Trang

Thứ Bảy, 8 tháng 6, 2019

Bá Tước Môngtơ Crixtô (Chương 11-20)


 
BÁ TƯỚC MÔNGTƠ CRIXTÔ
Chương 11: Hội hóa trang thành Rome

Hồi đầu năm 1838 ở Florence thấy có hai người trẻ tuổi thuộc xã hội thanh lịch nhất của Paris; một người là tử tước Albert de Morcerf, người kia là nam tước Franz d'épinay. Họ cùng nhau đi dự hội hóa trang thành Rome. Thật không phải là việc dễ dàng: ba trăm ngàn người xem, người La Mã, người ý, người ngoại quốc từ bốn châu lục của thế giới đến dự và nếu không muốn dự lễ hội giữa đám người bình dân và kẻ tầm thường thì phải tìm được một cái xe, những quần áo giả trang và nhất là một cái cửa sổ mở ra phố Cours là nơi đoàn diễu hành đi qua.

Albert và Franz thuê phòng ở chỗ bác Pas-trini, chủ khách sạn Londres trên quảng trường Tây Ban Nha.

Căn hộ họ đặt trước chỉ có hai phòng nhỏ vì phần kia của tầng gác đã được một người giàu sụ thuê, và hình như ông ta là người đảo Sicile.hay đảo Malte và mang tước vị bá tước Monte Cristo.

- Này bác Pastrini, bác đã tìm được một cửa sổ trông xuống đoàn diễu hành chưa? Hôm nay đã là thứ sáu, hai ngày nữa là khai mạc hội hóa trang rồi.

- à, xin vâng, một cái cửa sổ! - Bác Pastrini kêu lên, chuyện này sẽ khó khăn đấy. Còn một cái ở tầng năm lâu đài Doria nhưng vừa mới cho thuê rồi.

- Chúng tôi trông cậy ở bác đấy, bác Pastrini ạ, Franz nói. Còn chiều nay bác cho chiếc xe ngựa mui gấp đưa chúng tôi đi thăm đấu trường Colisée.

- Đấu trường Colisée ư? Các quý ngài ơi, nếu tôi có thể đưa ra một lời khuyên thì xin các ông tránh những đường phố ngoại vi.

- Tại sao vậy?

- Vì đó là vùng đất của Luigi Vampa, một tên cướp đáng sợ nhất thành Rome. Hắn chuyên bắt cóc du khách và đòi tiền chuộc: tùy theo chỗ ở của khách trong thành phố là xa hay gần mà hắn đưa ra một thời hạn để nộp tiền chuộc; rồi thời hạn ấy trôi qua, hắn cho thêm một giờ làm phúc. Đến phút thứ sáu mươi của giờ đó, nếu chưa nhận được tiền thì hắn sẽ bắn vỡ sọ người ta bằng một phát súng lục, và thế là xong chuyện.

- Quỷ thần ơi! Này bác Pastrini, bác dọa chúng tôi bằng các chuyện cướp này đủ rồi chứ?

ít ra thì cũng cám ơn bác đã chỉ bảo cho!

Nói xong, hai chàng trai đi xuống cầu thang, lên xe đi thăm đấu trường Colisée. Tuy nhiên họ vẫn tránh các đường phố ngoại vi.

Ngày hôm sau, bác Pastrini đến phòng các chàng trai.

- Tôi đã tìm được rồi. ông chủ khách sạn nói với giọng hoàn toàn hài lòng. Các ông biết rằng bá tước Monte Cristo ở cùng tầng gác với các ông. Nay ông ấy biết các ông đang gặp trở ngại và sẵn lòng dành cho các ông hai chỗ trong xe của mình và hai chỗ cửa sổ lâu đài Rospoli.

- Nhưng mà, Albert hỏi, liệu chúng tôi có nên nhận sự giúp đỡ của một người không quen biết chăng?

Trong lúc đó có tiếng người gõ cửa. Một người hầu xuất hiện ở cửa phòng.

- Ngài bá tước Monte Cristo, người hầu nói, cho tôi sang hỏi xem các ông đây có vui lòng cho phép chủ nhân tôi được tiếp kiến ở bên này như một người láng giềng được không?

- Hãy nói với bá tước, Franz trả lời, rằng chính chúng tôi sẽ rất hân hạnh được đến thăm ông ấy.

Người hầu rút lui..- Thế thì các ông nhận lời đề nghị của ông ta chứ? Bác Pastrini nói.

- Riêng tôi thì xin vâng, Albert nói. Còn anh nói sao hả Franz?

- Tôi nói rằng các cửa sổ lâu đài Rospoli đã khiến tôi quyết định. Franz trả lời.

- Này, Franz nói, sửa soạn đi và chúng ta cùng sang bên bá tước Monte Cristo.

Franz và Albert mới đi ngang qua đầu cầu thang, một người hầu đã ra mở cửa và ra hiệu mời họ vào.

Họ đi ngang qua hai phòng bày biện sang trọng đến mức mà họ không tin được rằng có thể thấy trong khách sạn của bác Pastrini, và cuối cùng bước vào một phòng khách thanh lịch.

- Xin mời các quý ngài ngồi, người hầu nói, tôi đi báo cho ngài bá tước.

Gần như ngay lập tức tấm thảm treo được nâng lên lấy lối đi cho người chủ sở hữu tất cả các đồ đạc quý giá này. Đó là một người đàn ông quãng ba mươi tám bốn mươi tuổi, ăn mặc cực kỳ thanh nhã và lịch sự.

- Chúng tôi, Franz và tôi, ngàn lần biết ơn ông thưa ngài bá tước, Albert nói, thực sự ngài đã giúp chúng tôi thoát khỏi một vụ lúng túng lớn.

- A! Lạy Chúa! Thưa các ông, bá tước tiếp lời và đưa tay ra hiệu mời hai chàng trai ngồi xuống một cái đi văng, nếu tôi để các ông bị lúng túng lâu đến thế, thì đó là lỗi ở cái gã ngu đần Pastrini. Thưa các ông, tôi đã ra lệnh rồi, trưa ngày mai sẽ có xe đưa chúng ta đến lâu đài Rospoli.

Hai chàng trai đứng dậy và cáo biệt.

Ngày chủ nhật, ngày đầu tiên của hội hóa trang đã tới. Bá tước đã cho soạn sửa những bộ y phục loang lổ của hề Arlequin bằng xa tanh trắng và xanh thuộc loại lịch sự nhất.

- Vì các ông đã để tôi chọn hộ quần áo, ông nói với hai người bạn, nên tôi đã sai sửa soạn cho các ông những bộ này. Ta mặc vào nhanh lên.

Trang phục tinh tươm, họ đi xuống. Chiếc xe đợi ở cửa, chất đầy confettis và các bó hoa.

Một đám đông những người đeo mặt nạ đi ra, tràn từ mọi hướng, ùa ra từ các cửa ra vào, nhảy xuống từ các cửa sổ tầng trệt. Xe cộ trổ ra mọi góc phố, chở đầy những anh hề Pierrot, những anh hề Arlequin quần áo chắp vá nhiều màu, những chàng hiệp sĩ.

- Thưa các ngài, bá tước vừa nhảy xuống xe vừa nói, khi nào các ngài chán đóng vai diễn trò mà muốn trở lại làm khán giả thì xin biết rằng các ngài có chỗ bên các cửa sổ của tôi. Trong khi chờ đợi, xin tùy ý sử dụng người đánh xe và xe ngựa cùng các người hầu của tôi.

Franz cám ơn bá tước về lời mời ân cần còn Albert lại bị cuốn hút bởi một xe đầy nhóc các.cô thôn nữ La Mã, cũng bị dừng lại như xe của bá tước.

- A! Bạn thân mến, anh nói với Franz, tôi đảm bảo rằng họ là những người đàn bà rất hấp dẫn và tôi mong hội hóa trang thế nào cũng đem lại cho tôi cuộc gặp gỡ nào đó.

Suốt phần còn lại của ngày hôm ấy, chiếc xe ngựa mui gấp của các cô thôn nữ La Mã qua lại nhiều lần trước mặt đôi bạn trai. Trong một lần gặp chiếc xe ấy, Albert lấy một bó hoa và ném lên chiếc xe. Chắc là một trong những người đàn bà hấp dẫn này mà Albert đã đoán ra dưới lớp quần áo thôn nữ đỏm dáng đã động lòng với hành vi tình tứ ấy vì lúc chiếc xe của đôi bạn lại đi qua thì đến lượt cô ta ném sang một bó hoa đổng thảo.

Albert vồ lấy bó hoa và hãnh diện cài lên khuyết áo.

- Này, Franz nói đùa với anh ta, đây là khởi đầu một cuộc phiêu lưu!

Câu chuyện đùa mau chóng mang tính hiện thực, vì lúc Franz và Albert gặp lại chiếc xe thôn nữ, cô gái đã ném bó hoa cho Albert liền vỗ tay khi nhìn thấy hoa của mình trên khuyết áo anh ta.

- Hoan hô! Bạn thân mến! Hoan hô! Franz bảo anh ta, sắp sửa đến điều kỳ diệu đấy!

- Đừng có mà hấp tấp. Nếu cô thôn nữ xinh đẹp có ý muốn đi xa hơn nữa thì ta sẽ lại gặp cô ấy vào ngày mai.

Họ trở lại lâu đài Rospoli, nhưng bá tước đã biệt tăm. Họ liền quay về khách sạn.

Ngày hôm sau, lúc một giờ rưỡi, các chàng trai đi xuống đường. Bá tước Monte Cristo đã dành một chiếc xe cho họ sử dụng. Albert cài bó hoa đổng thảo đã héo vào khuyết áo của mình.

Lúc họ đã nhập vào đoàn diễu hành, một bó hoa đổng thảo tươi tắn từ chiếc xe các thôn nữ La Mã bay vụt sang xe của bá tước, báo cho Albert thấy rằng cuộc phiêu lưu của anh ta hôm qua vẫn tiếp diễn. Cô gái ném bó hoa đã bỏ mặt nạ ra để cho Albert có thể nhìn rõ mặt cô. Cô ta quả là đẹp.

Bó hoa có gài một tấm thiếp và Albert đọc:

"Tối thứ ba, hồi bảy giờ, anh xuống xe trước phố Pontefici và đi theo người thôn nữ La Mã đến giật cái đèn lồng của anh. Chú ý thắt một dải lụa hồng lên vai áo để cô ta dễ nhận ra anh.

Từ nay đến lúc đó sẽ không gặp tôi nữa." - Này, Franz nói, xem ra sự việc mang tính chất của một cuộc phiêu lưu đến là dễ chịu.

- Mình cũng thấy thế. Albert nói.

Rồi cũng tới ngày thứ ba, ngày cuối cùng và ồn ào nhất trong các ngày hội hóa trang..Albert đã dành được thắng lợi trong bộ y phục của anh hề áo vá nhiều màu. Trên vai anh có một dải băng hồng tết thành nơ rủ hai đầu xuống tận khÂo chân.

Ngày càng muộn thì thành phố lại càng nhộn nhịp. Đến tối mỗi người đều thắp cái đèn lồng kiểu ý gọi là moccoletto của mình. Thế là chỉ trong mười phút đã thấy lấp lánh năm mươi ngàn đốm sáng xuôi từ lâu đài Venise xuống quảng trường Nhân Dân. Cứ như thể hội ma trơi.

Lúc bảy giờ hai anh bạn đang ở mạn trên của phố Pontefici. Albert nhảy ra khỏi xe ngựa, tay cầm đèn lồng, thế rồi gần như lập tức có người đeo mặt nạ mặc y phục quen thuộc của cô thôn nữ ném hoa đưa tay giật lấy chiếc đèn lồng.

Franz ở quá xa không nghe thấy tiếng họ trao đổi với nhau, nhưng anh thấy Albert và cô thôn nữ khoác tay nhau cùng đi. Thế rồi họ mất hút.

Bỗng tiếng chuông báo hiệu kết thúc hội hóa trang vang lên và cùng lúc ấy tất cả các moccoli tắt đi như có phép màu. Như thể một cơn gió duy nhất và rất lớn đã thổi tắt tất cả. Cùng lúc mọi tiếng hò reo đều ngừng bặt. Hội hóa trang đã kết thúc.

Có thể là trong đời mình, Franz chưa từng cảm nhận được một ấn tượng nào dứt khoát đến thế, một bước chuyển từ niềm vui sang nỗi buồn mau lẹ đến thế. Mà anh chẳng cách xa khách sạn là bao. Sau mười phút, xe anh hay đúng hơn là xe của bá tước đã đậu trước khách sạn Londres.

Lúc đến gần khách sạn, Franz thấy một người đứng giữa đường phố. Người này choàng một áo khoác lớn. Trước sự kinh ngạc của Franz, người ấy nói với anh.

- Có phải nam tước Franz d'épinay đó không? Hắn hỏi thế. Lá thư này gửi cho ông.

Franz quay vào đọc dưới ánh nến:

"Bạn thân mến, ngay lúc nhận thư này, xin vui lòng làm ơn lấy cái thẻ tín dụng trong ví của tôi, kèm cả cái của anh vào đó nếu nó chưa đủ. Chạy đến ông chủ ngân hàng để lập tức lĩnh ngay bốn ngàn đồng rồi trao cả cho người mang thư. Việc khẩn cấp nên số tiền phải được gửi cho tôi ngay lập tức.

Bạn anh Albert de Morcerf" Và bên trên là những chữ của người khác:

"Nếu đúng sáu giờ sáng mà bốn ngàn đồng chưa đến tay ta thì đến bảy giờ, tử tước Albert de Morcerf sẽ không còn nữa.

Luigi Vampa" Albert đã rơi vào tay tên tướng cướp khét tiếng mà anh ta mãi cứ không chịu tin là có nó trên đời.

Không thể để phí thời gian. Franz chạy tới bàn giấy, mở ra, tìm thấy chiếc ví trong ngăn.kéo, trút thêm cả tiền riêng của mình vào đó:

vẫn còn thiếu một ngàn đồng mới đủ.

Chợt một ý tưởng thần tình lướt qua đầu óc anh. Anh nghĩ đến bá tước Monte Cristo. Một lát sau anh đã đứng trước cửa phòng bá tước.

Một người hầu dẫn anh vào nhà. Bá tước đến trước mặt anh, nói:

- A! Ngọn gió lành nào mà đưa anh tới vào giờ này? Anh đến đòi tôi thết bữa đêm chăng?

- Không, tôi đến nói với ngài một việc nghiêm trọng: Albert đã bị bọn cướp bắt cóc, chúng đòi tôi tiền chuộc.

Và Franz đưa thư của Albert cho ông xem.

- Người đưa lá thư này đâu? - Bá tước hỏi sau khi đọc xong.

- ở ngoài phố.

Bá tước đến cửa sổ căn phòng trông ra phố và huýt một hiệu còi. Người đàn ông khoác áo choàng rời khỏi bức tường và đi ra giữa đường.

- A! Anh đấy à, Peppino. Lên đây, ông nói như thể ra lệnh cho người hầu.

Người đưa thư vâng lời.

- Tử tước Albert rơi vào tay Luigi như thế nào? Bá tước hỏi.

- Thưa ngài, xe của ông người Pháp đã gặp xe có chở Teresa nhiều lần.

- Với tình nhân của chủ tướng ư?

- Vâng. ông người Pháp đã liếc mắt đưa tình, Teresa đùa đáp lại ông ta. ông ném cho cô ấy những bó hoa, cô cũng ném hoa đáp lại cho ông, dĩ nhiên là được chủ tướng cũng đang ở trên chiếc xe ấy đồng ý, chính ông ta cải trang thành người đánh xe ngựa.

- Rồi sao? Bá tước hỏi.

- Vậy rồi Teresa đã đồng ý hẹn gặp mặt, duy chỉ có điều là Beppo đã thay Teresa đến điểm hẹn.

- Thế nào! Franz ngắt lời, chính cái cô thôn nữ đã giật chiếc đèn moccoletto của anh ta?...

- Đó là một cậu bé mười lăm tuổi, Peppino trả lời, nhưng đối với bạn ông thì chẳng có gì đáng hổ thẹn cho việc bị lầm, Peppino đã lừa như thế được khối người đấy, nhá. ông ta bị dẫn tới cho Luigi đang đợi trong hầm mộ ở nhà thờ Saint-Sébastien.

- Đó là một nơi thật đẹp như tranh. Nếu anh chưa biết các hầm mộ ở Saint-Sébastien thì đây vừa may có dịp đến viếng thăm!

Franz và bá tước lên xe, cả Peppino nữa, và họ cho ngựa chạy nước kiệu. Mười phút sau, xe dừng lại. Peppino đến mở cửa cho bá tước và Franz xuống xe.

Franz và bá tước đi theo Peppino đến một khoảng trống giữa các tảng đá đến một người đi qua cũng hơi khó. Ba người lách qua đó.

- Ai?.- Bạn! - Peppino nói.

Những người mới đến nhìn qua khoảng trống của các vòm cuốn thấy có một người ngồi đọc, khuỷu tay tựa vào một cái cột, lưng quay lại phía các vòm cuốn. Đó là chủ tướng của băng cướp, Luigi Vampa.

Quanh hắn thấy có độ vài chục tên cướp, tên nào cũng để súng vừa tầm tay với. Phút chốc tất cả những tên cướp cùng đứng bật dậy và hai mươi cái nòng súng carabine nhằm vào bá tước.

- Bỏ súng xuống! Tên tướng cướp thét lên và ra hiệu bằng một tay, còn tay kia thì hắn kính cẩn ngả mũ chào.

- Trí nhớ của anh xem ra kém quá Vampa ạ.

Bá tước nói, chẳng phải là đã thỏa thuận rằng không riêng gì con người ta mà còn cả các bạn bè ta nữa cũng là thiêng liêng đối với các anh sao?

- Tôi vi phạm thỏa ước ở chỗ nào thưa ngài?

- Tối nay anh đã bắt cóc đem về đây tử tước Albert de Morcerf, bá tước nói với một ngữ điệu làm Franz rùng mình; mà chàng trai này thuộc số bạn bè của ta, anh đã đòi anh ta nộp tiền chuộc như bất kỳ một ai khác.

- Xin thề trước thánh giá! Tôi mà phát hiện ra kẻ nào trong các anh đã biết chàng trai là bạn của đức ông thì tự tay tôi sẽ bắn vỡ sọ hắn.

Tên tướng cướp đi vài bước đến trước Franz:

- Hoan nghênh ngài đã đến chỗ chúng tôi.

Thưa ngài, hắn bảo anh ta. Người bị bắt ở đàng kia và tôi sẽ đích thân báo cho ông ta rằng ông ấy được tự do.

Bá tước và Franz theo tên tướng cướp đến một xà lim và hắn mở khóa.

Lúc đó nhờ ánh sáng một ngọn đèn, có thể thấy Albert cuộn tròn trong một cái áo khoác của một tên cướp cho mượn nằm trong một xó và ngủ rất say.

- Nào! Bá tước nói và cười, nụ cười đặc trưng của ông, một người bị xử bắn vào bảy giờ sáng mà chẳng đến nỗi nào.

Vampa nhìn Albert ngủ, lộ vẻ ít nhiều khâm phục.

- Ngài nói đúng thưa bá tước, con người này phải là một trong số bạn của ngài.

Rồi đến gần Albert, hắn chạm vào vai anh:

- Thưa ngài! - Hắn nói, ngài vui lòng thức dậy chứ?

Albert vươn tay, giụi mắt rồi mở mắt nhìn.

- Ngài được tự do, thưa ngài.

- Họ đã trả tiền chuộc cho tôi rồi sao?

- Không, thưa ngài. Có người mà tôi không dám từ chối bất cứ điều gì đã đến đòi ngài về.

- A! Thế đấy, con người nào sao dễ thương đến thế?.Albert đưa mắt nhìn quanh mình và nhận ra Franz đi cùng với bá tước Monte Cristo.

- A, thưa bá tước, Albert vui vẻ nói và sửa lại cavat cùng các cửa tay áo, ông là một con người thật quý hóa, mong ông coi tôi là người chịu ơn ông suốt đời.

Tên cướp nhìn toàn bộ cảnh này với vẻ kinh ngạc.

- Thưa ngài Luigi, Albert nói tiếp, có cần hoàn tất thủ tục gì không để cáo biệt ngài?

- Không cần gì cả thưa ông, và ông được tự do như khí trời vậy.

- Như vậy thì chúc ông một cuộc sống tốt lành và vui vẻ. Đi nào, các ông, đi nào!

Họ gặp lại chiếc xe ở chỗ nó đậu lúc trước.

Bá tước chỉ nói một tiếng với người đánh xe là những con ngựa đã chạy miết.

Ngày hôm sau vừa mới thức dậy, câu nói đầu tiên của Albert là rủ Franz sang thăm bá tước.

Ngay sau đó họ đến trình diện ở cửa.

- Thưa bá tước, Albert vừa nói vừa bước lại gần, sáng nay xin phép cho tôi được thưa lại với ông về điều hôm qua tôi nói chưa rõ: đó là không bao giờ tôi quên rằng ông đã cứu tôi trong hoàn cảnh như thế nào và tôi sẽ luôn nhớ rằng tôi chịu ơn ông cứu mạng hay gần như thế.

- ông láng giềng thân mến của tôi ơi, bá tước vừa cười vừa trả lời, ông đã quá lời khi nói về sự hàm ơn đối với tôi. Nhờ tôi mà ông tiết kiệm được khoản tiền nhỏ độ vài chục ngàn quan trong việc chi tiêu du lịch của ông, chỉ có thế thôi mà. ông thấy rõ là chuyện này chẳng đáng nói làm gì.

- Tuy nhiên việc tôi chịu ơn ông không vì thế mà ít hơn, bởi vậy tôi muốn hỏi rằng liệu tôi có thể giúp ông được chút việc gì không. Cha tôi, bá tước De Morcerf, người gốc Tây Ban Nha hôm nay đang có địa vị cao ở Pháp và Tây Ban Nha, và tôi xin thưa rằng tôi và tất cả những người yêu mến tôi sẵn sàng đợi ông sai bảo.

- Thế thì, bá tước nói, tôi thú thực với ông rằng, ông de Morcerf ạ, tôi mong đợi đề nghị của ông và tôi chấp nhận nó hết sức thực lòng.

Tôi đã chọn ông để nhờ cậy một việc lớn.

- Việc gì ạ?

- Tôi chưa từng ở Paris! Tôi không biết Paris.

Lúc tôi đến Paris liệu ông có hứa mở giùm các cửa cho tôi đi vào cái thế giới mà ở đó tôi là người xa lạ hay không?

- Rất sẵn lòng, Albert đáp, rất vui mừng được giới thiệu một người như bá tước Monte Cristo.

Và khi nào thì tôi được hân hạnh tiếp ông?

- Liệu ông có ưng một cuộc hẹn đúng ngày đúng giờ không? Xin báo để ông biết rằng tôi là người chính xác đến khó chịu..- Đúng ngày đúng giờ, Albert nói, điều đó hết sức phù hợp với tôi.

- Vậy thì, cứ thế nhé. Bá tước đưa tay về một quyển lịch treo cạnh tấm gương. Hôm nay là 21 tháng hai, lúc này là mười giờ rưỡi sáng.

Ông có muốn chờ tôi vào ngày 21 tháng năm sắp tới vào hồi mười giờ rưỡi sáng không?

- Tuyệt vời! Albert nói, bữa sáng sẽ sẵn sàng.

- ông ở đâu?

- Phố Helder số nhà 27.

Bá tước ghi cẩn thận những thông tin ấy.

- Và bây giờ, bá tước nói trong khi bỏ những mảnh giấy ghi chép của mình vào túi áo, xin cứ yên tâm, kim đồng hồ treo tường nhà ông không chính xác hơn tôi được đâu. Khi nào ông quay về Paris?

- Ngày mai, tôi đi vào hồi năm giờ chiều.

- Như vậy thì xin chào ông. Còn ông, bá tước hỏi Franz, ông cũng đi chứ, ông nam tước?

- Vâng, đi Venise. Tôi còn ở lại Italia một vài năm.

- Nào, chúc các ông lên đường may mắn! Bá tước nói với hai người bạn và chìa cho mỗi người một tay.

Đó là lần đầu Franz cầm tay người đàn ông này, anh rùng mình vì nó lạnh giá như tay người chết.

BÁ TƯỚC MÔNGTƠ CRIXTÔ
Chương 12: Đến ở Paris

Trong ngôi nhà ở phố Helder, nơi mà Albert de Morcerf lúc ở Rome đã chọn làm điểm hẹn với bá tước Monte-Cristo, tất cả đều được dọn dẹp trong buổi sáng sớm ngày 21 tháng 5 để làm vinh dự cho lời nói của chàng trai.

Albert de Morcerf ở trong một tòa lầu nằm phía góc sân lớn. Phía bên kia sân là tòa nhà rộng rãi của ông bà bá tước de Morcerf.

Đã mười giờ, một vài người được Albert mời đến để đón bá tước Monte Cristo đã có mặt. ở đây có Lucien Debray, một chàng trai cao lớn tóc vàng, nước da tái, mắt màu xám và tự tin, anh ta là tùy viên ở văn phòng Bộ trưởng bộ nội vụ, và Beauchamp, nhà báo đáng gờm của tờ "Công Minh".

Người hầu phòng vào báo có hai người khách mới..- ông de Château-Renaud! ông Maximilien Morrel!

- Morrel. - Albert thì thào vẻ ngạc nhiên.

Nhưng nói chưa dứt thì ông de Château-Renaud, một chàng bảnh trai ba mươi tuổi, quý tộc từ đầu đến chân, đã nắm lấy tay Albert:

- Bạn thân mến, cho phép tôi giới thiệu với bạn ông đại úy kỵ binh Maximilien, bạn tôi.

Người sĩ quan trẻ lịch sự nghiêng mình chào.

- Thưa ông, Albert nói với sự nhã nhặn trìu mến, ông là bạn của ông nam tước de Château-Renaud vậy xin cũng là bạn của chúng tôi.

- Kể chuyện về ông khách của ông đi. ông ấy ở đâu đến thế? ông đã gặp gỡ ông ta như thế nào?

- à, tôi đã ở Rome dự hội hóa trang.

- Chúng tôi biết chuyện ấy. - Beauchamp nói.

- Vâng, nhưng điều ông chưa biết là tôi bị bọn cướp bắt cóc đưa đến các hầm mộ Saint-Sébastien.

Tôi viết thư cho Franz rằng nếu anh ấy không đến kịp vào lúc sáu giờ sáng cùng với bốn ngàn đồng ê quy thì tên tướng cướp Luigi Vampa sẽ bắn vỡ sọ tôi.

- Nhưng Franz có đến với bốn ngàn ê quy không? Château-Renaud nói.

- Không, anh ta chỉ có đi cùng với ông khách mà tôi sắp giới thiệu với các anh. ông ta nói vài lời vào tai tên tướng cướp và tôi được tự do. Bọn chúng lại còn xin lỗi tôi nữa chứ.

- A, hóa ra là như vậy! Thế cái ông ấy có phải là bậc á-thánh không?

- Không, rất đơn giản chỉ là bá tước Monte Cristo.

- Nào Albert! Hãy xếp chuyện bọn cướp ý và cả chuyện bá tước Monte Cristo lại, Debray nói. Này đồng hồ đánh chuông mười giờ rưỡi rồi đấy! Hãy thú nhận rằng anh đã bị một cơn ác mộng rồi ta đi ăn thôi.

Nhưng tiếng ngân quả chuông đồng hồ chưa dứt thì cánh cửa đã mở ra và Germain thông báo:

- Đức ông bá tước Monte Cristo!

Bá tước xuất hiện ở ngưỡng cửa, ăn mặc cực kỳ đơn giản nhưng tất thảy đều tuyệt vời phong nhã và đều xuất xứ từ những nhà cung ứng lịch sự nhất. ông vừa mỉm cười vừa đi vào giữa phòng khách đến thẳng chỗ Albert lúc đó đang bước lại phía ông, vồn vã đưa tay ra bắt tay ông.

- Sự chính xác, Monte Cristo nói, là cách cư xử lịch thiệp của các bậc vua chúa. Nhưng dù có thiện chí đến đâu thì tính chính xác không phải bao giờ cũng là cách xử sự lịch thiệp của du khách được. Tuy nhiên, tôi mong rằng, tử tước.thân mến, xin ông lượng thứ cho hai hay ba giây chậm trễ mà vì thế tôi tin rằng mình đã xuất hiện muộn ở cuộc hẹn. Đi năm trăm dặm đường không thể nào tránh được một vài điều trái ý.

- Thưa bá tước, tôi đang thông báo cuộc viếng thăm của ngài với một số bạn bè của tôi, mời họ đến họp mặt nhân dịp ngài đã vui lòng đến thăm và tôi hân hạnh được giới thiệu các bạn tôi với ngài. Đó là bá tước de Château-Renaud, ông Lucien Debray, ông Beauchamp, và sau nữa là ông Maximilien Morrel.

Cho đến lúc ấy bá tước vẫn chào mọi người rất lịch sự nhưng lạnh nhạt, đến lúc nghe thấy cái tên này thì bá tước không kiềm chế được đã bước lên một bước và một sắc son phơn phớt hiện ra như một ánh chớp trên đôi má nhợt nhạt của ông.

- Thưa các ông, Albert nói, Germain báo cho tôi rằng bữa ăn đã sẵn sàng phục vụ các ngài.

Họ lặng lẽ đi sang phòng ăn. Ai ngồi vào chỗ nấy.

- Thưa các ông, bá tước nói lúc ngồi vào bàn, cho phép tôi nói lời tự thú thay cho lời xin lỗi về mọi ứng xử không hợp cách mà tôi có thể gây ra: tôi là người ngoại quốc mà lại ngoại quốc đến mức đây là lần đầu tôi đến Paris. Cho nên cuộc sống Pháp đối với tôi là hoàn toàn xa lạ và từ trước cho đến tận bây giờ tôi mới chỉ quen sống theo kiểu phương đông. Tôi xin các ông thứ lỗi cho nếu các ông thấy ở tôi có vài điều quá Thổ Nhĩ Kỳ, quá naples hay quá ả Rập.

Trình bày như vậy rồi, thì thưa các ông, xin mời.

- Xem ông ta nói như thế chứ! - Beauchamp thì thầm, hẳn phải là một đại quý tộc.

Và các vị khách bắt đầu dùng bữa.

- ông bảo rằng, thưa bá tước, ông vừa mới đến đây. Vậy ông tính chuyện chỗ ở thế nào?

- Tôi đã có chỗ ở hoàn toàn sẵn sàng. Tôi đã cử người hầu phòng đến trước và anh ta có nhiệm vụ mua cho tôi ngôi nhà ấy và bày biện đồ đạc cho nó.

- Như thế có phải là ông bảo ông có một người hầu phòng quen thuộc Paris rồi không? -Beauchamp reo lên như vậy.

- Đây cũng là lần đầu anh ta đến Pháp như tôi. Anh ta tên là Ali, người Nubie và anh ta bị câm. Monte Cristo đáp.

- Nhưng sao ông lại giao cho một người Nu-bie câm mua nhà ở Paris và trang bị đồ đạc cho ông? Morcef hỏi. Hắn sẽ làm mọi chuyện sai lạc hết, cái anh chàng khốn khổ đáng thương ấy.

- ông lầm rồi, thưa ông. Anh ta đến đây đã tám hôm rồi, anh ta đã chạy khắp thành phố và vì anh ta biết rõ những ý thích thất thường, những sở thích riêng và những nhu cầu của tôi.nên anh ta sẽ thu xếp mọi thứ cho tôi vừa ý.

Anh ta đã đón tôi trên đường và đưa cho tôi mảnh giấy này, đó là địa chỉ mới của tôi: ông cầm lấy.

- Champs-élysées, 30. - Morcerf đọc.

- A! Điều này quả thật rất vương giả đấy! -Beauchamp không nín được buột miệng nói.

- Như vậy, Beauchamp nói, là ngài đây có một ngôi nhà trang bị đầy đủ: ngài có một dinh thự ở Champs-élysées, những người hầu, người quản gia, ngài chỉ còn thiếu có mỗi một cô nhân tình.

- Tôi có nhiều hơn thứ đó, Monte Cristo nói: tôi có một cô nô lệ mua được ở Constanti-nople.

Việc này làm tôi phải trả khá đắt nhưng tôi chẳng phải bận tâm nữa.

Người ta đã chuyển sang ăn tráng miệng và hút xì gà từ lâu. Các khách mời đã bị bá tước chinh phục. Đó thực sự là một con người kỳ lạ nhất mà họ thấy trong đời.

- Bạn thân mến, Debray đứng dậy và nói, đã hai giờ rưỡi rồi, ông khách của bạn thật khả ái, nhưng bầu bạn có cao nhã đến mấy rồi cũng phải cáo biệt.

Đó là tín hiệu ra về: mọi người cùng đứng dậy và từ biệt Albert và bá tước Monte Cristo.

- Thưa bá tước, Maximilien Morrel nói, đây là danh thiếp của tôi. Tôi hy vọng rằng sẽ được hân hạnh đón tiếp ông ở số nhà 14 phố Meslay.

- Hãy tin chắc rằng thế nào tôi cũng sẽ đến, thưa ông, bá tước vừa nói vừa nghiêng mình.

Albert gọi người hầu phòng và sai đi báo cho ông bà de Morcerf về cuộc viếng thăm tiếp theo của bá tước de Monte Cristo.

Một lát sau đó, Monte Cristo giáp mặt với chính bá tước de Morcerf. Đó là một người đàn ông có lẽ trạc độ bốn mươi đến bốn lăm tuổi nhưng có vẻ ít nhất cũng phải năm mươi, ria mép và lông mày màu đen lại tương phản đến lạ kỳ với bộ tóc bạc cúp bốc theo kiểu nhà binh.

Monte Cristo thấy ông ta đến gặp mình mà chẳng bước lên bước nào, dường như chân ông bị đóng đinh chặt xuống ván sàn cũng như đôi mắt dán chặt vào mặt bá tước de Morcerf.

- Xin chào mừng ngài đã đến với chúng tôi.

Bá tước de Morcerf vừa mỉm cười vừa chào Monte Cristo.

Trong khi nói những lời chào đón này, bá tước de Morcerf chỉ một chiếc ghế bành mời Monte Cristo.

- Thật hân hạnh cho tôi, Monte Cristo nói, ngay từ lúc mới đến đã được tiếp kiến một người mà công trạng sánh kịp danh tiếng.

Viên tướng thích thú vì cung cách của bá tước..- Mẹ đây rồi! - Tử tước bỗng reo lên.

Đúng thế, Monte Cristo quay lại đã thấy bà de Morcerf ở lối vào phòng khách: đứng sững bất động và tái mặt, cánh tay bà đang tựa vào khung cửa rơi thõng xuống lúc Monte Cristo quay lại.

Bá tước đứng dậy và cúi rất thấp chào Mer-cédè s, đến lượt mình bà cũng cúi chào, lặng câm và trịnh trọng.

- Này, lạy Chúa, bà làm sao thế? Viên tướng hỏi. Có phải là hơi nóng ở phòng khách này làm bà khó chịu không?

- Mẹ ơi, mẹ khó chịu à? - Tử tước kêu lên và lao đến trước mặt Mercédès.

Nàng cảm ơn cả hai người bằng một nụ cười.

- Không, nàng nói, nhưng tôi có xúc động đôi chút khi gặp người mà tôi hàm ơn cứu mạng con trai tôi.

Bá tước lại nghiêng mình, anh còn tái mặt hơn cả Mercédès.

- Thưa bà, anh nói, ông bá tước và bà đã không tiếc lời khen tôi về một hành động bình thường. Nhưng tôi tiếc rằng buộc phải cáo biệt ông bà. Sáng nay vừa bước ra khỏi chiếc xe đi đường trường của tôi là vào cửa nhà ông, nơi ăn chốn ở của tôi ở Paris như thế nào tôi chưa rõ.

Mà ở đâu thì tôi cũng chỉ vừa mới được biết thôi. Đó là một băn khoăn nhỏ, tôi biết thế, nhưng tuy vậy cũng đáng kể.

- Vậy thì tôi không giữ ông ở lại đâu, thưa ông, bà bá tước vừa nói vừa rời phòng khách.

- Bá tước thân mến, Albert nói, xin ông vui lòng dùng chiếc xe hòm của tôi cho đến khi nào ngựa, xe của ông được trang bị xong.

- Cám ơn về sự ân cần chu đáo của ông, tử tước ạ, nhưng tôi đoán rằng người quản gia của tôi, ông Bertuccio đã kiếm được cho tôi một chiếc xe nào đó có thắng ngựa sẵn sàng.

Ra đến thềm quả nhiên Monte Cristo thấy có một chiếc xe đang đợi mình. Đó là một chiếc xe hòm lộng lẫy với đôi ngựa đẹp tuyệt trần mà mới hôm qua người chủ cũ còn chưa chịu bán với giá mười tám ngàn frăng.

Và Monte Cristo nhảy lên xe, cửa xe đóng lại sau lưng anh rồi xe chạy nước đại.

Ngôi nhà Ali đã chọn làm nơi ở trong thành phố cho Monte-Cristo thuộc dãy phải đường lên Champs-élysées. Người đánh xe còn chưa kịp gọi người canh cổng thì cánh cửa sắt đồ sộ đã quay trên các bản lề.

Khi chiếc xe đỗ lại, người quản gia đến gần và cung kính chào bá tước..- ông Bertuccio, bá tước nói, ngôi nhà này hoàn toàn hợp ý tôi. Nhưng tôi còn muốn mua một ngôi nhà ở ngoại ô Paris và ngay chiều nay tôi muốn xem cái tài sản mới này ở Auteuil. ông biết Auteuil chứ?

- Không, thưa ngài, người quản gia trả lời với một vẻ run run do căng thẳng thần kinh mà Monte Cristo là người am hiểu về nguồn cơn các xúc động đã quy kết một cách có lý là do lo ngại thái quá.

- Thật đáng tiếc, anh nói, nhưng thôi lên đường! ông đi cùng tôi.

- Đến Auteuil? Bertuccio kêu lên, màu da đồng trở nên gần như tím tái. Tôi ạ, đi đến Au-teuil à!

- Này, tôi hỏi ông, có gì đáng kinh ngạc khi ông đến Auteuil hả? Khi mà tôi sẽ ở nơi đó, chắc hẳn là ông phải đến đó rồi!

Bertuccio cúi đầu trước cái nhìn oai vệ của ông chủ rồi ông ta kính cẩn ngồi vào chiếc ghế dài đàng trước của chiếc xe.

Hai mươi phút sau họ đến Auteuil. Nỗi xúc động của người quản gia cứ tăng lên mãi.

- ông cho đậu xe ở phố La Fontaine số 28, bá tước vừa nói vừa hướng cái nhìn đăm đăm chẳng chút xót thương lên người quản gia đang tái mặt đi khi nhận lệnh này.

Trong khi đi đường đêm đã xuống. Chiếc xe đỗ lại trước nhà người gác cổng.

- Thế này là thế nào? - Hắn hỏi.

- Đây là ông chủ mới của anh. - Bertuccio nói.

- Phải, anh bạn ạ, - bá tước nói, tôi sẽ cố làm cho anh khỏi phải tiếc ông chủ cũ của mình.

- ồ! Thưa ông, người hầu nói, tôi chẳng phải tiếc gì lắm ông hầu tước de Saint-Méran, vì chúng tôi rất hiếm khi gặp ông ta.

- Hầu tước de Saint Méran! - Monte Cristo nhắc lại, nhưng hình như với tôi cái tên này không phải là không quen, hầu tước de Saint Méran... và ông làm ra vẻ lục lại trí nhớ.

- Một nhà quý tộc già, người hầu nói tiếp, ông ta có cô con gái độc nhất lấy ông biện lý hoàng gia de Villefort.

Monte-Cristo ngước nhìn bắt gặp Bertuccio lại còn tái xám hơn cả bức tường anh ta dựa vào cho khỏi ngã.

- Và người con gái này chết rồi phải không?

- Monte-Cristo hỏi; hình như tôi có nghe nói thế.

- Vâng, thưa ông, đã hai mươi mốt năm và từ đó chúng tôi chỉ gặp hầu tước có ba lần.

- Nào, bá tước bảo Bertuccio đang bị kích động dữ dội, ông hãy cầm lấy cái đèn rồi ta đi xem nhà. - Không! Không ạ! Bertuccio vừa kêu vừa bước tiếp dọc theo lối đi. Không, thưa ông, tôi không đi xa hơn đâu, điều này thật chẳng bình thường chút nào: đã tậu một ngôi nhà ở Paris, ông lại còn tậu đúng ngôi nhà này. Cứ như là ở Auteuil chẳng có ngôi nhà nào khác ngoài ngôi nhà của kẻ sát nhân!

- ồ! ồ! Monte Cristo vừa thốt lên vừa đột ngột dừng lại, ông nói gì thế? Nào, cố nhớ lại rồi kể chuyện này cho tôi nghe.

- Tôi chỉ mới kể chuyện ấy có một lần cho tu sĩ Basoni, trong lúc xưng tội; mà cũng chỉ kể một phần thôi. Sự việc đi ngược về tận năm 1815.

Tôi có người anh cả phục vụ hoàng đế. Người anh ấy cũng là người bạn độc nhất của tôi.

Một hôm, chúng tôi nhận được thư anh nói rằng quân đội bị giải giáp và anh sẽ trở về nhà, nếu tôi có ít tiền, anh xin tôi gửi đến Nimes cho anh đang ở nhà người chủ quán quen biết. Tôi yêu anh tôi tha thiết, tôi đã nói điều đó với ngài, thưa ngài, nên tôi quyết định không gửi tiền mà tự mình mang đến cho anh. Để chị dâu tôi là Assunta ở nhà, tôi lên đường đi Nimes. Đó là thời xảy ra những cuộc tàn sát nổi tiếng ở miền Nam. ở đó có hai hoặc ba trăm tên bất lương, chúng cắt cổ bất kỳ ai bị nghi là thân Bonaparte.

Khi đi vào Nimes tức là hoàn toàn bước đi trong máu, thấy xác chết ở khắp nơi: những kẻ sát nhân tập hợp thành bầy đã giết người, cướp phá, và đốt nhà.

Tôi chạy đến nhà người chủ quán. Chao ôi!

Anh tôi đã tới Nimes hôm trước và đã bị giết ngay ở cửa nhà người mà anh hỏi trọ.

- Thế lúc đó anh đã làm gì? Monte Cristo hỏi.

- Tôi đến gặp ông biện lý hoàng gia.

- Có phải viên biện lý hoàng gia này tên là Villefort không? - Monte Cristo hờ hững hỏi.

- Đúng thưa ngài.

"Thưa ông, tôi bảo hắn, anh tôi đã bị sát hại hôm qua trên đường phố và tôi đòi hỏi công lý.

"- ông muốn tôi làm gì trong việc này?

Người quan tòa trả lời.

"- Thưa ông, tôi nói, không phải là tôi cầu xin ông cho tôi. Tôi ấy à, tôi sẽ khóc hoặc tôi sẽ trả thù, có thế thôi; nhưng người anh đáng thương của tôi còn có một người vợ, chị tôi bây giờ không còn nguồn sống nào. Xin hãy cấp cho chị tôi một món tiền tuất nhỏ của chính phủ.

"- Mỗi cuộc cách mạng đều có những thảm họa của nó, ông Villefort đáp, anh của ông là nạn nhân của cuộc cách mạng này, và chính phủ không hề mang nợ gia đình ông về chuyện đó.

"- Cái gì? Thưa ông, tôi kêu lên, một ông quan tòa có thể nói với tôi như thế à! ông thấy.rằng giết anh tôi là phải à; Vậy thì tôi, tôi tuyên bố với ông một điều: đó là tôi sẽ giết ông, chính ông. Từ phút này tôi tuyên bố việc trả nợ máu.

Hãy giữ mình cẩn thận vì lần đầu tiên ta giáp mặt nhau tức là giờ cuối cùng của ông sẽ đến." Và ngay lúc ấy, trước khi hắn kịp hết ngạc nhiên, tôi mở cửa ra và bỏ chạy.

Từ lúc đó, hắn không ra ngoài một mình nữa, nỗi sợ hãi ám ảnh hắn; hắn xin đổi nhiệm sở, và hắn được cử đến Versailles; nhưng tôi theo sát hắn.

Suốt ba tháng trời tôi rình de Villefort; suốt ba tháng trời không một bước nào, một cử động nào, một cuộc đi dạo nào của hắn mà không có con mắt của tôi theo hắn đến tận nơi. Cuối cùng tôi phát hiện ra hắn bí mật đến Auteuil: tôi lại theo hắn và thấy hắn đi vào căn nhà mà chúng ta đang có mặt ở đây; nhưng kỳ cục thay hắn vào bằng cái cửa nhỏ mà ông thấy ở đàng kia.

Đó là chỗ mà tôi phải gài bẫy.

Một buổi tối, trong khi nhìn qua tường tôi thấy một thiếu phụ trẻ và đẹp đi dạo một mình trong khu vườn này. Thực ra cô ta đợi Villefort.

Lúc cô ta đến khá gần chỗ tôi, tôi nhận thấy cô ta có mang.

Một buổi tối khi tôi quan sát ngôi nhà, trong khi đợi lúc thuận tiện để trả thù, tôi thấy một người hầu đi ra một giờ đồng hồ sau hắn trở về cùng với Villefort. Cơ hội thật tốt: tôi rút con dao trong túi ra, nhảy qua tường và ẩn vào trong vườn.

Hai giờ đồng hồ trôi qua. Rất nhiều lần tôi tưởng như nghe thấy tiếng rên rỉ suốt trong quãng thời gian ấy. Đồng hồ đánh nửa đêm. Giữa lúc tiếng chuông cuối cùng còn rung lên sầu thảm và vang động thì cửa mở ra và Villefort đi thẳng đến chỗ tôi; hắn dừng lại ở rìa một lùm cây, đảo mắt nhìn quanh mình rồi bắt đầu đào một cái hố. Tôi nhận ra rằng hắn mang theo một cái hòm nhỏ. Tôi để cho hắn đặt cái hòm xuống hố rồi lấp đất lên trên. Lúc đó tôi mới nhảy bổ vào hắn và đâm hắn một nhát dao vào ngực trong khi nói với hắn rằng: "Ta là Giovanni Bertuccio!

Cái chết của mày là để trả thù cho anh tao, kho báu của mày là cho bà vợ góa bụa của anh tao:

cuộc trả thù còn hoàn hảo hơn cả điều tao mong muốn".

Hắn ngã xuống không kêu được một tiếng:

tôi cảm thấy máu của hắn chảy chứa chan, bắn tóe vào tôi nóng hổi.

Tôi vớ lấy cái hòm rồi chạy ra tận sông, tôi ngồi trên sườn đê và nậy khóa bằng con dao của mình. Một đứa trẻ vừa mới đẻ được quấn trong cái tã bằng vải lanh mịn, mặt nó nhuốm màu tía,.đôi tay tím ngắt cho thấy rằng nó đã lâm vào tình trạng không chống chọi nổi sự ngạt thở; tuy nhiên tôi cảm thấy có nhịp đập khẽ ở vùng tim; thế là tôi liền hà hơi vào phổi cho nó. Sau mười lăm phút cố gắng phi thường tôi thấy nó thở, và tôi nghe thấy một tiếng khóc buột ra từ ngực nó.

- Vậy ông làm gì đứa trẻ ấy? Monte Cristo hỏi.

- Tôi biết ở Paris có một nhà tế bần có nhận các tạo vật đáng thương này. Sau khi đã đề phòng cẩn thận bằng cách rọc cái tã làm đôi sao cho một trong hai chữ tên đánh dấu cái tã còn quấn quanh mình đứa trẻ, tôi đặt gánh nặng của mình xuống, giật chuông rồi ba chân bốn cẳng bỏ chạy.

Mười lăm ngày sau tôi về nhà và giải thích toàn bộ câu chuyện cho Assunta. Tôi đưa cho chị nửa cái tã mà tôi đã giữ lại, để đòi nhận lại đứa trẻ khi chúng tôi khấm khá hơn.

Nửa muốn xua tan những hoài niệm vẫn ám ảnh tôi nửa muốn chu cấp cho những nhu cầu của người quả phụ đáng thương, tôi hăng hái quay lại với nghề buôn lậu của tôi. Những chuyến đi của tôi ngày càng kéo dài hơn, ngày càng sinh lợi nhiều hơn. Assunta làm việc nội trợ và cái tài sản nhỏ bé của chúng tôi cứ tăng lên. Một hôm, sau chuyến đi sáu tuần tôi trở về, khi bước vào nhà tôi kinh ngạc thấy một cái nôi trong có đứa trẻ độ bảy tám tháng. Tôi thốt lên một tiếng kêu mừng rỡ. Assunta đã nhân lúc tôi vắng nhà, đem theo nửa cái tã, đi Paris đòi lại đứa trẻ. Assunta đã đặt tên cho nó là Benedetto.

- Vậy là ông đã sung sướng quá. Bá tước nói.

- Chao ôi! Từ lúc nó còn nhỏ tuổi, nó đã tỏ ra là đứa tệ nhất của đám vô lại trong làng.

Chưa đầy mười một tuổi mà tất cả đám bạn bè của nó đều được chọn trong đám thanh niên hai mươi, những kẻ xấu xa nhất vùng và tòa án cũng đã phải cảnh cáo chúng tôi.

- Đứa bé hay thật! Monte Cristo lẩm bẩm.

Rồi sau nó ra sao?

- Benedetto đã lợi dụng một chuyến tôi đi vắng mà cuỗm sạch tiền dành dụm được của As-sunta sau khi tra khảo mẹ. Từ hôm ấy, tôi không hề gặp lại nó mà thậm chí chẳng nghe nói gì về nó. Giờ đây, ông quản gia vừa nói tiếp vừa cúi đầu, ông đã biết hết, thưa ông bá tước..

BÁ TƯỚC MÔNGTƠ CRIXTÔ
Chương 13: Những người mang họ Danglars và họ Villefort

Vào hồi mười một giờ hôm sau, bá tước xuống nhà rồi lên xe, cho xe dừng lại trước dinh thự của ông chủ ngân hàng Danglars, đậu bên cạnh một cỗ ngựa khác cũng đẹp gần như cỗ ngựa của mình.

Danglars đang làm chủ tọa một hội đồng được cử ra để làm một đường xe lửa, thì người ta báo cho hắn cuộc viếng thăm của bá tước Monte Cristo.

- Thưa các ông, hắn nói với các đồng nghiệp, thứ lỗi cho tôi nếu tôi phải cáo biệt các ông như thế này nhưng xin hãy hình dung là hãng Thom-son và French ở Rome giới thiệu đến chỗ tôi một bá tước Monte Cristo nào đó, để mở cho ông ta một khoản tín dụng vô hạn. Về phần tôi các ông hiểu cho vì bị tính tò mò ám ảnh nên phải vội gặp con người này.

Và hắn rời khỏi đám khách khứa của mình để đi sang một phòng khách.

Nghe thấy tiếng Danglars đi vào, bá tước ngoảnh lại. Danglars khẽ gật đầu chào rồi ra hiệu mời bá tước ngồi. Monte Cristo nói:

- Hẳn ông đã nhận được bức thư yêu cầu ngân hàng của ông cấp tín dụng cho tôi?

- Vâng, Danglars nói, nhưng tôi phải thú thật với ông rằng về chuyện này tôi chưa hoàn toàn hiểu rõ. Lá thư này mở một tín dụng vô hạn cho ông ở ngân hàng của tôi.

- Vậy thì, thưa ông nam tước, ông thấy có gì tối nghĩa trong đó?

- Không có gì, thưa ông, chỉ có điều cái từ vô hạn...

- Này, từ ấy không phải tiếng Pháp à?

- Rút cục, thưa ông, Danglars nói sau một lúc suy nghĩ, tôi sẽ cố để ông hiểu tôi bằng cách đề nghị ông tự mình ấn định khoản tiền mà ông định nhận ở tôi.

- Nhưng, ông ạ, Monte Cristo nói thêm, nếu tôi yêu cầu một tín dụng vô hạn ở ông tức là tôi chẳng biết chính xác tôi cần bao nhiêu tiền.

Lão chủ ngân hàng cho rằng thế là đã đến lúc thắng thế, hắn ngả người trong chiếc ghế bành của mình và nói với một nụ cười nặng nề và ngạo nghễ:.- ồ! Thưa ông, đừng ngại và ông muốn gì cũng được. Ngân hàng Danglars có thể thỏa mãn những yêu cầu lớn nhất, cho dù ông có yêu cầu tới một triệu. Tôi nói rõ là: một triệu, Danglars lặp lại với cái vẻ chững chạc của sự ngu xuẩn.

- Một triệu thì tôi sẽ làm cái gì chứ? Bá tước nói. Lạy Chúa! Thưa ông, nếu tôi chỉ cần có mỗi một triệu thì tôi sẽ chẳng phải mở tín dụng cho một món tiền còm như thế. Một triệu à? Mà bao giờ tôi chả có một triệu trong ví hoặc là trong hộp đựng đồ đi đường.

Và Monte Cristo rút từ một cuốn sổ tay nhỏ đựng các danh thiếp của mình ra hai phiếu chi mỗi phiếu năm trăm ngàn frăng trực tiếp chi cho người cầm phiếu, ở kho bạc.

Danglars ngước hai con mắt ngây dại nhìn Monte Cristo.

- Xin tha lỗi cho tôi, thưa bá tước.

- Vậy thì, bây giờ khi ta đã hiểu nhau, hãy ấn định, nếu ông vui lòng, một khoản tiền đại khái cho năm đầu: sáu triệu chẳng hạn.

- Sáu triệu, được! - Danglars nói, sửng sốt.

- Để mở đầu, xin vui lòng cho mang lại năm trăm ngàn frăng vào ngày mai, tôi sẽ ở nhà đến trưa.

- Điều đó sẽ được thực hiện, Danglars nói.

Và bá tước đứng lên.

Danglars tiễn ông ra tận thềm.

- Này nam tước, cho tôi biết cỗ ngựa đẹp tuyệt vời màu xám đốm kia là thuộc về ai?

- Của bà Danglars. Chúng được thắng sẵn để cho bà de Villefort mượn chiều nay vào rừng chơi.

Về đến nhà, bá tước lập tức gọi Ali.

- Ali này, anh bảo hắn, anh hay kể với tôi về tài ném thòng lọng của anh phải không?

Ali ra hiệu là vâng rồi đứng thẳng người, tỏ vẻ hãnh diện Ali mỉm cười.

- Vậy thì nghe đây, bá tước nói. Lát nữa sẽ có chiếc xe thắng hai ngựa màu xám đốm chạy qua. Dù anh có bị nghiền nát thì cũng phải làm cho cái xe ấy dừng lại ở cửa nhà tôi.

Người Nubie chạy ra ngồi trên khúc gỗ ở góc hợp thành bởi tòa nhà với đường phố, hút cái ống điếu Thổ Nhĩ Kỳ của mình, trong khi ấy Monte Cristo quay vào nhà chẳng còn quan tâm đến gì hết.

Đột nhiên, vào quãng năm giờ, thấy có tiếng bánh xe lăn từ đàng xa, rồi lại gần với sự mau lẹ của sấm sét. Một chiếc xe mui gấp xuất hiện, người đánh xe đang cố kìm ngựa lại một cách vô.hiệu, chúng chạy hung hăng, bờm dựng ngược, vọt lên bằng những cái vươn mình điên dại.

Trong xe, một thiếu phụ trẻ và một đứa bé khoảng bảy tám tuổi ngồi ôm lấy nhau, co quắp.

Bất chợt Ali đặt ống điếu xuống, cầm cuộn dây thòng lọng vung ra, quấn ba vòng vào các chân trước của con ngựa chạy bên trái, để mình bị kéo theo sự chuyển động mạnh mẽ của con ngựa, nhưng sau ba hay bốn bước con ngựa bị trói ngã khuỵu xuống làm tê liệt mọi cố gắng của con ngựa còn đứng muốn chạy tiếp. Ali đã nắm được mũi con ngựa thứ hai và con vật nằm dài ra co giật bên cạnh bạn đồng hành.

Tất cả việc này chỉ cần một thời gian đủ cho một viên đạn chạm vào đích. Nhưng mấy giây ấy cũng đủ để Monte Cristo kịp lao ra, theo sau là nhiều người hầu, đem hai người khách qua đường vào trong phòng khách. Đặt họ lên một tràng kỷ, ông nói:

- Đừng sợ, thưa bà, bà đã thoát nạn.

Thiếu phụ đã hoàn hồn và hỏi thăm về cậu con trai còn đang bất tỉnh.

Monte Cristo đưa tay phác một cử chỉ để làm yên lòng người mẹ đang khóc sướt mướt và mở một cái hộp lấy chiếc lọ thủy tinh Bohème nạm vàng đựng một thứ nước màu đỏ rồi rỏ có mỗi một giọt lên môi đứa trẻ.

Đứa trẻ dù còn tái xanh, lập tức mở mắt ra.

Thấy thế người mẹ vui sướng gần như phát điên.

- ồ! Chỉ tại cái tính hiếu kỳ đáng nguyền rủa! Người thiếu phụ nói. Cả Paris bàn tán về những con ngựa tuyệt vời của bà Danglars và tôi đã điên rồ muốn đi thử. Nhưng tôi đang ở đâu đây?

- Bà đang ở nhà bá tước Monte Cristo.

- Thưa ông, tôi là bà Héloise de Villefort.

Bá tước chào trong vai một người hoàn toàn không biết gì khi nghe nói đến cái tên này.

- Thưa ông, chúng tôi đội ơn ông cứu mạng.

Chắc chắn là nếu không nhờ có người hầu dũng cảm của ông thì đứa con yêu dấu này và tôi đều đã bị giết chết.

- Ôi chao! Thưa bà! Tôi vẫn còn run vì hiểm họa mà bà đã trải qua.

Trong phút im lặng này, bá tước có thể tha hồ nhìn kỹ đứa trẻ mà người mẹ đang ra sức hôn hít. Nó bé nhỏ, mảnh khảnh, nước da trắng với mái tóc đen, cặp mắt đầy vẻ tinh ranh khéo vờ vĩnh và ưa chơi ác.

- Tôi thấy bà đã hoàn toàn lại sức và bà muốn ra về. Tôi vừa sai thắng chính cặp ngựa ấy vào xe của tôi và Ali sẽ đánh xe đưa bà về nhà..Tối hôm ấy sự kiện Auteuil thành đề tài trong mọi cuộc trò chuyện: Albert kể lại chuyện ấy với mẹ, Château-Renaud kể ở câu lạc bộ đua ngựa, Debray ở phòng khách của ông bộ trưởng; Beauchamp tự mình xử sự phong nhã với bá tước bằng một cái tin hai chục dòng đăng trên tờ báo của mình, đưa nhà quý tộc ngoại quốc lên thành bậc anh hùng đối với các phu nhân trong giới quý tộc.

Ngày hôm sau, bá tước đến phố Meslay xin gặp ông bà Herbault và ông Maximilien Morrel.

- A! Thưa bá tước, Maximilien nói, cám ơn, trăm lần cám ơn ông đã không quên lời hứa. Mời ông vào trong vườn, chị tôi đang cắt những bông hồng héo.

Tiếng chân bước làm cho người thiếu phụ trẻ chừng hai mươi đến hai mươi nhăm tuổi, mặc một chiếc áo dài trong nhà, ngẩng đầu lên. Cô chính là Julie và nay đã là bà Emmanuel Herbault.

Emmanuel bước đến chào bá tước. Rồi cả ba người đưa anh đi dạo trong vườn và dẫn vào phòng khách.

Từ lúc bước vào căn nhà này, bá tước đã thấy lòng mình tràn ngập niềm hạnh phúc. Bởi vậy ông lặng thinh không nói, chỉ ngồi im mơ mộng. Lát sau ông cố bứt mình ra khỏi mơ màng:

- Xin bà thứ lỗi cho tôi, cuối cùng ông nói, đối với tôi, vẻ mãn nguyện hiện trên gương mặt của con người là điều hết sức mới mẻ, thành thử tôi ngắm hai vị, bà và chồng bà, mà không biết chán.

- Chúng tôi rất sung sướng, đúng thế, thưa ông, Julie đáp, nhưng chúng tôi cũng đã trải qua nhiều thời gian đau khổ và ít có ai trả giá đắt cho hạnh phúc như chúng tôi.

Sự tò mò thoáng hiện ra trên nét mặt của bá tước.

- Và Chúa đã ban cho các vị, như Người từng ban cho tất cả mọi người, nguồn an ủi cho nỗi đau khổ đúng không? - Monte Cristo hỏi.

- Vâng thưa bá tước, Julie nói; chúng tôi có thể nói như vậy, vì Người đã làm cho chúng tôi điều mà Người chỉ làm cho những người được ân sủng. Người đã ban cho chúng tôi một trong các thiên thần của Người.

Monte Cristo đứng dậy chẳng đáp lại một lời vì nếu nói thì giọng run run của anh sẽ làm lộ rõ những xúc động đang khuấy động lòng anh, anh liền đi từng bước một khắp phòng khách.

- Bà nói là một thiên thần? Monte Cristo tái mặt và đưa tay cố nén nhịp đập của trái tim mình..- Vâng, một thiên thần mà những di vật duy nhất đang ở đây.

Julie chỉ cho bá tước xem một hình cầu bằng pha lê úp lên một cái túi bằng tơ, một lá thư và một viên kim cương được đặt nằm trang trọng trên một cái gối nhỏ bằng nhung đen.

- Vật này, thưa bá tước, là quý giá nhất trong kho báu của gia đình, Maximilien vừa nói vừa nhấc quả cầu pha lê lên. Cái túi này đã cứu cha tôi khỏi chết, cứu chúng tôi khỏi sự phá sản, cứu tên tuổi chúng tôi khỏi nỗi ô nhục. Lá thư này được viết vào hôm mà cha tôi đã chọn một giải pháp thật tuyệt vọng, và viên kim cương này tặng em gái tôi làm của hồi môn bởi con người không quen biết hào hiệp ấy.

- ông nói không quen biết? Con người đã giúp các vị trong việc này vẫn cứ còn là không quen biết đối với các bạn?

- Vâng, thưa ông, chưa bao giờ chúng tôi có diễm phúc được cám ơn ông ta, Julie nói. Nhưng tôi còn chưa mất hết hy vọng một ngày kia được hôn bàn tay đã cứu vớt chúng tôi.

- Cha chúng tôi đã tin chắc ai là người đem lại hạnh phúc này cho chúng tôi, Maximilien nói.

Monte Cristo rùng mình.

- Cha tôi thấy ở hành động này một chuyện thần kỳ. Cha tôi tin vào một ân nhân đã vì chúng tôi mà ra khỏi nấm mồ. ý tưởng này cho đến ngày ấy vẫn chỉ là một mối hoài nghi nhưng rồi nó trở thành niềm xác tín, và những lời cuối cùng mà cha tôi nói ra lúc lâm chung là: "Maximilien, đó là Edmond Dantès!".

Những lời này làm cho vẻ xanh xao của bá tước vốn đã tăng lên từ mấy giây đồng hồ trước, nay trở nên đáng sợ.

Anh rút đồng hồ ra cứ như là anh quên mất giờ giấc, cầm lấy mũ, nói với bà Herbault một lời chúc tụng bối rối và ngắn gọn, rồi bắt tay Emmanuel và Maximilien:

- Thưa bà, anh nói, xin phép bà cho tôi được thỉnh thoảng ghé lại thăm bà. Tôi yêu ngôi nhà của các vị, và tôi cám ơn về sự đón tiếp của các vị, vì đây là lần đầu tiên sau bao nhiêu năm dài quên mất mình, tôi được đón tiếp như vậy.

Ngay lúc bá tước rời khỏi ngôi nhà ở phố Meslay thì Maximilien đến lượt mình cũng đi ra, và bằng những bước chân khẽ khàng bước vào một khu vườn đã trở lại hoang dã liền kề ngôi nhà lộng lẫy của ngoại ô Saint-Honoré.

Trong vườn hoa của tòa dinh thự sang trọng bậc nhất này, ở một góc cây cối đặc biệt um tùm có một người đàn bà trẻ đứng nhìn đăm đăm qua một khe giữa lùm cây vào phía vườn hoang..Đó là một thiếu nữ khoảng mười chín tuổi, cao dong dỏng, tóc màu hạt dẻ sáng, cặp mắt xanh thẫm, có dáng đi uể oải thấm đượm vẻ quý phái tao nhã. Cô là con gái của cuộc hôn nhân đầu tiên giữa ông de Villefort và bà de Saint-Méran.

Với cái nhìn chỉ có ở những người đang yêu chàng trai đã thấy phấp phới tà áo trắng và chiếc thắt lưng dài màu thanh thiên. Anh lao về phía tường chắn và ghé miệng vào một khe nứt.

- Đừng sợ, Valentine, anh nói, tôi đây mà.

- ồ! Thưa ông, cô nói, tại sao hôm nay ông đến muộn thế? ông có biết là sắp đến giờ ăn tối rồi không và tôi đã phải khéo biện bạch để đem đồ thêu ra đây làm.

- Valentine thân mến, chàng trai nói, đối với tôi cô quá kiêu xa để tôi dám ngỏ lời với cô, tuy nhiên mỗi lần gặp cô, khi nghĩ đến cô, máu tôi sôi sục, ngực tôi căng lên, trái tim tôi chan chứa niềm yêu. Tôi yêu cô, Valentine.

- Tình yêu của anh không được phải lẽ lắm vì anh biết rằng tôi đã được hứa gả cho ông Franz d'Epinay.

- Nghe nói là ông Franz d'Epinay còn đi vắng một năm nữa; trong một năm trời biết bao nhiêu cơ may có thể giúp ta biết bao nhiêu sự kiện có thể hỗ trợ cho ta! Vậy hãy luôn luôn hy vọng, thật là tốt đẹp và thật là dịu ngọt khi người ta hy vọng!

Bất thần Valentine thốt lên:

- Xuỵt! Trốn đi anh, có người đến đấy!

- Cô ơi! Cô ơi! - Có tiếng gọi sau đám cây.

Bà de Villefort đang tìm cô khắp nơi. Có khách đến thăm đang ở phòng khách. Một đại lãnh chúa, một ông hoàng ấy chứ, theo như người ta đồn, đó là ngài bá tước Monte Cristo.

- Tôi đến đây. Valentine nói to.

Cái tên đó làm Maximilien rùng mình.

- Này! Anh tự nhủ, sao bá tước Monte Cristo lại quen ông de Villefort nhỉ?

Bà de Villefort đang ở trong phòng khách lúc người ta báo bá tước đến thăm, liền lập tức cho gọi con trai để cho con cám ơn bá tước một lần nữa. ông de Villefort vắng nhà vì đi dự bữa tối ở nhà ông chưởng ấn.

Valentine đã được bà hầu phòng báo trước, bước vào, thấy người ngoại quốc mà cô đã nghe nói đến nhiều đang ngồi cạnh bà mẹ kế, cô liền chào rất duyên dáng làm tăng gấp bội sự chú ý của bá tước.

Lúc đó chuông điểm sáu giờ.

- Sáu giờ rồi đấy, bà Villefort nói, rõ ràng là muốn lợi dụng cái cớ này để ngồi lại một mình.với Monte Cristo, Valentine này sao con không đến xem ông nội con đã sẵn sàng để ăn tối chưa?

Valentine đứng dậy và vừa chào bá tước, vừa ra khỏi phòng không nói một lời.

- Xin ông vui lòng tha lỗi cho cô de Villefort, thiếu phụ sôi nổi nói tiếp; vì đã đến giờ chúng tôi phải dọn cho cụ Noirtier cái bữa ăn buồn tẻ để duy trì sự sống buồn tẻ của cụ. Chao ôi! Cụ già tội nghiệp hoàn toàn không cử động được nữa, riêng chỉ có tinh thần còn sáng suốt trong cỗ máy con người này. Nhưng, bà ta nói tiếp, ông chắc phải là một nhà hóa học lớn. Thứ rượu thuốc mà ông đã cho con trai tôi uống...

- ồ! Tôi không nói thế, thưa bà, bá tước trả lời với một nụ cười; tuy tôi có nghiên cứu hóa học vì đã quyết định cư trú đặc biệt ở phương Đông, tôi muốn biết nhiều hơn về các độc dược.

Vì những người phương Đông là những chuyên gia đáng sợ trong lĩnh vực ấy: chẳng phải là chẳng có một người đàn bà Ai Cập, Thổ Nhĩ Kỳ hay Hy Lạp nào là không biết về lĩnh vực hóa học đến nỗi làm sững sờ một người thầy thuốc đấy thôi.

- Thật thế ư! - Bà de Villefort nói, mà cặp mắt ánh lên một ngọn lửa lạ lùng khi nghe lời trò chuyện này.

- Chẳng hạn thứ rượu thuốc mà bà vừa nói, thưa bà; một giọt rượu ấy đủ để đưa cậu bé sắp chết kia trở về với cuộc sống, nhưng ba giọt ắt đẩy máu vào phổi làm cho cậu bé đánh trống ngực; sáu giọt ắt làm cho cậu ngừng thở, và gây ra một cơn ngất nặng hơn nhiều cơn cậu vừa trải qua; sau rốt mười giọt ắt gây đột tử.

- Tôi cho rằng cách điều chế ra nó là một bí mật, và tôi không thiếu tế nhị để hỏi xin ông đơn thuốc ấy.

- Nhưng tôi, thưa bà, Monte Cristo vừa nói vừa đứng dậy, tôi lại đủ lịch thiệp để tặng bà đơn thuốc này. Chỉ xin nhắc bà một điều là: ở liều thấp, đó là một phương thuốc; ở liều cao, đó là thuốc độc. Một giọt đem lại mạng sống; chin hay mười giọt chắc chắn là chết người, và bằng một cách còn khủng khiếp hơn, là nếu pha vào một ly rượu vang nó chẳng hề làm thay đổi hương vị của rượu chút nào. Nhưng tôi xin dừng lại đây, vì thưa bà, gần như có vẻ là tôi chỉ dẫn cho bà rồi.

Chuông đồng hồ vừa báo sáu giờ rưỡi.

- Tôi phải cáo biệt bà, Monte Cristo nói; tôi có một lời hứa mà tôi không thể bỏ qua được.

Tôi nhận lời với một công chúa Hy Lạp trong số bạn gái của tôi, cô ấy chưa từng thấy nhà hát lớn và nhờ cậy tôi đưa cô đi xem.

- Vậy ông đi đi, thưa ông. Nhưng đừng có quên đơn thuốc của tôi..Monte Cristo chào và ra về. Kết quả thật vượt quá mong đợi của ông. Và hôm sau, giữ đúng lời hứa, ông gửi đơn thuốc bà ta đã hỏi xin.

Nhà hát nhạc vũ kịch đêm hôm ấy chào mừng Levasseur, và tác phẩm của nhạc sĩ thiên tài hợp thời thượng như mọi khi đã thu hút cả xã hội thanh lịch nhất Paris.

Morcerf có khoang ghế riêng ở gần dàn nhạc, Château-Renaud cũng có khoang ghế sát cạnh đó. Beauchamp với tư cách nhà báo, là chúa tể của nhà hát, có thể ngồi ở bất cứ đâu. Nữ nam tước Danglars và cô con gái Eugénie được Lucien Debray mời vào lô của ông bộ trưởng.

Bước vào phòng diễn, họ thấy khán giả ở khu trước sân khấu đều đứng, mắt nhìn đăm đăm về cùng một điểm trong phòng; họ đưa mắt theo hướng ấy và dừng lại ở lô trước đây của đại sứ Nga.

- Này! Albert nói, đó là Monte Cristo và cô gái Hy Lạp của ông ta.

Một lát sau, người đàn bà trẻ là đối tượng chú ý không những của khu trước sân khấu mà của cả phòng diễn; các bà nhoài người khỏi lô của mình để ngắm cái dòng thác kim cương ấy chảy dưới ánh sáng của các ngọn đèn chùm. Bà Danglars hỏi:

- Lucien, cái người đàn ông này anh có biết là ai không?

- Đó là một cô nô lệ, theo như chính bá tước nói với chúng tôi.

- Lucien thân mến, bà nam tước nói, hãy thừa nhận là cô ta có vẻ như một công chúa của Nghìn một đêm lẻ thì đúng hơn. Anh biết mình phải làm gì rồi chứ? Anh phải ghé thăm bá tước Monte Cristo va đưa ông ta đến với chúng tôi.

- Tôi xin hết lòng. Debray nói.

Lucien Debray nhân dịp nghỉ giữa hai màn bèn đến lô của Monte Cristo và mời ông sang lô của bà Danglars.

- Hãy nói với bà nam tước rằng tôi sẽ rất hân hạnh, nếu bà cho phép được đến để bày tỏ lòng kính trọng của tôi đối với bà. Nhưng thỉnh thoảng bá tước de Morcerf có đến nhà hát Nhạc vũ kịch chứ? Tôi đã để mắt tìm mà chẳng thấy ông ta đâu.

- ông ta sẽ đến tối nay.

Cuối màn ba, bá tước ra khỏi lô của mình và một lát sau ông xuất hiện trong lô của bà nam tước Danglars và bá tước de Morcerf đã đến giữa chừng. Bà nam tước không nén được một tiếng reo ngạc nhiên xen chút mừng rỡ.

- Xin cho biết con người tuyệt diệu kia là ai vậy?.- Đó là Haydée, một cô gái Hy Lạp mà tôi là người đỡ đầu.

- Một cô gái Hy Lạp! - Bá tước de Morcerf lẩm bẩm.

- Vâng, thưa bá tước de Morcerf, bà Danglars nói; và xin cho biết ông có bao giờ thấy ở triều đình Pacha nơi ông đã phục vụ vẻ vang đến thế, có một sắc đẹp nào được như vậy không.

- A! Monte Cristo nói, ông đã từng phục vụ ở Janina ư, thưa bá tước?

- Tôi đã từng là tướng thanh tra trong quân đội của Pacha, Morcerf trả lời, và tài sản ít ỏi của tôi, chẳng giấu gì ông, là do sự hào phóng của thủ lĩnh nổi tiếng người Anbani ấy.

- Hãy nhìn kìa! - Bà Danglars nhắc.

Viên tướng nhoài người ra ngoài lô để nhìn rõ Haydée.

Lúc này, Haydée đưa mắt tìm bá tước Monte Cristo, thấy gương mặt tái của ông bên cạnh ông de Morcerf. Cái nhìn này gây ra ở người thiếu nữ một tác động lạ thường. Cô vừa ngả người về phía sau vừa thốt lên một tiếng kêu.

- Này, Eugénie nói, có chuyện gì xảy ra cho người được ông giám hộ thế thưa bá tước? Có vẻ là cô ta khó ở.

- Đúng thế, Haydée rất mẫn cảm. Tôi phải trở lại với cô ta. Bá tước vừa nói vừa chào bà Danglars.

Khi ông bước vào lô, Haydée vẫn còn rất nhợt nhạt.

- Đức ông vừa nói chuyện với ai thế? Thiếu nữ hỏi.

- Với bá tước de Morcerf, Monte Cristo trả lời, người đã từng phục vụ người cha nổi tiếng của em, hắn thừa nhận rằng tài sản của hắn là nhờ ở cha em.

- A! Tên khốn nạn! Haydée kêu lên, chính nó đã phản cha em vì bọn Thổ, còn cái cơ nghiệp ấy là cái giá của sự phản bội. Đức ông thân yêu lại không biết thế hay sao?

- Ta đã từng nghe nói đôi điều về chuyện này ở Hy Lạp, Monte Cristo nói, nhưng không biết chi tiết. Về đi, con gái, kể tỉ mỉ cho ta nghe, chắc phải kỳ lạ lắm.

- ồ! Vâng, em về, em về đây. Có lẽ em chết mất nếu còn ở lại lâu trước mặt con người này..


BÁ TƯỚC MÔNGTƠ CRIXTÔ
Chương 14: Bữa ăn tối

Vài hôm sau cuộc gặp gỡ ấy, Albert de Morcerf đến thăm bá tước Monte Cristo trong ngôi nhà của ông ở Champs-Elysées.

- Tôi nghe thấy gì nhỉ? Hình như tiếng một cây đàn guitare.

- Quả thực, đó là cây đàn guzla của Haydée, tử tước ạ.

- Haydée, cái tên đến là tuyệt! Cô ta là ai vậy?

- ông biết chuyện tổng trấn Janina?

- Chuyện Ali - Tebelin? Dĩ nhiên, vì cha tôi phục vụ ngài mà nên cơ nghiệp.

- Này, Haydée là con gái ông ta đấy, thực thế. Nhưng Albert thân mến này, tôi định tổ chức cuộc họp mặt ông bà Danglars cùng ông bà de Villefort ở ngôi nhà thôn dã của tôi ở Auteuil, liệu anh cùng mẹ anh có đến được không?

- Chao ôi không! Chúng tôi bắt đầu thực hiện một dự định đã có từ trước đây ít lâu: Bà de Morcerf muốn thở hít không khí biển. Ngày mai chúng tôi rời Paris, và đến chủ nhật mới trở về.

- Nếu thế thì đành vậy.

- à này, tôi đã nhận được thư của Franz.

Anh ta gửi lời thăm ông.

- A! Thật ư! Monte Cristo nói. Thế anh ta vẫn cứ thích ở Italia à? Anh ta có định cưới vợ không?

- Có, anh ta phải cưới cô de Villefort.

- Thật thế chứ? Còn Eugénie Danglars có nhằm đám nào không?

- Eugénie, nàng rất đẹp, lại có tính cách riêng của cô ta. Chỉ còn chuyện tài sản! Tôi đã tính những gì mà nhà Danglars phải kiếm được : ba trăm ngàn livrơ trong lần tăng giá hối phiếu Haiti mới đây và một triệu với các hối phiếu Tây Ban Nha trong năm nay.

- A! Quỷ thần ơi! Bá tước thốt lên, ông Danglars đánh liều được mất ba trăm ngàn frăng trong một ngày. úi dào! Thế thì ông ta cực kỳ giàu?

- Trong trường hợp của ông ta, phải nói rằng ông ta cố hạn chế các rủi ro. Tôi cho rằng ông ta thâm nhập được các tin tức điện tín trước tất cả mọi người và lợi dụng điều đó để tiến hành đầu tư sáng suốt.

Monte Cristo dù bề ngoài ra vẻ thờ ơ nhưng không bỏ sót một lời nào trong cuộc nói chuyện này.

Albert đứng dậy xin cáo từ.

- Vậy xin chào, chúng tôi sẽ trở về vào chủ nhật.

Chuông đồng hồ vừa điểm bảy giờ, một chiếc xe ngựa thuê dừng lại trước cửa dinh thự, để một người đàn ông trạc độ năm mươi tuổi mặc chiếc áo đuôi tôm cấp thiếu tá bước xuống.

Người khách lạ được dẫn vào căn phòng khách đơn sơ nhất. Lý do khiến ông ta đến nhà Monte Cristo là ở lá thư bí ẩn mà ông ta đã nhận được có nội dung như sau:

"Ông túng bấn, tuổi già khốn khổ đang đợi ông. ông có muốn trở nên nếu không giàu có thì ít ra cũng được sống độc lập không?

Ông hãy đi Paris ngay lập tức, đến đòi người con trai mà ông đã có với bà hầu tước Corsinari và đã bị bắt đi vào lúc nó năm tuổi, ở nhà bá tước Monte Cristo, phố Champs élysées số 30.

Người con trai này tên là Andrea Cavalcanti.

Để đổi lại ông sẽ nhận được

1. Một phiếu chi hai ngàn livrơ toscanes

2. Một lá thư giới thiệu với ông bá tước Monte Cristo trong đó tôi báo có cho ông một số tiền là năm mươi ngàn frăng.

Hãy có mặt ở nhà bá tước ngày 26 tháng năm vào lúc bảy giờ tối.

Tu sĩ BUSONI" - A! Thưa quý ông, xin đón chào, bá tước nói. Tôi đang đợi ông. Thế thì hạnh phúc của ông chỉ còn thiếu mỗi một điều là gặp lại con ông.

Người đàn ông chẳng biết phải có thái độ như thế nào.

- Và, Monte Cristo nói tiếp, ông có mang theo hôn thú của ông với bà Olivia Corsinari cùng giấy khai sinh của con trai ông là Andrea Cavalcanti không?

- Thưa ngài bá tước, tiếc rằng phải thông báo với ông là do tôi không được báo trước phải có các giấy tờ này nên tôi quên không mang theo.

Vậy chúng có phải là hoàn toàn cần thiết không?

- Tất nhiên, nếu ở đây người ta lại nêu ra vài nghi vấn về giá trị hợp thức của cuộc hôn nhân của ông, về tính hợp pháp của đứa con ông!

Nhưng may quá tu sĩ Busoni đã tính chuyện này giúp ông. Các giấy tờ ấy đây. - Tất cả đều hợp thức, thiếu tá nói. Nhưng phần thứ hai của lá thư nói về năm mươi ngàn frăng.

- Mà tôi sung sướng được giao cho ông ngay lần đầu ông hỏi đến. Này, bây giờ mọi việc đã được thu xếp xong xuôi, tôi dành cho ông một bất ngờ. Con ông, con trai ông, cậu Andrea...

- Nó ở đây?

- Đang ở đây, Monte Cristo nói, nhưng tôi hiểu sự xúc động của ông, cần phải có thời gian để ông bình tâm lại; tôi cũng muốn chuẩn bị cho chàng trai trước cuộc gặp gỡ này, vì tôi đoán rằng anh ta sốt ruột chẳng kém gì ông.

- Tôi cho là thế, Cavalcanti nói, mà chẳng tin tưởng hơn là mấy.

- Vậy thì mười lăm phút nữa chúng tôi sẽ gặp ông.

Vừa nghiêng mình chào rất lịch thiệp, Monte Cristo đi khuất vào sau khung cửa treo thảm.

Bá tước Monte Cristo vào một phòng khách bên cạnh, ở đó có một chàng trai, tư thế ung dung, quần áo khá sang trọng. Anh ta cũng nhận được lá thư nói rằng:

"Anh nghèo khó, và anh chỉ có một tương lai khốn khổ: anh có muốn có một họ tên được tự do, được giàu có không?

Hãy đến nhà ngài bá tước Monte Cristo, phố Champs-élysées vào ngày 26 tháng năm hồi bảy giờ tối và yêu cầu ông cho gặp cha anh.

Anh là con trai hầu tước Bartolomeo Cavalcanti và bà hầu tước Olivia Corsinari, những giấy tờ chứng thực điều đó sẽ được hầu tước trao cho anh và cho phép anh được mang họ tên này trong xã hội Paris.

Còn về cương vị của anh thì một khoản thu nhập năm mươi ngàn livrơ mỗi năm được cấp cho anh chính là để củng cố cương vị ấy.

Thủy thủ Simbad" Bá tước vào phòng khách. Vừa thấy Monte Cristo chàng trai liền đứng bật dậy.

- Ngài là bá tước Monte Cristo? - Anh ta nói.

- Vâng thưa ông, bá tước trả lời, và tôi có hân hạnh nói chuyện tôi nghĩ là với ngài tử tước Andrea Cavalcanti?

- Tử tước Andrea Cavalcanti, chàng trai vừa nhắc lại những lời này vừa cúi chào đầy vẻ ung dung thư thái. Thưa ngài bá tước, tôi xin phục vụ ngài.

- Thực ra, ông ạ, bá tước nói và nhìn với vẻ hài lòng ảm đạm cái bộ mặt ung dung có vẻ đẹp mang dấu ấn của một ác thần này, ông đã làm rất đúng là nhất nhất đáp ứng lời mời của ông.bạn Simbad của tôi, vì cha ông đang ở đây, và ông sắp ở vào một tình huống dễ chịu nhất: ông ta cấp cho ông một khoản thu nhập là năm mươi ngàn livrơ mỗi năm trong suốt thời gian ông ở lại Paris. ông hãy vào phòng khách để gặp cha ông đã, ông ta đang đợi ông.

Andrea cúi chào rất thấp và bước vào phòng khách.

Bá tước dõi nhìn theo hắn, vừa thấy hắn đi khuất liền nhấn vào chiếc lò so gắn với một bức tranh, bức tranh này liền tách khỏi khung để hé ra một khe hở được bố trí khéo léo cho phép nhìn được vào phòng khách.

Andrea khép cửa lại sau lưng mình và tiến về phía thiếu tá, ông này đứng dậy lúc nghe thấy tiếng chân bước lại gần.

- A! Thưa ông và thưa cha thân yêu, Andrea nói to để cho bá tước có thể nghe thấy qua cánh cửa đã đóng, có đúng là cha đấy không?

- Chào con yêu quý, thiếu tá nghiêm trang nói.

- Sau từng ấy năm xa cách, Andrea vừa nói vừa tiếp tục nhìn về phía cửa, thật hạnh phúc biết bao khi chúng ta gặp lại nhau!

Thế rồi chẳng hề có chuyển tiếp nhưng hắn hạ giọng xuống và nói bằng thổ ngữ "toscane":

- ông Cavalcanti thân mến của tôi ơi, họ cho ông bao nhiêu để làm bố tôi đấy? Phần tôi, họ cho năm mươi ngàn frăng mỗi năm để làm con ông: bởi vậy ông hiểu rõ rằng không phải tôi là kẻ định phủ nhận việc ông là cha tôi.

Thiếu tá lo lắng nhìn quanh mình.

- Này, về phần tôi, thiếu tá nói, họ cho tôi một số tiền năm mươi ngàn frăng.

- ông có hiểu đôi điều về việc này không?

- Quả thực là không.

Monte Cristo chọn đúng lúc ấy bước vào phòng khách. Vừa nghe tiếng bước chân của anh, cả hai người cùng đứng dậy lao vào vòng tay nhau, bá tước thấy họ ôm hôn nhau liền nói.

- Người cha hạnh phúc! Người con hạnh phúc!

- Chỉ có mỗi một điều làm tôi buồn, thiếu tá nói, đó là việc tôi cần phải rời Paris gấp quá.

- ồ! ông Cavalcanti thân mến, Monte Cristo nói, tôi hy vọng ông đừng đi, trước khi tôi giới thiệu ông với một số bạn bè.

- Tôi xin tuân lệnh ngài. Thiếu tá nói.

- Thứ bảy này, nếu ông vui lòng... Tôi có mời cơm tối ở nhà tôi tại Auteuil, nhiều người trong đó có ông Danglars, chủ ngân hàng của ông. Tôi sẽ giới thiệu ông với ông ta, đúng là cần phải để cho ông ta biết cả hai người để ông ta chi tiền cho các ông. Các ông hãy đến vào lúc sáu giờ rưỡi..- Xin vâng, chúng tôi sẽ ở đó, thiếu tá vừa nói vừa đưa tay cầm lấy mũ.

Cả hai người mang họ Cavalcanti cùng chào bá tước và đi ra.

Trong khi cái cảnh kỳ lạ này diễn ra ở nhà Monte Cristo thì một cuộc họp mặt trang trọng diễn ra ở nhà Villefort.

Ông de Villefort có bà de Villefort đi cùng, vào phòng cha mình. ông Noirtier ngồi trong chiếc ghế bành lớn có bánh xe, nơi mà người ta đặt ông vào đó buổi sáng và lại đưa ông ra khỏi đó buổi tối, ông bất động như một xác chết, nhìn các con mình với cặp mắt thông minh và sắc sảo mà cái chào cung kính đúng nghi thức cho ông biết sắp có cuộc vận động gì đó bất ngờ. Thị giác và thính giác là hai giác quan sót lại còn làm cho ông hoạt động.

Như vậy là toàn bộ hoạt động, toàn bộ sự khéo léo, toàn bộ sức lực, toàn bộ trí thông minh trước kia được phân phối khắp cơ thể và trí tuệ này thì nay được tập trung cả vào cặp mắt của ông lão Noirtier.

Chỉ có ba người biết cách hiểu thứ ngôn ngữ ấy của ông già bại liệt đáng thương: đó là Villefort, Valentine và người lão bộc của ông là Barrois.

- Thưa ông, vợ chồng con xin thông báo với ông rằng chúng con sắp gả chồng cho Valentine.

Gương mặt cụ Noirtier vẫn cứ thản nhiên trong khi nghe câu chuyện.

- Đám cưới sẽ tổ chức trong vòng ba tháng tới. Villefort nói tiếp.

Mắt cụ già vẫn không linh hoạt hơn.

Đến lượt bà de Villefort cất lời:

- Chúng con chỉ còn phải nói với ông là đã gả cháu cho ai. Đó là một trong những đám danh giá nhất mà Valentine có thể với tới được. Đó là ông Franz de Quesnel, nam tước Epinay.

Khi bà de Villefort nói đến cái họ của Franz, mắt ông Noirtier, mà con trai ông biết quá rõ rung lên, các mi mắt để lọt ra một ánh chớp.

Chắc chắn tiếng thét đau khổ và giận dữ đang dâng lên họng nhưng không phát ra được, làm cho ông nghẹn ngào vì mặt ông tím lại và đôi môi ông xanh nhợt.

- Cuộc hôn nhân này, bà de Villefort nói thêm, được cả ông d'épinay và gia đình ưng ý vả chăng gia đình ông ta chỉ có một ông chú và một bà cô. Mẹ ông đã mất lúc ông ta chào đời, còn cha ông ta đã bị giết hại vào năm 1815, nghĩa là vào lúc cậu bé chưa đầy hai tuổi, vậy là chuyện chỉ tùy thuộc ý muốn của riêng ông ta.

Rồi bà ta nói thêm:.- ông có cần gì không?

Đã thỏa thuận rằng cụ già biểu lộ sự tán thành bằng cách nhắm mắt, sự từ chối bằng cách chớp mắt nhiều lần, và biểu lộ cụ muốn cái gì đó khi ngước mắt nhìn lên trời.

- Có, cụ già trả lời bằng cách nhắm ngay cặp mắt.

Họ cho gọi Valentine.

Rồi Valentine vào chỗ ông lão. Chỉ cần nhìn một cái là cô hiểu cụ đang đau khổ đến đâu và có bao nhiêu chuyện muốn nói với cô.

- ông muốn gì, ông yêu quý?

Thế rồi Valentine đọc lần lượt từng chữ của bảng chữ cái từ A đến N đồng thời nụ cười của cô dò hỏi cặp mắt của cụ già bại liệt; đến chữ N cụ Noirtier ra hiệu là đúng.

- A! Valentine nói, điều mà ông muốn bắt đầu bằng chữ N! Vậy thì nào, NA? NE? NI?

NO?

- Đúng, đúng, đúng, cụ già ra hiệu.

Valentine chạy đi lấy một cuốn tự điển, đặt lên chiếc bàn nhỏ trước mặt cụ Noirtier. Cô mở ra đến chữ NO và khi thấy mắt cụ già đăm đăm nhìn vào các trang giấy, thì các ngón tay cô lần nhanh các cột từ trên xuống dưới. Đến từ NO-TAIRE (nghĩa là ông công chứng - N.D) thì cụ Noirtier ra hiệu dừng lại.

- ông công chứng, cô nói, ông cần một ông công chứng hả ông nội?

Cụ già ra hiệu rằng đúng là ông cần một ông công chứng.

Trước đòi hỏi bất ngờ đó, ông de Villefort hỏi:

- Tại sao cha lại cần đến ông công chứng?

Cha lại chơi khăm chúng con cái gì nữa đây?

Villefort nói, có cần thiết không?

- Cháu sẽ cho đi mời ông công chứng ngay lập tức cho ông, ông yêu quý, Valentine nói.

Bốn mươi lăm phút sau, người hầu trở về có ông công chứng đi cùng.

- Thưa ông, Villefort nói sau khi đã chào hỏi mọi người, ông được cụ Noirtier de Villefort mời đến, cụ đây mắc chứng bại liệt toàn thân mất khả năng sử dụng chân tay và lời nói của cụ, và chỉ có chúng tôi, khó khăn lắm họa chăng mới nắm được một vài mảnh gì đó trong ý tưởng của cụ.

Noirtier đưa mắt tỏ vẻ nhờ cậy ở Valentine, một sự nhờ cậy rất nghiêm chỉnh và mang tính mệnh lệnh rất cao, khiến cô tức khắc đáp ứng:

- Tôi, thưa ông, tôi hiểu tất cả những gì ông tôi muốn nói.

- Vậy ta thử xem, ông công chứng nói. Nào, thưa ông, ông muốn gì ở tôi, và ông muốn làm văn bản gì?.Valentine đọc tất cả các chữ trong bảng chữ cái cho đến chữ T. Đến chữ này, Noirtier ra hiệu cho cô dừng lại. Họ lần tìm trong từ điển cho đến từ TESTAMENT (nghĩa là chúc thư - N.D).

- Chúc thư! ông công chứng reo lên, việc đã rõ, cụ muốn làm chúc thư.

- Đúng! Cụ Noirtier ra hiệu nhiều lần.

Họ đọc cho cụ Noirtier nghe một mẫu chúc thư còn để trống rồi ông công chứng hỏi cụ:

- Theo bản chúc thư trước đây của cụ, cụ có chín trăm ngàn frăng. Có đúng không?

- Đúng.

- Cụ muốn để lại tài sản này cho ai?

- ồ! Bà de Villefort nói. Cụ Noirtier chỉ yêu có mỗi cô cháu gái Valentine: cô là người chăm sóc cụ từ sáu năm nay, vậy thì trả giá cho sự tận tụy của cô là công bằng.

- Vậy có phải là cụ để lại số tiền chín trăm ngàn frăng này cho cô Valentine không? - ông công chứng hỏi.

Cụ già nhìn Valentine một lúc tỏ ra cực kỳ âu yếm, rồi quay về phía ông công chứng, cụ chớp chớp mắt một cách dứt khoát.

- Không ư? - ông công chứng nói, không phải là cô Valentine de Villefort được cụ lập làm người thừa kế toàn bộ tài sản của cụ hay sao?

- Không! Cụ Noirtier lặp lại, không!

Sự kinh ngạc bao trùm tất cả mọi người.

- Vậy thì có phải là cụ để lại tài sản cho cháu trai của cụ, Edouard de Villefort, thưa cụ Noirtier kính mến? - Người mẹ hỏi.

Những cái chớp mắt trở nên dữ dội: tỏ vẻ gần như là căm ghét.

- Vậy thì cụ để cho ông con trai cụ đang có mặt ở đây?

- Không. Cụ già trả lời.

Và Noirtier hướng ánh nhìn cháy bỏng vào bàn tay của Valentine.

- Bàn tay của cháu ư? ồ! Valentine bất chợt kêu lên, cháu hiểu rồi! Việc hôn nhân của cháu có phải không, ông yêu quý?

- ừ, ừ, ừ, cụ già bại liệt nhắc đi nhắc lại ba lần, mỗi lần mi mắt mở ra lại để lọt một ánh mắt sáng quắc.

- ông không bằng lòng cho con lấy ông Franz d'épinay hay sao?

- Không, ta không bằng lòng. Cụ già ngỏ ý bằng mắt.

- Và cụ tước quyền thừa kế của cháu gái cụ, ông công chứng kêu lên, vì cô ta tiến hành hôn nhân trái ý cụ?

- Đúng. Cụ Noirtier trả lời..Lúc này xung quanh cụ già lặng ngắt như tờ.

ý nguyện của cụ đã rõ: nếu Valentine lấy Franz d'épinay thì toàn bộ tài sản đem cho những người nghèo ở Paris.

Villefort sùi cả bọt mép vì tức điên lên.

- Tôi cho rằng, Villefort nói, không nén nổi cơn giận của mình, chỉ tôi có quyền gả chồng cho con gái tôi, tôi muốn nó lấy ông Franz d'épi-nay và nó sẽ lấy ông ta. Tôi không chịu thua cái ý thích thất thường của người già và tôi sẽ hành động theo lương tâm của mình.

Valentine ngã xuống một chiếc ghế bành, khóc sướt mướt.

Lúc gia đình Villefort trở về các căn hộ của mình thì người hầu báo cho họ biết có ông bá tước Monte Cristo đến và đang đợi họ trong phòng khách.

- Tôi chỉ đến để nhắc ông lời hẹn cho ngày thứ bảy. Bá tước nói.

- Có phải là sẽ họp mặt ở nhà ông ở Champs-élysées hay không?

- Không phải, Monte Cristo nói, họp mặt ở vùng quê, ở Auteuil, phố La Fontaine, số 28.

- Nhưng có phải họ đã bán ngôi nhà của ngài de Saint-Méran cho ông không? - Villefort kêu lên với giọng nghẹn ngào.

- Ngài de Saint-Méran? Monte Cristo hỏi.

Vậy ra ngôi nhà ấy là của ngài de Saint-Méran?

Tôi hy vọng, Monte Cristo nói với vẻ lo âu, rằng sự trùng hợp này không tước mất của tôi niềm hạnh phúc được thù tiếp ông?

- Không, thưa bá tước... Tôi rất mong... Hãy tin rằng tôi sẽ làm tất cả những gì tôi có thể, Villefort ấp úng.

- ồ! Monte Cristo trả lời, tôi không chấp nhận lý do thoái thác. Thứ bảy này vào lúc sáu giờ tôi đợi ông, và nếu ông không tới thì tôi, tôi sẽ nghĩ rằng có một truyền thuyết gì đó sầu thảm, có chuyện đổ máu gì đó ở cái ngôi nhà không người ở từ hơn hai mươi năm này.

- Tôi sẽ tới, thưa bá tước, tôi sẽ tới, Villefort vội nói ngay.

- Cám ơn, Monte Cristo nói, bây giờ ông phải cho phép tôi cáo biệt.

Monte Cristo cáo biệt gia đình Villefort, họ sẽ hết sức kinh ngạc nếu thấy bá tước đến đài điện tín Montlhéry, một cây tháp xây trên chỗ cao nhất của vùng đồng bằng. Sau khi đã chiếm được cảm tình của điện báo viên, ông hỏi ông ta:

- Nếu tôi biếu ông xem nào... mười lăm ngàn frăng để ông thay đổi tín hiệu đi đôi chút, hay để ông thay bằng một tín hiệu khác thì sao nào?.- Điều đó không thể được, tôi sẽ bị thải hồi và mất lương hưu. ông phải biết rằng không bao giờ tôi làm những chuyện đó.

- Nếu tôi tăng số tiền ấy lên gấp đôi? Điều này đáng suy nghĩ chứ hả?

- ồ! Thưa ngài, ngài đề xuất cho tôi việc gì?

Và tôi phải làm gì?

- Đánh lại các tín hiệu như thế này.

Monte Cristo rút trong túi ra một tờ giấy trên đó có ghi ba ký hiệu được viết sẵn, có những số hiệu chỉ rõ thứ tự phát đi như thế nào.

- Chẳng phải là dài, ông xem đấy.

Mặt đỏ bừng như lên cơn sốt, mồ hôi chảy ròng ròng từng giọt lớn, lão ta phát đi ba tín hiệu mà bá tước đưa cho. Người đồng nghiệp ở bên trái chăm chú phát lại chính các tín hiệu ấy và cuối cùng chúng được nhận ở Bộ nội vụ.

- Bây giờ, ông giàu có rồi. Monte Cristo nói.

Năm phút sau khi tin điện báo đến bộ, De-bray liền cho thắng ngựa vào chiếc xe hòm của mình rồi chạy đến nhà Danglars.

- ông có trái phiếu Tây Ban Nha không?

- Có chứ! Loại ấy tôi có tới sáu triệu.

- Hãy bán chúng đi với bất cứ giá nào: nhà vua don Carlos đã chạy thoát khỏi Bourges và trở về Tây Ban Nha. Barcelone đã nổi dậy. Gấp lên vì tin điện báo này chẳng mấy chốc sẽ lộ ra.

Nam tước chạy đến chỗ nhân viên hối đoái của mình và ra lệnh cho anh ta giá bao nhiêu cũng bán.

Nhưng hôm sau người ta đọc thấy trong báo "Người cố vấn" những dòng chữ sau:

"Thật không có cơ sở nào mà tờ "Người đưa tin" hôm qua đã đăng tin don Carlos trốn thoát và về cuộc nổi dậy ở Barcelone. Đó là một tín hiệu điện báo bị sai lạc vì sương mù đã gây ra sai sót ấy." Các giá vốn lên đến một con số gấp đôi bắt đầu sụt.

Việc này làm cho Danglars lỗ và mất ăn tới một triệu đồng chênh lệch giá.

Ông Bectuccio đã xuất sắc hơn lúc thường về vẻ lịch sự của các đồ đạc được mua sắm bày biện và về việc thu xếp dọn dẹp nhanh chóng ngôi nhà ở Auteuil. Trong ba ngày ông đã cho trồng cây kín một cái sân hoàn toàn trần trụi và những cây dương đẹp đẽ, những cây sung được đem đến có cả bầu rễ khổng lồ của chúng làm râm mát mặt chính của tòa nhà, trước nhà, thay vì những viên gạch lát bị cỏ dại che lấp đến một nửa, là một bãi cỏ mà các vầng cỏ vừa được đặt xuống ngay buổi sáng hôm ấy, làm thành một tấm thảm rộng còn long lanh nước mới tưới..Lúc năm giờ đúng bá tước tới, có Ali đi theo.

Thế rồi các khách mời lần lượt đến. Morrel đến đầu tiên có Debray đi cùng chỉ sớm hơn chiếc xe của Danglars chút ít.

Tất cả mọi người được mời vào phòng khách, thì Baptistin vào báo danh:

- ông thiếu tá Bartolomeo Cavalcanti, ông tử tước Andrea Cavalcanti!

Thiếu tá Bartolomeo Cavalcanti, người cha hiền mà chúng ta quen biết, xuất hiện trong trang phục không chê vào đâu được của người cựu binh.

Bên cạnh hắn, tiến bước chàng tử tước Andrea Cavalcanti, người con kính cẩn mà chúng ta cũng đã biết, quần áo mới toanh từ đầu đến chân, nụ cười trên môi.

- Các ông này là ai vậy? - Danglars hỏi bá tước Monte Cristo.

- ông đã nghe nói rồi, những người mang họ Cavalcanti. Và nói đến họ Cavalcanti là nói đến dòng dõi hoàng thân.

- Tài sản lớn chứ? - Viên chủ ngân hàng hỏi.

- Rất lớn. Ngoài ra họ có mở tín dụng ở chỗ ông theo như họ nói với tôi hôm kia. Thậm chí tôi mời họ vì ông. Tôi sẽ giới thiệu họ với ông.

Thế rồi Monte Cristo lại gần bà Danglars.

Anh nói:

- ông nam tước hôm nay trông rầu rĩ quá.

- Tôi cho rằng ông ấy đầu cơ chứng khoán, ông ấy đã lỗ và chẳng biết đổ trách nhiệm cho ai.

Baptistin xướng to:

- ông bà de Villefort!

Hai người vừa được báo bước vào. ông de Villefort dù cố gắng gượng vẫn thấy rõ là bị xúc động. Khi bắt tay hắn, Monte Cristo cảm thấy bàn tay ấy run rẩy.

Sau những lời chúc tụng đầu tiên, bá tước nhận ra Bertuccio từ nãy đến giờ cứ bận bịu ở phía gian dọn ăn cạnh bếp đang bị giày vò bởi một trạng thái kích động lạ thường. Anh đến với ông ta.

- Có chuyện gì thế ông Bertuccio?

- A! Trời ơi! Hắn đấy! ông ta vừa thì thào vừa chỉ tay vào Villefort. Vậy ra tôi vẫn chưa giết chết được hắn!

- Phải tin là không, ông Bertuccio.

- Và người đàn bà này!... Người đàn bà này!...

Bà Danglars! Nhưng chính là cô ta, thưa ông, chính là cô ta! Người thiếu phụ trong vườn!

Người thiếu phụ bụng chửa! Người thiếu phụ đi dạo...

Bertuccio đứng lặng người miệng há hốc, tái nhợt và tóc tai dựng ngược. Nhưng lúc trông.thấy Andrea Cavalcanti ông ta lại còn bối rối hơn.

- Benedetto! ông lẩm bẩm thật khẽ: Định mệnh!

- Đấy chuông điểm sáu giờ rưỡi rồi, ông Ber-tuccio, bá tước nói nghiêm khắc, đến giờ mà tôi đã có lệnh phải sẵn sàng cho mọi người ngồi vào bàn ăn; ông biết rằng tôi không thích chờ đợi chút nào.

Và Monte Cristo vào phòng khách, ở đó khách khứa đang đợi anh, trong khi ấy Bertuccio đi vào phòng ăn mà cứ phải vịn vào tường.

Bữa tiệc thật xa hoa; Monte Cristo cố làm đảo ngược hoàn toàn tính cân đối của bữa tiệc kiểu Paris, và làm cho sự lạ miệng còn nổi trội nhiều hơn sự ngon miệng của đám thực khách đầy tính hiếu kỳ mong muốn ở món ăn. Đó là một bữa tiệc phương Đông xứng đáng với Nghìn lẻ một đêm. Những loài chim hiếm, những thứ cá quái lạ, mọi loại vang Archipel và của vùng tiểu á lần lượt diễu qua trước mặt các quan khách đang lạ lùng thán phục.

- Tất cả những cái đó đều rất dễ thương, Château-Renaud nói, tuy nhiên tôi xin thú thực, điều làm tôi cảm phục nhất là việc phục vụ bàn tiệc nhanh nhẹn đến mức đáng khâm phục. Phải chăng, thưa bá tước, ông tậu ngôi nhà này vừa mới được có năm hay sáu ngày?

- Quả vậy, không hơn. Monte Cristo nói.

- Này tôi dám chắc rằng trong vòng tám ngày nữa ngôi nhà này đã biến đổi hoàn toàn. Đúng là ít nhất đã mười năm nhà bỏ trống không có người ở, Château-Renaud nói. Thực ra nếu nó không phải là của nhạc phụ một biện lý hoàng gia thì người ta đã coi nó là một trong những ngôi nhà bị nguyền rủa là nơi đã xảy ra một tội đại ác gì đó.

Cho đến lúc này, Villefort vẫn chưa đụng tý nào đến ba hay bốn ly rượu vang lạ thường bày trước mặt hắn, bỗng vơ đại lấy một ly và uống cạn một hơi.

- ông không nghĩ rằng mình đã nói trúng đến thế đâu, bá tước nói giữa khoảng im lặng tiếp sau lời nói của Château-Renaud. Xin hãy hình dung rằng để làm trẻ lại các cây cối già cỗi trong vườn, tôi đã cho đào hố để đổ đất mùn.

Thế là những người lao động của tôi, trong lúc đào đất, đã moi lên được một cái hòm hay đúng hơn là cái đai sắt của hòm, ở giữa có một bộ xương trẻ sơ sinh.

Bà Danglars gần như ngất xỉu trong cánh tay de Villefort, còn chính hắn thì tái mặt đi một cách đáng sợ.

- Trời ơi! Thưa bà, Debray kêu lên, bà làm sao thế? Sao bà tái nhợt thế?.Monte Cristo tỏ vẻ buồn phiền.

- Thực ra, thưa bá tước, bà Danglars nói, tôi thật xấu hổ mà thú nhận sự yếu đuối của mình, nhưng những chuyện kinh khủng này đã làm tôi bàng hoàng.

Monte Cristo thấy là đã hết mức khả dĩ chịu đựng được đối với hai người mà cảnh này được ông chuẩn bị dành cho họ. ông quyết định đi ra.

Viên biện lý hoàng gia kín đáo rỉ tai bà Dan-glars:

- Tôi cần nói chuyện với bà. Ngày mai ở phòng làm việc của tôi.

Buổi tối về khuya. Bà Villefort ngỏ ý muốn trở về Paris. Cho nên ông de Villefort là người đầu tiên ra hiệu lên đường. Hắn dành một chỗ trong chiếc xe ngựa bốn bánh của hắn cho bà Danglars, còn ông Danglars mải mê một câu chuyện kỹ nghệ thuộc loại hấp dẫn nhất với ông Cavalcanti nên chẳng mảy may để ý gì đến mọi chuyện đang xảy ra.

Ngày hôm sau, sau khi đã giải quyết xong các công việc thường ngày, Danglars đến nhà Monte Cristo.

- Lạy Chúa! Bá tước nói, ông sao vậy? ông có vẻ rất lo âu.

- Tôi bị, thưa quý ông, Danglars nói, vận hẩm cứ rơi vào tôi từ mấy hôm nay, và tôi cứ chỉ nhận được những tin dữ.

- Ôi! Lạy Chúa! Monte Cristo nói, có phải là ngài lại bị đổ bể ở phòng giao dịch chứng khoán không?

- Không, tôi đã hồi phục, ít ra cũng được mấy ngày. Nói cho thật đúng ra là tôi đã bị vỡ nợ ở Trieste. Đây là một tai ương chưa từng thấy bao giờ. Tôi phát hành sáu trăm ngàn livrơ cho một người mà tôi đã cùng với họ tiến hành nhiều vụ giao dịch tốt đẹp; nhưng rồi chúng trở lại với tôi mà không được chi trả, thêm vào đấy tôi còn cầm số phiếu bốn trăm ngàn frăng mà không bao giờ có thể thu hồi được. Với cái tin nhảm về Tây Ban Nha két bạc của tôi lại bị hụt đi bảy trăm ngàn frăng nữa, việc này đưa đến cho tôi một bản quyết toán đẹp đẽ vào cuối tháng, với tôi thật là họa vô đơn chí, thật đấy.

- Quỷ thần ơi, Monte Cristo nói, mất một triệu bảy trăm ngàn frăng trong một tháng! Ngoài hãng ông ra, bất kỳ hãng nào khác đều phải ngắc ngoải.

- ồ! Danglars nói với một nụ cười tê tái.

Nhưng lúc này đây, tiền lại đổ vào hòm tôi do những cuộc đầu cơ thắng lợi khác. Nhưng vì chúng ta đang bàn việc, vậy hãy cho tôi biết đôi chút xem ông nghĩ về thiếu tá Cavalcanti như thế nào..- Nghe đây, tôi chỉ biết sơ qua về ông ta, cả đời tôi mới gặp ông ta ba lần. Những gì tôi biết về ông ta là qua tu sĩ Busoni, một người bạn của tôi, và chính ông ta kể với tôi. Sáng nay ông ta có cho tôi biết về những dự định về con trai mình, và hé lộ cho tôi biết rằng đã chán thấy cảnh vốn liếng to lớn của mình ngủ yên ở Italia, một xứ sở chết cứng, nên muốn tìm cách làm cho nó sinh sôi nảy nở hoặc ở Pháp hoặc ở Anh.

Nhưng xin ông vẫn cứ lưu ý rằng dù cho tôi có tin tu sĩ Busoni đến đâu thì riêng cá nhân tôi, tôi không hề đảm bảo điều gì hết.

- Và chàng trai? - Danglars hỏi.

- ái chà! Chắc ông muốn gả con cho Andrea, ông Danglars thân mến, cho nên ông mới hỏi tôi tất cả những câu hỏi ấy?

- Quả vậy, Danglars nói, tôi thấy việc đó hình như không phải là một vụ đầu tư tồi. Xem ra chàng trai này hoàn toàn phù hợp.

- ông đã cho điều tra về hắn chưa? - Monte Cristo hỏi.

- Có cần làm thế không, và ngay từ lần gặp gỡ đầu tiên, người ta lại không biết là đang giao dịch với người như thế nào ư? Trước hết anh ta giàu, sau đó anh ta có một học vấn đặc biệt.

- Tôi không dám chắc điều đó.

- Này bá tước, ông chẳng công bằng đối với chàng trai này.

Vào lúc mười hai giờ rưỡi bà Danglars đã đòi lấy ngựa để đi đến tòa án. Người mõ tòa dẫn bà ta đi theo một hành lang riêng vào phòng làm việc của ông de Villefort.

- Cám ơn bà, hắn nói, cám ơn bà đã đến đúng hẹn.

Villefort mỉm cười cay đắng.

- Sao mà cái quá khứ khủng khiếp ấy lại sống lại thế? Hắn kêu lên; chẳng có gì là ngẫu nhiên đâu.

- Nhưng có chứ, chẳng phải là sự ngẫu nhiên đã làm nên tất cả chuyện này ư? Chẳng phải ngẫu nhiên mà bá tước Monte Cristo đã mua ngôi nhà ấy ư? Chẳng phải ngẫu nhiên mà ông ấy đã cho đào đất ư?

- Này, không đâu thưa bà, đây là cái điều khủng khiếp mà tôi phải nói với bà, Villefort trả lời với một giọng trầm đục: Không, không hề có di hài nào tìm thấy dưới những bông hoa.

- ông định nói gì thế? - Bà Danglars kêu lên, toàn thân run lập cập.

- Tôi định nói rằng, ông Monte Cristo trong khi đào những gốc cây chẳng thể tìm thấy cả bộ xương trẻ con lẫn đai hòm, bởi vì dưới các gốc cây này không hề có cả hai thứ ấy..- Lạy Chúa tôi! ông làm tôi sợ quá!

- Bà biết cái đêm đau lòng ấy diễn ra như thế nào không, cái đêm mà bà thì nằm ngắc ngoải trên giường ở cái buồng trên gác, trong khi tôi chờ đợi bà sinh nở? Khi đứa trẻ ra, chúng ta tưởng rằng nó đã chết. Tôi đặt nó vào trong một chiếc hòm rồi xuống vườn, tôi đào một cái huyệt rồi vội vàng chôn nó xuống. Vừa mới lấp đất xong thì cánh tay thằng nhỏ Corse đã phóng vào tôi. Tôi ngã xuống hấp hối, và tôi tưởng mình đã bị giết chết. Bà đã có can đảm để bà vú dìu trở về nhà. Một cuộc quyết đấu được dùng làm cái cớ gây thương tích cho tôi. Họ chở tôi đi Versailles. Tôi chiến đấu với cái chết suốt ba tháng ròng.

Thời kỳ hồi phục của tôi kéo dài sáu tháng; tôi không còn nghe nói gì về bà, tôi không dám dò hỏi tin tức về chuyện bà đã ra sao. Khi tôi trở lại Paris thì biết tin bà là quả phụ của ông de Nargonne và đã thành hôn với ông Danglars.

Nhưng suốt thời kỳ dưỡng bệnh của tôi, cái thi hài đứa trẻ ám ảnh tôi đến phát điên. Lúc vừa bình phục, tôi quyết định phải làm cho lòng mình thanh thản về chuyện này. Một đêm tôi lần mò vào khu vườn ở Auteuil và tôi đào chính chỗ đất ấy lên. Cái hòm không có ở đấy.

- Chiếc hòm không có ở đấy! Bà Danglars thì thào, nghẹn ngào vì lo sợ. Tại sao con người ấy lại mang cái thi hài ấy đi?

- Bởi có cái gì đó ghê gớm hơn, nguy hại hơn, đáng sợ hơn cho chúng ta: đó là đứa trẻ còn sống, và kẻ giết người đã cứu nó.

Bà Danglars thét lên một tiếng kinh khủng.

- Nếu đứa trẻ ấy sống, Villefort nói tiếp, và có ai đó biết nó còn sống, có ai đó nắm được bí mật của chúng ta; và cái bí mật này Monte Cristo đã nắm được, vì hắn nói trước mặt chúng ta về một đứa trẻ được moi lên từ cái chỗ mà đứa trẻ kia không còn ở đó nữa.

- Nhưng tại sao?

- Đó là điều tôi sẽ phải tìm ra. Villefort nói với một ngữ điệu mà nếu bá tước có nghe thấy ắt phải rùng mình..

BÁ TƯỚC MÔNGTƠ CRIXTÔ
Chương 15: Maximilien và Valentine

Sau tối hôm gặp mặt ấy, Villefort nhốt mình trong phòng làm việc, với một chồng hồ sơ, bỗng nghe thấy tiếng chân bước ngoài cầu thang của một người có tuổi, rồi những tiếng kêu.

Hắn vội rút chốt cửa phòng và lập tức bà mẹ vợ bước vào không báo trước, chiếc khăn quàng vắt trên cánh tay và mũ cầm tay.

- A! Lạy Chúa tôi! Thưa bà, Villefort hỏi, có gì xảy ra vậy? Ai làm cho bà thảng thốt đến thế? Sao ngài de Saint-Méran không đi cùng bà?

- ông de Saint-Méran đã mất. Bà hầu tước già nói.

- Mất! Villefort ấp úng; như vậy là chết đột ngột?

- Đến chỗ cách Marscille sáu dặm, ông de Saint-Méran vừa uống xong mấy viên thuốc thường dùng thì lăn ra ngủ thật sâu nhưng tôi thấy có vẻ không bình thường. Đột nhiên ông bật lên một tiếng kêu trầm đục và xé lòng như tiếng kêu của người bị đau đớn trong giấc mơ, và đầu ông hất mạnh ra đằng sau. Tôi cho dừng xe trạm, cho ông hít lọ muối của tôi nhưng ông đã chết!

Villefort đứng lặng sửng sốt, mồm há hốc.

- Và lúc đó bà làm gì?

- ông de Saint-Méran luôn nói rằng nếu ông chết xa Paris thì ông muốn đưa thi hài của ông vào hầm mộ của dòng họ.

Ngày hôm sau Villefort vào nhà bà de Saint Méran thấy bà nhạc mẫu ốm liệt giường, có Valentine săn sóc. Một ngọn lửa u ám le lói trong cặp mắt bà hầu tước, và dường như bà đang lâm vào một trạng thái kích động dữ dội.

- Anh này, bà de Saint-Méran nói, anh viết cho tôi về cuộc hôn nhân của con cháu này với cậu Franz d'épinay phải không? Này, anh phải làm gấp đi vì tôi chẳng còn sống được bao lâu nữa.

- Nào, bà ngoại! - Valentine kêu lên.

- Tôi nói với anh rằng tôi sắp chết, anh nghe chưa? Và trước khi chết tôi muốn được thấy cháu rể của tôi. Đêm qua, tôi ngủ một giấc kinh khủng; mắt nhắm nghiền, từ cái góc có cửa thông sang phòng tắm của chị de Villefort tôi thấy có một bóng trắng lặng lẽ bước vào.

- Chắc hẳn là do cơn sốt đấy thưa bà. - Villefort nói.

- Anh cứ nghi ngờ nếu anh muốn, nhưng tôi tin chắc vào điều tôi nói: tôi thấy một bóng trắng; và tôi còn nghe thấy cả tiếng khuấy cái cốc của tôi, này chính cái kia kìa, đang đặt ở đấy, ở trên bàn.

Tôi dám chắc đó là linh hồn của ông nhà tôi!

Ông de Villefort đi ra và sai người đi tìm ông d'Avrigny, bác sĩ của gia đình. Valentine xuống vườn để tìm cách thay đổi sự suy nghĩ.

Trong khi cô đang dạo bước trên lối đi trong vườn thì dường như thoáng nghe có ai gọi tên cô. Cô nhận ra giọng Maximilien.

- Anh đến vào giờ này ư? - Cô nói.

- Vâng, cô bạn đáng thương ơi, Morrel trả lời, tôi đến tìm cô và đem lại những tin xấu. Tôi vừa ở nhà bá tước Monte Cristo một giờ trước đây, bất chợt thấy có xe chạy vào sân. Đó là nam tước Franz d'épinay!

- Maximilien tội nghiệp! - Valentine thì thào.

- Bây giờ cô tính làm gì đây?

Valentine cúi đầu, khổ não.

- Làm sao mà tôi có thể chống lại quyết định của cha tôi, chống lại ý nguyện của bà tôi đang sắp chết! Thật không thể được! Tôi sẽ phải lấy Franz.

- Tôi tự do, Morrel nói; tôi cũng khá giàu có đủ cho cả hai ta, hãy theo tôi, chúng ta sẽ xuống tàu đi Alger, đi Anh hoặc sang châu Mỹ tùy ý cô.

- Tôi vẫn ngờ điều đó, Valentine vừa nói vừa lắc đầu. Đó là một lời khuyên rồ dại, và tôi sẽ lại còn rồ dại hơn anh nếu tôi không ngăn cản anh ngay lập tức các dự định của anh. Chúng ta hãy đợi! Có bao nhiêu chuyện có thể cứu chúng ta.

- Tôi tin ở cô, Valentine, Morrel nói; có điều là nếu người ta bỏ qua mọi cầu xin của cô, nếu cha cô và bà de Saint-Méran yêu cầu phải mời ông Franz d'épinay đến ký hôn ước vào ngày mai thì...

- Lúc ấy, thì anh đã có lời hứa của tôi. Đáng lẽ ký thì tôi đến tìm anh và chúng ta bỏ trốn; nhưng từ giờ đến lúc đó không được mạo hiểm; chúng ta đừng gặp nhau nữa. Tôi sẽ viết cho anh.

Họ hôn nhau và Valentine bỏ đi.

Chàng trai về nhà và đợi suốt cả buổi tối.

Mãi đến ngày hôm sau anh mới nhận được một bưu thiếp có những từ này:

"Nước mắt, năn nỉ, khẩn cầu đều vô hiệu.

Chúa cũng vô cảm như con người, và việc ký kết hôn ước được ấn định vào tối nay lúc chín giờ. Tôi chỉ có một lời hứa cũng như chỉ có một trái tim, Morrel, và lời hứa ấy đã được trao cho anh: Trái tim này thuộc về anh! Vậy tối nay lúc chín giờ ở cửa sắt.

Vợ anh Valentine de Villefort." Chàng trai đọc đi đọc lại hai mươi lần trong ngày lá thư của Valentine, đồng thời chuẩn bị vụ bắt cóc và chạy trốn.

Cuối cùng đã đến giờ. Morrel giấu một cỗ xe sau một ngôi nhà tranh nhỏ hoang tàn mà anh vẫn thường ẩn mình trong đó.

Ngày tàn dần. Morrel vào khu vườn hoang và lòng hồi hộp, đến nhòm qua lỗ trống của cửa sắt: vẫn chẳng có ai.

Nửa giờ trôi đi trong chờ đợi; Morrel thả bước hết dọc lại ngang rồi với những khoảng cách cứ gần lại mãi, anh đến ghé mắt vào các tấm ván.

Morrel xem đồng hồ, đã chín giờ rưỡi.

Valentine đã trễ nửa giờ.

- ồ! Maximilien hoảng hốt thì thào, lẽ nào cuộc ký kết hôn ước lại kéo dài đến thế, trừ phi là có biến cố bất ngờ gì đây.

Lúc đó, chẳng kịp suy nghĩ, anh trèo lên tường rồi nhảy sang bên kia. Nhưng đáng lẽ phải thấy ánh sáng ở các cửa sổ như anh nghĩ, đó cũng là điều tự nhiên trong các ngày có lễ nghi, thì anh lại chả thấy gì ngoài cái khối xám xịt của ngôi nhà họ Villefort.

Vừa lúc anh chuẩn bị để vượt qua càng nhanh càng tốt khoảng đất trồng hoa trong vườn để tiếp cận ngôi nhà thì có tiếng người vọng đến tai anh.

Anh vội lùi một bước và đứng câm lặng trong bóng tối.

Morrel thấy Villefort xuất hiện, theo sau là một người mặc đồ đen. Morrel nhận ra ông bác sĩ d'Avrigny.

- A! Bác sĩ thân mến, đây là lúc thượng đế tỏ ý cương quyết chống lại gia đình tôi. Một cái chết thật là khủng khiếp!

- Sau nỗi bất hạnh vừa đến với ông, có thể có một bất hạnh khác nữa còn lớn hơn đấy, bác sĩ nói. Có phải bây giờ chỉ có riêng chúng ta không, ông bạn? Vì tôi có điều bí mật gớm ghê để trao cho ông.

- Nói đi bác sĩ, tôi nghe đây, Villefort nói. Cứ giáng xuống đi, tôi sẵn sàng chịu đựng tất cả.

- Dĩ nhiên là bà de Saint-Méran đã rất cao tuổi nhưng bà vẫn có sức khỏe rất tốt. Trong bốn mươi lăm phút bà chưa qua đời, tôi đã nghiên cứu cơn hấp hối của bà. Tôi tin chắc rằng bà de Saint-Méran bị đầu độc chết.

Villefort nắm lấy bàn tay ông bác sĩ.

- ồ! Thật không thể được! Hắn nói, tôi đang mơ, lạy Chúa tôi! Cái chết rình rập trong nhà tôi!.- Phải nói là tội ác chứ, bác sĩ trả lời. ông có trong nhà ông, trong nội bộ nhà ông một kẻ đầu độc.

Villefort sửng sốt ghì chặt lấy cánh tay bác sĩ.

- Bây giờ, bác sĩ nói thêm, coi như tôi chưa nói gì với ông. Hãy giấu kín điều bí mật khủng khiếp này vào nơi sâu kín nhất của lòng mình.

Nhưng phải coi chừng.

- ồ! Cám ơn, cám ơn bác sĩ! Villefort nói.

Lúc họ đã đi xa, Morrel rời khỏi lùm cây và bằng sức bật không sao hiểu nổi của tuổi trẻ anh nhảy ra khỏi chỗ nấp, vọt hai bước đã qua khoảng đất trồng hoa ngập ánh trăng. Anh đến bậc thềm, bước lên thật nhanh và đẩy cửa, cánh cửa mở ngay ra trước mặt anh không khó khăn gì.

Morrel đi qua tiền sảnh và lên hết cầu thang không có gì trở ngại. Đàng kia, một tiếng nức nở quen thuộc làm dấu hiệu chỉ đường cho anh.

Anh đẩy một cánh cửa và bước vào.

Valentine đang quỳ bên chiếc giường có người bà đã chết nằm đó.

Anh buông một tiếng thở dài, Valentine nhìn thấy anh và không hề lộ vẻ ngạc nhiên.

- Bạn ơi, cô nói, sao anh lại ở dây?

- Valentine, Morrel run run nói, mãi không thấy cô tới; tôi lo quá, tôi bèn nhảy qua tường và đã đến đây. Còn chuyện ông d'épinay thì sao?

Cho tôi biết đi, tôi van cô đấy.

- ông Franz đã tới để ký hôn ước vào lúc bà ngoại tôi trút hơi thở cuối cùng.

- Ôi chao! - Morrel nói với một tình cảm vui mừng vị kỷ, vì anh nghĩ thầm rằng cái chết này sẽ trì hoãn vô thời hạn đám cưới Valentine.

- Lại đây Maximilien, Valentine nói. Tôi sẽ giới thiệu anh với ông nội tôi.

- Cô nghĩ thế ư, Valentine?

- Tôi chỉ còn có mỗi người bạn này trên đời, và cả hai chúng ta đều cần đến ông... Lại đây.

Đi đến thềm trước căn hộ, cô vào trước phòng của cụ Noirtier.

- ông yêu quý, cô nói với giọng gãy gọn, ông nghe con nhé: ông biết rằng bà ngoại Saint-Méran đã chết và ông cũng biết rằng ngoài ông ra chẳng còn ai trên đời này yêu quý con chứ? Vậy có phải là chỉ có ông mới là người con phải phó thác gửi gấm cả nỗi buồn hay niềm hy vọng không?

Người bại liệt ra hiệu là đúng.

Valentine cầm tay Maximilien.

- Như vậy thì, cô nói với ông, nhìn kỹ đây ông ơi.

Cụ già đưa cặp mắt dò xét và hơi ngạc nhiên nhìn Morrel đăm đăm.

- Đây là anh Maximilien Morrel, cô vừa nói vừa quỳ xuống trước cụ già. Con yêu anh ấy và.chỉ thuộc về anh ấy. Nếu họ buộc con phải lấy một người khác con sẽ để mặc cho mình chết hoặc tự sát.

- Thưa cô, xin cô vui lòng cho phép tôi được hân hạnh nói chuyện một lát với cụ Noirtier.

Valentine đứng dậy, đưa một cái ghế cho Morrel ngồi rồi ra khỏi phòng.

- Thưa ông, Morrel nói, xin cho phép con kể lại chuyện Valentine và con đã quyết định như thế nào.

Và thế là anh kể lại câu chuyện làm sao anh lại thỏa thuận bắt cóc Valentine.

- Không. - Cụ Noirtier ra hiệu.

- Không ư thưa ông? Morrel nhắc lại, vậy phải làm gì đây. Con phải để cho mọi việc xong xuôi ư?

Cụ Noirtier không động đậy.

- Nhưng mọi sự trì hoãn đều nguy cho chúng con, thưa ông, chàng trai nói tiếp. Phải chăng ông sẽ giúp chúng con?

- Đúng.

- Xin tha lỗi cho sự nài nỉ của con, vì cuộc đời con phụ thuộc vào câu trả lời của ông: ông có cứu vớt chúng con không?

- Có!

Trong cái nhìn toát ra sự khẳng định này hàm ý cương quyết đến mức không tài nào nghi ngờ được đó là ý chí nếu không nói là sức mạnh.

- Như thế là con phải đợi? Chàng trai hỏi.

Và ông hứa với con rằng hôn ước sẽ không được ký chứ?

- ừ! Cụ già bại liệt ra hiệu.

Mặc dầu có sự bảo đảm ấy, Morrel vẫn còn chưa tin hẳn.

- Bây giờ thưa ông, con xin phép được cáo lui. Anh vừa nói vừa chào cụ già.

Hai ngày sau thì đưa đám. Thi hài ông de Saint-Méran đã về đến nơi. Vậy là có hai quan tài được đặt vào hầm mộ của dòng họ.

Chỉ có Villefort, Franz và vài người bà con họ gần vào trong chính tẩm.

Ông de Villefort kéo Franz ra một chỗ.

- ông d'épinay, hắn nói với anh, tôi phải nhắc lại ý nguyện của bà de Saint Méran đã nói hôm kia trên giường lâm chung, đó là đám cưới Valentine không được trì hoãn. Hôn ước đáng lẽ phải ký từ hai hôm trước, chúng tôi đã tìm thấy văn bản viết sẵn: có thể ký kết ngay hôm nay.

- Xin tùy ý ông, thưa ông, Franz nói.

- Tôi đợi ông sau một giờ nữa nam tước ạ.

Hãy đưa những người làm chứng của anh đến.

Franz chào ông de Villefort và đi ra.

Tin này gây ấn tượng mạnh trong nhà. Bà de Villefort không muốn tin là có chuyện ấy, còn Valentine như bị sét đánh, cõi lòng tan nát..Lát sau người ta nghe thấy tiếng hai chiếc xe chạy vào trong sân. Một chiếc xe là của ông làm chứng còn chiếc kia là của Franz và bạn hữu.

Ngay sau đó mọi người tụ tập cả ở phòng khách.

Ông làm chứng làm thủ tục chuẩn bị ký hôn ước thì đúng lúc đó cửa phòng khách mở ra và người hầu của cụ Noirtier xuất hiện.

- Thưa các ngài, cụ Noirtier de Villefort muốn nói chuyện ngay lập tức với ông Franz de Quesnel, nam tước d'épinay.

Villefort rùng mình.

- Không thể được, viên biện lý hoàng gia nói; vả chăng ông d'épinay lúc này không thể rời phòng khách.

- Xin lỗi ông, Franz nói. Tôi không muốn bỏ lỡ cơ hội này để bày tỏ với cụ Noirtier sự tận tụy hết lòng của tôi.

Và không để cho Villefort giữ lại lâu hơn, Franz đứng dậy theo sau Valentine.

Cụ Noirtier đang đợi, cụ mặc toàn đồ đen và được đặt ngồi trong ghế bành.

- Đây là ông Franz d'épinay, Villefort nói với cụ; cha đã cho mời ông ta và ông ta đến theo yêu cầu của cha.

Cụ Noirtier đưa mắt nhìn cái bàn giấy mà Valentine mở ra. Cô cầm lấy tập giấy được bó lại bằng một giải lụa đen.

- Phải trao lại cho ai ạ? Cho ông de Villefort?

- Không.

- Cho ông Franz d'épinay?

- Đúng.

Franz ngạc nhiên, mở phong bì, và cả phòng im phăng phắc. Giữa sự im lặng ấy anh đọc:

"Trích biên bản một cuộc họp Câu lạc bộ thân Bonaparte ở phố Saint Lacque, họp ngày 5 tháng hai 1815." Franz dừng lại.

- Ngày 5 tháng hai 1815! Đó là ngày cha tôi bị giết hại!

Valentine và Villefort câm lặng. Franz đọc tiếp:

"Những người ký tên dưới đây Louis Beaurepaire, Etienne Duchampy và Claude Lecharpal tuyên bố rằng ngày 4 tháng hai 1815 tướng d'épinay đã chết trong một cuộc quyết đấu trung thực và không phải là trong cuộc mai phục như người ta có thể nói thế.

Cái chết này là do bàn tay của chủ tịch câu lạc bộ thân Bonaparte mà tướng d'épinay đã xúc phạm nghiêm trọng trước công chúng bằng những lời gièm pha nhục mạ ông và hoàng đế." Franz kết thúc cái việc đọc quá khủng khiếp đối với một người con này bằng một giọng tắc nghẹn, bị giày vò bởi một xúc động kỳ lạ. Nhưng sau một lát lặng im, anh nói với cụ Noirtier:.- Thưa cụ, vì cụ biết câu chuyện kinh khủng này xin cho tôi biết tên của người chủ tịch câu lạc bộ, để cuối cùng tôi biết được kẻ nào đã giết người cha tội nghiệp của tôi.

- Phải, cụ Noirtier trả lời và nhìn cuốn tự điển.

Franz đưa tay run bắn cầm lấy áo rồi đọc lần lượt các vần chữ cái đến chữ M.

- M! - Franz kêu lên.

Ngón tay của chàng trai lướt qua các từ mà cụ Noirtier ra hiệu phủ nhận.

Cuối cùng đến từ MOI (nghĩa là tôi, ND).

- Đúng. Cụ già ra hiệu.

- Cụ! Franz kêu lên, tóc trên đầu dựng ngược.

Là cụ, cụ Noirtier! Cụ là người đã giết cha tôi!

- Phải, cụ Noirtier trả lời, nhìn trừng trừng vào chàng trai bằng một ánh mắt oai vệ.

Franz mất hết sức lực ngã xuống một chiếc ghế bành.

Villefort mở cửa ra chạy trốn, vì hắn có ý tưởng phải bóp chết cái sự sống ít ỏi vẫn còn lưu lại trong trái tim ghê gớm của cụ già.

Franz ra khỏi phòng cụ Noirtier, lảo đảo và thác loạn đến nỗi ngay cả Valentine cũng phải thương hại anh.

Hai giờ sau, Villefort nhận được của Franz d'épinay một lá thư như sau:

"Sau sự việc đã được phát lộ, có lẽ giữa gia đình tôi và gia đình ông de Villefort không thể nghĩ đến việc kết mối thông gia được".

Ngay hôm sau cụ Noirtier cho mời ông làm chứng: bản chúc thư thứ nhất bị xé bỏ và làm một bản mới, trong đó cụ để lại toàn bộ tài sản cho Valentine với điều kiện là mọi người không được tách cô ra xa cụ.

Có ai đó tính rằng cô de Villefort là người thừa kế của hầu tước de Saint-Méran lại được ông nội cô tin chuộng trở lại thì một ngày gần đây cô sẽ có gần ba trăm ngàn livrơ lợi tức.

ít lâu sau, Maximilien gặp lại Valentine.

- Thoát rồi! Valentine nói.

- Thoát rồi! Morrel nhắc lại. Nhưng chuyện xảy ra thế nào?

Valentine mở miệng định kể lại tất cả; nhưng cô lại nghĩ rằng trong chuyện này có một bí mật khủng khiếp không chỉ thuộc riêng về ông nội cô.

- Sau này, cô nói, em sẽ kể lại cho anh mọi chuyện. Khi nào em trở thành vợ anh..

BÁ TƯỚC MÔNGTƠ CRIXTÔ
Chương 16: Caderousse

Một buổi chiều, ông Danglars tiếp Andrea Cavalcanti đến thăm. Sau mười phút trò chuyện Andrea mời hắn riêng ra một chỗ và ngỏ lời cầu hôn cô Danglars.

Danglars nghe hết sức chăm chú; đã tới hai hay ba ngày nay hắn đợi tin này.

- Hơn nữa, thưa ông, tôi có mang theo lá thư trong đó cha tôi cam kết cho tôi số vốn là hai triệu, nghĩa là một trăm năm mươi ngàn livrơ lợi tức tính từ hôm cưới. ông xem, sự việc sẽ trở nên tốt đẹp nhất, nếu giả định rằng lời cầu hôn của tôi không bị bà nam tước Danglars và cô Eugénie khước từ.

Danglars cảm thấy choáng ngợp mừng vui như người ta thường cảm thấy lúc sắp chết đuối lại gặp đất vững chắc dưới chân thay cho khoảng trống mình sắp chìm nghỉm vào đó.

- Như vậy thì, thưa ông, Andrea vừa nói vừa rất mực cung kính chào ông chủ ngân hàng, tôi có thể hy vọng...

- Anh Andrea, Danglars nói, hãy hy vọng đi, và hãy tin rằng nếu không có trở ngại gì về phía anh ngăn cản việc này tiến triển thì nó đã được quyết định.

Andrea cáo biệt ông chủ ngân hàng và ra xe.

Đúng lúc hắn sắp sửa đặt chiếc ủng bóng lộn của mình lên bậc xe thì một bàn tay đặt lên vai hắn.

Andrea rùng mình và lùi lại thật nhanh.

Người đàn ông bịt đầu bằng một chiếc khăn kẻ ô để lọt mớ tóc xam xám lấm láp.

- ông muốn gì ở tôi? Hắn nói.

- Bây giờ mày chẳng thèm chào hỏi bạn bè hả thằng cu Benedetto? Tao, bạn chung xiềng cũ của mày ở nhà lao khổ sai Toulon? Người đàn ông nói.

Đó là Caderousse: hắn bị tù vì đã giết người buôn đồ nữ trang mà hắn gạ bán viên kim cương của tu sĩ Busoni, tức Monte Cristo.

- ái chà! Mày! Tại sao mày đến quấy rối sự yên bình của tao?

- Vì thích gặp lại bạn cũ! Tao ở phố Ménil-montant.

Ngày mai đến gặp tao. Tạm biệt, Benedetto!.Và hắn phóng vào một phố nhỏ rồi mất hút trong đó. Ngày hôm sau, Andrea đến gõ cửa căn hộ của Caderousse, thoáng chút tò mò và lo lắng mơ hồ.

- A! Mày đến đấy à, Caderousse vừa nói vừa rút then cửa.

- Mày muốn gì tao?

- Có vẻ sự việc xoay chuyển tốt cho mày nhỉ thằng cu Benedetto? Caderousse nói với cặp mắt long lanh thèm muốn. Mày đi lại với xã hội thượng lưu Paris, mày sắp cưới con gái Danglars.

Nhưng, vừa nói thêm hắn vừa mỉm cười hiểm độc, không được phụ bạc các bạn cũ, hiểu chưa.

- Mày biết thừa, Andrea trả lời, tao không giàu có gì, và nếu không có người bảo trợ, bá tước Monte Cristo...

- Ôi người bảo trợ quý giá! Caderousse nói, mỗi tháng nó cho mày bao nhiêu?

- Năm nghìn frăng, Andrea nói.

- Nói đi, Andrea, cúi mình xuống chắc là cũng thích, khi cái ông Monte Cristo tốt bụng này đánh rơi túi bạc của hắn chứ?

- ồ! Lạy Chúa! Andrea nói, tiền trong nhà hắn vương vãi như trái cây trong vườn cây ăn quả.

- Thế nhà hắn như thế nào?

- Chà, phải có mực và giấy cho tao vẽ sơ đồ.

Caderousse đi tìm cái gì để viết trên một cái bàn giấy cũ. Andrea vẽ sơ đồ vườn và nhà bá tước Monte Cristo và cung cấp mọi tình hình mà Caderousse hỏi.

- Thế hắn có hay vắng nhà không? Hắn hỏi.

- Hai hay ba lần mỗi tuần. Hắn qua đêm ở Auteuil. Chẳng hạn, mai hắn phải đến đó.

Caderousse nhìn người bạn trẻ như muốn rút hết sự thực từ đáy lòng nó.

- Mày sẽ còn phải làm gì đó cho tao, cu con Benedetto ạ: mày để viên kim cương đeo ở ngón tay lại đây cho tao.

- Được. Nhưng mày sẽ không quấy rầy tao nữa chứ?

- Không bao giờ.

Chúng chia tay nhau. Andrea vừa đi khỏi, Caderousse liền đóng cửa lại cẩn thận rồi bắt đầu nghiên cứu, như một kiến trúc sư thực thụ, cái sơ đồ mà Andrea để lại cho hắn.

Hôm sau, bá tước Monte Cristo quả thực có đi Auteuil. Anh nói chuyện với Bertuccio trong khi Baptistin mở cửa; hắn cầm một bức thư. Bá tước mở ra và đọc:

"ạng de Monte Cristo được báo tin rằng ngay đêm nay một người đàn ông sẽ lẻn vào nhà ông ở Champs élysées để ăn trộm của ông.".Thoạt đầu bá tước cho là một mẹo lừa của kẻ trộm. Nhưng sau bữa tối, vừa ra hiệu cho Ali đi theo, ông vừa ra bằng cửa nhỏ, lên đường về Paris và vào lúc đêm về khuya ông đã ở trước nhà phố Champs élysées.

Ông vào nhà bằng cầu thang phụ, mà ngay cả người gác cổng cũng chẳng thể ngờ rằng ngôi nhà anh ta tưởng là trống không, đã thấy ông chủ trở về. Lúc tiếng cuối cùng của chuông báo mười một giờ ở đồng hồ nhà thờ phố Invalides vừa dứt thì bá tước đã ẩn cùng với Ali sau một tấm bình phong, ngỡ nghe thấy một tiếng động khẽ, như tiếng cót két ở phía phòng làm việc.

Một bàn tay quả quyết và thành thạo đang loay hoay. Cắt kính bằng một viên kim cương. Bất chợt ô vuông gãy ra mà không rơi xuống. Một giây sau, cửa sổ quay trên bản lề, và một người đàn ông bước vào.

- Thật là một tên vô lại táo bạo, bá tước lẩm bẩm.

Trong lúc đó, ông cảm thấy Ali chạm nhẹ lên vai mình, ông quay lại. Ali chỉ cho ông chiếc cửa sổ mở ra phố của căn phòng mà họ đang đứng.

Monte Cristo bước ba bước lại phía cửa sổ ấy. ông thấy một người đàn ông khác vừa rời khỏi một cánh cửa và trèo lên một cọc hàng rào có vẻ tìm cách nhìn xem việc gì xảy ra trong nhà bá tước.

- Được, ông nói, chúng có hai người: một đứa hành động, một đứa canh gác.

Ông ra hiệu cho Ali không rời mắt khỏi người ngoài phố còn ông quay vào theo dõi kẻ trong phòng làm việc.

Người cắt kính đã vào phòng và đang định hướng; rồi hắn đi thẳng đến bàn giấy. Hắn lấy ra một bộ đồ thợ khóa và một chiếc đèn. Ngay lúc ấy một làn ánh sáng mờ soi khắp căn phòng.

- › này! Bất chợt Monte Cristo vừa nói vừa lùi lại bằng một động tác kinh ngạc, đây là...

Lúc đó Monte Cristo cởi nhanh áo đuôi tôm, áo gi lê và áo sơ mi và mặc vào chiếc áo thầy tu dài. Anh giấu mớ tóc của mình dưới bộ tóc giả có khoanh hói ở giữa đỉnh đầu; đội mũ ba góc lên trên bộ tóc giả, hoàn thành việc chuyển bá tước thành tu sĩ.

Ông thắp một ngọn nến và nhẹ nhàng mở cửa.

- Này! Xin chào ông Caderousse thân mến, ông nói, ông đến đây vào giờ này để làm cái quái gì thế?

- Tu sĩ Busoni! Caderousse kêu lên, bất động và như chết lặng vì sững sờ.

- ông có trí nhớ tốt đấy, vì nếu tôi không lầm thì đã đến mười năm nay chúng ta chưa gặp nhau..Vậy ông muốn ăn trộm của bá tước Monte Cristo?

- Thưa tu sĩ, Caderousse nói, tôi thề với ông...

- Một ô kính bị cắt, bá tước nói tiếp, một cái đèn mờ, một bộ đồ thợ khóa, một bàn giấy bị cậy dở dang, thế là rõ đấy chứ. Nếu tôi không lầm thì điều đó đưa ông tới máy chém.

- Ôi! Xin gia ơn! Xin gia ơn! Caderousse kêu lên. Tôi bị lôi kéo. Đó là Benedetto, thằng bạn chung xiềng ở nhà lao khổ sai Toulon nó đã chỉ dẫn cho tôi việc này.

- Cái tên Benedetto này là ai? ông hỏi.

- Nó lấy tên là Andrea Cavalcanti và ngụ tại khách sạn Các Hoàng Tử.

- Là kẻ mà Danglars muốn gả con gái cho ư? Đứng dậy đi! Bá tước nói. Cầm lấy cái bút và tờ giấy này và viết những gì ta đọc cho ngươi.

Caderousse bị chinh phục bởi cái sức mạnh ưu thắng ấy bèn ngồi xuống và viết theo lời tu sĩ đọc:

"Thưa ông, người mà ông tiếp ở nhà ông và định gả con gái cho hắn là một tên cựu tù khổ sai vượt ngục cùng tôi từ nhà lao khổ sai Toulon. Hắn tên là Benedetto; nhưng chính hắn cũng không biết tên thật của mình vì xưa nay hắn không biết cha mẹ là ai." - Ký đi! Bá tước nói tiếp, và viết địa chỉ vào.

Caderousse ký và viết: "Kính gửi nam tước Danglars, chủ ngân hàng, phố Chaussée d'Autin" Tu sĩ cầm lấy bức thư.

- Bây giờ mày biến đi, thằng ranh!

Caderousse hài lòng vì thoát được thân quá dễ dàng liền bước qua cửa sổ và đặt chân vào thang.

Monte Cristo đưa mắt lướt nhìn thật nhanh từ vườn ra phố. Thoạt đầu anh thấy Caderousse tiến về phía cái thang mà hắn vừa trèo vào lúc nãy. Rồi anh thấy người đàn ông ở ngoài có vẻ chờ đợi, đứng vào đúng cái góc mà Caderousse sắp trèo xuống.

Caderousse từ từ leo lên thang, cưỡi lên bờ tường, vắt chân qua rồi bắt đầu tụt xuống.

Nhưng hắn đang trèo xuống thì một người lao vào bóng tối lúc hắn xuống đến nửa chừng, một cánh tay giơ lên vào lúc chân hắn sắp đụng đất; trước khi kịp phòng vệ, cái tay ấy đã đâm mạnh vào lưng hắn.

- Cứu tôi với!

Một nhát thứ hai ngay lập tức thọc vào mạng sườn và hắn ngã gục. Cuối cùng hắn đang lăn lộn trên mặt đất thì kẻ thù của hắn nắm lấy tóc hắn và đâm thêm nhát thứ ba vào ngực.

Ba dòng suối máu vọt ra từ ba vết thương.

Kẻ sát nhân cho là hắn chết rồi liền lảng đi.

Lúc đó Caderousse biết hắn đã đi xa, liền chống tay nhỏm dậy và bằng giọng hấp hối lấy hết sức kêu lên:.- Có kẻ giết người! Tôi chết mất! Cứu tôi với, ông tu sĩ, cứu tôi với!

Cửa nhỏ trong vườn mở ra và Ali cùng chủ anh cầm đèn chạy ra.

Caderousse kêu mãi với giọng thê thảm. Họ khiêng người bị thương đưa vào một căn phòng.

ở đó Monte Cristo ra hiệu cho Ali cởi áo hắn ra và anh thấy ba vết thương khủng khiếp trên người hắn.

- Anh đi tìm viên biện lý hoàng gia Villefort và đưa ông ta đến đây. Tiện thể, anh đánh thức người gác cổng và bảo hắn đi mời thầy thuốc.

Ali vâng lời và để ông tu sĩ giả ở lại một mình với Caderousse.

- Một nhà phẫu thuật, thưa tu sĩ, một nhà phẫu thuật! Caderousse nói. Tôi chẳng còn sống được lâu nữa đâu, nhưng tôi muốn có thời gian để làm tờ khai về kẻ giết tôi.

- Anh biết hắn à?

- Tôi biết hắn chứ! Vâng, tôi biết hắn, đó là Benedetto.

- Thằng bạn anh à?

- Vâng. Sau khi cho tôi sơ đồ nhà bá tước, chắc hẳn hắn hy vọng tôi sẽ giết bá tước hoặc bá tước sẽ giết tôi và như vậy hắn sẽ gạt bỏ được tôi nên hắn đã đợi tôi ngoài phố và đã ám hại tôi.

- Anh có bằng lòng để tôi viết hộ lời khai của anh không? Rồi anh sẽ ký vào đó.

- Vâng, Caderousse nói, mắt long lanh ý tưởng về cuộc trả thù sau khi chết này. Monte Cristo viết:

"Tôi chết vì bị tên người Corse Benedetto sát hại, hắn là bạn tù cùng xiềng ở nhà lao khổ sai Toulon, số tù 59".

Monte Cristo đưa bút cho Caderousse, hắn tập trung tàn lực để ký rồi vừa ngã xuống giường vừa nói:

- ông sẽ kể phần còn lại, thưa ông tu sĩ. Và hắn sẽ bị chết chém, ông hứa điều đó với tôi chứ?

- Tôi sẽ nói rằng, bá tước nói tiếp, hắn đến sau anh, rằng hắn đã rình anh suốt, rằng khi hắn thấy anh ra, hắn đã chạy lại nấp ở góc tường.

- Vậy ông đã nhìn thấy mọi việc này mà ông không báo cho tôi? Caderousse vừa nói vừa cố chống khuỷu tay nhổm người lên.

- Không, vì trong bàn tay Benedetto ta thấy công lý của Chúa, và ta nghĩ mình sẽ mắc vào tội phạm thánh nếu chống lại ý Chúa.

- Công lý của Chúa! Đừng có nói điều đó với tôi, thưa tu sĩ: nếu có công lý của Chúa thì ông hẳn biết rõ hơn ai hết rằng có những kẻ đáng bị trừng trị mà lại không việc gì..- Nghe đây, tu sĩ nói, làm sao mà ngươi dám đổ tội cho Chúa, ngươi, một kẻ đã phản bội một trong những người bạn tốt nhất của mình?

- Bạn nào? Tôi không hiểu.

- Nhìn ta đây cho kỹ, Monte Cristo vừa nói vừa đưa ngọn nến lại gần mặt mình: ngươi có nhận ra ta không?

Monte Cristo nhấc bỏ bộ tóc giả làm anh biến dạng, để lộ ra mái tóc đen óng ả khuôn lấy gương mặt xanh xám của anh một cách thật hài hòa.

- Ôi! Caderousse kinh hoàng nói, quả thực, có vẻ như tôi đã gặp ông, như tôi đã quen ông trước kia.

- Phải! Caderousse phải, ngươi đã gặp ta, phải, ngươi đã quen ta.

- Nhưng ông là ai vậy? Caderousse vừa nói vừa nhổm người lên.

Bá tước không ngừng theo dõi diễn tiến của cơn hấp hối. Anh hiểu đây là sức sống bật lên lần cuối cùng; anh lại gần kẻ sắp chết.

- Ta là... anh ghé vào tai hắn nói, ta là... và cặp môi anh chỉ hơi hé mở, thì thào một cái tên.

Caderousse đã quỳ trên hai gối nhỏm dậy, dang hai cánh tay, cố lùi lại, rồi chắp hai bàn tay cố hết sức tàn giơ lên cao:

- Ôi lạy Chúa, lạy Chúa, hắn nói, tha thứ cho con!

Và Caderousse nhắm mắt lại, ngã lộn về đàng sau thét lên một tiếng và trút hơi thở cuối cùng.

- Một đứa! - Bá tước nói một cách bí ẩn, mắt trừng trừng nhìn tử thi đã biến dạng đi vì cái chết khủng khiếp này.

Mười phút sau, người thầy thuốc và viên biện lý hoàng gia do người gác cổng và Ali dẫn tới, được tu sĩ Busoni đang cầu nguyện bên xác chết đón tiếp.

Trong suốt mười lăm ngày Paris chỉ xôn xao về vụ trộm bất thành này ở nhà bá tước. Dựa trên tờ khai của người sắp chết, cảnh sát tung toàn bộ nhân viên dò theo dấu vết kẻ sát nhân.

Nhưng ba tuần lễ đã trôi qua mà các cuộc truy tìm ráo riết nhất cũng chẳng đem lại kết quả nào, và trong giới giao tế người ta bắt đầu quên đi vụ trộm bất thành ở nhà bá tước và tên trộm bị kẻ đồng lõa giết hại. Chính bá tước cũng tỏ vẻ mệt mỏi vì những sự kiện này nên họ đồn rằng ông đi du lịch..

BÁ TƯỚC MÔNGTƠ CRIXTÔ
Chương 17: Morcerf

Một buổi sáng, Albert thức dậy vì người hầu phòng vào báo có Beauchamp đến chơi.

Albert mặc quần áo và xuống dưới nhà.

- Sao tôi lại hân hạnh được anh tới thăm thế này?

- Có chuyện gì đó nghiêm trọng, làm tôi sợ quá, Beauchamp nói. Này, đọc đi.

Và anh đưa tờ báo cho Albert đọc, bài báo mang tiêu đề:

"Thư gửi từ Janina:

"Một sự kiện cho đến nay không ai biết, hay ít ra cũng được coi là mới lạ, đã được chúng ta biết đến; các pháo đài bảo vệ thành phố đã bị một sĩ quan Pháp trao cho bọn Thổ Nhĩ Kỳ.

Viên sĩ quan này được tổng trấn Ali-Pacha phó thác trọn niềm tin, kẻ ấy tên là Fernand Mon-dego.

Viên sĩ quan này ngày nay được gọi là ngài bá tước de Morcerf và là thành viên của Viện Nguyên lão".

Trong khi đọc, cặp mắt Albert cứ tối dần, chân anh như muốn khuỵu xuống và chỉ chực ngã, anh tựa vào tường. Rồi anh lắc lắc mái tóc trên cái đầu đẫm mồ hôi và vò nhàu tờ báo:

- Không thể được, anh nói. Và anh, Beauchamp, sao anh có thể cho đăng điều vu khống này?

- ồ lạy Chúa tôi, thật là rất đơn giản; chúng tôi không chạy sau vụ bê bối này mà là nó tìm đến chúng tôi. Hôm qua có một người từ Janina về, đến chỗ chúng tôi mang theo tập hồ sơ dữ dội này. Đây là chứng cớ.

Albert mở tờ giấy ra; đó là một chứng thư của bốn thân sĩ ở Janina, xác nhận rằng viên đại tá Fernand Mondego, đại tá huấn luyện làm việc cho tổng trấn Ali-Pacha đã giao nộp lâu đài Janina để đổi lấy hai ngàn tờ trái phiếu.

Albert lảo đảo và ngã rũ rượi xuống một chiếc ghế bành. Đây không còn là anh ta nữa:

giọng anh lạc hẳn đi, dáng đi loạng choạng như người say rượu.

- Bạn ơi, anh nói với Beauchamp, đời tôi tàn rồi.

Cũng ngày hôm ấy ở Viện Nguyên lão, xảy ra một vụ náo động bao trùm cả những nhóm thường là hết sức ôn hòa của thượng viện. Mọi người đến hầu như trước giờ họp, bàn tán xôn xao về sự kiện quái ác này.

Chỉ có mỗi một mình bá tước de Morcerf là không hay biết gì. Hắn không nhận được tờ báo có đăng cái tin phỉ báng ấy và dành cả buổi sáng để viết thư và để thử ngựa.

Hắn đến thượng viện vào giờ thường lệ, đầu ngẩng cao, mắt kiêu kỳ, dáng đi ngạo nghễ, chẳng chú ý đến sự ngập ngừng của các môn lại và những cái chào nửa vời của các bạn đồng viện.

Toàn thể thượng viện nóng lòng đợi khơi mào cuộc tranh luận, nhưng chưa ai dám nói.

Cuối cùng một trong số các vị nguyên lão danh giá nhất, đối thủ công khai của bá tước, bước lên diễn đàn với vẻ trang trọng báo hiệu rằng thời điểm mong đợi đã đến.

Một sự im lặng đáng sợ hình thành.

Vừa mới nghe tiếng Janina và đại tá Fernand, bá tước de Morcerf đã xanh xám quá chừng, mọi cái nhìn đều đổ dồn vào hắn.

Cuối cùng diễn giả kết luận bằng yêu cầu ra lệnh mở cuộc điều tra. Chủ tịch đưa việc điều tra ra biểu quyết; người ta bỏ phiếu và quyết nghị là cuộc điều tra sẽ được tiến hành.

Người ta hỏi bá tước xem hắn phải có bao nhiêu thời gian để chuẩn bị bào chữa.

Morcerf đã lấy lại can đảm. Cho nên hắn lên tiếng với giọng quả quyết.

- Thưa các vị nguyên lão, không phải là với thời gian mà đẩy lùi được cuộc tấn công do các kẻ thù giấu mặt tiến hành chống lại tôi trong lúc này. Ngay lập tức tôi phải trả lời những lời buộc tội ấy. Vậy tôi yêu cầu, rằng cuộc điều tra được tiến hành càng sớm càng tốt, và tôi sẽ cung cấp cho Viện mọi tài liệu cần thiết để cuộc điều tra này có hiệu quả.

Những lời này gây nên một ấn tượng thuận lợi cho người bị buộc tội. Giờ khai mạc phiên thứ nhất của hội đồng này được ấn định vào bốn giờ chiều.

Giờ họp hội đồng đã đến. Tiếng đồn lan ra như một vệt thuốc súng và toàn Paris ở vào thế chờ đợi sự biến. Nhiều người khẳng định rằng chỉ cần Morcerf xuất hiện là làm sụp đổ lời buộc tội; cũng lại nhiều người nói rằng bá tước sẽ không đến đâu.

Ông de Morcerf bước vào đúng lúc tiếng chuông bốn giờ vừa dứt. Hắn cầm ở tay một số giấy tờ gì đó và thái độ có vẻ điềm tĩnh.

- Xin mời ông trình bày, thưa ông de Mor-cerf.

Ông chủ tịch nói.

Bá tước mở đầu bài biện hộ của mình, hắn nói hùng hồn và khôn khéo lạ thường. Hắn đưa ra những tài liệu chứng tỏ rằng đến giờ phút cuối cùng của mình, tổng trấn Janina vẫn hoàn toàn tin cậy ở hắn, vì ông ta đã giao cho hắn đi tiến hành một cuộc đàm phán sống còn với đích thânvua Thổ Nhĩ Kỳ. Nhưng không may, hắn nói, cuộc đàm phán thất bại, và khi hắn quay lại để bảo vệ ân nhân của mình thì ông đã chết. Nhưng lúc sắp chết, bá tước nói, Ali-Pacha tin hắn đến mức phó thác cho hắn cả vợ và con mình.

Tiếng xì xào tán thưởng lan khắp cử tọa và lúc ấy giá như không xảy ra vụ rắc rối nào thì bá tước de Morcerf đã thắng cuộc.

Đúng lúc ấy một môn lại bước vào trao một lá thư cho ông chủ tịch. ông chủ tịch hờ hững đưa mắt đọc bức thư người ta vừa mang tới; nhưng ngay mấy dòng đầu đã thức tỉnh sự chú ý của ông, ông đọc đi, đọc lại và đăm đắm nhìn ông de Morcerf:

- Thưa các ngài, ông nói, và thưa ngài bá tước, tôi nghĩ rằng các vị sẽ thấy phiền lòng, phải nghe một nhân chứng rất quan trọng theo như người đó xác nhận và người đó sắp đích thân ra mắt. Cho gọi người phụ nữ đang đợi ngoài tiền sảnh vào. ông chủ tịch nói.

- Năm phút sau, người môn lại tái xuất hiện.

Theo sau ông ta là một người đàn bà quấn một tấm sa lớn che kín toàn thân.

Ông chủ tịch yêu cầu người đàn bà lạ mặt gỡ tấm sa của mình ra và mọi người lúc này có thể nhìn rõ người đàn bà trong y phục Hy Lạp, ngoài ra cô ta lại có sắc đẹp siêu phàm. Đó là Haydée.

Ông chủ tịch giơ tay mời thiếu nữ ngồi xuống ghế, nhưng cô lắc đầu ra hiệu là cô vẫn đứng.

Còn ông bá tước thì ngã xuống chiếc ghế bành của mình và hiển nhiên là chân ông không đứng vững được nữa.

- Thưa bà, ông chủ tịch nói, bà là ai, những sự kiện này có tầm quan trọng như thế nào đối với bà?

- Tôi tên là Haydée, con gái của Ali-Pacha và của Vasiliki người vợ yêu dấu của người. Tôi được bốn tuổi thì chính mắt tôi nhìn thấy cha tôi chết. Cha tôi bị con người được đưa ra xét xử trước các ông ngày hôm nay đây phản bội, ấy thế mà hắn đã là viên sĩ quan được cha tôi gửi trọn niềm tin của người. Chẳng bao lâu sau, chúng tôi bị tên sĩ quan này bán đi, cả mẹ tôi và tôi, cho những lái buôn nô lệ ở chợ Constan-tinople.

Để làm chứng cứ cho điều tôi đưa ra trước hội đồng, tôi có mang theo văn tự bán tôi và mẹ tôi.

Hai má bá tước de Morcerf nhợt hẳn đi pha lẫn ánh xanh. Haydée, vẫn điềm tĩnh, trao cho ông chủ tịch văn tự bán người viết bằng tiếng ả Rập.

Người phiên dịch của Viện đọc bản dịch:

"Tôi El-Kobir, lái buôn nô lệ, xác nhận đã nhận của nhà quý tộc Pháp bá tước Monte Cristo một viên ngọc lục bảo trị giá hai ngàn trái phiếu là giá bán một nữ nô lệ trẻ theo.đạo Thiên chúa mười một tuổi mang tên Hay-dée là con gái mà ai cũng biết của nhà quý tộc quá cố Ali-Pacha; người nữ nô lệ này đã được bán cho tôi từ bảy năm nay cùng với người mẹ đã chết lúc đến Constantinople do một đại tá người Pháp làm việc cho tổng trấn Ali-Pacha tên là Fernand Mondego." Tiếp đó là yên lặng khủng khiếp.

- Thưa ngài de Morcerf, ông chủ tịch nói, ngài có nhận ra bà đây là con gái của tổng trấn Janina không?

- Không, Morcerf vừa nói vừa cố gượng đứng lên, và đó là một âm mưu do kẻ thù của tôi chuẩn bị.

Haydée quay phắt lại và nhìn thấy bá tước đang đứng, cô thét lên một tiếng rùng rợn:

- Mi không nhận ra ta sao, cô nói: này, nhưng ta, may thay ta lại nhận ra mi! Mi là Fernand Mondego, sĩ quan Pháp làm nhiệm vụ huấn luyện cho quân đội của người cha cao quý của ta. Chính mi đã giao nộp các pháo đài Janina! Chính mi đã bán chúng ta, mẹ ta và ta, cho gã lái buôn nô lệ El-Kobir! Tên sát nhân! Tên sát nhân! Tên sát nhân! Trán mi còn vấy máu của chủ mi!

Lúc đó, tất cả các thành viên của hội đồng cùng nhìn vào bá tước. Tất cả mọi người đều trông chờ một sự thức tỉnh giống như tiếng sét.

- Như vậy thì, ông chủ tịch hỏi hắn, ngài định thế nào?

- Không định gì cả! Bá tước vừa đứng lên vừa nói với một giọng trầm đục.

Lúc đó bằng một động tác thô bạo, hắn rứt tuột những chiếc khuy của bộ áo cài kín cúc làm hắn nghẹt thở và ra khỏi phòng họp như một kẻ mất trí thảm hại. Lát sau tiếng chân hắn bước vang âm thật bi thảm dưới mái vòm, rồi liền đó là tiếng bánh xe phi nhanh đem hắn đi làm rung cả hàng hiên của tòa nhà kiểu florance này.

- Thưa các ngài, ông chủ tịch nói khi đã trở lại yên tĩnh, ông bá tước de Morcerf có bị kết là bất trung phản bội và hèn hạ hay không?

- Có! Các ủy viên hội đồng điều tra trả lời nhất loạt.

Trong khi bá tước de Morcerf tự bào chữa trước các vị nguyên lão thì Albert đi về phía căn hộ của mẹ anh và vì chẳng có ai ở đó mà báo tin anh tới nên anh đi vào tận phòng của Mercédès.

Mercédès đã sắp xếp mọi thứ có ngăn nắp:

các tấm ren, đồ trang sức, nữ trang, các đồ vải giường, tiền bạc đều được xếp vào các ngăn kéo mà bà bá tước thu thập cẩn thận các chìa khóa.

Albert nhìn mọi việc chuẩn bị này; anh hiểu ra.

- Ta đi đây, Mercédès nói. Ta đã tin, là con trai sẽ theo ta; ta có lầm không con?

- Thưa mẹ, Albert nói quả quyết, con không thể để mẹ phải chia sẻ số phận mà con dành cho.mình: từ nay con cần phải sống không tên tuổi, không tài sản; con còn trẻ, con khỏe mạnh, con tin rằng con dũng cảm; con sẽ gia nhập quân đội và con tự tạo lấy một tên tuổi. Nhưng vì mẹ con ta đã kiên quyết, ta hãy cùng từ bỏ ngôi nhà này mà không để ông de Morcerf nghi ngờ các dự định của chúng ta.

- Ta đợi con, con ạ! Mercédès nói.

Albert lập tức chạy ra phố dẫn về một chiếc xe ngựa thuê để chở họ ra khỏi dinh thự.

Vào lúc chiếc xe dừng lại trước cửa và trong khi Albert xuống xe, một người đàn ông đến gần anh và trao cho anh một lá thư.

Albert nhận ra người quản gia của Monte Cristo.

- Thư của bá tước. Bertuccio nói.

Albert cầm lá thư mở ra và đọc.

Sau khi đọc xong anh đưa mắt tìm Bertuccio nhưng Bertuccio đã lẩn đi trong lúc chàng trai đọc thư. Albert nước mắt lưng tròng, ngực căng đầy xúc động, trở vào phòng Mercédès và không nói một lời đưa cho mẹ bức thư.

Mercédès đọc:

"Albert, Tôi biết mẹ con cậu sắp cùng nhau từ bỏ ngôi nhà ở phố Helder mà không mang theo gì cả. Làm sao tôi biết được điều đó, đừng tìm hiểu làm gì. Tôi biết điều đó: thế thôi.

Xin nghe đây Albert. Hai mươi bốn năm trước, tôi trở về tổ quốc rất mừng vui và rất tự hào. Tôi có một người vợ chưa cưới mà tôi tôn thờ, và tôi đem về cho cô vợ chưa cưới của tôi một trăm năm mươi đồng lu y tôi đã nhọc nhằn thu lượm được nhờ lao động không ngơi nghỉ. Số tiền này có được là vì cô, tôi dành nó cho cô ấy và biết rằng biển cả dễ trở mặt biết bao nên tôi đã chôn kho báu của mình trong khu vườn nhỏ của ngôi nhà cha tôi cư trú ở Marseille, nơi mà mẹ anh biết rõ, Albert ạ.

Như vậy thì Albert, số tiền này xưa kia phải giúp cho cuộc sống và sự yên bình của người đàn bà mà tôi tôn thờ, thì đây ngày nay, do một sự tình cờ kỳ lạ và đau đớn, nó đã tìm lại được đúng công dụng ấy của mình.

Xin đừng từ chối, Albert. Đừng hỏi người khác về điều tôi có quyền tặng anh." Mercédès ngước lên nhìn trời với một biểu hiện khó tả.

- Trái tim ta không lầm. Đúng là anh ấy!

- Mẹ nói gì thế, thưa mẹ?

- Không, Albert. Mercédès vừa nói vừa áp lá thư vào tim mình.

Bà nắm cánh tay con trai và với bước chân rắn rỏi mà có thể là chính bà không ngờ, bà đi theo lối ra cầu thang.

Vừa rời khỏi Viện Nguyên lão, bá tước de Morcerf đi thẳng về nhà bá tước Monte Cristo.

Bá tước vừa viết xong bức thư mà chúng ta đã đọc và trao nó cho ông quản gia.

Bất chợt, cửa mở ra và Baptistin báo:

- Ngài bá tước de Morcerf!

Bá tước nhíu mày.

Viên tướng thả bộ dọc phòng khách đến lần thứ ba, lúc vừa quay lại thì hắn thấy Monte Cristo đứng ngay ngưỡng cửa.

- A! Ra là ông de Morcerf, Monte Cristo điềm tĩnh nói; lý do nào khiến tôi có niềm vui được gặp ông bá tước de Morcerf vào lúc còn quá sớm thế này?

- Tôi đến nói cho ông biết rằng, viên tướng nói mà môi hắn co rút quá chừng khiến hắn phát âm không được rành rọt, tôi coi ông là nguyên nhân làm tôi mất danh dự. Chỉ có một mình ông biết mọi chuyện, vì ông đã mua con gái Ali-Pacha.

Từ nay tôi xem ông như kẻ thù! Vì thế chúng ta hãy quyết đấu. Có phải đó cũng là ý kiến của ông không?

- Hoàn toàn đúng.

- Càng tốt... Như vậy thì chúng ta quyết đấu cho đến khi nào có một người trong hai ta chết.

Viên tướng nói, răng nghiến lại vì điên dại. Đi nào, ta không cần người làm chứng.

- Đúng thế, Monte Cristo nói, thật vô ích vì ta biết nhau quá mà!

- Ngược lại, Morcerf nói, là vì ta không quen biết nhau.

- Quái chưa! Monte Cristo nói vẫn với sự phớt lờ hết chịu nổi, xem tý nào. ông chẳng phải là tên lính Fernand đào ngũ trận Waterloo hôm trước ư? ông không phải là trung úy Fernand làm gián điệp và dẫn đường cho quân Pháp ở Tây Ban Nha ư? ông lại chẳng phải làm đại tá Fernand đã phản bội, đã bán đứng và giết hại ân nhân Ali của mình? Tất cả những thằng Fernand ấy hợp lại có phải là thành Trung tướng, bá tước de Morcerf, vị nguyên lão của nước Pháp đấy không?

- Ôi! Viên tướng kêu lên, những lời này giáng vào người hắn như một thanh sắt nung đỏ, ôi!

Tên khốn nạn, mi bêu riếu ta vào lúc mà có thể là mi sắp giết ta, không, ta không nói là mi không biết ta, ta biết rất rõ, con quỷ kia, là mi đã thâm nhập đêm đen của quá khứ, và mi đã đọc từng trang của cuộc đời ta! Nhưng mi là ai?

Bá tước Monte Cristo tái mặt đi một cách khủng khiếp; ông nhảy phắt sang phòng làm việc kề bên và chưa đầy một giây, ông vứt bỏ cà vạt, áo đuôi tôm và chiếc gilê, ông khoác vào người chiếc áo khoác ngắn của thủy thủ và chụp chiếc.mũ thủy thủ lên đầu để xóa mớ tóc đen dài dưới mũ.

Thế rồi ông trở lại, gườm gườm đáng sợ, mang mối thù khôn nguôi, tay khoanh trước ngực bước lại trước mặt viên tướng trong lúc hắn cảm thấy răng đánh lập cập và hai chân như khuỵu xuống, hắn lùi lại một bước tìm bức tường làm chỗ dựa, cứ thế hắn trượt từ từ ra đến cửa, hắn bước giật lùi qua cửa và để bật ra một tiếng thét sầu thảm, ai oán, xé lòng:

- Edmond Dantès!

Rồi với hơi thở hồng hộc không có chút tính người, hắn qua sân như một người say, ngã vào vòng tay tên hầu phòng của hắn và chỉ phều phào được bằng một giọng rất khó nghe.

- Về dinh! Về dinh!

Nhưng khi cách nhà hắn vài bước, hắn bắt đỗ xe lại và xuống xe. Cửa dinh thự mở toang; một chiếc xe ngựa thuê đậu trong sân; bá tước nhìn chiếc xe thuê với ánh mắt sợ hãi nhưng chẳng dám hỏi ai, rồi hắn lao vào trong dinh của mình.

Có hai người đang xuống thang gác, hắn chỉ kịp lẻn vào phòng làm việc để tránh.

Đó là Mercédès, tựa vào cánh tay con trai, hai mẹ con đang rời bỏ dinh thự. Họ đi ngang sát con người khốn khổ, hắn nấp sau tấm màn cửa bằng gấm, tà áo lụa dài của Mercédès chạm nhẹ vào hắn.

- Can đảm lên mẹ! Albert nói với bà. Đi nào, đi nào, tại nơi đây mẹ con ta chẳng phải ở nhà mình nữa.

Tiếng nói tắt đi, tiếng chân xa dần.

Viên tướng đứng thẳng lên, cố nén tiếng nức nở khủng khiếp nhất chưa bao giờ từng lọt ra khỏi ngực một người cha bị cả vợ và con trai cùng ruồng bỏ...

Rồi hắn nghe thấy tiếng sập cửa sắt của chiếc xe thuê, rồi tiếng người đánh xe, rồi tiếng lăn bánh của cỗ máy nặng nề làm rung kính cửa. Hắn lao vào phòng ngủ của hắn để nhìn lại một lần nữa tất cả những gì hắn đã yêu dấu trên đời; nhưng chiếc xe thuê ra đi mà chẳng hề thấy mái đầu Mercédès hay Albert ló ra ở ô cửa xe.

Cho nên, đúng cái lúc mà những bánh xe làm rung động nền vòm cổng thì một tiếng súng nổ vang và một làn khói ảm đạm lọt qua ô kính cửa sổ phòng ngủ, vừa vỡ tan vì sức mạnh của tiếng nổ..

BÁ TƯỚC MÔNGTƠ CRIXTÔ
Chương 18: Valentine

Ngày hôm sau, vụ tự sát của bá tước de Morcerf trở thành đề tài tranh luận sôi nổi trong phòng cụ Noirtier, giữa Valentine và Maximilien.

Morrel nhìn chằm chằm vào mặt Valentine.

Cô vẫn rất đẹp, nhưng nước da nhợt nhạt của cô lại xuống màu hơi xỉn, cặp mắt cô long lanh một ngọn lửa chói rực hơn bình thường.

- Cô làm sao thế Valentine? Cô ốm à? Morrel sôi nổi hỏi.

- Ôi! Lạy Chúa! Như thế này sao gọi là ốm được: tôi cảm thấy toàn thân khó ở, thế thôi; tôi ăn không biết ngon và hình như dạ dày của tôi phải chịu đựng một cuộc vật lộn để làm quen với cái gì đó.

- Thế cô điều trị cái chứng bệnh không biết rõ này như thế nào?

- ồ! Đơn giản lắm, Valentine nói; tôi uống mỗi sáng một thìa nhỏ thứ thuốc nước mà họ đem đến cho ông nội; khi nói một thìa nhỏ tức là tôi bắt đầu bằng một và bây giờ tôi uống bốn.

Ông nội tôi quả quyết rằng đó là thứ thuốc bách bệnh.

Vừa nói xong cô ngã xuống bất tỉnh.

Morrel nhanh như chớp, nhảy một bước, đưa tay bế thốc cô lên và đặt cô ngồi vào chiếc ghế bành. Rồi chàng trai vội giật chuông; những người hầu chạy vào. Vừa thấy Valentine, họ sợ hãi, lao cả ra ngoài hành lang kêu cứu.

Villefort chạy xổ vào phòng, đến chỗ Valen-tine và ôm lấy con.

- Gọi thầy thuốc! Thầy thuốc!... ông d'Avrigny! Villefort kêu lên. Hoặc là chính ta đi mời còn nhanh hơn.

Và hắn lao ra khỏi căn hộ. Morrel phóng ra ở một cửa khác.

Anh sực nhớ lại câu chuyện giữa Villefort và ông bác sĩ mà anh nghe được đêm hôm bà de Saint-Méran chết. Phải tìm sự giúp đỡ, phải cấp cứu... Và anh nghĩ đến Monte Cristo. Bá tước đang ở trong phòng làm việc. Nghe báo danh Morrel, ông ngẩng đầu lên.

- Có chuyện gì vậy, Maximilien? Bá tước hỏi.

Trông anh thật nhợt nhạt và trán anh đang vã mồ hôi.

Morrel ngã xuống chiếc ghế bành đúng hơn là ngồi..- Vâng, anh nói. Tôi cần ông, nghĩa là tôi cứ tin như một kẻ mất trí rằng ông có thể cứu giúp trong hoàn cảnh mà chỉ có Chúa mới cứu tôi được.

- Nói tiếp đi, Monte Cristo nói.

- ông biết rõ những bất hạnh giáng xuống gia đình Villefort. Cái chết đã giáng xuống hai lần với sự mau lẹ phi thường. Mà này, tôi chợt nghe được một cuộc trò chuyện giữa ông de Villefort và bác sĩ gia đình, ông d'Avrigny. ông này cả quyết rằng cái chết này không tự nhiên chút nào và phải quy kết cho...

- Cho cái gì?

- Cho thuốc độc.

Monte Cristo nghe với vẻ cực kỳ điềm tĩnh.

- Anh bạn thân mến, Monte Cristo nói, tôi không thấy trong đó có vấn đề gây băn khoăn làm anh khó ngủ.

- Vâng, dĩ nhiên, nhưng thần chết lại hoành hành một lần nữa.

- Thế là sẽ đến lượt cụ Noirtier hay cô thiếu nữ Valentine. Mà tôi bảo anh này: có gì là quan trọng với tôi?

Vẻ đau khổ kinh khủng hiện lên nét mặt Morrel, anh nắm lấy tay Monte Cristo.

- Nhưng tôi, Morrel vừa kêu vừa rú lên đau đớn, tôi lại yêu cô ấy!

- Anh yêu ai? Monte Cristo thét.

- Tôi yêu đắm đuối cô Valentine de Villefort mà lúc này đang bị người ta ám hại, ông hãy nghe cho rõ! Tôi yêu cô và tôi xin thượng đế, xin ông cho biết tôi làm thế nào để cứu được cô ấy.

Monte Cristo thét lên một tiếng man dại:

- Khổ quá! Anh vừa thét lên vừa xoắn hai bàn tay vào nhau.

Morrel chưa từng bao giờ nhìn thấy một biểu hiện tương tự như vậy.

- Nào nào, bá tước nói tiếp, than thở như vậy đủ rồi, hãy xử sự như một người đàn ông, hãy cứng rắn lên, hãy hy vọng tràn đầy, bởi vì có tôi ở đây, bởi vì tôi sẽ quan tâm theo dõi đến anh. Maximilien, hãy yên tâm về nhà đi, tôi sẽ báo tin cho anh, đi đi. Tôi cần ở một mình.

Trong khi đó Villefort và d'Avrigny rất vội vàng. Lúc họ về, Valentine vẫn còn bất tỉnh, và người thầy thuốc đã thăm khám cho bệnh nhân rất cẩn thận.

- Cháu còn sống chứ?

- Vâng, thầy thuốc nói, và tôi rất ngạc nhiên về điều đó.

Vừa lúc đó cái nhìn của d'Avrigny bắt gặp ánh mắt cụ Noirtier; ánh mắt ấy lấp lánh một niềm vui hết sức lạ thường làm cho người thầy thuốc phải kinh ngạc..Họ đưa Valentine đi, cô đã hồi tỉnh. ông d'Avrigny đi theo người bệnh và ra lệnh cho Villefort phải đích thân đến nhà dược sĩ.

Khi Villefort vừa mới khép cửa lại, d'Avrigny lại gần cụ Noirtier.

- Nào, ông nói, cụ có biết gì về bệnh tật của cháu gái cụ không?

- Có, cụ già ra hiệu.

- Vậy cô ấy cũng sẽ chết ư? d'Avrigny hỏi.

- Không. Cụ già trả lời ngạo nghễ.

- Như vậy là cụ hy vọng thuốc độc sẽ không có hiệu lực với Valentine?

- Phải.

Cụ Noirtier hướng cặp mắt nhìn trừng trừng vào cái chai đựng thứ thuốc nước mà sáng nào người ta cũng đem đến cho cụ.

- A! A! d'Avrigny nói, được một ý tưởng bất chợt soi sáng, cụ có ý định phòng ngừa cho cô ấy chống lại thuốc độc hay sao?

- Phải.

- Bằng cách cho cháu cụ làm quen dần với nó?

- Phải, phải, phải, cụ Noirtier ra hiệu, vui sướng vì được người ta hiểu mình.

- Và thực tế là cụ đã đạt được điều đó! -d'Avrigny reo lên. Nếu không được đề phòng như vậy thì hôm nay Valentine đã bị giết chết rồi.

Chấn động tuy nguy kịch nhưng ít ra lần này Valentine cũng không chết.

Lúc đó Villefort về mang theo các thứ thuốc mà thầy thuốc yêu cầu.

Vào lúc d'Avrigny vào phòng Valentine thì một thầy tu người ý dáng đi nghiêm trang, giọng nói điềm tĩnh và quả quyết, hỏi thuê căn nhà phụ của dinh thự de Villefort làm chỗ ở. Người thuê nhà mới ấy là ngài Giacomo Busoni.

Ngay buổi sáng hôm ấy vào hồi mười giờ, nam tước Danglars dạo bước trong phòng khách, đầy ưu tư và rõ ràng là lo lắng. Eugénie Danglars vừa thức dậy đã đòi gặp mặt cha mình, điều đó không khỏi làm nam tước phải ngạc nhiên.

Eugénie xuất hiện, mặc một áo váy dài bằng satin đen có dệt hoa mờ cùng màu.

- Này Eugénie, có chuyện gì vậy? Người cha hỏi.

- Cha hãy tự hỏi tại sao con đòi được gặp cha lúc này, con xin nói cho cha rõ bằng vài lời thôi, thưa cha, đó là: con không muốn lấy ông Andrea Cavalcanti.

Danglars nhảy bật lên trên ghế bành và trong cơn choáng váng, hắn vừa ngước mắt vừa giơ tay lên trời.

- Nhưng rốt cuộc là vì lý do gì chứ, Eugénie?

- Lý do ư, cô thiếu nữ đối đáp lại, ôi! Lạy Chúa! Tuyệt nhiên không phải là vì người đàn.ông này xấu hơn, ngố hơn, hay khó chịu hơn người khác, không phải. Thực ra là vì con không muốn dứt khoát yêu một ai. Vậy vì sao con lại làm cuộc đời con vướng víu vì một bạn đời vĩnh viễn, khi không có gì là khẩn thiết. Con sẵn lòng sống hoàn toàn đơn lẻ và do đấy mà hoàn toàn tự do.

- Con gái ta ơi, ta có thể hiểu những tình cảm khiến con hành động như vậy. Bây giờ chính là cha phải nói cho con rõ những động cơ nào làm cho một người cha như ta quyết định gả chồng cho con.

- Hay quá! Eugénie nói; chúng ta hãy nói thẳng, thưa cha, con thích thế.

- Cha đã trù liệu cho con một tấm chồng, không phải vì con đâu, vì thực ra là ta chẳng hề nghĩ đến con một chút nào trong lúc này, nhưng vì cha cần đến việc con lấy người chồng ấy để thiết lập một số liên kết thương mại trong lúc này.

Eugénie phác một cử chỉ.

- Hẳn là con không biết rằng ta vừa bị một vài thất bại trên thương trường và tình cảnh hãng của ta nếu không nhận được nguồn đầu tư vốn sẽ cực kỳ nguy kịch. Nói cho rõ hơn là: nếu không có mối quan hệ thông gia này, ta sẽ lụn bại.

- à ra thế! - Eugénie nói.

- Đúng, lụn bại! Bây giờ con gái ạ, nếu ông Cavalcanti lấy con, ông ta sẽ mang đến cho con một tài sản là ba triệu đặt ở nhà ngân hàng của ta.

- à! Quá tốt, Eugénie vừa nói với sự khinh bỉ tột bậc vừa miết hai chiếc găng tay vào nhau.

- Và ta, với ba triệu ấy, chẳng hề động đến chúng, ta cũng làm ra ít nhất mười triệu. Ta đã được nhận với một chủ nhà băng, đồng nghiệp của ta, sự chuyển nhượng một con đường sắt là ngành công nghiệp duy nhất trong thời đại, chúng ta mở ra những cơ may không thể tưởng tượng nổi để thu được thành tựu tức thời. Ba triệu, tín nhiệm của ta sẽ được củng cố, và tài sản của ta, từ một vài tháng nay cứ trôi tuột vào những vực thẳm được đào khoét dưới mỗi bước chân ta do một tai ương không sao hiểu nổi, sẽ được hồi phục lại. Con hiểu ta chứ?

- Hoàn toàn rõ. Nhưng trong khi đòi hỏi chữ ký của con thì phải chăng là cha để tự do tuyệt đối cho cá nhân con?

- Tuyệt đối.

- Như vậy thì được lắm, thưa cha, con sẵn sàng lấy ông Cavalcanti.

- Thế thì đến lượt ta, chính là ta nói với con:

được lắm!

Ba ngày sau, lễ ký hôn ước đã thu hút cả một cử tọa đông đúc sực nức nước hoa đến phòng khách lớn nhà Danglars, vào tám giờ rưỡi tối..Cô Eugénie trang phục với sự giản dị tao nhã nhất: một chiếc áo dài trắng dệt hoa trắng, một bông hồng bạch thấp thoáng trên mái tóc đen huyền của cô, hợp thành toàn vẹn bộ đồ trang sức của cô mà chẳng cần thêu lấy một món đồ trang sức nào dù là nhỏ nhất.

Cứ một lát lại thấy giữa cái đám hỗn độn này, giữa những tiếng rì rầm, những tiếng cười, nổi lên tiếng người nhân viên đón khách xướng lên một tên tuổi được biết tiếng trong giới tài chính, được kính trọng trong quân đội hay lẫy lừng trong làng văn.

Đúng lúc chuông điểm chín giờ, bá tước Monte Cristo xuất hiện, thu hút về phía mình mọi cái nhìn của cử tọa.

Lúc đó các ông công chứng bước vào. Mọi người sửa soạn lễ tuyên đọc hôn ước. Ai nấy ngồi vào chỗ.

Hôn ước được đọc trong im lặng tuyệt đối.

Nhưng vừa tuyên đọc xong, tiếng xì xào lại bắt đầu nổi lên trong phòng khách còn tăng gấp bội so với lúc trước; những món tiền huy hoàng ấy, những bạc triệu lăn trong tương lai đôi trẻ lanh canh vang lên toàn bộ uy thế của chúng trong cái đám cử tọa ghen ăn tức ở này.

Andrea bị xiết chặt trong vòng vây bạn bè, được chúc tụng, được nịnh bợ bắt đầu tin rằng giấc mơ của mình đang thành hiện thực, Andrea sắp phát cuồng.

Công chứng viên trịnh trọng cầm bút và nói:

- Thưa các ngài, sắp đến lúc ký hôn ước.

Nam tước phải ký đầu tiên; hắn cầm bút và ký. Bà nam tước vịn tay bà Villefort lại gần.

- Mình ạ, bà vừa nói vừa cầm lấy bút, có phải là một việc khó chịu không? Một sự cố bất ngờ trong cái vụ ám sát và vụ trộm mà bá tước suýt nữa thành nạn nhân khiến chúng ta không có được ông Villefort tham dự.

- Lạy Chúa! Monte Cristo vừa nói vừa lại gần, tôi rất ngại rằng mình là nguyên nhân không cố ý của sự vắng mặt này. Các ngài có nhớ rằng, ông nói tiếp trong không khí im lặng như tờ, chính ở nhà tôi mà con người khốn khổ đến ăn trộm của tôi bị chết vì hắn vừa ra khỏi nhà tôi thì bị tên đồng lõa sát hại không?

- Có. Danglars nói.

- Để cấp cứu cho hắn người ta đã cởi quần áo hắn. Cảnh sát đã thu thập quần áo của hắn, nhưng khi đem áo quần vào giao cho phòng lục sự thì lại bỏ sót chiếc áo gilê.

Andrea tái mặt đi trông thấy.

- Này, chiếc gilê khốn khổ ấy hôm nay người ta tìm thấy nó thấm đầy máu và người hầu phòng của tôi, khi lục soát cẩn thận cái di vật tang tóc ấy, đã thấy có tờ giấy trong túi và rút ra: đó là.một lá thư gửi cho ai nhỉ? Cho ông đấy, nam tước ạ.

- Gửi cho tôi? - Danglars kêu lên.

- ồ! Lạy Chúa! Vâng, gửi cho ông đấy. Tên ông có thể đọc được dù vết máu đã làm hÂn ố mảnh giấy, Monte Cristo trả lời. Tôi đã gửi tất cả cho ông biện lý hoàng gia. ông hiểu đấy, ông nam tước thân mến, tiếng nói pháp luật là xác thực nhất trong lĩnh vực tội phạm: có thể là mưu mô gì đó chống lại ông đấy.

- Có thể lắm, Danglars nói; người bị ám sát ấy phải chăng là một cựu tù khổ sai?

- Phải, bá tước trả lời, một cựu tù khổ sai tên là Caderousse.

Danglars hơi tái mặt.

- Nhưng ký đi chứ, ký đi chứ! Monte Cristo nói. Tôi thấy rằng câu chuyện của tôi làm tất cả mọi người xôn xao náo động và tôi cúi xin các vị tha thứ cho.

- Thưa hoàng thân Cavalcanti, ông công chứng nói, đến lượt ngài ký!

Andrea nắm lấy bút. Nhưng cùng lúc ấy, đám đông người dự lễ ùa trở lại phòng khách, vẻ sợ hãi, cứ như là một quái vật gớm ghiếc vừa lọt vào trong các phòng.

Trong khoảnh khắc, Andrea bị hai người cảnh sát vây quanh và giải đi trong sự sững sờ của cử tọa.

- Nhưng mà chàng trai này đã làm gì chứ?

Danglars hỏi gần như thất thần.

- Hắn là một cựu tù nhân khổ sai vượt khỏi nhà lao Toulon, viên cẩm nói bằng giọng thản nhiên. Hắn can tội sát hại kẻ tên là Caderousse, người bạn cũ chung xiềng với hắn, vào lúc tên này vừa ra khỏi nhà bá tước Monte Cristo.

Trong chốc lát, tòa dinh thự rộng lớn trở nên rỗng không nhanh như là được báo tin có ai đó trong số khách mời phát bệnh dịch hạch:

mọi người vội vã rút lui hay đúng hơn là chạy trốn qua tất cả các cửa, tất cả các cầu thang, tất cả các lối ra.

Chỉ còn sót lại trong dinh thự của ông chủ ngân hàng có mỗi một mình Danglars, đang giam mình trong phòng làm việc để viết tờ khai nhân chứng có sĩ quan cảnh binh giám sát. Bà Danglars sợ run trong phòng khách riêng mà ta đã biết, còn Eugénie có cặp mắt kiêu kỳ và đôi môi khinh mạn, đã rút lui về phòng riêng với người bạn gái bất ly thân là cô Louise Armilly.

Về đến phòng, Eugénie khóa trái cửa lại, trong khi đó Louise ngã xuống chiếc ghế tựa.

- Ôi! Lạy Chúa, lạy Chúa tôi! Có ai mà ngờ được chuyện này? ông Andrea Cavalcanti lại là một tên sát nhân, một kẻ vượt ngục... một tên tù khổ sai!

- Mọi người đàn ông đều là những tên bỉ ổi và tôi khinh bỉ chúng. Eugénie nói..- Chúng ta biết làm gì đây? - Louise hỏi.

- Điều ta phải làm trong vòng ba ngày là: ra đi. Bạn có hộ chiếu của chúng ta đấy chứ?

- Chúng đây.

- Thật tuyệt vời! Cậu kiếm được hộ chiếu này là nhờ ai thế?

- Nhân dịp đến hỏi ông Monte Cristo về những lá thư gửi cho các giám đốc nhà hát ở Rome và ở Naples, ông ta nhận kiếm giúp tôi hộ chiếu.

- Như vậy thì, Eugénie vui vẻ nói, ta chỉ còn việc sửa soạn hòm xiểng nữa mà thôi.

Rồi hai cô thiếu nữ bắt đầu hăng hái lạ thường chất vào một chiếc hòm mọi thứ đồ dùng du lịch mà họ cho là cần thiết.

- Đấy, Eugénie nói, bây giờ thì lên đường sang Italia.

Thế rồi sau khi tắt đèn, hai kẻ chạy trốn rời dinh thự bằng cầu thang phụ.

Ông Danglars mất đứt cô con gái.

Trong khi cả Paris bị náo động vì những sự kiện này thì Valentine từ từ hồi phục. Rã rời vì mệt, cô nằm bẹp trên giường.

Buổi tối cái hôm Valentine biết tin Eugénie bỏ trốn và Benedetto bị bắt, vào lúc mà cô bắt đầu thiu thiu ngủ, một cảnh tượng bất ngờ diễn ra trong căn phòng đóng khóa rất cẩn thận này.

Người trông nom cô đã lui ra được gần mười phút.

Bất chợt, dưới ánh phản quang yếu ớt của chiếc đèn ngủ, Valentine tưởng nhìn thấy cái giá sách của cô kê cạnh lò sưởi trong một hốc lõm vào tường tự nhiên mở ra từ từ giống như nó quay trên những chiếc bản lề không phát ra một tiếng động nhỏ nào.

Sau cửa ló ra một mặt người.

- Ngài bá tước Monte Cristo! - Cô thì thào.

- Xin đừng sợ, ông nói. Tôi che chở cho cô, tôi gìn giữ cô cho anh bạn Maximilien của chúng ta. Từ bốn đêm nay tôi không chợp mắt để canh chừng cho cô. Từ bốn đêm nay tôi nhìn thấy thuốc độc chết người rót vào cốc của cô mà chỉ lo cô có đủ thì giờ uống nó mất trước khi tôi kịp đổ nó vào lò sưởi.

- Thưa ông, cô nói tiếp lòng đầy sợ hãi đến tột cùng, ông nói rằng đã nhìn thấy người ta rót thuốc độc giết người vào cốc của tôi? Nhưng nếu ông đã thấy thuốc độc được rót vào cốc, hẳn là ông phải thấy người làm việc đó? Đó là ai thế?

- Cô sắp biết kẻ đó, Monte Cristo nói, tối nay cô không sốt cũng không mê sảng. Hãy tập trung toàn lực, hãy giả vờ ngủ, và cô sẽ thấy, cô sẽ thấy!

Valentine nắm lấy tay bá tước.

- Hình như tôi nghe có tiếng động, cô nói, ông lui ra đi!.Valentine còn lại một mình, vài phút sau, hình như cô nghe thấy cót két tiếng ván sàn. Cô lắng tai nghe, cố nén đến gần nghẹt thở, tay nắm của ổ khóa rít lên và cánh cửa mở ra.

Valentine thu hết sức lực và cố tạo ra tiếng thở đều đặn khe khẽ biểu lộ một giấc ngủ êm đềm.

Rồi, Valentine nghe thấy tiếng động gần như không nghe rõ được của một thứ nước rót vào trong cốc nước mà cô vừa dốc cạn.

Thế rồi cô liền hé cặp mi được cánh tay dang ra che chắn.

Cô thấy một người đàn bà mặc chiếc áo choàng trắng đang rót vào cốc của cô một thứ nước chế sẵn đựng trong chiếc lọ thủy tinh. Đó là bà de Villefort.

Nhận ra người mẹ kế, Valentine thốt rùng mình, khó khăn lắm mới gọi là kìm được.

Bà de Villefort đã dốc hết nước trong lọ vào cốc của Valentine. Rồi mụ lui ra mà không một tiếng động nhỏ nào có thể báo cho Valentine biết mụ đã đi rồi.

Cánh cửa vẫn cứ im lìm, lại quay một lần nữa trên các bản lề và bá tước Monte Cristo bước vào.

- Như vậy thì cô không còn nghi ngờ gì nữa chứ? Cô đã nhận ra chưa? - Bá tước hỏi.

Valentine thốt ra một tiếng rên.

- Vâng, cô nói, nhưng tôi không sao tin được điều đó. Tại sao bà ta đeo đuổi tôi như vậy?

- Tại cô giàu có, Valentine ạ; cô có hai trăm ngàn frăng thu nhập và với hai trăm ngàn frăng ấy, cô đã lấy mất phần của con trai mụ.

- Sao lại thế? Tài sản của tôi không phải của bà ấy mà do ông bà tôi để lại.

- Dĩ nhiên, và đó là lý do tại sao ông và bà de Saint-Méran đều mất cả, đó là để cho cô được thừa kế các cụ. Đó cũng lại là lý do để đến lượt cô phải chết Valentine ạ; làm thế là nhằm cho cha cô thừa kế của cô và nhằm để cho em trai cô, trở thành con một, được thừa kế của cha cô.

- ồ! Thưa ông tôi rõ rồi, nếu chuyện là như thế, thì tôi buộc phải chết.

- Không, Valentine, cô sẽ sống, Valentine ạ, nhưng để sống được, thì cô phải hết sức tin tưởng ở tôi.

- ông ra lệnh cho tôi đi, thưa ông, tôi phải làm gì?

- Phải nhắm mắt mà uống những gì tôi đưa cho cô.

Lúc đó bá tước lấy một viên thuốc tròn to độ bằng hạt đậu trong một cái hộp đựng kẹo bằng ngọc lục bảo và đưa cho Valentine, cô nuốt ngay.

- Và bây giờ tạm biệt con ta, ông nói, ta đi ngủ đây vì cô đã được cứu thoát. Monte Cristo nhìn đăm đăm một lúc lâu cô thiếu nữ đang dần dần ngủ thiếp đi, vì khuất phục trước sức mạnh của loại thuốc ngủ mà bá tước vừa cho cô uống rồi quay lại cái cửa giá sách và mất hút.

Lúc đó cửa phòng lại mở ra và bà de Villefort bước vào để xem hiệu quả của thuốc độc.

Mụ cầm lấy chiếc cốc đem đi đổ vào tro, trộn đều cho chất nước dễ ngấm rồi cọ rửa chiếc cốc pha lê thật kỹ, lau khô bằng chính cái khăn tay của mụ rồi đặt nó vào chỗ cũ trên chiếc bàn đầu giường.

Cuối cùng mụ nhìn Valentine.

Cô gái không còn thở nữa, hai hàm răng hơi hé mở không còn để lọt ra một tí hơi thở nào để tỏ ra còn sống. Đối với bà de Villefort thì chẳng còn phải nghi ngờ gì: tất cả đã xong xuôi.

Trời còn tối chừng hai giờ nữa. Rồi dần dần một thứ ánh sáng ban ngày nhợt nhạt tràn khắp căn hộ; đó là lúc người coi bệnh nhân vào phòng Valentine, tay cầm một cái chén.

Lập tức chị ta nhận thấy đôi môi lạnh ngắt và bộ ngực giá băng ấy. Chị ta thét lên một tiếng rùng rợn. Rồi chạy ra cửa:

- Cấp cứu! Cấp cứu! Chị ta kêu.

Những tiếng kêu đến tai Villefort và bác sĩ d'Avrigny đang thăm bệnh thường nhật cho cụ Noirtier. Họ lao vào phòng.

- Con tôi làm sao thế, Chúa ơi! - Villefort vừa kêu vừa giơ hai tay lên trời. Bác sĩ!... Bác sĩ!...

- Valentine đã chết! - d'Avrigny trả lời với một giọng trang nghiêm và khủng khiếp.

Ông de Villefort gục xuống như chân bị gãy và ngã đập đầu vào giường Valentine.

Lúc đó bà de Villefort xuất hiện ở ngưỡng cửa, với vẻ dò hỏi và cố rặn ra vài giọt nước mắt khó bảo.

Bất thình lình mụ ta bước lên hay đúng hơn là nhảy lên phía trước: mụ vừa thấy d'Avrigny tò mò cúi nhìn chiếc bàn, và cấm lấy cái cốc mà mụ chắc chắn đã đổ hết đi lúc đêm.

Cái cốc đầy đến một phần ba, đúng như lúc nó được đem đổ đi. Cũng vẫn là một thứ thuốc nước ấy.

- A! ông lẩm bẩm, giờ đây không phải tinh chất mã tiền nữa.

Bà de Villefort choáng váng mất một lát, cặp mắt nảy lửa, rồi tắt lịm, mụ lảo đảo giơ tay loạng choạng tìm cánh cửa rồi bỏ đi.

Mặt viên biện lý hoàng gia tái mét, những vệt rộng màu gỉ sắt vạch ngang trán hắn.

- Thưa ông, hắn nói với bác sĩ bằng một giọng tắc nghẹn, tôi đã hiểu, tôi biết hung thủ và tôi khao khát trả thù cũng như ông. Tôi yêu.cầu ông đừng nói lộ ra trong ba ngày nữa. Và trong ba ngày cuộc trả thù cho cái chết của con tôi sẽ làm rung động đến tận đáy con tim của cả những người vô tình nhất.

Vừa nói những lời này, hắn vừa nghiến răng kèn kẹt.

D'Avrigny ngoảnh đi và thì thào một tiếng vâng thật khẽ.

- Tìm thầy tu, Villefort nói, đến mời người gần nhất.

- Người gần nhất, thầy thuốc nói, là một tu sĩ nhân hậu người ý vừa đến ở ngôi nhà cạnh đây. ông có vui lòng để tôi báo trước cho ông ta lúc đi ngang qua không?

D'Avrigny quay lại đưa theo nhà tu hành, dẫn ông ta vào tận phòng Valentine.

Tu sĩ bắt đầu cầu kinh và chắc hẳn là để tránh bị quấy rầy trong khi cầu nguyện, lúc ông d'Avrigny vừa ra khỏi phòng ông liền đi đóng không những các chốt cửa nơi bác sĩ vừa đi ra mà còn cài then cả cửa thông sang phòng bà de Villefort.

BÁ TƯỚC MÔNGTƠ CRIXTÔ
Chương 19: Villefort

Hôm sau trời sáng muộn và đầy mây.

Đám tang Valentine cử hành vào hồi mười một giờ và trước khi diễn ra cái nghi lễ tang tóc này, bá tước Monte Cristo đến dinh thự Dan-glars.

Ông chủ nhà băng đến trước mặt anh vẻ mặt rầu rầu, nhưng nhã nhặn.

- ông cho phép chứ? Hắn nói. Lúc ông vào tôi đang làm dở năm chi phiếu; ông có vui lòng cho phép tôi được làm nốt không?

- Cứ làm đi, nam tước thân mến, cứ làm đi!

Một quãng im lặng, thậm chí nghe thấy cả tiếng ngòi bút sột soạt của ông chủ ngân hàng.

- Này, thưa bá tước, hắn nói tiếp, ông là người làm chúa tể ngành tài chính, ông đã từng thấy nhiều mảnh giấy cỡ như thế này mà mệnh giá đến một triệu hay không?.Monte Cristo cầm lên tay, như để cân nhắc nặng nhẹ, năm mảnh giấy mà Danglars hãnh diện kh với anh, và đọc:

"Xin ông Quản đốc ngân hàng vui lòng chi theo lệnh tôi, tính từ số vốn tôi gửi giữ, số tiền là một triệu bằng tiền mặt. Nam tước Danglars." - Năm triệu! Monte Cristo nói, ái chà! ông mạnh tay thật, thưa nam tước.

- Tôi đây, tôi tiến hành kinh doanh như thế đấy. Danglars nói.

- Quả thật, Monte Cristo vừa nói vừa gấp năm tờ chi phiếu, thật là vừa khéo: tín dụng của tôi ở chỗ ông là sáu triệu, tôi đã lấy một triệu, vậy là ông còn thiếu tôi năm triệu. Tôi lấy năm mảnh giấy này làm trái phiếu mà chỉ cần thấy chữ ký của ông thôi, và đây là biên lai chung cho cả sáu triệu để hợp thức bản kết toán của chúng ta.

Rồi một tay nhét năm tờ chi phiếu vào túi còn tay kia anh chìa biên lai cho chủ ngân hàng.

Hắn bị đè bẹp bởi một nỗi sợ hãi còn ghê gớm hơn cả sét đánh xuống chân hắn.

- Sao! Hắn ấp úng, thưa bá tước, ông lấy số tiền này? Nhưng đó là tiền mà tôi phải trả cho nhà tế bần chiều nay.

- A! Monte Cristo nói, thế thì lại khác. Tôi chẳng thiết lấy đúng năm chi phiếu này, nhưng hãy trả cho tôi bằng những trị giá khác; chẳng qua là vì hiếu kỳ mà tôi cầm những tờ phiếu này thôi để rồi có thể tuyên bố khắp thiên hạ rằng hãng Danglars chẳng yêu cầu tôi hoãn cho năm phút mà đã chi trả cho tôi năm triệu tiền mặt!

Cái đó mới thật đáng nể!

- Xin miễn thứ, thưa bá tước, Danglars bị chọc tức bèn xin lỗi. ông cứ lấy những chi phiếu ấy đi, tôi sẽ ký những chi phiếu khác.

- Tôi miễn thứ cho ông, Monte Cristo trả lời, và tôi xin nhận.

Ông bỏ các chi phiếu vào ví rồi thong thả bước ra cửa, lên xe và ra lệnh lập tức đến ngân hàng.

Còn lại một mình, nam tước Danglars đóng cửa quay hai vòng chìa khóa, dốc hết mọi ngăn két, thu thập được độ năm chục ngàn frăng tiền giấy, đốt một số giấy tờ, bày các giấy tờ khác ở nơi nhìn rõ, và bắt đầu viết một lá thư. Lá thư này gửi cho bà Danglars, được viết như sau:

"Khi bà nhận được lá thư này, tôi đang trên đường đi khỏi nước Pháp.

Tôi có nghĩa vụ giải thích cho bà, vậy hãy nghe đây:

Sáng nay bỗng nhiên phải chi trả năm triệu tôi đã thanh toán xong, lại tiếp đến một khoản nữa cùng số tiền đó phải trả chiều nay; tôi không thể đảm trách nổi việc đó. Vì vậy, tôi ra đi để tránh phải chịu đựng những điều quá ư rầy rà..Người chồng rất tận tụy của bà. Nam tước Danglars." Hắn đóng dấu vào lá thư và đem đặt vào phòng vợ hắn. Rồi hắn kiểm tra lại hộ chiếu của mình xem có còn giá trị không.

Thời tiết u ám và đầy mây, lại thêm một làn gió ấm nữa nhưng đã làm khô héo những chiếc lá úa vàng, bứt chúng ra khỏi cành đang trơ trụi dần, làm cho chúng quay cuồng trên đám đông đang tràn ngập khắp phố phường.

Đám tang từ từ đi về phía nghĩa địa Père Lachaise. Hơn năm chục chiếc xe sang trọng theo sau hai chục xe có băng tang và, sau năm chục xe sang trọng ấy lại còn trên năm trăm người.

Ra khỏi Paris thì thấy một cỗ xe phóng nhanh tới, bốn con ngựa kéo xe đột ngột dừng lại nhờ căng cứng các khuỷu vó gân guốc như những lò so thép: đó là ông Monte Cristo. Bá tước từ trên xe bước xuống đi lẫn vào đám đông đang chậm bước theo xe chỗ linh cữu.

Château-Renaud nhìn thấy ông. Anh ta cũng lập tức xuống xe đi bộ để gặp bá tước.

Beauchamp cũng rời khỏi chiếc xe độc mã đang ngồi.

- Morrel đâu? - Bá tước hỏi.

- Chúng tôi thấy anh ta ở đàng kia.

Đúng thế, Morrel đứng ở đàng xa, dưới bóng cây. Vẻ điềm tĩnh và sự bất động của anh tạo ra một cảnh tượng đáng sợ cho kẻ nào đọc được những gì đang diễn ra trong lòng chàng sĩ quan trẻ. Rồi cuối cùng anh cũng hồi phục được và trở lại con đường về Paris mà không ngoái cổ lại lấy một lần.

Bá tước cho xe đậu ở Père Lachaise, quay về, rồi đi theo sau anh ta cách một trăm bước. Maxi-milien vượt qua kênh và quay về phố Meslay qua các con phố lớn.

Năm phút sau khi cánh cửa khép lại sau lưng Morrel, thì cửa lại mở ra cho Monte Cristo.

Julie đang ở lối ra vườn.

- A! ông bá tước! - Cô reo lên.

- Xin lỗi, thưa bà, tôi phải lên phòng Maxi-milien ngay lập tức; tôi có vài điều cực kỳ quan trọng, cần nói với anh ta.

- Vậy ông đi đi, cô nói và tiễn ông bằng nụ cười khả ái.

Monte Crixto mau chóng vượt qua hai tầng gác ngăn cách tầng trệt với căn hộ của Maxi-milien, vừa lên đến thềm ông đã gọi anh ta.

Maximilien vừa miễn cưỡng mở cửa vừa cố che giấu việc mình đang làm. Nhưng bá tước ra sức hối thúc anh đến mức anh buộc phải để bá tước lách vào..- Anh đang làm cái trò gì với những khẩu súng lục để trên bàn vậy? Morrel, anh muốn tự sát à!

- Vâng, Morrel kêu lên, khi chuyện ấy xảy ra, khi tôi quyết định tự sát thì ai cản được tôi nào?

- Tôi, Morrel ạ, Monte Crixto nói với giọng điềm tĩnh tương phản đến kỳ lạ với vẻ kích động của chàng trai. Phải, tôi, tôi sẽ có cái can đảm ấy.

- ông! Morrel thét lên với thái độ mỗi lúc một thêm tức giận và trách móc, ông là người đã lừa tôi bằng một hy vọng phi lý; ông là người đã kiềm chế tôi, vỗ về, ru ngủ tôi bằng những lời hứa hão huyền, ông đã đóng vai hay giả bộ đóng vai Thượng đế mà lại không thể cho được thuốc giải độc cho một thiếu nữ bị đầu độc!

Monte Crixto nhột nhạt như một hồn ma, nhưng cặp mắt lấp loáng ánh chớp, đặt tay lên những khẩu súng:

- Và tôi nhắc lại rằng anh không được tự sát!

- Nhưng rốt cuộc ông là cái thá gì mà lại dám khoác cho mình cái quyền của bạo chúa đối với những con người tự do và có suy nghĩ! -Maximilien kêu lên.

- Tôi là ai ư? Monte Crixto nhắc lại. Nghe đây: tôi là người độc nhất trên đời này có quyền bảo anh rằng: Morrel, tôi không muốn để người con của cha anh phải chết hôm nay!

- Vì sao ông lại nhắc đến cha tôi? - Morrel ấp úng hỏi.

- Bởi vì ta là người đã từng cứu sống cha cháu vào ngày mà ông muốn tự sát giống như cháu muốn tự sát hôm nay; vì ta là người đã gửi cái túi cho em gái cháu; vì ta là Edmond Dantès, là người đã bồng bế cháu trong lòng cho cháu đùa nghịch khi cháu còn bé!

Morrel lùi lại một bước nữa, loạng choạng, ngột ngạt, thở dốc, rã rời; rồi mất hết sức lực anh thét lên một tiếng ngã sụp xuống chân Monte Cristo.

- Nào, bá tước vừa nói vừa đặt một ngón tay lên vai anh. Cháu hãy trở lại làm một người đàn ông chứ, Maximilien?

- Bá tước ơi, với Valentine, tôi có một hạnh phúc vô bờ và thiếu cô, tôi chỉ còn nỗi tuyệt vọng và sự sầu khổ trên trái đất này.

- Ta đã bảo cháu là phải hy vọng mà, Morrel - bá tước nhắc lại.

- ông vẫn cứ bảo tôi hy vọng sao? ông muốn làm tôi tin rằng tôi có thể gặp lại Valentine?

- Ta bảo cháu phải hy vọng, vì ta biết cách làm cháu hồi phục. Ta không biết rằng cháu có nghĩ đến điều đó không, nhưng ngày hôm nay là.một ngày thiêng liêng, Maximilien: hôm nay là ngày 5 tháng chín. Cách đây mười năm ta đã cứu cha cháu lúc ông đang muốn tự sát. Hẹn một tháng nữa, đúng từng ngày cháu sẽ có trên bàn chúng ta đang ngồi cùng nhau trước cái bàn ấy đây, những vũ khí tốt và một cái chết êm dịu; nhưng đổi lại, cháu hứa với ta rằng cháu phải sống và phải đợi đến lúc đó chứ?

- Tôi xin thề với ông như vậy.

- Được lắm. Cháu hãy sẵn sàng để ngày mai chúng ta đi du lịch.

- Chúng ta sẽ đi đâu thưa ông? Morrel hỏi.

- Đầu tiên đến Marseille. Rồi ta sẽ từ biệt cháu vài ngày để đi Rome.

- Tôi sẽ đến nơi mà ông thích đưa tôi đến, Morrel nói với một nụ cười buồn; tôi thuộc về ông trong một tháng nữa.

Trong sân nhà tù La Conciergerie là nơi giam giữ những người tù nguy hiểm nhất, có một người trẻ tuổi đang đi dạo, tay đút túi, được các bạn tù soi mói thóc mách nhiều. Đó là Andrea hay đúng hơn là Benedetto.

Bỗng nhiên có tiếng gọi ở ô cửa xép.

- Benedetto, một thanh tra gọi. Ra phòng tiếp khách.

Sau tấm song sắt của phòng tiếp thân nhân nơi Andrea được dẫn tới, hắn thấy bộ mặt rầu rĩ nhưng thông minh của ông Bertuccio cũng đang nhìn với vẻ kinh ngạc xót xa những song sắt, những cửa chốt chặt và những bóng người cử động sau cái chấn song.

- Chào Benedetto, - Bertuccio nói.

- ông, ông à, người trẻ tuổi vừa nói vừa nhìn quanh với vẻ sợ hãi. Ai bảo ông đến?

- Chẳng ai cả?

- ông, con người trung hậu, ông là nghĩa phụ của tôi... Nhưng tất cả những gì người ta đã làm cho tôi, nào là tìm cho tôi một người ý để nhận làm cha, nào là dẫn dắt tôi vào xã hội thượng lưu Paris, nào cho tôi tiền, thì tôi ngờ rằng không phải ông đã làm những điều ấy. Nào, nói đi... Tôi muốn biết ai là người cha thật sự của tôi!

- Ta đến để nói với anh điều đó. - Bertuccio bình tĩnh nói.

- A! - Benedetto reo lên, mắt long lanh mừng rỡ.

Đúng lúc đó cánh cửa mở ra, người gác ô cửa xép nói với Bertuccio:

- Xin lỗi ông, ông dự thẩm đang đợi tù nhân.

- Vậy thì ta sẽ quay lại vào ngày mai. - Ber-tuccio nói..- Được! Andrea nói. Thưa các ông cảnh binh, tôi xin tùy các ông chỉ bảo...à! ông thân mến, xin ông hãy để lại một chục ê quy ở phòng lục sự để người ta đưa vào cho tôi các thứ cần dùng.

- Được rồi, Bertuccio đáp. Hẹn ngày mai!

Phiên tòa đại hình đầu tiên mở vào ngày thứ hai đầu tuần. Villefort thấy mặt trời ngày hôm ấy ló lên nhột nhạt, thê thảm. Cả đêm hắn không ngủ được.

Ngày hôm nay, hắn gượng nói với người nào sắp nắm lấy thanh gươm của thần công lý, phải trừng phạt bất kỳ kẻ nào phạm tội dù nó ở đâu.

Và Villefort, hồ sơ cắp nách, mũ cầm tay, đi về phía căn hộ của vợ hắn. Đến cửa, hắn dừng lại một lát, lấy khăn tay lau vầng trán tái mét ướt đẫm mồ hôi. Rồi hắn đẩy cửa.

- A! ông đấy à, mụ nói tự nhiên và bình thản, lạy chúa! Sao ông xanh xao thế, thưa ông!

Vậy ra ông vẫn cứ làm việc suốt đêm ư? Tại sao ông không đến ăn sáng với chúng tôi?

Ông de Villefort bước ra cửa, chốt lại.

- Ôi lạy chúa! Người đàn bà vừa nói vừa soi mói nhìn chồng mình thấu tận tâm can, vừa hé nở một nụ cười, nhưng bị vẻ thản nhiên của Villefort làm đông cứng lại ngay, có chuyện gì vậy?

- Thưa bà, thuốc độc bà thường dùng bà để ở đâu? Viên quan tòa đứng chắn giữa vợ hắn và cái cửa, nói rành mạch chẳng mào đầu.

- Ôi! Thưa ông, bà de Villefort vừa nói vừa chắp hai tay lại, ông nói gì thế?

- Tôi hỏi bà, Villefort nói tiếp với giọng hoàn toàn điềm tĩnh, bà giấu thứ thuốc độc mà bà đã dùng để giết bố tôi là ông de Saint-Méran, mẹ tôi là bà de Saint-Méran và con gái tôi Valentine ở đâu?

Bà de Villefort rùng mình.

- Bà không trả lời sao, thưa bà! Sao bà hèn nhát thế, bà là người đã có cái can đảm gớm ghê dám nhìn hai cụ già và một thiếu nữ bị bà sát hại thở hơi cuối cùng trước mặt mình cơ mà?

Bà de Villefort xoắn hai bàn tay vào nhau và ngã khuỵu gối xuống.

- Giá treo cổ đang đợi mụ đấy.

Bà de Villefort thét lên một tiếng man rợ, vẻ kinh hãi gớm ghiếc không chế ngự nổi bộc lộ ra ở nét mặt bị biến dạng của mụ.

- ồ! Đừng sợ giá treo cổ, thưa bà, viên quan tòa nói, tôi không muốn làm mất danh dự của bà vì như thế là làm mất danh dự của chính tôi.

- ông muốn nói gì vậy? Mụ đàn bà khốn nạn ấp úng, rụng rời kinh ngạc..- Điều tôi muốn là công lý phải được thi hành. Phải chăng bà còn giữ lại vài giọt chất thuốc độc êm dịu nhất, nhạy bén nhất và chắc chắn nhất ấy?

- ồ! Xin tha thứ cho tôi, thưa ông, hãy để cho tôi sống!

Bà de Villefort ngã sụp xuống chân chồng.

Villefort đến gần mụ vợ:

- Hãy suy nghĩ điều đó đi, nếu tôi quay lại mà công lý chưa được thi hành, tôi sẽ đích thân tố giác bà và tôi sẽ tự tay bắt giữ bà.

Mụ nghe, thở hổn hển, rũ rượi, bại hoại, chỉ riêng cặp mắt của mụ còn linh hoạt và ấp ủ một ngọn lửa khủng khiếp.

- Bà nghe tôi nói đây, Villefort nói tiếp, tôi đến đàng kia để đòi xử tử hình một tên sát nhân...

Nếu lúc về tôi thấy bà còn sống thì tối nay bà sẽ ngủ trong nhà tù.

Bà de Villefort thở dài, thần kinh của mụ giãn ra, mụ quỵ xuống rã rượi trên tấm thảm.

- Vĩnh biệt bà, hắn nói thong thả, vĩnh biệt!

Tiếng vĩnh biệt này giáng xuống như lưỡi dao đao phủ giáng xuống bà de Villefort. Mụ ngất đi.

Viên biện lý hoàng gia đi ra, và khi rời căn phòng, hắn khóa cửa lại bằng hai vòng chìa khóa.

Vụ án Benedetto, như người ta gọi ở tòa và ở ngoài đời, đã gây ra kích động to lớn. Ai cũng muốn đến dự phiên tòa đại hình. Ngay từ bảy giờ sáng người ta đã xếp hàng dài ở cửa sắt, và một tiếng đồng hồ trước phiên tòa, gian phòng đã chật cứng những người có thế lực.

- Khai mạc phiên tòa, thưa các ngài.

Các quan tòa vào phòng xử án giữa bầu không khí im lặng như tờ; các vị hội thẩm ngồi vào chỗ; ông de Villefort, đối tượng được cử tọa chú ý, ngồi vào ghế bành của mình, đưa mắt bình thản nhìn khắp xung quanh.

- Cảnh binh! ông chánh án nói, đưa bị can vào.

Ông chánh án yêu cầu đọc bản buộc tội đã được ngòi bút rất khôn ngoan và rất khe khắt của Villefort thảo ra.

Có lẽ chưa bao giờ Villefort viết được xúc tích đến thế, hùng hồn đến thế; tội ác được phơi bày ra dưới những sắc màu gay gắt nhất, tiền sử của bị can, sự thay hình đổi dạng của hắn, mối dây liên hệ giữa các hành vi phạm tội kể từ khi tuổi còn khá nhỏ dại đều được trình bày tỉ mỉ thật tài tình.

Cuối cùng bản luận tội kết thúc.

- Bị can, họ tên anh là gì?

- Tôi sẽ trả lời câu hỏi này, nhưng muộn một chút..Tiếng xì xào ngạc nhiên nổi lên khắp gian phòng.

- Bao nhiêu tuổi? Có cho biết được không?

- Tôi hai mươi mốt tuổi, hay đúng hơn là phải vài ngày nữa tôi mới đến tuổi ấy, vì tôi được sinh ra vào đêm 27 rạng ngày 28 tháng chín 1817.

Ông de Villefort đang mải ghi chép, nghe thấy ngày tháng ấy bỗng ngẩng đầu lên .

- Anh sinh ra ở đâu? ông chánh án hỏi tiếp.

- ở Auteuil, gần Paris. - Benedetto trả lời.

Ông de Villefort lại ngẩng đầu lần thứ hai, nhìn Benedetto và tái nhợt đi.

- Bây giờ anh khai họ tên anh đi.

- Tôi không thể khai tên họ tôi vì tôi không biết; nhưng tôi biết họ tên cha tôi và tôi có thể khai với ông.

Một cơn choáng váng đau xót làm tối sầm mắt Villefort.

- Vậy thì khai tên họ cha anh, ông chánh án nói tiếp.

Không một làn gió nào, không một hơi thở nào khuấy động bầu không khí im phăng phắc của cái cử tọa đông đảo này: tất cả mọi người chờ đợi.

- Cha tôi là biện lý hoàng gia, Andrea bình tĩnh trả lời, và vì ông muốn biết họ tên ông ấy, tôi xin khai: cha tôi là de Villefort!

Vụ nổ được nén lại quá lâu nay bùng ra, như một tiếng sét, từ đáy mọi lồng ngực. Giữa tiếng ồn ào ấy, thấy vang lên tiếng thét của ông chánh án:

- Anh đùa bỡn với tòa hả, bị can?

Yên tĩnh trở lại trong phòng, tuy nhiên trừ một chỗ có một nhóm khá đông người đang xôn xao thì thầm.

Người ta bảo có một bà vừa ngất.

- Thưa các ngài, Andrea nói tiếp, cử chỉ và giọng nói của hắn khiến cử tọa phải im lặng, tôi có nghĩa vụ đưa ra trước các vị chứng cứ và giải thích các lời nói của tôi. Tôi sinh ra trên gác một, căn nhà số 28, phố La Fontaine. Cha tôi bế tôi trên tay và bảo mẹ tôi rằng tôi đã chết, ông giấu tôi vào một cái tã có đánh dấu bằng một chữ H và một chữ N rồi đem tôi ra vườn và chôn sống tôi ở đó.

Đúng lúc đó trong phòng xử án, một tiếng thét lanh lảnh kế đến tiếng nức nở vang lên giữa đám đông, như chúng tôi đã nói, một người đàn bà đang bị một cơn kích động thần kinh dữ dội và được đưa ra khỏi phòng xử án; trong khi mọi người đem bà ta đi, thì tấm mạng dày che mặt bà bị hé mở và người ta nhận ra bà Danglars..- Các chứng cớ! Các chứng cớ! ông chánh án nói; bị can, anh nên nhớ rằng các mớ những điều huyên thuyên ghê tởm này cần phải dựa vào những chứng cớ hiển nhiên nhất.

- Như vậy thì, Benedetto vừa nói vừa cười, xin hãy nhìn ông de Villefort và ông còn đòi hỏi ở tôi những chứng cớ nữa hay thôi.

Mọi người quay về phía ông biện lý hoàng gia. ông này dưới sức nặng của hàng ngàn cái nhìn dán chặt vào mình đang bước vào giữa tòa án, lảo đảo, tóc rối bù. Toàn thể cử tọa phát ra một tiếng xì xào dài kinh ngạc.

- Người ta đòi hỏi tôi phải có chứng cớ; thưa cha, Benedetto nói, cha có vui lòng để tôi đưa ra không?

- Không, không, ông de Villefort ấp úng bằng một giọng tắc nghẹn; không, điều đó vô ích.

- Thế nào, vô ích à? ông chánh án thét, ông muốn nói gì vậy?

- Tôi muốn nói rằng, viên biện lý hoàng gia kêu lên, không có chứng cớ; chẳng cần phải có chứng cớ; tất cả những điều chàng trai này vừa nói là có thật!

Một không khí im lặng ảo não và nặng nề như bầu không khí trước lúc xảy ra những tai biến của thiên nhiên bao lấy tất cả những người dự phiên tòa tóc tai đang dựng ngược, trong lớp vỏ bọc nặng như chì của nó. Trong cái im lặng ấy, Villefort loạng choạng bước ra cửa mà người nhân viên phục vụ vừa mở ra cho hắn bằng một động tác máy móc, và đi khuất.

Trong xe, Villefort nghĩ đến vợ hắn. Người vợ ấy hắn vừa mới xét xử khắc nghiệt, hắn vừa mới xử tử mụ ta. Một giờ đồng hồ đã trôi qua từ lúc hắn kết án mụ.

- Nhanh lên! Nhanh nữa lên! Villefort hét bằng một giọng làm cho người đánh xe nhảy bật lên trên ghế ngồi của mình.

Những con ngựa bị nỗi sợ kích thích, phóng như bay về tận nhà.

- Phải, phải, Villefort lặp đi lặp lại trong lúc gần đến nhà mình, phải, mụ đàn bà này phải sống, phải để cho mụ ăn năn hối lỗi và để mụ nuôi dạy con trai mình.

Hắn vào phòng khách nhỏ.

- Không có ai, hắn lẩm bẩm, chắc hẳn mụ ở trong phòng ngủ.

Hắn lao về phía cửa. ở đó, then đã cài. Hắn dừng lại, run rẩy. Hắn gọi:

- Héloise!.- Ai đấy? Người vừa được gọi cất tiếng hỏi.

Hắn thấy hình như giọng nói này yếu hơn bình thường.

- Mở ra! Mở cửa! Villefort thét, tôi đây.

Nhưng dù có lệnh này, dù cho cái lệnh ấy phát ra bằng một giọng lo âu, cửa vẫn không được mở.

Villefort dùng chân đạp mạnh cánh cửa. ở lối vào căn phòng dẫn thẳng vào phòng khách nhỏ, hắn thấy bà de Villefort đang đứng, xanh xao, nét mặt rúm ró và nhìn hắn với cặp mắt trừng trừng đáng sợ.

- Héloise! Héloise! Hắn nói, bà sao thế? Nói đi!

Người đàn bà giơ tay về phía hắn, bàn tay cứng đờ và tím nhợt.

- Xong rồi ông ạ, mụ nói với tiếng thở khò khè như xé rách họng mụ; vậy ông còn muốn gì thêm nữa?

Rồi mụ đổ vật xuống thảm.

Villefort chạy đến, nắm lấy bàn tay mụ. Bàn tay ấy co quắp nắm một cái lọ pha lê.

Bà de Villefort đã chết.

Villefort điên cuồng vì ghê sợ, lùi lại đến tận ngưỡng cửa phòng và nhìn xác chết. Đột nhiên hắn thét:

- Con trai ta! Con trai ta đâu rồi? Edouard!

Edouard!

Hắn ghê tởm bước qua xác mụ de Villefort để đến phòng khách nhỏ của bà ta. Hắn tiến vào ba hay bốn bước và thấy con hắn đang nằm trên chiếc trường kỷ.

Có lẽ là đứa trẻ ngủ.

Hắn nâng đứa trẻ lên tay, ghì lấy nó, lay nó, gọi nó... đứa trẻ không hề trả lời. Hắn gắn đôi môi hau háu của hắn vào má đứa trẻ... hai má nó nhột nhạt, lạnh giá; hắn sờ nắn tay chân đã cứng đờ của nó; hắn đặt tay lên tim nó... tim nó không đập nữa.

Đứa trẻ đã chết.

Hai nạn nhân này làm hắn kinh sợ. Hắn cảm thấy nỗi khiếp hãi của sự cô đơn giữa hai xác chết trào dâng trong hắn.

Villefort gục đầu xuống dưới sức nặng của nỗi đau, hắn quỳ thẳng người lên, lắc mớ tóc đẫm mồ hôi, dựng ngược vì sợ hãi và con người ấy, kẻ chưa bao giờ xót thương ai, bỏ đi tìm ông cụ già, cha hắn, để trong phút yếu lòng có người nghe hắn kể lại nỗi bất hạnh của hắn. Hắn đi xuống cầu thang và vào phòng cụ Noirtier.

Khi Villefort bước vào, cụ Noirtier có vẻ đang chăm chú nghe một cách trìu mến biểu lộ hết mức mà tình trạng bại liệt của cụ cho phép,.tu sĩ Busoni đang ở đấy, bao giờ cũng điềm tĩnh và lạnh lùng như thường lệ.

- ông ở đây à, thưa ông! Villefort nói. ông luôn luôn chỉ xuất hiện ở nơi nào có cái chết để mà hộ tống.

- Tôi đã đến đây để cầu nguyện bên thi hài con gái ông! Busoni trả lời. - Và bây giờ ông đến đây làm gì?

- Tôi đến để bảo ông rằng ông đã trả nợ cho tôi được kha khá rồi đấy.

- Lạy chúa tôi! Villefort vừa nói vừa lùi lại, ghê sợ ra mặt, ông không phải là tu sĩ Busoni!

- Không. Tu sĩ nói và giật đi miếng hói đầu giả.

- Đây là cái mặt ông Monte Cristo! Villefort kêu lên, mắt nhớn nhác.

- Còn chưa phải thế đâu, thưa ông biện lý hoàng gia, hãy tìm tòi kỹ hơn và xa hơn.

- Cái giọng này! Cái giọng này! Cái giọng này tôi đã nghe lần đầu ở đâu nhỉ?

- ông đã nghe giọng ấy lần đầu ở Marseille từ hai mươi ba năm trước, vào ngày ông cưới cô de Saint-Méran. Hãy tìm trong hồ sơ của ông.

- Nhưng ta đã làm gì ngươi? Villefort hét.

- ông đã kết án tôi tội chết từ từ và gớm guốc, ông đã giết chết cha tôi, ông đã tước đoạt tự do và do đó tôi mất cả tình yêu, ông đã lấy đi tình yêu của tôi và do đó tước đoạt cả vận mệnh của tôi.

- ông là ai? Vậy ông là ai? Lạy chúa tôi!

- Tôi là bóng ma của một kẻ khốn khổ mà ông đã đem chôn vùi trong các hầm cấm cố của pháo đài If.

- A! Ta nhận ra ngươi, ta nhận ra ngươi rồi!

Viên biện lý hoàng gia nói, ngươi là...

- Ta là Edmond Dantès.

- Ngươi là Edmond Dantès! Viên biện lý hoàng gia vừa kêu lên vừa nắm lấy cổ tay bá tước; như vậy thì đi!

Và hắn kéo ông đi theo cầu thang, Monte Cristo ngạc nhiên theo hắn nhưng không biết viên biện lý hoàng gia dẫn mình đi đâu, và cảm thấy có tai họa mới gì đó.

- Này, Edmond Dantès, hắn vừa nói vừa chỉ cho bá tước thấy xác vợ hắn và thi thể con hắn, này! Nhìn đi, mi trả được thù rồi chứ?...

Monte Cristo tái mặt trước cảnh tượng hãi hùng này. Anh nhảy bổ đến thi thể đứa bé với một tình cảm lo âu khó tả, vạch mắt nó ra, bắt mạch và ôm nó lao vào phòng Valentine rồi khóa cửa lại bằng hai vòng xoay chìa khóa.

- Con ta! Villefort hét, Nó mang xác con ta đi! Ôi! Tai họa! Bất hạnh! Mi chết đi!.Và hắn muốn lao theo Monte Cristo; nhưng như trong mơ, hắn cảm thấy chân như mọc rễ, mắt hắn mở to đến vỡ tròng, các ngón tay hắn móc vào thịt trên ngực hắn rồi cứ cắm dần vào đến khi máu nhuộm đỏ các móng tay. Các mạch trên thái dương của hắn dìm não hắn vào một biển lửa.

Sự bất động kéo dài nhiều phút cho đến khi cuộc đảo lộn đáng sợ của lý trí được hoàn thành.

Lúc đó hắn hét lên một tiếng tiếp đến một trận cười dài rồi đâm bổ xuống cầu thang.

Mười lăm phút sau, cửa phòng Valentine mở ra và bá tước Monte Cristo bước ra. ông bế đứa trẻ trên tay, không cách nào cứu được cho nó sống lại nữa rồi? ông quỳ một gối xuống đất và thành kính đặt nó bên mẹ, đầu gối lên ngực mẹ nó.

Monte Cristo xuống vườn thấy Villefort tay cầm mai, bới đất như điên.

- Chỗ này chưa phải đâu, hắn nói, chỗ này chưa phải đâu. Và hắn bới ra xa hơn.

Monte Cristo đến gần hắn, nói thật khẽ:

- Thưa ông, ông bảo hắn với một giọng gần như khiêm nhường, ông đã mất đi một đứa con trai; nhưng...

Monte Cristo lùi lại hoảng sợ.

- Ôi! Hắn phát điên rồi!

Và Monte Cristo lao ra phố, lần đầu tiên ông nghi ngờ rằng liệu mình có quyền làm những việc mình đã làm không.

BÁ TƯỚC MÔNGTƠ CRIXTÔ
Chương 20: Danglars

Chuyến du lịch của Monte Cristo và của Morrel đi Marseille diễn ra mau lẹ tuyệt vời, đó vốn là một trong những thế mạnh của bá tước.

Ngày hôm sau, ngay từ sáng sớm họ tới Chalon, đã có một tàu thủy hơi nước đón họ ở đó, sẵn sàng khởi hành; chẳng phí một khoảnh khắc, chiếc xe được đưa xuống tàu. Chẳng mấy chốc đã đến Marseille. ở đó, do một thỏa thuận chung, cả hai người dừng lại ở Canebière.

Một chiếc tàu biển đi Alger, giữa những kiện hàng, những hành khách chồng chất trên boong, giữa đám đông họ hàng bạn bè tiễn biệt nhau.

- Ôi! Lạy chúa! Morrel kêu lên, tôi không lầm đâu! Chàng trai đang vẫy mũ chào kia, cái anh chàng mặc quân phục ấy, là Albert de Mor-cerf đấy!

- Đúng, Monte Cristo nói, tôi đã nhận ra anh ta.

Và cặp mắt anh dõi theo một người đàn bà che mạng vừa đi khuất vào góc phố.

- Bạn thân mến, anh có việc gì cần làm ở vùng này không? Bá tước bảo Maximilien.

- Tôi cần đến khóc bên mộ cha tôi. Morrel nghẹn ngào trả lời.

- Được lắm, anh đi đi.

- ông từ biệt tôi ư?

- Phải, tôi có việc ở Italie. Anh nhớ nhé.

Ngày 5 tháng mười, Morrel ạ, tôi đợi anh ở đảo Monte Cristo. Ngày mùng 4, một du thuyền sẽ đón anh ở cảng Bastia.

Morrel để bàn tay mình rơi xuống bàn tay bá tước đang chìa ra cho anh, rồi anh cúi đầu chào, từ biệt bá tước và đi về phía đông thành phố.

Monte Cristo đợi cho Maximilien đi đã xa; rồi ông đến đường Meilhan và bước vào một khu vườn chính là nơi Mercédès tìm thấy số tiền mà bá tước đã tế nhị nói là chôn ở đó từ hai mươi bốn năm trước.

Vừa đến ngưỡng cửa, Monte Cristo nghe có một tiếng thở dài giống như tiếng nức nở, ông thấy Mercédès ngồi gập người đang khóc. Monte Cristo bước lên vài bước, cát lạo xạo dưới chân ông.

- Thưa bà, bá tước nói, tôi chẳng còn có thể đem lại hạnh phúc cho bà, nhưng tôi dâng tặng.bà sự an ủi: bà có hạ cố nhận sự an ủi ấy như của một người bạn dành cho bà được không?

- Quả thực tôi rất đau khổ, Mercédès trả lời, tôi cô đơn trên đời này. Tôi chỉ có con trai tôi thì nó đã rời xa tôi rồi.

- Chao ôi! Monte Cristo nói, tất cả những lời nói của bà, nóng bỏng và cay đắng rớt xuống trái tim tôi, càng cay đắng và nóng bỏng hơn nữa vì bà có lý do để căm ghét tôi; chính tôi đã gây ra mọi đau khổ của bà.

- Căm ghét ư, kết tội chàng ư, chàng, Edmond căm ghét, buộc tội con người đã cứu sống con trai tôi, bởi vì phải chăng chàng có ý định tàn bạo và đẫm máu giết đi của de Morcerf đứa con trai mà ông ta lấy làm tự hào? Ôi! Hãy nhìn tôi đi và chàng sẽ thấy ở tôi có biểu hiện trách móc nào không. Chàng đã rộng lượng tha cho tôi, ấy thế mà trong tất cả những kẻ đã giáng họa cho chàng, tôi là kẻ có tội nhất. Tất cả những kẻ khác đều hành động vì hận thù, vì hám lợi, vì ích kỷ; còn tôi, tôi hành động vì hèn nhát. bây giờ Edmond ơi, hãy nói với tôi lời vĩnh biệt.

Và sau khi đưa bàn tay run rẩy của mình chạm vào tay Monte Cristo, Mercédès lao xuống bậc thềm và chạy đi khuất khỏi tầm nhìn của bá tước. Lúc đó Monte Cristo liền ra khỏi nhà và quay lại đường ra cảng. ông xuống tàu và chiếc tàu biển khởi hành. * * * Đúng vào lúc con tàu của bá tước ra khơi thì Danglars đến Rome, ở khách sạn Tây Ban Nha. Bác Pastrini đón người du khách.

Sau đó Danglars đến hãng Thomson và French, rồi hai mươi phút sau hắn ra khỏi đó, hớn hở mừng vui vì đã bỏ túi được tờ hối phiếu năm triệu.

Danglars trở về chỗ ở của mình; hắn mệt mỏi nhưng mãn nguyện và buồn ngủ. Hắn đi ngủ, đặt ví dưới chiếc gối dài ở đầu giường rồi ngủ thiếp đi.

Ngày hôm sau, hắn thức dậy muộn. Hắn ăn sáng và yêu cầu ngựa trạm vào buổi chiều.

Danglars muốn ghé qua Venise để nhận ở đó một phần tài sản, rồi từ Venise đi Vienne là nơi hắn nhận nốt phần còn lại - ý định của hắn là sẽ ngụ lại thành phố này, người ta đoan chắc với hắn đó là một thành phố của hoan lạc.

Hắn lên đường, nhưng hắn vừa mới đi được độ gần ba dặm trong vùng quê của thành Rome thì bỗng nhiên hắn thấy có một người khoác áo choàng đang phi nước đại cạnh cửa xe bên phải.

- Lại cảnh binh gì đây, hắn nói. Phải chăng là mình đã bị thông báo bằng các bức điện tín của Pháp cho nhà cầm quyền Italie?

Lại một người nữa phi ngựa nước đại cạnh cửa xe bên trái.

- Này, ông bạn! Chúng ta đi đâu vậy? Hắn thò đầu ra cửa xe và nói.

Hắn chẳng hề được ai trả lời. Chiếc xe tiếp tục chạy với tốc độ ghê người. Một giờ đồng hồ trôi qua khủng khiếp, vì cứ mỗi cột mốc mới loang loáng vút qua cửa xe đang chạy, kẻ chạy trốn lại càng nhận ra rằng họ đang dẫn hắn quay trở lại. Cuối cùng hắn thấy cái khối sẫm màu của vành đai thành cổ bao quanh Rome.

- Ôi! Ôi! Danglars thì thào, ta không quay về thành phố, đây là...

Bất chợt, sau lời của người phi ngựa cạnh cửa xe bên phải, chiếc xe dừng lại.

Đồng thời cửa xe bên trái mở ra.

- Xuống! Một giọng nói ra lệnh.

Danglars lặng lẽ theo người dẫn đường mà không hỏi han gì, đi qua những vạt cỏ cao cho đến tận một mô đá bên trên là một bụi rậm; mô đá này có chỗ để chàng trai dẫn đường lách qua.

Người đi theo sau Danglars bảo lão chủ ngân hàng cũng làm như chàng trai. Hắn bật ra một tiếng rên rầu rĩ và đi theo người dẫn đường: hắn cố không van xin cũng không kêu la. Hắn chẳng còn cả sức lực, cả ý chí, cả sức mạnh lẫn xúc cảm; hắn đi vì người ta dẫn hắn đi..Hắn vấp phải cái bậc và hiểu ra có một cầu thang trước mặt hắn, hắn cúi xuống theo bản năng để tránh bị dập trán và thấy mình đang ở trong một xà lim đục hẳn vào đá. Cái xà lim này sạch sẽ, dù là trần trụi, khô ráo dù là ngầm dưới đất ở một độ sâu không sao ước lượng được.

Một cái ổ cỏ khô phủ da dê được trải trong góc xà lim...

- Vào đi. Người dẫn đường nói.

Và vừa đẩy Danglars vào xà lim hắn vừa đóng cửa lại sau lưng hắn. Một cái chốt rít lên, Danglars đã là tù nhân.

ở một mình, Danglars lấy lại được đôi chút can trường. Khi mà họ chẳng giết hắn ngay lập tức, ắt hẳn là họ bắt hắn để mà tước đoạt của hắn, và bởi hắn chỉ mang trong người có vài đồng lu y, họ sẽ đòi hắn tiền chuộc. Hắn vẫn còn lại khoảng độ năm triệu năm chục ngàn phrăng. Vậy thì gần như chắc chắn là hắn thoát, Danglars nằm dài xuống ổ và sau vài lần trở mình hắn ngủ thiếp đi.

Vừa thức dậy, hắn thọc tay ngay vào túi. Các túi vẫn y nguyên.

Rồi hắn cảm thấy đói. Hắn đứng dậy và ra gõ cửa để gọi người gác ngục.

- Này ông bạn! Danglars vừa nói vừa dùng các ngón tay gõ nhịp vào cửa, có lẽ đã đến lúc họ cũng phải nghĩ tới việc nuôi dưỡng tôi chứ, tôi ấy!

Tên cướp đến mở cửa. Đó là Peppino, người quen biết cũ của chúng ta.

- Tôi đói, Danglars nói, thậm chí rất đói.

- Đức ông muốn ăn ư? Không có gì tiện hơn, tên cướp nói; ở đây người ta có được bất cứ cái gì người ta muốn, và phải trả tiền ngay, dĩ nhiên như vậy. Ngài gọi món đi.

- Này, một con gà giò, một con cá, thịt thú rừng, gì cũng được miễn là tôi được ăn.

- Xin tùy ý đức ông; chúng tôi dọn một con gà giò có được không?

- ừ, một con gà giò.

Vài phút sau một người trẻ tuổi xuất hiện mang tới con gà giò đặt trên đĩa bạc.

- Đây, thưa đức ông, Peppino đỡ con gà từ tay tên cướp trẻ và đặt nó lên cái bàn mọt.

Danglars bắt đầu làm nhiệm vụ xả con gà ra.

- Xin lỗi, Đức ông, tên cướp vừa nói vừa đặt tay lên vai ông chủ ngân hàng; ở đây có quy định trả tiền trước khi ăn; người ta có thể không hài lòng khi ra khỏi...

- A! A! Danglars nói, chúng ta không còn như ở Paris nữa, nhưng anh hãy hành động cao thượng. Nào, tôi luôn nghe nói ở Italie giá sinh.hoạt rẻ, một con gà giò ở Rome chắc độ mười hai xu.

- Đây, hắn nói và ném ra một đồng lu y cho tên cướp.

Peppino nhặt đồng lu y, Danglars đưa dao lại gần con gà.

- Khoan đã, đức ông, Peppino vừa nói vừa đứng dậy, khoan đã, đức ông còn thiếu tôi món tiền nữa. Con gà này giá năm ngàn lu y; thế là đức ông chỉ còn thiếu tôi bốn ngàn chín trăm chín mươi chín đồng lu y nữa.

Danglars trợn tròn đôi mắt khi nghe phát giá trong trò đùa giỡn một tấc đến trời này.

- Ôi! Buồn cười quá. Hắn lẩm bẩm.

Và hắn muốn lại bắt đầu xả con gà, nhưng tên cướp cản hắn lại.

- Nào, tên cướp nói và chìa tay ra.

- Cái gì! Một trăm ngàn phrăng con gà này!

- Đức ông ơi, thật không thể hình dung nổi người ta nuôi gà vịt trong những hang đá đáng nguyền rủa này vất vả đến thế nào đâu.

- ông bạn thân mến ôi, tôi tuyên bố điều đó là vô lý, là ngốc nghếch! Danglars nổi khùng lên nói vậy. Hay là anh tưởng người ta có một trăm ngàn phrăng trong túi?

- ông có năm triệu năm mươi ngàn phrăng trong túi, thưa đức ông, Peppino nói; tức là mua được năm mươi con gà tơ giá một trăm ngàn phrăng và nửa con gà tơ giá năm mươi ngàn. ông có mở tín dụng ở chỗ các ông Thomson và French ở Rome. Hãy đưa cho tôi một chi phiếu bốn ngàn chín trăm chín mươi chín lu y ở chỗ các ông ấy, chủ ngân hàng của chúng tôi sẽ lấy tiền cho chúng tôi.

Danglars rùng mình; hắn sáng mắt ra: vẫn cứ là đùa cợt, nhưng rốt cuộc hắn đã hiểu đó là thế nào.

- Quỷ bắt anh đi! Danglars phẫn nộ vì bị chế giễu một cách dai dẳng như vậy.

Tên cướp ra hiệu, gã trai trẻ liền vươn đôi tay ra bưng gọn con gà đi. Danglars buông mình xuống cái ổ trải da dê.

Nhưng cái đói đã thắng Danglars; hắn vớ lấy bút và giấy mà tên cướp đưa cho, viết lệnh chi và ký.

- Này, hắn nói, đây là chi phiếu không ghi danh cho phép người cầm phiếu được lĩnh tiền.

- Còn ông, đây là con gà của ông.

Danglars xả con gà và thở dài: sao mà nó quá gầy so với số tiền lớn đến thế.

Ngày hôm sau, Danglars lại thấy đói, không khí cái hang này làm cho người ta ngon miệng hết sức. Người tù ngỡ rằng hôm ấy hắn không cần chi tiêu gì thêm: con người dè sẻn, hắn đã.giấu nửa con gà và một mẩu bánh vào góc xà lim.

Nhưng vừa mới ăn xong là hắn thấy khát:

hắn chưa lường trước chuyện này.

Hắn chống chọi với cơn khát cho đến lúc cảm thấy lưỡi ráo khô dính vào vòm miệng. Lúc đó chẳng thể nào chịu đựng được ngọn lửa thiêu đốt hắn, hắn gọi.

- Có tôi đây, thưa đức ông, tên cướp vừa nói vừa vội vàng chạy tới.

Danglars thấy sự sốt sắng này có vẻ là điềm lành. Tên cướp hỏi:

- Ngài muốn gì?

- Đồ uống. Người tù nói.

- Đức ông ơi, Peppino nói, ông biết rằng rượu vang đắt phi thường ở vùng ngoại vi Rome.

- Vậy thì cho ta nước, Danglars nói, tìm cách đỡ đòn.

- ồ! Thưa đức ông, nước lại còn hiếm hơn rượu vang, trời đang đại hạn mà!

- Này, Danglars nói, xem ra chúng ta sắp làm lại từ đầu đây! Lần này, bao nhiêu?

- Hai mươi lăm ngàn phrăng một chai.

- Này, Danglars kêu lên, có phải là các anh muốn lột trụi ta không, cứ làm thế còn hơn là xé xác ta ra từng mảnh từng mảnh một mà ăn thịt.

- Có thể, Peppino nói, đó là dự định của chủ tướng tôi.

- Chủ tướng ư, hắn là ai vậy?

- Là người mà họ dẫn ông đến gặp ngày hôm kia ấy.

- Thế hắn ở đâu? Ta muốn gặp hắn.

- Dễ thôi.

Một lát sau, tên tướng cướp La Mã đã ở trước mặt Danglars. Đó là Luigi Vampa.

- ông gọi tôi à? Hắn hỏi người tù.

- Thưa ông có phải ông là chủ tướng của những người bắt tôi về đây không?

- Đúng, thưa đức ông.

- Vậy ông muốn đòi tôi tiền chuộc là bao nhiêu? Nói đi.

- Thật quá đơn giản, là năm triệu mà ông mang trong người.

Danglars cảm thấy một cơn co thắt đáng sợ bóp nát trái tim hắn.

- Ta chỉ có thế trên đời này, thưa ông và đó là phần còn lại của một tài sản to lớn: nếu ông lấy đi của tôi thì hãy tước đoạt cuộc sống của tôi.

- Người mà chúng tôi tuân lệnh đã cấm chúng tôi không được làm cho ông đổ máu, thưa đức ông..- Như vậy thì này, lũ khốn nạn! Danglars kêu lên, ta sẽ làm thất bại dự tính xấu xa của các người; cái chết đổi lấy cái chết, ta ưa kết thúc ngay lập tức, hãy làm cho ta đau, hãy hành hạ ta đi, hãy giết ta đi, nhưng các ngươi sẽ không có được chữ ký của ta nữa!

- Xin tùy ngài, thưa đức ông. Vampa nói.

Và hắn ra khỏi xà lim. Danglars vừa gieo mình xuống tấm da dê vừa gầm gào.

Quyết tâm không ký của hắn kéo dài được hai ngày, sau đó hắn đòi ăn và đưa một triệu.

Họ dọn cho hắn một bữa ăn tối thịnh soạn và lấy một triệu của hắn. Cứ đó cuộc đời của người tù khốn khổ là một chuyện vớ vẩn không dứt.

Hắn đã đau khổ đến nỗi hắn không muốn chuốc lấy đau khổ thêm nữa và hắn chịu đựng mọi đòi hỏi. Sau mười hai ngày, một buổi chiều hắn ăn tối như trong những ngày giàu sang, hắn tính sổ lại và nhận ra rằng hắn đã đưa nhiều hối phiếu trả tiền mặt cho người mang phiếu đến nỗi hắn chỉ còn lại có năm mươi ngàn phrăng.

Lúc đó trong hắn xảy ra một phản ứng lạ lùng: hắn cố giữ lấy năm mươi ngàn còn lại, hắn quyết định lại sống cuộc đời kham khổ, còn hơn là tiêu đi năm chục ngàn ấy.

Ba ngày trôi đi như vậy; thỉnh thoảng hắn lại có những lúc mê sảng.

Sang ngày thứ tư, thật không còn là một người đàn ông nữa, đó là một xác chết còn sống; hắn nhặt nhạnh dưới đất cho đến mảnh vụn cuối cùng còn rơi vãi lại của những bữa ăn trước và bắt đầu nhai ngấu nghiến cái chiếu trải trên nền đất.

Thế rồi hắn cầu xin người gác ngục.

- Hãy cầm lấy đồng tiền cuối cùng của tôi, Danglars vừa ấp úng nói vừa chìa cái ví của mình ra, hãy để cho tôi sống ở đây, trong cái hang này; tôi không đòi tự do nữa, tôi chỉ yêu cầu được sống thôi.

- ít ra ông cũng sám hối rồi chứ? Một giọng ảm đạm và trang trọng cất lên, làm dựng ngược tóc trên đầu Danglars.

Cái nhìn không còn tinh tường của hắn cố phân biệt các đồ vật, và hắn thấy đứng sau tên cướp là một người đàn ông khoác chiếc áo choàng đứng khuất sau một trụ đá.

- Ta phải sám hối về cái gì nhỉ? Danglars ấp úng hỏi.

- Về điều ác mà ông đã làm. Vẫn giọng ấy nói.

- Ôi! Vâng, tôi sám hối! Tôi sám hối!

Danglars kêu lên.

Rồi hắn đấm ngực bằng nắm đấm gầy gò của hắn..- Như vậy thì ta tha thứ cho ngươi. Người ấy vừa nói vừa ném chiếc áo khoác đi vừa bước lên một bước ra chỗ sáng.

- Bá tước Monte Cristo! Danglars nói, người nhợt nhạt đi vì kinh hãi, còn hơn là một lát trước đây hắn nhợt nhạt đi vì sợ đói, vì khổ.

- ông lầm rồi, tôi không phải bá tước Monte Cristo.

- Vậy ông là ai?

- Tôi là kẻ đã bị ông bán đứng, đã giao nộp, đã làm mất danh dự. Tôi là kẻ đã bị ông giẫm đạp để leo lên tạo cơ nghiệp cho mình; tôi là kẻ có người cha bị ông làm cho chết vì tuyệt vọng:

tôi là Edmond Dantès!

Danglars chỉ thét lên được một tiếng rồi quỳ sụp xuống.

- Dậy đi ông, bá tước nói, ông đã thoát chết; vận may như vậy đã không đến với hai kẻ đồng lõa với ông: một kẻ phát điên, kẻ kia đã chết!

Hãy giữ lấy năm mươi ngàn quan còn lại của ông, ta làm quà cho ông đấy. Và bây giờ hãy ăn đi, uống đi; tối nay ông là khách mời của ta.

Vampa, khi người này đã ăn no nê, hắn sẽ được tự do.

Danglars vẫn cứ quỳ sụp dưới đất trong lúc bá tước đi xa dần; khi hắn ngóc đầu lên, hắn chỉ còn thấy một cái bóng đang khuất dần trong hành lang và trước cái bóng ấy những tên cướp cúi mình chào.

Như bá tước đã ra lệnh, Vampa cho dọn bữa ăn mời Danglars, cho đem đến rượu vang ngon nhất và những thứ quả ngon nhất của Italie, rồi đặt hắn vào ghế chiếc xe trạm, Vampa đứng dựa lưng vào một gốc cây, để kệ hắn lên đường.

Lúc trời sáng, Danglars thấy mình đang ở bên một dòng suối: hắn khát, hắn trườn tới mép nước.

Và lúc cúi xuống để uống nước, hắn thấy tóc mình bạc trắng..Đoạn kết Ngày 5 tháng mười, một chiếc du thuyền nhẹ lướt tới đảo Monte Cristo trong những làn sương đầu tiên của buổi tối.

Người du khách mà chiếc du thuyền nhỏ dường như tạm thời tuân lệnh cất một giọng trầm và đượm một nỗi buồn sâu lắng hỏi:

- Kia có phải là đảo Monte Cristo không?

- Vâng thưa ngài, chủ thuyền trả lời, chúng ta đến nơi rồi.

Mười phút sau người ta cuốn buồm và buông neo cách một cảng nhỏ khoảng năm trăm bước.

- Xin chào Maximilien, một giọng nói cất lên, anh thật đúng hẹn, cám ơn!

- ông đấy à, bá tước, chàng trai vừa kêu lên vừa đưa hai tay nắm lấy bàn tay Monte Cristo.

Morrel như cái máy bước theo bá tước đến tận hang.

- Này bá tước, ông sắp cho tôi một trong những cái chết mà ông đã báo trước, một cái chết không hấp hối, một cái chết cho tôi được vừa lịm đầu đi vừa gọi tên Valentine và xiết tay ông?

- Anh không nuối tiếc gì sao? Monte Cristo hỏi. Tôi không có ai là bà con thân thích trên đời này như anh biết đấy. Tôi đã quen coi anh như con trai tôi; như vậy thì để cứu con trai tôi, tôi hy sinh cả tính mạng của mình huống hồ là tài sản. Morrel ơi, tôi có gần một trăm triệu, tôi cho anh cả; với một cơ nghiệp như vậy, anh có thể đạt tới mọi thành tựu mà anh muốn vươn tới.

- Bá tước, tôi đã nhận lời hứa của ông, Morrel lạnh lùng trả lời.

- Được lắm, Monte Cristo nói, anh đã muốn thế, và anh thật cứng rắn. Vậy tôi sắp cho anh thứ mà anh muốn.

Monte Cristo rút ra một cái hộp nhỏ bằng vàng có nắp bật lên được nhờ một cái lò xo giấu kín.

Chiếc hộp này đựng một chất nhờn gần như rắn, màu sắc thật khó xác định.

- Đây là cái mà anh đã yêu cầu tôi, bá tước nói. Và cũng là cái tôi đã hứa với anh.

- Bây giờ đang còn sống, tôi xin cám ơn ông từ đáy lòng mình. Vĩnh biệt người bạn cao quý và hào hiệp của tôi, tôi sẽ nói với Valentine về tất cả những gì ông đã làm cho tôi.

Và từ từ, Morrel nuốt cái chất huyền bí do Monte Cristo đưa cho. Dần dần các đồ vật bắt.đầu mất đi hình dạng và màu sắc của mình; cặp mắt anh mờ đục đi. Anh thấy trong bức tường cứ như mở ra những cánh cửa và những tấm rèm.

- Bạn ơi, anh nói, tôi cảm thấy, tôi đang chết.

Xin cám ơn.

Trong khi Maximilien buông mình đi vào cơn hấp hối nhẹ nhàng của anh thì một luồng ánh sáng tràn trề từ căn phòng bên cạnh chiếu rọi vào nơi anh đang ở. Anh thấy một người đàn bà đẹp tuyệt vời đến ngưỡng cửa của phòng này.

Cô tiến về phía anh, hai tay chắp vào nhau và nụ cười trên môi.

- Valentine! Valentine! Morrel reo lên từ cõi sâu thẳm của linh hồn.

Valentine chạy xô về phía anh.

Cặp môi Morrel còn phác một cử động.

- Anh đang gọi cô, bá tước nói; anh đang gọi cô từ một giấc ngủ sâu. Valentine, từ nay các bạn không phải rời xa nhau nữa trên trái đất này.

Không có tôi các bạn sẽ chết cả đôi; tôi trao trả các bạn cho nhau. Tôi xin cầu chúa xét đến cho tôi hai sinh linh mà tôi cứu sống!

Valentine nắm lấy tay Monte Cristo và trong lúc mừng rỡ không sao cưỡng nổi, cô đưa tay ông lên môi mình.

Lúc đó, bá tước ôm ghì lấy cô rồi đi khuất.

Gần một tiếng đồng hồ trôi đi, Valentine, cứ ngồi bên Morrel mà thở hổn hển, không nói năng gì, đôi mắt nhìn đăm đăm. Cuối cùng cô thấy tim anh đập nhẹ một hơi thở không nhận ra được làm hé mở cặp môi anh, và cái run nhè nhẹ báo hiệu sự sống đang trở lại ấy lan khắp thân thể chàng trai.

- Ôi! Anh thốt lên với ngữ điệu tuyệt vọng, tôi vẫn sống ư! Bá tước đã lừa tôi!

- Morrel, Valentine nói với nụ cười tuyệt diệu, anh tỉnh lại đi và nhìn về phía em đây.

Morrel thét lên thật to, cuống cuồng đứng lên, lòng đầy hoài nghi, lóa mắt như trước một ảo ảnh trên trời, anh ngã quỵ xuống.

Ngày hôm sau, dưới những tia nắng đầu tiên của mặt trời, Morrel và Valentine khoác tay nhau dạo bước dọc bờ biển, Valentine kể cho Morrel nghe Monte Cristo đã xuất hiện trong phòng cô như thế nào và bá tước đã cứu cô thoát chết một cách thần kỳ mà vẫn để mọi người tưởng là cô đã chết.

Trước đấy họ đã thấy cửa hang mở sẵn và họ đi ra. Lúc này Morrel nhận ra trong một vùng mờ tối của một đống đá có một người đàn ông đang ngồi, ông vẫy gọi để họ tiến lại.

- A! Đây là ông thuyền trưởng của chiếc du thuyền. Valentine nói..- ông có điều gì muốn nói với chúng tôi chăng? - Morrel hỏi.

- Tôi phải trao lại cho ông bức thư của bá tước.

Morrel mở lá thư và đọc:

"Maximilien yêu quý, Có một chiếc thuyền buồm nhẹ dành cho anh đang neo. Nó sẽ đưa anh đến Livourne, ở đó cụ Noirtier đang đợi cô cháu gái vì cụ muốn cầu phúc cho cô trước khi cô theo anh đến bàn thờ Chúa. Tất cả những gì có trong hang này, cả ngôi nhà ở Champs élysées và tòa lâu đài nhỏ ở Tréport là quà cưới mà Ed-mond Dantès tặng cho con trai ông chủ Morrel của mình. Cô de Villefort sẽ vui lòng nhận một nửa vì tôi đã cầu xin cô dành cho những người nghèo ở Paris cả tài sản cô nhận được từ cha cô đã phát điên, từ em trai cô đã chết cùng với bà mẹ kế của cô hồi tháng chín vừa qua.

Còn anh, Morrel, đây là tất cả bí mật trong cách xử sự của tôi đối với anh: không có cả hạnh phúc lẫn bất hạnh trên đời này, chỉ có sự so sánh tình trạng này với tình trạng khác, thế thôi. Phải đã từng muốn chết, Maxi -milien ạ, mới biết rằng sống là tốt đẹp biết bao.

Vậy hãy sống và hãy sung sướng, các con yêu dấu của lòng ta và đừng bao giờ quên rằng cho đến ngày Chúa rủ lòng vạch rõ tương lai cho con người, thì mọi sự khôn ngoan của người đời chỉ bao hàm trong hai từ: chờ đợi và hy vọng!

Bạn anh, Edmond Dantès Bá tước Monte Cristo." - Đi rồi! Morrel hét. Đi rồi! Vĩnh biệt người bạn của tôi, cha của tôi! Ai mà biết có bao giờ chúng ta lại được gặp ông! - Anh vừa nói vừa lau nước mắt.

- Morrel, Valentine nói, phải chăng bá tước vừa nói với ta rằng sự khôn ngoan của con người ở cả trong hai từ: chờ đợi và hy vọng.

HẾT
Xem tiếp:

Bá tước Môngtơ Cixtô (Chương 1-10)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét