chiếm đánh Bắc Kỳ khi được tin H. Rivière tử trận liền quyết định ra 5 triệu rưỡi phật lăng làm binh phí và cử một văn quan sang làm toàn quyền, rồi điện cho lục quân Thiếu Tướng Bonet và Hải quân thiếu Tướng Courbet đem lực lượng thủy bộ ra Bắc Kỳ tiếp ứng. Trong dịp này ông Hamanrd sứ thần Pháp ở Vọng Các được sang làm toàn quyền bên Nam Kỳ. Lãnh chức xong ông theo quân đội ra Bắc.
Ngày mùng 3 tháng 5 viện quân Pháp tới Hà Nội. Họ liên lạc với Georges Vlavianos, một kẻ tùy tùng của J. Dupuis để tuyển mộ quân Cờ Vàng làm tiền quân, sửa sang lại thành lũy ở Hà Nội và Nam Định. Cuộc tấn công của ta vào khu tam giác Hà Nội, Nam Định, Hải Phòng không có kết quả. Mà có thể nào đánh nổi được quân Pháp khi việc tuyển mộ quân lính trong giai đoạn này rất là vội vã, kém tổ chức nhất là thiếu huấn luyện. Vì thế mà vừa nghe thấy hỏa lực của Pháp đã xô nhau mà chạy. Ngoài ra tiếng súng đã nổ giữa hai bên, vai trò đại diện ngoại giao của Pháp, Việt ta trở nên vô ích, do đó mà lãnh sự của ta ở Sài Gòn là Nguyễn Thành Ý bị đuổi về trong khi vua Dực Tông qua đời và chính tình đang rối ren nhất.
5- Sự Phối Lập Ở Huế
Vua Dực Tông mất ngày 16-6 năm Quí Mùi (1883) việc tôn lập có sự bất đồng giữa các đại thần. Nguyên vua Tự Đức không có con nên đem cháu gọi bằng Bác làm kế vị, tức là vua Dực Đức lúc đó là Thụy Quốc Công. Theo di chiếu của vua Tự Đức thì triều đình phải lập Thụy Quốc Công, nhưng vua Dực Đức ở ngôi được ba ngày thì bị ông Tôn
Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường phế lập và đem giam vào Trấn Phủ (một nhà lao đặc biệt của nhà vua), vì không được tiếp tế lương thực gì cả nên bảy ngày sau Ngài mất (6-10-1883). Ông Thuyết và Tường liền đem ông Hoàng Út, em của vua Tự Đức là Lạng Quốc Công húy là Hồng Dật lên ngôi, lấy hiệu là Hiệp Hòa.
Vua Hiệp Hòa cũng không tồn tại được lâu sau phải uống thuốc độc mà chết.
Nguyên nhân nhà vua thấy thế lực của Pháp đã tràn khắp từ Nam ra Bắc, đại cục ở trong tay họ rồi, nên đã bí mật giao thiệp với Pháp để giữ vững địa vị, có lẽ ngài quan niệm rằng chống Pháp chỉ có hại mà thôi, một phần triều thần cũng nghĩ như vậy và một phần trái lại, nhất định chống Pháp để bảo vệ chủ quyền. Hai ông Tường và Thuyết đứng đầu phe dưới đây. Một cuộc phân tranh đã ngấm ngầm phát xuất trong hàng ngũ phong kiến, rồi bọn ông Thuyết bắt được tang chứng về sự phản bội của vua Hiệp Hòa là một bức thư của nhà vua gởi cho Khâm Sứ Pháp do Hồng Sâm con của Tuy Lý  Vương  mang  đi.  Họ  bắt  vua  Hiệp  Hòa  chịu  tam  ban  triều  điển120    chém  ngay Hường Sơn 30-11-1883. Theo số phận vua Hiệp Hòa và Hồng Sâm là Trần Tiễn Thành cũng ở trong hàng ba quan Phụ Chính, vì ông không tán thành chính kiến của Tường và Thuyết. Phe chủ hòa gần như mất tinh thần và bị tiêu diệt dần, còn phe chủ chiến đặt ông Dưỡng Thiện (con nuôi thứ ba của vua Tự Đức) bấy giờ mới 15 tuổi lên ngôi tức là vua Kiến Phúc121.
6- Hòa Ước Năm Qúi Mùi (1883)
Từ ngày 12 tháng 7 (Quí Mùi 1883) đến ngày 17 tháng Pháp chia quân đánh khắp nơi từ Trung ra Bắc. Quân Pháp thắng quân Cờ Đen ở làng Vòng (Phú Hoài) và Hải Dương đồng thời toàn quyền Harmand ra lệnh cho thủy quân tấn công vào cửa Thuận An. Các tướng trấn thành và chỉ huy quân đội thủy bộ của ta Lê Sĩ, Lê Chuẩn, Lâm Hoằng, Trần Thúc Nhẫn vị tử trận hoặc nhảy xuống sông tự tử. Triều đình chỉ còn một cách là hạ lệnh cho các quan ta giải binh và xin ký thêm một hòa ước nữa: tức là hòa ước ngày 23 tháng 7 năm Quí Mùi (1883) ký kết giữa toàn quyền Harmand, Khâm sứ Champeaux, Trần Đình Túc và Nguyễn Trọng Hiệp. Hòa ước này có 37 khoản, đáng chú ý là những khoản sau đây:
Khoản thứ Nhất: Nước Nam chịu quyền bảo hộ của Pháp, việc ngoại giao của Việt Nam phải để Pháp chủ trương.
Khoản thứ Hai: Tỉnh Bình Thuận sát nhập vào Nam Việt.
Khoảng Thứ Ba: Quân Pháp đóng ở Đèo Ngang và cửa Thuận An.
120 Tam ban triều điển là thứ hình phạt buội tội nhân phải chịu uống thuốc độc hoặc thắt cổ hay tự đâm cổ. Vua Hiệp Hòa phải uống thuốc độc mà chết vào ngày 30-11-1883.
121 Vua Kiến Phúc tức là ông Hoàng Ưng Đăng được tôn lập ngày 7-10 năm Quí Mùi (1883). Theo dư luận ở Huế nhà vua bị đầu độc do tay bà học phi và Nguyễn Văn Tường. Hai người này tư thông với nhau. Nhà vua biết được đang định sẽ trừng trị việc thông gian thì Tường ra tay trước. Cái chết của vua Kiến Phúc như vậy không phải là vì chính trị.
Khoản thứ Sáu: Từ tỉnh Khánh Hòa ra đến Đèo Ngang quyền cai trị thuộc về triều đình.
Còn những khoản sau nói Khâm sứ ở Huế có quyền ra vào yết kiến nhà vua. Từ Đèo Ngang trở ra Bắc Việt, Pháp đặt công sứ để kiểm soát công việc của các quan ta nhưng không dự vào các việc hành chính. Hòa ước này ký xong. Pháp rảnh tay về phía Việt Nam chỉ còn phải giải quyết với quân đội Tàu.
Sau khi ký xong hòa ước Qúi Mùi (1883) triều đình Huế cử Khâm sai đại thần Trần Văn Chuẩn và Lai Bộ Tham Tri Hồng Phi ra Bắc Kỳ với toàn quyền Harmand để thi hành lệnh bãi chiến nhưng quan quân của ta ở đây có nhiều người không chịu, vì vậy việc chiến tranh vẫn tiếp tục. Cầm đầu lực lượng kháng chiến ở Bắc Kỳ với một tấm lòng sắt đá bấy giờ là Hoàng Kế Viêm đang giữ mạn Sơn Tây, Trương Quan Đản giữ Bắc Ninh tức là hai bên tả hữu ngạn sông Hồng Hà.
Chủ trương của Pháp chuyến này là Bình Định toàn cõi Bắc Kỳ để thực hiện cuộc bảo hộ cho kỳ được. Hạ nghị viên đã bỏ thăm chấp thuận 17 triệu quan, ngày 18-12-1883 lại cấp thêm 3 triệu nữa cho quân đội viễn chinh đặt dưới quyền Đô Đốc Courbet. Tổng tư lệnh quân đội thủy lực, thêm với ba ngàn sáu trăm binh sĩ đổ bộ lên đất Bắc vào hạ tuần tháng 11-1883.
Lần này mũi dùi của Pháp nhắm vào Sơn Tây vì ở đây có chủ lực quân của Việt Nam do hai đại tướng Hoàng Kế Viêm và Lưu Vĩnh Phúc điều khiển. Quân Pháp chia ra hai đạo: Tướng Bichot dẫn thủy quân từ sông Hồng Hà tiến lên tới cửa sông Đáy Tướng Belin đem lục quân do Hà Nội xuất phát tới Sơn Tây. Quân ta mai phục ở Phú Sá từ hai hôm trước. Ngày 14-12 hai bên gặp nhau, xô xát kịch liệt. Qua ngày 15-12 phòng tuyến thứ nhất của ta bị chọc thủng. Rồi quân Pháp vây thành Sơn Tây. Pháp không cho quân nghỉ. Một trận long trời lở đất và rất kinh khủng đã diễn ra, như chưa bao giờ đã xảy đến như vậy trong lịch sử chiến tranh Việt Pháp trên đất Bắc: Chiến sự khởi từ chiều 16-12. Quân Trung Hoa tích cực chiến đấu. Pháp nhờ có hỏa lực rất mạnh phá được vòng thành ngoài nhưng binh sĩ mệt nhoài, tối đến phải ngừng lại.
Quân ta và Trung Hoa thấy khó giữ nổi thành liền nhân đêm tối rút hết ra phía Đông Nam, sáng 17-12 quân Pháp vào thành. Trong trận này ta mất 1.000 binh sĩ, Pháp bị 83 người chết, 319 bị thương.
Được tin thắng trận ở Sơn Tây, Hạ nghị viện Pháp gửi thêm 7.000 quân nữa qua Việt Nam. Giữa lúc này Khâm sứ Champeaux xin về Pháp nghỉ. Ông Tricon sứ thần Pháp ở Trung Hoa được lệnh đến Huế điều đình, sửa lại hòa ước 25-8-1883. Vào ngày 28-12- 1883, mấy ngày đầu triều đình chưa nói đến chuyện tiếp ông nhưng khi có tin Sơn Tây bị thất thủ, triều đình mới cho ông Tricon gặp rồi thỏa thuận để cùng xét lại Hòa ước Harmand. Hai bên chưa ký xong thì tổng tư lệnh Courbet sau khi hạ được Sơn Tây cho khinh khí cầu dọ thám Bắc Ninh. Nhưng chưa khởi sự đánh thành này thì Courbet bị triệu về Pháp và tướng Millot được lên thay.
Quân tiếp viện của Pháp lại kéo sang thêm nữa và đã đổ bộ lên Bắc Kỳ vào ngày 12- 2-1884 trong đó có 470 sĩ quan, 16.000 lính và phu phen nô dịch chiến trường có tới 6.000. Từ khi thua Pháp ở Sơn Tây, quân đội Việt Hoa nỗ lực giữ Bắc Ninh. Tại đây bên cạnh Trương Quang Đản có tướng Hoàng Kinh Lan, tổng tư lệnh quân Trung Hoa đến tăng cường việc bảo vệ thành Bắc Ninh. Quân Trung Hoa đóng từ Lạng Giang (tỉnh Lỵ) xuống huyện Yên Dũng. Một đạo khác vượt qua tả ngạn sông Đáp Cầu chặn thủy quân định tiến lên Bắc Ninh. Một đạo nữa giữ Hùng Lâm (?). Đại tướng họ Hoàng đặt bộ tham mưu ở trong thành để chỉ huy Liên Quân. Quân Cờ Đen đóng dài từ Đáp Cầu đến Yên Dũng lập thành một phòng tuyến kiên cố bao quanh tỉnh tỵ. Tướng Millot, Brière De L'isle, Négrier đem các chiến đỉnh, pháo đỉnh và các giàn trọng pháo đánh vòng lại phía sau thành, cố tránh phía Tây Nam phủ Từ Sơn vì ở đây quân Trung Hoa, đóng nhiều. Họ nhắm hướng Nam và Đông Nam mà tấn công nhân thể chặn đường tiếp viện Lạng Sơn, Bắc Ninh. Sáng sớm ngày 7-2-1884 họ vượt sông Hồng Hà, sông Đáp Cầu để yểm trợ cánh tả của lục quân, thủy quân lục chiến đổ bộ tại phủ Lạng Thương. Ngày 9- 3 đến 11-3 quân Pháp chia nhau vây bốn mặt thành. Trận đánh rất hăng, khắp mọi nơi Liên quân đều bại và bỏ chạy. Ngày 12-3-1884, Pháp làm chủ thành Bắc Ninh, Đáp Cầu. Quân Tàu không rút về Lạng Sơn được phải chạy lên Thái Nguyên.
Đánh xong Bắc Ninh, Pháp đánh luôn Hưng Hóa và Tuyên Quang. Thiếu tướng Brière De L'isle dàn trận ở Đà Giang khởi chiến từ sáng ngày 15 tháng ba đến ba giờ chiều thì quân Pháp sang sông gần địa hạt Bạch Hạc, chín giờ sáng hôm 16-3 tướng Négrier lên tiếp viện. Thế quân Pháp càng mạnh, quân Tàu rút lên Mạn Ngược. Trưa ngày 17, Pháp vào được thành Hưng Hóa. Bọn ông Hoàng Kế Viêm lần theo đường thượng đạo về Kinh với cả một sự thất vọng.
Còn một thành nữa trong tay Cờ Đen là Tuyên Quang, Thống tướng Millot cho thủy quân vượt Lô Giang, Trung Tá Duchesne đem 5 chiếc tàu chiến đánh vào thành này. Họ đi từ mồng 3 tháng 5 đến mồng 8 thì đã tới trước thành Tuyên Quang. Đôi bên giao phong được một giờ thì quân Cờ Đen thua chạy. Kiểm điểm về các đồn ải, căn cứ, chiến lược, liên quân Hoa Việt mất hết vùng Trung Châu và Trung Du xứ Bắc nhưng quân Tàu còn đóng ở ba tỉnh Cao Bắc Lạng. Pháp liền ngoại giao với Tàu, để Tàu nhận cuộc bảo hộ của mình cho yên. Sau nhờ người Đức tên là Détring làm trung gian, Trung tá Fournier được lên Thiên Tân gặp Lý Hồng Cường là tổng đốc Trực Lệ để lập cuộc hòa giải hai chánh phủ Pháp Hoa. Ngày 18-4 năm Giáp Thân (11-5-1884). Hòa ước thành hình, nghĩa là Trung Quốc nhận rút quân về và nhường quyền cho Pháp tự do xếp đặt mọi việc ở Việt Nam.

7- Hòa Ước Thiên Tân Thứ Hai (27-4 Ất Dậu)
Với hòa ước này, Pháp đã mừng từ nay có thể yên trí để dẹp hết các cuộc chống đối cuối cùng của triều đình Huế, nhưng trái lại quân đội Tàu ở các vùng Cao Bắc Lạng vẫn không rút qua biên giới như đã quyết định vào tháng 5 năm Giáp Thân (1884). Quân Pháp liền tiến đánh đồn Bắc Lệ, vừa qua con sông Thương (thuộc tỉnh Bắc Giang) thì bị quân Tàu bắn tới tấp, ba tên lính Pháp bị chết. Tàu mới cho Pháp hay tuy họ biết có hòa ước Thiên Tân, nhưng chưa được lệnh hồi quân. Pháp đòi sau một giờ quân Tàu phải rút về nếu không Pháp sẽ đánh, rồi đôi bên xô xát kịch liệt đến tối, sáng hôm sau quân Pháp và đại bại, phải kêu về Hà Nội lấy viện quân.
Thiếu Tướng Négrier được lệnh mang quân lên tiếp ứng cho Trung Tá Dugenne. Được tin này chính phủ Ba Lê liền điện cho hải quân Trung Tướng Courbet và Patenôtre đang làm công xứ Pháp ở Bắc Kinh đòi chính phủ Tàu vì chuyện này phải bồi thường 28 triệu chiến phí. Đại diện của đôi bên thương thuyết mãi tới 29-6 thì Pháp hạ số tiền này xuống 80 triệu phật lăng, hẹn trả trong 10 năm. Nhưng cuộc thương thuyết vẫn tan vỡ. Lần này Pháp cho đánh ngay vào các lãnh thổ của Tàu là Phúc Châu vào tháng sau (tháng 7 năm Giáp Thân 1884). Pháp vây cả Đài Loan và phá vùng duyên Hải Trung Quốc đến tháng 6 năm Ất Dậu !885) là lúc Tàu chịu ký hòa ước mới thôi.
Vào mùa thu năm ấy tướng Brière De L'isle thay tướng Millot được thêm 6.000 viện binh, cộng tất cả là ngót hai vạn liền chia ra bốn đạo đánh Đông triều, Đồn Chũ, Đồn Đầm, Phủ Lạng, Thương Tức là vùng Đông Bắc, Bắc Kỳ. Quân Cờ Đen lúc này đóng ở Tuyên Quang cũng bị Pháp tới đánh. Quân Tàu thua ở khắp các địa điểm kể trên, số thiệt hại gấp mười so với quân Pháp. Cuối năm Giáp Thân thành Lạng Sơn bị Pháp lấy được, quân Tàu phải chạy qua Nam Quan trốn về Tàu, một phần rút lên Thất Khê.
Trong khi đại quân của Pháp đánh Lạng Sơn, quân Cờ Đen trở lại phong tỏa thành Tuyên Quang do Thiếu Tá Dominé giữ. Vì lực lượng ít ỏi nên quân Pháp ở đây phải cố thủ. Đến 17 tháng giêng năm Ất Dậu, tướng Brière De L'isle dẫu lục quân tiến đến Đoan Hùng và thủy quân vượt sông chảy lên cứu Tuyên Quang. Thành này được giải vây. Trong cuộc xung đột này hai bên Pháp Hoa đều thiệt hại lớn.
Ngày mồng 6 tháng 2 năm Ất Dậu (1885) quân Tàu lại tràn qua Đồng Đăng. Tướng Négrier lên ngăn định đánh luôn tới Long Châu nhưng đến mồng 8 lại rút về Lạng Sơn. Quân số của Pháp ở trong thành có 3.500 người. Ngày 13 quân Tàu tấn công Kỳ Lừa là một đồn giáp thành. Thiếu tướng Négrier bị thương nặng ở đây. Thế quân Pháp đuối dần vì quân Tàu quá đông, rồi Pháp rút lui về giữ đồn Chũ, Kép và Tuần Muội. Brière De L'isle lúc này đã được thăng trung tướng, đánh điện về Pháp xin thêm quân bởi còn phải giữ cả Quan Nam và quân Tàu ở Hưng Hóa cùng Lâm Thảo nữa. Nơi này cũng là một trận tuyến quan trọng.
Nghe tin quân mình bất lợi ở Lạng Sơn, dư luận Pháp xôn xao, thủ tướng Jules Ferry phải từ chức. Chính phủ Pháp liền ủy Patenôtre mở cuộc thương thuyết lại với chính phủ Tàu, đồng thời Ba Lê cho thêm hai sư đoàn sang Bắc Kỳ dưới quyền Trung Tướng Roussel De Courcy làm thống đốc quân dân sự vụ, Trung Tướng Warnel làm tham mưu trưởng vùng hai thiếu tướng Jamont và Prudhomme. Chính phủ Tàu thấy kéo dài chiến tranh có thể bất lợi nên ngày 27-4 năm Ất Dậu chịu cho Lý Hồng Chương ký kết với Patenôtre một phen nữa.
Với tờ hòa ước Thiên Tân thứ hai này cũng vẫn có khoản chính yếu là Trung Quốc nhận cuộc bảo hộ ỏa Pháp ở Việt Nam, và hai nước Pháp Hoa tiếp tục giao thương như cũ. Còn Pháp phải trả lại các chỗ mà hải quân đã chiếm được ở các vùng duyên hải. Khoản Tàu phải bồi thường chiến tranh cho Pháp được bỏ đi. Từ giờ phút này trên trận địa Việt Nam chỉ còn hai lực lượng đứng lại là Việt và Pháp. Mất bạn đồng minh, dĩ nhiên cuộc kháng Pháp của ta yếu hẳn và cũng từ giai đoạn này Pháp tha hồ ăn hiếp, bắt nạt triều đình Huế.

8- Hòa Ước Patenôtre (1884) (tháng 5 năm Giáp Thân)
Ngày 6 tháng 6 năm 1884 Pháp lại đòi sửa hòa ước Quí Mùi. Ông Patenôtre ở Pháp sang, cùng với ông Nguyễn Văn Tường, Phạm Thận Duật và Tôn Thất Phan ký hòa ước mới, đại cương giống hòa ước trước như lần này chỉ có 19 khoản và có phần sửa đổi mấy khoản  nói  về Bình Thuận và ba tỉnh ngoài Đèo Ngang là Hà Tĩnh, Nghệ An và Thanh Hóa vẫn thuộc Trung Việt. Từ ngày có hòa ước 1884 122 lãnh thổ Việt Nam (trừ Nam Kỳ đã thành thuộc địa) chia làm hai xứ, tuy cùng chịu quyền bảo hộ của Pháp nhưng việc cai trị khác nhau. Nếu thống nhất do con dân Việt Nam xây dựng bằng biết bao nhiêu xương máu này vì hòa ước Patenôtre lại lâm vào cảnh tam phân, bởi chính sách thâm hiểm của đế quốc Pháp là "chia để trị". Tóm lại nói đến hòa ước 1884 là nói đến sự toàn thắng của đế quốc Pháp trên mảnh đất này và sự suy vong toàn hoàn của phong kiến Việt Nam cuối thế XIX, bấy lâu đã ăn sâu bén rộng vào các tầng lớp xã hội Lạc Hồng qua bao nhiêu thế hệ. Và trong dịp bắt đầu thi hành bá quyền của nước Pháp trên đất Việt Nam. Rheinard hội các quan tại tòa Khâm làm lễ thủ tiêu cái của nhà Thanh đã trao cho vua Gia Long khi phong vương123.
Hành động này có tính cách chính thức chấm dứt ảnh hưởng chính trị của Trung Quốc và mở ra một kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên Việt Nam lệ thuộc Pháp.
Lễ hủy ấn đã thi hành ngày 6-6-1884.

122 Hòa ước 1884 đến ngày 9 tháng 3 năm 1945 thì mất hết hiệu lực về pháp lý, do chỗ Pháp không đảm bảo nổi cho Việt Nam khi có vụ ngoại xâm của Nhật trong thời kỳ đại chiến thứ hai (1939-1945) như Pháp đã cam kết.
123 Cái ấn được để trên một cái bễ nấu lên chảy ra thành một cục bạc trị giá 280 đồng bạc Mễ Tây Cơ thuở đó.

Phần 4 - Chương 4
Tàn Cuộc Của Phong Kiến Việt Nam

- Phong trào Cần Vương cứu quốc
- Phong trào Văn Thân, kháng Pháp
- Chế độ bảo hộ của Pháp ở Việt Nam

1- Phong Trào Cần Vương Cứu Quốc
Bắc kỳ như trên đã nói, có thể coi là bị lọt hết vào bàn tay của quân đội viễn chinh Pháp.
Tại Huế cuộc khủng hoảng chính trị mỗi giờ phút một nặng nề. Ai cũng thấy rõ thế nước chông chênh, mất còn chỉ là thời gian. Trong các quan chia làm hai phe: phe chủ chiến có hai ông Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường, phe chủ hòa có Trần Tiển Thành, Nguyễn Hữu Độ, Gia Hưng quận vương... Với danh nghĩa Phụ chính đại thần, hai ông Thuyết, Tường, nắm hết qưyền hành và ra mặt độc đoán. Hai ông triệt hạ hết các nhân vật của phe chủ hòa và huy động việc kháng chiến từ Trung ra Bắc. Do đó ta đã thấy Khâm sai Hoàng Kế Viêm trở ra hoạt động tại Sơn Tây, Trương Quang Đản ở Bắc Ninh, Tạ Hiện ở Nam Định, Phạm Vũ Mẫn, Hoàng Văn Hòe, Nguyễn Thiện Thuật ở các tỉnh khác. Các ông này đều là các quan văn võ cao cấp của triều đình, nhiệt liệt hưỡng ứng lời hịch Cần Vương. Bị Pháp phản đối nhiều lần lại thêm thất trận nặng nề nên có phen họ Hoàng và Trương phải về kinh, nhưng vẫn không phải là triều đình đã thay đổi chính sách vì lúc này ông Tường vẫn ngoại giao khéo léo với Pháp để ông Thuyết ngầm tổ chức kháng chiến. Ở Trung, đoàn quân Phấn Nghĩa có hàng vạn người được bí mật sửa soạn chờ ngày tổng phản công. Một trường diễn võ được lập ra để huấn luyện quân đội. Tại Sơn Phòng, phe kháng chiến xây dựng một chiến khu với mục đích bên trong tiếp ứng cho Quảng Bình, Quảng Trị, phía ngoài liên lạc với các miền thượng du Thanh Nghệ và có đường rút sang Lào và Xiêm. Quân đội đóng ở đây có hơn một ngàn với hơn 20 cỗ đại bác. Chiến khu này xét ra là con đường lùi của kháng chiến một khi cuộc đánh úp đồn Mang Cá bị thất bại.
Vua Kiến Phúc ở ngôi được hơn 6 tháng và mất ngày mồng 7 tháng 4 năm Giáp Thân (1884) trong một trường hợp vô cùng thê thảm như trên đã kể. Em Ngài là vua Hàm Nghi lên thay, tức là Chánh Mông, húy là Ưng Lịch khi đó mới 12 tuổi. Để đánh dấu những biến cố trên đây, sĩ phu Việt Nam đã có hai câu thơ:
Nhất giang lưỡng quốc nan phân thuyết
Tứ nguyệt tam vương triệu bất tường124
Khâm sứ Rheinart trách cứ rằng việc đặt vua Hàm Nghi lên ngôi không có xin phép nước Pháp và đại tá Guerrier đem 600 quân cùng một đội pháo binh từ Bắc vào Huế để thị uy. Sau đó Rheinart và Guerrier sang làm lễ phong vương cho vua Hàm Nghi rồi mới rút binh sĩ về Hà Nội.
Xét tình hình có thể rối loạn to về phía phong kiến Việt Nam, sau khi hòa ước Thiên Tân ký vào ngày 27-04-1885 tức là năm Quang Tự thứ 11 (Ất Dậu) giữa Patenôtre đại diện Pháp và Lý Hồng Chương đại diện Thanh triều, Pháp liền dốc toàn lực để tiêu diệt cuộc kháng chiến của Cần Vương mà thái độ giờ phút đó rất khả nghi và quan ngại. Ngày 18 tháng 4 năm Ất Dậu (1885), thống tướng De Courcy vừa sang tới Bắc kỳ liền đem ngót một ngàn quân vào Huế bàn việc giao thiệp giữa ông với Nam triều, đòi các quan phụ chính đại thần phải sang tận sứ quán Pháp để hội thương. Viên tướng Pháp còn bắt Nam triều ra lệnh cho sĩ phu và dân chúng tòng phục hoàn toàn chính thể bảo hộ. Y lại có ý nhân dịp này bắt ông Tôn Thất Thuyết ngay giữa cuộc đàm phán vì ông này là linh hồn của kháng chiến. Thuyết biết mưu này liền cáo ốm không sang và để Nguyễn Văn Tường cùng Phạm Thận Duật sang tòa Khâm (theo tin các báo Ba Lê hồi ấy)
Trong cuộc đàm thoại, De Courcy yêu sách nhiều điều làm nhục quốc thể Việt Nam, đại khái y đòi khi y đến, vua Hàm Nghi phải bước xuống ngai nghênh tiếp, sau lại bó buộc ông Thuyết nếu ốm thì nằm cáng mà sang sứ quán Pháp.
Thật là đưa nhau vào bước đường quyết liệt, vì vậy mà cuộc chiến tranh Việt Pháp không sao tránh được.
Thuyết không chịu, De Courcy tính sao? Có kẻ Việt gian báo cho Khâm sứ De Courcy biết rằng Thuyết không ốm, ông vẫn đi kiểm soát đồn trại và kho thuốc súng. Một ngày qua tức là ngày 22-5 năm Ất Dậu (5-7-1885), Pháp khao thưởng quân đội định sáng hôm sau sang vây bộ binh bắt Thuyết, thì vào một giờ đêm Thuyết và Soạn cho bắn một phát đại bác làm hiệu lệnh để nhất tề tấn công vào đồn Mang Cá và Sứ quán Pháp.
Quân Pháp xuất kỳ bất ý, vội vàng nghênh địch, nhưng vẫn giữ thế thủ để chờ buổi sáng. Họ ẩn núp trong trại không chịu ra ngoài. Khi mặt trời hé mọc, quân Pháp thủy lục đều phản công, họ chở súng lên đài và nóc tàu bắn qua rằm rằm giết hại quân nhân rất nhiều, Hoàng thành và cung điện nhiều nơi bị phá hủy. Họ chia ra làm nhiều đạo quân tiến đánh các mặt. Hai đạo quân của ta ở bên trong và bên ngoài chống không nổi, bị vỡ.
Nguyễn Văn Tường thấy thế nguy liền vào Nội yêu cầu nhà vua xuất cung. Hữu quân Hồ Văn Hiển phò giá, đầu giờ Thìn ra cửa Tây Nam. Từ Dũ thái hậu ủy Tường ở lại lo có nghĩa là một con sông (Hương) bên kia bờ là tòa Khâm (Pháp) bên này là triều đình (Việt) hai nước, hai chính sách, quyền lợi chống nhau thì mọi việc đều khó. Bốn tháng ba vua đó là điềm chẳng lành. việc giảng hòa, Thuyết chạy kịp theo, còn chừng trăm người. Quân Pháp liền trèo lên kỳ đài treo cờ Tam Tài.
Kiểm điểm lại trận đánh tại Kinh thành đêm 22 tháng 5 năm Ất Dậu (1885), ta thấy phần bại hoàn toàn về phía chúng ta. Pháp chỉ chết có 16 người, bị thương 80 người. Quân ta chết đến vài ngàn, còn khí giới, lương thực mất đến hàng triệu bạc. Sáng ngày 23 quân ta rút lui khỏi Huế, xa giá nghỉ ở Trường Thi một lát rồi lên đường đi Quảng Trị. Nguyễn Văn Tường được lệnh ở lại thu xếp mọi việc125. (Tài liệu của giáo sĩ Delvaux viết trong bài La prise de Huế của tạp chí Bulletin des Amis du Vieux Huế)
Trưa hôm ấy, ông nhờ giám mục Caspard đưa ra đầu thú với thống tướng De Courcy, Tường được đến trú tại Thương bạc viện và bị đại úy Schmitz coi giữ. Pháp buộc ông ta nội hai tháng phải thu xếp cho yên mọi việc. Ông Tường gửi sớ ra Quảng Trị xin rước Tam cung (bà Từ Dũ Thái hoàng thái hậu, mẹ đức Dực Tông, bà Hoàng thái hậu là vợ đức Dực Tông và là mẹ nuôi ông Dục Đức, Kiến Phúc và Đồng Khánh.
Một tướng Pháp tham gia trận đánh đồn Mang Cá khen quân ta thiện nghệ phòng thủ vì các đường giao thông có đào hầm hố hoặc chẹn bằng các chướng ngại vật. Binh sĩ nấp đằng sau những tấm phên nứa căng hai lần da trâu mà bắn đến giờ chót mới chịu rút lui.
Trong khi đó, Thuyết đem vua Hàm Nghi chạy ra Tân Sở (Quảng Trị) người Pháp treo giải 2000 lạng bạc cái đầu của ông Thuyết và ai bắt được vua Hàm Nghi thì được thưởng 500 lạng.
Từ Dũ thái hậu viết thư mấy lần khuyên cháu trở về nhưng vô hiệu. Từ Trung ra Bắc, cờ khởi nghĩa bay khắp nơi.
Sau biến cố này, mọi việc trong triều do khâm sứ Pháp điều khiển hết và các quan ta, mỗi khi có việc gì đều nhất nhất phải hỏi ý tòa Khâm. De Courcy cho gọi Silvestre ở Bắc vào Huế để tổ chức một chính phủ lâm thời. Hoàng thân Thọ Xuân được cử ra quyền nhiếp chính phủ này và Nguyễn Văn Tường điều khiển Cơ mật viện. Lúc này người Pháp thấy khó có hy vọng dụ được vua Hàm Nghi trở về, liền đặt ông Chánh Mông là Kiên Giang quận công theo lời đề nghị của Từ Dũ thái hậu (vua Đồng Khánh là anh vua Kiến Phúc và Hàm Nghi126). Ngày 6 tháng 8 ông phải thân hành sang tòa Khâm để chịu lễ thụ phong. Vị hoàng đế này tính tình hiền lành, ưa trang sức và cũng thích duy tân, rất được lòng người Pháp. Đình thần bấy giờ có Nguyễn Hữu Độ, Phan Đình Bình đang ở Bắc được Pháp gọi về giúp vua mới cùng với Nguyễn Văn Tường. Ít ngày sau, Nguyễn Hữu Độ không hợp ý với Nguyễn Văn Tường nên lại trở ra Hà Nội.
Giữa hôm vua Đồng Khánh bước lên ngai vàng thì Tôn Thất Thuyết tung ra bài hịch Cần Vương.

125 Sau đó hai tháng người Pháp cách chức Nguyễn Văn Tường đày đi Haiti, lập vua Đồng Khánh lên ngôi ngày 14-9-1885
126 Vua Đồng Khánh bấy giờ được 23 tuổi.

Bài hịch này hẳn là của Tôn Thất Thuyết lấy lời của vua Hàm Nghi kể nông nổi của nước Việt Nam từ ngày người Pháp bước chân lên đất Nam kỳ cho đến khi họ tràn lan ra Trung, Bắc, bày mưu lập kế dùng bạo lực đặt nền thống trị lên toàn cõi Việt Nam. Họ chiếm nước là đã làm một chuyện khiến quân dân Việt Nam đau đớn lại còn sỉ nhục triều đình cùng sĩ phu đất Việt nữa. Nhà vua thống trách Nguyễn Văn Tường chạy theo kẻ địch, lại lập tâm tìm bắt nhà vua để nộp cho Pháp.
Ngài kể lại nổi khổ sở từ khi rời bỏ kinh thành, lặn suối trèo non và Ngài hiệu triệu thần dân trong nước, muôn người như một hãy đồng tâm gắng sức giải phóng quốc gia, nêu cao tinh thần kháng chiến.
Lời lẽ tờ hịch hết sức lâm ly thấm thiết, nên có nhiều nhân sĩ hồi ấy đọc đến phải nghẹn ngào sa lệ, vỗ gươm đứng dậy. Kết quả là những cuộc khởi nghĩa đã nổi lên ầm ầm như phong ba bảo táp.
Lê Trung Đỉnh ở Quảng Nghĩa Mai Xuân Thưởng ở Bình Định Nguyễn Huệ ở Quảng Nam
Đề đốc Lê Trực ở sông Gianh (Quảng Bình) Phan Đình Phùng ở Nghệ Tỉnh
Tống Duy Tân, Cầm Bá Thước ở Thanh Hóa
Đinh Công Tráng ở Ba Đình
Nguyễn Thuật đứng đầu quân Cần Vương xứ Bắc Hoàng Hoa Thám hoạt động vùng Yên Thế Sau đó, Thuyết sang Tàu với mục đích cầu viện vì ông vẫn tin tưởng ở sức mạnh của nhà Thanh. Ông cho rằng người khác đi thay không bày tỏ hết tình trạng nước nhà, e lỡ việc lớn, nay lấy danh nghĩa mình là người trong hoàng tộc, lại là phụ chính đại thần và đại tướng thì sự giao thiệp có lợi hơn.
Ông bắt đầu đi từ Hương Khê theo đường rừng ra Nghệ An, qua Thanh Hóa, Lai Châu, lên Lào Kay tới Vân Nam rồi sang Quảng Đông. Cùng đi với ông có đề đốc Trần Xuân Soạn, Võ cử nhân Nguyễn Viết Tốn, đi đến đâu, cổ động kháng chiến đến đấy chớ không đi thẳng một mạch nên hành trình từ Hà Tỉnh sang Quảng Đông kéo dài một năm.
Khi đến Trung quốc, Tôn Thất Thuyết ở lại nhà Liêu Văn Chỉ ít bữa rồi sang Vân Nam. Ông gặp Sầm Xuân Huyên là tổng đốc tỉnh này, sau Huyện lại giới thiệu ông với tổng đốc Quảng Tây là Trương Minh Ký. Do họ Trương, ông lại làm quen với thống đốc Quảng Đông là Lý Hàn Chương (anh Lý Hồng Chương). Tại Quảng Đông, ông Thuyết làm một lá sớ đệ lên Bắc Kinh. Khi đó Pháp cho người lên Bắc Kinh vận động với Lý Hồng Chương, bấy giờ làm toàn quyền Đại thần triều Mãn, họ Lý tâu với Tây thái hậu, chiếu theo lời đề nghị của Pháp, giữ ông Thuyết ở huyện La Định, sau đem về huyện
Thiêu Quan. Xét ra Tàu hồi đó bị Liệt cường bắt nạt, sau cuộc nha phiến chiến tranh với người Anh, phải cắt đất xin hòa, vì vậy Tàu rất e dè người da trắng.
Ốc còn chẳng mang nổi mình ốc, đó là trường hợp Trung Quốc thuở ấy. Rồi việc cầu viện của ông Thuyết rốt cuộc chỉ là công dã tràng.
Năm 1912, ông Thuyết tạ thế tại Thiêu Quan, được ông Lý Can Nguyên, bấy giờ chấp chính Bắc Kinh, xót thương người tiết liệt cho xây một ngôi mộ rất to và lập bia đề là "Nguyễn Phúc Thuyết Ngự tiền Thân sương chi mộ"
Nhân sĩ Quảng Đông có câu đối viếng ông như sau:
Thù nhung bất cộng đái thiên, vạn cổ phương danh lưu Tượng quận Hộ giá biệt tầm tỉnh địa, thiên niên tàn cốt ký Long châu127
Về phía người Pháp, sau khi bọn ông Thuyết rời bỏ kinh thành, đại tá Chaumont được lệnh đem quân ra đóng ở Quảng Bình để chận đón phe kháng chiến, không cho giao thiệp với Bắc kỳ.  Nhưng ở Nghệ An và  Thanh  Hóa,  nghĩa  quân  hoạt động rất mạnh, thiếu tá Grégoire ở lại giữ Quảng Bình, còn đại tá Chaumont trở về Đà Nẳng lấy thêm viện binh đưa tàu chiến ra đóng ở Nghệ An và tuần tiểu khắp nơi.
Tháng 9 năm Bính Tuất (1886) Hoàng Kế Viêm được vua Đồng Khánh phong làm An phủ kinh lược đại sứ ra Quảng Bình chiêu dụ vua Hàm Nghi và các Văn Thân, yêu cầu các vị trở về và sẽ được hưởng địa vị như cũ. Việc chiêu dụ này có thể nói là thất bại vì các lãnh tụ Cần Vương không ai theo, trừ một số thủ hạ không đáng kể. Ông Hoàng Kế Viêm bị rút công tác vào tháng 5 năm Đinh Hợi (1887) vì lẽ đó.
Bấy giờ quân Cần Vương chiến đấu rãi rác khắp nơi. Đề đốc Lê Trực đóng ở Thanh Thủy, thuộc huyện Tuyên Chánh, Tôn Thất Đạm (con ông Thuyết) đóng ở thượng du Hà Tỉnh, thuộc hai hạt Kỳ Anh và Cẩm Xuyên, Tôn Thất Thiệp (con ông Thuyết) và Phạm Tuân theo vua Hàm Nghi loanh quanh ở huyện Thanh Hóa.
Suốt Trung Nam Bắc, lúc đó tình hình rối ren, người Pháp phải chia nhau đi đánh dẹp khắp nơi vì mọi cuộc phủ dụ đều thất bại.
Đại úy Mouteaux ở Quảng Bình cùng với cố Tortuyaux đem quân đi đánh Lê Trực ở Thanh Thủy. Biết ông Trực là người nghĩa khí, Mouteaux viết thư lấy lời trang trọng mời ông trở về nhưng bị ông khước từ như sau:
"Tôi vì vua, vì nước, đã quyết lòng làm hết bổn phận, đâu dám tham sự sống mà quên việc nghĩa"
Trong giai đoạn này, người Pháp đóng quân ở đồn Minh Cầm, bọn ông Trực phải lui về phía trên, sau đó Lê Trực ra mạn Hà Tỉnh, Nguyễn Phạm Tuân đóng ở Yên Lộc, thuộc miền Nam sông Gianh. Qua tháng ba, thám tử chỉ cho Mouteaux nơi ông Nguyễn Phạm Tuân đồn trú. Ông bị vây bắt được cả bọn, vì bị đạn bên cạnh sườn, mấy ngày sau thì mất.

127 Thù ngoài không đội trời chung, muôn thuở tiếng thơm lưu Tượng quận Phò chúa riêng tìm cõi thác, ngàn năm xương bạc gửi Long châu

Điều người Pháp cần nhất là tìm bắt vua Hàm Nghi, biết rằng nhà vua là linh hồn của Cần Vương lại được dân chúng mến yêu nên vì thế mà cuộc khởi nghĩa Cần Vương được hậu thuẩn rất mạnh. Nhưng khi ấy chưa rõ được tông tích của Ngài thì ít tháng sau có kẻ mách rằng muốn bắt được vua Hàm Nghi phải có tên Trương Quang Ngọc, ở làng Trà Mạc, lúc đó đang được ra vào hầu cận vua, Ngọc là kẻ tiểu nhân có thể mua chuộc được. Đại úy Mouteaux liền dùng tiền bạc, danh lợi dỗ dành được bọn tổng lý hạt Minh Cầm liên lạc với Trương Quang Ngọc. Ngọc nhận lời giúp quân Pháp nhưng chưa dám hẹn có thể bắt được nhà vua ngay.
Khi ấy, bên cạnh nhà vua Hàm Nghi có Tôn Thất Thiệp là một thiếu niên anh dũng, không bao giờ rời vua nữa bước. Kẻ nào bàn đến chuyện về đầu thú đều bị Thiệp giết ngay, vì vậy mà bọn Ngọc còn e dè. Còn nhóm ông Lê Trực và Tôn Thất Đạm cùng nghĩa quân lưu động, nay chỗ này, mai chỗ khác, người Pháp mệt sức mà cũng không tiêu diệt nổi, vì thế mà đại úy Mouteaux xin về Pháp nghỉ. Thay ông trong việc này là một viên đại tá chỉ huy ở Huế, ông ra Quảng Bình tiếp tục công việc kể trên nhưng tình thế của đôi bên cũng không ra khỏi chỗ bế tắc. Người Pháp vẫn không diệt nổi Văn Thân, nhưng Văn Thân cũng chỉ làm được việc quấy rối lung tung khắp nơi mà thôi. Cho đến tháng 9, quân Pháp mỏi mệt đã định rút về miền bể thì có một kẻ hầu cận vua Hàm Nghi ra thú ở Đồng Cả, phía trên đồn Minh Cầm. Tên này khai rõ tung tích vua Hàm Nghi và nhân viên quanh Ngài. Người Pháp lại dùng hắn để liên lạc với Trương Quang Ngọc và tên Nguyễn Định Tình, bọn này bấy giờ mới tình nguyện mấy hôm sau sẽ bắt sống được vua Hàm Nghi. Chúng được chỉ thị ngoài nhà vua ra, còn ai chống cự thì cứ giết.
Ngày 26 tháng 9 năm Mậu Tý là ngày tuyệt vọng của ông vua bôn đào, một ngày tan vỡ mộng khôi phục đất nước và là ngày tàn lụi của cuộc Cách mạng Phong kiến Việt Nam.
Bấy giờ vào hồi nửa đêm, Ngọc và Tình đem 20 thủ hạ, người làng Thanh Lang và Thanh Cuộc, đến vây làng Tả Bảo là chỗ trú ẩn của nhà vua, Tôn Thất Thiệp đang ngủ, nghe có biến vùng vậy vừa cầm gươm nhảy ra thì bị chúng đâm chết ngay.
Vua Hàm Nghi nhận thấy Ngọc, giận uất vô cùng, trao cho nó thanh kiếm mà bảo rằng:
- Mày giết tao đi còn hơn đem tao nộp cho Tây.
Một kẻ lanh tay ôm lấy lưng Ngài và kẻ khác giật lấy thanh kiếm. Từ lúc bị bắt cho đến khi tới trại Pháp, Ngài đau đớn không nói năng được nửa lời. Sáng hôm sau bọn tên Ngọc võng Ngài ra bến Ngã Hai, xuống bè đi hai ngày đến đồn Thanh Lang nộp cho đại úy Boulangier. Ngay lúc đó, Boulangier đưa Ngài về đồn Thuận Bài, gần chợ Đồn bên tả ngạn sông Gianh. Rồi Ngài bị đưa xuống tàu về Thuận An và sau đó bị đày đi Algerie, mỗi năm được cấp 25.000 phật lăng. Bấy giờ Ngài mới 16 tuổi.
Trương Quang Ngọc được hàm Lãnh binh, Nguyễn Định Tình được thưởng hàm võ quan.
Việc vua Hàm Nghi bị bắt quả đã đem lại ảnh hưởng tai hại cho phong trào Cần Vương như chúng ta đã nói ở trên và làm nản lòng một phần chiến sĩ trong hàng ngũ cứu quốc. Ngoài ra, địa vị của người Pháp mỗi ngày một vững vàng và mạnh mẽ, trái lại sức đấu tranh của Văn Thân mỗi ngày một bị tê liệt thêm, rồi tan rã dần đi.
Nghe tin vua Hàm Nghi bị bắt, Tôn Thất Đạm liền hội các tướng sĩ đến hiểu dụ rằng tình thế rõ rệt sớm muộn sẽ thất bại, nếu kéo dài cuộc kháng chiến càng thêm hại. Ông khuyên mọi người nên ra thú để về an cư lạc nghiệp. Rồi ông có gửi về Huế hai bức thư: một cho vua Hàm Nghi là cả một thiên trường hận, lâm ly, thấm thiết của một người tôi trung, một thiếu niên anh hùng chỉ biết sống chết cùng đất nước, một lá thư gửi cho thiếu tá Debat ở đồn Thuận Bài yêu cầu sự an toàn cho các đồng chí.
Viết thư xong ông nói:
- Quân Pháp có muốn bắt ta thì vào mà tìm mả ta ở trong rừng. Ngay lúc ấy, ông thắt cổ mà chết.
Hai bức thư này được đại úy Gosselin phiên dịch sang tiếng Pháp và in trong cuốn "Empire d'Annam" của ông, lời lẽ rất cương quyết và khẳng khái.

2- Phong Trào Văn Thân Chống Pháp
Năm Ất Dậu (1885) sau khi thất bại trong việc đánh thành Mang Cá và sứ quán Pháp, vua Hàm Nghi cùng các người kháng chiến rút khỏi Kinh. Ông Tôn Thất Thuyết mượn lời vua Hàm Nghi tung ra lời hịch kêu gọi toàn dân kháng chiến, sau ông qua Tàu cầu viện. Ông đi và không trở về nữa như ta đã biết.
Ở trong nước, các đạo binh Cần Vương hưởng ứng lời hịch, nổi lên ở khắp Trung, Bắc để tranh đấu giành lại quyền tự do, độc lập, mặc dầu cũng dư biết rằng mình có thể chỉ làm chuyện châu chấu đá xe mà thôi. Nhưng có lẽ các vị tiền bối đó đã quan niệm rằng nếu chiến đấu chẳng thành công ngay thì cũng gây được căm thù đối với địch và giữ vững được cái hào khí của dân tộc cho đám người sau. Cách mạng của một quốc gia lạc hậu như nước mình chống với một đế quốc tân tiến đang đầy sinh lực sao có thể thâu lượm được kết quả mau lẹ như lòng mong muốn.
Ở Trung  kỳ,  bấy  giờ  phất  cờ  khởi  nghĩa    các  ông  Mai  Xuân  Thưởng,  Bùi  Điền, Nguyễn Đức Nhuận đem dân binh đánh phá Phú Yên và Bình Định, công sứ Aymonier, thiếu tá De Lorme và Việt gian Trần Bá Lộc đem lính Tây và lính tập đi đánh dẹp, và bắt được ba ông đem đi giết. Cuộc khởi nghĩa bắt đầu từ tháng 6 năm Bính Tuất đến tháng 6 năm Đinh Hợi (1887) thì tắt. Nhưng lực lượng mà Pháp lo ngại hơn cả vẫn là lực lượng của vua Hàm Nghi. Hướng về ngọn cờ cách mạng của nhà vua, hoặc gần hoặc xa từ Bình Thuận trở ra Bắc, hay là qui tụ chung quanh nhà vua bấy giờ có Tôn Thất Đạm, Tôn Thất Thiệp (hai con của Tôn Thất Thuyết), các cựu thần Trương Văn Ban, Nguyễn Phạm Tuân, Lê Trực, Nguyễn Chữ, Trần Văn Dự, Trương Đình Hội, Lê Mô Giai, Phan Trọng Mưu, Nguyễn Nguyên Thành, Lê Doãn Nhạ, Nguyễn Xuân Ôn, Ngô Xuân  Quỳnh,    Văn  Mao,  Mai  Xuân  Soạn,  Tống  Duy  Tân,  Đinh  Công  Tráng,  Phạm Bành, Phan Đình Phùng, ... Ngày 16-5 năm Bính Tuất (1886), Pháp cử vua Đồng Khánh ra Quảng Bình tuần thú mạn Bắc để dụ vua Hàm Nghi và các chiến sĩ Cần Vương, đại úy Billet đi theo nhà vua. Cuối tháng 7, vua Đồng Khánh ra tới Quảng Bình nhưng chẳng kêu gọi được ai cả, cuộc chống đối của Văn Thân và cựu thần vẫn tiếp tục, nhà vua ở lại vài tuần rồi xuống tàu trở về Huế.
Hai tháng sau (tháng 9) Hoàng Kế Viêm được khai phục nguyên hàm và được phong làm Hữu Trực Kỳ An Phủ Kinh Lược Đại Sứ cũng ra Quảng Bình tiếp tục việc khuyến dụ các đạo quân Cần Vương. Theo ý vua Đồng Khánh (tức là ý người Pháp) nếu các người kháng chiến trở về, họ sẽ được bảo đảm về địa vị, phẩm tước, riêng vua Hàm Nghi thì sẽ được làm tổng trấn ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tỉnh. Hoàng Kế Viêm rốt cuộc cũng thất bại như vua Đồng Khánh. Trong giai đoạn này, đứng điều khiển bộ máy của Bảo hộ là thống đốc Paul Bert.
Tại Bắc kỳ, Văn Thân cũng nổi lên sau khi hòa ước Thiên Tân ráo mực. Sĩ phu ở đây coi rằng giải quyết các biến cố của nước nhà mà vọng ngoại là điều không có bảo đảm chắc chắn, nên thế tuy mỏng manh nhưng họ vẫn xông ra chiến trường để thay thế cái triều đình đã trở nên bất lực và hết tín nhiệm đối với quốc dân sau khi vua Hàm Nghi rút khỏi kinh thành.
Các cựu thần còn nối tiếp cuộc chiến đấu thuở ấy ở Bắc kỳ có Tán tương quân vụ Nguyễn Thiện Thuật, đề đốc Tạ Hiện giữ vùng Bãi Sậy thuộc Hải Dương cùng với các thổ hào như Đốc Tích ở vùng Đông Triều, Đề Kiều ở vùng Hưng Hóa, Cai Kinh, Đốc Ngữ ở Bắc Giang, Lương Tam Kỳ dư đảng Cờ Đen dấy quân ở vùng chợ Chu (Thái Nguyên).
Pháp cho Hoàng Cao Khải và Nguyễn Trọng Hợp đi đánh dẹp, Văn Thân chống đỡ được ít tháng rồi tan vỡ dần, hoặc bị bắt hay tử trận. Nguyễn Thiện Thuật trốn qua Tàu, Đốc Tích ra hàng phải đày sang Algerie, Đề Kiều và Lương Tam Kỳ được ở yên lập ấp tại địa phương. Cai Kinh bị bắt, Đốc Ngữ ra thú, và Hoàng Hoa Thám lúc hàng, lúc đánh, sau bị Lương Tam Kỳ cho thủ hạ đến ám sát giữa vùng rừng núi Thượng du để lấy công với Pháp. Trong đám chiến sĩ này, Đề Thám kéo dài cuộc chống đối nhiều hơn cả và đã làm cho Pháp nhiều phen điêu đứng ở các miền Nhã Nam, Yên Thế, Tam Đảo, Pháp khâm phục ông vô cùng. Bên cạnh Hoàng Hoa Thám có người vợ ba cũng đáng kể là một anh thư nước Việt, tuy quần vận, yếm mang mà đã từng làm cho các võ tướng của Pháp nhiều phen bở vía trước ngọn cờ nương tử. Hoàng Hoa Thám khởi nghiệp vào năm 1887 và thất thế vào năm 1913.
Nhưng trong giới Văn Thân cứu quốc, người ta không quên được ông Phan Đình Phùng, người làng Đông Thái, tỉnh Hà Tỉnh, đỗ Đinh nguyên về đời Tự Đức làm quan đến Ngự sử. Cần Vương tan rã vào năm 1888, nghĩa là sau khi vua Hàm Nghi bị bắt và bị đày đi Algerie, ông là ngọn lửa cuối cùng bùng lên trên nền trời kháng chiến. Ông dùng đồn điền Vụ Quang làm chỗ tập hợp binh sĩ và các đồng chí. Ông có tài tổ chức quân đội, giỏi thao lược, biết gây tinh thần kỹ luật và biết huấn luyện binh sĩ theo lối Âu Châu. Binh đội của ông mặc đồng phục, chiến đấu hăng hái, có tinh thần đồng đội và đoàn kết, nhờ vậy, cuộc kháng chiến của họ Phan trường cửu được 11 năm. Đại úy Gosselin, từng nhiều phen đối thủ với ông, đã nhiệt liệt ngợi khen ông về việc đúc được kiểu súng 1874 của Pháp do sáng kiến của một bộ tướng là Cao Thắng, tiếc rằng súng của ông, nòng không xẻ được nên đạn bắn không được xa như súng Pháp. Ông khéo dùng chiến thuật du kích từ Trung Khê, Trí Khê (Hà Tỉnh, Nghệ An), các đảng viên cũ của Văn Thân lại tìm về với ông để hoạt động. Pháp ra công đánh ông từ cuối năm Quí Tị (1893) đến cuối năm Ất Mùi (1895) không thâu được kết quả gì mà lính tráng thì chết hại rất nhiều. Bảo hộ sai Hoàng Cao Khải lấy tình cố hữu viết thư dụ ông ra hàng không được, sau giao nhiệm vụ tiểu trừ họ Phan cho tổng đốc Bình Định là Nguyễn Thân. Vì chịu quá nhiều gian khổ, thế lực mỗi ngày một kém, ông Phan Đình Phùng mắc bệnh kiết lỵ mà chết. Nguyễn Thân cho người vào rừng đào mả ông lên, đốt thây ông ra tro trộn vào thuốc súng bắn xuống La Giang. Để tưởng lệ hai tên Việt gian phản quốc Nguyễn Thân và Hoàng Cao Khải, Bảo hộ cho ông làm phụ chính đại thần thay ông Nguyễn Trọng Hợp về hưu trí, Khải được lĩnh chức Bắc Kỳ Kinh Lược Sứ.
Xét về hoạt động của Văn Thân, riêng từ Trung kỳ trở ra Bắc ta phải kể rằng Văn Thân đã phất cờ, dóng trống từ 1874 tức là từ khi có hòa ước Giáp Tuất. Bắc đầu là sĩ phu Thanh Nghệ Tỉnh, thủ lãnh có 2 ông Tú Đỗ Mai và Trần Tấn, chủ trương chống cả triều đình và Pháp xâm lăng. Đồng thời Văn Thân cũng sát phạt cả giáo sĩ và giáo dân vì giáo dân một số khá đông đã bị lôi cuốn vào chính trị của bọn thực dân, đế quốc. Nhưng khi triều đình có rõ rệt mục đích chống Pháp thì Văn Thân gia nhập phong trào Cần Vương để cứu nước, đến đầu thế kỷ XX các nhà cách mạng của chúng ta thấy rằng ngòi bút lông không chống nổi đại bác và cơ giới Tây phương liền thay đổi chiến lược.
Lớp người của Tự Đức, Hàm Nghi ngã gục hết, lớp tuổi trẻ lên thay bấy giờ có các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thượng Hiền, Tăng Bạt Hổ128,... Các cụ đã học được nhiều sách khảo luận và phiên dịch về chính trị của Âu Châu qua phái nhà nho tân tiến của Trung Quốc là Lương Khải Siêu, Khang Hữu Vi nên đã nhận xét được nhiều tư tưởng tiến bộ và cao đẹp của các nhà cách mạng Âu Châu (Rousseau, Montesquieu,...) ngoài ra cuộc Duy Tân tự cường của Minh Trị Thiên Hoàng và trí thức Nhật Bản cuối thế kỹ XIX cũng kích thích tâm hồn các cụ rất mạnh. Rồi ở giữa đám thanh niên hầu như lạc lõng bơ vơ sau một giấc mơ dữ dội của thời đại có một chuyển hướng: bỏ chủ trương dùng bạo lực chống Pháp, xuất dương cầu học và bí mật vận động các phong trào ái quốc. Trong quốc nội, đả kích kịch liệt cái học từ chương khoa cử, cái học "đi làm ông Phán" để "tối rượu sâm banh, sáng sữa bò" mà nhà nho đất Vị Hoàng đã mỉa mai trong lời thơ đầy cảm khái129.
Khoảng năm 1904 -1905 cụ Sào Nam Phan Bội Châu họp các đồng chí ở sơn trang Nam Thịnh tại Quảng Nam lập ra "Việt Nam Quang Phục Hội" rồi cùng Tăng Bạt Hổ bí mật đi Nhật, giao thiệp với chính giới Nhật đem cụ Cường Để và một số thanh niên sang Đông Kinh. Các thanh niên này đều thụ huấn ở Trấn Võ học hiệu là một trường quân sự lớn nhất của Phù Tang thuở ấy tại Đông Kinh. Nhưng nơi cầu học và hoạt động cách mạng nhiều hơn cả vẫn là đất Tàu do đó nhiều thanh niên của ta đã có mặt ở các trường Hoàng Phố, Bảo Định và các Lục quân học hiệu ở Bắc Kinh. Các cụ hy vọng nhờ các học hiệu của Nhật và Tàu tạo nên một số cán bộ để tranh thủ độc lập và xây dựng những cơ sở mới cho quốc gia sau này. Phong trào xuất dương du học ngày nay được gọi là phong trào Đông Du. Còn ở trong nước, một số nhà cách mạng khác là Lương Ngọc Can, Đào Nguyên Phổ, Dương Bá Trạc, Nguyễn Quyền,... gây nên phong trào

128 Cụ Tăng thuộc nhóm Mai Xuân Thưởng, khởi nghĩa ở Bình Định.
129 Nhà nho đất Vị Hoàng đây là ông tú Trần Tế Xương người tỉnh Nam Định.

"Đông Kinh Nghĩa Thục". Thực ra Đông Kinh Nghĩa Thục là một trường tư mà các vị tiền bối của chúng ta lập ra theo gương ông Phúc Trạch bên Nhật mở Khánh Ứng nghĩa thục để giáo dục nhân dân theo một đường lối cấp tiến. Nhưng bên trong, Đông Kinh Nghĩa Thục còn là một tổ chức bí mật để các nhà cách mạng gặp nhau phân chia công tác đưa thanh niên đi ngoại quốc, tuyên truyền cổ động việc phục quốc và liên lạc với các đồng chí hải ngoại. Cũng trong dịp này, Văn Thân Nghệ Tỉnh lập ra Minh Xá và Âm Xá có chủ trương quá khích, nghĩa là vẫn thiên về vũ lực hơn là làm cách mạng văn hóa, chính trị và kinh tế. Tại Nam kỳ, hai ông Xã Định và Trần Chánh Chiếu lập hội Minh Tâm cũng có mục đích tương tự với các tổ chức trên đây.
Đông Kinh Nghĩa Thục hoạt động từ năm 1907, qua năm sau thì bị đóng cửa vì đã có nhiều tiếng vang để cho bảo hộ Pháp phải e ngại. Rồi vụ đầu độc trại lính Pháp ở Hà Nội bị phác giác, Pháp cho điều tra, được biết vụ này có bàn tay bí mật của nhân viên Đông Kinh Nghĩa Thục nên nhiều yếu nhân của cơ quan này bị bắt và bị đày.
Liên tiếp với vụ trên đây, tại Trung kỳ dân quê các tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Nam, Thừa Thiên, hàng ngàn người kéo nhau đi biểu tình đến tòa sứ yêu cầu bãi sưu, bớt thuế. Họ mặc áo cộc, đội nón lá, lưng đeo nồi và thực phẩm. Đi đường thấy ai mặc áo dài và tóc dài thì họ xúm nhau vào cắt áo, cắt tóc cho ngắn. Vụ này gọi là "loạn đầu bào" hay "vụ cúp tóc".
Bởi hai vụ vừa kể dây nên rất nhiều người bị bắt bớ giam cầm bi thảm nhất là ông nghè  Trần  Quí  Cáp  bị  viên  Bố  chánh  Khánh  Hòa,  một  cẩu  tẩu  của  Pháp  quá  trung thành, mẫn cán với mẫu quốc đem chém ngang lưng.
Rồi từ 1908 cho tới 1926, người Việt Nam vẫn tiếp tục tranh đấu dưới đủ mọi hình thức. Trong khi cuộc Đại chiến thứ nhất xảy ra (1914-1918) ngày 20-10-1914, Trương Nhị đánh phá đồn Lục Nam. Ngày 13-3-1915 các cụ Nguyễn Hữu Thần, Hoàng Trọng Mậu, Phan Sào Nam mộ quân từ biên giới Quảng Tây về đánh đồn Tà Lùng (Lạng Sơn) nhưng bị thất bại.
Thánh 3 năm 1913, hai đảng viên Cách Mạng Việt Nam Hải Ngoại Nguyễn Văn Tráng và Nguyễn Khắc Cần về ném bom ở Thái Bình giết được tuần phủ Nguyễn Duy Hàn. Cách mấy hôm sau giữa khách sạn "Hà Nội Hotel" có một vụ ném bom thứ hai. Nạn nhân là hai sĩ quan Pháp: Mongrand và Chapuis. Mục đích của hai vụ khủng bố này là cảnh cáo người Pháp phải sửa đổi việc chính trị của họ tại Việt Nam và lũ tay sai vong bản quá tham tàn đối với đồng bào.
Nhưng tới năm 1924 trở đi, để xúc tiến phong trào cứu quốc, các nhà nho Hậu Văn Thân lập ra Việt Nam Quang Phục Hội và Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí, Hội Duy Tân, Á Tế Á, Áp Bách Nhược Tiểu Dân Tộc Việt Nam Chi Bộ, v.v... Các đảng, các hội này sau chịu nhiều việc thay đổi, cải tổ để thành các đảng Đông Dương Cộng Sản Đảng, Phục Việt Đảng, Tân Việt Đảng, Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội, Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội và Việt Nam Quốc Dân Đảng. Nhưng đứng lại để trực tiếp với thời cuộc cho tới khi đánh đổ được nền thống trị của đế quốc Pháp còn hai đảng là Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội và Việt Nam Quốc Dân Đảng (Xin coi sự nghiệp của hai đảng này ở các trang sau).

3- Vua Thành Thái (28-1-1888)
Vua Đồng Khánh mất ngày 27 tháng chạp năm Mậu Tý thọ 25 tuổi, ở ngôi được 3 năm, miếu hiệu là Cảnh Tông Thuần Hoàng Đế. Người Pháp bèn đưa con ông Dục Đức là Bửu Lân lên thay, lấy niên hiệu là Thành Thái. Pháp nại cớ con vua Đồng Khánh còn nhỏ, xét ra cớ này không đúng hẳn, vì chính vua Thành Thái lúc lên ngôi cũng chỉ mới có 10 tuổi thôi. Lý do đúng hơn cả về việc tôn lập vua Thành Thái là bởi người Pháp có cảm tình với vua Dục Đức. Có điều đáng chú ý là trước khi bước lên ngai vàng, ông Hoàng Bửu Lân đang bị giam trong ngục cùng với bà mẹ. Triều đình vào rước Ngài từ ngục ra và đặt lên ngôi. Hai ông Nguyễn Trọng Hợp và Trương Quang Đản được cử làm Phụ chính cho vị thiếu quân.
Vua Thành Thái là một người thông minh và có khí phách anh hùng. Sinh ra vào buổi loạn ly, đất nước đã nằm trong tình trạng nô lệ của người Pháp nên thời cuộc bấy giờ ảnh hưởng rất nhiều đến tâm hồn của Ngài, vì tính tình của Ngài can cường độc lập bao nhiêu thì cuộc đời Ngài càng mau đi tới chỗ oan trái bấy nhiêu.
Lúc này, Pháp đã công nhiên thao túng chính sự Việt Nam, ai ai cũng biết sức mạnh của họ. Đa số các đại thần trong triều đình đã ngã theo Pháp, huống hồ họ lại được nhìn sự thất bại của vua Hàm Nghi trước đấy không lâu. Hơn nữa, địa vị và quyền lợi cá nhân đã làm mê muội họ rồi, bấy giờ họ chỉ đua nhau tranh giành ân huệ của Bảo hộ. Như vậy, nhà vua gần như bị hoàn toàn cô lập. Các bề tôi đã chẳng giúp đỡ gì cho Ngài mà có khi lại còn phản bội để bí mật lập công với Pháp, ngay cả Trương Như Cương là người có con gái tiến cung và đang nắm mọi quyền hành trong nước. Phía ngoài, phong trào Văn Thân và dân chúng bấy giờ đã gần như tắt hết.
Vua Thành Thái sở trường về Nho học, chịu ảnh hưởng rất nhiều những tư tưởng của các nhà cách mạng Nhật và Trung Hoa. Ngài tìm hiểu phong trào duy tân của hai nước này và khao khác việc cải cách quốc gia về mọi mặt, những mong sớm đưa đất nước đến chỗ phú cường. Buổi đầu, Ngài bắt các hoàng thân, quốc thích lo việc học theo hướng Trung Hoa và Nhật Bản. Nhưng rồi mọi ý tưởng cấp tiến của Ngài đều bị tòa Khâm sứ ngăn trở. Ngài cắt tóc ngắn trước nhất, học lái xuồng máy và xe hơi bằng sách vở.
Năm 1904, Bắc kỳ và Trung kỳ lâm vào cảnh đói kém, Ngài thân hành ra tận nơi để trông nom việc chẩn cấp. Cử chỉ này càng làm cho nhân dân mến phục Ngài.
Khi còn ông Nguyễn Trọng Hợp, triều chính vẫn giữ được trật tự một phần nào, tình nghĩa quân thần chưa đến nổi quá suy bại, bởi mọi việc còn tùy sự quyết định của nhà vua. Khâm sứ Pháp đối với nhà vua vẫn có lễ độ. (Có khi Khâm sứ Pháp sang yết kiến, nhà vua không tiếp mà vẫn không tỏ sự bất mãn). Nhưng tới khi Trương Như Cương nắm giữ guồng máy triều đình thì sức mạnh của chính quyền lọt hết vào tay bọn thân Pháp, người trung trực chỉ còn là những chiếc bóng mờ. Địa vị của nhà vua, trên thực tế lúc bấy giờ không còn gì nữa. Không khí triều đình mỗi ngày thêm nặng nề. Nhà vua bực dọc lại nóng tính, thường trút những nỗi tức bực vào những lời phê phán trên các từ lệnh. Cảm tưởng của vua là phần lớn các quan bấy giờ bất tài, lạc hậu, chỉ biết nịnh hót để mưu cầu danh lợi. Ngay đối với Trương Như Cương là quan đầu triều, có khi nhà vua cũng không có chút nể nang. Những lời thóa mạ của Ngài trên các biểu chương đã gây dần mối ác cảm giữa Ngài và người Pháp. Thời Khâm sứ Ruverque thì sự giao hảo giữa ta và Pháp còn khá nhưng sau đến Moulié và sau cùng là Lévêque thì sự mâu thuẩn càng lớn dần. Lévêque vốn có chân trong hội Tam Điển (France Marcon), nhờ thế lực của Hội mà được cử vào chức quan trọng. Ông ta không rành việc Đông Dương mà tính tình lại cũng nóng nảy, hách dịch, luôn luôn muốn lấn áp nhà vua. Sự bất bình giữa hai bên kéo dài luôn hai năm trước khi nhà vua bị đưa đi đày.
Sau đây là vài việc đã quyết định tình thế của nhà vua một cách tai hại và là điều không thể tránh được:
1) Nhân có việc bổ dụng nhân viên và ít việc nhỏ khác, triều đình đã có bàn với tòa Khâm nhưng khi giấy tờ đệ lên nhà vua thì Ngài không ký. Lévêque nói với Hội đồng Thượng thư rằng: "Nhà vua không thành thực cộng tác với Bảo hộ và Ngài đã mất trí khôn thì mọi việc Hội đồng Thượng thư cứ tùy tiện". Sự thực đây là một mưu mô có tính toán trước giữa Lévêque và nhiều quan triều thần để sữa soạn việc phế lập sau này.
2) Việc thứ hai là người Pháp bắt ông Bữu Thạch, em con chú của vua Thành Thái. Lévêque nói rằng khi y đang đi dạo chơi trong vườn thì thấy một người cao lớn (ông Bữu Thạch) từ trong vườn nhảy qua hàng rào chạy trốn, lính đuổi theo bắt được, nay Lévêque xin trao cho triều đình xử. Hành động như trên, Lévêque muốn vu cho nhà vua sai Bữu Thạch ám hại mình. Sự thật, Bữu Thạch đang dạo mát ngoài đường thì bị bắt. Việc này, triều đình không biết xử trí ra sao, cuối cùng vì có sự thúc dục của tòa Khâm sứ nên phải tâu lên nhà vua. Vua Thành Thái châu phê rất hay, đại khái:
"Các người lại đi nghe một ông Khâm sứ như muốn gián tiếp buộc tội vua để làm cái việc  "dĩ  thần  nghị  quân"  chăng?.  Cứ  trả  lời  với  Khâm  sứ  rằng:  "Nhà  vua  muốn  ông chuyển việc này lên Pháp đình để họ cử người công bình sang họp với các quan triều thần mà nghị xử". Lévêque phản đối rằng không cần phải lập hội đồng, một mình y chứng kiến là đủ.
Vào khoảng năm 1903, vua Thành Thái ra Bắc rồi định trốn sang Tàu nhưng đến Thanh Hóa thì cơ mưu bại lộ. Khâm sứ Trung kỳ đánh điện ra chặn xe và đưa nhà vua về Huế. Vì không có bằng cớ, vua Thành Thái vẫn còn tại vị. Liên quan đến vụ này, có nhiều người bị đày đi Côn Lôn như các ông Dương Công Lương, ông Dư, ông Nghiêm,...bị đi Lao Bảo.
Từ khi xảy ra vụ này, vua Thành Thái bị tòa Khâm sứ kiểm soát rất gắt, không hoạt động gì được. Để che mắt người Pháp, nhà vua giả điên, hò hét hay đánh đập người trong cung. Vua bỏ tiền chiêu mộ một số đông phụ nữ, lập thành một đội nữ binh, mặc quần áo theo kiểu riêng, hàng ngày tập luyện quân sự và canh gát hoàng thành. Vua thân hành dạy họ cỡi ngựa, bắn cung, tính dùng họ vào việc khởi nghĩa nếu cơ hội đến. Đây cũng là hành động của một người ôm hoài bảo lớn nhưng không thực hiện được đành phải làm việc nhỏ cho thỏa chí một phần nào.
Từ khi bị áp lực của Lévêque, Hội đồng Thượng thư quyết định lấy mọi việc, không còn tâu trình gì lên nhà vua như thuở trước. Có người phản đối sự kiện này nhưng vô hiệu quả vì đa số các quan lớn trong triều chỉ biết có mệnh lệnh của Lévêque, thậm chí đến việc tiếp tự, Lévêque cũng bỏ nhà vua ra ngoài, y bắt cử một người lớn nhất trong triều thần để thay thế. Xem như vậy, ta thấy rõ ràng Lévêque đã ra mặt hủy bỏ địa vị và uy quyền của vua Thành Thái.
Màn cuối cùng của triều đại Thành Thái đã kết thúc ở chỗ các quan vào lạy nhà vua và đệ một tờ biểu yêu cầu Ngài thoái vị. Tờ biểu này đã có đầy chữ ký của họ. Riêng ông Ngô Đình Khả không chịu ký vào tờ biểu trên đây, mặc dầu có sự dọa nạt của Pháp và bè lũ vong nô, cho nên sau này từ cửa miệng sĩ phu Trung phần mới có câu: "Đày vua không Khả".
Chính ra, lúc ấy Toàn quyền Broni và Khâm sứ Trung kỳ Lévêque rất e ngại về vua Thành Thái. Muốn dẹp yên nỗi lo ngại ấy, họ đã dùng áp lực gây nên việc ép vua phải thoái vị. Sau đó, họ đày Ngài đi Vũng Tàu (Cap St Jacques) và cuối cùng đưa Ngài đi Phi Châu. Hoàng tử Vĩnh San lên thay, lấy hiệu là Duy Tân (1907).
Việc phế bỏ và lưu đày nhà vua không những đã làm sôi nổi dư luận ở Việt Nam mà còn làm xao xuyến cả chính giới Pháp, nên mấy tháng sau, Lévêque bị triệu hồi cho êm dư luận, nhưng các việc đã thi hành không có hoàn cải, đó là mánh lới của chính giới Pháp, khôn ngoan lắm thay! Còn phản ứng của sĩ phu Việt Nam như thế nào?
Thời bấy giờ, các vị khoa mục thường vào Huế tọa giám tức là theo học ở Quốc Tử Giám, trường này được coi như trường đại học ngày nay. Một số cử, tú trẻ tuổi đã sôi bầu máu nóng khi nghe triều đình chạy theo sức mạnh của ngoại bang. Họ liền thảo hịch kể tội và thóa mạ Trương Như Cương cùng đồng bọn. Sau đó, Phan Phúc Hòe, tác giả bài hịch bị bắt liền.
Năm 1914, chiến tranh Pháp Đức bùng nổ. Các nhà cầm quyền Pháp ở Việt Nam thấy vua Thành Thái có thể là mấu chốt cho cuộc khởi nghĩa chống Bảo hộ trong dịp này, liền bí mật chở Ngài sang an trí tại Réunion. Việc này xảy ra vào năm 1915.
Sau 32 năm trời đằng đẳng sống với thổ dân trên hòn đảo xa xôi ấy, đến tháng 5- 1947, nhờ con gái Ngài là vợ luật sư Vương Quang Nhường vận động với cao ủy Bollaert, cựu hoàng Thành Thái mới được trở về nước nhà.
Thuở ra đi Ngài là một thanh niên tráng kiện, với vẻ mặt phương phi, lộ khí phách anh hùng, ngày trở về Ngài đã là một cụ già lưng còng tóc bạc.
Về nước, vua Thành Thái phải chịu một điều kiện là chỉ ở miền Nam thôi. Sáu năm sau, cựu hoàng yêu cầu nhà cầm quyền Pháp cho Ngài trở lại Huế một thời gian ngắn để thăm viếng mộ phần các tiền đế, lời yêu cầu được chấp thuận.
Sau cuộc thăm viếng này, vào ngày 24 tháng 3 năm 1953, Ngài lại từ giả sông Hương, núi Ngự trở về tư thất ở Sài Gòn đường Lucien Mossard.
Đúng một năm sau, cũng ngày 24 tháng 3 năm 1954, cựu hoàng Thành Thái lại trở lại cố đô Huế, nhưng lần này, Ngài chỉ còn là cái xác nằm gọn trong chiếc quan tài, để bao thương tiếc cho quốc dân.

4- Vua Duy Tân
Lên thay vua Thành Thái bị người Pháp truất phế là hoàng tử Vĩnh San bấy giờ mới lên 8 tuổi lấy hiệu là Duy Tân. Vì Ngài non nớt, có một hội đồng phụ trách được đặt ra để điều khiển mọi việc trong triều. Vai trò quan trọng nhất khi đó tại Huế là Trương Như Cương, một phần tử được người Pháp rất tin dùng.
Lớn lên, vua Duy Tân tỏ ra là một thanh niên tuấn tú, hiên ngang, lỗi lạc và cũng như vua cha, có ý bài Pháp. Tất nhiên rằng lúc đó đã có người bí mật liên lạc với Ngài để trình bày nông nỗi vua cha bị người Pháp áp bức, triều thần phản bội và sự khổ nhục của quốc dân từ ngày mất nước, do đó mà tâm trạng của Ngài bị kích thích, rồi Ngài hay đòi ra ngoài, lấy cớ chốn cung điện quá tù túng. Người Pháp cho làm nhà thừa lương ngoài cửa Tùng (Quảng Trị) để Ngài ra nghỉ mát và tiêu khiển. Thực ra, Ngài ra ngoài để xem xét dân tình và để bắt liên lạc với nhân sĩ trong nước. Ngài đã gặp Khóa Bảo là một nhân vật cách mạng và một số nhân sĩ ái quốc tại địa phương này.
Một hôm, Ngài chơi các ở ngoài bãi biển, một cận thần lấy nước cho Ngài rửa tay, Ngài hỏi: "Tay nhớp lấy nước rửa, thế nước nhớp thì lấy gì mà rửa?"
Được biết Ngài khẳng khái và yêu nước thương dân, nhiều lãnh tụ phong trào Hậu Văn Thân (kể từ đầu thế kỷ XX phái nhà nho trẻ tuổi kế tiếp các nhà lãnh đạo Cần Vương, tức là phái Hậu Văn Thân) bí mật tìm đến Ngài để cùng gây phong trào cứu quốc nối tiếp sự nghiệp của vua Hàm Nghi và Thành Thái.
Vào khoảng tháng 9 năm 1915, đảng Việt Nam Quang Phục họp đại hội ở Phú Xuân (Huế). Theo lời đề nghị khởi nghĩa của đảng bộ Quảng Ngãi, đảng quyết định mở cuộc bạo động để cứu quốc. Dự vào cuộc thảo luận kế hoạch bạo động có: Nguyễn Thúy, Lê Ngưng, Lê Triết, Nguyễn Nậm đại diện cho Quảng Ngãi. Thái Phiên, Trần Cao Vân, Phan Thành Tài, Đỗ Tư đại diện cho Quảng Nam. Đoàn Bổng đại diện cho Thừa Thiên.
Phan Phú Tiên đại diện cho Quảng Trị. Nguyễn Chánh đại diện cho Quảng Bình.
Đại hội họp tại nhà ông Đoàn Bổng ở đường Đông Ba (Huế). Ông Thái Phiên được cử làm chủ tịch. Sau mấy ngày bàn bạc, đại hội quyết định ý chí kể trên và mời nhà vua tham gia vào cuộc khởi nghĩa. Họ chia nhau công việc như sau:
- Ông Thái Phiên và ông Trần Cao Vân phụ trách việc liên lạc với vua Duy Tân.
- Ông Lê Ngưng phụ trách thảo tờ hịch và chương trình bạo động.
- Ông Nguyễn Thúy và ông Lê Đình Dương (y sĩ) đi thương lượng với cố đạo Bàn Gốc
để thông đồng với viên quan tư người Đức ở Mang Cá có cảm tình với cuộc khởi nghĩa.
- Ông Nguyễn Chánh làm ủy viên kiểm soát. Các tỉnh đều phải cấp tốc vận động binh lính và dân chúng để tiếp tay vào cuộc bạo động này.
Lúc bấy giờ vua Duy Tân đã 16 tuổi. Vua thường lấy làm đau lòng khi thấy dân tình cực khổ, chịu sắc thuế nặng nề lại phải đánh giặc mướn cho người Pháp, vì lúc này Pháp lấy người Việt đi dự vào cuộc Thế chiến Đệ nhất (1914 -1918).
Vua Duy Tân đã tỏ thái độ chống Pháp trong việc giao cho ông Huỳnh Côn, Thượng thư bộ Lễ gửi một bức thư cho chính phủ Pháp trách cứ về việc không thi hành triệt để Hoà ước 1884. Rốt cuộc không ai dám đem bức thư này đi cả, có kẻ lại đi ton hót với Khâm sứ Trung kỳ, nên việc này khiến toà Khâm sứ rất lấy làm bất mãn.
Ông Thái Phiên và ông Trần Cao Vân tìm cách vào tiếp xúc với nhà vua. Hai ông bỏ ra một số tiền lớn cho người tài xế của nhà vua, thu xếp cho y thôi việc để nhờ y giới thiệu Phan Hữu Khánh tốt nghiệp trường thương mại và kỹ nghệ ở Huế vào thay.
Khánh là một thanh niên lanh lợi, khôn ngoan, được nhà vua tin dùng. yêu mến. Nhờ đó, đảng cách mạng biết được rõ ràng tâm chí của nhà vua. Hai tháng sau, Phan Hữu Khánh dâng vua một bức thư của Trần Cao Vân, đại ý nói thảm họa của nước nhà từ ngày trở nên một quốc gia nô lệ và nguyện vọng phục quốc của đồng bào. Trong thư có câu:
"Thiên khải thánh minh hữu bài Pháp hưng bang chí".
Nghĩa là Trời sinh vua thông minh chính trực, có chí khí chống Pháp phục quốc. Lại có câu vạch rõ tội ác của người Pháp:
"Phụ hoàng Hoàng đế hà tội kiến thiện? Dực Tôn lăng hà cớ kiến quật?"
Nghĩa là Đức vua cha (vua Thành Thái) có tội gì mà bị đày? Lăng tẫm vua Dực Tôn (vua Tự Đức) cớ gì bị đào lên?.
Nhà vua đọc thư cảm động vô cùng. Ngài yêu cầu trực tiếp với người viết thư. Ông Trần Cao Vân bèn bàn với ông Thái Phiên và ông Phan Thanh Tài tìm đến Ngài. Theo kế hoạch, ngày 12 tháng 3 âm lịch (1916), vua ngự xem tập lính ở bãi Trường Thi. Sau khi duyệt binh qua loa cho xong chuyện, vua đi chơi hóng mát dọc theo con sông đào gần đó. Đến một nơi bên bờ sông dưới gốc cây, vua thấy ông Trần Cao Vân và ông Thái Phiên xách giỏ ôm cần câu ngồi đợi sẵn từ lâu. Sau khi hỏi qua công việc, nhà vua định ngày mồng 1 tháng 4 khởi sự và xin chia phần việc, Trần Cao Vân ngần ngại, song vì nhà vua nài nỉ mãi nên Vân bèn ưng cho Ngài đúc 4 cái ấn kinh lược để dùng vào việc điều khiển công việc bốn khu dưới đây:
1) Bình Trị (Quảng Bình, Quảng Trị)
2) Nam Ngãi (Quảng Nam, Quảng Ngãi)
3) Bình Phú (Bình Định, Phú Yên)
4) Khánh Thuận (Khánh Hòa, Bình Thuận)
Trước khi từ giả, hai người còn dặn ngày đến hộ giá nhà vua đi Quảng Ngãi.
Khoảng trung tuần tháng 3 năm 1916, Việt Nam Quang Phục Đảng (Trung Bộ) họp đại hội lần thứ hai ở Phú Xuân để nghe báo cáo lại tình hình, kiểm điểm lại lực lượng, duyệt lại chương trình và định kế hoạch bạo động.
Xét về lực lượng, đại hội thấy rằng thực lực cũng tạm đủ. Các tỉnh hầu hết đều có cơ sở vững chắc, lực lượng trung kiên, lại thêm ở Thừa Thiên có lính khố vàng, lính khố xanh, lính Tây do quan tư người Đức chỉ huy ở Mang Cá và một đội lính mới tuyển ước chừng một ngàn người chịu ảnh hưởng của cách mạng. Thêm vào đó có một số quan lại, viên chức và nhân dân chung quanh Huế và miền quê tham gia. Quảng Trị chỉ có đội lính khố xanh do các ông Quản Thiện, Quản Nguyên chỉ huy, tổ chức về dân chúng thì đã có ông Khóa Bảo cầm đầu. Quảng Bình chỉ có vài ba đồng chí. Các tỉnh miền Nam lực lượng chẳng được là bao. Kế hoạch khởi nghĩa đại lược như sau:
Đại hội tính rộng cả đường tiến thoái nếu chẳng may thất bại hoặc gặp sự khó khăn, các tỉnh phải tiếp ứng cho nhau. Việc sắp đặt như vậy đáng kể là chu đáo và được nghiên cứu rất tỉ mỉ. Rồi đại hội định khởi sự vào ngày mồng 1 tháng 4 âm lịch (tháng 5 năm 1916).
Vì tình riêng, ngày 30, một viên cai khố xanh có chân trong đảng tên là Võ Cử đóng ở đồn Quảng Ngãi bị đổi đi Đức Phổ. Trước khi lên đường, Cử có dặn với người em họ là Trung làm lính giản ở dinh ông Án nên về nhà đừng lại dinh. Trung không hiểu, vặn hỏi, vì thương em, Cử đành nói sự thật, Trung vâng lời, chiều hôm ấy đến xin phép viên Án sát Phạm Liên.
Thấy sắc mặt Trung khác thường và điệu bộ khả nghi, Liên liền gạn hỏi, Trung bèn thưa thật. Trung liền bị đưa qua tòa Sứ. Lập tức, Cử bị bắt đưa về tra hỏi, Cử phải khai Thiểm và Cẩn. Cẩn làm tùy phái tòa sứ được đảng giao cho trọng trách đầu độc viên Công sứ. Còn Thiểm, cai lính khố xanh được đảng cử làm giám binh, đứng đầu việc chỉ huy trại lính. Thiển và Cẩn bị bắt, tra khảo nhưng không chịu khai ai cả.
Chiều mồng một, binh lính Việt Nam bị lột khí giới và bị tống lao hết. Thành phố Huế thiết quân luật, lính Pháp đi tuần xét các ngả đường. Đến giờ đã định, dân chúng kéo đến các điểm đã hẹn. Đội lính khố xanh ở Nghĩa Hành do đội Luân, cai Xứ chỉ huy cũng kéo đến cách thành hai cây số, nấp vào một chỗ nhưng đợi mãi không thấy, đành phải rút về. Mấy ngày sau đó, nhiều người bị khám nhà, bị bắt và bị tra tấn. Cả thẩy, 14 người bị chém, trong đó có Lê Ngưng. Hơn 200 bị án khổ sai, đày đi Côn Lôn và Lao Bảo.
Ở Quảng Nam, đảng cũng bị vỡ lở trước ngày bạo động. Nguyễn Đĩnh phản đảng, đem giấy má sổ sách báo cho người Pháp, Đĩnh người An Quán, trước làm tuần phủ. Vì vậy ở Hội An, y sĩ Lê Đình Dương bị bắt đưa vào Nam rồi lên Ban Mê Thuột. Ở Đà Nẳng, Phan Thanh Tài bị xét nhà. Tài trốn thoát nhưng sau bị bắt và bị chém vào ngày mồng 9 tháng 6 năm 1916. Một số khí giới và quần áo sắm cho dân quân bị tịch thu. Cuộc bạo động ở Hội An và Đà Nẳng vì vậy cũng thất bại.
Người Pháp canh phòng rất ráo riết. Riêng ở Tam Kỳ, phó đảng chỉ huy dân quân đến vây phủ và giết chết viên đại úy người Pháp. Hôm sau, quân cách mạng bị dẹp tan. Kết quả hơn một trăm cái án chém và một số đông bị đày đi Lao Bảo và Côn Lôn.
Ở Huế, tòa Khâm được tin có biến cuộc vội ra lệnh đề phòng gắt gao. Tuy vậy đối với Nam triều, họ vẫn giữ bí mật, ngày mồng một, Khâm sứ Charles ban hành mật lệnh giới nghiêm. Trần Cao Vân và Thái Phiên chẳng hay gì cả. Đêm mồng 1 rạng ngày mồng 2 tháng 4 năm Duy Tân thứ mười (3 tháng 5 năm 1916) hai ông cùng đội Xiêm, tức Nguyễn Quang Xiêu đến cửa Hòa Bình để đón vua Duy Tân, nhà vua lẫn ra khỏi thành không may lại gặp tên mật thám Nguyễn Văn Trứ làm thông phán tòa Khâm. Liền đó vua bị lính đuổi theo, túng thế, nhà vua phải gói ấn bỏ lại trên cầu Tràng Tiền rồi đánh lừa quân lính mà theo Thái Phiên và Trần Cao Vân lẫn trốn. Tòa Khâm phái Phan Đình Khôi mang quân đi tầm nả, bắt được Thái Phiên ở chùa Thiên Mụ, đưa về Huế và nhốt vào đồn Mang Cá.
Trần Cao Vân cũng bị bắt ở làng Hà Trung thuộc huyện Phú Lộc (Huế).
Ngày 17 tháng 5 năm 1916, các ông Trần Cao Vân, Thái Phiên, Phạm Hữu Khánh và hai tên thị vệ bị đem ra chém tại An Hòa, còn vua Duy Tân sau 10 ngày bị nhốt ở đồn Mang Cá, Pháp liền đưa Ngài sang đảo Réunion ở Phi Châu.
Cuộc cách mạng của Phong Kiến lại một phen nữa đổ nhiều xương máu và vô cùng uổng phí. Rồi từ đó gọng kìm đế quốc lại xiết chặt hơn bao giờ hết vào giới quan liêu và trí thức Việt Nam.

5- Cuộc Bảo Hộ Của Nước Pháp
Vua Duy Tân rời khỏi nước thì ông hoàng Bửu Đảo, con vua Đồng Khánh lên ngôi, lấy niên hiệu là Khải Định vào năm 1916. Vua Khải Định trị vì đến năm 1925 thì mất vào ngày 6-11-1925.
Ngày 8-1-1926, hoàng tử Vĩnh Thụy được tôn lập, lấy niên hiệu là Bảo Đại. Vĩnh Thụy bấy giờ mới lên 9 tuổi. Khi vua cha còn sống, Vĩnh Thụy được gửi sang Ba Lê du học vào tháng 3-1922.
Mặc dầu Vĩnh Thụy đã lên ngôi nhưng vẫn còn ít tuổi nên phải trở qua Pháp tiếp tục việc học. Ở nước nhà, Pháp đặt Tôn Thất Hân làm phụ chánh thay Bảo Đại điều khiển triều đình. Năm 1932, Bảo Đại mới thật sự ở ngôi cho tới trung tuần tháng 8 năm 1945. Ông vua thứ 13 này của Nguyễn triều do cao trào cách mạng mùa thu đã bị đẩy ra khỏi sân khấu chính trị Việt Nam, để nhường địa vị cho chánh phủ Hồ Chí Minh. Lúc này, chính quyền Pháp đã bị quân phiệt Nhật thủ tiêu sau cuộc đảo chính 9-3-1945 (sẽ được nói tới dưới đây).
Thuở sinh tiền, vua Khải Định không để lại được điều gì đáng kể cho quốc dân vì công việc của nước nhà hoàn toàn do người Pháp sắp đặt và định đoạt. Vua Khải Định không hơn không kém, chỉ là một ông vua bù nhìn. Đến vua Bảo Đại, tình thế cũng chẳng sáng sủa gì hơn. Hai vị hoàng đế này chỉ là công chức ăn lương của Pháp để ký vào sắc dụ cho người Pháp thi hành mọi ý muốn của họ ở hai xứ theo chính thể Bảo hộ và Trung Bắc lưỡng kỳ kể từ ngày Paul Bert giữ chức toàn quyền trên toàn thể lãnh thổ Đông Dương (lúc này hai nước Cao Mên và Ai Lao cũng đã trở thành xứ Bảo hộ của Pháp do sự thỏa thuận của Xiêm La). Còn Nam kỳ kể từ Hòa ước 5-6-1862 đã thành thuộc địa nên nằm trực tiếp dưới quyền thống trị của người Pháp. Nguyên thủ ở Nam kỳ là một vị thống đốc nhưng mọi việc quan trọng của Nam kỳ đều phải có sự kiểm duyệt của viên Toàn quyền là vị chỉ huy cao nhất.
Tại đây, Pháp vẫn để chức Phủ, Huyện, Cai tổng và Hương chức. Nhưng các quan Tổng trấn và Bố chính thì bãi đi. Người Pháp đặt ra chức Tham biện do trường Hành chánh tập sự Sài Gòn (Collège des Stagiaires à Saigon) đào tạo ra để thay thế và dĩ nhiên các viên tham biện đều là người Pháp. Tham biện có nhiệm vụ thâu thuế, thi hành việc cảnh bị, xử án ở mỗi tỉnh và trực thuộc viên Thống đốc Nam kỳ. Các viên Thống đốc đầu tiên là những hải quân Đề đốc nhưng kể từ 1879 chức vụ này giao cho các người dân chính.

a) Việc cai trị ở Nam kỳ
Tại các xã thôn Nam kỳ có Hội đồng Hương chính gồm 12 người Kỳ mục do dân trong xã bầu ra. Người ra ứng cử Kỳ mục phải có tài sản và uy tín. Quyết định của Hội đồng Hương chính sẽ được thi hành do ba vị Hương thân, Thôn trưởng và Hương hào là ba cấp thấp nhất của Hội đồng. Hội đồng quản trị về việc thuế má, tài sản, đường xá, cầu cống, trường học, miếu đình và các cơ sở công cộng,... Trên đơn vị xã là tổng do một chánh, phó Cai tổng được lựa chọn và bầu ra do các xã. Các tổng hợp lại thành tỉnh, đặt dưới quyền một quan cai trị người Pháp. Ở một vài tỉnh chánh, phó Cai tổng là những  người  trung  gian  giữa  các      quan  chủ  tỉnh  người  Pháp  (Tham  biện).  Ở những nơi khác, các tổng hợp lại thành quận do các quan Đốc phủ (cao cấp nhất trong ngạch hành chánh ở Nam kỳ) quan Phủ hay Huyện cầm đầu. Cũng có một vài quận quan trọng đặc biệt đã được công chức Pháp bổ đến giữ việc cai trị. Còn ở tại tỉnh lỵ, ngoài viên tham biện người Pháp và một vài công chức Pháp làm phụ tá, giữ kế toán, có một số công chức người Việt là các Đốc phủ sứ, Phủ, Huyện, Thông ngôn, Thư lại. Một Hội đồng dân biểu hàng tỉnh hay hàng quận mỗi năm họp với viên Tham biện để định ngân sách và mọi vấn đề linh tinh trong tỉnh.
Viên Thống đốc ngụ ở Sài Gòn có trách nhiệm về việc cai trị toàn xứ, điều khiển các quan cai trị các tỉnh và các cơ sở chuyên môn (Thương chính, Bưu điện, Công chánh, Học chính,...) lại được một Hội đồng tư vấn, Hội đồng tư pháp, Hội đồng quản hạt giúp đỡ và biểu quyết ngân sách toàn sứ hàng năm.
Thêm vào, có Phòng thương mại, Phòng canh nông gồm các hội viên Pháp, Việt, cử ra một đại diện tại Nghị viện Pháp. Riêng Sài Gòn, Chợ Lớn, có một Hội đồng thành phố, hội viên cũng vừa là Pháp, vừa là Việt. Các hội viên này bầu ra một viên Đốc lý để điều khiển guồng máy cai trị ở Sài Gòn, còn ở Chợ Lớn thì có một công chức khác do phủ Thống đốc bổ nhiệm.

b) Việc cai trị ở Bắc kỳ
Ở đây, nền hành chánh không trực tiếp với Pháp nhiều như ở Nam kỳ. Đứng đầu phủ là huyện, có các quan Tri phủ, Tri huyện, buổi đầu tuyển lựa trong các người khoa mục nho học (Tú tài hay Cử nhân) sau chính phủ Pháp lập ra trường Hậu bổ cùng trường Luật để lấy người tân học ra làm quan. Giúp việc họ có một văn phòng có Thông phán hay Đề lại giúp việc. Phụ tá có hai viên thông lại và một ít lính lệ. Năm bảy phủ, huyện hợp lại thành một tỉnh, đặt dưới quyền một viên Tuần phủ. Ở tỉnh lớn gồm nhiều phủ, huyện hơn thì có Tổng đốc (Bắc Ninh, Thái Bình, Nam Định). Bên cạnh viên Tuần phủ hay Tổng đốc có một quan Án (Án sát) và một quan Đốc học, các vị này đều thuộc quyền một viên Công sứ Pháp là chủ tỉnh. Tại mỗi tỉnh Bắc kỳ cũng có một hội đồng hàng tỉnh như ở Nam kỳ, thành phần của hội đồng toàn là người Việt có nhiệm vụ giúp ý kiến cho viên Công sứ Pháp về mọi vấn đề cai trị trong tỉnh. Ở các miền biên giới và  thượng  du,  Pháp  lập  ra  các  Đạo  do  các    quan  Pháp  cai  trị      trưởng  địa phương mang chức Quản đạo.
Trên các Công sứ có viên Thống sứ (ở Bắc kỳ) và Khâm sứ (ở Trung kỳ). Trước đây, Pháp đặt chức Kinh lược người Việt để trông coi toàn xứ, nhưng từ năm 1897, Pháp bãi Nha Kinh lược để cho người của họ nắm hết mọi quyền hành và cũng vào năm 1897 Pháp lập ra một Nghị viện có tính cách tư vấn như ở Nam kỳ. Người có sáng kiến này là Toàn quyền Paul Bert. Nhân viên của Nghị viện do các tỉnh bầu ra để họp với Thống sứ hay Khâm sứ mỗi năm một đôi lần. Bắc kỳ cũng có Phòng thương mại đặt tại Hà Nội và Hải Phòng và một Phòng canh nông. Hai thành phố này, trên Pháp lý đã nhượng đứt cho Pháp cũng như Đà Nẳng ở Trung kỳ, có chức Đốc lý đứng đầu và có một hội đồng gọi là Hội đồng thành phố để xem xét các việc cai trị.

c) Việc cai trị ở Trung kỳ
Tại Trung kỳ, trên có vua và triều đình nhưng chỉ là hư vị mà thôi. Nếu người Pháp thi hành đúng tinh thần Hòa ước năm 1884 thì vua của ta chưa mất hết quyền hành, nhưng từ giai đoạn này, những người ra làm quan thường là những phần tử hoạt đầu hay thân Pháp hoặc là tay sai của Pháp, có công lao với Pháp trong việc bình định nước ta trước đây thì còn ai là người tranh đấu cho mọi vấn đề quyền lợi của đồng bào nhất là ở Trung kỳ, chính ra Pháp chỉ có thể đặt chức Khâm sứ để quyết định mọi việc bang giao và kiểm soát việc thi hành hòa ước bảo hộ mà thôi, còn việc cai trị các tỉnh thuộc các quan ta, trừ việc thương chính, công chính hay một vài cơ sở có tính cách chuyên môn mới phải dùng đến các kỹ sư Pháp. Nhưng đến triều Thành Thái thì Pháp đã dùng áp lực để đặt bộ máy thống trị như ở Bắc kỳ.

Phần 4 - Chương 5
Những Cuộc Tranh Thủ Độc Lập Của Việt Nam Từ 1928 - 1951

- Việt Nam dưới chế độ Pháp thuộc
- Những cuộc tranh đấu của thế hệ chúng ta
- Nhật Bản can thiệp vào nội tình của Việt Nam
- Những mưu mô của hai phe Thực, Cộng
- Chế độ Pháp thuộc cáo chung
1- Xã Hội Việt Nam
Việt Nam do hai Hòa ước 1862 và 1884 cùng với lân quốc Ai Lao, Cao Mên từ hậu bán thế kỷ XIX đã thành thuộc địa của nước Pháp. Các việc lớn nhỏ đều do người Pháp nắm giữ hết, vì vậy nếp sống vật chất và tinh thần dần dần cũng thay đổi theo quan niệm văn hóa và chính trị của các nhà thực dân, đế quốc.
Năm 1897 ông Doumer làm toàn quyền Đông Dương đặt các thuế đinh, điền, thổ trạch, muối, thuốc phiện, xuất nhập cảng, đặt đường xe lửa, xây dựng cầu cống, mở mang canh nông, công nghệ. Năm 1902, ông Beau thay ông Doumer xúc tiến việc dạy chữ Pháp để bãi bỏ Nho học, lập Y tế cục, nhà thương, các sở bưu điện, ... Đứng vào địa vị người Việt Nam ở thế hệ cũ, ta thấy quả bộ mặt cũ của xã hội Việt Nam có thay đổi rõ rệt vì đã bớt được nhiều con đường nhỏ hẹp, nhiều thị thành lụp xụp, nghèo nàn ánh sáng, trục giao thông thủy lộ mở được nhiều, tin tức thư từ đi lại mau lẹ, xe điện, xe hơi, tàu hỏa đi khắp xứ. Về văn hóa, cái học của Tây phương có phần khoáng đạt và có tinh thần dân chủ hợp với sở nguyện của nhiều người tuy chưa sâu rộng lắm. Nhưng có nhìn bằng con mắt sâu sắc của các nhà chính trị với những nhận xét tinh tế thì mới rõ Đông Dương nói chung, Việt Nam nói riêng, đã chỉ là một thuộc địa để khai thác và là một thuộc địa khai thác ngon lành nhất nếu so với nhiều thuộc địa khác cũng của Pháp. Trong quan niệm của Đề đốc Pháp, người Pháp đến đây đâu có phải để thi hành nhân nghĩa và thật tình gieo rắt hạt giống văn minh. Như vậy những công cuộc xây dựng mở mang ở nước ta dĩ nhiên chỉ để phục vụ quyền lợi cho các nhà tư bản và đế quốc mà thôi. Xin hãy coi danh sách một số hội buôn dưới đây để có một ý niệm về sự khai thác của tư bản Pháp ở Đông Dương tai hại đến chừng nào:
Các nhà ngân hàng đứng đầu có Đông Dương ngân hàng, việc phát hành giấy bạc Đông Dương, công ty nấu rượu Fontaine, công ty Thủy điện, sở si măng Hải Phòng, công ty chế tạo rượu Bia và nước ngọt Hommel, công ty nông nghiệp An Nam, công ty rừng núi và các xưởng cưa Biên Hòa, công ty tàu điện Đông Dương, công ty xây dựng các cầu cống, công ty các đồn điền cao su đất đỏ, công ty hỏa xa Vân Nam, Địa ốc ngân hàng, công ty cao su Cửu Long Giang, công ty dệt sợi Nam Định, công ty các xưởng làm đường Đông Dương, công ty vận tải hàng hải Nam Kỳ và Đông Dương, công ty khai thác thiếc và Wolframs Bắc kỳ, nhà máy diêm, công ty khai thác khoáng chất Đông Dương, công ty than Hongay, Đông Triều, và nguy hiểm nhất là Đông Dương ngân hàng, viện phát hành giấy bạc Đông Dương.
Như thế thì đường xá, cầu cống làm ra chỉ để chuyển dịch hàng hóa, sản phẩm của các nhà buôn, nhà kỹ nghệ, nhà trồng tỉa và để hành quân bảo vệ quyền lợi của người Pháp ở đây hơn là để phục vụ đám dân bản xứ.
Trong khu vực kinh tế, thương mại trên đây, nhìn vào các người tai to mắt lớn, không thấy người Việt nào hết từ Hà Nội vào tới Sài Gòn, họa chăng có một ít mại bản tôi tớ của các nhà ngân hàng đưọc vay tiền về làm sét ty bóc lột tá điền hay mở mang vài kỹ nghệ nhỏ đã thành một thứ vật hy sinh mà Đông Dương ngân hàng đã thẳng tay bóp chết hồi kinh tế khủng hoảng năm 1930. Nhưng số người ít ỏi này riêng đối với Hoa kiều, Ấn kiều cũng chỉ là những cái bóng qua, kể chi đối với các nhà thực dân Pháp.
Về ruộng đất, những chỗ tốt lành người Pháp cũng chiếm hết, ngay cả những nơi người dân quê đã khai thác thuộc công điền hay công thổ. Năm 1890 ruộng đất người Pháp khai thác trên toàn cõi Đông Dương là 11.390 mẫu tây, tới 1939 diện tích này đã lên đến 1 triệu mẫu, riêng ở Nam kỳ tới 610.000 mẫu, theo sự kê cứu của Piere Naville trong cuốn La Guerre du Việt Nam. Rồi những người dân quê hiền lành của ta đã bị cưỡng bách đi làm phu phen, cu ly ở các đồn điền, các xí nghiệp có đi mà chẳng có về, nhất là các người đi làm cho các đồn điền cao su đất đỏ, mỏ than Hongay, thường bị đánh đập dày vò lại thêm ma thiêng, nước độc chết vô kể.
Trong  các  ngành  hành  chánh  cũng  như  trong  quân  đội,  người  Việt  chỉ  được  giữ những chức hạ đẳng và một số người được làm quan Phủ, Huyện cũng không được người Pháp trọng vọng. Ta cũng nên biết rằng phần nhiều quan lại thời Pháp không thuộc về những danh gia, tử đệ. Vì cuối thế kỷ XIX nước ta bại trận, sĩ phu ta có phong trào bất cộng tác với địch, các nhà nho ái quốc đều cấm con cháu học cái thứ "chữ như con dun của đám người man di, mắt xanh lè". Vậy nên chỉ có những người ít liêm sĩ mới nhảy ra xu mị tân trào, do đó văn chương Việt Nam đã phản ảnh được nhiều sự kiện rất hài hước qua các câu thơ dưới đây:
Đem thân khoa giáp làm tôi Pháp Lầm bởi nhà nho học chữ Tàu ...
Con nên khoa giáp, cha mòn gối Em được công danh, chị ...
Trong nhà bà đầm cong đít vịt Ngoài sân ông cử ngẩng đầu rồng
để đánh dấu sự sa đọa của một hạng người tự phụ là trí thức và phương diện quốc gia trong thời nô lệ.
Qua các trang trên đây. ta thấy sự khai thác của giới tư bản và tài phiệt Pháp quá vĩ đại và không thể không có cảm tưởng rằng nước ta là một miếng thịt cho trăm dao xâu xé. Quả vậy, nếu người Pháp còn tồn tại trên giải đất này thì cái họa diệt chủng của người Việt cũng không phải là điều xa xôi lắm. Chính một số người vô tư Pháp cũng nhận thấy tình trạng này và trách các nhà thực dân Pháp quá già tay nặn bóp, quá miệt thị và ác độc đối với người Việt. Và đây là cả một sự sai lầm về chính sách nên đế quốc Pháp tan tành sự nghiệp trên toàn cõi Đông Dương thật là dĩ nhiên. Sự sai lầm ấy là đã hạ người Việt Nam xuống một loại bồi thần hạ cấp, một loại nô lệ còm cõi về vật chất, nhục nhã về tinh thần, gây nên căm hờn trong khắp các tầng lớp xã hội ở thuộc địa này, nên khi biến cố xảy ra, người Pháp ở Đông Dương không có một bạn đồng minh nào trong những giờ phút đen tối, đáng lẽ nếu họ khôn ngoan hơn, nhân đạo hơn, đám quan trường tay sai trực tiếp của họ có nhiều uy tín để lôi kéo quần chúng cho họ, thương gia địa chủ bản xứ mạnh mẽ có thể góp phần tranh đấu với họ, giới lao động không bị chà đạp và bóc lột quá, sẽ không chạy theo đối phương.
Thời bấy giờ cụ Phan Tây Hồ đã cảnh cáo các nhà cầm quyền Pháp trong một bức thư như sau: "Chính Phủ nên chọn hiền tài trao cho quyền bính, lấy lễ mà tiếp, lấy thành mà đãi, nới rộng quyền ăn nói cho các thân sĩ, báo quán cho mở rộng để thông đạt tình dân, thưởng phạt cho nghiêm minh, khuyên răn quan lại, sửa đổi luật pháp, giảm bớt sưu thuế, khuếch trương công nghệ thì sĩ dân vui lòng giúp chính phủ, chứ còn ai lo toan chống cự nữa"
Nhưng chính phủ thuộc địa còn quá say sưa với thời hoàng kim và quá tin tưởng ở cái dư uy của các chiến công F. Garnier, H. Rivière, Rigaul de Genouilly cuối thế kỷ XIX nên đã bỏ ngoài tai lý thuyết "Pháp Việt đề huề" của cụ Sào Nam và lời khuyến cáo của cụ Tây Hồ. Rồi "Vật cùng tắc biến, nhân cùng tắc phản" đó là một định luật ở thế gian này. Cái hậu quả của một chế độ "Người bóc lột người" đã đưa nước Pháp tới đâu?

2-Các Cuộc Chiến Đấu Của Phái Tân Học
Năm 1925, cụ Phan Bội Châu bị Pháp bắt được ở Thượng Hải dẫn về Việt Nam, sau cụ được ân xá nhờ ở dư luận công phẩn của đồng bào toàn quốc, đáng lẽ Pháp đã thẳng tay tiêu diệt nhà lão thành cách mạng của chúng ta. Dù sao việc cụ Phan kể trên cũng tỏ rõ rằng cuộc vận động Đông Du đã thất bại, hai nước Tàu, Nhật không giúp được phái cách mạng như lòng ta muốn. Rồi cụ Sào Nam và nhiều thanh niên của ta bị mời ra khỏi đất Nhật. Chính phủ Quốc Dân Đảng Trung Quốc chỉ làm được một việc là cho cách mạng Việt Nam tá túc mà thôi, mặc dầu một số nhân tài của ta đã có công chiến đấu bên cạnh cách mạng quân của Trung Tôn Sơn để dựng nên Trung Hoa Dân Quốc. Song song với phong trào Hậu Văn Thân từ 1917, nhiều cuộc bạo động vẫn xảy ra.
Những người tân học cũng thấy mình có nhiệm vụ nối chí tiền nhân và hưởng ứng với các nhà cách mạng hải ngoại, vì vậy đã có những vụ dưới đây liên hệ rõ ràng với chương trình hành động của phái Đông Du:
-Ông Lương Ngọc Quyến ở Nhật Bản về năm 1917. Đến Hương Cảng, ông bị mật thám Anh bắt giao cho Pháp, Pháp đem giam ông tại nhà lao Thái Nguyên. Sau ông đội Cấn khởi nghĩa ở tỉnh này, ông Quyến có tham gia nhưng bị què chân nên trước khi quân khởi nghĩa thất bại, ông tự tử để anh em khỏi vì mình mà lúng túng. Cuộc dấy động của đội Cấn kéo dài được vài tháng.
-Năm 1923, toàn quyền Đông Dương Martial Merlin đi công cán bên Nhật về đến Sa Điện (Quảng Châu) được Pháp kiều đãi tiệc ở Victoria, bị một thiếu niên Việt Nam là Phạm Hồng Thái ném bom, chỉ riêng Merlin thoát hiểm, còn một số người chết và bị thương, họ Phạm nhảy xuống sông mà chết. Việc này có ảnh hưởng rất lớn tới tinh thần dân tộc ta ở trong nước vì bấy giờ quốc dân có vẽ thờ ơ, chán nản với việc chống Pháp.
-Năm 1924-1925, nhiều đảng phái cách mạng được tổ chức ra. Thoạt tiên là Việt Nam chi bộ của hội Á Tế Á Áp Bức Nhược Tiểu Dân Tộc thành lập ở Quảng Đông do Nguyễn Ái Quốc và Lâm Đức Thụ chủ trương. Một chi bộ hoạt động ở Việt Nam sau đổi ra Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội như trên đã nói.
-Ở Ba Lê có đảng Việt Nam Độc lập do ông Nguyễn Thế Tuyên tổ chức trong giới sinh viên và anh em làm tàu biển. Năm 1926 Tân Việt Cách Mạng Đảng tức Phục Việt cũ hoạt động ở Hà Tỉnh và Sài Gòn. Năm 1927, nhóm Nam Đồng Thư xã có Phạm Tuấn Tài, Hoàng Phạm Trân tức Nhượng Tống, Nguyễn Thái Học lập ra Việt Nam Quốc Dân Đảng. Năm 1928 Tạ Thu Thâu và Nguyễn An Ninh lập Đệ Tứ Quốc tế. Năm 1929 Việt Nam Cách Mạng Đồng Chí Hội đổi ra Đông Dương Cộng Sản Đảng. Năm 1930, Việt Nam Quốc dân Đảng khởi nghĩa ở Yên Bái vào mùng 10 tháng 2 bị thất bại. Đế quốc thực dân ra tay khủng bố. Mười ba yếu nhân VNQĐD bị lên đoạn đầu đài vào ngày 17- 6-1930, còn hàng ngàn đảng viên bị đày đi Côn Đảo, Sơn La và Lao Bảo. Từ năm 1931- 1932, khắp Nam Bắc có những vụ biểu tình do đảng Cộng Sản bí mật tổ chức bị lính Lê Dương đàn áp rất tàn nhẩn. Năm 1937, Mặt Trận Bình Dân bên Pháp lên cầm quyền thì các nhà cách mạng thuộc các đảng phái đều đứng lên công khai lập Đông Dương Đại Hội Nghị yêu cầu cải cách chính trị và giải phóng các quốc sự phạm. Pháp chịu nhượng bộ khá nhiều bằng cách ưu đãi quốc sự phạm, kiếm việc cho họ làm.
-Năm 1940 cuộc Đại chiến Đệ nhị xảy ra, quân đội của Thiên Hoàng tiến vào Việt Nam thì Phục quốc quân của ta đánh chiếm Lạng Sơn nhưng vì Nhật không hết lòng giúp đỡ nên ít tuần sau, Pháp điều đình xong được với Nhật, liền vây đánh tan quân cách mạng. Chủ tướng là Trần Trung Lập bị bắt và bị xử bắn cùng hàng trăm binh sĩ ở Lạng Sơn dưới thời Công sứ Chauvet.
Cũng nên nhắc rằng trước khi quân Nhật bước vào nội địa, một đảng quốc gia mới là Đại Việt Dân Chính ra đời do ông Nguyễn Tường Tam lập ra gồm nhiều trí thức, công chức và sinh viên và cũng có liên lạc với quân phiệt Nhật Bản. Khi Phục quốc quân tan vỡ, Pháp đem các quốc sự phạm trong nước đi an trí thì Đại Việt Dân Chính cũng có một số đảng viên bị bắt, riêng ông Nguyễn Tường Tam chạy thoát qua Tàu. Sau ít lâu, Đại Việt Dân Chính được tổ chức lại và mang tên là Đại Việt Quốc Xã trong đó có mấy nhân vật trọng yếu là Nguyễn Văn Tiếu, Nguyễn Đăng Đệ, Trương Đình Trí,...
-Từ 1943-1944 Việt Nam Ái Quốc Đảng của các ông Nguyễn Xuân Chữ, Lê Toàn, Vũ Đình Di, Dân Chủ Đảng của các ông Vũ Đình Hoè, Dương Đức Hiền cũng xuất đầu lộ diện (sau này Dân chủ Đảng lệ thuộc hẳn mặt trận Việt Minh cho đến ngày nay) Và trước cuộc đảo chính 9-3-1945, một số đảng phái quốc gia tập hợp lại thành một đảng lớn lấy tên là Đại Việt Quốc Gia Liên Minh trong đó có Đại Việt Quốc Xã và Đại Việt Quốc Dân Đảng là hai cột trụ. Đại Việt Quốc Gia Liên Minh bước ra sân khấu trong thời Nhật thuộc nhưng kém thủ đoạn, ít kinh nghiệm tranh đấu tuy được tay Nhật bí mật ủng hộ mà vẫn bị Mặt Trận Việt Minh dành mất địa vị, đáng lẽ chính quyền trên toàn cõi Việt Nam phải chuyển qua tay họ.
3-Cuộc Đảo Chánh 9-3-1945
Trận Đệ nhị Thế chiến bùng nổ là lúc Việt Nam cũng như nhiều quốc gia bị trị bước sang những giai đoạn mới của lịch sử. Phong trào Việt Nam Quốc Dân Đảng và Đông Dương Cộng Sản Đảng mặc dầu bị đế quốc Pháp đàn áp từ năm 1930 vẫn ngấm ngầm hoạt động. Cách mạng Việt Nam bấy lâu thu nanh dấu vuốt sửa soạn nắm thời cơ, thì thời cơ ấy bắt đầu tới giữa lúc tiếng súng đại bác của Phát xít Đức nổ trên bờ sông Rhein, phi cơ Nhật oanh tạc các căn cứ Đồng Minh ngoài bờ bể Thái Bình. Tuy mất liên lạc với chính quốc, chính phủ Đông Pháp, kinh nghiệm từ cuộc đại chiến đầu tiên, đã bắt các quốc sự phạm đem đi an trí ở các nơi như trên đã nói, vậy mà nhiều cuộc bạo động vẫn tung ra ngay sau đó.
Ở Nam bộ, Lê Hồng Phong cùng vợ là Nguyễn Thị Minh Khai hô hào dân chúng khởi nghĩa. Ở Đô Lương, ông đội Cung chỉ huy bảo an binh chiếm đồn. Phục quốc quân do cụ Trần Trung Lập theo quân đội Nhật về hoạt động ở Lạng Sơn. Tình thế trở nên rối ren hơn bao giờ hết. Dân chúng đau khổ vô cùng vì cái nạn nộp thóc cho Nhật dùng, cho chính phủ Đông Pháp dự trữ để chờ sự đổ bộ của quân đội Đồng minh. Một phần lớn ruộng đất bị trưng dụng để trồng thầu dầu, đay, gai hầu cung ứng cho kỹ nghệ chiến tranh Nhật. Quan lại được dịp bóp nặn, dân chúng vô cùng điêu đứng, từ nơi thôn quê cùng tận đến chốn thị thành, dường như tới mức không thể chịu đựng được nữa. Thêm vào đó, một nạn đói không tiền khoáng hậu, khốc liệt quá sức tưởng tượng đã diễn ra: ngót hai triệu người chết la liệt khắp các bờ bến, ven đường, xó chợ, suốt từ miền Trung ra tới miền Bắc. Ngoài Bắc phần bị hại nhiều nhất. Cảnh ngộ bi đát đến như vậy đã thúc dục mọi người đứng dậy tìm sinh lộ cho cuộc sống bế tắc, đầy kinh khủng.
Từ 1940 đến 1945, máu bắt đầu chảy, tang tóc mịt mù khắp bầu trời Việt Nam. Lòng người Việt đang sôi nổi căm hờn gần hóa điên, hóa dại thì sáng ngày 9 tháng 3 năm 1945, quân đội Nhật đánh úp đế quốc Pháp tại Đông Dương. Sau 24 tiếng đồng hồ, bộ máy cai trị của chế độ cũ bị xụp đổ, và trên các nẻo đường, người Nhật dán đầy những bản tuyên cáo kết liễu chính quyền của Pháp và tung ra khẩu hiệu "Châu Á của người Á". Cái chiêu bài đó quả rất dễ nghe khi mà người da vàng đã quá chán chường cuộc tình duyên bất đắc dĩ với người da trắng suốt 80 năm ròng. Từ kẻ bình dân đến người trí thức, tất cả đều hướng về phía lá cờ mặt trời đỏ. Nhưng với một số người sành chính trị, người ta hiểu thế nào là chủ nghĩa Đại Đông Á trên đất Trung Hoa với hơn 450 triệu người Hán trước đó không lâu.
Tất nhiên bộ máy chính quyền phải sang tay người Việt cho danh chính ngôn thuận, miễn là ở hậu trường sân khấu, người Nhật đóng vai chỉ đạo. Hệ thống chính trị do tay người Pháp xây dựng suốt 80 năm thế là một phút tan tành. Các quan lại xưa nay vỗ ngực tuyên bố trung thành với nước Pháp bấy giờ lặng lẽ rút lui.
Chính phủ Trần Trọng Kim ra đời được hoan nghênh nhiệt liệt từ Bắc vào Nam thay thế cho Nội các Phạm Quỳnh cáo chung tại Huế. Thành phần của nội các gồm có những vị sau đây:
1- Trần Trọng Kim: Thủ Tướng
2- Trần Đình Nam: Bộ Trưởng bộ Nội Vụ
3- Trần Văn Chương: Bộ Trưởng bộ Ngoại Giao
4- Vũ Văn Hiền: Bộ Trưởng bộ Tài Chánh
5- Hồ Tá Khanh: Bộ Trưởng bộ Kinh Tế
6- Nguyễn Hữu Thí: Bộ Trưởng bộ Tiếp Tế
7- Hoàng Xuân Hãn: Bộ Trưởng bộ Giáo Dục & Mỹ Thuật
8- Trịnh Đình Thảo: Bộ Trưởng bộ Tư Pháp
9- Lưu Văn Lang: Bộ Trưởng bộ Công Chánh & Giao Thông
10- Vũ Ngọc Anh: Bộ Trưởng bộ Y tế & Cứu Tế
11- Phan Anh: Bộ Trưởng bộ Thanh Niên
A- Hai việc cần thiết tức khắc để biểu dương nền độc lập của một quốc gia là quốc kỳ và quốc ca. Chính phủ mới liền làm cờ quẻ ly màu vàng đỏ giữa, thay cờ long tinh là dấu hiệu của thời lệ thuộc. Bài "Tiếng Gọi Thanh Niên" của sinh viên trường đại học Hà Nội được dùng làm quốc ca thay bài "Đăng Đàn Cung" ủy mị và hủ bại.
B- Việc giáo dục cũng phải canh tân. Ông Hoàng Xuân Hãn nghiên cứu ngay một chương trình mới bằng tiếng Việt dùng làm căn bản trong mọi việc, từ giáo dục đến các công văn, từ lệnh.
C- Ông Trần Đình Nam ra lệnh tẩy uế guồng máy hành chánh khắp ba kỳ. Một số tham quan, lại nhũng bị triệu hồi và nhiều nhân sĩ có uy tín trong dân chúng được mời làm việc nước. Ở ngoài Bắc, bác sĩ Trần Văn Lai được cử làm Đốc Lý thành phố Hà Nội. Ông liền cho hạ tượng Paul Bert và các tượng đồng trong các phố Hà Nội không ngoài mục đích xóa hết vết tích của thời đế quốc.
D- Ông Phan Anh diễn thuyết ở Hà Nội, cổ võ dân chúng hưởng ứng với phong trào mới. Ông nêu lên một chương trình cải tổ thanh niên, vạch con đường phụng sự quốc gia để lo tiến hóa về ba phương diện: Đức dục, Trí dục, Thể dục mong có những phần tử hăng hái và có đầy đủ khả năng. Ông lập ra hai ngành thanh niên: Thanh Niên Tiền Tuyến và Thanh Niên Tiền Phong. Buổi diễn thuyết của ông trước nhà hát lớn làm sôi nổi lòng ái quốc của mọi người, nhất là các bạn trẻ.
Các vị bộ trưởng khác cũng đều tỏ nhiều thiện chí trong nhiệm vụ của mình, nên nội các do học giả họ Trần lĩnh đạo đã được nhiều cảm tình và tín nhiệm của quần chúng.
Các đảng phái quốc gia đối với cuộc biến chuyển chính trị này và nội các Trần Trọng Kim có vẻ dè dặt, nhất là đối với người Nhật, tuy vẫn có sự giao thiệp công khai với họ. Riêng có Mặt Trận Việt Minh là hoạt động hơn cả. Họ tuyên truyền ầm ĩ trong dân chúng, ám sát một số mật thám của chính phủ Pháp và tung ra khẩu hiệu "Đánh Nhật, đuổi Pháp". Giữa lúc này, dân chúng Việt Nam đã bắt đầu đánh nhiều dấu hỏi về cái độc lập mà Nhật vừa trao cho họ trước sự lủng củng giữa chính phủ Trần và Đại bản doanh Thiên Hoàng sau khi đã xảy ra một vài việc bất đồng ý kiến.
Dù sao, nội các Trần Trọng Kim ra đời vào buổi đầu đã là một luồng gió mát thổi vào lòng của hai mươi triệu đồng bào Việt Nam. Nó đem lại một nguồn hy vọng mới cho một dân tộc đã chịu bao nhiêu điều tai hại vì cuộc Đệ nhị Thế chiến gây nên: bao nhiêu tang tóc, bao nhiêu cuộc phá sản, bao nhiêu thảm họa vô nghĩa, vô lý, do các cuộc oanh tạc của Đồng minh trên đất ta, lại còn do sự tranh giành Nhật-Pháp trên các địa điểm quân sự và chính trị.
Người Việt đối xử với người Pháp như thế nào khi chính quyền của Pháp đã đổ? Trừ ở một hai thành phố lớn như ở Hà Nội, Hải Phòng, có một vài sự cướp bóc, giết người mà Pháp kiều là nạn nhân bởi bọn lưu manh, người Việt không hề lợi dụng cái thế cùng của người Pháp để gây những phong trào quá khích hoặc tịch thu tài sản của họ. Cử chỉ quân tử đó đã làm cảm động rất nhiều người Pháp và có lẽ họ đã âm thầm hối hận về các lỗi lầm ở quá khứ.
Từ khi ra đời cho đến khi giải tán để nhường vai trò lịch sử cho mặt trận Việt Minh xuất hiện ngày 15 tháng 8 năm 1945 tại Hà Nội, nội các Trần Trọng Kim chỉ đứng được 4 tháng, nếu không làm được nhiều việc vĩ đại nhưng ít nhất phải nhận nội các này đã tỏ ra có nhiều thiện chí, tuy nhiên xét về năng lực, ta thấy nội các này chỉ có thể thích hợp cho thời bình, do đó ta không lấy làm lạ khi thấy nó lùi bước nhanh chóng trước sự tiến triển mau lẹ của cao trào Cách mạng năm 1945.
Nhật đầu hàng Đồng Minh vào ngày 13 tháng 8 năm 1945 sau khi bom nguyên tử của Hoa Kỳ dội xuống hai đô thành lớn là Trường Kỳ và Quảng Đảo định đoạt rõ rệt cuộc hơn thua.
Lúc này, tại Bắc Việt hai lực lượng Cách mạng tranh nhau cướp chính quyền. Đại Việt Quốc Gia Liên Minh, một mặt trận quốc gia gồm có nhiều đảng phái và quan trọng hơn cả là Việt Nam Quốc Dân Đảng và Đại Việt Quốc Xã của các ông Nhượng Tống, Nguyễn Ngọc Sơn, Nguyễn Văn Tiếu,... và Mặt Trận Việt Minh do các lãnh tụ Đông Dương Cộng Sản Đảng là Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp điều khiển. Dân chúng hướng cả về các lực lượng, và trong khi Việt Nam là cái nhà bỏ ngỏ, dĩ nhiên ai vào trước thì người ấy làm chủ. Việt Minh có nhiều kỹ thuật cách mạng và thủ đoạn sâu sắc, đã đi bước trước sau khi tổ chức được nhiều cuộc biểu tình cổ động quần chúng từ ngày 15 tháng 8 năm 1945 đến ngày 19 tháng 8 năm 1945, nắm được hậu thuẫn của các tầng lớp quần chúng.
Ngày 25 tháng 8, vua Bảo Đại thoái vị, chính phủ Trần Trọng Kim bị giải tán và một chính phủ lâm thời do ông Hồ Chí Minh làm chủ tịch, ra mắt quốc dân ngày 2 tháng 9. Vài tuần sau, quân đội Trung Hoa lấy danh nghĩa, tiếp phòng quân của Đồng Minh sang giải giáp và hồi hương quân đội Nhật, chiếm đóng từ Bắc Việt vào đến vĩ tuyến 16 (Tourane). Cũng trong dịp này, quân đội hoàng gia Anh Ấn đổ bộ ở Nam Việt. Đó là cả một sự khó khăn cho chính phủ Hồ Chí Minh vì quân đội Trung Hoa khi ấy đã giúp nhiều cho các yếu nhân Quốc Dân Đảng và Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội (Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam) trở về nước và ra mặt ủng hộ các đảng phái quốc gia. Cuộc xung đột giữa hai ông Hồ Chí Minh và Nguyễn Hải Thần rất kịch liệt, bằng báo chí, bằng những cuộc xô sát đẫm máu, ... Quân đội Trung Hoa giúp VNQĐD, chiếm cứ nhiều tỉnh ở Bắc Việt đã từng nhiều phen làm nao núng Mặt Trận Việt Minh. Sau này, tướng Tiêu Văn đứng ra hòa giải đôi bên để lập một chính phủ Quốc  gia  Liên  hiệp,  trong  đó    ông  Nguyễn  Hải  Thần  được  cử  làm  phó  chủ  tịch, Nguyễn Tường Tam làm Bộ Trưởng Ngoại Giao, Trương Đình Tri làm Bộ Trưởng Y Tế, Chu Bá Phương coi Bộ Kinh Tế. Trong quốc hội, VNQĐD (kể cả Đồng Minh Hội) giữ 70 ghế. Nhưng đây chỉ là một cuộc họp bất đắc dĩ về phía Việt Minh để Hiệp định Sơ bộ 6- 3-1946 thành hình. Ông Nguyễn Hải Thần cùng một số lãnh tụ quốc gia lại phải rút sang Tàu vì không đồng ý với tinh thần Hiệp định kể trên.
Xin coi đây nội dung của Hiệp định 6-3-1946:
A- Nước Pháp nhìn nhận nước Việt Nam là một nước tự do đứng trong khuôn khổ Liên Bang Đông Dương và Liên Hiệp Pháp.
B- Sự sáp nhập Nam Việt vào Việt Nam sẽ do một cuộc trưng cầu dân ý định đoạt.
C- Việt Nam có quân đội riêng, nhưng quân Pháp được quyền chiếm cứ trong kỳ hạn 5 năm. Mỗi năm, số quân đội Pháp phải rút bớt 1/5. Số quân đội Việt Nam không quá 10.000 người.
D- Nước Việt Nam có tài chánh riêng, nhưng phải chịu quan thuế chung và đồng bạc do ngân hàng Đông Dương phát hành sẽ được thông dụng như trước.
E- Nước Việt Nam có quyền đặt lãnh sự tại mấy nước lân cận.
G- Nước Việt Nam có quyền tiếp nhận lãnh sự của mấy nước lân cận. Ký tên
Hồ Chí Minh, Vũ Hồng Khanh, Saiteny
Ngay sau việc ký kết Sơ ước 6-3-1946 Việt Minh liền dốc toàn lực tiêu diệt Việt Nam Quốc Dân Đảng hết sức tàn nhẫn ở khắp mọi nơi, còn Pháp quân được Việt Minh tuyên truyền là Pháp mới, Pháp dân chủ đàng hoàng từ Hải Phòng kéo lên Hà Nội trước sự bỡ ngỡ của dân chúng thủ đô.
Ngày 24 tháng 4, lại có cuộc hội nghị Đà Lạt để hai bên đi sâu vào cuộc đàm phán. Hai tuần lễ sau (ngày 11 tháng 5 năm 1946) hội nghị này bế mạc vì không thể dung hòa lập trường của nhau khi đi vào chi tiết của những vấn đề chính. Trong lúc này, phái đoàn Phạm Văn Đồng đã có mặt ở Pháp. Ông Hồ Chí Minh tuy không dự vào cuộc bàn cải nhưng gián tiếp điều động phái đoàn ở Fontainebleau. Ngày 14 tháng 8, phái đoàn này rũ áo đứng dậy sau một tuần lễ tranh đấu gay go. Lập trường của Pháp bấy giờ là thiết lập Liên Bang Đông Dương, chế độ này có thể kiềm chế sự phát triển mọi khả năng dân tộc của các nước hội viên về chính trị, kinh tế cũng như ngoại giao và đối với Liên Bang Đông Dương, Pháp giữ vai trò chủ tịch và nắm giữ mọi ưu thế.
Phái đoàn về nước. Ông Hồ Chí Minh ở lại Pháp để thu xếp công việc một lần nữa. Ngày 14 tháng 9 năm 1946, ông ký với Marius Moutet một tạm ước, trong đó có sự xác định của bang giao đã ghi trên hiệp định 6-3 và còn thỏa thuận với nhau sẽ mở cuộc đàm phán đầy đủ hơn vào tháng giêng năm sau (1947). Nhưng đến 8 giờ tối ngày 19 tháng 12 năm 1946 thì cuộc giao thiệp Việt Pháp đã nhường lời cho chiến xa, phi cơ và đại bác.

4- Lá Bài Bảo Đại và Hiệp Định Hạ Long
Cuộc xung đột Việt Pháp xảy ra đêm 19-12-1946 đã kéo dài đến tháng 9-1947 mà vẫn chẳng có sự thắng bại về bên nào hết. Pháp xoay ra dùng chính trị để giải quyết vấn đề Việt Nam. Ông Bollaert, đại diện Pháp, đọc tại Hà Đông một bài diễn văn kêu gọi sự ngưng chiến thêm một phen nữa, nhưng vô hiệu quả.
Các chính khách tại Ba Lê liền quay sang phía quốc gia Việt Nam và mở cuộc điều đình với cựu hoàng Bảo Đại130 lúc này đang lưu vong ở Hồng Kông. Rồi một chính phủ lâm thời do thiếu tướng Nguyễn Văn Xuân thành lập vào cuối tháng 5 năm 1948 dưới quyền bảo trợ của cựu hoàng và ký tại Vịnh Hạ Long một hiệp định vào ngày 5-6-1948.
Hiệp định Hạ Long gồm những điều chính cương sau đây:
1- Nước Pháp long trọng thừa nhận nền độc lập của dân tộc Việt Nam và Việt Nam có quyền thực hiện thống nhất. Nước Việt Nam công bố gia nhập khối Liên Hiệp Pháp với tư cách là nước liên hiệp với nước Pháp.
2- Nền độc lập của Việt Nam không bị hạn định gì ngoài việc gia nhập khối Liên Hiệp Pháp.
3- Nước Việt Nam cam đoan tôn trọng các nguyên tắc dân chủ và mượn những cố vấn và chuyên viên Pháp trước những người ngoại quốc khác, trong các công cuộc tổ chức nội bộ và kinh tế Việt Nam.
130 Ngày 17-2-1947, cụ Nguyễn Hải Thần, ông Nguyễn Tường Tam cùng một số chiến sĩ cách mạng đã tiếp xúc với Bảo Đại và đã thành lập một Mặt Trận mệnh danh là Mặt Trận Quốc Gia nhóm tại Hương Cảng gồm: Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Dân Chủ Xã Hội Đảng, Việt Nam Quốc Gia Thanh Niên Đoàn có mục đích lợi dụng Bảo Đại để tranh thủ độc lập nhưng Bảo Đại cũng như các nhà thực dân khác không chịu được sự "khó tính" của Mặt trận này nên đã gạt khéo Mặt trận ra ngoài và sau này, Bảo Đại về lập chính phủ chỉ có nhân viên của các nhóm tư bản và của đế quốc cộng tác mà thôi. Với những thành phần "Nam kỳ quốc" và bọn tay chân của đế quốc, Pháp tạo ra các chiêu bài độc lập, tính đánh lừa dân chúng Việt Nam nhưng đã thất bại.
4- Ngay sau khi chính phủ trung ương lâm thời Việt Nam thành lập, các đại biểu Pháp liền sửa soạn để ký kết những thỏa hiệp riêng về các vấn đề văn hóa, ngoại giao, quân sự, kinh tế, tài chánh cùng các vấn đề kỹ nghệ chuyên môn.
Ngày 8 tháng 3 năm 1949, cựu hoàng Bảo Đại lại cùng tổng thống Vincent Auriol ký tại điện Élysée một thỏa hiệp xác định rõ ràng lập trường chính trị đôi bên, đã thỏa thuận về đại cương hồi năm trước. Với thỏa hiệp này dĩ nhiên nước Pháp phải nhượng bộ nhiều hơn, vừa để gây một tiếng vang với quốc tế vừa để lôi cuốn các tầng lớp nhân dân Việt Nam. Nhưng sau 80 năm sống dưới quyền Pháp, nhân dân Việt Nam đã hiểu người Pháp quá nhiều, lại nhìn vào Bảo Đại và thành phần của chính phủ Bảo Đại, nhân dân cũng hết tin tưởng, vì vậy mà cây bài quốc gia tức cây bài Bảo Đại không có hiệu nghiệm.
Ta nhận thấy rằng trong giai đoạn này, Pháp rất lúng túng. Từ cuối năm 1946 họ dùng quân sự đối với chính phủ Việt Minh, cho tới năm 1949 không thâu được kết quả theo ý muốn. Những lời ước đoán của đại tướng Valluy và Morlière đều sai hết bởi dân tộc Việt Nam năm 1946 đã khác dân tộc Việt Nam 1858. khi mà người Pháp bước chân vào xứ Nam kỳ là lúc mà dân trí của ta còn thấp kém hơn nhiều.
Dân vẫn theo kháng chiến, kháng chiến vẫn có vẻ bền bỉ, trường tồn. Cái độc lập trao trả cho Bảo Đại và các tay sai của Pháp là Trần Văn Hữu, Nguyễn Văn Tâm, ... vẫn là cái trò bánh vẽ không đánh lừa được ai hết. Sau này vì thất vọng, Pháp đã cho Nguyễn Văn Tâm ra làm thủ tướng để hiệp với tướng De Lattre de Tassigny thi hành chánh sách đánh mạnh đánh mau, chánh sách này buồn thay vẫn chỉ là chuyện cầm dao chém nước ...
Nay nhìn về phía Thực, Cộng ta thử hỏi: Việc ký kết hiệp định sơ bộ 6-3-1946 có những ẩn ý gì? Đối với Pháp việc ký kết này rõ rệt rất cần về phương diện quân sự trước nhất. Nếu không tạm hòa với bọn ông Hồ Chí Minh thì có được Đồng Minh cho thay thế quân đội Trung Hoa cũng khó khăn, vì Pháp biết rằng không khi nào ông Hồ Chí Minh chịu để quân Pháp vào Bắc Việt một cách yên ổn. Dùng võ lực mà đổ bộ lên đất Bắc cũng không dễ dàng, vì phong trào ái quốc của dân chúng Việt Nam đang bốc lên tới cao độ, Pháp lại còn ngại đàng sau Việt Minh có Nhật nữa. Vậy hòa hoãn với Việt Minh để quân đội được vào đóng Bắc Việt đã không tốn xương máu mà lại chiếm được các vị trí then chốt thì mới là kế tuyệt dịu hơn cả. Ngoài ra theo tinh thần Sơ ước 6-3, Việt Minh chịu gia nhập Liên Minh Đông Dương và Liên hiệp Pháp thì sự kiện này là một sự lệ thuộc rất có lợi cho Pháp, nếu sau này có điều bất trắc thì Pháp cũng nắm được Hải Phòng trong tay để có nơi quân mình đổ bộ rồi.
Về phần Việt Minh, chống với tiếp phòng quân Trung Hoa là chống với Đồng Minh, và chống với Pháp cũng là điều có thể tai hại về chính trị, nhất là lúc này quân đội Anh Ấn đã lấy danh nghĩa Đồng Minh đem binh đội của đại tướng Leclerc bước chân lên Sài Gòn. Do sự tính toán trên đây, chính phủ Hồ Chí Minh đã rót hết tuần lễ vàng vào túi bọn Tiêu Văn, Lư Hán và Hoàng Cường để họ kéo quân về bên kia biên giới, căn cứ vào chỗ hai phe Quốc, Cộng, Việt Nam đã thành lập xong một chính phủ liên hiệp và đã cùng ký vào Sơ ước 6-3 với Pháp. Thêm vào đó, quân Pháp đã có mặt ở Bắc Việt, tất nhiên không có Mỹ ùa vào theo và như vậy, quân đội Anh cũng sẽ ra về.
Tóm lại việc ký Sơ ước 6-3 là điều lợi cho cả hai phe Thực, Cộng và chỉ tai hại cho những người quốc gia mà thôi. Việt Minh loại được quân Tàu, nắm chắc được chính quyền để diệt phe quốc gia và đang cô lập được Đồng Minh thừa nhận. Pháp cho quân vào được Bắc Việt, giúp cho Cộng Sản lập được chính phủ thì sau này sẽ không có Trung Hoa và Mỹ nhúng tay vào (bởi Pháp tin sẽ đè bẹp được Việt Minh trong ít tháng). Vấn đề Việt Nam nằm trong khuôn khổ Liên hiệp Pháp, Pháp sẽ hiếp đáp được Việt Minh và ngay lúc đó, Pháp đã hợp sức với Việt Minh ở thượng du Bắc Việt để tiêu diệt phe quốc gia bởi phe này cũng là kẻ thù nghịch cố hữu của Pháp.
Xin nhớ rằng Pháp cũng đồng tình với Việt Cộng thu xếp cho phe quốc gia ký vào Sơ ước 6-3 có mục đích tránh sự phiền phức với Đồng Minh là Pháp đã hợp tác với một chính phủ cộng sản. Vì hiểu được dụng ý trên đây của Thực, Cộng, nên hai ông Nguyễn Hải Thần và Nguyễn Tường Tam đã lẫn mặt rồi băng qua Tàu. Ông Vũ Hồng Khanh ở lại đã đặt chữ ký vào Sơ ước không khỏi chịu trách nhiệm đối với Đảng cũng như đối với quốc dân. Sơ ước 6-3 thành tựu đã là cái hố chôn vùi sự nghiệp của những người quốc gia ở đây và làm đảo lộn cả tình thế chính trị đang có lợi chung.

5- Cuộc Chiến Tranh Thực-Cộng
Từ tháng Chạp 1946 đến 1950 cuộc chiến tranh trên toàn cõi Việt Nam chỉ là những cuộc đột kích, phục kích, du kích từ các miền đồng bằng lên đến các miền sơn cước, Bắc Việt là chiến trường náo nhiệt hơn cả. Với chiến thuật này, binh đội Việt Nam chỉ là những đám ma trơi xuất nhập bất thần, co dãn không chừng, nhờ được sức chịu đựng gian khổ dẻo dai và sự am hiểu tường tận địa hình, địa vật, lại thêm nhân dân ủng hộ nên có nhiều ưu điểm để chiến đấu mặc dù cho tới cuối năm 1951, Việt Minh còn kém Pháp về cả hai phương diện: lượng và phẩm.
Pháp quân bấy giờ có tới 150.000 người, võ khí tối tân, luyện tập đầy đủ, phương tiện chuyển vận mau lẹ. Nhất là các cấp chỉ huy của quân đội Pháp đều xuất thân ở các trường Đại học Quân đội, Cao đẳng Chiến tranh, có nhiều thành tích rực rỡ trong cuộc Đại chiến vừa qua.
Từ năm 1950 đến 1954, Việt Minh mới thỉnh thoảng có những cuộc hành binh đại qui mô và công khai nhờ ở sự viện trợ chiến cụ và chuyên viên của Trung cộng bên kia biên thùy Hoa Việt.
Giữa thu, đông 1947, đại tướng Valluy tấn công Việt Bắc do hai ngã: A) Hà Nội tiến lên Sơn Tây, Hưng Hóa, Phú Thọ, Phủ Đoan. B) Lạng Sơn tiến lên Thất Khê, Đông Khê. Theo kế hoạch "Cloclo" lính Pháp nhảy dù xuống Cao Bằng, Bắc Cạn, Chợ Chu, Tuyên Quang và các tỉnh thuộc miền duyên hải.
Từ năm 1948 -1950 Pháp quân chiếm các trục giao thông trên đường số 5 và chiếm đóng khắp miền Nam Trung châu.
Tại Trung Việt, tướng Lebris xua binh kiểm soát ba tỉnh Bình Trị Thiên và nhiều thị trấn từ Nam Ngãi trở vào Nam Việt. Ở đây tướng Boyer de la Tour dồn Việt Minh vào ba khu Đồng Tháp, Cà Mau, Thủ Dầu Một và nắm được hầu hết các trục giao thông, giải tỏa được các đồn điền và các vùng công nghệ của Pháp. Trong giai đoạn này, trên khắp các chiến trường Bắc Nam, Pháp hay dùng chiến thuật "bừa cào" tức là đánh ngang, đánh dọc, rồi lại rút về căn cứ. Việt Minh được dân chúng ủng hộ nên đã được che đậy trong các vụ càn quét của Pháp. Hơn nữa, Pháp quân đi đâu cũng hãm hiếp phụ nữ, cướp của, giết người nên khiến nhân dân căm hờn, sự cộng tác của dân chúng với kháng chiến vì thế mà thêm chặt chẽ. Sau này tướng Carpentier và Gambièze cố gỡ các lỗi lầm này bằng các biện pháp chính trị nhưng đã quá muộn.
Giữa năm 1950 chiến tranh Cao Ly phát động. Biến cố này có tính cách quốc tế nhường làm chìm hẳn cuộc chiến tranh Đông Dương. Tuy vậy kể từ giờ phút này, hai khối Nga Mỹ bắt đầu gián tiếp can thiệp vào thời cuộc Việt Pháp. Bên Pháp có phái đoàn Mỹ từ Manille qua Sài Gòn do ông John Melby cầm đầu. Bên Việt Minh có đại tướng Trần Canh là một trong 5 hổ tướng của Trung cộng. Trong quân đội của Việt Minh có nhiều cố vấn và chuyên viên Tàu giúp đỡ. Việt Minh liền mở chiến dịch Hoàng Văn Thụ tức chiến dịch Cao Bắc Lạng vào ngày 16-9-1950, đáng chú ý hơn cả trong lực lượng Việt Minh ở chiến dịch này có trung đoàn Thủ Đô và trung đoàn Sông Lô vốn nổi tiếng anh dũng xưa nay. Chiến dịch này kéo dài trên 100 cây số. Pháp đại bại phải triệt thoái khỏi khắp các căn cứ miền Đông Bắc cũng như Tây Nam Bắc Việt mà cuộc hành binh L E A mùa đông 1947 đã chiếm được.
Thấy binh đội Việt Minh đã có cơ lợi hại, chính phủ Ba Lê cho đại tướng Revers sang điều tra và nghiên cứu tình hình. Ngày 17-12-1950, đại tướng La Lattre de Tassigny được đặc phái sang Đông Dương làm Tổng cao ủy kiêm nhiệm mọi quyền văn võ. Xin nhắc, De La Lattre là một thượng tướng của Pháp từng cầm quân đội Đồng Minh trong thời Đệ nhị Chiến tranh ở Âu châu. Viên tướng này, sau khi nhận rõ chiến thuật và chiến lược của đối phương đã cho lập: 1) Nhiều đội quân lưu động chống du kích Việt Minh. 2) Xây các chiến lũy bê tông quanh khu Hà Nội. 3) Đặt một hành lang trắng ngăn thượng du Bắc Việt với Trung châu.
Vậy mà quân đội của Việt Minh chọc thủng được hệ thống phòng thủ của De Lattre, rồi ngày 9-1-1951 Việt Minh đánh thử mặt trận địa chiến và áp dụng chiến thuật biển người tại Vĩnh Yên. Hai bên quân đội Thực-Cộng trong trận này hết sức quyết liệt ăn thua. Pháp quân phải cho dội bom xuống như mưa vào giữa trận tuyến, hy sinh cả quân đội mình trong động tác quân sự này để cứu vãn tình thế, nếu không, quân đội Việt Minh đã thắng và có thể tràn vào Hà Nội tết năm đó.
Ngày 17-3-1952, Việt Minh tiến vào đất Lào với Liên minh Việt Miên Lào. Cuộc hành quân "Hautes Alpes" thả dù binh đội xuống cánh "đồng Chum" và đánh vào khu Tư (Thanh Hóa) và Hòa Bình, hy vọng cắt mọi sự liên lạc của Việt Minh với miền Thượng du kế cận Trung cộng. Việt Minh đã tung ra tới 40.000 quân ở đây tiến về Luang Prabang, uy hiếp vùng Đông Bắc Sầm Nứa, chặn đường liên tỉnh 41 (Sơn La - Lai Châu) và hoạt động ở khắp lãnh thổ Đông Dương để phân tán lực lượng của Pháp. Giữa lúc chiến cuộc đang ào ạt thì tướng De Lattre bị tử thương ở Hòa Bình vào ngày 11-1- 1952. Tướng Salan lên thay quyền Tổng Tư Lệnh. Xét ra, cho tới năm 1952, Pháp quân luôn luôn lâm vào thế bị động, lo phòng thủ đã đủ mệt rồi. Chính đại tướng Navarre người kế vị Salan vào mùa thu năm 1953 đã phải công nhận rằng quân Pháp lúc này hết lạc quan, trên khắp các mặt trận đều có sự thiếu thốn cán bộ. Thế là Pháp bị ba thứ khủng hoảng: khủng hoảng tinh thần, khủng hoảng vật chất, khủng hoảng cán bộ, mặc dù Pháp được Mỹ tiếp tục viện trợ đầy đủ.
Đến tướng Navarre, Pháp quân đổi chiến pháp, sau những kinh nghiệm chua cay từ năm 1945 -1953, xét rằng không thể áp dụng được lối đánh cổ điển và cũng không thể chấp nhận được lối đánh tối tân do tình trạng đặc biệt của chiến trường Việt Nam lúc này. Cho tới bấy giờ, Pháp đã điêu đứng về giao thông chiến, du kích chiến, lại còn đau khổ về cả lối đánh mìn, đánh giáp lá cà bằng mã tấu (bạch binh), lối độn thổ, độn thủy và lối đánh chông rất ác độc của Việt Minh. Xét ra, nếu Việt Minh kém hậu thuẫn của nhân dân, thì họ khó mà dùng được một cách hiệu nghiệm các chiến thuật kể trên, bởi nếu nhân dân tố cáo, họ sẽ thất bại trông thấy. Nhưng Pháp, quân đi tới đâu tàn phá đến đấy, gieo căm thù tang tóc khắp nơi. Pháp quân lại là quân xâm lược, thì cũng đủ là kẻ địch của nhân dân rồi.
Navarre liền thi hành một chủ trương mới: 1) Triệt bỏ các đồn lẻ loi để khỏi bị Việt Minh phá được, làm lợi khí về mặt tuyên truyền. 2) Giành lại quyền chủ động chiến trường bằng cách tìm địch mà đánh, bắt địch ứng chiến. 3) Hành binh bất thường, tránh sự dự liệu của địch quân.
Rồi ngày 18-7-1953, Navarre mở cuộc hành quân "Con én" vào Lạng Sơn và cuộc hành binh "Camargue" vào Quảng Trị phá hủy được một số dụng cụ và máy móc của Việt Minh. Ở Lạng Sơn, Pháp diệt được hai tiểu đoàn, một số căn cứ của địch trong khu tam giác ở dãy phố Buồn Thiu là mối hăm dọa trên quốc lộ số 1 (Trung Việt).
Liên tiếp với hai cuộc hành quân này, mồng 9-8-53 Pháp rút quân ra khỏi Na Sản bằng không vận. Trước đây, 10-52, Pháp đặt chiến lũy Na Sản để ngăn Việt Minh trên con đường tiến của họ qua xứ Lào.
Cho tới 1953, chiến trường Bắc Việt vẫn gay go hơn cả. Ngoài những trận lớn kể trên, còn có những trận lẻ tẻ: trận Tarentaise diễn vào tháng 8 năm 1953 tại Bùi Chu, trận Claude tại Tiên Lãng (Kiến An), trận Brochet tại Hưng Yên,...
Tại Nam Việt, Pháp mở trận Savoie tại Hậu Giang và Sông Bé. Tại Ai Lao, có trận Bearn giữa các vùng Nong Het, Ban Ban, trận Dampierre thâu lại hai thị trấn Paksé và Mương Sung.
Xét ra, quả Navarre đã nắm được quyền chủ động chiến trường cho tới cuối năm 1953, nhưng Việt Minh nhờ được sự che đậy, tiếp tế đều hòa của dân chúng nên vẫn có thể trường kỳ chiến đấu được.
Cuối năm 1953, vào ngày 15-10 Pháp quân xuất toàn lực phá Liên khu Tư của Việt Minh. Vùng đất này có tới 255.000 mẫu tây ruộng và một triệu dân chúng cung cấp được hàng vạn quân chính quy và địa phương quân. Việt Minh đặt hai sư đoàn 304 và 320 ở đây.
Hai tướng Cogny và Gilles đem hải lục quân vào Thanh Hóa. Cuộc xô xát lâu tới 23 ngày, gây được nhiều thiệt hại cho Việt Minh, cắt đứt được giao thông của Việt Minh một thời, nhưng Pháp cũng tổn thất không kém.
Ngày 11-12-1953 sư đoàn 320 của Việt Minh ra công quấy phá kịch liệt miền Trung châu. Pháp tưởng đã tiêu diệt được sư đoàn này bằng cuộc hành quân Mouette, vậy mà ngày 20-12 sư đoàn này lại xuất hiện ở Lai Châu và Điện Biên Phủ. Từ giờ phút này, hai quân Thực-Cộng quần nhau riêng ở vùng Điện Biên. Tại đây, đại tá De Castries hy vọng cầm chân Việt Minh để tiêu diệt họ, yên trí rằng do đường núi gập gềnh hiểm trở, Việt Minh không chuyển được các trọng pháo đến. Rồi sau 48 tiếng đồng hồ, cạm bẩy gài ở Điện Biên Phủ chống Việt Minh trở lại khép kín quân đội Liên hiệp Pháp.
Cuộc giao tranh đầu tiên vào pháo lũy này nhằm ngày 13-3-1954, lực lượng Việt Minh có tới 45.000. Pháp có 12.000. Điện Biên Phủ là một khu vực lòng chảo của xứ Thái, Pháp đã chiếm đóng hồi tháng 4 năm 1953. Tới 20-11-1953 tướng Cogny cho quân nhảy dù chiếm lại cứ điểm này để ngăn việc Việt Minh tiến vào xứ Lào. Sự thực, Việt Minh tiến vào xứ Lào để nhử Pháp đến đóng quân ở Điện Biên Phủ rồi tiêu hao lực lượng của thực dân tại đây. Pháp đã trúng kế.
Đầu tháng 3-1954, Việt Minh tấn công ráo riết pháo lũy này. Hàng ngàn trái phá từ các sườn núi lao xuống khu đất rộng 140 cây số vuông biến "lòng chảo" này thành một biển lửa. Nhiều trận giáp lá cà diễn ra rất là ác liệt.
Hàng vạn con người xô nhau trong khói lửa, hò hét, bắn chém, kinh khủng chẳng khác gì quang cảnh của chiến trường Âu châu vừa qua. Suốt 55 ngày bom nổ, đại bác rền không ngớt. Rồi người chỉ huy pháo đội của Pháp là đại tá Pirotte tuyệt vọng trước hỏa lực quá hùng hậu của Việt Cộng đã tự sát. Thiếu tướng De Castries đầu hàng và cuộc chiến Điện Biên Phủ hạ màn vào ngày 7-5-1954.
Nhìn vào các việc đã xảy ra trên đây, ta thấy Việt Cộng đã mua cuộc chiến thắng bằng một giá vô cùng đắt đỏ để gây áp lực đối với Hội nghị bên hồ Leman bấy giờ đang họp bàn đến việc ngừng bắn ở Đông Dương. Hội nghị này lúc đầu đã do sự thăm dò của ngoại trưởng Pháp J. Bidault với ngoại trưởng Nga Molotov sau khi hội nghị tứ cường tan vỡ vào những tháng đầu của năm 1954 ở Genève. Rồi hai phe Nga Mỹ đều hưởng ứng với tiếng kêu gọi hòa bình của dư luận Quốc tế, đại diện của Việt Minh, Trung cộng, Nga Sô đã họp với đại diện Anh, Pháp, Việt, Miên, Lào. Đêm hôm 20-7- 1954 Pháp và Việt Minh đã đi tới chỗ ký kết một thỏa hiệp ngừng bắn được mệnh danh từ nay là Hiệp định Genève gồm các khoảng dưới đây:

6- Nội Dung Của Thỏa Hiệp Genève về Việt Nam131
1) Đường phân ranh tạm thời về quân sự được ấn định vào nơi vĩ tuyến 17 (thuộc tỉnh Quảng Trị) từ đông sang tây như sau: Vàm sông Bến Hải (sông cửa Tùng) và dòng sông này mang tên Bảo Thanh chảy qua vùng núi đến tận làng Bo Ho Su kế đó đi sóng đôi với làng Bo Ho Su cho đến biên giới Lào Việt.

131 Chúng tôi xin nhắc rằng trong nội dung của thỏa hiệp Genève ngoài phần liên hệ với Việt Nam còn phần nói về sự cam kết giữa Việt Minh với hai quốc gia Cao Miên và Ai Lao.

Ở bên này cũng như bên kia vĩ tuyến 17, mỗi bên phải lập một khu phi chiến cách xa đường phân ranh 5 cây số để dùng làm khu trái độn và tránh mọi sự lộn xộn có thể gây ra tái chiến,...
2) Nam Việt cũng như Bắc Việt cam kết không chấp thuận việc lập thêm những căn cứ quân sự mới (tỉ như Mỹ hay Trung Cộng) và không tham gia một tổ chức liên minh quân sự nào. Nhưng Pháp được duy trì binh sĩ ở Việt Nam nếu chính phủ quốc gia ở đây yêu cầu như vậy...
3) Trong thời hạn 2 năm chờ đợi tổ chức tổng tuyển cử, quốc gia nào được lòng dân bằng các cuộc cải cách sáng suốt và cấp tiến sẽ có hy vọng tồn tại.
4) Cho tới ngày đó, quyền lợi kinh tế và văn hóa của Pháp tại Bắc Việt vẫn được Việt Minh bảo đảm.
5) Một ủy hội được đặt ra gọi là Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến gồm có đại diện Pháp, Việt Minh, Gia Nã Đại, Ấn Độ, Ba Lan và Việt Nam được lập ra để trông coi việc thi hành thỏa hiệp Genève, được đặt trụ sở tại Hà Nội và Sài Gòn cùng Bến Hải. Mọi việc khiếu nại của bên này hay bên kia đều do ủy hội phân xử.
Cho tới ngày nay là 1960, tình trạng Việt Nam cũng như Đức Quốc và Hàn Quốc vẫn chưa thay đổi là vì hai khối Nga Mỹ chưa quyết định được cuộc tổng tuyển cử.
Trước hiệp định Genève và qua các biến cố đã kể ra ở các chương trên đây, chúng ta có thể kết luận rằng Pháp hoàn toàn thất bại trên cả hai địa điểm chính trị và quân sự. Sự thất bại đó đưa Đông Dương tới một hiểm họa nguy vong đã do sự lỗi lầm liên tiếp của những chính phủ luôn luôn thay đổi, bất nhất và vô trách nhiệm đúng như lời tiên đoán của J. Decoux, nguyên toàn quyền Đông Dương trong thời Nhật thuộc ở cuốn A la barre de l'Indochine của ông.

7- Kết Luận
Qua giai đoạn thực thi, chính phủ Việt Cộng đã tiếp thu Bắc Việt vào cuối năm 1954, lập nên một chính phủ Cộng Hòa Nhân Dân, và ở Nam vĩ tuyến 17, các cường quốc Tây-Minh đã ủng hộ ông Ngô Đình Diệm, một cựu chiến sĩ cách mạng quốc gia về nước cũng lập ra một chính phủ theo khuôn khổ và tinh thần dân chủ. Lúc này, một biến cố đặc biệt xảy ra: ngót một triệu đồng bào Bắc Vĩ tuyến không tán thành chế độ Cộng Sản đã di cư vào Nam.
Ông Ngô Đình Diệm có mặt ở Sài Gòn ngày 25-6-1954, lập xong nội các vào ngày 7- 7-1955 và ông cho mở một cuộc trưng cầu dân ý vào ngày 23-10-1955. Sau việc này, ông  vua  thứ  13  của  triều  Nguyễn  bị  triệt  hạ.  Ngày  26-10-1955  chính  phủ  Ngô  Đình Diệm tuyên bố từ nay nước Việt Nam là một nước Cộng Hòa, theo Tổng Thống Chế. Ngày 5-3-1956 Quốc Hội Việt Nam ra đời. Kể từ giai đoạn này trở đi, Việt Nam cắt đứt mọi liên hệ với thực dân và phong kiến, thành lập một quốc gia độc lập tại Đông Nam Á và có mặt trong đại gia đình Thế giới Tự do.
Chúng tôi xin ngừng lại nơi đây vì nguyên tắc viết sử không cho phép đi quá sâu vào những việc còn đang diễn tiến.
Nhưng trước trang sử cuối cùng này, kẻ viết khi buông cán bút không thể ngăn cản mối cảm xúc tràn ngập lòng mình, nghĩ rằng dân tộc chúng ta còn tồn tại đến ngày nay, còn một mãnh đất này để mà sống, đó là nhờ công nghiệp đấu tranh, xây dựng bằng biết bao nhiêu mồ hôi và nước mắt của tổ tiên từ 40 thế kỷ nay.
Nhớ thuở còn luân lạc bên bờ Dương Tử, mình trần khoác da thú, lặn lội nơi sông ngòi, chúa tôi, cha con, chồng vợ, nương tựa vào nhau mà sống cho đến khi Hán tộc quá mạnh, đẩy người Bách Việt chúng ta xuống khắp miền Hoa Nam, kẻ lên rừng, người xuống biển nảo nề, bi đát vô cùng. Trước kỷ nguyên Thiên Chúa, ông cha chúng ta lại trải thêm một cuộc phù trầm với nửa triệu binh sĩ viễn chinh của Thủy Hoàng Đế đang tràn đầy nhựa sống. Họ đã nuốt đứt ba chi phái Đông Việt, Mân Việt và Nam Việt, còn lại Âu Lạc là nhóm cuối cùng của chúng ta đã chiến thắng vẻ vang và anh dũng nên giống nòi ta mới còn sống sót đến bây giờ.
Trên mãnh đất bao la gồm những rừng núi Quảng Tây, thượng du miền Bắc và lưu vực sông Nhị, chúng ta tái tạo lại cơ đồ, dựng triều đình riêng một cõi, tiếc thay chẳng bao lâu lại lâm vào Hán họa để lệ thuộc Bắc phương luôn 10 thế kỷ.
Mười thế kỷ làm tôi dị tộc, sống như trâu ngựa, toàn dân xác như vờ, sơ như nhộng vì sự bóc lột của quan lại Trung quốc đến nổi trai không lấy nổi vợ, gái không lấy nổi chồng, nhân khẩu mỗi ngày một hao hụt gần như diệt chủng. Những kẻ có chút đầu óc hơi khác ý thì bị moi gan, móc mắt, gông cùm xiềng xích đầy mình, do đó mà gái anh thư đã có khi phải thay đấng tu mi phất cờ cách mạng, họ Khúc, họ Ngô, thế cô mà dám đuổi xâm lăng. Tới khi khôi phục được nguyên lực quốc gia, Lý Thường Kiệt Bắc tiến, Trần Quốc Tuấn diệt Nguyên, Nguyễn Huệ mộng dành lại Lưỡng Quảng để thỏa cái thù mất đất về tay Hán.
Xét các sự kiện này thì lịch sử Việt Nam thật là cái gì ly kỳ nhất, lâm ly nhất mà cũng oai hùng đến tột bực, bởi một dân tộc nhỏ bé năm ba triệu người trước đây mà dám ganh tài, đọ sức với một cường quốc đông gấp trăm, giàu gấp ngàn, và là cái lò văn minh cố cựu nhất thế giới. Phải chi thêm người, thêm của, đất đai rộng rãi hơn nữa thì Mông Cổ vào Trung Nguyên, Mãn Thanh ngự trị Hoa tộc, có lẽ đâu người Việt chẳng có phần mênh mông của con cháu Hoàng Đế.
Từ Lý qua Trần, qua Lê, văn hóa của chúng ta cũng đi xa, tiến mạnh, khiến Trung Quốc dưới thời Minh phải xác nhận không thể coi người Việt như các rợ và phải đãi vào hàng quốc gia văn hiến, do đó vài vần thơ kiêu hùng dưới đời Mạc đã bãi được một cuộc đao binh của Minh Thế Tông (thế kỷ XVI).
Nhưng cũng buồn thay, cái đà của dân tộc đang được đẩy mạnh thì từ những con cháu cuối cùng của vua Lê Thái Tổ và giới phong kiến Việt Nam cuối thế kỷ XVIII, đốn hèn  dần  nên  mới  phát  sinh  ra  cái  bi  trạng  tam  phân  thiên  hạ,  kế  đó    cuộc  Trịnh Nguyễn phân tranh đưa nước nhà vào vòng suy bại. Trong những thế hệ gần đây, giới lãnh đạo quốc gia đã tỏ ra quá vụ lợi, ích kỷ, thoái hóa nên tinh thần dân tộc không biết quy tụ vào đâu cho tới khi ngọn trào Đế quốc Tây phương tràn qua Thái Bình Dương thì xã hội Việt Nam tan rã như cành khô, cỏ mục. Trách nhiệm đối với quốc dân và lịch sử trước vấn đề này, ai phải chịu?
Sau hai hòa ước 1862,1884, nước nhà bị Pháp thuộc luôn 80 năm ròng. Cha con tủi nhục, vợ chồng lầm than, cái thảm họa vong nô lần này cũng hết sức não nề bi đát. Rồi cũng luôn 80 năm ấy, toàn dân lại vùng lên tranh đấu. Máu đào xương trắng lại tràn ngập Bắc Nam. Mười năm qua, (1944-1954) lợi dụng được cuộc Hoàn cầu Đại chiến, Việt Nam cùng Thực dân Pháp đánh một canh bạc cuối cùng, liều như một mất, một còn132. Kết cục, con cháu Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Huệ đã rửa được cái nhục mất nước. Nhưng cũng từ năm 1954 đất nước ta chia hai, tuồng sông Gianh lại tái diễn như ngày nào.
Giờ đây trên giấy mực, người Việt làm chủ người Việt, miền Bắc thuộc ảnh hưởng của Đệ Tam Quốc Tế, miền Nam đứng trong hàng ngũ Thế giới Tự do. Lý thuyết chính trị nào mà chẳng được tô điểm bằng nước sơn tươi đẹp, nhưng lý thuyết nào cũng không thể ra ngoài nguyện vọng của nhân dân là Cơm áo được bảo đảm, hạnh phúc được chu toàn, nhân vị con người được tôn trọng. Và nhìn vào xã hội nhân loại hiện tại, qua các kinh nghiệm lịch sử, chúng ta không khỏi có nhiều thắc mắc: con người làm chính trị mỗi ngày một thêm sa đọa. Cái ý niệm vì dân, vì nước, vì nhân loại mỗi ngày một thêm hiếm hoi, trái lại, cái óc vụ lợi cá nhân, gia đình, bè đảng, mỗi ngày một nhiều khiến một điểm lương tâm có khi không thoi thóp nỗi, đến nỗi đồng loại, đồng bào giết chóc, băm vằm mổ xẻ nhau quá loài lang sói.
Trên 40 thế kỷ trước, Nghiêu, Thuấn không nhường ngôi cho con, đó là do quan niệm lấy thiên hạ làm đại nghĩa, coi gia đình, bè đảng là nhẹ, mỗi khi tai trời, ách nước xảy ra, kẻ cầm quyền tự cho mình lầm lỗi, làm lễ cáo minh cùng Trời đất và dân chúng, lại xin sửa đổi chính sách. Kẻ lãnh đạo đối với quốc dân có thành ý như vậy là cùng. Nhưng các người như Nghiêu, Thuấn của giống Hán, như St. Louis của nước Pháp, như Lý Thánh Tông của nước Việt thì ít mà Néron Cèsar, Charles 1er, Kiệt, Trụ thì quá nhiều, tự cho mình là con Trời, con Thánh, có quyền cầu vui, hưởng lạc mà đám dân đen thì chỉ đáng làm tôi mọi. Kết cục, họ đã bị những phong trào cách mạng của quần chúng triệt hạ như cỏ may bị gió lướt, lúc hối tỉnh thì đã muộn.
Chúng tôi, với nhiệm vụ sử học, thấy có bổn phận giới ý những nhà cầm quyền những sự việc đã từng xảy ra trên sân khấu chính trị cổ kim với hy vọng nhắc nhở một vài định luật và qui tắc bất di dịch cho giới người lãnh đạo quần chúng. Định luật và qui tắc ấy là : Nhà cầm quyền đã do dân mà có thì được quyền hành phải tôn trọng nhân dân, những kẻ phản bội đồng loại, coi rẻ nhân dân thì dầu xây thành vạn lý, nắm giữ trăm vạn hùng binh cũng là thừa. Dân chúng là sức mạnh duy nhất đã từng đập tan biết bao nhiêu ngai vàng, nghiệp bá, sự thực đó, ai chối cãi được?
Riêng về đại cuộc Việt Nam ngày nay, đất nước qua phân, đồng bào chia rẽ, nếu tổ tiên sống lại chẳng khỏi héo gan, đứt ruột. Của đã ít, người đã thưa, độc lập còn non nớt, vậy mà nếu Nam, Bắc coi nhau quá kẻ địch truyền kiếp thì rồi đây nòi giống Việt Nam liệu có thoát khỏi cái bi cảnh dịch chủ tái nô hay diệt chủng chăng?
Chúng tôi ngừng bút ở nơi đây, thành tâm thắp nén hương lòng cầu chúc cho các nhà làm chính trị sớm thành công trong sự nghiệp cứu nhà, cứu nước, xây dựng cho xứ

132 Cuộc cách mạng giải phóng dân tộc vừa qua có thể coi bắt đầu bộc phát từ năm 1944.

sở một địa vị hùng cường ở Đông Nam Á và cũng xin nhấn mạnh rằng những ai xa rời quần chúng, phản bội quê hương, đi ngược dòng tiến hóa của nhân loại thì lịch sử sẽ là nơi ngàn năm bia miệng.

SÁCH BÁO THAM KHẢO

Việt Ngữ
Bánh Xe Khứ Quốc, Phan Trần Chúc Dân Luật Khái Luận, Vũ Văn Mẫn
Dụ Am Ngâm Tập, Phan Huy Ích Dụ Am Văn Tập, Phan Huy Ích
Đại Nam Liệt Truyện Sơ Tập (quyển thứ 30 - 32), Quốc sử quán Nguyễn Triều
Đại Nam Nhất Thống Trí, Nguyễn Tạo
Đại Nam Thực Lục, Quốc sử quán Nguyễn Triều
Đại Nam Sử Ký Toàn Thư, Ngô Sĩ Liên
Đông Án Trên Trường Chính Trị Quốc Tế, Lê Văn Sáu Hậu Các Anh Hoa, Ngô Thời Nhậm
Hoàng Lê Nhất Thống Chí, Ngô Thời Chí
Hoàng Việt Luật Lệ, Quốc sử quán Nguyễn Triều Hồng Đức Thiện Chính Thư, Chính quyền Hậu Lê soạn
Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, Quốc sử quán Nguyễn Triều Kinh Tế Thế Giới Đang Đi Đến Đâu?, Vũ Văn Mẫu
La Sơn Phu Tử, Hoàng Xuân Hãn
Lê Kỷ Dã Sử, Khuyết danh (sách chép tay của trường Bắc Cổ) Lịch Sử Xã hội Việt Nam, Hoàng Thúc Trâm
Lược Khảo Về Binh Chế Việt Nam Qua Các Thời Đại, Nguyễn Tường Phượng Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí, Phan Huy Chú
Nam Bộ Chiến Sử, Nguyễn Bảo Hóa Nam Sử Tập Biên, Nguyễn Văn Tố
Nguyễn Trãi, Anh Hùng Dân Tộc, Trúc Khê Nhà Chính Trị Hồ Quý Ly, Chu Thiên
Nho Giáo, Trần Trọng Kim
Những Bài Học Lịch Sử I, II, III, Lê Văn Hòe Phan Đình Phùng, Đào Trinh Nhất
Quan Niệm Cổ Truyền Về Pháp Luật, Vũ Văn Mẫu Quốc Sử Đính Ngoa, Lê Văn Hòe
Quốc Triều Hình Luật, Chính quyền Hậu Lê soạn Quốc Triều Sử Toát Yếu, Cao Xuân Dục
Quốc Văn Đời Tây Sơn, Hoàng Thúc Trâm Sử Liệu Việt Nam, Huỳnh Khắc Dung
83 Năm, Mấy Lần Việt Pháp Ký Hòa Ước?, Nguyễn Kỳ Nam Tang Thương Ngẫu Lục, Phạm Đình Hồ & Nguyễn An
Thanh Triều Sử Lược, Khuyết danh (sách chép tay của trường Bắc Cổ) Thiên Nam Dư Hạp Tập, Chính quyền Hậu Lê
Trần Hưng Đạo, Hoàng Thúc Trâm
Trần Thủ Độ, Trúc Khê
Trung Hoa Sử Cương, Đào Duy Anh Trung Quốc Sử Lược, Phan Khoang
Trung Quốc Duy Tân, Nguyễn Nam Thông
Vấn Đề Nhân Quyền Trong Phạm Vi Pháp Luật, Vũ Văn Mẫu Văn Hóa Nguyệt San, Tạp chí của Bộ Giáo dục
Việt Nam Khai Quốc Chí Truyện, Chính quyền Hậu Lê Việt Nam Giáo Sử, L.M. Phan Phát Hườn
Việt Nam Lịch Sử Giáo Trình, Đào Duy Anh Việt Nam Máu Lửa, Nghiêm Kế Tố
Việt Nam Phong Sử, Nguyễn Văn Mụi Việt Nam Sử Lược, Trần Trọng Kim
Việt Nam Tây Thuộc Sử, Đào Trinh Nhất Việt Nam Văn Hóa Sử Cương, Đào Duy Anh Việt Sử Đại Toàn, Mai Đăng Đệ
Việt Sử Giai Thoại, Đào Trinh Nhất Xã Hội Việt Nam, Lương Đức Thiệp

Pháp Ngữ
Abrégé De l'Histoire d'Annam, A. Sehreiner A La Barre De l'Indochine, J. Decoux
Bulletin De l'Ecole Francaise d'Extrême Orient Bulletin Des Amis Du Vieux Huế
Bulletin Des Études Indochinoise (1904) Connaissance Du Việt Nam, P. Huard
Contribution À l'Histoire De La Nation Vietnamienne, Jean Chesnaux Cours d'Histoire Annamite, Trương Vĩnh Ký
Documents Historiques Relatifs À La Cochinchine Et Au Cambodge, A. d'Epinay Essai Sur Les Tonkinois, Dumoutier
Études d'Histoire d'Annam, B.E.F.E.O Gia Long, M. Gaultier
Histoire Ancienne Et Moderne De l'Annam, A. Launay Histoire De La Cochinchine-des Origines À 1883, P. Cultru Histoire De l'Expédition De La Cochinchine, Gabriel Auberet
Histoire Des Relations De La Chine Avec Le Việt Nam (du XVI ème au XIX ème siècle),
G. Deveria
Histoire d'Une Paix Manquée, Jean Sainteny Histoire Généra E Des Voyages, A. Prévost Histoire Moderne Du Pays d'Annam, C. B. Maybon
Histoire Militaire De l'indochine De 1664 À Nos Jours, P. Cultru Histoire Naturelle, Civille Et Politique Du Tonkin, A. Richard
La Cochinchine Relegieuse, L. E. Louvet La Conquète De l'Indochine, A. Thomazi La Geste Francaise En Indochine, George Taboulet
L'Annam d'Autrefois - Essai Sur La Constitution de l'Annam Avant l'Intervention Francaise
Le Clergé Indigène de l'Indochine - Les Mission Catholiques, L. Cadière L'Empire d'Annam, Gosselin
L'Empire d'Annam Et Le Peuple Annamite, J. Silvestre L'Histoire Du Việt Nam, Phillippe Devillers
Le Việt Nam, Lê Thành Khôi
Le Việt Nam Et Sa Civilisation, Trần Văn Tùng l'Enseignement Dans l'Ancient Việt Nam, Huỳnh Khắc Dụng Les Chams d'Autrefois Et d'Aujourd'hui, J. Lenba
Les Débuts Du Christianisme En Annam - Des Origines Au Commencement Du XVIème siècle, Bonifacy
Les Origines Du Clergé Vietnamien, L. M. Nguyễn Hữu Trọng
Mémorial De La Cochinchine Et Du Tonkin, Missionnaires De La Sté De Jésus Notes Et Spuvenirs Au Tonkin 1873-81-86, R. Bonnal
Premières Études Sur Les Sources Annamites De l'Histoire d'Annam, M. M. Pelliot & Cadtère
Revue Indochinoise 1921 Sociologie d'Une Guerre, Paul Mus
Texte Et Commentaire Du Miroir Complet De l'Histoire Du Việt Nam, Durand (Khâm Dịch Việt Sử Thông Giám Cương Mục)
Voyages Et Mission, A. de Rhodes


Ý Kiến Của Văn Gia Trí Thức
Về Những Tác Phẩm Sử Học Của Phạm Văn Sơn

Tôi nhận thấy tác giả đã dày công sưu tầm để viết bộ sử này (V. S. T. B.) với một thể tài mới gọn ghẽ và dễ hiểu. Tôi tin rằng Việt Sử Tân Biên sẽ giúp ích nhiều cho các giáo sư và giới hiếu học.
Trần Hữu Thế, Bộ Trưởng Quốc Gia Giáo Dục (Thư gửi tác giả đề ngày 6-11-58)
Bộ sách (V. S. T. B.) đã được tác giả biên soạn rất công phu, với một phương pháp khoa học và dựa trên một căn bản dân chủ hợp với quan niệm chung của các sử gia hiện đại trên thế giới. Sách lại được chú giải bằng nhiều tranh ảnh làm cho người đọc ham thích hơn. Việt Sử Tân Biên thực là một tài liệu quý giá cho những ai muốn nghiên cứu về sử nước nhà.
Bác sĩ Trần Sỹ Đôn, Giám đốc sở Tu Thư Bộ Quốc Gia Giáo Dục (Thư gửi tác giả ngày 3-2-1959)
Bộ sử của anh lấy yếu tố "người dân" làm gốc, và như vậy, anh đã "dân chủ hóa" lịch sử, đúng với quan niệm mới mẻ và chính đáng của các sử gia hiện đại. Tôi có thể nói rằng, trên điểm này anh đã thành công một phần lớn và tôi cũng tin rằng bộ Việt Sử Tân Biên của anh sẽ đạt được mục đích mong muốn.
Hơn nữa, tôi hy vọng rằng độc giả toàn quốc sẽ tìm ở đây niềm tin tưởng bất diệt nơi tiền đồ tổ quốc và các thế hệ ngày mai sẽ còn lưu dụng mãi mãi bộ "Việt Sử Tân Biên".
Thái văn Kiểm, Chủ nhiệm Văn Hóa Nguyệt San, Phó Giám Đốc Nha Văn Hóa (Thư gửi cho tác giả đề ngày 5-11-1958)
Về sử học, ngoài cuốn Việt Sử Tân Biên, phần lớn các sách có tính cách giáo khoa, dễ thường chưa cuốn nào làm lu mờ được cuốn Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim
. . . .
Tạp chí Bách Khoa - Số 70
(sau cuộc triển lãm văn hóa toàn quốc tháng 12-1959)
Bộ "Việt Sử Tân Biên" của sử gia Phạm Văn Sơn đã đi đến thời Nam Bắc phân tranh (loạn Phong Kiến). Bộ "Việt Sử Tân Biên" được viết theo một quan niệm mới, khoa học và đầy đủ là một công trình có giá trị quốc tế. Tưởng cần nên nhắc là bộ "Việt Nam Tranh Đấu Sử" của họ Phạm, một bộ sách rất quý giá, đã được tái bản lần thứ năm . . . Thiếu tá Phạm Văn Sơn đã làm vẻ vang cho nền sử học: Việt Nam và quân đội với bộ "Việt Sử Tân Biên".
Chỉ Đạo - Xuân Canh Tý
"Việt Sử Tân Biên" là một bộ sử được biên soạn công phu nhất từ trước tới nay. Việt Sử Tân Biên, dưới ngòi bút sắc sảo, với quan niệm biên thảo rất khoa học của sử gia Phạm Văn Sơn, sẽ giúp ích rất nhiều cho chúng ta trên đường sử học.
Ngôn Luận 1960
Tác giả đã dày công viết bộ Việt Sử đại toàn này. (V. S. T. B.) gồm 7 quyển, với một thể tài mới mẻ, gọn gàng và dễ hiểu. Hơn nữa, tác giả đã nhận chân nhiệm vụ một sử gia lấy yếu tố "người dân" làm gốc và đã "dân chủ hóa" lịch sử Việt Nam đúng với quan niệm chân chính của các sử gia hiện tại.
Văn Hóa Nguyệt San - Số 37 Tháng 12-1958
Việt Sử Tân Biên được biên khảo công phu, tài liệu phong phú, quả là một cuốn sử rất có giá trị mà mọi người không nên thiếu khi nghiên cứu lịch sử.
Minh Tân Nguyệt San - Số 56 - Tháng 3-1959
Cuốn Việt Sử Tân Biên, tập I và II, sau khi xuất bản đã được một số văn gia trí thức nhận xét và xác nhận cuốn sử này đã thành công một phần lớn trong vấn đề tìm cách dân chủ hóa lịch sử, đề cao vai trò tranh đấu của nhân dân trên mọi phương diện, đưa ra những tư tưởng cách mạng, cấp tiến.
Tạp chí Thế Giới Tự Do Tập VIII - Số 5
Quan niệm viết sử của ông Phạm Văn Sơn đã biết dùng lập luận của một người dân nhược tiểu giải quyết sự kiện lịch sử, phương pháp viết khoa học . . . Kỹ thuật viết sử của ông hấp dẫn khiến chúng tôi nhớ đến Michelet, Tư Mã Thiên . . . Chắc chắn những ai về sau muốn tìm sử liệu Việt Nam không thể bỏ qua Phạm Văn Sơn.
Thế Phong
(Lược sử văn nghệ Việt Nam - Nhà văn hậu chiến)
Với Việt Sử Tân Biên quyển 3, ông Phạm Văn Sơn nghiên cứu riêng về loạn Phong Kiến Việt Nam. Đây là một nhận xét rất mới và cấp tiến trên phương diện sử học của nước nhà để định ra trách nhiệm của hai họ Trịnh-Nguyễn đã gây nên cuộc nội chiến luôn ba thế kỷ gần đây.
Chúng tôi tán thành quan điểm này vì người dân không thể là những dụng cụ tranh đấu ngai vàng nghiệp bá của dòng họ phong kiến dầu ở bất cứ một quốc gia và một tình thế nào.
Nhật báo Tự Do ngày 3-2-1959

Phụ Lục 1
Bảng Đối Chiếu Các Triều Đại Việt Nam Với Năm Dương Lịch Và Các Triều Đại Trung Hoa
Ghi chú: TCN: Trước Công Nguyên

I. Họ Hồng Bàng (2879 - 258 TCN)
Quốc hiệu: Văn Lang Kinh đô:           Phong Châu
Triều đại Việt Nam Quốc hiệu            Dương Lịch    Triều đại Tr. Hoa
Kinh Dương Vương                           Phục Hi
Lạc Long Quân                              Thần Nông
2879 TCN                         Hoàng Đế Hạ, Thương, Chu
Vua Hùng Vương: 18 đời                              
1. Hùng Dương (Lộc Tục)      Văn Lang                   
2. Hùng Hiến (Sùng Lãm)                             
3. Hùng Lân                           
4. Hùng Việp                         
5. Hùng Hy                            
6. Hùng Huy                          
7. Hùng Chiêu                        
8. Hùng Vỹ                            
9. Hùng Định                         
10. Hùng Hy                          
11. Hùng Trinh                                   
12. Hùng Võ                          
13. Hùng Việt                        
14. Hùng Anh                        
15. Hùng Triều                                   
16. Hùng Tạo                         
17. Hùng Nghi                                   
18. Hùng Duệ             258 TCN        
II. Nhà Thục (257 TCN - 208 TCN)
Quốc hiệu:       Âu Lạc
Kinh đô:          Phong Khê (Cổ Loa, huyện Đông Anh, Hà Nội)
Triều đại Việt Nam     Quốc hiệu        Dương Lịch                Triều đại Tr. Hoa
Thục Phán                                       257 TCN - 208 TCN       Chu Noãn Vương
An Dương Vương      Âu Lạc                                                            Tần Thủy Hoàng

III. Nhà Triệu (207 TCN - 111 TCN)
Quốc hiệu:       Nam Việt
Kinh đô:          Phiên Ngung (gần Quảng Châu, Trung Hoa)
Triều đại Việt Nam                                  Dương Lịch           Triều đại Tr. Hoa
1. Triệu Vũ Vương (Triệu Đà)            207 TCN - 136 TCN   Tần Nhị Thế
2. Triệu Văn Vương (Triệu Hồ)          136 TCN - 124 TCN   Hán Võ Đế
3. Triệu Minh Vương (Triệu Anh Tề) 124 TCN - 112 TCN   Hán Võ Đế
4. Triệu Ai Vương (Triệu Hưng)        112 TCN         Hán Võ Đế
5. Triệu Dương Vương (Triệu Kiến Đức)      111 TCN         Hán Võ Đế

IV. Thời kỳ Bắc thuộc lần thứ nhất (207 TCN - 40)
Triều đại Việt Nam     Niên hiệu         Dương Lịch    Triều đại Tr. Hoa
Tây Hán đô hộ                                      111 TCN - 25            Hán Võ Đế
Đông Hán đô hộ                                  25 - 40            Hán Quang Võ

V. Trưng Nữ Vương (40 - 43)
Kinh đô: Mê Linh (Vĩnh Phú)
Triều đại Việt Nam     Quốc hiệu        Dương Lịch    Triều đại Tr. Hoa
Trưng Vương (Trưng Trắc, Trưng Nhị) 40-43            Hán Quang Võ

VI. Thời kỳ Bắc thuộc lần thứ hai (43 - 543)
Triều đại Việt Nam     Niên hiệu Dương Lịch Triều đại Tr. Hoa
Thời Đông Hán                                   43        Hán Quang Võ
Thời Ngô                                         244          Tam Quốc
Khởi nghĩa Bà Triệu                       248          Tam Quốc
Thời Ngô, Ngụy                                  264      Ngụy Nguyên Đế
Thời Ngô, Tấn                              265 – 279  Tấn Võ Đế
Thời Tấn                                      280 – 420   Tấn Võ Đế
Thời Lưu Tống                            420 – 479   Tống Võ Đế
Thời Tề                                        479 – 505    Tề Cao Đế
Thời Lương                                  505 – 543    Lương Võ Đế

VII. Nhà Tiền Lý và Nhà Triệu (544 - 602)
Quốc hiệu:       Vạn Xuân Kinh đô: Long Biên
Triều đại Việt Nam             Niên Hiệu VN    Dương Lịch     Triều đại Tr. Hoa
1. Lý Nam Đế (Lý Bôn)         Thiên Đức       544 - 548         Lương Võ Đế
2. Lý Đào Lang Vương Thiên Bảo                 549 - 555         Lương Võ Đế
3. Triệu Việt Vương (Triệu Quang Phục)       549 - 570         Lương Võ Đế
4. Hậu Lý Nam Đế
(Lý Phật Tử) 571 – 602 Trần Tuyên Đế

VIII.    Thời kỳ Bắc thuộc lần thứ ba (603 - 939)
Triều đại Việt Nam Niên Hiệu    Dương Lịch           Triều đại Tr. Hoa
Thời Tùy                                          603 – 617          Tùy Văn Đế
Thời Đường                                     618 – 721          Đường Cao Tổ
Mai Hắc Đế (Mai Thúc Loan) 722                Đường Huyền Tông
Thời Đường                                    723 – 790           Đường Huyền Tông
Bố Cái Đại Vương (Phùng Hưng   791                     Đường Đức Tông
Thời Đường                                792 – 906               Đường Đức Tông
Thời Hậu Lương                          907 – 922             Đường Đức Tông Lương Thái Tổ
Thời Hậu Đường                         923 – 936             Đường Trang Tông
Thời Hậu Tấn                               937 – 939              Tấn Cao Tổ

IX. Thời kỳ xây nền tự chủ (905 - 938)
Triều đại Việt Nam Niên Hiệu VN Dương Lịch Triều đại Trung Hoa
Khúc Thừa Dụ                        905 – 907                        Đường Ai Đế
Khúc Hạo                    907 – 917                         Lương Thái Tổ
Khúc Thừa Mỹ            917 – 923                        Lương Mạt Đế - Nam Hán
Dương Đình Nghệ      931 – 938                        Đường Minh Tông

X. Nhà Ngô (939 - 965)
Kinh đô: Cổ Loa
Triều đại Việt Nam         Niên Hiệu VN     Dương Lịch        Triều đại Tr. Hoa
1. Ngô Vương Ngô Quyền                           939 - 944           Tấn Cao Tổ - Nam Hán
2. Dương Bình Vương Tam Kha                 945 - 950           Tấn Xuất Đế - Nam Chiếu
3. Ngô Nam Tấn Vương Xương Văn             950 – 965        Hán Ẩn Đế
4. Ngô Thiên Sách Vương Xương Ngập     951 - 959           Hậu Chu Thái Tổ
      Thập Nhị Sứ Quân                                  966 – 968          Tống Thái Tổ

XI. Nhà Đinh (968 - 980)
Quốc hiệu:       Đại Cồ Việt
Kinh đô: Hoa Lư (Gia Viễn, Ninh Bình)
            Triều đại Việt Nam             Niên Hiệu            Dương Lịch    Triều đại Tr. Hoa
1. Đinh Tiên Hoàng (Đinh Bộ Lĩnh)   Thái Bình        968 - 979         Tống Thái Tổ
2. Đinh Phế Đế (Đinh Toàn)               Thái Bình              980            Tống Thái Tông

XII. Nhà Tiền Lê (980 - 1009)
Kinh đô:          Hoa Lư (Gia Viễn, Ninh Bình)

Triều đại Việt Nam                         Niên Hiệu            Dương Lịch    Triều đại Tr. Hoa
1. Lê Đại Hành (Lê Hoàn)            Thiên Phúc              980 - 1005     Tống Thái Tông
2. Lê Trung Tông (Lê Long Việt)                                           1005    Tống Chân Tông
3. Lê Ngọa Triều (Lê Long Đĩnh)       Ứng Thiên       1006 - 1009     Tống Chân Tông
XIII.    Nhà Lý (1010 - 1225)
Quốc hiệu:       Đại Cồ Việt, Đại Việt (1054) Kinh đô: Hoa Lư (Gia Viễn, Ninh Bình); năm 1010 dời đô về Thăng Long (Hà Nội)
Triều đại Việt Nam                            Niên Hiệu VN  Dương Lịch    Triều đại Tr. Hoa
1. Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn)             Thuận Thiên    1010-1028       Tống Chân Tông
2. Lý Thái Tông (Lý Phật Mã)            Thiên Thành    1028-1054       Tống Nhân Tông
3. Lý Thánh Tông (Lý Nhật Tôn)       Long Thụy      1054-1072       Tống Nhân Tông
4. Lý Nhân Tông (Lý Càn Đức)         Thái Ninh        1072-1128       Tống Thần Tông
5. Lý Thần Tông (Lý Dương Hoán    Thiên Thuận    1128-1138       Tống Cao Tông
6. Lý Anh Tông (Lý Thiên Tộ)           Thiệu Minh      1138-1175       Tống Cao Tông
7. Lý Cao Tông (Lý Long Cán)          Trinh Phủ        1176-1210       Tống Hiếu Tông
8. Lý Huệ Tông (Lý Hạo Sảm)           Kiến Gia          1211-1224       Tống Ninh Tông
9. Lý Chiêu Hoàng (Chiêu Thánh)     ThiênChương  1224-1225       Tống Ninh Tông

XIV.    Nhà Trần (1225 - 1400)
Quốc hiệu:       Đại Việt
Kinh đô: Thăng Long (Hà Nội)
Triều đại Việt Nam                             Niên Hiệu        Dương Lịch    Triều đại Tr. Hoa
1. Trần Thái Tông (Trần Cảnh)           Kiến Trung      1225-1258       Tống Lý Tông
2. Trần Thánh Tông (Tr. Hoảng)       Thiệu Long      1258-1278        Tống Lý Tông
3. Trần Nhân Tông (Trần Khâm)    Thiệu Bảo            1279-1293       Tống Đế Bính
4. Trần Anh Tông (Trần Thuyên)           Hưng Long 1293-1314        Nguyên Thế Tổ
5. Trần Minh Tông (Trần Mạnh)    Đại Khánh            1314-1329       NguyênNhân Tông
6. Trần Hiến Tông (Trần Vượng)     Khai Hựu           1329-1341       Nguyên Minh Tông
7. Trần Dụ Tông (Trần Hạo)       Thiệu Phong            1341-1369       Nguyên Thuận Đế
Dương Nhật Lễ (soán ngôi)              Đại Định           1369-1370       Minh Thái Tổ
8. Trần Nghệ Tông (Trần Phủ)            Thiệu Khánh   1370-1372       Minh Thái Tổ
9. Trần Duệ Tông (Trần Kính)            Long Khánh    1373-1377       Minh Thái Tổ
10. Trần Phế Đế (Trần Hiện)  Xương Phù     1377-1388       Minh Thái Tổ
11. Trần Thuận Tông (Trần Ngung) Quang Thái        1388-1398       Minh Thái Tổ
12. Trần Thiếu Đế (Trần Án)            Kiến Tân           1398-1400       Minh Thái Tổ

XV. Nhà Hồ (1400 - 1407)
Quốc hiệu:       Đại Ngu
Kinh đô:          Tây Đô (Thanh Hóa)
Triều đại Việt Nam     Niên Hiệu VN Dương Lịch    Triều đại Tr. Hoa
1. Hồ Quý Ly     Thánh Nguyên         1400 - 1401     Minh Huệ Đế
2. Hồ Hán Thương      Thiệu Thánh    1401 - 1407     Minh Huệ Đế

XVI.    Nhà Hậu Trần (1407 - 1414)
Triều đại Việt Nam                  Niên Hiệu VN            Dương Lịch    Triều đại Tr. Hoa
1. Trần Giản Định (Trần Ngỗi)           Hưng Khánh   1407 - 1409     Minh Thành Tổ
2. Trần Quý Khoáng   Trùng Quang                           1409 - 1414     Minh Thành Tổ

XVII.  Thời kỳ kháng chiến chống nhà Minh đô hộ (1414 - 1427)
Triều đại Việt Nam     Niên Hiệu VN Dương Lịch    Triều đại Tr. Hoa
Thời Minh đô hộ                                 1414 - 1417     Minh Thành Tổ
Bình Định Vương (Lê Lợi khởi nghĩa)                      1418 - 1427    
XVIII. Triều Lê sơ (1428 - 1527)
Quốc hiệu:       Đại Việt Kinh đô:       Đông Đô (Hà Nội)
                 Triều đại Việt Nam            Niên Hiệu VN Dương Lịch    Triều đại Tr. Hoa
1. Lê Thái Tổ (Lê Lợi) Thuận Thiên                            1428 - 1433    Minh Tuyên Tông
2. Lê Thái Tông (Lê Nguyên Long)        Thiệu Bình 1433 – 1442  Minh Tuyên Tông
3. Lê Nhân Tông (Lê Bang Cơ)          Thái Hòa         1442 - 1459     Minh Anh Tông
Lê Nghi Dân (soán ngôi)                    Thiên Hưng     1459                Minh Anh Tông
4. Lê Thánh Tông (Lê Tư Thành)       Hồng Đức       1460 - 1497     Minh Anh Tông
5. Lê Hiến Tông (Lê Tăng)                 Cảnh Thống    1498 - 1504     Minh Hiếu Tông
6. Lê Túc Tông (Lê Thuần)            Thái Trinh     1504            Minh Hiếu Tông
7. Lê Uy Mục (Lê Tuấn)              Đoan Khánh           1505 - 1509     Minh Hiếu Tông
8. Lê Tương Dực (Lê Oanh)        Hồng Thuận           1509 - 1516     Minh Võ Tông
9. Lê Chiêu Tông (Lê Ý)            Quang Thiệu           1516 - 1522     Minh Võ Tông
10. Lê Cung Hoàng (Lê Xuân) Thống Nguyên          1522 – 1527   Minh Thế Tông

XIX.    Nhà Mạc (1527 - 1592)
Kinh đô:          Đông Đô (Hà Nội)
Triều đại Việt Nam                         Niên Hiệu            Dương Lịch     Triều đại Tr. Hoa
1. Mạc Thái Tổ (Mạc Đăng Dung)      Minh Đức        1527-1529       Minh Thế Tông
2. Mạc Thái Tông (Mạc ĐăngDoanh  Đại Chính        1530-1540       Minh Thế Tông
3. Mạc Hiến Tông (Mạc Phúc Hải)     Quảng Hòa      1541-1546       Minh Thế Tông
4. Mạc Tuyên Tông (Mạc Phúc Nguyên) Vĩnh Định 1546-1561       Minh Thế Tông
5. Mạc Mậu Hợp                          Thuần Phúc            1562-1592       Minh Thần Tông
6. Mạc Toàn                  Võ An                                        1592           Minh Thần Tông
7. Mạc Kính Chỉ         Bảo Định                            1592-1593            Minh Thần Tông
8. Mạc Kính Cung      Kiền Thống                        1593-1625            Minh Thần Tông
9. Mạc Kính Khoan    Long Thái                           1623-1625            Minh Thần Tông
10. Mạc Kính Vũ        Thuận Đức                         1638-1677           

XX.     Nhà Hậu Lê (Lê trung hưng 1533 - 1788)
bị gián đoạn từ 1527 - 1532 do nhà Mạc soán ngôi
Triều đại Việt Nam     Niên Hiệu VN Dương Lịch    Triều đại Tr. Hoa
1. Lê Trang Tông (Lê Duy Ninh)        Nguyên Hòa    1533-1548       Minh Thế Tông
2. Lê Trung Tông (Lê Huyên)             Thuận Bình     1549-1556       Minh Thế Tông
3. Lê Anh Tông (Lê Duy Bang)         Thiên Hựu       1557-1573       Minh Thế Tông
4. Lê Thế Tông (Lê Duy Đàm)           Gia Thái          1573-1599       Minh Thần Tông
5. Lê Kính Tông (Lê Duy Tân)           Thuận Đức      1600-1619       Minh Thần Tông
6. Lê Thần Tông (Lê Duy Kỳ)            Vĩnh Tộ           1619-1643       Minh Thần Tông
7. Lê Chân Tông (Lê Duy Hựu)         Phúc Thái        1643-1649       Minh Tư Tông
Lê Thần Tông (Lê Duy Kỳ lần 2)       Khánh Đức     1649-1662       Thanh Thế Tổ
8. Lê Huyền Tông (Lê Duy Vũ)         Cảnh Trị          1663-1671       Thanh Thánh Tổ
9. Lê Gia Tông (Lê Duy Hợi)             Dương Đức     1672-1675       Thanh Thánh Tổ
10. Lê Hy Tông (Lê Duy Hợp)           Vĩnh Trị           1676-1705       Thanh Thánh Tổ
11. Lê Dụ Tông (Lê Duy Đường)      Vĩnh Thịnh      1705-1729       Thanh Thánh Tổ
12. Lê Đế (Lê Duy Phường)        Vĩnh Khánh           1729-1732       Thanh Thế Tông
13. Lê Thuần Tông (DuyTường          Long Đức        1732-1735       Thanh Thế Tông
14. Lê Ý Tông (Lê Duy Thìn) Vĩnh Hựu                  1735-1740         Thanh Thế Tông
15. Lê Hiển Tông (Lê Duy Diêu)       Cảnh Hưng     1740-1786       Thanh Cao Tông
16. Lê Mẫn Đế (Lê Duy Kỳ)      Chiêu Thống           1787-1788       Thanh Cao Tông
XI. Nhà Tây Sơn (1778 - 1802)
Kinh đô:          Phú Xuân (Huế)
Triều đại Việt Nam     Niên Hiệu VN Dương Lịch    Triều đại Tr. Hoa
1. Nguyễn Nhạc          Thái Đức         1778 - 1793     Thanh Cao Tông
2. Nguyễn Huệ            Quang Trung   1788 - 1792     Thanh Cao Tông
3. Nguyễn Quang Toản           Cảnh Thịnh     1793 - 1802     Thanh Nhân Tông

XXII. Nhà Nguyễn (1802 - 1945)
Quốc hiệu:       Việt Nam, Đại Nam (từ Minh Mạng) Kinh đô:          Huế
Triều đại Việt Nam Niên Hiệu            Dương Lịch    Triều đại Tr. Hoa
1. Nguyễn Thế Tổ (Nguyễn Phúc Ánh) Gia Long 1802 – 1820 Thanh Nhân Tông
2. Nguyễn Thánh Tổ (Nguyễn Phúc Đảm) Minh Mạng 1820–1840Thanh Nhân Tông
3. Nguyễn Hiến Tổ (Nguyễn Miên Tông) Thiệu Trị 1841 – 1847      Thanh Tuyên Tông
4. Nguyễn Dục Tông (Nguyễn Hồng Nhiệm)            Tự Đức            1847 - 1883     Thanh Tuyên Tông
5. Nguyễn Dục Đức (Nguyễn Ưng Chân)      Dục Đức         1883(3ngày)    Thanh Đức Tông
6. Nguyễn Hiệp Hòa (Nguyễn Hồng Dật)      Hiệp Hòa         1883
(6 tháng)          Thanh Đức Tông
7. Nguyễn Giản Tông (Nguyễn Ưng Đăng)   Kiến Phúc       1883 - 1884     Thanh Đức Tông
8. Nguyễn Hàm Nghi (Nguyễn Ưng Lịch) Hàm Nghi           1884 - 1885     Thanh Đức Tông
9. Nguyễn Cảnh Tông (Nguyễn Ưng Xụy)    Đồng Khánh   1886 - 1888     Thanh Đức Tông
10. Nguyễn Thành Thái (Nguyễn Bửu Lân)   Thành Thái      1889 - 1907     Thanh Đức Tông
11. Nguyễn Duy Tân (Nguyễn Vĩnh San)      Duy Tân          1907 - 1916     Thanh Đức Tông
12. Nguyễn Hoằng Tông (Nguyễn Bửu Đảo)            Khải Định       1916 - 1925     Trung Hoa
Dân Quốc
13. Nguyễn Bảo Đại (Nguyễn Vĩnh Thụy)     Bảo Đại           1926 - 1945     Trung Hoa Dân Quốc

Phụ Lục 2
Thế Phả Họ Nguyễn
Các Chúa Nguyễn       Niên Hiệu        Dương Lịch   Vua Nhà Lê
1. Triệu Tổ Nguyễn Kim         Chiêu Huân Tĩnh Công           1533 - 1545     Lê Trang Tông
2. Thái Tổ Nguyễn Hoàng      Chúa Tiên        1558 - 1612     Lê Anh Tông
3. Hy Tông Nguyễn Phúc Nguyên     Chúa Sãi          1613 - 1634     Lê Kính Tông
4. Thần Tông Nguyễn Phúc Lan Chúa Thượng 1635 – 1648 Lê Thần Tông
5. Thái Tông Nguyễn Phúc Tần          Chúa Hiền      1648 - 1687     Lê Chân Tông
6. Anh Tông Nguyễn Phúc Thái         Chúa Nghĩa    1687 - 1691     Lê Hy Tông
7. Hiển Tông Nguyễn Phúc Chu         Chúa Quốc      1691 - 1725     Lê Hy Tông
8. Túc Tông Nguyễn Phúc Thụ           Ninh Vương    1725 - 1738    Lê Dụ Tông
9. Thế Tông Nguyễn Phúc Khoát       Võ Vương       1738 - 1765     Lê Ý Tông
10. Duệ Tông Nguyễn Phúc Thuần    Định Vương    1765 - 1777     Lê Hiển Tông

Phụ Lục 3 Thế Phả Họ Trịnh
Các Chúa Trịnh           Niên Hiệu        Dương Lịch    Vua Nhà Lê
1. Thế Tổ Minh Khang 
             Thái Vương   Trịnh Kiểm      1545-1569       Lê Trang Tông
2. Bình An Vương      Trịnh Tùng      1570-1623       Lê Anh Tông
3. Thanh Đô Vương    Trịnh Tráng     1623-1657       Lê Thần Tông
4. Tây Đô Vương        Trịnh Tạc         1657-1682       Lê Thần Tông
5. Định Vương            Trịnh Căn        1682-1709       Lê Hy Tông
6. An Đô Vương         Trịnh Cương   1709-1729       Lê Dụ Tông
7. Uy Nam Vương      Trịnh Giang     1729-1740       Lê Duy Phường
8. Minh Đô Vương     Trịnh Doanh    1740-1767       Lê Ý Tông
9. Tĩnh Đô Vương      Trịnh Sâm        1767-1782       Lê Hiển Tông
10. Điện Đô Vương    Trịnh Cán        (2 tháng)          Lê Hiển Tông
11. Đoan Nam Vương Trịnh Khải       1782-1786       Lê Hiển Tông
12. Án Đô Vương       Trịnh Bồng      1787-1788       Lê Mẫn Đế

Mục lục

Việt sử Toàn Thư – Phạm Văn Sơn 1

Việt sử Toàn Thư – Phạm Văn Sơn 2

Việt sử Toàn Thư – Phạm Văn Sơn 3


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét