Trang

Thứ Bảy, 8 tháng 6, 2019

Bá Tước Môngtơ Crixtô (Chương 1-10)



Bá Tước Môngtơ Crixtô
Tác giả:Alexandre Dumas
Thể loại:Khác, Phương Tây
Trạng thái:Full
Tên khác: Bá Tước Monte Cristo, The Count of Monte Cristo

Vào thời kỳ trị vì của vua Louis 18 ở nước Pháp, sau 14 năm bị giam cầm ở nhà ngục lâu đài If, chàng thủy thủ Edmond Dantès đã vượt ngục thành công. Nhờ có kho báu mà người bạn già để lại, anh trở thành vị bá tước giàu có mang tên hòn đảo Monte Cristo.

Nước Pháp năm 1814, Napoléon Bonaparte thất bại và chạy trốn về đảo Elbe. Hai chàng thủy thủ là Edmond Dantès và Fernand Mondego đã giúp đỡ để chữa trị vết thương cho vị chỉ huy. Edmond, bản tính ham thích phiêu lưu và hiền hòa, chỉ có một giấc mơ lớn trong đời: cưới cô gái xinh đẹp Mercedès làm vợ. Nhưng anh bạn Fernand, xuất thân quý tộc, lại có thói quen chiếm lấy tất cả những gì mình thích bằng mọi giá. Thật bất hạnh cho Edmond, lần này chính Mercedès là người mà Fernand muốn đoạt lấy cho mình.

Ở Elbe, Napoléon hoàn toàn tin tưởng Edmond và giao cho anh nhiệm vụ chuyển một lá thư tới một người bạn cũ tại Pháp. Và khi Napoléon đã thoát khỏi hòn đảo, Fernand lợi dụng cơ hội để đổ tội cho Edmond bằng cách cáo buộc anh đã giúp đỡ Napoléon trong cuộc tẩu thoát. Tiếp tay cho mưu đồ đen tối của Fernand còn có cảnh sát trưởng Villefort, kẻ muốn che giấu những mối quan hệ nguy hiểm của cha hắn với Napoléon, nên không ngần ngại cho bắt giam Edmond. Bị cấm cố trong nhà ngục của lâu đài If trên một hòn đảo, chàng thủy thủ tội nghiệp làm quen với linh mục già Faria. Ông đã tận dụng 15 năm tù tội của Edmond để truyền đạt cho anh những kiến thức uyên bác của mình về toán học, các môn khoa học và kiếm thuật cũng như những hiểu biết sâu sắc khác. Và trong ngần ấy năm trời, Edmond không nguôi mối hận khắc sâu trong tim với Fernand.

BÁ TƯỚC MÔNGTƠ CRIXTÔ
Chương 1: Marseille

Ngày 24 tháng hai 1815 người gác bến ở Notre Dame de la Garde, báo hiệu thấy có con tàu ba cột buồm "Le Pharaon" đến từ Smyrne qua Trieste và Naples.

Ngay lập tức những kẻ hiếu kỳ kéo đến kín bãi đất bằng trước cổng đồn Saint - Jean.

Con tàu ấy tiến vào cảng với cả ba cánh buồm căng trên đài, với cánh buồm giáp mũi tàu và cả cánh buồm lớn hình thang mắc vào cột buồm phía đuôi tàu mà sao chạy lừ đừ và với một dáng vẻ rầu rĩ làm cho những kẻ hiếu kỳ cứ phải băn khoăn về khả năng có thể đã xảy ra một tai nạn gì đó trên tàu. Người chỉ huy việc lèo lái con tàu cập cảng là một chàng trai trẻ có cử chỉ nhanh nhẹn và đôi mắt sắc sảo, tuổi chừng mười tám đôi mươi, cao dong dỏng. Với đôi mắt màu huyền xinh đẹp và bộ tóc đen nhánh, cả con người anh ta thấm đượm một thần thái trầm tĩnh và quyết đoán đặc trưng cho những người đã từng vật lộn với hiểm nguy ngay từ thời thơ ấu.

Nỗi lo âu mơ hồ trùm lên đám đông đặc biệt đã thâm nhiễm vào một trong số những người xem ở bãi trước cổng đồn Saint - Jean, đến nỗi chẳng đợi được đến lúc con tàu cập bến cảng; ông ta nhảy ào xuống một cái xuồng nhỏ và ra lệnh chèo xuồng ra đón đầu tàu Pharaon.

Vừa trông thấy con người này, người thủy thủ trẻ tuổi rời khỏi vị trí của anh ở bên cạnh người lái tàu và tay cầm mũ đến đứng tựa vào thành tàu.

Người dưới xuồng kêu to:

- A! Dantès, anh đấy à, xảy ra chuyện gì thế và tại sao tàu anh lại tràn ngập vẻ ủ dột?

- Một tai họa lớn đã xảy ra, thưa ông Morrel, chàng trai trẻ trả lời, chúng tôi bị mất thuyền trưởng Leclère. ông đã chết vì một chứng sốt não trong đau đớn khủng khiếp và bất ngờ nhất:

sau một cuộc trò chuyện dài với người chỉ huy cảng, thuyền trưởng Leclère rời khỏi Naples người vật vã không yên; sau hai mươi bốn giờ ông lên cơn sốt và ba ngày sau ông qua đời.

Chúng tôi đã làm đám tang cho ông theo nghi thức thông thường, ông an nghỉ dưới đáy biển với một hòn đá tảng buộc vào chân.

- Thế đấy! Còn làm gì được nữa hả Edmond, người chủ tàu nói tiếp, tất cả chúng ta đều có thể chết; và khi mà anh đoán chắc với tôi rằng chuyến hàng...

- Được vẹn toàn, thưa ông Morrel, tôi đảm bảo với ông như vậy.

Đây là chuyến đi biển đem lại cho ông món lời ít nhất là 25.000 quan. Và bây giờ mời ông lên tàu, thưa ông Morrel, Dantès nói khi thấy người chủ tàu có ý sốt ruột, đây là người kế toán của ông, đó là ông Danglars vừa ở ca bin của ông ta bước ra và có thể cung cấp cho ông mọi tình hình ông muốn biết. Còn tôi phải lo việc thả neo và chuyển con tàu vào tang chế.

Đúng thế, con người được gọi dưới cái tên Danglars đã ra khỏi ca bin của hắn và bước ngay đến trước mặt ông chủ tàu. Hắn ta trạc hai mươi lăm tuổi. Với vẻ mặt khá u ám, xun x khúm núm với người trên mà kênh kiệu xấc xược với kẻ dưới: cho nên nói chung đoàn thủy thủ chẳng có ai ưa gì hắn còn Edmond Dantès thì ngược lại được mọi người yêu mến.

- Mà này, thưa ông Morrel, Danglars nói, ông biết rõ điều bất hạnh rồi chứ? Leclère là một người đi biển tuyệt vời.

- Nhưng mà, người chủ tàu nói trong khi dõi mắt nhìn theo Dantès đang loay hoay thả neo, tôi cho rằng một người đi biển chẳng cần phải già đến như anh nói mới có thể biết rõ nghề nghiệp của mình anh Danglars ạ. Hãy xem anh bạn Edmond của chúng ta đấy thôi, anh ta hành nghề như một người thành thạo chẳng cần nhờ đến bất kỳ ai chỉ bảo.

- Vâng, Danglars đáp trong khi đảo mắt nhìn xéo về phía Dantès với một ánh mắt căm ghét, vâng, thì là trẻ đấy và tuổi trẻ chẳng sợ bất kỳ cái gì. Thuyền trưởng vừa mới chết là anh ta nắm ngay lấy quyền chỉ huy chẳng thèm hỏi ý kiến ai và anh ta đã làm cho chúng tôi mất toi một ngày rưỡi ở đảo Elbe mà đáng lẽ ra là quay thẳng về Marseille.

- Về chuyện nắm quyền chỉ huy con tàu thì đó là nhiệm vụ của anh ta với tư cách là chức phó, ông chủ tàu nói, còn về chuyện bỏ mất một ngày rưỡi ở đảo Elbe thì anh ta sai rồi, trừ phi phải sửa chữa đôi chỗ hư hỏng trên tàu..- Dantès không chuyển một bức thư cho ông hay sao?

- Cho tôi ư, không có. Có một bức thư à?

- Tôi tưởng rằng thuyền trưởng Leclère đã giao một bức thư cho anh ta chuyển cho ông.

Lúc đó Dantès đã thả neo xong. Neo rơi xuống kéo theo dây xích kêu loảng xoảng.

- Này Dantès, lại đây đi, ông chủ tàu quay về phía chàng trai gọi. Tôi muốn hỏi vì sao anh dừng lại ở đảo Elbe?

- Thưa ông, đó là để thực hiện mệnh lệnh cuối cùng của thuyền trưởng Leclère, lúc sắp chết ông đã giao cho tôi một cái gói để chuyển cho đại thống chế Bertrand.

- Anh đã gặp Napoléon Bonaparte.

- Vâng. Người đã đến chỗ thống chế lúc tôi đang ở đó.

Morrel nhìn quanh rồi kéo Dantès ra một bên.

- Anh đã xử sự đúng Dantès ạ, anh đã theo đúng các chỉ thị của thuyền trưởng Leclère khi dừng lại ở đảo Elbe. Nhưng nếu người ta biết anh đã giao cái gói cho thống chế và đã nói chuyện với hoàng đế thì việc này có thể làm liên lụy đến anh.

- ông nói gì thế thưa ông, làm sao mà việc này lại liên lụy đến tôi được? Dantès nói: tôi không biết ngay cả đến cái gói mà tôi mang tới là cái gì và hoàng đế chỉ có hỏi tôi vài câu thông thường như người ta thường hỏi người mới gặp lần đầu.

- Có lẽ anh đúng. Này Dantès thân mến, nếu anh rảnh thì đến ăn tối với chúng tôi nhé.

- Xin miễn thứ cho tôi, thưa ông Morrel, xin lỗi ông vì tôi phải đến thăm hai người mà tôi đặc biệt quan tâm: đó là cha tôi và người yêu của tôi.

- Thế là đúng Dantès ạ, làm thế là đúng đấy.

Tôi biết anh là người con hiếu thảo và tôi lại quên mất rằng trong làng của những người Cata-lan đang có cô Mercédès kiều diễm đợi anh. Thật tuyệt! Edmond này, anh chẳng có gì đáng phàn nàn cả và ở đây anh có một người vợ chưa cưới xinh đẹp. Mà này, lúc hấp hối thuyền trưởng có giao cho anh một bức thư để chuyển cho tôi không?

- Thuyền trưởng không thể nào viết nổi bức thư đâu thưa ông. Nhưng việc này làm tôi nhớ đến phải xin ông nghỉ phép mười lăm ngày để cưới vợ và để đi Paris..- Đồng ý, tôi chẳng giữ anh đâu. Thời gian bốc dỡ hết hàng trên tàu sẽ ngốn mất của chúng ta sáu tuần, và ít ra là chúng ta sẽ không ra khơi trước thời hạn ba tháng. Có điều là sau ba tháng anh phải có mặt ở đây. Tàu Le Pharaon, ông chủ tàu vỗ vai người thủy thủ trẻ tuổi và nói tiếp, không thể nào ra khơi mà lại thiếu ông thuyền trưởng của mình.

- Thiếu ông thuyền trưởng của mình! Dantès reo lên, mắt long lanh vui sướng; hãy thận trọng với những điều mà ông vừa nói ra đấy thưa ông, bởi lẽ ông vừa nói đúng những mong muốn thầm kín nhất trong lòng tôi. ông có ý định sẽ giao cho tôi làm thuyền trưởng tàu Pharaon?

- Dantès thân mến của tôi ơi, cứ coi như là việc đã xong.

- Ôi, thưa ông Morrel, chàng thủy thủ trẻ tuổi kêu lên, nước mắt lưng tròng, nắm lấy tay ông chủ tàu; thưa ông Morrel, nhân danh cha tôi và Mercédès tôi xin cám ơn ông.

- Hay lắm, hay lắm, Edmond ạ. Hãy đến thăm cha anh, và Mercédès rồi sau đó quay lại gặp tôi nhé.

- Tạm biệt, thưa ông Morrel, và ngàn lần cám ơn ông.

Thế rồi chẳng để phí một giây, Dantès chạy về phía một ngôi nhà nhỏ nằm ở dãy trái của đường Meilhan, leo vội lên bốn tầng gác của một cầu thang tối om và dừng lại trước một cái cửa mở hé cho ta nhìn thấu tận trong cùng một căn phòng nhỏ. Căn phòng này là nơi cha Dantès ở.

Tin tàu Pharaon cập bến vẫn chưa đến tai ông lão.

- Bố ơi, người cha nhân hậu của con ơi!

Ông lão kêu lên một tiếng và quay lại; rồi khi nhìn thấy con trai, ông sà vào vòng tay con, toàn thân run rẩy và mặt tái mét.

- Bố ốm hay sao? - Chàng trẻ tuổi hỏi vẻ lo lắng.

- Không, không đâu Edmond thân yêu, con trai của ta, con của ta, không, ta không ốm đâu nhưng ta chẳng dám mong đợi con, và niềm vui, nỗi xúc động khi gặp lại con quá đột ngột và quá bất ngờ...

- Vậy bố bình tâm lại đi bố! Con đây mà.

Đúng là con thật đây mà! Con trở về và chúng ta sắp được sung sướng rồi. Cầu chúa xá tội cho con vì đã mừng đón niềm hạnh phúc được tạo nên bởi tang tóc của một gia đình khác! ông thuyền trưởng Leclère trung hậu đã mất rồi bố.ạ, và chắc là nhờ sự bảo trợ của ông Morrel con sẽ được thế chân ông. Bố ơi, bố có hiểu không?

Làm thuyền trưởng ở tuổi hai mươi! Với một trăm đồng louis tiền lương và được chia một phần lãi! Có phải điều đó vượt quá những gì mà một thủy thủ nghèo như con đã dám mơ tưởng tới hay không?

- Đúng, con trai ta, đúng đấy, ông lão nói, thật là sung sướng...

- Nhưng bố này, bố có sao không, có vẻ như là bố không được khỏe?

- Yên tâm, yên tâm! Cái đó sẽ chẳng hề gì.

Rồi ông lão như mất hết sức lực, ngã lộn về phía sau.

- Nào, nào! Bố ơi, bố cần một ly rượu vang; cái đó sẽ làm cho bố phục hồi lại; bố để rượu vang ở đâu?

- Không, cám ơn con, đừng tìm làm gì; bố không cần rượu vang đâu. ông lão nói.

- Có chứ, có chứ bố ơi, bố hãy chỉ chỗ cho con lấy. - Rồi anh mở hai hay ba cái tủ.

- Vô ích... ông lão nói, chẳng còn rượu vang nữa đâu.

- Thế nào, sao lại không còn rượu vang nữa!

Ba tháng trước đây, khi ra đi con đã để lại cho bố hai trăm phrăng cơ mà.

- ừ, ừ, Edmond, đúng vậy; nhưng con quên mất là khi đó con còn một món nợ nhỏ ở nhà hàng xóm Caderousse; hắn đã đòi bố và bảo rằng nếu bố không trả thay con thì hắn sẽ đòi số tiền ấy ở ông Morrel. Như vậy con hiểu chứ, vì sợ chuyện này làm phương hại đến con... nên bố đã trả cho hắn.

Dantès kêu lên:

- Nhưng bố ơi con đã nợ Caderousse những một trăm bốn mươi phrăng!

Ông lão ấp úng:

- ừ... ừ.

- Thế thì bố làm thế nào mà qua được ba tháng trời với sáu mươi phrăng! - Chàng trai lẩm bẩm.

- Ôi, lạy chúa! Lạy chúa tôi, xá tội cho con! -Edmond kêu lên và quỳ phủ phục trước ông lão.

- Dào! Con ở đây rồi mà. ông lão nói và mỉm cười.

- Vâng, con đây, chàng trai nói, là con đây với một tương lai tốt đẹp và một chút tiền bạc.

Nhưng có ai đang tới đấy bố ạ.

- Đó là Caderousse được tin con về và có lẽ là hắn đến để chúc mừng con trở về bình yên.

Edmond lẩm bẩm:

- Được, vẫn cứ còn những cái mồm nói một đằng mà lòng lại nghĩ một nẻo. Nhưng không.sao, hắn là một người hàng xóm trước kia đã giúp chúng ta nếu ta chào đón hắn.

Đúng lúc Edmond vừa kết thúc câu nói nhỏ ấy thì xuất hiện cái đầu đen và khuôn mặt rậm râu của Caderousse, đóng khung trong khuôn cửa ở đầu cầu thang.

- Này, thế là cậu đã về đấy à Edmond, hắn ta nói với giọng vùng Marseille quá nặng cùng nụ cười t toét để lộ những chiếc răng trắng như làm bằng ngà voi. Tôi vừa mới gặp Danglars ở ngoài cảng!

- Như ông thấy đấy, ông láng giềng Caderousse ạ và tôi sẵn sàng giúp ông việc gì cũng được để làm vui lòng ông. Dantès trả lời, cố che giấu vẻ lạnh nhạt của mình một cách vụng về bằng việc đề nghị giúp đỡ ông ta.

- Cám ơn, cám ơn; may quá tôi chẳng cần gì mà đôi khi lại chính là những người khác cần đến tôi cơ đấy (Dantès làm một động tác nhún vai). Tôi nói thế không phải là nói anh đâu chàng trai ạ, tôi đã cho anh vay tiền, anh đã trả tiền cho tôi, đó là cách đối xử giữa những người láng giềng tốt và chúng ta đã xong xuôi không mắc mớ gì.

Dantès nói:

- Người ta chẳng bao giờ hết mắc mớ với những người đã từng giúp đỡ mình, vì khi mà người ta không còn nợ tiền họ nữa thì vẫn cứ còn nợ họ sự hàm ơn.

- Nói chuyện ấy có ích gì! Cái gì đã qua là cho qua đi. Này cậu, ta hãy nói về chuyến trở về may mắn của cậu. Hình như cậu sắp trở thành thuyền trưởng tàu Pharaon phải không?

- ông Morrel có hứa dành cho tôi chức trách ấy.

- Điều đó làm cho tôi mừng vì thấy sự việc xoay chuyển có lợi cho cậu. - Caderousse nói tiếp.

- Bố ơi, Dantès quay lại nói với cha mình, xin bố cho phép, con đã về gặp bố, biết rằng bố vẫn khỏe mạnh và bố có tất cả những gì bố cần, bây giờ xin bố cho phép con đến thăm làng của những người Catalan.

- Thăm Mercédès à? Đi đi con. - ông già Dantès nói.

Edmond ôm hôn bố, gật đầu chào Caderousse rồi đi ra.

Caderousse còn nán lại một lúc, rồi từ biệt ông già Dantès, hắn ta xuống cầu thang và tìm gặp lại Danglars đang đợi hắn ở góc phố Senac.

- Này, anh có gặp nó không? - Danglars nói..- Tôi vừa ở chỗ nó ra đây.

- Nó có nói với anh về hy vọng được làm thuyền trưởng của nó không?

- Nó nói chuyện ấy cứ như là nó đã làm thuyền trưởng rồi ấy.

- Yên tâm! - Danglars nói, tôi cho rằng trong việc này nó có hơi quá nóng vội.

- Thế à! Hình như ông Morrel đã hứa với nó.

- Đến nỗi mà nó sướng rơn?

- Nghĩa là trong chuyện này nó tỏ ra ngạo mạn. Nó còn ngỏ lời muốn giúp đỡ tôi, cứ làm như nó là một nhân vật quan trọng ấy, mà chính tôi lại là người đã trao vào tay nó những đồng bạc trắng đầu tiên trong đời nó để nó chi dùng.

Vậy mà bây giờ ông Dantès chẳng còn cần đến bất kỳ một ai nữa, ông ta sắp trở thành thuyền trưởng rồi.

- › hay! Nó vẫn còn chưa trở thành thuyền trưởng kia mà. - Danglars nói. Và nó vẫn phải lòng cái cô bé người Catalan xinh đẹp ấy à?

- Say như điếu đổ! Nó đã đến đó rồi đấy, nó bỏ đi trước lúc tôi ra đây.

- Này, nếu anh đi cùng đường với tôi thì chúng ta sẽ dừng chân ở quán rượu La Réserve của nhà lão Pamphile và trong khi nhấp một ly rượu vang ta nghe ngóng tin tức nhé.

- Đi nào, Caderousse nói, nhưng anh trả tiền rượu chứ?

- Nhất định rồi. - Danglars trả lời.

Thế rồi cả hai người cùng thả bước về phía địa điểm đã chọn. Đến nơi họ gọi ngay một chai và hai ly.

Lão Pamphile vừa mới trông thấy Dantès đi qua đây chưa được mười phút.

Trong làng, vùng Marseille gọi là "làng những người Catalan" ở một ngôi nhà mà phía ngoài được mặt trời rọi vào tạo nên một màu lá vàng rụng đẹp rực rỡ, có một thiếu nữ xinh đẹp, tóc đen như nhung, đôi mắt huyền như mắt sơn dương đứng tựa lưng vào vách, đôi tay cô để trần đến khuỷu đang run rẩy vì bứt rứt bồn chồn, và cô dậm dậm xuống đất bàn chân uốn cong và mềm mại khiến ta hình dung ra được cái dáng thanh khiết, kiêu hãnh và rắn rỏi của bắp chân bị bó kín trong chiếc tất sợi bông màu đỏ có gót màu xám và xanh da trời.

Ngồi trên ghế cách cô ba bước là một chàng trai trạc hai mươi hai tuổi, anh ta làm chiếc ghế chao đảo bởi một động tác giật cục. Khuỷu tay tỳ lên một cái bàn mọt cũ kỹ, anh ta ngồi đó nhìn cô gái với vẻ bứt rứt khắc khoải pha lẫn nỗi bực dọc giận hờn. Cái nhìn của anh ta như.gạn hỏi nhưng nó bị chế ngự bởi ánh mắt đăm đăm và kiên quyết của cô gái.

- Nào Mercédès, - chàng trai nói, - hãy nhắc lại với tôi đi, tôi cầu xin cô đấy, hãy nói với tôi đến lần thứ một trăm rằng cô khước từ tình yêu của tôi mà mẹ cô đã ưng thuận; hãy làm cho tôi hiểu rõ rằng cô nhạo báng hạnh phúc của tôi, rằng cuộc đời tôi và cái chết của tôi đối với cô chẳng là cái gì hết. Ôi! Lạy chúa, lạy chúa tôi!

Đã mười năm nay tôi mơ tưởng trở thành chồng cô, và giờ đây tôi mất đi niềm hy vọng, đã từng là mục đích duy nhất của cuộc đời tôi!

- Tôi chưa từng bao giờ khích lệ anh trong niềm hy vọng ấy Fernand ơi, Mercédès trả lời.

Bao giờ tôi cũng nói với anh rằng: "Tôi yêu anh như một người anh, nhưng đừng có đòi hỏi tôi điều gì ngoài tình anh em vì trái tim tôi đã thuộc về một người khác". Có phải tôi luôn luôn nói với anh như thế không Fernand? Hãy bằng lòng với tình bạn của tôi, bởi vì, tôi nhắc lại với anh rằng đó là tất cả những gì mà tôi có thể hứa hẹn với anh và tôi chỉ hứa hẹn cái mà tôi dám chắc có thể cho anh được.

- Cô thật quá tàn nhẫn và quá ác nghiệt đối với tôi chỉ vì cô đang vô vọng đợi chờ một ai đó.

- Đúng đấy, tôi chẳng che giấu điều ấy làm gì, tôi chờ đợi và tôi yêu người mà anh vừa nhắc tới, nếu anh ấy không trở về, thì thay cho việc lên án sự không chung thủy mà anh nêu lên, tôi sẽ nói rằng anh ấy chết trong khi đang yêu tôi.

Chàng trai Catalan phác một cử chỉ cuồng nộ.

- Tôi hiểu anh, Fernand ạ, anh công kích anh ấy vì tôi không yêu anh. Này hãy tin tôi đi, việc tìm cách gây lộn với một người đàn ông là một phương kế tồi để làm vui lòng người đàn bà khi mà chị ta lại yêu người đàn ông ấy. Không, Fer-nand, đừng để cho mình bị cuốn theo những ý nghĩ xấu xa ấy. Không lấy được tôi thì anh hãy bằng lòng với việc có tôi làm bạn và làm em gái.

Mắt Fernand như bắn ra một tia chớp.

- Còn nếu chẳng may điều bất hạnh xảy đến với anh, Edmond của em, cô nói tiếp với cùng một thái độ điềm tĩnh không suy giảm nó chứng tỏ cho Fernand thấy rằng cô thiếu nữ này đã đi guốc vào bụng hắn, đã đọc được trong sâu kín nhất các ý tưởng độc ác của hắn, thì em sẽ trèo lên đỉnh mũi Morgon và đâm đầu xuống những tảng đá bên dưới.

Mặt Fernand trở nên tái xám trông thật kinh khủng. Hắn đứng dậy, đi một vòng trong căn lầu.rồi quay lại, dừng bước trước mặt Mercédès, mắt tối sầm và tay nắm chặt.

- Nhưng nếu hắn ta chết? Hoặc hắn ta quên cô rồi thì sao?

- Mercédès! - Từ phía ngoài ngôi nhà vang lên tiếng gọi mừng rỡ.

- A! - Cô thiếu nữ reo lên, mặt đỏ bừng vì vui sướng và hồi hộp - anh thấy rõ là anh ấy chẳng quên tôi vì anh ấy đây kia thôi!

Và cô lao ra mở cửa và reo lên:

- Đến với em đi Edmond! Em đây mà.

Fernand tái mặt run rẩy, bước lùi lại như một người đi đường bắt gặp rắn, rồi chạm phải chiếc ghế, hắn gieo mình ngồi phịch xuống.

Edmond và Mercédès đã trong vòng tay nhau. Mặt trời rực rỡ vùng Marseille rọi qua cửa trùm lên họ một làn ánh sáng chói lòa. Thoạt đầu họ chẳng thấy gì hết xung quanh họ. Một niềm hạnh phúc bao la cách ly họ với thế giới.

Đột nhiên Edmond bắt gặp gương mặt u ám của Fernand hiện lên trong bóng râm. Hắn tỏ thái độ hăm dọa, bằng một động tác mà bản thân hắn không ý thức được rõ. Chàng trai Catalan nắm tay vào chuôi dao giắt ở thắt lưng.

- A! Xin lỗi. - Dantès nói và nhíu mày. - Tôi không nhận ra rằng chúng ta những ba người.

Ông này là ai vậy?

- ông đây sẽ là người bạn tốt nhất của anh, Dantès ạ, vì đó là người bạn, người anh của em, đó chính là Fernand; nghĩa là người mà sau anh, Edmond ạ, em yêu quý nhất trên đời, anh không nhận ra anh ấy sao?

- à, có chứ. - Edmond nói, và vẫn không rời Mercédès, tay anh nắm chặt bàn tay cô, anh chìa bàn tay kia cho chàng trai Catalan với một cử chỉ của tình thân hữu.

Và qua những lời nói ấy, cô thiếu nữ hướng khuôn mặt lộ rõ vẻ đòi hỏi khẩn thiết về phía chàng trai Catalan. Dường như bị thôi miên bởi ánh mắt của cô, hắn từ từ lại gần Edmond và chìa tay cho anh.

Lòng căm ghét của hắn cũng giống như một làn sóng bất lực, dù có cuồng nộ đến mấy cũng tan vỡ trước ảnh hưởng mà người đàn bà này tác động lên hắn.

Nhưng vừa chạm phải bàn tay Edmond thì hắn sực tỉnh ra rằng hắn đã làm tất cả những gì mà hắn có thể làm được và hắn lao ra khỏi nhà.

- Ôi! - Hắn vừa chạy vừa kêu lên như một người mất trí với đôi bàn tay sục vào mái tóc. -.ại! Có ai giúp tôi thoát khỏi được thằng cha ấy không? Khổ thân tôi! Khổ thân tôi!

- Này! Chàng Catalan! Này! Fernand! Cậu chạy đi đâu thế? - Một giọng nói vang lên.

Chàng trai trẻ lập tức dừng lại, ngó nhìn quanh mình và nhận ra Caderousse đang ngồi cùng bàn với Danglars dưới một tán lá dày.

- Này! - Caderousse nói - sao cậu không đến đây? Cậu vội vã đến nỗi chẳng còn thì giờ để chào hỏi bạn bè hay sao?

- Nhất là khi các bạn lại còn cả một chai gần đầy trên bàn trước mặt đây. - Danglars nói thêm vào.

Fernand nhìn hai người với một vẻ mặt ngây dại và chẳng nói gì.

- A! - Cậu xem này, - Caderousse vừa nói vừa nháy mắt với ông bạn của hắn, câu chuyện là thế này: Fernand mà anh đang thấy là một chàng trai Catalan tốt bụng và tử tế, một trong những dân chài giỏi nhất của Marseille, hắn phải lòng một thiếu nữ xinh đẹp tên là Mercédès; nhưng thật không may hình như cô gái xinh đẹp ấy lại là người yêu của chàng thuyền phó tàu Pharaon; và hôm nay khi tàu Pharaon đã vào cảng thì chàng Fernand khốn khổ sẽ bị ra rìa.

- Cậu bé tội nghiệp! - Danglars nói tiếp giả đò như hết lòng thương xót chàng trai ấy.

- Nhưng làm thế nào được? Anh ta chẳng ngờ lại gặp Dantès trở về bất thình lình như vậy.

Anh ta đã tin rằng có thể Dantès chết. Thế bao giờ họ làm đám cưới?

- ồ! Đám cưới chưa tiến hành đâu! - Fernand cằn nhằn.

- Không đâu, họ sẽ tổ chức đám cưới, đó cũng là sự thật y như Dantès sẽ làm thuyền trưởng tàu Pharaon, phải không Danglars? -Caderousse nói.

Danglars rùng mình vì cú đánh bất ngờ này.

Hắn quay về phía Caderousse và nhận ra rằng bộ mặt của ông bạn gần như đã ngây độn ra vì say rượu.

- Nào, hắn nói trong khi rót đầy các ly, chúng ta hãy uống mừng thuyền trưởng Edmond Dantès, người chồng của cô gái Catalan xinh đẹp!

Caderousse nặng nề nâng ly lên miệng và nốc cạn một hơi. Fernand cầm lấy ly của mình và đập vỡ tan tành.

Chính lúc đó, Edmond và Mercédès hớn hở đi ngang qua quán rượu.

- ồ! Dantès! ồ! Người đẹp! Ghé vào đây một lúc nào! Ôi chao! Edmond! Cậu không trông thấy các bạn mình ư?.- Như vậy thì đám cưới sẽ được tổ chức ngay chứ ông Dantès? - Danglars vừa chào đôi trẻ vừa nói.

- Đúng thế, càng sớm càng tốt, thưa ông Danglars. Hôm nay chúng tôi sẽ bàn với cha tôi, và ngày mai hoặc ngày kia thì thết tiệc đính hôn ở đây tại quán rượu này. Tôi mong các bạn sẽ tới dự, tức là nói rằng ông đã được mời, ông Danglars, cả anh cũng thế, Caderousse ạ.

- Còn Fernand, - Caderousse vừa nói lè nhè vừa cười - Fernand cũng được mời chứ?

- Anh của vợ tôi cũng là anh tôi, Edmond nói, và chúng tôi, Mercédès và tôi rất lấy làm tiếc nếu như anh lại xa rời chúng tôi trong một dịp như vậy.

Fernand mở miệng định trả lời; nhưng tiếng nói tắt đi trong họng và hắn không thể thốt ra được một lời.

- Ngày hôm nay xin cha mẹ ưng thuận, ngày mai hay ngày kia là lễ đính hôn... Trời ơi! ông quá vội đấy thuyền trưởng ạ.

- Bao giờ người ta cũng vội để trở nên sung sướng ông Danglars ạ. Nhưng không phải chỉ vì lòng vị kỷ mà tôi hành động như thế mà còn vì tôi phải đi Paris.

- A! Thật thế à! Đi Paris! Anh có công việc ở đó à?

- Không phải là việc tôi mà là một ủy thác cuối cùng của người thuyền trưởng tội nghiệp của chúng tôi, ông Leclère. ông hiểu chứ Danglars, việc đó là thiêng liêng. Vả chăng đừng ngại, tôi chỉ dùng thời gian để đi và về thôi mà.

- Phải, phải, tôi hiểu. Danglars nói rõ to.

Rồi hắn hạ thật thấp giọng xuống:

- Đến Paris rõ ràng là để chuyển bức thư mà đại thống chế đã giao cho nó. Chà chà! Cái thư này làm cho ta nảy ra một ý tưởng, một ý tưởng tuyệt vời! A ha! Dantès, anh bạn của tôi, anh còn chưa là thuyền trưởng mà.

Rồi quay lại phía Edmond đã đang bỏ đi, hắn nói:

- Lên đường may mắn nhé!

- Cám ơn. Edmond ngoái đầu lại trả lời và kèm theo là một cử chỉ thân hữu.

Thế rồi đôi người yêu bước tiếp trên đường, thanh thản và vui tươi như hai kẻ được ân sủng bay lên thiên đàng..

BÁ TƯỚC MÔNGTƠ CRIXTÔ
Chương 2: Âm mưu

- Ái chà cái chuyện này! ông bạn thân mến ạ, Danglars nói với Fernand. Tôi cho rằng đây là một đám cưới mà nó chẳng đem lại niềm vui cho tất cả mọi người.

- Nó làm tôi tuyệt vọng. - Fernand nói.

- Anh yêu Mercédès à?

- Tôi tôn thờ cô ấy!

- Xem nào, Danglars nói, tôi thấy anh là một chàng trai dễ thương, và tôi muốn, thề có quỷ thần, giải thoát cho anh khỏi khổ đau; nhưng mà...

- Phải, Caderousse nói, ta hãy xem nào.

- Bạn thân mến, Danglars nói tiếp, cậu đã say tới ba phần tư rồi hãy uống hết chai này đi và anh sẽ say sưa hoàn toàn. Uống đi và đừng có dây vào việc chúng tôi làm: đối với việc ấy phải hoàn toàn tỉnh táo. Để giải thoát cho anh khỏi đau khổ thì cần phải làm cho Dantès không cưới được người mà anh ta yêu. Và giả sử rằng giữa Edmond và Mercédès có một bức tường thành của nhà tù thì cũng như giữa họ là một tấm bia mộ.

- Phải, có cách gì bỏ tù được Dantès. Anh có nghĩ ra cách ấy không ?

- Tìm cho kỹ, Danglars nói, sẽ có thể kiếm ra.

- Anh hãy kiếm cách và tôi thực hiện nó, miễn là không phải chuyện chết người, vì Mer-cédè s đã thề rằng cô ấy sẽ tự sát nếu người ta giết Dantès.

- Anh bồi, Danglars nói, cho một cái bút, mực và giấy! Tôi nghĩ ra rồi, chẳng hạn như trong chuyến đi vừa qua của Dantès, việc hắn ta đã ghé vào Naples và vào đảo Elbe mà có ai đó tố giác với ngài Biện lý hoàng gia rằng hắn là người theo Bonaparte... chỉ cần cầm lấy cái bút, như tôi làm đây này, chấm vào mực rồi viết bằng tay trái để cho không ai nhận ra được chữ của mình, một đơn tố giác nho nhỏ được dự kiến như sau.

Và Danglars nói là làm ngay, hắn viết bằng tay trái một thứ chữ lộn nhào chẳng có chút gì giống với cách viết thông thường thành những.dòng sau đây và hắn chuyển cho Fernand và Fer-nand lẩm nhẩm đọc:

"Kính thưa ngài Biện lý hoàng gia, một người trung thành với triều đình và giáo hội xin báo với ngài rằng tên Edmond Dantès, thuyền phó tàu Le Pharaon, sáng nay đến từ Smyrne, sau khi đã ghé Naples và đảo Elbe mang một bức thư cho Napoléon và Napoléon đã giao cho y một bức thư để chuyển cho hội đồng khôi phục chế độ Bonaparte ở Paris. Ta sẽ có chứng cứ khi bắt giữ hắn, vì có thể tìm thấy bức thư này hoặc trong người hắn, hoặc ở nhà cha hắn, hoặc trong ca bin của hắn trên tàu Pharaon".

Danglars nói tiếp:

- Hay quá, thế này thì cuộc trả thù của anh không thể có cách gì mà quật lại anh được. Bây giờ chỉ còn mỗi việc là gấp cái thư này lại, như tôi làm đây, và viết lên trên: "Kính gửi Ngài Biện lý hoàng gia". Thế là sẽ xong chuyện.

Và Danglars vừa viết địa chỉ vừa đùa giỡn.

- ừ, thế là sẽ hết chuyện, Caderousse kêu lên, hắn đã chăm chú nghe đọc lá thư và bằng bản năng hắn hiểu tất cả những bất hạnh mà một cuộc tố giác tương tự như vậy có thể dẫn tới.

Hắn nói tiếp: - Nhưng đó là một việc xấu xa ô nhục. Dantès là bạn tôi và tôi không muốn người ta làm hại nó.

- Này! Có người quái nào nghĩ đến dùng việc này mà hại nó chứ! Chẳng phải tôi cũng không phải Fernand!

Hắn cầm lấy lá thư tố giác, vò nhầu trong lòng bàn tay rồi ném vào một góc giàn dây leo.

- Hay thật, Caderousse nói. Và bây giờ chúng ta về thôi. Về chứ, Fernand? Về Marseille cùng chúng tôi chứ?

- Không, Fernand trả lời, tôi quay lại làng của những người Catalan.

Nhưng đi được độ hai chục bước, Danglars quay đầu lại và thấy Fernand chạy bổ đến chỗ giàn dây leo, nhặt tờ giấy nhét nó vào túi; rồi lập tức lao theo hướng vào thành phố.

- Nào, nào, Danglars lẩm bẩm, mình cho rằng bây giờ vấn đề đã được tung ra rồi và chỉ còn cách để cho sự việc tiến hành.

Hôm sau là một ngày đẹp trời. Ngay từ mười một giờ sáng quán rượu đã đông nghịt những người đi dạo có vẻ nóng ruột. Đó là những thủy thủ được ưu đãi của tàu Pharaon và một vài người lính bạn của Dantès. Mọi người đều muốn làm.vinh dự cho cặp tân hôn nên đã diện những bộ quần áo đẹp nhất của họ.

Đến sau họ một lát, ông Morrel bước vào phòng, được các thủy thủ tàu Pharaon chào đón bằng cách nhất loạt vỗ tay hoan hô. Đối với họ sự hiện diện của ông chủ tàu mặc nhiên xác nhận lời đồn đại đã lan truyền trước đó rằng Dantès sẽ được cử làm thuyền trưởng; và vì Dantès được mọi người trên tàu rất mực yêu quý nên những con người trung hậu này cũng muốn cám ơn ông chủ tàu.

Một nhóm nhỏ trèo lên đồi. Nhóm này là bốn cô thiếu nữ bạn thân của Mercédès và cũng là người Catalan như cô, họ đi theo Mercédès đang khoác tay Edmond sánh bước. Đi bên cạnh họ là ông lão Dantès và đằng sau tất cả là Fer-nand bước đi với nụ cười hiểm ác.

Những người trong quán rượu vừa trông thấy đôi tân hôn cùng những người đi theo thì ông Morrel đã chạy xuống đón họ. Thấy ông đến, Edmond rời tay vợ sắp cưới chuyển sang khoác tay ông Morrel. ông chủ tàu và Edmond là những người đi đầu tiên bước lên bậc thang gỗ dẫn lên phòng có bày tiệc đính hôn.

- Thưa cha, Mercédès nói lúc dừng lại cạnh bàn tiệc, con mời cha ngồi bên phải con, còn bên trái tôi mời người mà tôi đã nhận làm anh, nàng nói với một giọng dịu ngọt, nó xuyên thấu đến tận cùng trái tim Fernand như một nhát dao găm.

Cùng lúc ấy Dantès mời ông Morrel ngồi bên phải mình còn bên trái là Danglars; rồi anh lấy tay ra hiệu mời mọi người chọn chỗ ngồi tùy thích. Những chiếc xúc xích vùng Arles và những con tôm rồng đã được chuyển đến bàn tiệc cùng tất cả các món ăn khai vị ngon tuyệt mà những người dân chài gọi chung là hải sản.

Edmond đứng lên nói:

- Mercédès còn chưa là vợ tôi, đúng thế...

(anh rút đồng hồ ra). Nhưng, nhưng sau một giờ rưỡi nữa nàng sẽ là vợ tôi! Nhờ có món tiền ông Morrel cho vay mà mọi khó khăn đã được khắc phục. Chúng tôi đã nộp lệ phí cho lễ thành hôn và hai giờ rưỡi chiều nay ông thị trưởng Marseille sẽ đợi chúng ta ở tòa thị chính. Chuông đồng hồ vừa đánh một giờ mười lăm phút, tôi nghĩ rằng mình chẳng sai lầm gì nhiều khi nói rằng sau một giờ ba mươi phút nữa Mercédès sẽ được gọi là Bà Dantès.

Mọi người cùng bật ra một tiếng kêu ngạc nhiên, trừ có ông lão Dantès ngồi cười thoải mái để lộ những chiếc răng vẫn còn đẹp. Mercédès mỉm cười, đỏ bừng cả mặt. Fernand lật bật nắm.tay vào chuôi con dao hắn vẫn giắt ở thắt lưng.

Một đám mây lửa nung đốt mi mắt hắn.

- Thế còn các thủ tục khác, Danglars rụt rè bắt bẻ: còn hôn ước, còn các giấy tờ?

- Hôn ước ư, Dantès vừa nói vừa cười, hôn ước đã làm xong. Mercédès chẳng có tài sản gì, tôi cũng không có nốt! Chúng tôi cưới nhau theo chế độ cộng đồng tài sản, thế thôi! Điều đó chẳng có gì nhiều để mà dài dòng văn tự và cũng chẳng phải nộp nhiều lệ phí.

Câu nói đùa này làm bùng nổ những tiếng reo vui và hoan hô.

- Như vậy bữa tiệc đính hôn chúng ta dự đây, Danglars nói, lại vừa khéo là bữa tiệc cưới.

- Không đâu, Dantès nói, các bạn cứ yên tâm.

Sáng mai tôi đi Paris. Bốn ngày đi bốn ngày về, một ngày để thi hành một cách trung thực nhiệm vụ mà tôi được giao phó và ngày mùng một tháng ba tôi đã về rồi; vậy ngày mùng hai tháng ba sẽ là tiệc cưới thực sự.

Viễn cảnh về một bữa tiệc sắp tới lại khiến cho cử tọa vui nhộn lên gấp bội.

- Chúng ta đi chứ? Mercédès dịu dàng hỏi.

- Đây là tiếng chuông hai giờ rồi đấy mà, họ đợi chúng ta lúc hai giờ mười lăm.

- Phải, phải, chúng ta đi thôi! - Dantès nói và đứng ngay lên, tất cả khách mời kéo theo sau.

Cùng lúc đó, Danglars không rời mắt khỏi Fernand đang ngồi trên bệ cửa sổ, thấy hắn ta giương to đôi mắt nhớn nhác hoảng loạn, đứng bật dậy rồi lại buông mình ngồi phịch xuống cái khuôn cửa sổ ấy. Gần như đúng lúc ấy thì một tiếng động có âm sắc đục vang lên ở cầu thang.

Tiếng vang của bước đi nặng nề, tiếng người nói, tiếng lách cách va chạm của vũ khí bao trùm lên những tiếng biểu lộ sự kinh ngạc của đám khách dự tiệc.

Tiếng động đến gần, ba tiếng gõ vang lên sau cánh cửa; mọi người nhìn nhau với ánh mắt kinh ngạc.

- Nhân danh pháp luật! Một giọng nói vang vang ngoài cửa, nhưng không có lấy một lời nào đáp lại.

Lập tức cánh cửa mở ra và một viên cẩm đeo băng màu cờ chéo qua vai bước vào phòng theo sau là bốn người lính mang súng cùng một viên cai chỉ huy.

- Thưa các ông, ai trong số các ông là Ed-mond Dantès?

Mọi cái nhìn đều quay về phía chàng trai lúc này đang xúc động mạnh nhưng vẫn giữ được vẻ đường hoàng, anh bước lên một bước và nói:.- Tôi đây, thưa ông, ông muốn gì ở tôi?

- Edmond Dantès, viên cẩm nhắc lại, nhân danh pháp luật tôi đến bắt ông!

- ông bắt tôi! - Edmond nói, mặt hơi tái đi.

- Nhưng vì sao lại bắt tôi?

- Tôi không biết, thưa ông, nhưng ngay trong cuộc thẩm vấn đầu tiên ông sẽ được rõ điều đó.

Ông Morrel hiểu rằng không thể làm gì trong cái tình thế không tài nào lay chuyển được này.

- Thế này có nghĩa là thế nào? Caderousse nhíu đôi lông mày hỏi Danglars lúc này đang giả vờ sửng sốt.

Caderousse đưa mắt tìm Fernand: hắn đã chuồn mất. Câu chuyện buổi chiều hôm qua lúc này hiện lên rõ ràng một cách đáng sợ trong tâm trí anh ta.

- ồ! - Anh ta nói bằng một giọng khản đặc.

- Đây có phải là hậu quả của câu nói đùa của anh hôm qua không hả Danglars? Trong trường hợp này, bất hạnh sẽ đến với kẻ nào gây ra nó, bởi vì chuyện này thật rất buồn.

- Hoàn toàn không phải! - Danglars kêu lên, anh biết đấy, hoàn toàn trái lại vì tôi đã xé vụn tờ giấy rồi mà.

- Không anh có xé đâu, Caderousse nói, anh chỉ ném nó vào một xó, có thế thôi.

Trong khi hai người nói với nhau như vậy thì Dantès vừa mỉm cười vừa bắt tay tất cả các bạn bè và nói:

- Xin các bạn hãy yên tâm, sự nhầm lẫn sẽ được làm sáng tỏ chắc là ngay từ khi tôi chưa kịp vào tù.

Dantès bước xuống bậc thềm, đi sau viên cẩm và có toán lính vây quanh. Một chiếc xe cửa mở toang, đợi ngoài cổng. Anh bước lên xe, hai người lính và viên cẩm bước lên theo, cửa xe đóng sập lại rồi chiếc xe quay lại con đường đến Marseille.

- Vĩnh biệt anh Dantès! Vĩnh biệt Edmond!

Mercédès vừa gào lên vừa lao ra ngoài lan can.

Người tù nghe thấy tiếng kêu cuối cùng như một tiếng nức nở vọt ra từ trái tim tan nát của người vợ chưa cưới, anh thò đầu qua cửa xe và kêu to:

- Hẹn gặp lại Mercédès! Rồi chiếc xe mất hút chỗ góc pháo đài Saint-Nicolas.

Chỉ có một mình ông Morrel đi theo Dantès để nghe ngóng tin tức, bỏ lại các khách dự tiệc trong phấp phỏng lo âu và buồn bã.

Lúc ông trở lại, Mercédès và người cha già chạy ngay đến. ông Morrel mất hết thần sắc, mặt tái mét. - Thế nào ông? - Họ kêu lên cùng một giọng lo lắng.

- Này các bạn của tôi! - ông chủ tàu vừa lắc đầu vừa nói. Câu chuyện nghiêm trọng hơn là chúng ta tưởng. Người ta buộc tội anh ấy là một nhân viên của tổ chức khôi phục chế độ Bonaparte.

Thực ấy đó là một lời buộc tội khủng khiếp.

Mercédès bật lên một tiếng kêu còn ông lão buông mình ngã xuống một cái ghế tựa.

- Ôi, Caderousse thì thầm, anh đã lừa tôi Danglars ơi, trò đùa đã được thực hiện. Nhưng tôi không muốn để cụ già này và cô thiếu nữ ấy phải chết vì đau khổ, và tôi sẽ nói với họ tất cả mọi chuyện.

- Anh hãy im đi, khổ quá! - Danglars kêu lên tay nắm chặt bàn tay Caderousse. Ai bảo anh rằng Dantès đích thực không phải là kẻ phạm tội? Con tàu đã ghé đảo Elbe, hắn đã xuống đảo, ở lại cả một ngày ở Porto-Ferajo; nếu người ta tìm thấy cái thứ nào đó gây liên lụy cho Dantès thì kẻ nào bảo vệ nó sẽ bị coi là tòng phạm.

- Thế thì chờ xem vậy. - Caderousse thì thào, đờ đẫn.

- ừ, chờ xem vậy. - Danglars nói. - Nếu hắn vô tội, người ta sẽ thả nó. Nếu nó phạm tội thì vì một kẻ phiến loạn mà làm hại mình là vô ích.

- Thế thì chúng mình đi đi, tôi không thể nào nán lại đây lâu hơn được nữa.

- ừ, đi nào. - Danglars nói, sướng rơn vì tìm được người bạn đường để cùng lẩn đi. - Hãy để kệ họ tự thoát ra khỏi đó theo khả năng của mình.

Tất cả bỏ đi: thế là Fernand lại trở thành chỗ dựa của cô thiếu nữ, hắn nắm tay cô đưa về làng của những người Catalan. Những người bạn của Dantès cùng nhau dìu người cha gần như ngất xỉu đi theo đường Meilhan.

Chẳng mấy chốc lời đồn đại rằng Dantès vừa mới bị bắt vì là nhân viên của tổ chức phục hồi Bonaparte lan ra khắp thành phố.

- Này ông bạn Danglars thân mến của tôi, ông có thể nào tin được điều đó không? - ông Morrel hỏi khi vừa rảo bước bắt kịp người kế toán của mình đang đi cùng Caderousse. Trong khi chờ đợi câu trả lời, ông Morrel nói tiếp: -Thế là tàu Pharaon không có thuyền trưởng.

- ồ! - Danglars nói. - Chúng ta chỉ có thể lại ra đi sau ba tháng nữa, vì thế hy vọng rằng từ nay đến lúc ấy Dantès sẽ được trả tự do.

- Có thể lắm, nhưng mãi tới lúc đó ư?.- Sao, từ nay đến lúc đó thì đã có tôi đây, thưa ông Morrel, Danglars nói, ông biết rằng tôi biết cách điều khiển con tàu cùng ngang với bất kỳ thuyền trưởng đường trường nào chứ.

Khi Edmond ra tù thì anh ta lấy lại chỗ ấy còn tôi lại về chỗ cũ của tôi, thế là mọi việc giải quyết xong.

- Cám ơn Danglars, ông chủ tàu nói, đó là điều thực sự dung hòa được tất cả mọi người.

Anh hãy nắm lấy quyền chỉ huy, tôi trao quyền cho anh đấy, và hãy trông nom việc bốc dỡ hàng:

dù các cá nhân có gặp tai họa thế nào cũng không bao giờ được để tổn hại đến công việc.

- Xin ông yên tâm, thưa ông.

Rồi ông chủ tàu từ biệt hai người.

Danglars nói với Caderousse:

- Anh xem, sự việc xoay chuyển thế đấy. Bây giờ anh có còn muốn đi bảo vệ Dantès nữa không?

- Không, nhất định không rồi. Nhưng thật khủng khiếp khi một chuyện đùa giỡn có thể gây ra hậu quả đến thế.

- Thế đấy! Ai đã làm nên chuyện? Người đó không phải là tôi cũng chẳng phải là anh, có đúng không? Đó là Fernand. Chúng ta chỉ còn một cách là giữ mồm giữ miệng, đừng để lọt ra một lời nào về tất cả chuyện ấy, và giông tố sẽ qua đi mà không có sấm sét.

- Amen! - Caderousse nói và ra hiệu chào Danglars rồi rẽ sang đường Meilhan.

- Tốt quá! - Danglars tự nhủ, mọi việc đều theo chiều hướng ta đã dự tính từ trước: vậy là mình tạm thời trở thành thuyền trưởng, và nếu Caderousse cái đồ ngu đần này có thể im đi cho thì mình sẽ là thuyền trưởng thực sự. Vậy chỉ còn mỗi một trường hợp đáng ngại là tòa án thả Dantès? ồ! Nhưng mà, hắn nói thêm với một nụ cười, tòa án là tòa án, và mình trông cậy ở họ..

BÁ TƯỚC MÔNGTƠ CRIXTÔ
Chương 3: Pháo đài IF

Lúc này Gérard de Villefort đang hạnh phúc hết cái mức mà một con người có thể vươn tới bởi ông ta vốn đã giàu có, mới hai mươi bảy tuổi đã giữ một chức vụ cao trong ngành tòa án, lại sắp cưới một cô gái trẻ và đẹp mà mình yêu, không phải là say đắm mà là có lý trí, và ngoài sắc đẹp đáng kể, cô vợ chưa cưới Renée de Saint Méran của ông ta còn thuộc về một trong những dòng họ danh giá nhất thời ấy, hơn nữa nàng còn đem lại cho chồng một món hồi môn năm mươi ngàn đồng equy và món tiền này đến một ngày nào đó sẽ tăng thêm nửa triệu nữa từ một gia sản được thừa kế.

Hôm ấy, Gérard de Villefort đang dự bữa ăn tối ở nhà ngài de Saint - Méran thì có người đến báo tin rằng có một bị can vừa bị bắt giữ. Thế là ông ta phải cáo biệt cái cử tọa thú vị ấy và đi đến tòa án để tiến hành thẩm vấn. Villefort đi dọc theo phố lớn, vừa tới góc phố thì một người hình như đã đợi sẵn để đón đường, gặp ông ta.

Đó là ông Morrel.

- A! Xin chào ông de Villefort! - Con người trung hậu ấy reo lên khi gặp ông Phó biện lý.

Tôi vô cùng sung sướng được gặp ông. ông hãy tưởng tượng xem, người ta vừa phạm phải một sự nhầm lẫn kỳ lạ nhất, phi thường nhất:

họ vừa bắt giữ người thuyền phó con tàu của tôi - Edmond Dantès.

- Tôi biết việc này, thưa ông, ông Villefort nói, và tôi đến tòa để thẩm vấn anh ta đây.

- ồ! Thưa ông, ông Morrel nói tiếp do tình thân với chàng trai thúc đẩy, ông chưa biết rõ con người mà người ta buộc tội đâu, còn tôi thì tôi biết rõ anh ta: ông hãy hình dung đó là một con người hiền lành nhất, trung thực nhất và là một trong những thủy thủ giỏi nhất của toàn ngành hàng hải thương mại. Ôi, thưa ông de Villefort, tôi xin gửi gấm anh ta nơi ông một cách rất thành thực và bằng tất cả tấm lòng tôi.

- Thưa ông, ông Phó biện lý trả lời, ông có thể hoàn toàn yên tâm, và ông không cần phải nhờ cậy ở sự công bình của tôi một cách vô ích nếu bị can vô tội, nhưng nếu ngược lại anh ta.phạm tội thì tôi sẽ buộc phải thi hành nhiệm vụ của mình.

Nói đến đấy thì ông ta vừa bước tới cửa nhà mình, một ngôi nhà tựa lưng vào cơ quan tòa án.

Ông ta bước vào một cách oai vệ sau khi đã chào ông chủ tàu khốn khổ với một sự lịch thiệp lạnh lùng làm cho ông này đứng đờ ra tại chỗ.

Villefort đi ngang qua tiền sảnh, đưa mắt liếc xéo Dantès và sau khi cầm một tập giấy tờ do một viên chức trao cho, ông đi khuất vào phòng và ra lệnh:

- Cho dẫn người tù vào.

Cái nhìn ấy nhanh đến thế mà đã đủ cho Villefort hình thành một ý tưởng về con người mà ông ta sắp phải thẩm vấn: ông đã nhận ra vẻ thông minh trong vầng trán rộng và nở nang, lòng can đảm trong con mắt nhìn chăm chú và hàng lông mày nhíu lại ấy, cùng với tính thẳng thắn trong đôi môi dày và hơi hé mở để lộ ra hai hàng răng trắng như ngà.

Sau đó một lát thì Dantès bước vào. Khuôn mặt chàng trai vẫn tái xanh nhưng điềm tĩnh và tươi cười. Anh chào ông quan tòa với một vẻ lễ độ tự nhiên, rồi đưa mắt tìm chỗ ngồi cứ như thể anh đang ở trong phòng khách của ông chủ tàu Morrel.

- ông là ai và tên là gì? - Villefort hỏi trong khi lật xem những trang hồ sơ mà người viên chức chuyển cho ông lúc đi vào.

- Tôi tên là Edmond Dantès, thưa ông, chàng trai trả lời với một giọng điềm tĩnh và ngân vang, tôi là thuyền phó trên tàu Le Pharaon thuộc sở hữu của ông Morrel và con trai.

- ông bao nhiêu tuổi? - Villefort hỏi tiếp.

- Mười chín. - Dantès trả lời.

- ông làm gì vào lúc ông bị bắt?

- Tôi đang dự tiệc đính hôn của chính tôi, thưa ông. - Dantès nói với giọng hơi xúc động, vì sự tương phản thật đau đớn giữa những phút giây vui sướng ấy với cái nghi thức sầu thảm đang tiến hành. - Tôi sắp cưới vợ, một người mà tôi đã yêu từ ba năm nay.

- ông đã từng phục vụ thời Hoàng đế?

- Tôi sắp được phiên chế vào hải quân thì ông ta bị phế truất.

- Người ta nói thái độ chính trị của ông là quá khích, Villefort nói, không ai rỉ tai ông ta một lời nào về chuyện này nhưng ông ta chẳng tiếc gì mà không đặt ra một câu hỏi như đưa ra lời buộc tội.

- Thái độ chính trị của tôi, của tôi ư, thưa ông? Than ôi! Nói ra thì hơi xấu hổ, nhưng thật.tôi chưa bao giờ có cái mà người ta gọi là thái độ chính trị: tôi vừa mới mười chín tuổi như tôi đã có hân hạnh nói điều đó với ông; tôi không biết tí gì, số tôi cũng chẳng làm được việc gì lớn; việc nho nhỏ mà tôi đang làm và tôi sẽ làm nếu người ta thuận cho tôi cái chỗ tôi hằng khao khát ấy thì cũng là nhờ ông Morrel cả, ông là người mà tôi phải mang ơn. Như thế thì toàn bộ thái độ của tôi, tôi không nói là chính trị mà là về đời sống riêng tư, bó hẹp trong ba tình cảm này: tôi yêu cha tôi, tôi kính trọng ông Morrel và tôi tôn thờ Mercédès. Đấy, thưa ông, đấy là tất cả những gì mà tôi có thể nói với quan án, ông thấy không chẳng có gì đáng quan tâm đối với tòa án.

Trong khi Dantès nói, Villefort quan sát vẻ mặt anh ta thấy sao mà hiền lành và cởi mở đến thế.

- Tôi thấy ông tỏ ra là một chàng trai rất có phẩm cách nên tôi miễn cho ông những quy tắc thông thường của tòa án và giúp ông làm lóe lên ánh sáng bằng cách cho ông xem cái đơn tố giác đã đưa ông đến đây: đây là tờ giấy buộc tội; ông có nhận ra chữ viết này không?

Và Villefort rút lá thư từ trong túi ra rồi đưa cho Dantès. Dantès cầm và đọc. Một bóng mây lướt qua trán anh và anh nói:

- Không, thưa ông, tôi không nhận ra chữ này của ai, nó đã bị người ta cố tình biến đổi khác đi. Tôi thật rất sung sướng, anh vừa nói thêm vừa nhìn ông Villefort với vẻ biết ơn, vì được gặp một người như ông, vì kẻ muốn làm hại tôi là một kẻ thù thực sự.

Ông Phó biện lý nói:

- Nào bây giờ ông hãy trả lời tôi một cách trung thực, có gì đúng trong lời buộc tội nặc danh ấy?

- Là tất cả mà cũng chẳng là gì cả thưa ông, và đây mới là sự thực hoàn toàn: Khi vừa rời khỏi Naples thì ông thuyền trưởng Leclère mắc bệnh sốt não. Vì chúng tôi không có thầy thuốc trên tàu mà thuyền trưởng không muốn ghé vào bất kỳ chỗ nào dọc theo bờ biển do vội đến đảo Elbe nên bệnh tình của ông càng trở nên trầm trọng đến nỗi vào cuối ngày thứ ba cảm thấy mình sắp chết ông bèn gọi tôi lại gần nói với tôi rằng:

- Dantès thân mến, anh hãy thề danh dự là sẽ làm những gì tôi sắp nói với anh và nó có quan hệ đến những lợi ích tối thượng.

Tôi trả lời ông ta:

- Tôi xin thề, thưa thuyền trưởng.

- Vậy thì sau khi tôi chết quyền chỉ huy tàu sẽ thuộc về anh với tư cách là phó thuyền trưởng,.anh nắm lấy quyền chỉ huy rồi hướng mũi tàu về đảo Elbe, anh lên bờ ở Porto Ferrajo tìm gặp đại thống chế rồi trao cho ngài lá thư này: có thể là lúc đó người ta đưa cho anh một lá thư khác và giao cho anh một nhiệm vụ nào đấy. Nhiệm vụ này vốn dành cho tôi, Dantès ạ, anh thay tôi mà thực hiện và toàn bộ vinh quang sẽ thuộc về anh.

- Tôi sẽ làm việc đó, thưa thuyền trưởng.

Hai giờ sau ông mê sảng và ngày hôm sau ông chết.

- Và thế rồi anh làm gì?

- Thưa ông, tôi phải làm các việc mà bất kỳ người nào ở cương vị tôi đều làm cả: bao giờ thì nguyện vọng của người sắp chết cũng là thiêng liêng, nhưng đối với các thủy thủ thì yêu cầu của thuyền trưởng còn là những mệnh lệnh mà người ta bắt buộc phải thi hành. Vậy là tôi dong buồm hướng về đảo Elbe và tới đó vào ngày hôm sau, tôi ra lệnh cho tất cả mọi người ở lại trên tàu rồi một mình tôi lên bờ. Đại thống chế tiếp tôi, hỏi tôi về phút lâm chung của ông Leclère đáng thương, và như ông Leclère đã dự đoán, Đại thống chế đưa cho tôi một bức thư và yêu cầu tôi phải tự mình mang đến Paris. Tôi đã hứa với ông ta là sẽ làm việc đó, vì đó cũng là thực hiện những ý nguyện cuối cùng của thuyền trưởng của tôi. Tôi đã tính ngày hôm sau lên đường đi Paris thì bị bắt vì cái thư tố giác này mà bây giờ ông tỏ ra khinh bỉ cũng như tôi khinh bỉ nó.

- Phải, phải, Villefort lẩm bẩm, tất cả chuyện này xem ra đều là sự thật và nếu như ông có phạm tội thì cũng chỉ là do khinh xuất. Hãy nộp cho chúng tôi cái thư mà người ta đã giao cho ông ở đảo Elbe, hãy hứa với tôi rằng hễ tòa gọi là ông ra hầu tòa ngay còn bây giờ ông có thể quay về gặp bạn bè.

- Thế là tôi được tự do, thưa ông! - Dantès reo lên vui sướng đến cực điểm.

- Phải... chỉ cần đưa cho tôi cái thư ấy.

- Có lẽ ở trước mặt ông rồi thưa ông; vì người ta đã giữ nó cùng các giấy tờ khác của tôi, và tôi đã nhận ra vài thứ trong các đống kia.

- Khoan đã, ông Phó biện lý nói với Dantès, tay đã cầm can và mũ, thư ấy gửi cho ai?

- Gửi cho ông Noirtier, phố Coq-Héron ở Paris.

Giá như sét có đánh xuống Villefort thì cũng không thể nào đánh chớp nhoáng và bất ngờ hơn, ông ta rơi phịch xuống chiếc ghế bành rồi ông lại nhổm lên với lấy bó giấy tờ tịch thu của Dantès.rồi vội vã lật giở ra xem, rút ra cái thư nguy hiểm nhìn nó bằng ánh mắt khiếp sợ khó tả.

- ông Noirtier, phố Coq-Héron, số 13. ông ta thì thầm và mặt càng tái đi hơn.

- Vâng, thưa ông, Dantès ngạc nhiên trả lời, ông quen ông ấy sao?

- Không, Villefort trả lời gay gắt, một người đầy tớ trung thành của nhà vua không thể quen biết những kẻ phiến loạn.

- Đó là một cuộc phiến loạn ư? - Dantès hỏi, sau khi đã tin rằng được tự do, anh ta bắt đầu thấy lại nỗi khiếp sợ còn ghê gớm hơn lần đầu.

- Dù thế nào đi nữa, thưa ông, như tôi đã nói với ông, tôi hoàn toàn không biết nội dung của cái thư mà người ta giao cho tôi chuyển.

- Và ông chưa đưa cho một ai xem cái thư ấy chứ? - ông Villefort vừa nói vừa đọc bằng đôi mắt lim dim.

- Chưa đưa cho bất kỳ một ai, thưa ông, tôi xin thề danh dự.

Mặt Villefort mỗi lúc một sa sầm trong khi ông ta đọc đến cuối thư. Đôi môi trắng nhợt, đôi tay run rẩy, cặp mắt dữ dội của ông ta truyền sang tâm trí Dantès những lo ngại đau xót nhất.

- Lạy chúa tôi! Có chuyện gì vậy, thưa ông?

- Dantès rụt rè hỏi.

Villefort không trả lời. Một lát sau, ông ta ngẩng bộ mặt tái xanh, biến dạng lên và đọc lại bức thư một lần nữa.

- ông bảo là ông không biết tí gì về nội dung bức thư à? - Villefort hỏi lại.

- Lấy danh dự mà thề, tôi xin nhắc lại điều đó, thưa ông, Dantès nói, tôi không hề biết tí gì.

"ồ! Nếu hắn ta biết những gì viết trong thư, ông Phó biện lý thầm nghĩ, và nếu như lúc nào đó hắn lại biết rằng Noirtier là cha đẻ của ta thì ta đi đứt, đi đứt vĩnh viễn".

Villefort gắng hết sức tự kiềm chế và với một giọng cố làm ra vẻ tự tin, ông ta nói:

- ông ạ, cuộc thẩm vấn này có thể đem lại cho ông những lời buộc tội nặng nhất. Tôi không có quyền quyết định trả lại tự do ngay lập tức cho ông như tôi mong muốn lúc đầu, mà còn phải hỏi ý kiến ông dự thẩm trước khi thi hành một biện pháp như vậy. Trong khi chờ đợi ông đã thấy tôi xử sự với ông như thế nào rồi đấy.

- ồ! Vâng, thưa ông, Dantès reo lên, tôi xin cám ơn ông, bởi vì đối với tôi, ông đã như một người bạn hơn là một quan tòa.

- Này ông, tôi sẽ phải giữ ông trong tù thêm một thời gian nữa đấy, nhưng càng ngắn càng.tốt. ông bị buộc tội chủ yếu là vì cái thư này, nhưng ông xem đây...

Villefort đến gần lò sưởi, ném lá thư vào lửa và đứng đợi tới lúc nó hoàn toàn biến thành tro.

- Đấy ông xem, Villefort nói tiếp, tôi đã thủ tiêu nó.

- ồ! Dantès reo lên, thưa ông, ông còn hơn cả công lý, ông là lòng tốt.

- Tôi sẽ giữ ông đến tối ở tòa án, có thể một người khác không phải tôi sắp thẩm vấn ông: hãy nói tất cả những gì ông đã nói với tôi, nhưng đừng nói một lời nào về lá thư này. Hãy phủ nhận nếu họ nói với ông về nó, cứ mạnh dạn chối biến đi và thế là ông được cứu thoát.

Dường như Villefort lại là người van xin còn bị can lại là người làm yên lòng ông quan tòa.

Dantès nói:

- Tôi sẽ không nhận, thưa ông, xin ông cứ yên tâm.

- Tốt lắm! Tốt lắm! - Villefort vừa nói vừa với tay lấy sợi dây giật chuông.

Viên cẩm bước vào.

Villefort lại gần viên công lại và ghé vào tai y nói nhỏ vài lời; viên cẩm trả lời đơn giản bằng cái gật đầu.

- ông hãy đi theo ông ta. - Villefort nói với Dantès.

Dantès nghiêng mình cáo từ, đưa mắt nhìn Villefort lần cuối với vẻ hàm ơn rồi đi ra.

Cánh cửa vừa mới khép lại sau lưng anh thì Villefort như mất hết sức lực, ngã vật xuống cái ghế bành, gần như ngất xỉu.

Hắn thì thào: "ại! Lạy chúa! Mạng sống và cơ nghiệp của ta tùy thuộc vào cái gì đây!... Nếu ông biện lý hoàng gia mà có mặt ở Marseille, nếu ông dự thẩm mà được mời tới chứ không phải mình, thì mình đi đứt; và tờ giấy này, tờ giấy đáng nguyền rủa này sẽ đẩy mình xuống vực thẳm".

Thế rồi đột nhiên, một luồng sáng bất ngờ như lướt qua tâm trí hắn rọi sáng khuôn mặt hắn, nụ cười hiện dần trên cái miệng còn mím chặt, cặp mắt hoảng hốt trở nên đăm đăm và như dừng lại ở một ý nghĩ. "Chính nó, chính cái thư đáng lẽ làm mình đi đứt có khi lại tạo cơ nghiệp cho mình cũng nên. Nào Villefort, vào việc thôi!" Người ta dẫn Dantès vào một phòng khá sạch sẽ, cửa bằng song sắt và có khóa. Cuộc thẩm vấn đã kéo dài và chẳng mấy chốc người tù đã thấy trời về đêm..Khoảng mười giờ tối lúc Dantès bắt đầu mất hết hy vọng, thì nghe thấy một tiếng động mới mà lần này anh thấy hình như tiến về phía phòng mình: đúng thế, những tiếng chân bước vang lên trong hành lang và dừng lại trước cửa. Tiếng chìa khóa xoay trong ổ khóa, then cửa rít lên và cái cửa đồ sộ bằng gỗ sồi mở ra, đột nhiên trong căn phòng u tối thấy có ánh sáng chói lòa của hai ngọn đuốc. Nhờ luồng sáng của hai ngọn đuốc này, Dantès thấy lấp loáng những gươm cùng súng của bốn người cảnh binh. Anh ung dung tiến lên, tâm hồn thanh thản, và tự mình đi vào giữa đội áp giải.

Một chiếc xe đợi sẵn trước cửa ngoài phố và người đánh xe đã sẵn sàng trên chỗ ngồi của mình.

- Lên xe.

Thế là trong chốc lát Dantès đã ngồi vào cuối xe, lọt giữa hai người cảnh binh; chiếc xe nặng nề chuyển bánh với tiếng động hung dữ.

Chẳng mấy chốc, qua chấn song cửa xe, anh thấy ánh đèn ở cảng. Chiếc xe dừng lại và một tiểu đội lính xuống xe đứng xếp thành hàng rào.

Họ đi tới một cái ca nô. Trong chốc lát anh đã ngồi vào đàng lái, luôn luôn giữa bốn người cảnh binh. Một chuyển động mạnh đẩy ca nô ra khỏi bờ, bốn tay chèo bơi ráo riết ra khơi và Dantès thấy mình ra khỏi cảng.

- Các ông đưa tôi đi đâu vậy? - Anh hỏi một người cảnh binh.

- Nhìn quanh anh thì biết.

Dantès đứng dậy, đưa mắt nhìn về nơi mà dường như con tàu đang đi tới, và trước mặt anh độ một trăm toise, anh thấy sừng sững cái khối đá đen sì và dữ dội của pháo đài If ảm đạm.

Cái hình thù kỳ lạ ấy, cái nhà tù mà quanh nó bao trùm một nỗi khiếp sợ đến tột cùng ấy đột ngột xuất hiện trước Dantès là người chẳng hề nghĩ gì đến nó đã tác động đến anh giống như hình dáng chiếc giá treo cổ tác động đến người tử tù.

- Ôi! Lạy chúa! Pháo đài If! - Dantès vừa kêu lên vừa nắm lấy tay người cảnh binh như muốn bẻ gãy ra. - ông có dám chắc rằng, anh nói, người ta đưa tôi ra lâu đài If để bỏ tù tôi ở đó không? Chẳng thẩm tra thêm, chẳng làm thủ tục nào nữa à?

- Các thủ tục đã hoàn thành, cuộc thẩm tra đã làm xong.

- Như vậy là bất chấp lời hứa của ông Ville-fort?...

Anh ngã vật xuống sàn tàu, hoàn toàn suy sụp. Gần như cùng lúc ấy một va chạm mạnh làm rung chuyển chiếc ca nô. Một trong những người chèo thuyền nhảy lên mô đá mà mũi tàu vừa chạm vào một sợi chão cọt kẹt nhả ra quanh cái ròng rọc và Dantès hiểu rằng đã đến nơi và người ta đang buộc chiếc tàu nhỏ vào bến.

Dantès lại thấy những người lính xếp hàng trên sườn dốc đứng, anh cảm thấy có những bậc thang, anh nhận ra anh đi qua một cái cửa, nhưng tất cả diễn ra như một cái máy, như qua một làn sương mù, không sao phân biệt được gì. Thậm chí anh không nhìn thấy cả biển nữa.

Người tù được đưa vào một phòng gần như ở tầng hầm, tường trần trụi và rỉ nước. Một đĩa đèn để trên chiếc ghế đẩu, bấc đèn ngâm trong một thứ mỡ hôi hám, soi sáng cho những bức vách láng bóng của cái nôi cư trú kinh khủng này và cho Dantès nhìn thấy tên gác ngục quần áo nhếch nhác và gương mặt đê tiện của hắn.

- Đây là phòng dành cho ông đêm nay, hắn nói; khuya rồi và ông quản ngục đã đi ngủ. Mai ông ta dậy và sẽ cho biết các mệnh lệnh nói về ông, có thể ông ta đổi chỗ ở cho ông. Trong khi chờ đợi thì bánh đây, có nước trong hũ đấy và ổ rơm dưới đất trong góc kia: đó là tất cả những gì mà một người tù có thể mong muốn. Chào nhé!

Và trước khi Dantès kịp nghĩ đến việc mở miệng ra đáp lại thì anh đã chỉ còn một mình trong bóng đêm cô tịch, cũng câm lặng và tối tăm như những cái vòm trần này mà anh cảm thấy khí lạnh của nó tỏa xuống vầng trán đang nóng rực của anh.

Khi những tia sáng ban ngày đầu tiên đem lại đôi chút sáng sủa trong cái hang ấy, người cai ngục trở lại với mệnh lệnh để người tù ở lại chỗ cũ. Dantès đã không được chuyển chỗ ở. Như có một bàn tay sắt đã đóng đinh anh xuống chính cái chỗ đêm qua anh đã đứng.

Người cai ngục lại gần anh, đi vòng quanh người anh mà Dantès dường như không hay biết.

Hắn ta đập vào vai anh, Dantès giật mình và lúc lắc đầu.

- ông không ngủ à? - Người gác ngục hỏi.

- Tôi không rõ. - Dantès trả lời. - Tôi muốn gặp quản ngục.

Người gác ngục nhún vai rồi đi ra.

Dantès đưa mắt nhìn theo, giơ tay về phía cánh cửa hé mở nhưng cửa đã sập lại.

Ngày hôm ấy qua đi như vậy. Anh chỉ ăn gọi là vài miếng bánh và uống vài ngụm nước. Lúc thì anh ngồi xuống và bị cuốn hút vào những ý nghĩ.của mình, lúc thì anh đi vòng quanh phòng giam như một con thú hoang bị nhốt trong lồng sắt.

Ngày hôm sau cũng vào giờ ấy người gác ngục lại đi vào.

- Này, người gác ngục hỏi, liệu hôm nay anh có biết điều hơn hôm qua không đấy? Anh có đề đạt gì trong phạm vi quyền hạn của tôi không?

- Tôi muốn gặp quản ngục.

- Nghe này, người gác ngục nói với vẻ sốt ruột; điều anh yêu cầu là không thể được; đừng có mà đòi hỏi thêm nữa vì chưa có trường hợp nào ông quản ngục vào phòng giam theo yêu cầu của một tù nhân.

- Tôi có một đề nghị khác với ông, Dantès lại nói, tôi biếu ông một trăm ê quy nếu ông muốn, để khi nào ông có dịp đi Marseille thì hãy rẽ vào làng Catalan trao một cái thư cho cô gái tên là Mercédès.

- Nếu tôi mang cái thư ấy và tôi bị phát hiện thì tôi bị mất chỗ làm, chỗ làm này đáng giá hàng ngàn livrơ (2) một năm không kể tiền thưởng và thực phẩm; vậy anh thấy rõ là họa ra tôi có là thằng đại ngốc thì mới chịu rủi ro mất một ngàn livrơ để đổi lấy ba trăm.

- Này, Dantès nói, ông nghe đây và nhớ kỹ điều này: nếu ông không chịu mang vài dòng cho Mercédès hay ít nhất là báo cho cô ta biết tôi ở đây thì có ngày tôi sẽ nấp sau cánh cửa chờ lúc ông vào tôi sẽ đập vỡ đầu ông bằng cái ghế đẩu này.

- ái chà, dọa dẫm phải không? Người gác ngục kêu lên và lùi lại một bước giữ thế thủ, dứt khoát là anh loạn óc rồi. Ba ngày nữa anh sẽ phát điên đến phải trói lại đưa vào ngục tối như những người khác đã từng ở đây. Này, anh như là cái ông thầy tu cứ tin rằng mình biết chỗ có kho báu ấy!

Dantès vớ lấy chiếc ghế đẩu và vung lên quanh đầu.

- Khá lắm! Khá lắm! Người coi ngục nói.

Này ta sẽ báo với ông quản ngục vì anh cứ nhất thiết muốn như vậy mà.

- Hay quá! - Dantès nói trong khi đặt ghế đẩu xuống đất và ngồi lên, đầu gục xuống, mắt nhớn nhác, cứ như là anh đã trở nên mất trí thật.

Người gác ngục đi ra, một lát sau trở vào với bốn người lính và một viên cai.

- Theo lệnh quản ngục, hắn nói, đưa tù nhân này xuống hầm tối.

Bốn người lính túm lấy Dantès lúc này đã mềm nhũn như mất hết sức lực, anh đi theo họ không hề chống cự. Họ dắt anh xuống mười lăm bậc thang và mở cửa một hầm tối rồi anh vừa đi vào vừa lẩm bẩm:

- Đúng đấy, phải để người điên ở với người điên.

Cửa sập lại và Dantès đi lên phía trước tay quờ quạng cho đến lúc sờ thấy tường; lúc ấy anh mới ngồi vào một góc và không động đậy, trong khi mắt anh quen dần với bóng tối bắt đầu phân biệt được các đồ vật. Người gác ngục nói đúng, Dantès chỉ thiếu chút nữa là phát điên.

Trong khi Dantès làm quen với xà lim của mình ở lâu đài If, thì Villefort đã quay trở lại nhà ngài de Saint - Méran, gặp gỡ các khách dự bữa tối mà hắn đã rời bỏ giữa bàn tiệc, bây giờ họ đã chuyển sang phòng khách và đang uống cà phê.

Thưa bà hầu tước, Villefort nói với bà mẹ vợ tương lai, tôi đến để xin bà thứ lỗi cho vì đã buộc phải bỏ đi như vậy... Thưa ông hầu tước, tôi có thể hân hạnh nói riêng vài lời với ông được không?

- Có chuyện gì nghiêm trọng ư? - Hầu tước hỏi khi nhận thấy bóng mây làm u tối trán Villefort.

- Nghiêm trọng đến nỗi tôi buộc phải vắng mặt trong vài ngày. Như vậy, hắn vừa nói tiếp vừa quay sang phía Renée, thì phải thấy rằng công việc là nghiêm trọng.

- Vậy anh đi đâu? - Bà hầu tước hỏi.

- Đó là bí mật của tòa án, thưa bà.

- Anh yêu cầu gặp riêng tôi à? - Hầu tước nói.

- Vâng, xin ông vui lòng sang phòng làm việc của ông.

Ông hầu tước khoác tay Villefort và đi ra cùng hắn.

- Này, ông hỏi khi bước vào phòng làm việc của mình, có gì xảy ra thế hả? Anh nói đi!

- Có việc mà tôi tin là nghiêm trọng nhất, đòi hỏi tôi phải đi Paris ngay lập tức. Tôi cần có một bức thư gửi cho nhà vua.

- Gửi cho nhà vua?

- Vâng. Xin ông cho tôi một bức thư để tôi có thể vào gặp nhà vua mà không cần mọi thủ tục xin tiếp kiến làm phí mất một phần thời gian quý báu..- Hãy đi sửa soạn hành lý đi, con yêu quý, ta sẽ viết cho con bức thư dùng làm giấy thông hành vào cung.

- Vâng, nhưng gấp lắm rồi vì trong mười lăm phút nữa con đã phải ngồi trong xe trạm. Nhờ ông cáo lỗi với bà hầu tước giúp.

- Anh đi ngay đi. Hầu tước nói tiếp.

Rồi Villefort chạy ra ngoài. Đến cửa nhà mình, hắn thấy trong bóng tối như có một bóng ma trắng đứng bất động đợi hắn. Đó là cô gái Catalan xinh đẹp. Vì không biết tin tức gì về Edmond nên từ chập tối cô đã đến đây để hỏi cho rõ vì sao người ta bắt người yêu của cô.

Lúc Villefort đi tới gần, cô rời khỏi bức tường vừa đứng dựa lưng đến chắn đường hắn.

Dantès đã nói với viên phó biện lý về người yêu của anh, và Mercédès không cần xưng danh, hắn cũng đã nhận ra cô. Cô hỏi hắn người yêu của cô đã ra sao rồi.

- Người mà cô nói đến, Villefort nói một cách thô bạo, là kẻ phạm trọng tội và tôi không thể làm gì hơn được cho anh ta, thưa cô.

Mercédès để bật ra tiếng nức nở, và vì Ville-fort định bỏ đi, cô bèn giữ hắn lại.

- Nhưng ít nhất thì anh ấy đang ở đâu, cô hỏi, để tôi có thể được biết anh còn sống hay đã chết chứ?

- Tôi không rõ, anh ta không còn thuộc thẩm quyền của tôi nữa, - Villefort đáp.

Và khó chịu bởi cái nhìn tinh khôn và thái độ năn nỉ ấy, hắn đẩy Mercédès ra, đi vào và sập mạnh cửa lại.

Mercédès tội nghiệp lại gặp Fernand, hắn theo cô từ tối, cô trở về nhà dở chết, dở sống.

tuyệt vọng, cô gieo mình xuống giường. Fernand quỳ xuống cạnh giường, nắm lấy bàn tay lạnh giá mà Mercédès cũng chẳng buồn rụt lại nữa, hắn hôn tới tấp lên tay cô những nụ hôn nóng hổi mà cô cũng chẳng cảm nhận thấy gì.

Cô qua đêm như vậy. Ngọn đèn tắt lúc cạn dầu: cô không thấy bóng tối cũng như đã không thấy cả ánh sáng khi ngày lại rạng.

- à anh đấy à. - Cuối cùng cô nói trong khi trở mình quay về phía Fernand.

Fernand trả lời với một tiếng thở dài não nuột:

- Từ hôm qua anh đã không rời em....

BÁ TƯỚC MÔNGTƠ CRIXTÔ
Chương 4: Hoàng đế trở về

Villefort đi như nuốt đường và nhờ trả tiền gấp ba, hắn nhanh chóng tới Paris. Có lá thư của ngài de Saint - Méran, hắn không phải chờ đợi mà được dẫn ngay vào một căn phòng nhỏ ở điện Tuileries có cửa sổ xây cuốn đã từng là phòng làm việc được Napoléon ưa thích và hiện nay vua Louis XVIII thường làm việc ở đó.

Ông vua này bị cuộc cách mạng 1793 đánh sụp đổ ngai vàng và vẫn sống lưu vong đến tận năm trước lúc xảy ra chuyện này. ông ta sợ hơn hết là các cuộc phiến loạn và các âm mưu có thể lại một lần nữa đe dọa vương quyền.

Khi công tước Blacas báo tin có ông de Ville-fort đã từ Marseille đến Paris với lý do có một nguy cơ nghiêm trọng đe dọa vương quyền thì vua Louis XVIII lộ ngay vẻ lo âu ra mặt và đòi đưa ông ta vào gấp.

Cửa mở Villefort bước vào chào nhà vua và bước vài bước lên phía trước để đợi nhà vua hỏi.

- ông de Villefort, vua Louis XVIII nói, đây là công tước Blacas, ông ta đoán chắc là ông có điều quan trọng cần nói với ta.

- Tâu bệ hạ, công tước nói đúng đấy và tôi hy vọng hoàng thượng sẽ thấy rõ điều đó.

- Đầu tiên và trước tất cả mọi việc, ông có cho rằng tai họa có lớn như mức người ta muốn làm để tôi tin hay không?

- Tâu bệ hạ, tôi cho là nó gấp lắm rồi, nhưng may mà tôi đã nhanh tay nên sự việc không đến nỗi không cứu vãn được, tôi hy vọng như vậy.

Tôi đã đến Paris theo cách nhanh nhất có thể được để tâu lên hoàng thượng rằng tôi đã phát hiện trong phạm vi chức trách của mình một cuộc phiến loạn thực sự không đe dọa cái gì khác ngoài ngôi báu của hoàng thượng. Tâu bệ hạ, Napoléon đang vũ trang cho ba tàu chiến. Lúc này ắt là hắn đã rời đảo Elbe, đi đâu tôi không rõ, nhưng có thể đoán chắc rằng nhằm đổ bộ hoặc ở Naples, hoặc ở bờ biển Toscane hoặc chính là ở Pháp..- Xin ông nói tiếp đi, nhà vua rất xúc động nói, ông thu thập được những chi tiết ấy như thế nào? - Tâu bệ hạ, tôi lấy chúng từ cuộc thẩm vấn một người ở Marseille bị tôi cho theo dõi từ lâu và tôi đã cho bắt giữ ngay hôm tôi đi Paris.

- Một cuộc phiến loạn trong lúc này, nhà vua vừa nói vừa mỉm cười, là việc nghĩ đến thì dễ mà tiến hành cho đến nơi đến chốn thì khó hơn, chính bởi vì ta vừa mới giành lại được ngai vàng của tổ tiên, do đó mà ta đặc biệt cảnh giác.

Từ mười tháng nay các Bộ trưởng của ta đã tăng gấp bội việc tuần tiễu để bảo vệ vùng ven biển Địa trung hải. ông cứ yên tâm, nhưng đừng coi nhẹ lòng biết ơn của hoàng gia.

- A! ông Dandré tới! - Công tước Blacas reo lên.

Chính lúc đó, đúng là ông Bộ trưởng cảnh sát xuất hiện ở ngưỡng cửa, mặt tái xanh, run rẩy, ánh mắt thất thần cứ như ông ta kinh ngạc vì bị lóa mắt trước cái gì.

Nhìn thấy bộ mặt thất sắc ấy, Louis XVIII đẩy mạnh cái bàn sau lưng mình và kêu lên:

- ông làm sao thế ông nam tước? Trông ông như người mất hồn!

- Tâu bệ hạ... - Nam tước ấp úng.

- Hãy nói đi nào! - Vua Louis XVIII nói.

Thế là trong cơn tuyệt vọng, ông bộ trưởng cảnh sát lao tới quỳ mọp xuống chân vua Louis XVIII, nhà vua nhíu đôi lông mày, lùi lại một bước.

- Tâu bệ hạ, Bonaparte đã rời khỏi đảo Elbe ngày 28 tháng hai và đã đổ bộ ngày 1 tháng ba.

- Đổ bộ ở đâu? - Nhà vua vội hỏi gắt.

- ở Pháp, tâu bệ hạ, ở một cảng nhỏ gần Antibes trên vịnh Juan.

Louis XVIII phác một cử chỉ khó tả biểu lộ sự tức tối và nỗi kinh hãi rồi đứng phắt dậy như bị một đòn đánh bất ngờ trúng tim và mặt cùng một lúc.

- Đổ bộ vào Pháp! - Nhà vua kêu lên. -Napoléon về Pháp!

- Vâng, bộ trưởng nói, nhưng ông ta tiến qua Gap và Sisteron.

- Hắn tiến! Hắn tiến! - Louis XVIII nói. -Hắ n tiến về Paris hả?

Bộ trưởng cảnh sát giữ một thoáng im lặng cũng tương đương với một sự thú nhận hoàn toàn.

- Này, Louis XVIII lầm bầm, thế mà ông không hay biết tí gì sao?

- Tâu bệ hạ, thực tế không thể có cách nào đoán ra được những ý đồ mà con người này che giấu hết thảy mọi người..- Thực tế không thể có! Phải, đây là một việc to tát. Thực tế không có khả năng cho một ông bộ trưởng là kẻ nắm cả một bộ máy điều hành, các văn phòng, các nhân viên, bọn chỉ điểm, bọn gián điệp với một triệu rưỡi frăng ngân quỹ bí mật để mà phát hiện cái gì xảy ra cách bờ biển nước Pháp sáu mươi dặm! Vậy mà, này! Đây là một người chẳng hề có trong tay lấy một chút gì các phương tiện ấy, đây là một quan tòa tầm thường mà lại biết nhiều hơn ông với toàn bộ hệ thống cảnh sát của mình và giá như ông ta có quyền điều khiển một máy điện báo như ông thì ông ta đã cứu được vương miện của trẫm rồi.

Ông bộ trưởng cảnh sát đưa mắt nhìn Villefort với vẻ cay cú tột bực, còn ông này lại cúi đầu xuống với vẻ khiêm nhường của kẻ chiến thắng.

- Tâu bệ hạ, Villefort nói, lời tấu trình của chúng tôi khiến hoàng thượng tưởng đó là hiệu quả của một sự sáng suốt tột bậc nhưng thực ra chỉ thuần túy và đơn giản là do sự tình cờ, tôi đã tận dụng sự tình cờ ấy với tư cách là người đầy tớ tận tụy, chỉ có thế thôi. Tâu bệ hạ, xin bệ hạ đừng nhận định về tôi cao hơn tầm mà tôi xứng đáng, để đừng bao giờ phải thay đổi ý tưởng ban đầu mà bệ hạ đã nghĩ về tôi. Và bây giờ, hắn hỏi, tôi được vinh hạnh tiếp nhận những mệnh lệnh gì ở hoàng thượng?

- ông hãy nghỉ ngơi một chút và hãy nghĩ rằng ông không có lực lượng để phục vụ ta ở Paris song ông có thể giúp ích cho ta nhiều nhất ở Marseille.

- Tâu bệ hạ, Villefort nghiêng mình trả lời, sau một tiếng đồng hồ nữa tôi sẽ rời Paris.

- Đi đi ông, nhà vua nói, và nếu ta có quên ông - trí nhớ của vua chúa thường là kém mà -thì ông đừng ngại gì nhắc ta nhớ lại ông... ông nam tước, hãy cho gọi bộ trưởng Chiến tranh.

Còn Blacas, ông ở lại đây.

Villefort chào ông bộ trưởng rồi đi ra và tìm một chiếc xe để trở về nhà trọ. Hắn vẫy một chiếc xe thuê đang chạy ngang phố và gieo mình vào cuối xe thả hồn theo những giấc mơ đầy tham vọng. Mười phút sau hắn đã về tới nơi, hắn ra lệnh hai tiếng đồng hồ nữa đóng ngựa vào xe của mình và sai người dọn ăn sáng.

Hắn sắp ngồi vào bàn ăn thì có tiếng chuông vang lên từ một bàn tay thẳng thắn và quả quyết:

người hầu phòng ra mở cửa, và Villefort nghe thấy tiếng người nhắc đến tên mình.

- Cha tôi! - Villefort kêu lên..- Trời ơi! Con biết đấy, Gérard thân yêu, Noirtier nói với con và đặt cây gậy chống của mình vào góc nhà, để mũ xuống ghế, - con không có vẻ mừng rỡ khi gặp cha à?

- Có chứ, thưa cha, Villefort nói, con vui mừng nhưng con thật không ngờ cha lại đến thành thử điều đó khiến con hơi bối rối.

- Ta sắp cho anh biết một tin mới. - Noirtier nói tiếp.

- Thưa cha, con cho rằng con đã biết điều cha sắp nói với con rồi.

- A! Anh biết cuộc đổ bộ của Hoàng thượng ư?

- Đừng nói, cha ơi, con van cha đấy, trước là vì cha sau là vì con. Vâng, con biết tin này thậm chí biết trước cả cha nữa kia vì từ ba ngày nay con phóng như bay từ Marseille về Paris.

- Ba ngày trước đây! Anh có điên không đấy?

Ba ngày trước Hoàng đế đã đổ bộ đâu.

- Không hề gì, con biết kế hoạch này qua một bức thư gửi cho cha từ đảo Elbe. Nếu bức thư ấy rơi vào tay kẻ khác thì lúc này cha ơi, có lẽ cha đã bị xử bắn rồi.

Người cha của Villefort bật cười.

- Nào, xử bắn! Con thân yêu, con nói mạnh nhỉ! Thế còn cái thư đâu?

- Con đốt rồi vì sợ nhỡ còn sót lại một mẩu giấy: bởi lẽ cái thư ấy là bản án của cha.

- Và sự đổ vỡ tương lai con, Noirtier lạnh lùng trả lời; ừ cha hiểu điều đó, nhưng cha không sợ gì vì có con che chở.

- Cha trông mong vào sự trở về của Hoàng đế ư?

- Ta thừa nhận điều đó.

- Cha lầm rồi, cha ơi, ông ta không đi nổi mười dặm trong nội địa nước Pháp mà không bị truy đuổi, bị vây dồn và bị tóm gọn như một con dã thú.

- Anh bạn thân mến ơi, Hoàng đế lúc này đang trên đường Grenoble, ngày 10 hay 12 sẽ đến Lyon và 20 hoặc 25 là tới Paris.

- Dân chúng sẽ nổi dậy...

- Để đi đón Người.

- ông ấy chỉ có vài người bên mình còn người ta điều động những binh đoàn để chống lại ông ta.

- Để hộ giá Người trở về thủ đô. Hãy tin cha, phía chúng ta cũng biết tin đầy đủ chả kém gì anh, và cảnh sát của chúng ta còn khá hơn của các anh: anh muốn có bằng chứng về điều đó.không? Đó là anh thì muốn giấu ta về chuyến đi của mình, thế mà ta thì lại biết anh đến chỉ sau có nửa giờ tính từ lúc anh vượt qua rào chắn đường vào Paris. Anh không cho ai địa chỉ của mình trừ người đánh xe trạm, thế mà ta lại biết địa chỉ của anh, chứng cớ là ta đến được phòng anh ở.

- Đúng thế, Villefort trả lời và nhìn cha kinh ngạc, đúng thế, con thấy là cha đã được thông báo đầy đủ.

- Này, lạy chúa, sự việc thật đơn giản; những người cầm quyền các anh chỉ có những phương tiện do đồng tiền mang lại còn chúng tôi là kẻ mong chờ quyền lực, chúng tôi có những phương tiện do lòng tận tụy trao cho.

- Lòng tận tụy ư? - Villefort vừa cười vừa nói.

- Phải, lòng tận tụy; người ta gọi nó như thế đấy, gọi một cách trung thực, nỗi khát vọng đang mong chờ.

Và Noirtier đi ra với sự điềm tĩnh không rời ông phút nào suốt cuộc gặp gỡ này.

Villefort ăn xong, trả tiền khách sạn, nhảy lên chiếc xe đã thắng ngựa sẵn, đến Lyon thì được tin Bonaparte sắp vào Grenoble, và giữa những náo động suốt dọc đường, hắn tới Marseille, bị giày vò bởi đủ nỗi bực dọc với những tham vọng và vinh quang đầu tiên xâm nhập vào trái tim.

Ông Noirtier là một nhà tiên tri giỏi và các sự việc tiến triển nhanh như ông dự đoán, Napoléon vào Paris ngày 20 tháng ba năm 1815 cùng với dân chúng nổi dậy dọc đường ông đi qua còn nhà vua thì lại phải lưu vong ở Gand.

Hẳn là Napoléon sẽ cách chức Villefort nếu không có sự bảo trợ của Noirtier lúc này đã trở nên có thế lực lớn trong triều đình mới vì những hiểm nguy ông đã trải qua và những công tích mà ông đã cống hiến.

Mọi nỗ lực của Villefort chỉ thu gọn vào việc ỉm đi cái bí mật mà Dantès suýt nữa đã tiết lộ.

Villefort vẫn còn đứng vững và đám cưới của hắn tuy đã ấn định rồi bây giờ lại hoãn đến khi nào thuận tiện hơn. Nếu Hoàng đế giữ được ngôi báu thì Gérard cần có một liên kết khác và cha hắn sẽ gánh lấy việc vừa ra cho hắn; còn nếu có một cuộc phục hồi lần thứ hai đưa Louis XVIII về Pháp thì ảnh hưởng của ông de Saint - Méran sẽ tăng gấp bội, cả hắn cũng thế, và mối liên kết sẽ trở nên thích hợp hơn bao giờ hết..ạng phó biện lý tạm thời trở thành ông chánh án Marseille. Vào một buổi sáng cửa nhà ông mở ra và người ta báo có ông Morrel đến.

Villefort nhìn ông khách với vẻ như là phải cố mà nhận ra. Thế rồi cuối cùng sau vài giây thăm dò và im lặng, trong khi ông chủ tàu đáng kính cứ xoay đi xoay lại cái mũ trong tay thì hắn nói:

- ông Morrel, tôi không nhầm đấy chứ? Lại gần đây nào, viên chánh án nói tiếp và khoát tay làm một cử chỉ che chở, và hãy nói xem nhờ hoàn cảnh nào mà tôi có vinh dự được ông đến thăm.

- Thưa ông, ông chủ tàu mở đầu và dần lấy lại được lòng tự tin trong khi nói, xin ông nhớ lại cho rằng vài ngày trước khi nghe tin cuộc đổ bộ của Hoàng đế, tôi đã đến để xin ông khoan dung đối với một chàng trai đáng thương, một thủy thủ làm phó thuyền trưởng trên chiếc tàu buồm của tôi tên là Edmond Dantès, chắc ông còn nhớ là anh ta bị buộc tội có liên lạc với đảo Elbe mà mối liên lạc này thời ấy là phạm tội nhưng bây giờ lại là chứng tích để được ưu ái.

Ông phục vụ Louis XVIII lúc đó và ông đã chẳng nương tay với anh ta, thưa ông: đó là nghĩa vụ của ông. Bây giờ ông phục vụ Napoléon, và ông có nghĩa vụ che chở anh ta, đó vẫn là nghĩa vụ của ông nữa. Vậy tôi đến để hỏi ông xem anh ta bây giờ ra sao.

Villefort phải gắng gượng hết sức mình. Hắn mở một cuốn sổ lớn đặt trên một cái giá liền kề, chạy lại một cái bàn rồi lại chạy đến chỗ để hồ sơ rồi quay lại nói với ông chủ tàu:

- Tôi nhớ ra rồi! Đó là một thủy thủ, có phải là sắp lấy một cô gái Catalan không? Phải, phải, ồ! Bây giờ tôi nhớ ra rồi: sự việc rất nghiêm trọng.

- Sao lại thế?

- ông biết cho rằng sau khi ra khỏi chỗ tôi anh ta bị đưa sang nhà lao của tòa án. Lúc đó tôi đã báo cáo lên Paris, tôi đã chuyển các giấy tờ tìm thấy ở anh ta. Đó là chức trách của tôi, còn làm gì hơn được... và tám ngày sau khi bị bắt, người tù được chuyển sang một nhà lao khác.

- Nhưng làm sao mà anh ta vẫn chưa được trở về? Tôi cho rằng điều quan tâm đầu tiên của tòa án chế độ Bonaparte là phải thả ngay những người trước đây đã bị tòa án bảo hoàng tống giam cơ mà.

- Xin đừng lên án bừa bãi, thưa ông Morrel thân mến, Villefort trả lời; mọi việc phải được tiến hành đúng luật. Lệnh tống giam đến từ.thượng cấp, thì cũng phải từ thượng cấp mới có được lệnh trả tự do. Mà Napoléon vừa mới về được có mười lăm ngày. Tôi chỉ có thể cho ông một lời khuyên duy nhất: hãy viết một lá đơn khiếu nại lên ông bộ trưởng Tư pháp.

- ồ thưa ông, chúng tôi biết rõ thế nào là những đơn khiếu nại: ông bộ trưởng mỗi ngày nhận được tới hai trăm cái mà ông ta chưa đọc nổi bốn.

- Vâng, Villefort nói tiếp, nhưng ông ta sẽ đọc một đơn khiếu nại do tôi phê chuyển, do tôi trực tiếp gửi đi.

- Nhưng phải viết cho bộ trưởng như thế nào?

- Ngồi vào đây ông Morrel, Villefort nói và nhường chỗ ngồi của mình cho ông chủ tàu, tôi đọc cho ông chép nhé.

Thế là Villefort đọc lá đơn trong đó vì một mục đích tuyệt vời, đúng là không còn nghi ngờ gì được, hắn thổi phồng lòng yêu nước của Dantès và những thành tích mà anh đã cống hiến cho sự nghiệp khôi phục chế độ Bonaparte; trong lá đơn ấy Dantès trở nên một trong những nhân viên mẫn cán nhất trong cuộc trở về của Napoléon; hẳn là khi thấy một lá đơn như thế, ông bộ trưởng phải thực hiện công lý ngay lập tức nếu như công lý còn chưa được thực hiện.

Đơn khiếu nại đã viết xong, Villefort cất cao giọng đọc lại.

- Thế đấy, hắn nói, và bây giờ xin hãy tin cậy ở tôi.

- Thưa ông, đơn khiếu nại sẽ sớm được gửi đi chứ?

- Ngay trong ngày hôm nay.

Và đến lượt Villefort ngồi vào bàn, hắn ký xác nhận vào một góc lá đơn.

- Bây giờ, thưa ông, xin hãy chờ đợi, Villefort nói tiếp, tôi bảo đảm hoàn toàn.

Sự bảo đảm này mang lại hy vọng cho ông Morrel: ông cáo từ ra về, hoan hỷ vì lòng tốt của ngài biện lý, và đến báo tin cho người cha già của Dantès rằng chẳng bao lâu nữa cụ sẽ được gặp lại con trai mình.

Còn Villefort đáng lẽ gửi đơn đi Paris thì hắn giữ đơn lại trong tay hắn như một của quý vì lá đơn cứu được Dantès hôm nay lại làm hại anh hết sức khủng khiếp một khi, như Villefort giả định, một cuộc phục hồi lần thứ hai xảy đến.

Vậy là Dantès cứ bị tù: khuất lấp trong chiều sâu của hầm tối, anh không hề nghe thấy chút.gì tiếng đổ vỡ long trời của vương triều Louis XVIII và sự sụp đổ còn ghê gớm hơn của đế chế.

Nhưng hắn ta, Villefort đã theo dõi tất cả với con mắt đầy cảnh giác, nghe ngóng tất cả với đôi tai chăm chú. Trong thời kỳ đế chế xuất hiện ngắn ngủi mà người ta gọi là Một Trăm ngày này đã hai lần ông Morrel lại đến nài xin, bao giờ cũng chỉ là xin cho Dantès được tự do, và lần nào cũng vậy, Villefort lại làm yên lòng ông bằng những lời hứa và những hy vọng; thế rồi cuối cùng đến trận Waterloo. ông Morrel không còn xuất hiện ở chỗ Villefort nữa: ông chủ tàu đã làm cho người bạn trẻ của ông tất cả những gì mà một con người có thể làm được, còn dưới vương triều phục hồi lần thứ hai này mà lại còn cố chạy vạy nữa thì chỉ là làm di lụy đến bản thân mình một cách vô ích.

Louis XVIII lại lên ngôi. Đối với Villefort, Marseille vốn đầy ắp những kỷ niệm nay đã biến thành những ân hận cho hắn, nên đã làm đơn và được nhậm chức Biện lý hoàng gia đang khuyết ở Toulouse. Mười lăm ngày sau khi dọn sang chỗ ở mới hắn cưới cô Renée de Saint - Méran có người cha quyền thế lẫy lừng trong triều hơn bao giờ hết.

Cụ già Dantès chỉ còn được nâng đỡ bằng niềm hy vọng, nay bị sự sụp đổ của Hoàng đế làm tiêu tan tất cả.

Sau khi phải xa con năm tháng trời tính đúng từng ngày, gần như đúng cái giờ mà con cụ bị bắt, cụ trút hơi thở cuối cùng trong vòng tay Mercédès.

Ông Morrel chu cấp mọi phí tổn cho đám tang cụ và trả giùm mấy món nợ nhỏ mà cụ đã vay lúc ốm đau..

BÁ TƯỚC MÔNGTƠ CRIXTÔ
Chương 5: Những người tù

Khoảng một năm sau khi vua Louis XVIII trở lại ngôi vua có cuộc kiểm tra của ông Tổng thanh tra các nhà tù.

Ông thanh tra đến thăm các tù nhân, hỏi xem họ được nuôi dưỡng thế nào và họ có yêu cầu gì không. Tất cả bọn họ đều nhất trí trả lời rằng thức ăn rất tồi tệ và họ yêu cầu được trả tự do.

Ông thanh tra mỉm cười quay đi và nói với viên quản ngục:

- Tôi không rõ vì sao người ta cứ bắt ta phải thực hiện những cuộc kinh lý vô bổ này. Đã tù thì trăm người như một, bao giờ cũng thế cả:

được nuôi dưỡng tồi và vô tội. ông có còn các tù nhân khác không?

- Có, có những tù nhân nguy hiểm hoặc điên mà chúng tôi giam trong hầm kín.

- Nào, ông thanh tra nói với vẻ chán ngán đến cùng cực, ta hãy hành nghề đến nơi đến chốn, chúng ta xuống các hầm kín đi.

Họ bắt đầu đi xuống một cầu thang hôi thối, bẩn thỉu, mốc meo đến nỗi viên thanh tra thấy khó chịu trong người.

- Ôi! viên thanh tra dừng lại ở lưng chừng cầu thang nói, quỷ nào có thể ở được dưới này?

- Chúng tôi giam ở đây hai tù nhân: một tên phiến loạn vào loại nguy hiểm nhất mà chúng tôi được bàn giao, biết rằng hắn là một con người dám cả gan làm tất cả. Trong hầm kín khác cách hầm này chỉ hai mươi bộ, chúng tôi giam một tu sĩ già, cựu đảng trưởng ở ý, hắn ta bị giam ở đây từ 1811 rồi phát điên vào cuối năm 1813.

Ngài có muốn gặp hắn hơn là tên đầu tiên không?

Bệnh điên của hắn là một trò vui và sẽ chẳng làm ngài buồn chút nào đâu.

- Tôi sẽ gặp cả hai, lần lượt từng người một, viên thanh tra đáp, phải làm việc có lương tâm.

- Hãy vào chỗ người này trước, ông nói thêm và ra hiệu cho người giữ chìa khóa mở cửa.

Thấy tiếng rít của những ổ khoá khổng lồ, Dantès đang ngồi xổm trong góc hầm bèn ngẩng đầu lên. Vừa nhìn thấy một người lạ mặt mà.quản ngục phải cầm mũ ở tay khi nói với ông ta, anh đoán ngay được chuyện này là như thế nào và thấy đây là một cơ hội để mà cầu xin người có quyền lực ở cấp trên nên nhảy bổ về phía trước hai tay chắp lại.

Viên thanh tra chăm chú nghe Dantès nói:

- Tôi yêu cầu cho biết tôi phạm tội gì; tôi yêu cầu đưa tôi ra tòa xét xử; tôi yêu cầu bản án của tôi phải được điều tra; cuối cùng tôi yêu cầu được xử bắn nếu tôi phạm tội nhưng cũng phải trả tự do cho tôi nếu tôi vô tội. Tôi bị giam ở đây đã quá lâu rồi.

- Quá lâu?... ông bị bắt giữ từ khi nào? -Viên thanh tra hỏi.

- Ngày 28 tháng hai 1815 vào

- Hôm nay là 30 tháng bảy năm 1816; vậy ông nói sao? ông mới bị tù có mười bảy tháng.

- Mới có mười bảy tháng! Dantès nhắc lại.

A! thưa ngài, ngài không biết mười bảy tháng trong tù là như thế nào đâu: là mười bảy năm, là mười bảy thế kỷ. Vậy xin ngài hãy thương tôi, thưa ngài và đòi hỏi giùm tôi không phải là một lệnh ân xá mà là các quan tòa. Thưa ngài, tôi chỉ yêu cầu có các quan tòa; người ta không thể khước từ các quan tòa cho một kẻ bị buộc tội.

- Được lắm, viên thanh tra nói, tôi sẽ xem xét. Tôi chỉ có thể hứa với ông là tôi sẽ nghiên cứu hồ sơ của ông. Từ đây đến lúc đó, hãy đợi và hãy hy vọng.

Rồi cánh cửa đóng lại.

- Ta hãy làm ngay cho xong việc với những cái hầm tối này, viên thanh tra nói. Chuyển sang hầm giam tu sĩ đi.

- A! Tên này chẳng ra vẻ một tù nhân như tên kia, và bệnh điên của hắn thì không làm não lòng như là cái lý lẽ của tên láng giềng.

- Bệnh điên của ông ta như thế nào?

- ồ! Một chứng điên kỳ lạ: hắn cho rằng hắn là chủ sở hữu một kho báu khổng lồ. Mỗi lần có người vào thăm, hắn hứa cúng cho chính phủ hàng triệu đồng nếu chính phủ trả tự do cho hắn.

- A! A! Thật là kỳ cục, viên thanh tra nói, và cái ông triệu phú này tên là gì?

- Tu sĩ Faria. Đây rồi, chúng ta đã tới nơi.

Mở cửa đi Antoine.

Giữa phòng có một người đàn ông nằm gần như trần truồng vì quần áo ông ta rách tả tơi, ông ta nằm trong một vòng tròn vẽ bằng mẩu thạch cao cậy ra từ lớp vữa trát tường. Trong cái vòng tròn ấy ông vẽ các đường hình học rất rõ và ông chẳng hề cựa quậy ngay cả lúc cánh cửa.hầm rít lên khi mở ra. ông chỉ có vẻ như thức dậy vào lúc các ngọn đuốc chiếu sáng một cách khác thường lên nền đất ẩm nơi ông vẽ hình. Lúc đó ông mới quay lại và kinh ngạc thấy cái toán người đang đi xuống hầm của mình.

Lập tức ông đứng phắt dậy, cầm lấy cái chăn vứt dưới chân cái giường khốn khổ của ông và vội vàng quấn vào người để có thể xuất hiện trong một trạng thái dễ coi hơn trước mắt người lạ.

Ông thanh tra nói:

- Tôi đến để hỏi ông xem liệu ông có cần gì về phương diện ăn ở tại nhà lao này không?

- Thức ăn thì giống như ở tất cả các nhà lao khác, tu sĩ trả lời, nghĩa là cực tồi, còn về chỗ ở thì ngài xem đấy, nó ẩm thấp và độc hại, tuy nhiên cũng tạm được đối với một hầm cấm cố.

Bây giờ chẳng phải lúc nói chuyện ấy mà là những phát hiện có tầm quan trọng cao nhất tôi muốn trình bày với chính phủ. Ngài có thể vui lòng cho tôi được gặp riêng ngài không?

- Thưa ông, việc ông đòi hỏi ở tôi là không thể được.

- Thế nhưng thưa ngài, tu sĩ nói tiếp, nếu đây là việc làm mang lại cho chính phủ một số tiền khổng lồ, năm triệu chẳng hạn?

- ông thân mến, viên thanh tra nói, chính phủ thì giàu và đội ơn Chúa, không cần đến tiền của ông, ông hãy giữ lấy nó cho ngày ông ra tù.

Mắt ông tu sĩ trợn tròn, ông nắm lấy tay viên thanh tra.

- Nhưng nếu tôi không được ra tù, ông nói, nếu bất chấp mọi công lý, người ta cứ giam tôi trong cái hầm kín này, nếu như tôi chết trong này mà không truyền lại được bí mật của mình cho ai thì kho báu này sẽ coi như mất! Nếu chính phủ được lợi vì nó và tôi cũng thế thì có phải là tốt hơn không?

- Theo tôi, viên thanh tra nói nhỏ, nếu người ta không biết trước rằng người này điên thì nghe hắn nói với một giọng thuyết phục đến thế chắc người ta tin rằng hắn nói thực.

- Tôi không điên đâu thưa ngài, và tôi nói đúng sự thật, tu sĩ Faria nói tiếp, vì với thính giác đặc biệt thính nhạy đặc trưng của các tù nhân, ông ta không hề bỏ sót một lời nào của viên thanh tra. Kho báu mà tôi nói với ông là hoàn toàn có thật. ông chỉ cần dẫn tôi đến chỗ mà tôi chỉ rồi cho người đào bới đất lên trước mắt chúng ta và nếu tôi nói dối, nếu người ta không tìm thấy gì, nếu tôi là một thằng điên như.ông nói thì ông lại giải tôi về chính cái hầm kín này, tôi sẽ ở lại đây vĩnh viễn và tôi sẽ chết ở đây mà không đòi hỏi gì hơn ở cả ông lẫn bất cứ người nào.

Viên thanh tra cười.

- Câu chuyện được tưởng tượng ra chẳng phải tồi. ông ta nói. Nếu tất cả các tù nhân đều muốn vui đùa để đưa người gác mình đi rong chơi hàng trăm dặm thì đó là một cơ may tuyệt vời mà các tù nhân tạo ra cho mình để tẩu thoát khi có cơ hội, mà trong một cuộc du ngoạn như vậy thì chắc chắn sẽ có cơ hội.

- Thưa ngài, Faria trả lời, xin ngài hãy thề trước chúa là sẽ giải thoát cho tôi nếu tôi đã nói với ngài sự thật và tôi sẽ chỉ cho ngài nơi chôn kho báu.

- Nào! Chuyện kho báu của ông thế là đủ rồi. Tôi đã hỏi ông rằng ông có được nuôi dưỡng tốt không?

- Ngài có nghe tôi nói đâu! Tu sĩ kêu lên.

Ông thật đáng nguyền rủa như những kẻ rồ dại khác cứ nhất định không muốn tin tôi! ông không thèm lấy vàng của tôi, tôi sẽ giữ nó lại, ông từ chối cho tôi tự do thì Chúa sẽ cho tôi.

Đi đi, tôi chẳng còn gì để nói nữa.

Và ông tu sĩ ném cái chăn xuống, nhặt cục thạch cao của mình lên, rồi lại ngồi xuống giữa cái vòng tròn của mình tiếp tục kẻ những đoạn thẳng và làm các phép tính.

Thế là chấm dứt chuyện phiêu lưu của tu sĩ Faria. ông cứ bị tù và sau cuộc viếng thăm này tiếng tăm về bệnh điên buồn cười của ông còn tăng lên nữa.

Còn về Dantès, viên thanh tra giữ lời hứa với anh ta. Khi lên đến phòng quản ngục ông ta đòi xem cuốn sổ tù. Nhận xét về người tù được diễn đạt như sau:

Edmond Dantès: Người khôi phục chế độ Bonaparte cuồng nhiệt: đã góp phần tích cực vào cuộc trở về từ đảo Elbe. Phải giam giữ hết sức bí mật và có sự giám sát chặt chẽ nhất.

Lời buộc tội thật quá chắc chắn ai mà dám lay chuyển nó. Viên thanh tra viết xuống dưới:

Không còn làm gì được.

Ngày lại ngày, tuần lại tuần, tháng lại tháng cứ thế trôi đi. Dantès vẫn cứ chờ đợi. Anh đã trải qua mọi cấp độ đau khổ mà những tù nhân bị bỏ quên trong các nhà lao phải chịu đựng.

Gần bốn năm đã trôi qua giữa sự ủ rũ và hy vọng điên rồ, giữa đức tin và sự báng bổ thần thánh, giữa niềm mong mỏi được chết và lòng.ham muốn sống. Đến cuối năm thứ hai thì Dantès không còn đếm từng ngày nữa và lại lâm vào tình trạng mù thời gian mà trước đây viên thanh tra đã kéo anh ra khỏi đó.

Đột nhiên vào một buổi tối lúc chín giờ anh nghe thấy một tiếng động âm âm ở vách tường liền kề chỗ anh nằm.

Đó là tiếng của một dụng cụ gì đó cào đều đều vào tường kéo dài gần ba tiếng đồng hồ rồi Edmond nghe thấy tiếng đổ rào rào và sau đó tiếng động im bặt.

Vài tiếng đồng hồ sau tiếng động lặp lại to hơn và gần hơn. Edmond đã bị thu hút vào công việc này, nó đã thành bầu bạn với anh. Tiếng động ngày một rõ hơn đến nỗi bây giờ không cần cố gắng gì anh cũng nghe thấy.

- Chẳng nghi ngờ gì nữa, anh tự nhủ, bởi vì tiếng động vẫn tiếp tục, bất chấp cả ban ngày thì đó là một người tù khốn khổ nào đó như mình đang lao động để tìm cách tự giải thoát.

Edmond quyết định giúp sức cho người lao động không mệt mỏi đó. Anh bắt đầu bằng việc di chuyển cái giường của mình, phía sau giường anh thấy có lẽ sự nghiệp vượt ngục đang hoàn thành, và anh đưa mắt tìm một đồ vật có thể dùng để chọc để ngoáy vào tường cho xi măng ẩm rơi xuống rồi cuối cùng nạy một viên đá ra.

Thế mà chẳng có một đồ vật nào như thế hiện ra trước mắt anh. Anh chẳng có dao, chẳng có công cụ gì sắc. Phương kế duy nhất là đập vỡ cái hũ đựng nước và lấy một mảnh sành có góc nhọn mà bắt tay vào việc. Anh để cái hũ rơi xuống một vỉa gạch và nó tan thành nhiều mảnh.

Dantès chọn hai, ba mảnh nhọn, giấu chúng dưới ổ rơm và để các mảnh vụn khác rải rác trên mặt đất, cái hũ bị vỡ là một tai nạn quá tự nhiên thành thử người ta chẳng băn khoăn gì về nó.

Với cái công cụ chế tác ngẫu hứng ấy, Dantès nhảy về phía giường mình, kéo nó ra xa và dưới ánh sáng ban ngày lờ mờ lọt vào hầm, anh nhận ra rằng độ ẩm đã làm cho thạch cao trát tường mủn ra. Thấy chất thạch cao này tách ra từng mảng, trống ngực anh đổ dồn nhịp vui sướng.

Những mảng này giống như những nguyên tử thật đấy, tuy vậy sau nửa giờ đồng hồ Dantès cũng cạy ra được gần một nắm.

Ba ngày liền lao động vô cùng thận trọng anh đã đạt tới chỗ nạy hết được chỗ xi măng và gần như làm long chân một hòn đá.

Sau bao nhiêu lần gắng sức, hòn đá đã bị kéo ra khỏi tường tạo nên một chỗ lõm hơn một bộ rưỡi đường kính..Dantès nhặt nhạnh cẩn thận tất cả thạch cao vụn đem lại góc hầm, nạo đất nền màu xám bằng một mảnh hũ vỡ và phủ đất lên trên.

Rồi anh tiếp tục moi khoét trong nhiều ngày, nhiều đêm và mỗi lần trước giờ người gác ngục tới anh hết sức cẩn thận đặt lại hòn đá vào lỗ cũ rồi đẩy cái giường vào sát tường.

Một đêm, sau hai, ba giờ lao động, Dantès gặp một vật cản. Cái công cụ của anh không ăn vào được mà chỉ trượt đi trên một bề mặt phẳng.

Anh lấy tay sờ vào vật cản và nhận ra rằng anh đã gặp phải một cái rầm nhà. Cái rầm nhà này chạy ngang hay đúng hơn là chặn hoàn toàn cái lỗ mà Dantès vừa bới ra.

Bây giờ phải khoét lên trên hoặc xuống dưới.

Chàng trai khốn khổ không hề lường trước được vật cản này.

- ối! Lạy Chúa! Lạy Chúa tôi! Anh kêu lên, Chúa đã tước đoạt mất tự do của đời con, xin Chúa hãy thương con, đừng để con phải chết trong tuyệt vọng!

- Ai mà lại vừa nói về Chúa vừa nói về tuyệt vọng thế?

Tiếng nói ấy phát ra như là từ dưới đất, đất dày làm nhỏ tiếng đi và lọt đến tai chàng trai với một giọng như của người trong mộ.

Edmond cảm thấy tóc dựng ngược cả lên và anh lùi lại vẫn ở tư thế quỳ.

- Ôi! Anh lẩm bẩm, mình nghe thấy tiếng người nói. Nhân danh Thượng đế! Dantès kêu lên, ai nói đấy, nói nữa đi, dù cho tiếng nói của ông đã làm tôi kinh sợ. ông là ai vậy?

- Thế ông là ai, chính ông ấy? - Tiếng nói hỏi.

- Tôi là Edmond Dantès, một thủy thủ khốn khổ bị tù.

- ông ở đây từ bao giờ?

- Từ 28 tháng hai năm 1815.

- Họ buộc ông tội gì?

- Đã làm phản để đón Hoàng đế trở về.

- Thế nào? Để đón Hoàng đế trở về à? Thế Hoàng đế không còn tại vị nữa à?

- Hoàng đế thoái vị ở Fontainebleau năm 1814 và bị đày đi đảo Elbe. Thế còn ông, ông ở đây từ bao giờ mà chẳng hay biết gì về những việc ấy?

- Từ 1811.

Dantès rùng mình; con người này đã có nhiều hơn anh bốn năm tù.

- Được rồi đừng khoét nữa, giọng ấy nói thật nhanh, chỉ cần cho tôi biết phòng ông quay ra chỗ nào.

- Quay ra hành lang đi tới sân..- Chao ôi! - Tiếng nói thì thào.

- Ôi Chúa ơi! Có chuyện gì vậy?

- Chuyện là tôi đã lầm, tôi tưởng cái tường anh đang khoét là cái tường thành.

- Thế thì ông sẽ đào ra tới biển.

- Thì tôi muốn vậy mà.

- Và nếu ông thành công?

- Thì tôi nhảy xuống biển, tôi bơi đến một trong những đảo quanh lâu đài If và thế là tôi thoát. Còn bây giờ thì hỏng cả rồi. Lấp cẩn thận cái lỗ của anh lại, đừng làm nữa, đừng bận tâm gì cả. Tôi sẽ xuất hiện ngay đây; hãy để tôi truyền tín hiệu cho anh.

Những lời ít ỏi ấy được nói ra với một ngữ điệu có khả năng thuyết phục Dantès. Anh không hỏi gì thêm nữa mà đứng dậy nhặt các mảnh vụn lấy ở tường ra rồi đem giấu đi cũng thận trọng như trước và lại đẩy giường vào sát tường.

Từ lúc ấy Dantès buông mình hoàn toàn vào niềm hạnh phúc của mình, chắc chắn anh sắp không còn cô độc, thậm chí anh sắp được tự do cũng nên.

BÁ TƯỚC MÔNGTƠ CRIXTÔ
Chương 6: Tu sĩ Faria

Suốt ngày Dantès đi lại trong hầm, trái tim rạo rực niềm vui. Anh đâm bổ ra phía cửa mỗi khi có tiếng động dù là nhỏ nhất ngoài hành lang. Đêm đến Dantès cho rằng ông láng giềng sẽ lợi dụng đêm tối và sự yên tĩnh để nối lại cuộc trò chuyện với anh, nhưng anh lầm; đêm trôi đi mà không hề có lấy một tiếng động nào đáp lại sự chờ mong thấp thỏm bồn chồn của anh.

Nhưng hôm sau, khi người gác ngục đi khỏi, lúc anh vừa mới kéo cái giường ra xa bức tường thì anh nghe thấy ba tiếng gõ cách đều nhau; anh lao mình đến quỳ xuống.

- ông đấy à! Anh nói. Tôi đây mà.

Ngay lúc ấy đám đất mà Dantès tỳ tay lên hình như bị lún vào, anh nhảy lùi lại trong khi một khối đất đá rã ra đổ ụp xuống, một cái hang lộ ra ngay dưới miệng lỗ hổng mà anh đã khoét.ra hôm trước. Thế rồi ở cuối cái hang tối tăm mà anh không ước lượng được chiều sâu ấy xuất hiện một cái đầu, hai vai và cuối cùng từ cái lỗ mới đào một người đàn ông chui ra khá nhanh nhẹn.

Đó là một người vóc dáng nhỏ, tóc bạc trắng vì đau khổ hơn là vì tuổi tác, đôi mắt sắc ẩn dưới cặp mày rậm màu muối tiêu, bộ râu còn đen rủ xuống tận ngực; gương mặt hốc hác hằn sâu những nếp nhăn; nét rắn rỏi của vẻ mặt thể hiện một con người quen sử dụng những năng lực tinh thần của mình hơn là sức mạnh thể chất.

Trán người mới đến đẫm mồ hôi.

Còn về quần áo thì không thể nào phân định được hình dạng ban đầu của chúng vì đã rách tả tơi. Trông ông ít nhất độ sáu mươi tuổi tuy nét rắn rỏi trong các động tác nói lên rằng có lẽ ông ít tuổi hơn, vẻ già nua là do bị giam hãm lâu ngày.

- Nào, trước hết, ông nói, ta phải tìm cách xóa sạch các dấu vết để bọn gác ngục không phát hiện được có tôi sang đây. Chúng không hay biết đã xảy ra chuyện gì thì chúng ta mới yên ổn về sau.

Thế rồi ông cúi xuống miệng hang bê hòn đá, dù nó nặng ông vẫn nâng lên dễ dàng và đặt vào trong cái hốc.

- Hòn đá này bị moi ra quá cẩu thả, ông lắc đầu và nói: ông không có dụng cụ gì à?

- Thế ông thì có sao? - Dantès hỏi đầy kinh ngạc.

- Tôi tự tạo ra vài thứ. Trừ cái giũa ra, tôi có tất cả các thứ mà tôi cần: cái đục, cái kẹp, cái đòn bẩy.

- ồ! Tôi tò mò muốn nhìn thấy những sản phẩm của lòng kiên nhẫn và của tài nghệ của ông. - Dantès nói.

- Này, trước hết đây là một cái đục. Và ông ta đưa cho anh một thanh sắt mỏng và cứng có đầu nhọn được tra cán vào một mẩu gỗ sồi.

- ông làm ra chúng bằng cái gì? - Dantès hỏi.

- Bằng cái cọc giường. Tôi đã đào cả con đường dẫn tôi tới đây bằng cái công cụ ấy, gần năm mươi bộ đấy.

- Năm mươi piê cơ à ? - Dantès kêu lên như thể khiếp sợ.

- Phải, đó là xấp xỉ khoảng cách giữa phòng tôi với phòng anh: chỉ có điều tôi tính nhầm cái đường cong vì không có dụng cụ hình học để lập thang tỷ lệ, như tôi đã nói, tôi cứ tưởng tôi đào đến tường ngoài, khoét thủng tường rồi lao mình xuống biển. Tôi lại đào dọc hành lang đi ngang qua phòng anh, đáng lẽ phải đào xuyên qua bên dưới hành lang ấy; toàn bộ công trình của tôi thế là vứt đi, vì cái hành lang này dẫn tới sân đầy lính gác. Anh thấy đấy, rõ rằng là không thể nào tẩu thoát được qua hầm của anh.

Và một vẻ nhẫn nhục tột bực toát ra trên nét mặt cụ già.

Dantès nhìn người đàn ông, một con người từ bỏ niềm hy vọng được nuôi dưỡng lâu đến thế với một thái độ triết gia đến vậy, anh cảm thấy kinh ngạc pha lẫn với ngưỡng mộ.

- Bây giờ xin ông cho biết ông là ai?

- Tôi là tu sĩ Faria, ông nói, bị tù từ năm 1811, ở pháo đài If như anh biết đấy.

- Nhưng vì sao ông bị giam?

- Tôi ư? Vì tôi truyền bá những tư tưởng về vương quyền thống nhất ở Italie và điều đó gây mếch lòng.

Rồi ông già cúi đầu. Dantès không hiểu sao mà một con người lại có thể liều mạng mình cho những lợi ích như vậy. Anh ngồi yên nín lặng một lúc.

- Như vậy là ông từ bỏ việc vượt ngục?

Dantès bảo ông.

- Tôi thấy việc vượt ngục là không thể được, đó là nổi dậy chống lại Chúa khi mưu toan điều mà Chúa không muốn được thực hiện.

- Tại sao ông nản lòng? Mong muốn thành công ngay lần đầu là đòi hỏi quá nhiều ở Thượng đế. ông có thể lại khởi công một lần nữa theo hướng khác với đường hầm mà ông đã đào này không?

- Nhưng anh có biết tôi đã làm những gì không mà nói lại khởi công một lần nữa. Anh có biết rằng tôi phải bỏ ra bốn năm trời để tạo ra những dụng cụ mà tôi có đây không? Anh có biết rằng từ hai năm nay tôi bới tôi đào một thứ đất cứng như là đá không? Anh có biết rằng tôi buộc phải đào long chân những hòn đá mà trước kia tôi không tin rằng có thể lay được nó, rằng biết bao nhiêu ngày ròng đã trôi đi trong công cuộc lao động nặng nhọc và khổng lồ này và đôi khi chiều đến tôi mừng rỡ vì đã cậy ra được một phân vuông các thứ xi măng lâu đời đã rắn lại như đá ấy?

- Đúng là ông đã chứng tỏ một lòng kiên nhẫn đến cực độ, Dantès nói trong tiếng thở dài; công trình lao động lâu dài này đã cuốn hút ông trong mọi lúc và khi không có lao động để cho khuây khỏa thì ông còn có niềm hy vọng để được an ủi..- Với lại, tu sĩ nói, tôi không chỉ quan tâm đến việc ấy.

- Vậy ông làm gì?

- Tôi viết hay tôi nghiên cứu.

- Người ta cho ông cả giấy, bút và mực?

- Không, tu sĩ nói, nhưng tôi tự tạo ra cả.

Khi nào anh sang bên tôi, tôi sẽ cho anh xem một công trình hoàn chỉnh, là kết quả của những tư tưởng, những nghiên cứu vì những suy nghĩ suốt đời tôi mà trước kia tôi đã từng nghiền ngẫm. Đó là tập Luận về khả năng thiết lập nền quân chủ tập quyền ở Italie.

- Thế làm sao mà ông viết được?

- Viết trên hai áo sơ mi. Tôi đã phát minh ra một chế phẩm có thể làm cho vải mịn và nhẵn như giấy da. Tôi tự chế ra những ngòi bút hảo hạng bằng những miếng sụn ở đầu những con cá hét to tướng mà đôi khi người ta cho ta ăn trong những ngày kiêng ăn thịt. Còn mực thì tôi hòa bồ hóng vào phần rượu vang mà họ cho tôi vào mỗi chủ nhật.

Edmond càng thán phục hơn rồi thấy rằng năng lực của con người kỳ lạ này gần như là siêu nhiên.

- Thế bao giờ tôi có thể xem các thứ ấy?

Dantès hỏi.

- Hãy theo tôi. - Tu sĩ nói.

Và ông trở vào cái hang ngầm rồi mất hút.

Dantès theo sau ông.

Sau khi đã cúi lom khom để đi qua đường hầm, tuy nhiên cũng khá dễ dàng, Dantès đến đầu kia của hành lang ngầm chỗ thông với phòng của tu sĩ. Vừa bước vào và đứng dậy, chàng trai quan sát căn phòng này hết sức chăm chú. Thoạt nhìn thì phòng này chẳng thấy có gì đặc biệt.

- Nào, anh nói với tu sĩ, tôi muốn xem ngay các báu vật của ông.

Tu sĩ lại chỗ lò sưởi, dùng cái đục mà ông vẫn cầm ở tay bẩy một hòn đá trước kia là nền lò sưởi, để lộ ra một khoảng trống khá sâu là nơi giấu tất cả các đồ vật mà ông đã kể với Dantès.

- ông muốn xem gì trước? - Tu sĩ hỏi anh.

- Cho tôi xem công trình lớn của ông về vương quyền thống nhất ở Italie.

Faria kéo từ cái tủ quý giá ra ba hay bốn cuộn vải được quấn lại như những tàu lá của cây cói giấy: đó là những dải vải rộng gần bốn pút dài 18 pút. Những dải vải này được đánh số và kín những chữ.

- Bây giờ thì tôi lấy làm lạ một điều Dantès nói, là các buổi ban ngày có đủ để làm cả khối công việc này không?.- Tôi có cả ban đêm. - Faria trả lời.

- Ban đêm! Vậy ông phải giống như mèo và có thể nhìn rõ trong đêm tối?

- Không. Nhưng tôi tự kiếm lấy ánh sáng.

- Làm thế nào?

- Từ những miếng thịt mà người ta mang tới tôi lọc lấy mỡ, làm cho nó chảy ra, tôi đã có một thứ dầu đặc. Này, đây là cây nến của tôi.

Và tu sĩ đưa cho Dantès xem một thứ đèn xếp giống như những cái đèn dùng trong việc chiếu sáng công cộng.

Dantès đặt các đồ vật anh đang cầm lên bàn và cúi đầu, choáng ngợp vì tính kiên trì và sức mạnh của bộ óc này.

- ông thông thái đến thế thì thật sung sướng ông ạ! Nhưng ông đã kể chuyện đời ông cho tôi nghe còn ông lại chưa biết chuyện của tôi.

- Cuộc đời anh ư chàng trai? Nó còn quá ngắn ngủi để chứa được những sự kiện đôi chút quan trọng.

- Đời tôi ôm trọn một bất hạnh không cùng, Dantès nói, một bất hạnh mà tôi không đáng có, và để khỏi báng bổ Chúa như tôi đôi lần đã làm, tôi muốn có thể đổ lỗi cho con người về nỗi bất hạnh của tôi.

- Vậy là anh bảo rằng mình vô tội trong việc người ta khép tội cho anh à?

- Hoàn toàn vô tội, xin thề trên đầu hai người yêu quý nhất của tôi, trên đầu cha tôi và Mer-cédes.

- Nào, tu sĩ vừa nói vừa đậy chỗ cất giấu và dịch giường về chỗ cũ, anh hãy kể chuyện anh đi.

Dantès kể lại những gì anh gọi là câu chuyện của mình, nó vỏn vẹn có một chuyến đi ấn Độ, hai hay ba chuyến đi ở phương đông, cuối cùng anh kể đến chuyến vượt biển cuối cùng, đến cái chết của thuyền trưởng Leclère, đến cái gói mà anh giao cho đại thống chế, đến bức thư thống chế giao cho anh gửi cho một ông Noirtier nào đấy; rồi đến chuyến cập bến Marseille, đến cuộc gặp mặt cha anh, đến mối tình với Mercédès, đến bữa tiệc đính hôn, đến việc anh bị bắt, đến việc thẩm vấn, đến việc anh bị tạm giam ở tòa án, cuối cùng là việc anh bị bỏ tù ở pháo đài If. Đến đó Dantès không biết gì hơn nữa, ngay cả về thời gian anh đã ngồi tù ở đây.

Câu chuyện kể xong, tu sĩ suy nghĩ rất kỹ.

- Nếu anh muốn tìm ra thủ phạm, trước hết hãy tìm ra kẻ nào có thể được lợi khi anh bị buộc tội. Ai có thể có lợi do việc anh bị mất tích?.- Chẳng có ai, lạy Chúa! Tôi chẳng là gì cả.

- Đừng có trả lời như vậy: anh sắp được làm thuyền trưởng tàu Pharaon và anh sắp cưới một thiếu nữ xinh đẹp! Chúng ta hãy làm theo thứ tự: có ai đó có lợi trong việc anh không trở thành thuyền trưởng tàu Pharaon?

- Không, tôi được mọi người trên tàu quý mến lắm. Nếu các thủy thủ có quyền bầu thuyền trưởng thì tôi chắc chắn rằng họ bầu cho tôi. Chỉ có một người có vài lý do để giận tôi: trước đây không lâu tôi có cãi cọ với hắn và tôi đã đòi quyết đấu nhưng hắn từ chối.

- Xem nào, con người ấy tên là gì?

- Danglars. Trên tàu anh ta làm kế toán.

- Nếu anh làm thuyền trưởng thì anh có giữ anh ta ở nguyên chức vụ cũ không?

- Không, nếu như sự việc tùy thuộc ở tôi vì tôi thấy đôi điều không trung thực trong sổ kế toán.

- Được. Bây giờ nói đến việc có ai tham dự vào cuộc gặp cuối cùng của anh với thuyền trưởng Leclère.

- Không, chúng tôi chỉ có hai người.

- Có kẻ nào có thể nghe thấy cuộc trò chuyện này không?

- Có, vì cửa mở, và thậm chí... khoan đã...

vâng, vâng, chính là Danglars đã đi qua đúng vào lúc ông thuyền trưởng Leclère đưa cho tôi cái gói gửi cho đại thống chế.

- Tốt, tu sĩ nói, chúng ta đi đúng đường rồi.

Anh có đưa ai đi theo lên bờ khi anh ghé vào đảo Elbe?

- Không một ai.

- Họ đã giao cho anh một bức thư?

- Vâng, ông đại thống chế giao.

- Anh đã làm gì với cái thư ấy?

- Lên đến tàu là tôi cất cái thư trong ví của tôi.

- Vậy có phải là lúc anh lên tàu Pharaon thì ai cũng trông thấy anh cầm một bức thư?

- Vâng.

- Danglars cũng thấy như những người khác à?

- Danglars cũng như những người khác.

Tu sĩ nhún vai.

- Thật rõ như ban ngày, ông nói, anh phải có một trái tim quá ngây thơ và quá tốt mới không đoán ra được sự việc ngay từ đầu... Ta sang phần thứ hai của bài toán: có ai được lợi trong việc anh không cưới Mercédès?

- Có! Đó là Fernand, một chàng trai yêu cô ta.

- Anh có cho rằng hắn có khả năng viết đơn tố giác không?.- Không! Hắn thì có mà cho tôi một nhát dao, thế thôi. Vả lại, hắn không biết gì về mọi chi tiết nêu trong đơn tố giác.

- Anh không kể những chi tiết ấy với ai chứ?

- Không kể với ai, ngay cả với vợ chưa cưới của tôi.

- Khoan đã... Danglars có quen Fernand không?

- Không... à có... Tôi nhớ lại... chiều hôm trước lễ đính hôn của tôi, tôi đã thấy họ ngồi uống chung với nhau dưới giàn leo nhà lão Pam-phile, Danglars tỏ ra thân thiện và hơi giễu cợt, Fernand thì mặt tái và bối rối. Họ còn có người thứ ba cùng đi nữa, một người thợ may tên là Caderousse nhưng anh này đã say mèm. Khoan...

khoan đã... sao mà tôi lại không nhớ ra chuyện này nhỉ? Gần cái bàn họ ngồi uống rượu thấy có một lọ mực, có giấy và có bút. (Dantès đưa tay lên trán mình) ồ! Những kẻ bỉ ổi xấu xa! Những kẻ xấu xa bỉ ổi!

- Anh còn muốn biết điều gì khác nữa không?

Tu sĩ vừa cười vừa nói. - Có, có, vì ông đi sâu vào mọi chuyện, vì ông nhìn rõ mọi việc, tôi muốn biết vì sao tôi chỉ bị thẩm vấn có một lần, vì sao người ta không cho tôi ra tòa và làm sao mà tôi lại bị kết tội không cần bản án.

- ồ, điều này thì gay hơn một chút đây. Ai đã thẩm vấn anh?

- ông phó biện lý.

- Cách họ đối xử với anh thế nào?

- Mềm mỏng hơn là khắc nghiệt.

- Anh đã kể với ông ta tất cả à?

- Tất cả.

- Cung cách ông ta có đổi khác trong quá trình thẩm vấn không?

- Có một lúc cung cách ông ta biến đổi đi, sau khi đã đọc cái thư làm liên lụy đến tôi, ông ta có vẻ ủ rũ vì nỗi bất hạnh của tôi.

- Và anh có biết chắc rằng ông ta xót thương cho nỗi bất hạnh của anh không?

- ít ra ông ta cũng cho tôi bằng chứng rõ ràng về thiện cảm của ông ta: ông ta đã đốt cái thư có thể làm liên lụy đến tôi. Vừa đốt ông ta vừa nói với tôi: "Anh xem đây, chỉ có mỗi một bằng chứng này chống lại anh và tôi đã thủ tiêu nó." - Hành vi này lại quá cao thượng sao coi là tự nhiên được.

- ông nghĩ thế à?

- Tôi tin chắc là như vậy. Lá thư ấy gửi cho ai?

- Gửi cho ông Noirtier phố Coq-Héron số 13, ở Paris..- Noirtier? Tu sĩ nhắc lại... Noirtier à? Tôi có quen một Noirtier trong triều của cựu nữ hoàng étrurie, một Noirtier thuộc phái Girondin thời cách mạng. Thế còn ông phó biện lý của anh tên là gì?

- De Villefort.

Tu sĩ phá lên cười.

- Cái ông Noirtier này, anh thật là một anh mù tội nghiệp, thế anh có biết cái ông Noirtier này là thế nào không? Cái ông Noirtier ấy là cha đẻ của Villefort!

Nếu sấm sét có đánh xuống chân Dantès có đào cho anh một vực thẳm mà đáy vực dẫn vào địa ngục thì cũng chỉ gây cho anh một tác động còn kém chớp nhoáng, kém bị điện giật, kém choáng váng hơn những lời nói bất ngờ này. Anh đứng dậy hai tay ôm lấy đầu như để giữ cho nó khỏi nổ tung ra.

- Cha hắn ư! Cha hắn ư! - Anh kêu lên.

- Phải, cha hắn đấy, họ tên là Noirtier de Villefort. - Tu sĩ nói thêm.

Lúc ấy một luồng ánh sáng như làn chớp xuyên ngang bộ óc người tù. Tất cả những gì trước đây nằm trong bóng tối thì lúc này được soi rọi dưới ánh sáng rực rỡ. Sự lần chần tránh né của Villefort trong cuộc thẩm vấn, bức thư bị thủ tiêu, lời thề bị đòi hỏi, cái giọng của ông quan tòa đáng lẽ là dọa dẫm thì lại như nài nỉ van xin, hiện rõ tất cả trong ký ức, anh thét lên một tiếng, loạng choạng một lúc như người say rượu.

- Tôi thấy bực cho mình, tu sĩ Faria bảo, vì đã giúp anh tìm tòi và vì đã nói với anh tất cả.

- Vì sao vậy? Dantès hỏi.

- Vì tôi đã để ngấm vào tim anh một tình cảm mà trước đây trong đó chưa hề có: đó là sự trả thù.

- Thôi nói chuyện khác đi. - Chàng trai bảo.

Lão tù nhân là một trong những người mà câu chuyện của ông giống như của những người từng đau khổ nhiều, bao gồm nhiều điều giảng giải và hàm chứa một mối quan tâm tha thiết không suy giảm, nhưng câu chuyện ấy không vị kỷ và con người đau khổ ấy không khi nào nói về nỗi bất hạnh của mình. Dantès nghe từng lời của ông với lòng ngưỡng mộ.

- ông phải dạy tôi đôi chút về những điều ông biết, Dantès nói, dù việc này chỉ để ông khỏi buồn chán khi ở cùng tôi. Bây giờ tôi nghĩ rằng ông hẳn ưa nỗi quạnh hưu hơn là một người cùng cảnh ngộ không có học và không thú vị gì như tôi.

Tu sĩ mỉm cười..- Chao ôi! Con tôi, ông nói, khoa học của loài người hạn hẹp lắm và sau này ta dạy cho con toán, lý, sử và ba hay bốn sinh ngữ mà ta nói được thì con sẽ biết tất cả những gì ta biết:

thế mà tất cả mớ khoa học ấy ta chỉ cần độ hai năm là rót được từ đầu óc ta sang óc con.

- Hai năm thôi ư? Dantès nói, ông tin rằng con có thể học tất cả các thứ ấy trong hai năm ư?

- Để mà ứng dụng thì không, nhưng để nắm được các nguyên lý của chúng thì được: học chưa phải là thông hiểu; có những người biết và những người thông thái: trí nhớ tạo nên loại người thứ nhất còn triết lý tạo nên loại người thứ hai.

- Thế, Dantès nói, trước hết ông dạy con cái gì nào? Con muốn vào việc ngay, con khao khát khoa học.

- Dạy cho con tất cả! - Tu sĩ trả lời.

Đúng thế, ngay chiều tối hôm ấy, hai người tù vạch ra một kế hoạch dạy và học để bắt đầu thực hiện vào ngày hôm sau. Dantès có một trí nhớ phi thường, một khả năng quan niệm cực kỳ dễ dàng: thiên hướng toán học trong đầu óc anh làm cho anh hiểu tất cả bằng phép tính, còn chất thơ ở người đi biển thì sửa lại tất cả những gì có thể là quá vật chất khi sự chứng minh quy về những con số khô khan hay rút về sự ngay ngắn cứng đờ của các đường thẳng; vả lại anh đã biết tiếng Italie và chút ít tiếng ả Rập mà anh học được trong các chuyến đi sang phương Đông. Với hai thứ tiếng này anh sớm hiểu được cơ chế của tất cả các thứ tiếng khác và sau sáu tháng anh bắt đầu nói được tiếng Tây Ban Nha, tiếng Anh và tiếng Đức. Hơn một năm trôi qua. Trong năm ấy tu sĩ Faria liên tục dạy Dantès, lúc thì nói với anh bằng thứ tiếng này, lúc lại thứ tiếng kia, dạy anh học lịch sử các dân tộc và các danh nhân.

Vả lại tu sĩ là con người lịch thiệp và là con người của giới thượng lưu, ông có một vẻ uy nghi sầu muộn trong phong cách của mình mà Dantès nhờ ở óc tiếp thu trời phú đã biết khai thác từ đó phong thái lịch sự thanh nhã mà anh thiếu cùng các cung cách quý tộc mà thông thường người ta chỉ hấp thụ được do tiếp xúc với các tầng lớp thượng lưu hay do giao du với những con người ưu việt. Một hôm vào lúc Dantès đang bận dọn dẹp hành lang thông hai xà lim, anh bỗng nghe tiếng tu sĩ Faria ở bên phòng ông gọi anh với một giọng nguy khốn. Dantès vội chạy về và thấy tu sĩ đứng giữa phòng mặt tái xám, trán vã mồ hôi và bàn tay co quắp.

- ôi! Lạy Chúa! Dantès kêu lên, có chuyện gì vậy, ông làm sao thế?.- Nhanh, nhanh lên! Tu sĩ nói, nghe tôi đây.

Dantès ngước nhìn khuôn mặt tái mét của Faria, mắt ông nổi quầng xanh nhạt, môi ông trắng bệch, tóc ông xù lên; và do quá sợ hãi anh đã đánh rơi cái đục đang cầm ở tay xuống đất.

- Nhưng có chuyện gì vậy? - Edmond kêu lên.

- Tôi hỏng mất rồi! Tu sĩ nói, hãy nghe tôi nói đây. Tôi sắp lâm vào một căn bệnh khủng khiếp, chết người không chừng; sắp lên cơn đấy, tôi cảm thấy thế: tôi đã mắc phải bệnh này vào năm trước lúc tôi bị bắt giam. Với bệnh này chỉ có một thứ thuốc, tôi sắp bảo anh đây: nâng chân giường tôi lên, cái chân giường ấy rỗng, anh tìm thấy trong đó một lọ con chứa lưng lọ một dung dịch màu đỏ, cầm lấy nó...

- Đây này, bệnh lên cơn đấy, tu sĩ nói tiếp, tay chân ông run lập cập như vừa ra khỏi nước đá; tôi sắp rơi vào trạng thái cứng đờ giữ nguyên tư thế, có thể tôi sẽ không cử động được, sẽ chẳng hề rên rỉ, nhưng cũng có thể tôi bị sùi bọt mép, người tôi cứng lại, tôi sẽ kêu to; hãy gắng làm thế nào để họ không nghe thấy tiếng tôi kêu, đó là điều quan trọng đấy. Khi anh thấy tôi không cử động được, lạnh và chết thì chỉ có đúng lúc ấy, nghe cẩn thận này, anh cậy răng tôi bằng con dao rồi rỏ vào miệng tôi từ 8 đến 10 giọt thuốc nước đó thì có thể làm tôi tỉnh lại.

- Có thế thôi ư? - Dantès đau đớn kêu lên.

- Cứu tôi với! Cứu tôi với! Tu sĩ kêu lên, tôi bị... tôi bị...

Cơn bệnh kịch phát quá đột ngột và khốc liệt đến nỗi người tù khốn khổ thậm chí không thể nói trọn cái tiếng chấm thốt ra; một bóng mây lướt qua trán ông, nhanh và u ám như bão biển; cơn bệnh làm mắt ông trợn trừng, miệng ông méo xệch, má ông tím ngắt; ông giãy giụa, ông sùi bọt mép, ông gầm lên; nhưng theo như ông đã dặn, Dantès lấy cái chăn để dập tiếng kêu của ông. Cứ thế kéo dài đến hai tiếng đồng hồ.

Lúc này, còn trơ ỳ hơn cả một khối lớn, còn xám và lạnh hơn đá cẩm thạch, còn rã rời hơn cả một cây sậy bị giày xéo dưới chân, ông ngã xuống hãy còn cứng người lại trong một cơn co giật cuối cùng và trở nên tím tái.

Edmond đợi cho cái chết giống như thật này chiếm lĩnh toàn thân và làm lạnh đến tận tim ông; lúc ấy anh cầm con dao, lách lưỡi dao vào giữa hai hàm răng để tách hai hàm răng nghiến chặt một cách vất vả khôn cùng rồi đếm từng giọt, anh nhỏ mười giọt thuốc màu đỏ vào miệng ông và ngồi đợi.

Suốt một tiếng đồng hồ ông già không hề động đậy. Dantès sợ rằng mình đã để quá muộn và anh nhìn ông, hai bàn tay sục vào mái tóc..Cuối cùng một màu phớt hồng hiện ra trên má ông, mắt ông mở trừng trừng và thất thần nay lại có được cái nhìn, một hơi thở nhẹ thoát ra từ miệng ông và ông cựa mình.

- Thoát chết rồi! Thoát chết rồi! - Dantès kêu lên.

- Lần trước, Faria nói, cơn kịch phát kéo dài nửa giờ, sau đó tôi thấy đói và gượng dậy một mình; hôm nay tôi không thể cựa quậy được cả chân lẫn tay phải, đầu óc tôi bối rối chứng tỏ có tràn máu trong não. Đến lần thứ ba nữa thì tôi sẽ bị liệt toàn thân hoặc là chết ngay lập tức.

Đó là bệnh di truyền trong dòng họ; cha tôi chết trong cơn kịch phát thứ ba, ông tôi cũng thế.

Người thầy thuốc đã chế cho tôi thứ thuốc này từng báo trước rằng tôi cũng chung số phận ấy.

- ông thầy thuốc nói không đúng! Dantès kêu lên.

Dantès lắm lấy tay tu sĩ, ông làm yên lòng anh bằng một nụ cười, rồi anh đi ra với sự ngoan ngoãn và kính trọng mà anh đã dành cho ông bạn già.

Sáng hôm sau lúc Dantès trở lại căn phòng của người bạn tù, anh thấy Faria ngồi, vẻ mặt điềm tĩnh.

Ông chìa ra cho Dantès một tờ giấy, không nói gì.

- Cái gì thế ông? Anh hỏi. Tôi chỉ thấy đó là một tờ giấy cháy dở có viết những nét chữ gô tích bằng một thứ mực lạ lùng.

- Anh bạn ạ, tờ giấy này, Faria nói, bây giờ tôi có thể bộc lộ trọn vẹn với anh vì tôi đã thử thách anh, tờ giấy này là kho báu của tôi mà kể từ hôm nay anh được hưởng một nửa.

Mồ hôi lạnh toát ra trên trán Dantès. Cho đến tận hôm nay anh vẫn tránh không nói đến chuyện kho báu này với ông già Faria, nó là nguồn gốc của lời buộc tội ông mắc bệnh điên vốn đè nặng lên ông tu sĩ đáng thương; với tính tế nhị do bản năng, Edmond muốn không đụng chạm tới sợi dây dễ rung động đau lòng này; còn về phía ông, tu sĩ Faria giữ kín tiếng. Anh đã coi sự im lặng của ông già như việc trở về với lý trí; thế mà hôm nay, vài lời ít ỏi này ông buột miệng thốt ra sau một cơn bệnh kịch phát nặng như vậy dường như báo hiệu sự tái phát nghiêm trọng của chứng mất trí.

- Kho báu của ông ư? - Dantès ấp úng.

- ừ, Faria mỉm cười nói; hãy yên tâm, ta không điên đâu. Kho báu này có thật, Dantès ạ,.và nếu như số phận không cho ta được sở hữu nó thì anh sẽ sở hữu nó, chính anh đấy: chưa ai muốn nghe ta mà cũng chẳng có ai tin ta vì họ cho rằng ta điên; nhưng anh là người ắt phải biết rằng ta không điên, hãy nghe ta và anh sẽ tin ta sau này nếu anh muốn. Hãy đọc tờ giấy này.

Edmond cầm lấy tờ giấy cháy mất một nửa chắc hẳn là trong một tai nạn nào đó và anh đọc:

"Kho báu này có thể đáng giá tới hai...

êquy La Mã trong góc xa nh...

của cửa hang thứ hai...

Tuyên bố thuộc quyền sở hữu toàn bộ...

Kế.

25 tháng tư năm 149" - Tốt lắm! - Tu sĩ Faria nói khi chàng trai đã đọc hết.

- Nhưng mà, Dantès trả lời, tôi chỉ thấy ở đó những dòng chữ cụt, những từ không có phần cuối, những chữ đều bị đứt đoạn vì lửa cháy nên thành ra không đọc được.

- Đó là đối với anh, anh bạn ạ, anh mới đọc lần đầu, nhưng không phải đối với tôi là người đã đọc nó đến ốm người trong suốt bao nhiêu đêm trường, là người đã khôi phục lại từng câu, đã bổ xung rõ từng ý tưởng.

- Và ông tin rằng ông đã tìm ra cái nghĩa còn dang dở?

- Tôi dám chắc như vậy, anh sẽ tự mình xét đoán lấy, nhưng trước hết hãy nghe lịch sử tờ giấy này. Anh biết rằng, tu sĩ nói, tôi là thư ký, người thân như trong nhà, người bạn của hồng y giáo chủ Spada, vị vương công cuối cùng mang họ này. Tôi hàm ơn ông lãnh chúa đáng kính này về tất cả những gì tôi đã nếm trải gọi là hạnh phúc trên đời này. ông không giàu cho dù là của cải của gia đình ông được diễn đạt thành tục ngữ và tôi thường nghe người ta nói "Giàu có như một người mang họ Spada". Lâu đài của ông ta là thiên đường của tôi. Tôi dạy các cháu ông học, họ đã chết cả, và khi ông còn lại cô độc trên đời, tôi đều đáp lại những gì ông đã làm cho tôi trong suốt mười năm trời bằng sự tận tụy tuyệt đối trước những ý muốn của ông. Rồi ông chủ tôi mất. ông để lại cho tôi các giấy tờ của dòng họ, thư viện của ông gồm năm ngàn cuốn, và một cuốn kinh nhật tụng cùng một vạn đồng ê quy La Mã bằng tiền mặt.

Vào năm 1807, một tháng trước khi tôi bị bắt và mười lăm ngày sau cái chết của bá tước Spada, ngày 25 tháng mười hai, cái ngày đáng nhớ ấy còn mãi trong ký ức của tôi, tôi đọc đến.lần thứ một ngàn các giấy tờ ấy vì lâu đài từ đó về sau thuộc sở hữu của một người lạ, tôi sắp rời Lamã để dọn về ở Florence. Đắm chìm vào cuộc nghiên cứu, vào khoảng sáu giờ chiều tôi thấy mình ở trong bóng tối dày đặc nhất. Tôi kéo chuông để người ta đem đèn lại cho tôi nhưng chẳng có ai đến. Thế là tôi dùng một tay cầm cây nến đã chuẩn bị sẵn và tay kia lần tìm một tờ giấy, tính chuyện châm vào tý lửa còn sót lại trên lò sưởi. Tôi lấy trong cuốn kinh nhật tụng quý giá đặt trên bàn cạnh tôi một tờ giấy ố vàng phía trên có vẻ như dùng làm cái đánh dấu trang mà trải qua bao thế kỷ vẫn được để nguyên chỗ cũ do lòng tôn kính của những người thừa kế. Tôi mò mẫm xoắn tờ giấy vô ích ấy rồi chìa vào ngọn lửa đang lụi dần để châm lửa.

Nhưng, dưới ngón tay tôi, như có ma thuật, trong khi lửa bốc lên, tôi nhìn rõ những chữ màu vàng nhạt nổi lên nền giấy trắng và xuất hiện trên tờ giấy; lúc đó tôi hoảng sợ quá: tôi nắm chặt lấy tờ giấy trong tay để dập lửa, tôi châm trực tiếp ngọn nến vào lò sưởi, tôi gỡ cái thư bị vò nhàu ấy ra với nỗi xúc động khó tả và tôi nhận ra rằng một thứ mực huyền diệu và bí mật đã làm cho các nét chữ chỉ hiện ra khi gặp sức nóng gay gắt. Hơn một phần ba tờ giấy đã bị lửa đốt cháy: đó là tờ giấy mà anh đã đọc.

Bây giờ, tu sĩ nói tiếp, anh hãy đọc một tờ giấy khác. Và ông chìa cho Dantès một tờ giấy thứ hai có phần kia của các dòng chữ.

Dantès vâng lời. Hai mẩu giấy ráp vào nhau cho thấy toàn bộ bức thư như sau:

"Ngày hôm nay 25 tháng tư năm 1497 đủ..ợc Đức Giáo hoàng Alexandre VI mời ăn tối và sợ rằng ngài muốn nhận thừa kế tài sản của tôi và dà...nh cho tôi số phận của các giáo chủ hồng y Crapara và Bentivoglio, bị đầu độc chết... tôi tuyên bố với cháu tôi là Guido Spada, người thừa kế toàn bộ tài sản của tôi, rằng tôi đã ch...ôn ở một nơi mà cháu tôi đã biết vì đã cùng tôi đến đó, nghĩa là tr...ong các hang của hòn đảo nhỏ Monte Cristo, toàn bộ những gì mà tôi s...ở hữu gồm vàng thoi, tiền vàng, ngọc, kim cương, đồ trang sức; mà chỉ một mình... tôi biết sự tồn tại của kho báu này, có thể lên tới gần hai tri...ệu đồng êquy Lamã và rằng người thừa kế sẽ tìm thấy khi nâng hòn đá thứ hai mươi kể từ vùng nhỏ ở phía đông theo đường thẳng. Hai cử...a vào đã được mở trong hang này: kho báu được đặt trong góc xa... nhất của hang thứ hai, kho báu đó tôi di tặng và truyền lại cho cháu tôi.có to...àn quyền sở hữu, như là cho người thừa kế duy nhất của tôi.

25 tháng tư năm 1498 CES... AR + SPADA - Này! Cuối cùng anh hiểu rồi chứ? Faria nói.

- Đây là tuyên bố của giáo chủ hồng y Spada và bản di chúc của ông mà người ta hiện nay vẫn tìm kiếm phải không? - Edmond nói với vẻ còn nghi hoặc.

- Bây giờ, tu sĩ Faria nói tiếp và nhìn Dantès với ánh mắt gần như của người cha, bây giờ, anh bạn ạ, con đã biết chuyện này như ta: nếu có lúc nào đó ta vượt ngục cùng nhau thì nửa kho báu là của con, và nếu ta chết ở đây còn con một mình trốn thoát thì con được sở hữu toàn bộ.

- Và ông nói rằng kho báu này chứa...

- Hai triệu ê quy La mã, gần bằng mười ba triệu đồng tiền của chúng ta. Edmond ngỡ đang nằm mơ: anh chập chờn giữa hoài nghi và vui mừng. Tu sĩ không biết đảo Monte Cristo, nhưng Dantès thì biết rõ: anh thường đi ngang qua phía trước đảo này, nó nằm giữa đảo Corse và đảo Elbe, thậm chí đã có lần anh ghé vào đó. Đảo này hoàn toàn hoang vắng; đó là một núi đá gần như hình nón, có vẻ như đã bị đẩy lên mặt biển do một vài biến động của núi lửa dưới đáy biển sâu.

Dantès vẽ sơ đồ đảo cho tu sĩ Faria và Faria chỉ dẫn cho Dantès các cách để tìm kho báu.

Như vậy, đối với hai con người bất hạnh, thì những ngày tiếp theo, nếu không phải là những ngày sung sướng thì ít ra cũng là những ngày trôi qua khá nhanh. Tu sĩ Faria, người trong bao nhiêu năm dài vẫn giữ im lặng về kho báu nay lại luôn miệng nói về nó mỗi khi có dịp. Như ông đã tiên đoán, ông bị liệt tay phải và chân trái, và gần như mất hết hy vọng được tự mình hưởng kho báu ấy, nhưng ông vẫn ao ước chàng trai của ông được phóng thích hay vượt ngục thành công và anh hưởng kho báu thay cho ông..

BÁ TƯỚC MÔNGTƠ CRIXTÔ
Chương 7: Vượt ngục

Một đêm, Edmond chợt thức giấc, như nghe thấy có người gọi mình. Anh mở mắt và cố nhìn xuyên qua bóng đêm dày đặc.

Tên anh hay đúng hơn là một tiếng nói rên rỉ cố phát ra tên anh, vọng đến tai anh. Tiếng rên rỉ vọng ra từ hầm kín của người bạn tù của anh.

- Trời ơi! Dantès thì thào; có phải là...?

Và anh dịch cái giường, lôi hòn đá ra, lao mình vào hành lang ngầm sang đến đầu kia bên đối diện; tấm đá đậy cửa hang đã được nâng lên rồi. Trong ánh sáng của một ngọn đèn dị hình và chập chờn, Edmond nhìn thấy ông già mặt tái xanh còn đang đứng và bám riết lấy cột giường.

Nét mặt ông bị xáo động bởi những triệu chứng khủng khiếp mà anh đã từng biết.

- Này anh bạn, Faria nói một cách cam chịu, con hiểu rồi phải không? Và ta chẳng còn gì phải nói cho con biết nữa!

Edmond bật lên một tiếng kêu đau đớn.

- ồ! Anh nói, con đã cứu ông một lần mà, con sẽ cứu được ông lần thứ hai!

Và anh nâng chân giường lên, rút cái lọ ở đấy ra, vẫn còn đầy đến một phần ba chất lỏng màu đỏ. Anh nói:

- ông nghe đây, vẫn còn thứ thuốc nước cứu mạng đây mà. Nhanh lên, ông nói cho con biết nhanh lên xem lần này con phải làm những gì, có chỉ dẫn gì mới không? Nói đi ông bạn, con nghe đây.

- Anh cứ làm như lần trước chỉ có điều đừng đợi lâu đến thế. Vào lúc này mọi động lực của cuộc sống đều đã yếu quá rồi và cái chết, ông vừa nói tiếp vừa chỉ vào tay chân bị liệt của mình, chỉ còn phải làm một nửa công việc của nó nữa mà thôi. Nếu sau khi đổ cho ta mười hai giọt thay cho mười giọt như mọi khi vào miệng mà anh không thấy ta tỉnh lại thì anh đổ nốt chỗ còn lại vào miệng ta.

Edmond đỡ ông già trong tay và đặt nằm lên giường.

- Bây giờ, bạn ơi, Faria nói, điều an ủi duy nhất cho cuộc đời khốn khổ của ta là anh mà.trời ban cho ta đấy, vào lúc ta phải rời xa anh vĩnh viễn, ta cầu chúc cho anh hạnh phúc trọn vẹn, cho anh tất cả sự giàu có mà anh đáng được hưởng: con trai của ta ơi, ta cầu phúc cho con!

Một cơn rung giật mãnh liệt ngắt lời ông già; Dantès ngẩng đầu lên, thấy đôi mắt ông đỏ ngầu: người ta nói đó là làn sóng máu từ ngực dâng lên trán.

Cơn kịch phát thật khủng khiếp: chân tay ông vặn vẹo, mi mắt phồng lên, bọt mép đầy máu, thân hình bất động, đó là những gì còn lại trên chiếc giường bệnh đầy đau đớn thế chỗ cho con người thông minh vừa nằm đây lúc nãy.

Khi Dantès thấy đến lúc cần cho uống thứ thuốc cứu mạng, anh cầm lấy con dao, cậy răng nhưng không thấy bị cản lại mạnh nhiều như trước, anh nhỏ thuốc, đếm từng giọt cho đến mười hai giọt rồi đợi.

Anh đợi mười phút, mười lăm phút, nửa giờ, không có gì nhúc nhích. Run rẩy, tóc cứng lại, trán đẫm mồ hôi lạnh, anh đếm từng giây bằng nhịp đập của trái tim mình.

Lúc này anh nghĩ đã đến lúc phải thử dùng phép cuối cùng: anh ghé cái lọ thủy tinh vào đôi môi tím ngắt của Faria và không cần phải cậy mà hai hàm răng đã mở sẵn, anh trút tất cả chỗ thuốc còn lại vào miệng ông.

Thuốc đã gây nên một hiệu ứng điện, một cơn rung lay mạnh chân tay ông già, mắt ông lại mở ra nhìn thật đáng sợ. Miệng ông phát ra một tiếng thở dài giống như tiếng kêu rồi toàn thân rung giật ấy dần dần trở lại bất động như trước.

Nửa giờ, một giờ, một giờ rưỡi trôi qua. Suốt một giờ rưỡi đồng hồ khắc khoải lo âu ấy Ed-mond cúi trên ông bạn già, tay anh đặt lên trái tim ông, cảm thấy cơ thể này cứ lạnh đi dần và nhịp đập trái tim này đang tắt dần.

Cuối cùng không có gì là còn sống; nhịp run rẩy yếu ớt cuối cùng của trái tim ngừng hẳn, gương mặt tu sĩ trở nên nhợt nhạt, mắt còn mở nhưng cái nhìn mờ đục đi.

Khi ngày lại rạng, Dantès hiểu rằng anh chỉ có một mình với một tử thi. Anh tắt đèn giấu nó đi cẩn thận rồi đi ra, hết sức khéo léo đặt tấm đá đậy cửa hang trên đầu anh lại. Vả chăng, vừa kịp lúc, người gác ngục sắp đến.

Lần này hắn đến chỗ Dantès trước, khi ra khỏi hầm kín của anh, hắn đi sang hầm của tu sĩ Faria mang theo đồ trải giường và thức ăn sáng.

Lúc này Dantès lâm vào một trạng thái nóng ruột bồn chồn khó tả, muốn biết ngay điều gì sắp xảy ra trong hầm kín của người bạn đáng thương của mình; anh vào đường hầm và kịp nghe.thấy tiếng kêu của người mang chìa khóa yêu cầu giúp đỡ.

Edmond nghe thấy tiếng động của cái giường khi người ta lay gọi tử thi, anh nghe tiếng viên quản ngục ra lệnh đi tìm thầy thuốc.

Người thày thuốc phân tích chứng bệnh mà người tù đã không chống chọi nổi và tuyên bố rằng ông ta đã chết.

Còn nghe thấy cả tiếng chân những người đến và đi; một lát sau tiếng vải sột soạt lọt vào tai Dantès, chiếc giường rít lên trên những chiếc lò so, một bước đi nặng nề như của một người mang vật nặng giẫm lên tấm đá đậy cửa hang, rồi cái giường lại rít lên dưới sức nặng vừa bị đặt lên.

Tiếng quản ngục nói:

- Các anh khóa cửa hầm kín lại như ông ta còn sống và sẽ đem xác đi vào mười hoặc mười một giờ.

Thế rồi tiếng các bước chân xa dần, tiếng nói nhỏ dần, lại nghe tiếng cửa sập vào rồi cái ảm đạm ngự trị tất cả.

Lúc đó Dantès lấy đầu từ từ đội tấm đậy cửa hang lên và đưa đôi mắt dò xét nhìn khắp căn phòng.

Căn phòng trống rỗng.

Trên giường thấy có một túi vải thô, bên dưới những nếp vải thấy lờ mờ in hình một vóc dáng dài và cứng: đó là tấm vải liệm tu sĩ Faria.

Thế là tất cả đã kết thúc. Faria người bạn tù nhân hậu hữu ích mà anh đã quen thuộc một cách mãnh liệt biết bao nay chỉ còn trong ký ức của anh. Thế là anh ngồi lên đầu giường, cái giường ghê gớm ấy, và buông mình đắm chìm vào một nỗi buồn mênh mông.

Đột nhiên anh đứng dậy, đặt tay lên trán như người bị chóng mặt, đi hai ba vòng trong phòng rồi trở lại đứng trước giường...

- ồ! ồ! Anh thì thào, ai đem lại cho mình ý tưởng ấy? Có phải người không? Lạy chúa tôi!

Vì chỉ có người chết mới tự do ra khỏi nơi này, ta phải thay chỗ cho người chết.

Và không phí thì giờ để xem xét lại quyết định ấy, anh cúi xuống cái túi gớm ghiếc ấy, mở nó ra bằng con dao do Faria tự tạo, lôi thi hài ông ra khỏi t úi, đưa về phòng anh, đặt lên giường rồi phủ chăn kín, quay đầu vào tường để người gác ngục khi mang bữa tối đến tưởng rằng anh nằm ngủ như thường lệ, rồi trở vào đường hầm, kéo cái giường vào sát tường, vào căn phòng bên kia, lấy kim chỉ trong tủ, chui vào túi vải thô đã rạch ra lúc nãy, nằm vào vị trí của xác chết và khâu kín lại bằng đường khâu từ bên trong.

Dantès suy tính thật nhanh chóng: nếu như bọn họ đưa anh đến nghĩa địa và đặt anh xuống huyệt thì anh cứ để mặc cho đất lấp lên, rồi vìlà về đêm chờ lúc những người đào huyệt vừa quay lưng đi thì anh sẽ mở lối chui qua lớp đất mềm và chạy trốn: anh hy vọng là sức nặng sẽ không quá lớn để anh có thể thoát ra được. Nếu anh lầm, ngược lại đất quá nặng làm anh chết ngạt thì càng hay! Tất cả sẽ kết thúc!

Nhiều giờ trôi qua không thấy có một động tĩnh nào trong lâu đài. Cuối cùng đến giờ quản ngục đã định tiếng bước chân nghe dội lên ở cầu thang. Edmond hiểu ra rằng đã đến lúc; anh lấy hết can đảm, cố nén hơi thở của mình.

Họ dừng lại ở cửa, có tiếng chân hai người.

Cửa mở, một làn ánh sáng mờ rọi vào mắt Dantès. Qua lớp vải thô bọc người anh, thấy có hai bóng đến gần giường. Một bóng thứ ba ở cửa, tay cầm đèn lồng. Hai người đến gần giường, mỗi người nắm lấy một đầu túi vải.

- Xem ra một ông già gầy nhom mà vẫn còn nặng gớm! - Một trong hai người nói trong khi nắm đầu bọc nâng túi lên.

Họ khiêng người giả chết từ giường sang cáng. Edmond phải cứng người lại để đóng trọn vai trò của người quá cố. Họ đặt anh lên cáng; và đám ma có người cầm đèn lồng đi trước, lên cầu thang.

Bỗng nhiên anh thấy bị chìm ngập trong không khí lạnh buốt của ban đêm. Dantès nhận ra làn gió thổi dọc sông Rhône quen thuộc. Đó là một cảm giác đột ngột đầy ắp những vui sướng và lo âu lẫn lộn.

Những người khiêng cáng đi độ hai mươi bước thì dừng lại và đặt cáng xuống đất.

Một người khiêng đi ra xa và Dantès nghe thấy tiếng giày của hắn vang trên các tấm đá.

- Soi đèn cho tao, đồ súc sinh, tiếng người vừa đi ra xa nói, không thì tao chẳng bao giờ tìm thấy vật tao muốn tìm.

Một lát sau hắn đến gần Edmond, anh nghe thấy hắn đặt cạnh anh một vật nặng có tiếng vang; cùng lúc thấy có sợi dây quấn quanh chân anh, siết chặt làm anh đau.

- Này thắt nút rồi chứ? Người phu huyệt nãy giờ đứng yên hỏi. Vậy thì lên đường.

Và cái cáng được khiêng lên, đi độ năm mươi bước nữa rồi họ dừng lại để mở một cánh cửa, sau đó lại đi tiếp.

- Thời tiết xấu quá, đêm nay mà đi biển sẽ chẳng tốt đẹp gì.

Họ còn đi bốn năm bước nữa, cứ lên cao mãi rồi Dantès cảm thấy họ túm lấy anh bằng đầu và chân rồi đung đưa anh.

- Một, hai, ba này!.Cùng lúc ấy anh cảm thấy bị quăng ra, quả thật là quăng vào một khoảng trống khổng lồ, vút qua không trung như một con chim bị thương, rồi rơi, rơi mãi với nỗi kinh hoàng làm lạnh cứng tim anh. Dù bị một vật gì nặng lôi anh bay xuống nhanh nhưng anh vẫn cảm thấy thời gian rơi như suốt cả một thế kỷ.

Cuối cùng, với một tiếng động kinh khủng, anh rơi vào làn nước giá băng như một mũi tên làm anh bật lên một tiếng kêu nhưng nó lại bị dập tắt ngay vì anh đã chìm nghỉm.

Dantès đã bị ném xuống biển, một hòn lê nặng ba mươi sáu cân buộc vào chân kéo anh xuống đáy.

Biển là nghĩa địa của pháo đài If.

Dantès choáng váng, gần ngạt thở, tuy thế nhanh trí kịp nín thở và bàn tay phải của anh như chúng tôi đã nói là anh chuẩn bị sẵn sàng chờ mọi khả năng, đã cầm con dao mở sẵn, anh vội rạch cái túi, đưa cánh tay ra ngoài rồi đến cái đầu. Nhưng lúc đó anh vẫn cảm thấy bị lôi đi mặc dầu đã tìm cách nâng hòn lê lên. Anh bèn cong người xuống tìm sợi dây trói chân và bằng một cố gắng tột độ, anh cắt được nó đúng lúc anh ngạt thở; thế rồi đạp chân một cái thật mạnh, anh ngoi lên được mặt biển trong khi hòn lê kéo cái túi vải thô suýt nữa thành áo liệm cho anh xuống những tầm sâu xa lạ của biển.

Dantès chỉ đủ thời gian để thở và anh lại lặn xuống nước một lần nữa; vì việc tránh có ai nhìn thấy là điều anh phải đề phòng đầu tiên.

Khi anh lại ngoi lên thì anh đã ở cách chỗ anh rơi xuống đến năm mươi bước.

Dantès lại lặn xuống lần nữa, rẽ nước lặn một hơi khá dài bằng những thao tác quen thuộc với anh từ trước và khi anh trở lên mặt biển thì thấy chiếc đèn lồng ở đảo If đã mất tăm.

Anh phải định hướng: trong tất cả các đảo quanh đảo If thì hòn đảo an toàn nhất là đảo Tiboulen cách cái nhà tù ác hại ấy một dặm.

Suốt một giờ đồng hồ liền, phấn khích bởi cảm giác tự do xâm chiếm toàn bộ con người anh, Dantès tiếp tục rẽ sóng theo hướng đã chọn.

Anh tự nhủ:

- Nào, thế là mình đã bơi suốt một giờ liền, bây giờ ta chẳng còn cách Tiboulen bao xa nữa.

Bỗng nhiên anh thấy chân chạm đất; độ hai mươi bước trước mặt anh sừng sững một khối đá hình thù kỳ dị: đó là đảo Tiboulen.

Dantès đứng lên, bước lên phía trước vài bước và vừa tạ ơn Chúa vừa nằm xoài ra trên những mũi nhọn của đá hoa cương mà giờ đây đối với anh dường như êm ái như chưa bao giờ anh từng thấy trên những chiếc giường êm ấm nhất.

Thế rồi mặc cho gió, mặc cho mưa đã bắt đầu rơi nặng hạt, rã rời vì quá mệt, anh ngủ thiếp đi một giấc ngon lành.

Sau một giờ Edmond thức dậy bởi một tiếng sấm ầm ầm rất to: bão đã nổi; thỉnh thoảng một tia chớp trên trời rọi sáng những lớp sóng và những đám mây cuồn cuộn trôi lớp nọ tiến lên trước lớp kia như những làn sóng của một cõi hỗn mang vô bờ.

Vừa khi anh đứng dậy, một ánh chớp như mở màn trời ra, soi sáng không gian; nhờ ánh sáng của tia chớp này anh thấy xuất hiện cách chỗ anh độ một phần tư dặm có cái gì như một bóng ma lướt từ ngọn sóng xuống vực thẳm, một chiếc tàu đánh cá nhỏ nhoi bị cơn giông tố và làn sóng hung dữ cuốn đi.

Rồi nhờ một tia chớp khác lóe lên, chàng trai nhìn thấy bốn người đang bám riết lấy cột buồm và các dây néo cột; một người thứ năm bám lấy cái cần của bánh lái đã vỡ.

Cùng lúc ấy anh lại nghe thấy tiếng răng rắc đáng sợ, những tiếng kêu la của người sắp chết vang đến tận chỗ anh. Uốn cong người như con nhãn ngủ trên tảng đá của mình, từ đó anh nhìn xuống vực thẳm, một làn chớp nữa cho anh thấy chiếc tàu nhỏ đã tan tành và giữa các mảnh vỡ, những đầu người nhấp nhô, những bộ mặt tuyệt vọng, những cánh tay giơ lên trời chới với.

Rồi tất cả chìm vào trong đêm đen, cảnh khủng khiếp ấy diễn ra trong ánh chớp rồi tắt.

Gió yếu dần. Ngày đã rạng. Có thể đã là năm giờ sáng, biển tiếp tục lặng dần.

Edmond tự nhủ:

- Sau hai hay ba giờ nữa sẽ có báo động ở pháo đài If. Ngay lúc ấy những chiếc xuồng đầy lính có vũ trang sẽ vây dồn ta. Đại bác sẽ bắn báo tin cho cả vùng bờ biển rằng không được cưu mang con người trần truồng, đói khát mà họ sẽ gặp. Ta đói, ta khát, ta phải vứt bỏ cả con dao cứu mạng gây vướng víu khi ta bơi, ta phải phó mình cho người nông dân đầu tiên bắt gặp, nộp ta cho cảnh sát để lĩnh hai mươi frăng tiền thưởng, ta chẳng còn sức lực lẫn ý tưởng và quyết tâm. Ôi lạy Chúa! Lạy Chúa tôi! Hãy giúp con.

Vào lúc mà Edmond nói ra lời nguyện cầu khát khao cháy bỏng ấy thì anh thấy ở mũi đất của đảo Pomègue có một con tàu nhỏ và chỉ có mắt một thủy thủ mới nhận ra được là thuyền buôn đặc chủng của vịnh Gênes trên đường chân trời còn tranh tối tranh sáng của biển. Con.thuyền này đến từ cảng Marseille và đang đi giữa biển cả mênh mông.

- ồ! Edmond kêu lên, chỉ sau nửa giờ nữa ta sẽ cập mạn chiếc tàu này, nếu không sợ bị vặn hỏi, bị coi là một kẻ chạy trốn và bị giải về Marseille! Làm gì bây giờ? Nói gì? Bịa ra chuyện gì? Bọn này toàn là bọn buôn lậu, bọn đầu trộm đuôi cướp. Chúng mượn cớ buôn bán vùng ven biển để cướp bóc vét sạch bờ biển, chúng sẽ thích bán ta đi hơn là làm một nghĩa cử không sinh lợi.

Và trong khi nói thế Dantès đưa mắt nhìn về phía con tàu nhỏ bị vỡ và bỗng giật mình.

Anh thấy có chiếc mũ thủy thủ bị vướng vào chân một hòn đá, hẳn là của một trong những thủy thủ gặp nạn, và sát gần đó bập bềnh trôi những mảnh vụn của chiếc tàu.

Trong giây lát anh đã có quyết định; anh nhảy xuống biển, bơi lại chỗ chiếc mũ, đội nó lên đầu, với lấy một cái rầm của con tàu vỡ rồi bơi về phía chiếc tàu buôn.

Anh thì thào:

- Bây giờ thì ta thoát rồi!

Một lát sau anh nhìn thấy rõ chiếc thuyền buôn thế rồi anh lao lên để bắt kịp nó, rồi bằng một cố gắng cuối cùng anh bật lên gần như đứng sững trên mặt biển vừa vẫy vẫy cái mũ vừa gào lên những tiếng kêu thảm thiết như tiếng kêu của thủy thủ gặp nạn.

ở đằng kia họ trông thấy và nghe tiếng anh kêu. Chiếc tàu buôn ngừng hẳn vận hành và quay hướng về phía anh. Một lát sau một chiếc xuồng chở hai người lướt về phía anh, khua hai cặp chèo trên mặt biển.

Anh kêu lên một tiếng thật to, hai tay chèo gắng sức lên gấp bội và một trong hai người hét lên bằng tiếng ý: "Can đảm lên!" Lời nói ấy đến tai anh vừa lúc có một ngọn sóng mà anh chẳng còn sức vượt qua đổ lên đầu anh và trùm lớp bọt bạc đầu kín người anh.

Anh ngoi lên mặt biển bằng một cố gắng mãnh liệt. Anh thấy hình như có người túm lấy tóc anh rồi anh không còn nhìn thấy gì nữa, anh không còn nghe thấy gì nữa: anh đã ngất đi.

Đến lúc anh mở mắt ra thì thấy mình nằm trên boong chiếc tàu buôn đang tiếp tục hành trình.

- Anh là ai? Người chủ hỏi anh bằng tiếng Pháp, giọng lơ lớ.

Anh trả lời bằng một thứ tiếng ý tồi:

- Tôi là một thủy thủ đảo Malte, chúng tôi đến từ Syracuse, chở rượu vang và dầu ô lưu. Cơn gió bất chợt đêm qua làm chúng tôi bất ngờ và.tàu chúng tôi bị va vào đá vỡ tan tành như các ông nhìn thấy đàng kia. Tôi nghĩ rằng tôi là người duy nhất còn sống sót: ba người bạn cùng thuyền và ông thuyền trưởng đều bị chết đuối.

Tôi nhìn thấy tàu các ông và sợ rằng phải đợi quá lâu trên hòn đảo hoang vu cô tịch ấy nên vội vớ lấy một mảnh tàu vỡ tôi cố bơi đến với các ông. Xin cám ơn, Dantès nói thêm, các ông đã cứu sống tôi; tôi đã bất tỉnh khi một trong các thủy thủ của tàu ông nắm lấy tóc tôi.

- Là tôi đấy mà, một thủy thủ có bộ mặt thẳng thắn và cởi mở khuôn gọn trong chòm râu quai nón đen nói thế, và thật đúng lúc anh đang chìm.

Ông chủ hỏi:

- Bây giờ chúng tôi phải làm gì với anh?

- Chao ôi! Dantès trả lời, xin tùy ông. Tôi là thủy thủ khá thạo nghề; ông sắp ghé cảng nào thì hãy ném tôi xuống đó và thế nào tôi cũng tìm được việc làm trên một tàu buôn.

- Anh biết rõ Địa Trung Hải chứ?

- Tôi đã đi tàu ở đây từ hồi nhỏ, tôi nhắm mắt cũng có thể đưa tàu ra vào cảng được dù là cảng khó nhất.

- Hãy cầm lấy lái, ông chủ nói, để chúng tôi đánh giá tài nghệ của anh.

Chàng trai đến ngồi vào buồng lái ép nhẹ cần bánh lái để xem con tàu có ngoan ngoãn vâng lời không và vận hành khéo léo trong luồng lạch, bỏ lại đảo bên mạn phải đến vài chục sải tay.

- Hoan hô! ông chủ và các thủy thủ vừa nói vừa thán phục con người mà ánh mắt đã trở lại thông minh và thân thể lấy lại được sức cường tráng mà họ chẳng còn nghi ngờ gì anh lại có được.

- ông xem đấy, Dantès rời cần lái nói, tôi có thể có ích cho ông đôi chút, ít ra cũng trong chuyến đi này.

- Tốt lắm, tốt lắm, ông chủ nói; chúng ta có thể thu xếp với nhau được nếu anh biết điều.

Lấy cớ mệt, Dantès xin ngồi vào buồng lái.

Người lái tàu mừng rỡ thấy có người thay chức trách của mình bèn đưa mắt dò hỏi ông chủ, ông này gật đầu ra hiệu rằng anh ta có thể trao cần lái cho người bạn mới.

Được đặt vào chỗ như vậy, Dantès có thể không rời mắt khỏi phía Marseille.

- Hôm nay là ngày bao nhiêu? Dantès hỏi người thủy thủ tên là Jacopo vừa ghé đến ngồi bên anh.

- Ngày 28 tháng hai, anh ta trả lời.

- Năm nào? Dantès còn hỏi thêm..- Năm nào là làm sao? Anh quên cả chúng ta đang ở năm nào à?

- Làm thế nào được! Tôi đã quá sợ hãi suốt đêm qua, Dantès vừa cười vừa nói, đến suýt bị mất trí ấy chứ, chẳng thế mà trí nhớ của tôi vẫn cứ còn rối loạn. Vậy tôi hỏi anh hôm nay là 28 tháng hai của năm nào thế?

- Của năm 1829, Jacopo nói.

Thế là đúng từng ngày, cách đây mười bốn năm Dantès bị bắt giữ. Anh vào lâu đài If năm anh mười chín tuổi, ra khỏi đó anh đã ba mươi tuổi rồi.

Một nụ cười đau khổ thoáng hiện trên đôi môi anh; anh tự hỏi không biết Mercédès đã ra sao trong khoảng thời gian mà cô ắt phải tin rằng anh đã chết.

BÁ TƯỚC MÔNGTƠ CRIXTÔ
Chương 8: Đảo monte - cristo

Edmond Dantès đã mau chóng hiểu ra rằng mình đang có chuyện với ai: anh đã lên một con tàu buôn lậu chuyên buôn bán bất hợp pháp ở vùng biển Địa Trung Hải hàng bông bị cấm, thuốc súng Anh và thuốc lá mà sở Thuốc lá Pháp "quên" đóng dấu.

Tàu đến Livourne. Edmond quen một người thợ cắt tóc ở phố Saint - Ferdinand. Anh vào tiệm ấy để cắt tóc và cạo râu. Người thợ cắt tóc kinh ngạc nhìn ông khách có mái tóc dài, bộ râu rậm và đen rồi bắt tay vào việc mà chẳng có ý kiến gì.

Khi xong việc, anh hỏi mượn một cái gương và tự ngắm mình.

Mười bốn năm tù đã làm anh thay đổi hẳn.

Anh nhìn vào gương mỉm cười: người bạn tốt nhất của anh, nếu như anh còn có bạn, cũng không thể nhận ra được anh, ngay đến anh cũng còn chẳng nhận ra được mình..ạng chủ tàu Jeune - Amélie - đó là tên của chiếc tàu buôn đóng theo kiểu vùng vịnh Gênes -, thiết tha muốn giữ lại trong thủy thủ đoàn của mình một con người có giá trị tầm cỡ Edmond, đã đề nghị anh ký hợp đồng; nhưng anh đã có kế hoạch riêng nên chỉ muốn nhận làm ba tháng.

Hai tháng rưỡi đã trôi qua trong những chuyến đi liên tiếp. Edmond đã trở thành một thủy thủ chạy tàu ven bờ khéo léo cũng như trước kia anh đã từng là thủy thủ viễn dương táo bạo, anh đã có mối quen biết với tất cả các tay buôn lậu dọc bờ biển.

Anh đã qua lại đến hai chục lần trước hòn đảo Monte - Cristo nhưng chưa hề tìm được dịp nào đổ bộ lên đó.

Tới một hôm nhân có một việc buôn bán lớn: đó là chuyện một con tàu chở đầy thảm Thổ Nhĩ Kỳ, vải lụa phương Đông và Cachemire, phải tìm một mảnh đất trung lập để có thể thực hiện được việc trao đổi rồi đem đổ số hàng ấy lên bờ biển nước Pháp.

Ông chủ tàu Jeune - Amélie đề nghị nơi bốc hàng là đảo Monte-Cristo, đảo này hoàn toàn hoang vắng và chẳng có cả lính lẫn nhân viên hải quan. Thế là việc được quyết định là họ sẽ ghé lại đảo Monte-Cristo và sẽ nhổ neo vào tối ngày hôm sau. Nghe thấy dự định này Dantès run lên vì vui mừng.

Hai hôm sau, tàu chạy suốt ngày thì nhìn thấy đảo Monte-Cristo vào lúc năm giờ chiều.

Edmond nhìn ngấu nghiến khối đá và anh bị giày vò bởi nỗi khắc khoải thường cảm thấy trong những cực điểm của niềm hy vọng.

Đêm đến: người ta cặp bờ lúc mười giờ tối; tàu Jeune - Amélie đến điểm hẹn đầu tiên - Con tàu đến muộn xuất hiện ngay sau đó, trắng và im lìm như một bóng ma và thả neo cách bờ một sải cáp.

Ngay lúc ấy hàng được chuyển từ tàu nọ sang tàu kia, suốt đêm mới xong.

Hôm sau Dantès cầm lấy súng, đạn chì và thuốc súng ngỏ ý muốn đi bắn những con dê hoang dã thấy rất đông cứ nhảy nhót lung tung từ hòn đá nọ sang hòn đá kia, người ta cũng chỉ gán cho cuộc đi chơi này của Dantès là do ham săn bắn hoặc muốn được rảnh một mình.

Thực ra, Dantès theo đúng những điều suy đoán của tu sĩ Faria: anh cho rằng hồng y giáo chủ Spada cố làm sao cho khỏi bị lộ đã đến cái vùng này, đã giấu con tàu nhỏ của ông ở đó rồi đi theo đường thẳng vạch ra bởi những vết khía trên đá và chôn giấu kho báu của mình ở đầu kia đường thẳng ấy.

Lúc đi đến đỉnh một mô đá cách bến độ sáu mươi bước, Edmond vẫn luôn luôn được mặt đất mấp mô che khuất tầm nhìn của các bạn đồng hành, thấy các vết khía chấm dứt, chỉ có điều là chẳng dẫn tới một cái hang nào. Một tảng đá to tròn được đặt trên một nền vững chắc là cái đích duy nhất mà các vết khía dường như dẫn tới.

Tảng đá này đáng được xem xét kỹ hơn; do đó anh đi theo hướng ngược lại và quay trở về.

Trong lúc đó các bạn trên tàu đang làm bữa ăn sáng. Đúng lúc họ rút con dê ra khỏi cái que xiên tự tạo thì họ thấy Edmond nhẹ nhàng và táo bạo như một con sơn dương đang nhảy từ mô đá này sang mô đá khác: họ bắn một phát súng để báo hiệu cho anh là bữa ăn đã sẵn sàng.

Chàng đi săn lập tức đổi hướng đi và chạy nhanh về phía họ. Nhưng khi mọi người cùng nhìn theo anh đang nhảy như bay trên các mỏm đá, chê sự khéo léo của anh là liều lĩnh thì như để chứng tỏ sự lo ngại của họ là đúng, bỗng Edmond hụt chân, họ thấy anh lảo đảo trên đỉnh một mô đá, kêu to lên rồi mất hút.

Tất cả nhất tề nhảy vọt lên vì mọi người đều mến Edmond dù cho anh có tài giỏi hơn họ, tuy nhiên người kịp đến trước là Jacopo.

Anh ta trông thấy Edmond nằm sóng sượt, đầy máu và gần như bất tỉnh, chắc anh phải lăn xuống từ độ cao tới mười hai hay mười lăm bộ.

Họ đổ vào miệng anh chút rượu rhum và phương thuốc này từng có hiệu quả với anh lại tác động giống như lần đầu anh được vớt lên tàu.

Edmond lại mở được mắt, phàn nàn rằng bị đau dữ dội ở đầu gối, đầu nặng ghê gớm và bị đau nhói không sao chịu nổi ở vùng thận. Họ muốn khiêng anh ra sát mép nước, nhưng khi đụng tới người anh, vừa rên rỉ anh vừa nói rằng anh cảm thấy không đủ sức chịu đựng việc di chuyển.

Những cơn đau của Dantès chẳng những là không dịu đi mà hình như còn tăng lên dữ dội.

Ông già chủ tàu buộc phải khởi hành ngay buổi sáng để đến đổ hàng giữa Nice và Fréjus cố nài Dantès thử đứng lên. Dantès cố gắng vượt quá sức người để chiều theo yêu cầu đó nhưng cứ mỗi lần gắng sức, anh lại rên rỉ và tái xám.

- Anh ấy bị dập vùng thắt lưng, ông chủ nói nhỏ: đó là một người bạn tốt ta không được bỏ rơi anh ta, hãy cố gắng chuyển anh ấy lên tàu.

Nhưng Dantès bảo rằng anh thích được chết ở chỗ anh đang nằm còn hơn là phải chịu đựng những đau đớn khủng khiếp do cử động gây ra vì anh đã quá yếu..- Này, đành ra sao thì ra vậy nhưng không thể nói rằng chúng ta đã bỏ rơi không cứu một người bạn gan dạ như anh.

- Không, anh nói với ông chủ, tôi là một kẻ vụng về và tôi phải gánh chịu sự trừng phạt do thói vụng về ấy là đúng. Hãy để tôi ở lại với một ít bánh bích quy làm lương thực, một khẩu súng, thuốc súng và đạn để bắn dê, với một cái cuốc để nếu ông có đến đón tôi quá muộn thì tôi tự làm lấy một thứ nhà để mà trú tạm.

- Chúng tôi phải vắng mặt ít nhất tám ngày, ông chủ nói.

Những người buôn lậu để lại cho Edmond các thứ anh yêu cầu và ra đi không quên ngoái lại nhìn anh nhiều lần, mỗi lần họ lại làm hiệu chào anh với tình thân hữu còn Edmond chỉ đáp lại được bằng cách vẫy tay, cứ như anh không thể cựa quậy được phần còn lại của cơ thể.

Thế rồi khi họ đã khuất hẳn, anh thận trọng bò lên đỉnh một mô đá che khuất tầm mắt anh với quang cảnh ngoài biển, từ đó anh nhìn thấy chiếc tàu buôn chuẩn bị vận hành và nhổ neo.

Sau một giờ con tàu khuất hẳn. Lúc đó Dantès đứng dậy còn nhẹ nhàng và dẻo dai hơn cả một con dê hoang dã đang nhảy nhót giữa các mô đá, anh cầm súng một tay còn cuốc tay kia và chạy đến tảng đá ở cuối các vết khía mà anh đã nhận ra trên các mô đá.

ở đó Edmond thận trọng bới đất, ngỡ như nhận ra một kỹ xảo tinh vi và bèn tự nhủ là cần phải tấn công vào chính tảng đá này.

Nhưng bằng cách nào đây?

Dantès đưa mắt quanh mình như những người đang bối rối thường làm; rồi cái nhìn của anh rơi vào một cái sừng sơn dương chứa đầy thuốc súng mà anh bạn Jacopo để lại cho anh.

Anh dùng cuốc đào ở chân tảng đá một hố mìn, nhồi thuốc súng vào; rồi anh xé đôi khăn tay lăn lăn trong thuốc súng để làm thành ngòi nổ.

Anh châm ngòi nổ rồi chạy ra xa.

Lập tức tiếng nổ bùng lên: tảng đá bị nhấc lùi bằng một sức mạnh không lường được, nó lăn ra, nẩy lên, lao xuống dưới và mất hút, chìm nghỉm dưới biển, để lộ một khoảng tròn phô ra một vòng sắt gắn vào giữa một tấm đá hình vuông.

Dantès bật lên một tiếng kêu mừng rỡ và kinh ngạc.

Anh xỏ đòn bẩy vào vòng sắt, bẩy thật mạnh và tấm đá bị tách ra để ngỏ một dốc đứng như cầu thang dẫn xuống một cái hang nhờ nhờ do không khí và ánh sáng không những chỉ lọt qua cửa hang vừa mở mà còn qua các kẽ đá nứt không thấy được hết của tầng đất ngoài cửa hang..Dantès mới chỉ vào được hang thứ nhất; bây giờ anh phải tìm đường vào hang thứ hai. Anh xem xét chân các hòn đá và gõ lên chỗ vách hang mà anh đoán có thể là cửa vào đã được ngụy trang cẩn thận.

Sau khi gõ vài cái, anh nhận thấy các hòn đá không phải được gắn lại mà chỉ xếp chồng lên nhau rồi trát vữa bên ngoài; anh đưa đầu nhọn của cái cuốc chim vào một khe giữa hai hòn đá rồi ấn mạnh lên cán và mừng rỡ nhìn thấy hòn đá rơi xuống.

Từ lúc ấy Dantès chỉ còn việc là rút từng hòn đá ra bằng cái răng sắt của cuốc chim, rồi cứ thế lần lượt hòn nọ rơi xuống cạnh hòn kia.

Cuối cùng Dantès từ hang thứ nhất bước sang hang thứ hai. Hang thứ hai này thấp hơn, tối hơn và có vẻ dễ sợ hơn hang thứ nhất, anh đưa mắt thăm dò cái hang thứ hai này thấy nó cũng rỗng không như hang thứ nhất. Thế thì kho báu, nếu có thật, phải được chôn giấu trong góc tối.

Anh tiến về phía góc hang và ráo riết đào đất lên. Đến nhát cuốc thứ năm hay thứ sáu thì có tiếng sắt chạm vào sắt. Đó là một hòm gỗ đóng đai sắt.

Giữa nắp hòm có gắn một tấm bạc mà đất cát không làm han gỉ được, trên đó sáng lóa gia huy của dòng họ Spada mà tu sĩ đã mô tả cho anh nghe nhiều lần.

Từ lúc ấy, không còn hồ nghi gì nữa, kho báu đúng là đây rồi. Mở hòm ra thấy có ba ngăn.

Trong ngăn thứ nhất sáng chói những đồng ê quy vàng bóng lộn. Trong ngăn thứ hai những thỏi vàng không đánh bóng được xếp ngay ngắn.

Cuối cùng là ngăn thứ ba đầy đến một nửa, Ed-mond vục tay xuống lấy lên từng vốc kim cương, ngọc trai, hồng ngọc mà lúc anh buông tay chúng rơi lên nhau như mưa đá rơi trên kính.

Sau khi đã sờ nắn, mân mê, vục bàn tay run rẩy vào vàng và đá quý, Edmond đứng dậy và bắt đầu đếm của cải của mình; anh đếm được một ngàn thỏi vàng mỗi thỏi nặng độ hai hay ba livre, hai mươi lăm ngàn đồng ê quy vàng có thể trị giá mỗi đồng tới tám mươi frăng mà anh thấy ngăn hòm mới vơi đến một nửa; cuối cùng anh đong bằng vốc tay được mười lần vốc cả hai tay những kim cương, ngọc trai và đá quý.

Dantès thấy ngày đang tàn và tối dần. Anh sợ sẽ bị bất ngờ nếu ở lại trong hang nên anh đi ra, súng cầm tay. Thế rồi anh ngụy trang cửa hang, nằm lên trên, lấy thân mình che lấp lối vào hang và ngủ được độ vài giờ.

Ngày lại rạng. Edmond xuống, đi vào hang, nhét đầy đá quý vào các túi của mình, cố hết sức đậy thật khéo các tấm gỗ và đai sắt của chiếc hòm, lấp đất kín, giẫm chân lèn cho chặt, đổ cát lên trên cũng để làm cho chỗ mới đào bới giống y như những chỗ khác trên mặt đất; anh ra khỏi hang; đậy tấm đá lên rồi chất lên tấm đá đậy cửa hang những hòn đá kích cỡ to nhỏ khác nhau, nhét đất vào các khe hở, trồng vào đó mấy cây mua và mấy cây thạch thảo, tưới cho cây mới trồng để chúng có vẻ như mọc ở đó từ lâu, xóa sạch các vết chân của anh chi chít quanh chỗ đó, và nóng lòng chờ các bạn cùng tàu quay lại.

Những người buôn lậu trở lại sau sáu ngày.

Anh lết ra tận bến như một người bị thương và khi các bạn lên bờ anh bảo họ rằng đã khá hơn nhưng vẫn cứ còn than vãn; và vì chiếc tàu Jeune-Ameslie chỉ ghé Monte-Cristo để đón anh nên anh xuống tàu ngay tối hôm ấy và theo ông chủ tàu tới Livourne.

Đến Livourne anh bán cho một người Do Thái bốn viên kim cương nhỏ nhất mỗi viên năm ngàn frăng.

Cùng ngày hôm ấy Dantès cáo biệt đoàn thủy thủ tàu Jeune-Amélie bằng món tiền thưởng hậu hĩnh rồi đi Gênes.

Lúc anh đến nơi, người ta đang đi thử một du thuyền nhỏ do một người Anh đặt làm, vì nghe nói rằng người thành Gênes là những người đóng tàu giỏi nhất vùng Địa Trung Hải nên ông ta muốn có một du thuyền đóng tại đây. Người Anh đã làm giá xong xuôi với bốn mươi ngàn frăng; Dantès trả luôn sáu mươi ngàn với điều kiện giao tàu ngay hôm ấy. ông người Anh ba tuần hay một tháng sau mới quay lại nên ông chủ xưởng đóng tàu đồng ý vì nghĩ rằng ông sẽ đủ thời gian đóng một chiếc tàu khác tại xưởng.

Hai giờ sau, Dantès ra khỏi cảng Gênes, được đưa tiễn bằng ánh mắt của đám đông những người hiếu kỳ muốn xem cái ông lãnh chúa Tây Ban Nha có thói quen đi biển một mình ấy.

Anh đến Monte- Cristo vào chiều tối hôm sau, chiếc du thuyền là một tàu buồm hảo hạng, nó đã chạy quãng đường ấy mất có ba mươi lăm giờ. Hòn đảo vẫn hoang vắng; có vẻ không ai lên bờ ở đây từ lúc Dantès ra đi, anh đến kho báu của mình: tất cả vẫn còn nguyên trạng như lúc anh đi.

Ngày hôm sau tài sản khổng lồ của anh được chuyển hết lên du thuyền, nó quay mũi về hướng Marseille.

Thế rồi một sớm mai, chiếc du thuyền hùng dũng vào cảng Marseille và đậu đối diện đúng.cái chỗ mà buổi tối định mệnh ấy người ta đã đưa anh xuống tàu đi pháo đài If.

Dantès với vẻ tự tin hoàn hảo mà anh đã tiếp thu được, đưa cho người cảnh binh hỏi giấy anh tấm hộ chiếu Anh mua được ở Livourne dưới cái tên huân tước Wilmire. Anh lên bờ chẳng khó khăn gì.

Tất cả những kỷ niệm thời thơ ấu của Dantès vẫn còn sống mãi trong tâm trí anh nay hiện lên theo mỗi bước anh đi, ở từng góc quảng trường, ở từng góc phố, ở mỗi cái cọc chắn ở ngã tư.

Vừa nhìn thấy đường Meilhan, anh cảm thấy đầu gối muốn khuỵu xuống và suýt nữa anh ngã xuống dưới những bánh xe qua. Cuối cùng anh đến tận ngôi nhà cha anh đã ở.

Anh tiến về phía cửa, bước qua ngưỡng cửa hỏi người gác nhà để xin vào thăm căn hộ hai phòng trên gác năm. Những người ở căn hộ nhỏ này là một cặp vợ chồng trẻ vừa cưới được tám ngày.

Dantès nhìn về phía giường, cái giường vẫn còn đó ở ngay chỗ cũ khi cha anh ở đây; bất giác mắt Edmond đẫm nước mắt: đây là nơi mà cha già đã trút hơi thở cuối cùng trong khi đang gọi tên con.

Đi xuống tầng dưới, Edmond dừng lại trước một cái cửa khác và hỏi thăm người thợ may Caderousse có còn ở đó hay không. Nhưng người gác cổng trả lời rằng ông ta làm ăn sa sút và bây giờ mở một quán trọ nhỏ trên đường Bellegarde đi Beaucaire.

Ngay tối hôm ấy người ta thấy Edmond đi dạo trong ngôi làng nhỏ của những người Catalan và bước vào một ngôi nhà tồi tàn của dân chài, ở lại đó chừng hơn một giờ để hỏi thăm tin tức về nhiều người đã chết hay người đã biệt tích từ hơn mười lăm hay mười sáu năm nay.

Ngày hôm sau, những người mà anh đã đến để hỏi thăm họ, nhận được quà tặng là một chiếc xuồng catalan mới tinh và kèm theo hai lưới vây và một lưới rê.

Những con người tử tế ấy rất muốn cám ơn người hỏi tin hào hiệp nọ; nhưng khi anh vừa cáo biệt họ thì đã thấy anh lên ngựa rời khỏi Marseille theo cửa ô Aix sau khi sai bảo một thủy thủ vài điều..

BÁ TƯỚC MÔNGTƠ CRIXTÔ
Chương 9: Quán trọ Cầu sông Gard

Edmond Dantès đã mau chóng hiểu ra rằng mình đang có chuyện với ai: anh đã lên một con tàu buôn lậu chuyên buôn bán bất hợp pháp ở vùng biển Địa Trung Hải hàng bông bị cấm, thuốc súng Anh và thuốc lá mà sở Thuốc lá Pháp "quên

Nửa đường giữa Beaucaire và Bellegarde có một quán trọ nhỏ treo một tấm tôn cứ rít lên khi có chút gió nhẹ nhất, trên vẽ một cách thô kệch hình ảnh cầu sông Gard.

Người chủ quán trọ là người quen cũ của chúng ta Gaspard Caderousse, anh ta theo thói quen đang đứng trước cửa quán thì thấy ló ra một kỵ sĩ trên đường từ Bellgarde tới.

Đó là một thầy tu mặc toàn đen và đội một chiếc mũ ba sừng bất chấp cái nóng nung nấu của mặt trời lúc giữa trưa.

Kỵ sĩ nhảy xuống đất rồi tiến đến cửa quán trọ, lau trán nhễ nhại mồ hôi bằng chiếc khăn sợi bông màu đỏ rồi gõ ba tiếng bằng mũi gậy bịt sắt xuống ngưỡng cửa.

- Tôi đây mà, Caderousse nói rất ngạc nhiên.

Thưa tu sĩ ông muốn gì? Tôi xin nghe lệnh ngài.

Thầy tu nhìn người đàn ông trong hai ba giây với vẻ chú ý kỳ lạ và nói giọng ýrất nặng:

- ông có phải là Caderousse không ?

- Vâng thưa ông, chủ nhân tỏ ý ngạc nhiên về câu hỏi, tôi đúng là Gaspard Caderousse sẵn sàng phục vụ ông.

- Trước hết cần cho tôi tin chắc rằng ông là người mà tôi có việc cần giải quyết. ông có quen một người tên là Dantès vào năm 1814 hay 1815 không?

- Dantès !... Tôi có biết anh ta không ư? Cái anh Edmond đáng thương ấy! Tôi tin là có!

Thậm chí anh ta là một trong những bạn tốt nhất của tôi! Caderousse kêu lên như vậy và mặt anh ta đỏ tía lên.

- Anh ta ra sao rồi? Thưa ông, cái anh Ed-mond tội nghiệp ấy? Chủ quán nói tiếp, ông có quen anh ta? Anh ta còn sống không ? Anh ta được ra tù chưa? Anh ta có sung sướng không ?

- Anh ta đã chết trong tù, còn tuyệt vọng hơn, còn khốn khổ hơn người tù khổ sai kéo theo cái lê của mình ở nhà lao khổ sai Toulon.

Một sắc tái xám chết chóc hiện lên mặt Caderousse thay cho màu đỏ tía lúc đầu. - Và ông quen anh ta à, cái cậu bé tội nghiệp ấy?

- Tôi được mời đến giường lâm chung của anh ta để làm lễ rửa tội lần cuối. - Tu sĩ trả lời.

Caderousse lau mồ hôi ròng ròng trên trán.

- Trong tất cả chuyện này có điều lạ lùng là, tu sĩ nói tiếp, Dantès trên giường bệnh cho đến lúc chết cứ thề với tôi rằng anh ta không hay biết gì về nguyên nhân làm anh ta bị bắt.

- Đúng thế, đúng đấy, Caderousse thì thào, anh ta không tài nào biết được. Không, thưa tu sĩ, anh ta không nói dối đâu, cậu bé tội nghiệp.

- Anh ta đã nhờ tôi làm sáng tỏ nguyên nhân gây nên tai họa cho mình mà anh ta đã không thể làm rõ được, để khôi phục tiếng tăm cho anh ta nếu nó đã bị vài vết nhơ. Anh ta đã chọn tôi làm người thực hiện di chúc của mình: tôi phải tìm được năm người và chia cho họ tài sản duy nhất của Edmond: viên kim cương này.

Tu sĩ rút trong túi ra một chiếc hộp nhỏ bằng da nổi cát mịn màu đen, mở ra và làm lấp lánh trước cặp mắt chói lòa của Caderousse một viên kim cương long lanh nạm trên một chiếc nhẫn chạm tuyệt khéo.

- Một người Anh giàu có bị giam trong cùng xà lim với anh ta có một viên kim cương có giá trị lớn. Khi ra tù ông ta để lại viên kim cương này tặng Dantès là người đã săn sóc ông ta như một người anh lúc ông lâm bệnh. Nó đáng giá năm mươi ngàn frăng không kể cái nhẫn cũng có giá trị nào đó. - Tu sĩ nói thêm.

Và ông đậy nắp hộp lại rồi bỏ vào túi.

- Edmond bảo tôi "ông sẽ đến Marseille.

Ông bán viên kim cương này đi, chia làm năm phần và cho những người nào đã thực sự quý mến tôi trên đời.

Tôi có ba người bạn tốt và một cô vợ chưa cưới, cả bốn người này tôi tin chắc rằng họ đều tiếc thương tôi hết sức: một trong những người bạn tốt đó tên là Caderousse.

Caderousse rùng mình.

- Còn một người khác, tu sĩ nói tiếp, tỏ vẻ như không nhìn thấy sự xúc động của Caderousse, người ấy là Danglars; người thứ ba, anh ta còn nói thêm, dù là tình địch của tôi nhưng anh ta cũng quý tôi, anh ấy tên là Fernand; còn vợ chưa cưới của tôi tên là Mercédès.

Tu sĩ lại nói tiếp:

- Phần thứ năm là dành cho người cha của Dantès, nhưng hình như ông đã mất.

- Chao ôi! Vâng, Caderousse nói trong cơn xúc động bởi những khát vọng đang xung đột lẫn nhau trong đầu hắn; Chao ôi! Vâng, ông cụ tội nghiệp đã mất. Edmond khốn khổ!... Anh ta, anh ta là một tấm lòng vàng, đã gọi tất cả những người ấy là bạn mình... Thực ra quả là tốt hơn khi anh ta không biết một tý gì; anh ta sẽ phải khó khăn cực nhọc lắm lắm mới tha thứ được cho họ vào lúc anh chết...

- Những người ấy đã làm điều gì chống lại Dantès sao? Tu sĩ nói tiếp. ông có biết không ?

Hãy kể ra đi!

- Phỏng có ích gì? Caderousse nói. Nếu cậu bé còn sống, tôi không nói, nhưng anh ta đã nằm dưới đất như ông đã nói với tôi, anh ta không còn có thể có hận thù, cũng không còn có thể trả thù được. Thôi dập tắt mọi chuyện ấy đi.

- Vậy ông muốn tôi chia một phần thưởng dành cho sự trung thành cho cả những người ấy mà ông cho là không xứng đáng và là những người bạn giả dối ư?

- Đúng đấy, ông có lý, Caderousse nói.

Những người bạn không thể là kẻ phản bội!

Đó gần như là một sự báng bổ người đã khuất, gần như một tội phạm thánh khi đem thưởng cho sự phản bội, cho tội ác chưa chừng. Vậy thì viên kim cương sẽ dành toàn bộ cho chúng ta.

Tôi sẽ kể hết tất cả cho ông nghe.

- Sự thực tôi tin rằng đó là cách làm tốt nhất. - Tu sĩ nói.

- Chắc là cậu Edmond tội nghiệp đã kể cho ông nghe đoạn đầu câu chuyện. - Caderousse nói.

- Phải, tu sĩ nói, Edmond đã kể cho tôi nghe những việc cho đến lúc anh ta bị bắt. Nào, ai là những người làm cho Dantès phải chết?

- Hai người ghen ghét anh ta, thưa ông, một người vì tình, người kia vì tham vọng: đó là Fer-nand và Danglars.

- Sự ghen ghét ấy thể hiện ra bằng cách nào?

Ông kể đi.

- Chúng tố cáo Edmond là nhân viên của tổ chức khôi phục chế độ Bonapart. Chính Danglars đã viết đơn tố giác bằng tay trái để không ai nhận ra được nét chữ của hắn, còn Fernand là người gửi đơn đi.

- Nhưng, tu sĩ chợt kêu lên, ông đã ở đấy!

- Đúng thế, Caderousse đáp bằng một giọng nghẹt thở, tôi có mặt ở đó.

- Thế mà ông không chống lại điều bỉ ổi đó?

Vậy ông là kẻ tòng phạm.

- Vâng, thưa ông, tôi ở đó và tôi muốn nói ra tất cả nhưng Danglars đã ngăn cản tôi. Tôi sợ chính trị đang diễn ra hồi ấy, tôi thú nhận điều đó, tôi đã câm miệng, đó là sự hèn nhát, tôi đồng ý như vậy, nhưng không phải là tôi ác..Và Caderousse cúi đầu xuống với dấu hiệu của nỗi ân hận thực sự.

- Được, thôi ông ạ, tu sĩ nói, ông đã nói với sự thẳng thắn; tự lên án mình như vậy là xứng đáng được tha thứ. Còn ông Morrel đã đóng vai trò gì trong sự việc đáng buồn này?

- Đó là vai trò của một người chính trực, can đảm và có tình, thưa ông. Hai mươi lần ông can thiệp cho Edmond. Khi Hoàng đế trở về ông đã viết đơn, đã kêu xin, đã đe dọa đến nỗi mà trong thời kỳ phục hồi lần thứ hai ông bị hành hạ khốn đốn như một kẻ ủng hộ chế độ Bona-parte.

Hàng chục lần như tôi đã nói với ông, ông ta đến nhà cha Dantès để mời cụ về ở nhà ông, và lúc cụ sắp mất, tôi nói thêm với ông chuyện đó, ông ta đã để lại trên lò sưởi một túi tiền để thanh toán nợ nần cho ông cụ và để trang trải cho đám tang; thành thử ông cụ ít ra cũng được chết xứng đáng với cuộc đời cụ đã trải qua, không làm cho ai bị thiệt thòi tổn hại. Còn tôi là người giữ cái túi, một cái túi lớn bằng lưới màu đỏ.

- Và cái ông Morrel ấy, tu sĩ nói tiếp, ông ta nhất định phải được chúa ban phúc, ông ta phải được giàu có... sung sướng chứ?

- ông ta sắp lâm vào cảnh khốn khó, thưa ông, và hơn nữa, ông ta sắp bị mất danh dự. Sau hai mươi nhăm năm làm việc, sau khi đã đạt được vị trí danh giá nhất trong ngành thương mại ở Marseille, ông Morrel đã bị sụp đổ hoàn toàn.

Ông đã mất năm chiếc tàu trong hai năm, đã phải chịu ba cuộc vỡ nợ kinh khủng và chỉ còn hy vọng nếu chính chiếc tàu Pharaon do Dantès tội nghiệp đã từng chỉ huy, nó phải từ ấn Độ trở về với chuyến hàng chở đầy cánh kiến và chàm. Nếu tàu này cũng bị như những chiếc khác thì ông ta nguy.

- Thật là thê thảm! Tu sĩ thì thào. Thế còn Danglars thì ra sao? Có phải là kẻ tội nặng nhất, có phải hắn là kẻ chủ mưu không?

- Hắn ra sao ư? Hắn đã rời Marseille nhờ sự gửi gắm của ông Morrel do không biết tội ác của hắn, đã giúp hắn vào làm nhân viên bảo vệ cho một chủ ngân hàng Tây Ban Nha. Hồi chiến tranh Tây Ban Nha hắn được dự một phần vào việc cung ứng cho quân đội Pháp và đã trở nên giàu có. Thế rồi với số tiền đầu tiên ấy hắn đã đầu cơ vốn và đã tăng gấp ba gấp bốn số vốn ban đầu của hắn. Hắn đã thực sự là triệu phú, người ta đã phong nam tước cho hắn để ngày nay hắn là ngài nam tước Danglars, hắn có một dinh thự ở phố Mont-Blanc, mười con ngựa trong chuồng, sáu đầy tớ ở tiền sảnh nhà hắn và tôi.không biết hắn có bao nhiêu triệu trong những két sắt của hắn.

- Còn Fernand?

- Fernand thì lại là một chuyện khác hẳn.

Khi Napoléon trở về, ban sắc lệnh về một cuộc động viên bất thường và Fernand có tên trong danh sách gọi nhập ngũ, được phiên chế vào các binh đoàn chủ công. Tiến ra biên giới cùng với trung đoàn, hắn dự trận Ligny. Đêm hôm sau trận đánh, hắn là liên lạc trực ở cửa nhà viên tướng có liên hệ bí mật với quân địch. Ngay trong đêm ấy, viên tướng phải gặp quân Anh.

Ông ta bảo Fernand đi theo, Fernand nhận lời, rời vị trí và đi theo viên tướng.

Hành động phản quốc này sẽ đưa Fernand ra tòa án quân sự nếu Napoléon còn tại vị thì hắn lại được dùng để tiến cử với nhà vua. Hắn trở về Pháp với lon thiếu úy; và nhờ sự bảo trợ của viên tướng được trọng dụng, không hề bỏ rơi hắn, hắn trở thành đại úy năm 1823 hồi chiến tranh Tây Ban Nha, đó chính là lúc Danglars liền tiến hành những vụ đầu cơ đầu tiên của hắn.

Fernand là người Tây Ban Nha nên được cử đến Madrid làm gián điệp; hắn gặp Danglars ở đó, bắt mối với hắn, hứa hẹn với viên tướng về sự ủng hộ của những người bảo hoàng ở thủ đô Tây Ban Nha và ở cả các tỉnh, nhận các lời hứa hẹn và về phần mình đưa ra những lời cam kết, đưa trung đoàn tiến theo những con đường chỉ một mình hắn biết trong những thung lũng do người bảo hoàng kiểm soát, và trong chiến dịch ngắn ngủi này hắn đã có nhiều công lao đến mức sau khi chiếm được Trocadéro, hắn được phong làm đại tá và được thưởng Bắc đẩu bội tinh với hàm bá tước. Bây giờ hắn là bá tước de Morcerf.

- Ôi số phận! Số phận! - Tu sĩ thì thào.

- Vâng, nhưng này ông, chưa hết chuyện đâu.

Chiến tranh Tây Ban Nha chấm dứt, con đường tiến thân của Fernand có cơ nguy vì nếu hòa bình lâu dài có nhiều hứa hẹn sẽ ngự trị trên toàn châu Âu. Chỉ có mỗi một nước Hy Lạp nổi dậy chống Thổ Nhĩ Kỳ và vừa mới phát động chiến tranh giành độc lập. Fernand chạy vạy để được cử sang phục vụ ở Hy Lạp.

Một thời gian sau người ta được tin Bá tước de Morcerf vào phục vụ Ali-Pacha, với cấp hàm tướng huấn luyện.

Ali-Pacha bị giết như ông biết đấy; nhưng trước khi chết, ông thưởng công cho Fernand một số tiền đáng kể, với số tiền đó Fernand trở về Pháp và được thăng Trung tướng. Đến mức mà.ngày nay hắn có một dinh thự tráng lệ ở Paris, phố Helder số nhà 27.

Tu sĩ mở miệng, dừng lại một lát như thể do dự rồi cố gắng quá sức mình mới nói được :

- Còn Mercédès, ông nói, người ta đã đoán chắc với tôi rằng cô ta mất tích?

- Giờ này Mercédès là một trong những mệnh phụ danh giá nhất Paris. - Caderousse nói.

- Kể tiếp đi, tu sĩ nói, dường như tôi đang nghe kể chuyện chiêm bao.

- Mercédès thoạt đầu tuyệt vọng vì việc người ta cướp đi mất Edmond của cô. Giữa cơn tuyệt vọng ấy thì một đau khổ mới lại đến với cô, đó là sự ra đi của Fernand mà cô vẫn coi như anh mình. Fernand ra đi, Mercédès còn lại một mình.

Nàng khóc ròng rã suốt ba tháng trời, không có tin tức gì của Edmond, không có tin tức gì của Fernand; thế rồi Fernand trở về với quân phục thiếu úy. Niềm vui được thoát cảnh cô đơn trên đời và được gặp lại một người bạn, sau một thời gian dài buồn bã cô đơn, đã xâm chiếm tâm hồn cô. Thế rồi phải nói điều này, Fernand chưa bao giờ bị căm ghét: hắn không được yêu, thế thôi.

Có một người khác chiếm lĩnh toàn bộ trái tim của Mercédès, con người ấy lại vắng mặt, lại mất tích... có thể lại đã chết.

Lần thứ hai trở lại, hắn là trung úy, trong chuyến đi đầu tiên, hắn không nói với Mercédès một lời nào về tình yêu, đến lần thứ hai hắn nhắc cô nhớ đến chuyện hắn đã yêu cô.

Mercédès yêu cầu hắn thêm sáu tháng nữa để cô đợi và khóc Edmond. Sau sáu tháng, Caderousse tiếp, là đám cưới. Fernand thu xếp ngay lập tức việc đổi chỗ ở cho vợ mình và tự mình cũng lánh đi luôn: ở lại làng Catalan vừa quá nhiều nguy hiểm vừa quá nhiều kỷ niệm. Tám ngày sau khi cưới họ ra đi.

- Thế ông có gặp lại Mercédès không ? - Tu sĩ hỏi.

- Có, hồi chiến tranh Tây Ban Nha tôi có gặp cô ở Perpignan là nơi Fernand để cô ở lại đó; lúc ấy cô đang dạy học cho con trai, thằng bé Albert.

Tu sĩ run rẩy.

- Nhưng muốn dạy cho cậu con trai này thì cô ta cũng phải được học chứ?

- ồ! Caderousse nói, Mercédès có thể thành bà hoàng nếu chỉ cần đặt vương miện lên mái đầu đẹp nhất và thông minh ấy. Tài sản của cô.đã lớn lên và cô cũng lớn lên theo tài sản. Cô học vẽ, học nhạc, cô học mọi thứ. Ngoài ra nói riêng với ông nhé, tôi tin rằng cô làm mọi thứ như vậy chỉ để khuây khỏa, để lãng quên, và đưa bao nhiêu thứ như vậy vào đầu óc mình chỉ để chống chọi với những gì chất chứa trong tim.

Caderousse nói tiếp: nhưng bây giờ thì mọi sự ắt đã xong: tài sản và danh giá chắc hẳn đã an ủi được cô ta. Cô ta giàu có, cô ta là bà bá tước.

Riêng mình tôi, ông xem đấy, tôi vẫn cứ nghèo khổ và bị chúa lãng quên.

- ông lầm rồi, ông bạn ạ, tu sĩ nói, và đây là chứng cớ.

Nói xong, tu sĩ liền lấy viên kim cương trong túi ra và chìa cho Caderousse:

- Này, ông bạn, ông bảo hắn, cầm lấy viên kim cương này vì nó thuộc về ông. Viên kim cương ấy đáng lẽ phải chia cho các bạn của Ed-mond.

Anh ta lại chỉ có một người bạn duy nhất, vậy chẳng cần chia bôi gì nữa. ông cầm lấy viên kim cương này và bán đi; nó đáng giá năm mươi ngàn frăng, tôi nhắc lại với ông điều đó và số tiền này đủ để đưa ông ra khỏi cảnh khốn cùng.

Đổi lại ông hãy cho tôi cái túi bằng tơ đỏ mà ông Morrel đã để lại trên lò sưởi nhà cụ Dantès như ông đã kể là ông vẫn đang giữ nó.

Caderousse mỗi lúc một thêm kinh ngạc, đi về phía cái tủ lớn bằng gỗ sồi, mở ra và đưa cho tu sĩ một cái túi dài màu đỏ đã phai sắc, có quai bằng hai vòng đồng trước kia mạ vàng.

Tu sĩ cầm lấy túi và đưa viên kim cương cho Caderousse.

- Tốt lắm, được lắm, tu sĩ nói, mong sao số tiền này sinh lợi cho ông! Xin chào, tôi phải tránh xa những người cứ quen thói người nọ làm hại người kia..

" đóng dấu.

Tàu đến Livourne. Edmond quen một người thợ cắt tóc ở phố Saint - Ferdinand. Anh vào tiệm ấy để cắt tóc và cạo râu. Người thợ cắt tóc kinh ngạc nhìn ông khách có mái tóc dài, bộ râu rậm và đen rồi bắt tay vào việc mà chẳng có ý kiến gì.

Khi xong việc, anh hỏi mượn một cái gương và tự ngắm mình.

Mười bốn năm tù đã làm anh thay đổi hẳn.

Anh nhìn vào gương mỉm cười: người bạn tốt nhất của anh, nếu như anh còn có bạn, cũng không thể nhận ra được anh, ngay đến anh cũng còn chẳng nhận ra được mình..ạng chủ tàu Jeune - Amélie - đó là tên của chiếc tàu buôn đóng theo kiểu vùng vịnh Gênes -, thiết tha muốn giữ lại trong thủy thủ đoàn của mình một con người có giá trị tầm cỡ Edmond, đã đề nghị anh ký hợp đồng; nhưng anh đã có kế hoạch riêng nên chỉ muốn nhận làm ba tháng.

Hai tháng rưỡi đã trôi qua trong những chuyến đi liên tiếp. Edmond đã trở thành một thủy thủ chạy tàu ven bờ khéo léo cũng như trước kia anh đã từng là thủy thủ viễn dương táo bạo, anh đã có mối quen biết với tất cả các tay buôn lậu dọc bờ biển.

Anh đã qua lại đến hai chục lần trước hòn đảo Monte - Cristo nhưng chưa hề tìm được dịp nào đổ bộ lên đó.

Tới một hôm nhân có một việc buôn bán lớn: đó là chuyện một con tàu chở đầy thảm Thổ Nhĩ Kỳ, vải lụa phương Đông và Cachemire, phải tìm một mảnh đất trung lập để có thể thực hiện được việc trao đổi rồi đem đổ số hàng ấy lên bờ biển nước Pháp.

Ông chủ tàu Jeune - Amélie đề nghị nơi bốc hàng là đảo Monte-Cristo, đảo này hoàn toàn hoang vắng và chẳng có cả lính lẫn nhân viên hải quan. Thế là việc được quyết định là họ sẽ ghé lại đảo Monte-Cristo và sẽ nhổ neo vào tối ngày hôm sau. Nghe thấy dự định này Dantès run lên vì vui mừng.

Hai hôm sau, tàu chạy suốt ngày thì nhìn thấy đảo Monte-Cristo vào lúc năm giờ chiều.

Edmond nhìn ngấu nghiến khối đá và anh bị giày vò bởi nỗi khắc khoải thường cảm thấy trong những cực điểm của niềm hy vọng.

Đêm đến: người ta cặp bờ lúc mười giờ tối; tàu Jeune - Amélie đến điểm hẹn đầu tiên - Con tàu đến muộn xuất hiện ngay sau đó, trắng và im lìm như một bóng ma và thả neo cách bờ một sải cáp.

Ngay lúc ấy hàng được chuyển từ tàu nọ sang tàu kia, suốt đêm mới xong.

Hôm sau Dantès cầm lấy súng, đạn chì và thuốc súng ngỏ ý muốn đi bắn những con dê hoang dã thấy rất đông cứ nhảy nhót lung tung từ hòn đá nọ sang hòn đá kia, người ta cũng chỉ gán cho cuộc đi chơi này của Dantès là do ham săn bắn hoặc muốn được rảnh một mình.

Thực ra, Dantès theo đúng những điều suy đoán của tu sĩ Faria: anh cho rằng hồng y giáo chủ Spada cố làm sao cho khỏi bị lộ đã đến cái vùng này, đã giấu con tàu nhỏ của ông ở đó rồi đi theo đường thẳng vạch ra bởi những vết khía trên đá và chôn giấu kho báu của mình ở đầu kia đường thẳng ấy.

Lúc đi đến đỉnh một mô đá cách bến độ sáu mươi bước, Edmond vẫn luôn luôn được mặt đất mấp mô che khuất tầm nhìn của các bạn đồng hành, thấy các vết khía chấm dứt, chỉ có điều là chẳng dẫn tới một cái hang nào. Một tảng đá to tròn được đặt trên một nền vững chắc là cái đích duy nhất mà các vết khía dường như dẫn tới.

Tảng đá này đáng được xem xét kỹ hơn; do đó anh đi theo hướng ngược lại và quay trở về.

Trong lúc đó các bạn trên tàu đang làm bữa ăn sáng. Đúng lúc họ rút con dê ra khỏi cái que xiên tự tạo thì họ thấy Edmond nhẹ nhàng và táo bạo như một con sơn dương đang nhảy từ mô đá này sang mô đá khác: họ bắn một phát súng để báo hiệu cho anh là bữa ăn đã sẵn sàng.

Chàng đi săn lập tức đổi hướng đi và chạy nhanh về phía họ. Nhưng khi mọi người cùng nhìn theo anh đang nhảy như bay trên các mỏm đá, chê sự khéo léo của anh là liều lĩnh thì như để chứng tỏ sự lo ngại của họ là đúng, bỗng Edmond hụt chân, họ thấy anh lảo đảo trên đỉnh một mô đá, kêu to lên rồi mất hút.

Tất cả nhất tề nhảy vọt lên vì mọi người đều mến Edmond dù cho anh có tài giỏi hơn họ, tuy nhiên người kịp đến trước là Jacopo.

Anh ta trông thấy Edmond nằm sóng sượt, đầy máu và gần như bất tỉnh, chắc anh phải lăn xuống từ độ cao tới mười hai hay mười lăm bộ.

Họ đổ vào miệng anh chút rượu rhum và phương thuốc này từng có hiệu quả với anh lại tác động giống như lần đầu anh được vớt lên tàu.

Edmond lại mở được mắt, phàn nàn rằng bị đau dữ dội ở đầu gối, đầu nặng ghê gớm và bị đau nhói không sao chịu nổi ở vùng thận. Họ muốn khiêng anh ra sát mép nước, nhưng khi đụng tới người anh, vừa rên rỉ anh vừa nói rằng anh cảm thấy không đủ sức chịu đựng việc di chuyển.

Những cơn đau của Dantès chẳng những là không dịu đi mà hình như còn tăng lên dữ dội.

Ông già chủ tàu buộc phải khởi hành ngay buổi sáng để đến đổ hàng giữa Nice và Fréjus cố nài Dantès thử đứng lên. Dantès cố gắng vượt quá sức người để chiều theo yêu cầu đó nhưng cứ mỗi lần gắng sức, anh lại rên rỉ và tái xám.

- Anh ấy bị dập vùng thắt lưng, ông chủ nói nhỏ: đó là một người bạn tốt ta không được bỏ rơi anh ta, hãy cố gắng chuyển anh ấy lên tàu.

Nhưng Dantès bảo rằng anh thích được chết ở chỗ anh đang nằm còn hơn là phải chịu đựng những đau đớn khủng khiếp do cử động gây ra vì anh đã quá yếu..- Này, đành ra sao thì ra vậy nhưng không thể nói rằng chúng ta đã bỏ rơi không cứu một người bạn gan dạ như anh.

- Không, anh nói với ông chủ, tôi là một kẻ vụng về và tôi phải gánh chịu sự trừng phạt do thói vụng về ấy là đúng. Hãy để tôi ở lại với một ít bánh bích quy làm lương thực, một khẩu súng, thuốc súng và đạn để bắn dê, với một cái cuốc để nếu ông có đến đón tôi quá muộn thì tôi tự làm lấy một thứ nhà để mà trú tạm.

- Chúng tôi phải vắng mặt ít nhất tám ngày, ông chủ nói.

Những người buôn lậu để lại cho Edmond các thứ anh yêu cầu và ra đi không quên ngoái lại nhìn anh nhiều lần, mỗi lần họ lại làm hiệu chào anh với tình thân hữu còn Edmond chỉ đáp lại được bằng cách vẫy tay, cứ như anh không thể cựa quậy được phần còn lại của cơ thể.

Thế rồi khi họ đã khuất hẳn, anh thận trọng bò lên đỉnh một mô đá che khuất tầm mắt anh với quang cảnh ngoài biển, từ đó anh nhìn thấy chiếc tàu buôn chuẩn bị vận hành và nhổ neo.

Sau một giờ con tàu khuất hẳn. Lúc đó Dantès đứng dậy còn nhẹ nhàng và dẻo dai hơn cả một con dê hoang dã đang nhảy nhót giữa các mô đá, anh cầm súng một tay còn cuốc tay kia và chạy đến tảng đá ở cuối các vết khía mà anh đã nhận ra trên các mô đá.

ở đó Edmond thận trọng bới đất, ngỡ như nhận ra một kỹ xảo tinh vi và bèn tự nhủ là cần phải tấn công vào chính tảng đá này.

Nhưng bằng cách nào đây?

Dantès đưa mắt quanh mình như những người đang bối rối thường làm; rồi cái nhìn của anh rơi vào một cái sừng sơn dương chứa đầy thuốc súng mà anh bạn Jacopo để lại cho anh.

Anh dùng cuốc đào ở chân tảng đá một hố mìn, nhồi thuốc súng vào; rồi anh xé đôi khăn tay lăn lăn trong thuốc súng để làm thành ngòi nổ.

Anh châm ngòi nổ rồi chạy ra xa.

Lập tức tiếng nổ bùng lên: tảng đá bị nhấc lùi bằng một sức mạnh không lường được, nó lăn ra, nẩy lên, lao xuống dưới và mất hút, chìm nghỉm dưới biển, để lộ một khoảng tròn phô ra một vòng sắt gắn vào giữa một tấm đá hình vuông.

Dantès bật lên một tiếng kêu mừng rỡ và kinh ngạc.

Anh xỏ đòn bẩy vào vòng sắt, bẩy thật mạnh và tấm đá bị tách ra để ngỏ một dốc đứng như cầu thang dẫn xuống một cái hang nhờ nhờ do không khí và ánh sáng không những chỉ lọt qua cửa hang vừa mở mà còn qua các kẽ đá nứt không thấy được hết của tầng đất ngoài cửa hang..Dantès mới chỉ vào được hang thứ nhất; bây giờ anh phải tìm đường vào hang thứ hai. Anh xem xét chân các hòn đá và gõ lên chỗ vách hang mà anh đoán có thể là cửa vào đã được ngụy trang cẩn thận.

Sau khi gõ vài cái, anh nhận thấy các hòn đá không phải được gắn lại mà chỉ xếp chồng lên nhau rồi trát vữa bên ngoài; anh đưa đầu nhọn của cái cuốc chim vào một khe giữa hai hòn đá rồi ấn mạnh lên cán và mừng rỡ nhìn thấy hòn đá rơi xuống.

Từ lúc ấy Dantès chỉ còn việc là rút từng hòn đá ra bằng cái răng sắt của cuốc chim, rồi cứ thế lần lượt hòn nọ rơi xuống cạnh hòn kia.

Cuối cùng Dantès từ hang thứ nhất bước sang hang thứ hai. Hang thứ hai này thấp hơn, tối hơn và có vẻ dễ sợ hơn hang thứ nhất, anh đưa mắt thăm dò cái hang thứ hai này thấy nó cũng rỗng không như hang thứ nhất. Thế thì kho báu, nếu có thật, phải được chôn giấu trong góc tối.

Anh tiến về phía góc hang và ráo riết đào đất lên. Đến nhát cuốc thứ năm hay thứ sáu thì có tiếng sắt chạm vào sắt. Đó là một hòm gỗ đóng đai sắt.

Giữa nắp hòm có gắn một tấm bạc mà đất cát không làm han gỉ được, trên đó sáng lóa gia huy của dòng họ Spada mà tu sĩ đã mô tả cho anh nghe nhiều lần.

Từ lúc ấy, không còn hồ nghi gì nữa, kho báu đúng là đây rồi. Mở hòm ra thấy có ba ngăn.

Trong ngăn thứ nhất sáng chói những đồng ê quy vàng bóng lộn. Trong ngăn thứ hai những thỏi vàng không đánh bóng được xếp ngay ngắn.

Cuối cùng là ngăn thứ ba đầy đến một nửa, Ed-mond vục tay xuống lấy lên từng vốc kim cương, ngọc trai, hồng ngọc mà lúc anh buông tay chúng rơi lên nhau như mưa đá rơi trên kính.

Sau khi đã sờ nắn, mân mê, vục bàn tay run rẩy vào vàng và đá quý, Edmond đứng dậy và bắt đầu đếm của cải của mình; anh đếm được một ngàn thỏi vàng mỗi thỏi nặng độ hai hay ba livre, hai mươi lăm ngàn đồng ê quy vàng có thể trị giá mỗi đồng tới tám mươi frăng mà anh thấy ngăn hòm mới vơi đến một nửa; cuối cùng anh đong bằng vốc tay được mười lần vốc cả hai tay những kim cương, ngọc trai và đá quý.

Dantès thấy ngày đang tàn và tối dần. Anh sợ sẽ bị bất ngờ nếu ở lại trong hang nên anh đi ra, súng cầm tay. Thế rồi anh ngụy trang cửa hang, nằm lên trên, lấy thân mình che lấp lối vào hang và ngủ được độ vài giờ.

Ngày lại rạng. Edmond xuống, đi vào hang, nhét đầy đá quý vào các túi của mình, cố hết sức đậy thật khéo các tấm gỗ và đai sắt của chiếc hòm, lấp đất kín, giẫm chân lèn cho chặt, đổ cát lên trên cũng để làm cho chỗ mới đào bới giống y như những chỗ khác trên mặt đất; anh ra khỏi hang; đậy tấm đá lên rồi chất lên tấm đá đậy cửa hang những hòn đá kích cỡ to nhỏ khác nhau, nhét đất vào các khe hở, trồng vào đó mấy cây mua và mấy cây thạch thảo, tưới cho cây mới trồng để chúng có vẻ như mọc ở đó từ lâu, xóa sạch các vết chân của anh chi chít quanh chỗ đó, và nóng lòng chờ các bạn cùng tàu quay lại.

Những người buôn lậu trở lại sau sáu ngày.

Anh lết ra tận bến như một người bị thương và khi các bạn lên bờ anh bảo họ rằng đã khá hơn nhưng vẫn cứ còn than vãn; và vì chiếc tàu Jeune-Ameslie chỉ ghé Monte-Cristo để đón anh nên anh xuống tàu ngay tối hôm ấy và theo ông chủ tàu tới Livourne.

Đến Livourne anh bán cho một người Do Thái bốn viên kim cương nhỏ nhất mỗi viên năm ngàn frăng.

Cùng ngày hôm ấy Dantès cáo biệt đoàn thủy thủ tàu Jeune-Amélie bằng món tiền thưởng hậu hĩnh rồi đi Gênes.

Lúc anh đến nơi, người ta đang đi thử một du thuyền nhỏ do một người Anh đặt làm, vì nghe nói rằng người thành Gênes là những người đóng tàu giỏi nhất vùng Địa Trung Hải nên ông ta muốn có một du thuyền đóng tại đây. Người Anh đã làm giá xong xuôi với bốn mươi ngàn frăng; Dantès trả luôn sáu mươi ngàn với điều kiện giao tàu ngay hôm ấy. ông người Anh ba tuần hay một tháng sau mới quay lại nên ông chủ xưởng đóng tàu đồng ý vì nghĩ rằng ông sẽ đủ thời gian đóng một chiếc tàu khác tại xưởng.

Hai giờ sau, Dantès ra khỏi cảng Gênes, được đưa tiễn bằng ánh mắt của đám đông những người hiếu kỳ muốn xem cái ông lãnh chúa Tây Ban Nha có thói quen đi biển một mình ấy.

Anh đến Monte- Cristo vào chiều tối hôm sau, chiếc du thuyền là một tàu buồm hảo hạng, nó đã chạy quãng đường ấy mất có ba mươi lăm giờ. Hòn đảo vẫn hoang vắng; có vẻ không ai lên bờ ở đây từ lúc Dantès ra đi, anh đến kho báu của mình: tất cả vẫn còn nguyên trạng như lúc anh đi.

Ngày hôm sau tài sản khổng lồ của anh được chuyển hết lên du thuyền, nó quay mũi về hướng Marseille.

Thế rồi một sớm mai, chiếc du thuyền hùng dũng vào cảng Marseille và đậu đối diện đúng.cái chỗ mà buổi tối định mệnh ấy người ta đã đưa anh xuống tàu đi pháo đài If.

Dantès với vẻ tự tin hoàn hảo mà anh đã tiếp thu được, đưa cho người cảnh binh hỏi giấy anh tấm hộ chiếu Anh mua được ở Livourne dưới cái tên huân tước Wilmire. Anh lên bờ chẳng khó khăn gì.

Tất cả những kỷ niệm thời thơ ấu của Dantès vẫn còn sống mãi trong tâm trí anh nay hiện lên theo mỗi bước anh đi, ở từng góc quảng trường, ở từng góc phố, ở mỗi cái cọc chắn ở ngã tư.

Vừa nhìn thấy đường Meilhan, anh cảm thấy đầu gối muốn khuỵu xuống và suýt nữa anh ngã xuống dưới những bánh xe qua. Cuối cùng anh đến tận ngôi nhà cha anh đã ở.

Anh tiến về phía cửa, bước qua ngưỡng cửa hỏi người gác nhà để xin vào thăm căn hộ hai phòng trên gác năm. Những người ở căn hộ nhỏ này là một cặp vợ chồng trẻ vừa cưới được tám ngày.

Dantès nhìn về phía giường, cái giường vẫn còn đó ở ngay chỗ cũ khi cha anh ở đây; bất giác mắt Edmond đẫm nước mắt: đây là nơi mà cha già đã trút hơi thở cuối cùng trong khi đang gọi tên con.

Đi xuống tầng dưới, Edmond dừng lại trước một cái cửa khác và hỏi thăm người thợ may Caderousse có còn ở đó hay không. Nhưng người gác cổng trả lời rằng ông ta làm ăn sa sút và bây giờ mở một quán trọ nhỏ trên đường Bellegarde đi Beaucaire.

Ngay tối hôm ấy người ta thấy Edmond đi dạo trong ngôi làng nhỏ của những người Catalan và bước vào một ngôi nhà tồi tàn của dân chài, ở lại đó chừng hơn một giờ để hỏi thăm tin tức về nhiều người đã chết hay người đã biệt tích từ hơn mười lăm hay mười sáu năm nay.

Ngày hôm sau, những người mà anh đã đến để hỏi thăm họ, nhận được quà tặng là một chiếc xuồng catalan mới tinh và kèm theo hai lưới vây và một lưới rê.

Những con người tử tế ấy rất muốn cám ơn người hỏi tin hào hiệp nọ; nhưng khi anh vừa cáo biệt họ thì đã thấy anh lên ngựa rời khỏi Marseille theo cửa ô Aix sau khi sai bảo một thủy thủ vài điều..

BÁ TƯỚC MÔNGTƠ CRIXTÔ
Chương 10: Hãng morrel

Hôm sau cái ngày đã diễn ra cảnh mà chúng tôi vừa kể, một người đàn ông quãng ba mươi đến ba mươi hai tuổi, có cả dáng vẻ và ngữ điệu Anh, đến nhà ông de Boville.

- Thưa ông, ông ta nói, tôi là người đại diện toàn quyền của hãng Thomson và French ở Rome. Từ mười năm nay chúng tôi giao dịch với hãng Morrel ở Marseille. Chúng tôi đã bỏ vốn vào các mối giao dịch đó và chúng tôi không khỏi lo ngại khi nghe đồn rằng hãng này có nguy cơ phá sản.

- ồ! Thưa ông, ông de Boville kêu lên, sự lo ngại của ông thật không may lại hết sức có cơ sở và ông đang thấy đây một con người tuyệt vọng. Tôi có hai trăm ngàn frăng đặt trong hãng Morrel, số tiền hai trăm ngàn frăng này phải được thanh toán vào ngày 15 tháng này. Nhưng tình cảnh ông Morrel thì đến mức, xin nói gọn với ông, là tôi coi món nợ này như mất trắng.

- Thế thì, người Anh nói, tôi mua của ông món nợ ấy; hai trăm ngàn quan bằng tiền mặt.

Và người Anh rút trong túi ra một bó tiền giấy có thể là gấp đôi số tiền mà ông de Boville sợ mất.

Một ánh mừng rỡ lướt qua mặt ông ta.

- Tôi chỉ yêu cầu có mỗi một việc.

- Xin nói đi, thưa ông, tôi nghe đây.

- ông là thanh tra các nhà tù, vậy chắc là ông giữ sổ sách vào, ra tù trong đó có ghi kèm cả những nhận xét liên quan đến tù nhân phải không?

- Từng tù nhân có hồ sơ riêng.

- à, thưa ông, tôi đã được nuôi dạy ở Rome do một tu sĩ đáng thương, tu sĩ Faria, ông ấy đã mất tích đột ngột. Rồi tôi được biết rằng ông bị giam giữ ở pháo đài If và tôi muốn biết một vài chi tiết về cái chết của ông.

- Tu sĩ Faria? ồ! Tôi còn nhớ rất rõ về ông ta, ông de Boville reo lên, ông ấy bị điên. Mời ông sang phòng làm việc của tôi và tôi sẽ cho ông thấy điều đó.

Và cả hai người đi sang phòng làm việc. ông thanh tra đặt trước mặt người Anh một cuốn sổ cái và các hồ sơ liên quan đến pháo đài If, cho.phép ông khách tùy ý lật giở từng trang, trong khi chính ông ta thì ngồi vào một góc đọc báo.

Ông người Anh dễ dàng tìm thấy hồ sơ liên quan đến tu sĩ Faria; nhưng sau khi đã biết rõ những hồ sơ đầu tiên này, ông ta tiếp tục lật từng trang cho đến lúc tới tập hồ sơ của Edmond Dantès. ở đó ông tìm thấy y nguyên: đơn tố giác, biên bản thẩm vấn, đơn khiếu nại của ông Morrel, lời phê của Villefort, ông ta nhẹ nhàng gấp tờ đơn tố giác bỏ vào túi, đọc biên bản thẩm vấn, đọc nhanh đơn đề ngày 10 tháng tư năm 1815 trong đó ông Morrel theo lời khuyên của phó biện lý, lúc đó Napoléon đang tại vị, vì có thiện chí đã trình bày quá lên rằng Dantès đã cống hiến cho Đế chế nhiều thành tích, những thành tích mà lời xác nhận của Villefort làm cho chúng trở nên không thể nào chối cãi được. Vậy là ông hiểu tất cả. Cái đơn gửi Napoléon này bị Villefort lưu lại, đến cuộc phục hồi lần thứ hai đã biến thành một vũ khí khủng khiếp trong tay viên biện lý hoàng gia.

- Cám ơn ông, ông người Anh nói trong khi gập mạnh sổ cái. Tôi đã biết cái phải biết; bây giờ ông giao cho tôi số tín phiếu mà ông có quyền đòi ông Morrel rồi tôi sẽ đếm tiền cho ông.

Rồi ông ta nhường chỗ ở bàn giấy cho ông de Boville, ông này ngồi ngay vào đó không câu nệ gì và vội vàng làm việc chuyển nhượng được yêu cầu, trong khi đó ông người Anh đếm các tờ giấy bạc bên mép các giá để hồ sơ.

Sau đó người phái viên của hãng Thomson và French ở Rome đến nhà ông Morrel.

Mười bốn năm trời đã làm cho nhà kinh doanh đáng kính ấy thay đổi nhiều, ông mới chỉ vừa năm mươi tuổi mà tóc đã bạc trắng, trán hằn sâu những nếp nhăn đầy âu lo.

- Thưa ông, hãng Thomson và French trong khoảng tháng này và tháng sau phải chi ở Pháp ba hay bốn trăm ngàn frăng. Được biết sự đúng hẹn tuyệt đối của ông nên hãng đã tập họp toàn bộ giấy tờ có mang chữ ký này và giao cho tôi lần lượt theo hạn vay ghi trong giấy mà thu hồi vốn ở ông và sử dụng số vốn đó. Chúng tôi đã có những hối phiếu do ông ký, thưa ông, để vay một khoản tiền khá lớn là hai trăm tám mươi bảy ngàn năm trăm frăng. Và tôi không giấu gì ông, ông ta nói tiếp sau một lát im lặng, vẫn biết tính trung thực không chê trách vào đâu được của ông cho đến tận bây giờ, nhưng dư luận chung ở Marseille cho là ông không đủ khả năng để đương đầu với việc kinh doanh..Trước lời mở đầu gần như là thô bạo này, ông Morrel tái mặt đi một cách đáng sợ.

- Xin hãy nói thẳng, thưa ông, ông có chi trả những giấy tờ này được đúng hạn như trước không ?

Ông Morrel rùng mình.

- Có, thưa ông, tôi có trả chứ, như tôi hy vọng, tàu tôi cập bến bình an, vì chuyến hàng này về sẽ trả lại cho tôi khoản kinh phí bị mất trong các tai nạn liên tiếp trước đây mà tôi phải gánh chịu; nhưng nếu như không may tàu Pharaon, nguồn vốn cuối cùng mà tôi trông cậy bị thất thoát...

Ông Morrel thở ra thật dài và lướt bàn tay lên vầng trán đầy mồ hôi.

- ... Nếu nguồn vốn này mà thất thoát thì tôi đi đời, thưa ông, tôi hoàn toàn đi đứt.

- Cái gì thế, người Anh nói trong khi lắng tai nghe ngóng, tiếng ồn ào ấy nghĩa là gì?

- Ôi lạy chúa! Lạy chúa tôi! - ông Morrel kêu lên tái mặt đi, còn xảy ra chuyện gì nữa thế?

Đúng thế, có tiếng ồn ào ở ngoài cầu thang; tiếng người đi lại, còn nghe thấy cả một tiếng kêu đau đớn.

Cùng lúc ấy, cánh cửa mở ra và xuất hiện một cô gái mặt tái xanh, má đẫm nước mắt.

Ông Morrel đứng dậy run bắn lên và phải chống vào tay ghế bành vì nếu không ông không thể nào đứng vững được. ông muốn hỏi mà không sao thốt nên lời.

- Ôi cha ôi! - Cô gái nói tay chắp vào nhau, hãy tha lỗi cho con đã làm người đưa tin xấu!

Ông Morrel sắc mặt nhợt đi kinh khủng.

Julie lao vào vòng tay ông.

- Ôi cha ơi! Cha của con hãy can đảm lên.

- Thế là tàu Pharaon đã đắm ư? ông Morrel hỏi, giọng nghẹn ngào.

Cô gái không trả lời nhưng cô khẳng định bằng cách gật gật mái đầu đang dựa vào ngực cha mình.

- Thế còn đoàn thủy thủ thì sao? - ông Morrel hỏi.

- Đã được cứu thoát, cô gái nói, được một tàu của thành phố Bordeaux cứu thoát, tàu ấy vừa vào cảng.

Ông Morrel giơ hai tay lên trời tỏ vẻ cam chịu và lòng biết ơn sâu sắc.

- Cám ơn chúa! ông Morrel nói, ít ra thì người cũng chỉ trừng phạt có một mình tôi. Mời vào đi vì tôi đoán rằng mọi người đã ở ngoài cửa..Đúng thế, vừa mới nghe thấy những lời này thì bà Morrel bước vào trong tiếng nức nở; Emmanuel theo sau và phía sau trong tiền sảnh thấy có những bộ mặt gân guốc của bảy tám người thủy thủ mình trần.

- Chuyện xảy ra như thế nào? - ông Morrel hỏi, lại gần đây Penelon, hãy kể lại diễn biến sự việc đi.

Một thủy thủ già da màu đồng vì nắng xích đạo, tiến lên, cuộn trong tay phần còn lại của chiếc mũ.

- Xin chào ông Morrel. ông ta nói cứ như vừa mới rời Marseille hôm qua.

- Xin chào ông bạn, ông chủ tàu nói, không kìm được nụ cười trong nước mắt; thế còn ông thuyền trưởng Gaumard đâu?

- Về ông thuyền trưởng, thưa ông Morrel, ông ta ngã bệnh ở Palma; nhưng nếu được chúa thương đến thì sẽ không sao đâu và ông sẽ thấy ông ta về sau vài hôm, cũng khỏe mạnh như ông và tôi.

- Tốt lắm.... Bây giờ kể đi, Penelon. - ông Morrel nói.

Penelon lùa miếng thuốc đang nhai từ má phải sang má trái, đưa tay che miệng, quay đầu đi và nhổ ra ngoài tiền sảnh một tia dài nước bọt màu đen đen, vừa bước chân lên vừa đung đưa hông.

- Trong lúc đó chúng tôi gặp phải sự việc giống như đã xảy ra giữa mũi Blanc và mũi Boyador, thưa ông Morrel, tàu đang chạy với ngọn gió thuận Nam-Tây nam thì cơn bão ập đến. Sau mười hai giờ liền chúng tôi cứ bị lắc lư dữ dội rồi một lỗ hổng lớn bung ra dưới đáy tàu. Phải rời tàu thôi.

Ông thuyền trưởng xuống cuối cùng. Vừa kịp. ông ta vừa nhảy, thì boong tàu bục ra với một tiếng động phải nói là như loạt súng mạn tàu cỡ bốn mươi tám. Mười phút sau, boong tàu chìm xuống từ đàng mũi và rồi, thôi chào cả bọn brru!... Thế là xong, chẳng còn Pharaon nữa!

Còn chúng tôi, chúng tôi bị ba ngày ròng không có gì để mà ăn mà uống. Rồi chúng tôi được tàu Gironde vớt. Thế đấy, chuyện xảy ra như vậy đấy, thưa ông Morrel, xin thề danh dự!

- Tốt, các bạn ạ, các bạn đều là những con người gan dạ. Bây giờ hãng nợ lương các bạn là bao nhiêu? Coclès, hãy trả cho mỗi con người gan dạ này hai trăm frăng. Và nếu các bạn tìm được việc tốt thì vào làm đi, các bạn đã được tự do.

Phần cuối của câu nói này gây ra một tác dụng kỳ lạ ở những người thủy thủ đáng trọng.này. Họ nhìn nhau vẻ hốt hoảng, Penelon hụt hơi, suýt nuốt chửng cả miếng thuốc nhai.

- Thế nào, thưa ông Morrel, ông ta nói với giọng nghẹn ngào, ông thải chúng tôi ư? ông không hài lòng về chúng tôi sao?

- Không đâu các con, ông chủ tàu nói, không, tôi không phiền lòng vì các bạn, hoàn toàn ngược lại. Không tôi không thải các anh đâu. Nhưng biết làm sao được? Tôi không còn tàu nữa nên tôi không cần thủy thủ.

- Làm sao? ông không còn tàu nào nữa ư?

- Penelon nói. - Này, ông đóng một chiếc khác đi, chúng tôi sẽ đợi. Cám ơn chúa, chúng tôi hiểu thế nào là chèo chống với sóng gió.

- Tôi không còn tiền để đóng tàu nữa, Penelon ạ, ông chủ tàu nói với một nụ cười buồn, vậy tôi không thể nhận đề nghị của các anh được, dù rằng đề nghị ấy thật ân cần. Hãy đi đi, tôi van các anh đấy. Chúng ta sẽ gặp lại nhau trong một thời cơ tốt đẹp hơn. Bây giờ xin để tôi một mình một lúc, tôi cần nói chuyện với ông đây.

Và ông đưa mắt nhìn người phái viên của hãng Thomson và French vẫn đứng im bất động trong góc suốt cảnh này.

Chỉ còn lại hai người với nhau.

- Này ông, Morrel vừa nói vừa buông mình xuống ghế bành, ông đã thấy tất cả, đã nghe tất cả, tôi chẳng còn gì để báo tin cho ông.

- Thưa ông, người Anh nói, tôi đã thấy rằng một tai nạn mới không đáng có như những lần trước lại đến với ông, và điều đó củng cố lòng ao ước của tôi muốn giúp ông. Nào, có phải tôi là một trong những chủ nợ chính của ông không ?

- ít ra ông cũng là người có những số tiền cho vay ngắn hạn nhất.

- ông có muốn gia hạn thanh toán không?

- Một thời hạn kéo dài thêm có thể cứu vãn được danh dự của tôi và do đó cả cuộc sống của tôi.

- Được, người ngoại quốc nói, hãng Thomson và French cho ông thêm ba tháng nữa. Hôm nay là mùng 5 tháng sáu, vậy thì ông hãy chuyển tất cả các hối phiếu đó sang thanh toán vào ngày mùng 5 tháng chín cho tôi, và ngày mùng 5 tháng chín vào hồi mười một giờ sáng tôi sẽ đến nhà ông.

- Tôi sẽ đợi ông, ông Morrel nói, và ông sẽ được thanh toán hoặc tôi sẽ chết.

Những tiếng cuối cùng này được thốt ra thật khẽ, thành thử người ngoại quốc không nghe thấy được.

Người Anh cáo từ ông Morrel, ông đưa tiễn và cầu phúc cho khách đến tận cửa..Trên cầu thang ông khách gặp được Julie.

Cô gái làm ra vẻ đi xuống nhưng thực ra là cô đợi ông.

- ồ! Thưa ông! Cô vừa nói vừa chắp hai bàn tay.

- Thưa cô, người ngoại quốc nói, cô sẽ nhận được một bức thư vào một ngày kia ký tên... thủy thủ Simbard... Hãy làm theo đúng từng điều nói trong thư, dù lời dặn dò có lạ lùng đến mấy.

- Thưa ông ,vâng. - Julie trả lời.

- Cô hứa với tôi sẽ làm theo chứ?

- Tôi xin thề với ông sẽ làm như vậy.

- Tốt, xin chào cô. Cô hãy giữ mình luôn luôn là một cô gái thánh thiện và tốt bụng như từ trước đến nay và tôi hy vọng rằng chúa sẽ ban thưởng cho cô cậu Emmanuel mà cô yêu làm chồng.

Julie thốt ra một tiếng kêu khẽ, đỏ mặt lên như quả anh đào và phải nắm lấy tay vịn cầu thang cho khỏi ngã.

Người ngoại quốc đi tiếp và vẫy tay chào cô.

Ra đến sân, ông ta gặp Penelon, mỗi tay cầm một cuộn giấy bạc một trăm frăng dường như chẳng dám mang tiền đi.

- Lại đây ông bạn, tôi có chuyện muốn nói với ông.

Cái thời hạn mà người phái viên của hãng Thomson và French thỏa thuận, đối với ông chủ tàu tội nghiệp như là một thứ may mắn trời cho.

Nhưng khốn thay tất cả các chủ nợ của ông Morrel không phải đều phản ứng như thế, thậm chí một số người còn phản ứng ngược lại. Vậy là các hối phiếu mang chữ ký ông Morrel được xuất trình ở quỹ với độ chính xác hoàn hảo và nhờ có sự gia hạn của người Anh nên đều được ông thủ quỹ Coclès thanh toán hết một cách thuận lợi .

Dư luận của cả ngành thương mại Marseille đều cho là sau những tai họa liên tiếp và dồn dập xảy ra, ông Morrel không thể nào trụ lại được. Điều kinh ngạc lớn với họ là quyết toán cuối tháng vẫn được hoàn thành với độ chính xác như thường lệ. Tuy nhiên điều đó không tài nào mang lại niềm tin cho mọi người và họ đều nhất trí cho rằng cuối tháng sau ông chủ tàu đáng thương sẽ phải quyết toán tài sản.

Cả một tháng trời trôi qua trong những nỗ lực phi thường của ông Morrel để tập họp toàn bộ các nguồn vốn còn lại của mình.

May mắn thay ông Morrel còn có một vài thu nhập riêng và ông có thể dựa vào đó; những thu nhập này được thực hiện; vậy là ông Morrel.đang còn đủ sức đương đầu với những cam kết của mình, thì tháng bảy sắp kết thúc.

Tháng tám trôi đi với những cố gắng không ngừng của ông Morrel nhằm tăng thêm khoản tín dụng cũ hoặc mở thêm một khoản vay mới.

Người ta bèn cho rằng đến cuối tháng này bản quyết toán tài sản phải được khai báo. Nhưng ngược lại với mọi suy đoán, ngày 31 tháng tám đã đến mà quỹ vẫn mở như thường lệ.

Coclès vẫn xuất hiện sau tấm lưới, điềm tĩnh.

Ông ta xem xét tờ hối phiếu được xuất trình với cùng một sự chăm chú như trước và các hối phiếu từ tờ thứ nhất đến tờ cuối đều được chi trả với cùng một độ chính xác như nhau. Người ta chẳng còn hiểu ra làm sao và người ta lại lui lại với tính dai dẳng đặc biệt của những kẻ tiên tri tin xấu rằng vụ vỡ nợ sẽ xảy ra vào cuối tháng chín.

Ngày 5 tháng chín đã tới gần và tình cảnh gần như tuyệt vọng: ông Morrel nợ gần ba trăm ngàn frăng mà chỉ còn có gần mười lăm ngàn trong quỹ. Tuy nhiên ông tỏ ra khá điềm tĩnh.

Sự điềm tĩnh ấy lại làm cho vợ và con gái ông sợ hãi hơn là sự ủ rũ đến cùng cực. Hai mẹ con trò chuyện thủ thỉ với nhau một lát rồi thỏa thuận rằng Julie viết thư cho anh trai đang đồn trú ở Nimes về ngay lập tức.

Đó là một chàng trai rắn rỏi và thẳng thắn.

Anh đã học rất giỏi, đã thi đỗ vào trường Bách khoa và tốt nghiệp với cấp hàm thiếu úy ở binh đoàn thứ 53. Từ một năm nay anh làm việc ở cấp này và đã có hứa hẹn được phong trung úy trong dịp gần nhất.

Đêm mùng 3 rạng ngày 4 tháng chín, bà Morrel bảo con gái đi ngủ, nửa giờ sau khi Julie đi ra, bà trở dậy, bỏ giày rồi rón rén ra hành lang để nhìn qua lỗ khóa xem ông chồng làm gì.

Ông Morrel ngồi viết, nhưng bà Morrel lập tức nhận thấy ngay rằng ông chồng đang viết trên giấy có đóng dấu. Chi tiết ấy đưa đến một ý tưởng kinh khủng là ông đang làm di chúc, chân tay bà run bắn, tuy nhiên bà còn có sức để tự kiềm chế không nói năng gì.

Ngày hôm sau ông Morrel tỏ ra hoàn toàn điềm tĩnh, ông vẫn ở trong phòng làm việc như bình thường, vẫn xuống ăn sáng như thường lệ.

Suốt đêm mùng 4 sang ngày mùng 5 tháng chín, bà Morrel dán tai vào vách gỗ. Cho đến ba giờ sáng bà nghe thấy chồng đi lại bứt rứt trong phòng rồi gieo mình xuống giường.

Đến 8 giờ ông Morrel vào trong phòng mà hai mẹ con ngủ chung đêm qua. ông điềm tĩnh.nhưng sự xúc động đêm qua lộ rõ trên gương mặt tái xanh và tiều tụy của ông.

Ông Morrel đã tỏ thái độ tốt nhất với bà vợ, đã bày tỏ tình thương cha con với cô con gái như ông chưa từng làm thế bao giờ. Julie muốn theo cha khi ông đi ra, nhưng ông nhẹ nhàng đẩy con ở lại, ông nói:

- Hãy ở lại với mẹ, cha muốn thế! Đó là lần đầu tiên ông Morrel nói với con gái "Ta muốn thế" nhưng ông nói ra câu ấy với giọng thấm đượm tình cha con, dịu dàng đến mức Julie không dám bước lên thêm một bước.

Cô dừng lại ở chỗ cũ, đứng sững, lặng câm và bất động. Một lát sau, cửa mở ra, cô cảm thấy có hai cánh tay ôm lấy cô và một đôi môi gắn vào trán cô.

Cô ngước mắt nhìn và reo lên mừng rỡ:

- Anh Maximilien!

Nghe tiếng reo ấy mà Morrel chạy lại và lao vào vòng tay con trai. Chàng trai nói:

- Mẹ ơi, anh vừa nhìn mẹ rồi lại nhìn em gái, có chuyện gì vậy, có gì xảy ra thế? Thư của em làm cho con sợ quá và chạy vội về ngay.

Bà Morrel ra hiệu cho con và bảo:

- Julie hãy sang báo cho cha con biết Maxi-milien đã về.

Cô con gái lao ra khỏi phòng, cô gặp một người đàn ông tay cầm bức thư.

- Thưa, có phải cô là Julie Morrel không ?

- Người ấy hỏi với một ngữ điệu ý quá nặng.

- Vâng thưa ông, Julie đáp ấp úng, nhưng ông muốn gì ở tôi? Tôi không quen biết ông.

- Xin cô hãy đọc lá thư này, người đàn ông nói và đưa cho cô một tấm thiếp. Nó góp phần cứu cha cô đấy. Người đưa tin nói thêm.

Cô gái giật lấy tấm thiếp. Rồi cô hấp tấp mở ra và đọc:

"Mời cô đến ngay lập tức đường Meilhan, vào nhà số 15, hỏi người gác cổng chiếc chìa khóa phòng tầng 5, vào trong phòng hãy cầm lấy ở góc lò sưởi một túi lưới bằng tơ màu đỏ và mang túi về cho cha cô. Điều quan trọng là cha cô phải có nó trước mười một giờ.

Cô đã hứa là cứ im lặng nghe lời tôi, tôi xin nhắc cô nhớ lời hứa ấy. Thủy thủ Simbad" Cô gái reo lên mừng rỡ, ngước mắt lên để hỏi người đàn ông vừa giao cho cô tấm thiếp thì ông ta đã đi mất.

Julie lưỡng lự, cô quyết định phải hỏi ý kiến.

Nhưng một tình cảm lạ lùng đã khiến cô không cầu viện đến mẹ, đến anh mà cầu viện Emmanuel..Cô chạy xuống kể lại anh nghe điều vừa xảy ra.

Emmanuel nói:

- Phải đến đó thôi cô ạ, có phải hôm nay là ngày mùng 5 tháng chín không? Nếu hôm nay trước lúc mười một giờ cha cô không tìm được ai đến giúp thì đến trưa cha cô sẽ buộc phải tuyên bố phá sản.

- Ôi! Đến đó thôi! Đến đó thôi! - Cô gái kêu lên và kéo chàng trai đi cùng.

Trong lúc đó, bà Morrel đã nói tất cả cho con trai biết. Chàng trai đã hiểu rõ rằng do hậu quả của những tai họa liên tiếp xảy đến với cha cậu, nhiều thay đổi lớn đã được thực hiện trong việc chi tiền của gia đình nhưng không biết rằng mọi việc lại đến nông nỗi này.

Anh lao ra khỏi phòng, chạy nhanh lên cầu thang rồi gõ cửa phòng làm việc của cha.

Vừa lúc đó anh nghe thấy cửa phòng ở mở ra, anh quay lại và thấy cha anh ra khỏi phòng.

Ông Morrel kêu lên một tiếng kinh ngạc khi thấy Maximilien, ông không biết con ông đã về.

Ông đứng yên tại chỗ, tay trái kẹp chặt một vật mà ông giấu vào dưới áo khoác.

Maximilien chạy gấp xuống cầu thang và lao vào ôm cổ cha, nhưng đột nhiên anh lùi lại; chỉ để bàn tay phải đặt lên ngực cha mình.

- Cha ôi, anh nói, tái người đi như xác chết, tại sao cha lại có cặp súng lục dưới áo khoác?

Ông Morrel nhìn con đăm đăm rồi trả lời:

- Maximilien, con là một người đàn ông, và là một người đàn ông trọng danh dự; lại đây, ta sẽ nói với con chuyện này.

Và ông Morrel đi lên phòng làm việc bằng những bước chân tự tin. ông đưa cho Maximilien cuốn sổ cái trong đó ghi rõ tình trạng chính xác của tình thế. Chàng trai đọc và như bị choáng ngợp.

- Máu rửa sạch nỗi nhục. - ông Morrel nói.

- Thưa cha, cha có lý, con hiểu cha.

- Con hiểu rằng không phải lỗi của cha chứ?

- ông Morrel nói. Maximilien mỉm cười.

- Con biết, thưa cha, rằng cha là người chính trực nhất mà con chưa từng thấy bao giờ.

- Được lắm, rõ cả rồi: bây giờ con quay về với mẹ và em con đi.

- Cha ơi, chàng trai nói và khuỵu gối xuống, xin cha hãy ban phúc cho con!

Ông Morrel ôm lấy đầu con trai trong hai bàn tay, kéo lại gần và đặt môi lên đó nhiều lần.

- Và bây giờ, ông nói, hãy để cha một mình và cố đưa những người đàn bà ra xa đây. Đi đi.con! Con sẽ tìm thấy di chúc của ta trong tủ bàn giấy ở phòng ngủ của ta.

Khi người con trai đã đi ra, ông Morrel tỉnh lại một lát, mắt dán vào cửa, rồi ông với tay lấy được sợi dây chuông và rung chuông.

Một lát sau Coclès xuất hiện.

- Coclès trung hậu của tôi ơi, ông Morrel nói với một ngữ điệu thật không tài nào diễn tả được, anh hãy đến ngồi ở phòng đợi. Khi nào cái ông đã đến đây ba tháng trước ấy, anh biết đấy, ông phái viên của hãng Thomson và French ấy mà tới thì anh báo cho tôi.

Coclès không trả lời, ông gật đầu rồi đến ngồi ở phòng đợi và chờ.

Ông Morrel gieo mình xuống ghế, đôi mắt ông ngước lên nhìn chiếc đồng hồ treo tường:

ông còn có bảy phút, thế thôi.

Kim đồng hồ chạy nhanh không ngờ, dường như là ông trông thấy nó dịch đi. Những khẩu súng đã lên đạn sẵn, ông vươn tay ra cầm lấy một khẩu, miệng ông hé mở, đôi mắt dán vào kim đồng hồ, rồi ông rùng mình vì tiếng động mà ông tự gây ra khi ông bật cái chốt kim hỏa.

Trong lúc đó, một lớp mồ hôi lạnh toát chảy trên trán ông, một nỗi kinh hoàng chết chóc thắt chặt trái tim ông. ông nghe thấy cửa cầu thang rít lên trên những chiếc bản lề.

Thế rồi cửa phòng làm việc của ông mở ra.

Đồng hồ sắp điểm mười một giờ. ông Mor-rel chẳng buồn quay lại , ông đợi những lời của Coclès báo tin người phái viên của hãng Thom-son và French đã tới.

Và ông đưa súng lên gần miệng.

Bất thình lình ông nghe một tiếng kêu: đó là tiếng con gái ông. ông ngoảnh lại và thấy Julie, khẩu súng tuột khỏi tay ông.

- Cha ơi! Cô gái kêu lên đến hết hơi và gần như chết được vì mừng rỡ, thoát rồi! Cha đã được cứu thoát rồi!

Và cô lao vào vòng tay ông, tay giơ cao cái túi lưới bằng tơ đỏ.

- Thoát à? - ông Morrel nói. - Con muốn nói gì vậy?

- Vâng, thoát rồi! Xem này, xem này! - Cô con gái nói.

Ông Morrel cầm lấy cái túi và rùng mình vì một ký ức mơ hồ làm ông nhớ ra cái đồ vật này đã từng thuộc về ông. Một bên là tờ hối phiếu hai trăm bốn mươi bảy ngàn năm trăm phrăng..Tờ hối phiếu đã được ký nhận trả đủ. Bên kia là một viên kim cương to bằng quả dẻ với mấy chữ viết trên một mẩu giấy da láng:

"Hồi môn của Julie" ông Morrel tưởng mình nằm mơ.

- Nào con, ông nói, con giải thích đi. Con tìm thấy cái túi này ở đâu?

- Trong một ngôi nhà ở đường Meilhan, số 15, trên góc lò sưởi của một căn phòng tồi tàn ở tầng 5.

Morrel kêu lên:

- Nhưng cái túi này không phải của con.

Julie chìa cho cha cô xem bức thư mà cô nhận được lúc sáng.

Cùng lúc ấy Emmanuel vào, nét mặt bàng hoàng vì vui mừng và xúc động.

- Tàu Pharaon! Anh kêu to, tàu Pharaon!

- Này, cái gì? Tàu Pharaon? Anh có điên không đấy Emmanuel? Anh thừa biết là nó đắm rồi mà.

- Tàu Pharaon! Thưa ông, người ta đánh tín hiệu báo tàu Pharaon đang vào cảng.

Ông Morrel ngã xuống ghế, mất hết sức lực, trí tuệ của ông không chịu thu nạp cái chuỗi sự kiện không thể tưởng tượng nổi, kinh dị và hoang đường này.

- Các bạn! ông Morrel nói, nếu có chuyện này thì phải tin vào phép thần kỳ của Chúa!

Không thể có được! Không thể có được!

Nhưng cái có thật và không kém phần khó tưởng tượng nổi chính là cái túi mà ông đang cầm trong tay, chính là tờ hối phiếu đã được ký nhận trả đủ, chính là viên kim cương lộng lẫy này.

- Ta đi nào các con, ông Morrel nói và đứng dậy, ta đi xem có phải chúa thương chúng ta hay chỉ là một tin vịt.

Họ đi xuống. Một lúc sau họ đã tới Canebière.

Người đông nghịt cảng. đám đông rẽ ra trước ông Morrel.

- Tàu Pharaon! Tàu Pharaon! - Tất cả mọi người cùng nói.

Đúng thế, điều kỳ diệu, phi thường trước tháp Saint Jean là một con tàu mang ở đuôi tàu những chữ kẻ bằng sơn trắng, Le Pharaon (Mor-rel và con trai ở Marseille), kích thước đúng như con tàu Pharaon trước kia và cũng chở đúng loại hàng như tàu kia là cánh kiến và chàm, đang bỏ.neo và cuốn buồm, trên boong tàu ông thuyền trưởng Gaumard đang ra lệnh và lái tàu Penelon đang ra hiệu cho ông Morrel.

Trong lúc ông Morrel và con trai ôm hôn nhau trên đê chắn sóng trong tiếng vỗ tay hoan hô của cả thành phố chứng kiến điều kỳ diệu này thì có một người đàn ông, mặt bị bộ râu đen che lấp đến một nửa, nấp sau cái chòi của người lính gác, ngắm cảnh này với vẻ cảm động và thì thào những lời này:

- Hãy sung sướng hỡi trái tim nhân hậu, hãy hưởng phúc vì tất cả những việc tốt mà người đã làm, và sẽ còn làm nữa; và cứ để cho việc trả ơn của ta nằm trong bóng tối cũng như việc làm ân nghĩa của người.

Và với một nụ cười ánh lên niềm vui và hạnh phúc, ông ta rời chỗ nấp mà chẳng ai để ý đến mình vì họ còn bận theo dõi hiện tượng kỳ lạ trong ngày; ông xuống một trong những cầu thang hẹp dùng để bốc hàng rồi gọi một chiếc xuồng để đi ra một du thuyền sang trọng rồi nhảy lên boong nhẹ nhàng như một thủy thủ; từ đó ông nhìn lại ông Morrel một lần nữa, lúc này đang vừa khóc vì sung sướng vừa bắt tay thân ái tất cả mọi người trong đám đông và cám ơn bằng một cái nhìn mơ hồ con người làm phúc vô danh mà hình như ông tìm kiếm ở trên trời.

- Và bây giờ, người không quen biết nói, xin vĩnh biệt lòng tốt, tình nhân ái và lòng biết ơn...

Xin vĩnh biệt mọi tình cảm làm trái tim ta nở hoa! Ta đã thay trời để ban thưởng cho những người tốt... Thần trả thù hãy cho ta thay chỗ để trừng phạt những kẻ ác!

Và ông nhắc lại lời nguyền trả mối thù không bao giờ quên được đối với Danglars, Fernand và Villefort mà ông đã phát nguyện trong tù.

Rồi ông ra hiệu khởi hành, cứ như là chỉ đợi mỗi tín hiệu ấy để ra đi, du thuyền lập tức ra khơi..

Xem tiếp:

Bá tước Môngtơ Cixtô (Chương 1-10)



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét