Trang

Thứ Năm, 17 tháng 4, 2014

TƠ ĐỒNG RỎ MÁU (Chương 1-20)

Tên Sách: TƠ ĐỒNG RỎ MÁU

Tác Giả: Quỷ Cổ Nữ
Bộ Sách: Hồ Sơ Tội Ác (tập 3)
Thể Loại: Kinh Dị, Ma Quái, Trinh Thám
Dịch giả: Trần Hữu Nùng
Khổ: 15 x 24
Số trang: 394
Giá bán: 105.000 đồng
Thời gian phát hành: 
Tại Hà Nội ngày 28/1/2014 
Tại Sài Gòn 10/2/2014.
Nguồn: chunikun.wordpress.com
Đọc Online tại: e-thuvienonline.blogspot.com
Hồ Sơ Tội Ác 3 - Tơ Đồng Rỏ Máu - Quỷ Cổ Nữ

Hồ Sơ Tội Ác 3 - Tơ Đồng Rỏ Máu - Quỷ Cổ Nữ

Giới Thiệu:
Tơ Đồng Rỏ Máu là tập thứ ba trong series Hồ sơ tội ác, Tơ Đồng Rỏ Máu là một cao trào, một cục diện mới khẳng định bút lực hùng hậu của Quỷ Cổ Nữ. Trong tập này, người bí hiểm luôn theo dõi Na Lan từ Hồ tuyệt mệnh sang Tuyết đoạt hồn đã được hé lộ một phần trước bạn đọc. Nhưng bên cạnh người đó, còn ít nhất ba người bí hiểm nữa cũng tham gia vào trò theo dõi dai dẳng không thể chịu nổi ấy, phủ thêm lớp sương ngầu đục lên đất Giang Kinh vốn vẫn ẩn chứa vô vàn truyền thuyết và bão tố của lòng người này.

Trăng sáng nơi đầu núi
Cành lìa cây rụng rơi
Chim hãi hùng im tiếng,
Bên cầu dấu xương phơi…
Lúa ngát hương mùa mới
Át đi mùi thây trôi
Ếch kêu đêm rộn rã
Không xua được chơi vơi.
Cách đây mấy trăm năm, dưới thời nhà Minh, ở một châu nọ liên tiếp xảy ra án mạng thế này. Các cô gái lần lượt mất tích, khi tìm được thi thể họ thì thấy cái xác nào cũng cụt mất một ngón tay. Một bộ khoái của Đông Xưởng dốc hết tâm huyết điều tra vụ án. Mấy chục năm trôi đi đều tốn công vô ích, đến một ngày nọ, sắp tới lúc rửa tay gác kiếm, đã quá tuyệt vọng, ông ta bèn thực hiện lần chót, bày một con mồi, giăng một cái bẫy, bẫy tên thủ phạm tới chặt tay giết người.
Hung thủ vẫn thoát. Con mồi bị giết. Bộ khoái nhất thời phẫn uất, ngất lịm đi. Khi tỉnh lại, như bị quỷ ám, ông ta lê bước đến hốc nhà, lôi ra một cái tráp vẫn giấu kín, mở ra. Giữa mùi mốc hôi lưu cữu nhiều năm, lẫn vào mùi thịt đang bắt đầu phân hủy. Giữa những khúc xương ngón tay đã trắng khô, là một ngón tay gần đây mới chặt.
Năm trăm năm sau, Giang Kinh lại nổi lên vụ án giết người hàng loạt có tên “ngón tay khăn máu”. Nhiều cô gái đáng thương bị mất tích, gia đình họ thoạt tiên nhận được bưu kiện, bên trong nhúm ngón tay đã bị chặt của họ. Nhưng vài năm, thậm chí vài chục năm trôi đi, vẫn chưa phát hiện hoặc thấy xác họ bị trả lại. Một nghi phạm bị bắt. Lão khẳng định vụ án sẽ vẫn tiếp diễn, nhưng không cho biết chi tiết, chỉ khăng khăng đòi gặp Na Lan. Và khi cô đến, lão đưa ra các câu đố khác nhau. Phải giải được loạt câu đố này, cô mới mong chặn được vụ án, tìm được xác những người bị hại bao nhiêu năm qua. Na Lan mù mờ đi theo chỉ dẫn, mỗi khám phá lại đẩy cô lên một mức độ bấn loạn và hiểm nguy mới, nhưng không bấn loạn và hiểm nguy nào sánh được với kết cục chờ cô phía cuối chặng đường.


Đôi nét về tác giả

Quỷ Cổ Nữ là bút danh chung của một cặp vợ chồng người Trung Quốc đang sống ở Mỹ. Vợ là Dư Dương kỹ sư thâm niên về phần mềm máy tính. Chồng là Dị Minh chuyên gia y học nổi danh. Mùa xuân năm 2004, hai người dùng tên thật, cùng xuất bản cuốn tiểu thuyết dài Mùa xuân trên dòng sông băng, được giới chuyên môn đánh giá cao. Giữa năm 2004, bằng bút danh Quỷ Cổ Nữ, hai vợ chồng tung lên mạng một tiểu thuyết kinh dị nhan đề Kỳ án ánh trăng. Tác phẩm gây chấn động không ngờ, lôi cuốn hàng triệu độc giả chỉ trong vòng vài ba tháng, đăng tải nửa chừng thì nhận được lời đề nghị xuất bản từ Nhà xuất bản Nhân Dân Thượng Hải. Mồng 1 Tết âm lịch năm 2005, cuốn sách Kỳ án ánh trăng ra mắt bạn đọc, và Quỷ Cổ Nữ lập tức bật lên thành ngôi sao sáng trên văn đàn, thành tác giả tiêu biểu nhất của dòng tiểu thuyết kinh dị Trung Quốc.


Chương 1: Hắc Mộng
Văn Nhược Phi vừa tan ca khỏi cục Công nghiệp nhẹ. Mới có 7 rưỡi tối, nhưng thời tiết mùa đông đã lạnh thì chớ, ngày lại còn ngắn cũn, cô lấy xe đạp ra khỏi nhà để xe thì trời đã hoàn toàn tối mịt. Thực ra cô không tích cực đến nỗi tình nguyện làm về muộn thế này đâu, chỉ vì lãnh đạo tỉnh tự nhiên yêu cầu kiểm tra đột xuất, thành phần thực tập sinh như cô là phải bận bù đầu cho đến phút chót. Giờ đây, nhìn lên bầu trời đen kịt cùng ánh đèn đường mờ mịt, thật sự cô không muốn một thân một mình tìm đến Giang Kinh này đâu, thà rằng cứ ở lại Thành Đô tìm bừa 1 cơ hội thực tập nào đó còn tốt hơn, ít nhất thì ngày nào cũng được gặp anh bạn trai Ba Du Sinh của mình.  Với tình trạng đặc thù như ngày hôm nay, chỉ cần 1 cuộc điện thoại thôi, thế nào Ba Du Sinh cũng đến đón cô ngay lập tức cho mà xem.
Là vậy, hồi đầu, vừa nghe nói ở Giang Kinh có 1 đơn vị tuyển thực tập sinh là cô chạy ngay đến đây đăng ký, như thể muốn chạy trốn khỏi Thành Đô vậy.
Chỉ có một mình cô biết rằng cô thật sự muốn trốn khỏi Thành Đô, ngay đến Ba Du Sinh cũng không hề biết bí mật này.
Văn Nhược Phi sống tại ký túc của cục Công nghiệp nhẹ, thời gian đi lại đến toà nhà văn phòng cục khoảng 12 phút. Bực một nỗi, mới đạp xe được mấy vòng thì tuyết bắt đầu đổ xuống ào ào, mặt đường trơn ướt khiến cô suýt ngã mấy lần.
Có lẽ vì quá để tâm đến mặt đường càng lúc càng xấu mà Văn Nhược Phi không để mắt đến người đi lại phía trước trên cùng con đường này.
Xe đổ, người ngã.
Có tiếng rên rỉ xuýt xoa văng vẳng đâu đó quanh đây. Văn Nhược Phi tạm thời bỏ mặc cái chân đau của mình, lồm cồm bò dậy đi về phía có tiếng rên phát ra – cô biết mình đã đâm ngã người ta, giờ chỉ mong hậu quả gây ra không quá nghiêm trọng thôi.
Nhưng hậu quả lại nghiêm trọng ngoài sức tưởng tượng của cô. Con đường này không rộng, trước nay cũng không đông người qua kẻ lại cho lắm, ánh đèn đường xa xăm dù có muốn xuyên qua màn tuyết cũng đành bất lực, xung quanh vắng hoe không một bóng người. Cô có thể lờ mờ nhận ra có một đống đen xì không rõ rệt nằm lù lù trên mặt đường, nhìn cứ như không phải là hình người. Cô tiến lại gần hơn một chút, trên mặt đất đã bị tuyết phủ trắng, hình như có một vũng máu đang lan rộng ra.
Cô giật thót tim, dường như rất muốn hét lên: Chỉ bị xe đạp đâm vào thôi, sao có thể chảy nhiều máu thế được!
Dưới ánh đèn tậm tịt, cuối cùng cô cũng thấy rõ, trên mặt đất là 1 xác chết không đầu!
Không thể, xác chết làm sao phát ra tiếng rên rỉ được?
Cô há hốc miệng định kêu cứu, nhưng đã muộn. Có 1 bàn tay đeo găng bất chợt thò từ phía sau ra, bịt chặt miệng cô lại.
Văn Nhược Phi tỉnh lại trong cơn đau đớn dữ dội. Đây là đâu?
Cô không thể nhận ra đây là nơi nào, chỉ biết là một địa điểm công cộng không được quang minh chính đại. Từng cơn gió lạnh buốt thi nhau thổi tới, một luồng ánh sáng yếu ớt chiếu thẳng vào căn nguyên của cơn đau tột cùng mà cô đang chịu đựng.
Bàn tay của cô.
Hoặc là đang mơ, hoặc là đang tưởng tượng, cô lờ mờ nhớ ra ánh sáng sắc lạnh của một lưỡi dao.
Máu chảy.
Ngón trỏ trên bàn tay phải của cô đã bị cắt đứt. Văn Nhược Phi hét lên một tiếng xé lòng, nhưng tiếng kêu lập tức bị chẹn lại bởi một cục vải nhét kín trong miệng cô, nên chỉ phát ra được những tiếng ư ưm từ cổ họng. Hai tay cô bị trói chặt, hai chân cũng không sao cử động nổi – cô cúi đầu nhìn xuống, cổ họng cô lại oà tới một tràng tiếng kêu kinh hoàng nữa: Hai chân của cô, đã bị chôn trong đất!
Một bãi đất sét lớn rơi từ trên cao rơi xuống, đổ phịch tới xung quanh chân cô.
Có tiếng cười kỳ quái, dường như được phát ra từ sâu dưới lòng đất, hệt như vô vàn mũi kim nhọn hoắt lăn qua lăn lại trên làn da mềm mại trơn nhẵn của cô, hệt như một con mãng xà cuộn tròn quanh người cô quyết không buông ra.
“Tại sao cô muốn đi khỏi Thành Đô?” Sau khi tiếng cười dừng lại là những câu hỏi tỏ ra rất quan tâm của đối phương: “Tại sao mới nghe tin có một đơn vị thực tập phù hợp ở Giang Kinh ngàn dặm xa xôi này cô đã vội vội vàng vàng đến nộp đơn xin vào? Tại sao ngay đến người bạn trai cô định trao thân gửi phận cả đời cũng không khuyên nổi cô?”
Văn Nhược Phi muốn nói: Anh không thể hiểu được đâu, không ai hiểu được đâu, ngay cả Ba Du Sinh cũng không thể hiểu. Nhưng cô nói làm sao được, không chỉ vì miệng đang bị bịt kín bởi chiếc khăn tay, mà hơn hết, ngực cô đang hết sức ngột ngạt, không thể phát được bất kỳ âm thanh nào ra nữa – - không biết từ bao giờ mà đống đất sét tanh ngòm dội từ trên xuống đã lấp đầy đến ngực cô.
Một bàn tay đeo găng màu đen thò xuống, giật phăng chiếc khăn bịt miệng cô ra. Cô gào lên một tiếng thảm thiết theo bản năng, cuối cùng cô đã hét ra được! Tiếng la hét thảm thương hoà lẫn với tiếng cười còn rợn người hơn, tạo ra thứ âm thanh hỗn tạp như ma quỷ đang say sưa chơi đùa.
Nếu không có tiếng điện thoại đột ngột đổ chuông giữa đêm hôm khuya khoắt thì không biết cơn ác mộng khủng khiếp nửa thật nửa hoang đường này còn diễn tiến đến đâu. Bạn gái anh mất tích đã là chuyện của 13 năm trước, nhưng trong lòng anh hiểu rõ tại sao gần đây cơn ác mộng này lại thường xuyên xuất hiện như vậy.
Chủ nhân của giấc mơ vừa rồi chính là Ba Du Sinh. Anh thò tay lên với lấy chiếc điện thoại trên nóc tủ ở đầu giường, lòng bàn tay vẫn ướt đẫm mồ hôi do giấc mơ đó gây ra. Thời gian hiển thị trên điện thoại là 4:06 sáng. Chỉ có đại đội trưởng đội điều tra hình sự kiêm tổ trưởng tổ trọng án Ba Du Sinh mới để chuông điện thoại ở mức to nhất trong khi ngủ; và cũng chỉ có Ba Du Sinh mới không thấy bực bội tức tối vì bị làm phiền lúc nửa đêm nửa hôm đang yên giấc thế này.
Thoát được khỏi giấc mơ đó, cũng tốt.
Anh nhấc điên thoại lên, đáp một tiếng, lẳng lặng nghe người bên kia trình bày xong, mồ hôi trên trán anh túa ra còn nhiều hơn.
Chuyện anh lo lắng nhất đã xảy ra.
Viên cảnh sát trực ban của đội điều tra hình sự vừa báo cáo một vụ án được chuyển lên từ phân cục, một cô gái 23 tuổi tên Hàn Tây, sau khi thu dọn xong cửa hàng thời trang cao cấp, đến giờ vẫn chưa thấy về nhà và mất liên lạc với người bạn trai sống cùng tên Thẩm Đại Hổ.
“Lần cuối cùng liên lạc được với cô ấy là mấy giờ?” Giọng điệu Ba Du Sinh lại hoàn toàn không giống như đang toát mồ hôi chút nào.
“Là 1 tin nhắn cuối cùng giữa họ, khoảng 5 tiếng trước, sau đó không còn liên lạc được với Hàn Tây nữa.”
Ba Du Sinh thừa biết, 1 người mới mất liên lạc trong 5 tiếng là chưa đủ điều kiện cấu thành một vụ án mất tích, anh liền hỏi: “Nói như vậy thì là, đã có chứng cứ?”
Ban đầu Thẩm Đại Hổ không lo lắng lắm khi Hàn Tây không về nhà đúng giờ, không chỉ vì những tin nhắn yêu đương qua lại giữa hai người vẫn còn nóng hổi trong điện thoại, mà anh cũng biết rõ, tình yêu của Hàn Tây đối với mình nhiều tầng nhiều lớp thế nào, không bao giờ có chuyện cô bỏ đi mà không nói lời từ biệt. Chắc chắn là khi sắp đến giờ đóng cửa cửa hàng thì có khách đến xem hàng nên phải nấn ná lại một lúc. Mặc dù bình thường khi đi làm Hàn Tây có trang điểm rất tỉ mẩn, nhưng đó là yêu cầu của công việc, chứ chắc chắn cô không thể, và cũng không có gan đi chơi bời với giai khác.
Nhưng, 2 tiếng đồng hồ trôi qua rất nhanh, Thẩm Đại Hổ bắt đầu thấy có chút sốt ruột, anh bắt đầu nhắn tin liên tục cho Hàn Tây, nhưng không thấy trả lời lại, gọi điện thì tắt máy. Anh ra khỏi căn phòng nhỏ mà hai người sống chung, đi qua đi lại trước cổng tiểu khu. Chuyến xe buýt cách chuyến cuối cùng 1 tiếng đã đi khỏi. Hút hết 2 điếu thuốc, ba năm chiếc xe buýt đỗ lại rồi bỏ đi, vẫn chưa thấy bóng Hàn Tây đâu. Anh biết, có chuyện bất thường đã xảy ra.
Anh quay về nhà, nhớ là Hàn Tây có 1 quyển danh bạ điện thoại, trên đó có số liên lạc của ông chủ và mấy chị em bạn bè của cô ấy, anh định gọi hỏi từng người một. Nếu không có tin tức gì ra hồn, anh sẽ phóng xe máy đến cửa hàng nơi cô ấy làm việc tìm xem sao. Nếu cửa hàng đã đóng cửa thì phải làm gì tiếp đây? Anh nghĩ, vậy thì sẽ là vận đen của 2 người: Hàn Tây và tên khốn nạn nào đó đã cướp Hàn Tây khỏi anh. Thẩm Đại Hổ si tình thế nào, chắc chắn Hàn Tây thừa hiểu.
Vừa lôi được chìa khoá ra để mở cửa thì Thẩm Đại Hổ phát hiện có một chiếc túi xách phụ nữ nhỏ treo trên nắm cửa của cánh cửa sắt, một chiếc Hermes nhái, chính là quà sinh nhật năm ngoái anh tặng Hàn Tây. Thẩm Đại Hổ hơi mỉm cười: Biết là cô ấy sẽ không làm chuyện ngu ngốc đó đâu mà. Nhưng ngay sau đó anh lại thấy hết sức kinh ngạc, tại sao lại treo túi trên cửa thế này?
Anh gỡ chiếc túi xuống, mở khoá cửa, ấn công tắc bật đèn, cất tiếng gọi dịu dàng nhất có thể: “Tây Tây! Sao về muộn thế em, còn không nói với anh một tiếng nữa? Nửa đêm rồi, có biết anh lo lắng thế nào không?”
Không có tiếng trả lời.
“Tây Tây!” Giọng điệu anh bắt đầu có chút cáu giận: “Đừng giở trò này ra với anh, em định lấy im lặng là vàng à? Không có giá trị với anh đâu!”
Vẫn không có tiếng đáp lại.
Căn hộ bé nhỏ này không phải nơi thích hợp để chơi trò trốn tìm, Thẩm Đại Hổ nhanh chóng xác định Hàn Tây hoàn toàn không có trong nhà! Nhưng tại sao túi xách của cô ấy lại xuất hiện ngoài cửa?
Anh thẫn thờ, lẽ nào, cuối cùng vẫn là cô ấy muốn bỏ mình? Để đoạn tuyệt  hoàn toàn, trước khi đi còn trả lại món quà “quý giá” mình đã tặng cô ấy? Đầu óc anh bắt đầu bốc lửa phừng phừng, nắm tay ngứa ngáy vô cùng, chỉ muốn đấm người ngay lúc này, chỉ muốn nghe thấy tiếng mũi vỡ, răng rụng tả tơi, nhưng trong căn phòng trống hoắc này, anh chỉ có thể điên tiết mà ném chiếc túi xuống đất không thương tiếc thôi.
Khoá của chiếc túi bị bung ra, đồ đạc bên trong tung toé khắp sàn nhà, bao gồm chiếc Iphone nhái anh tặng cô nữa. Thẩm Đại Hổ lại bắt đầu hoài nghi: Thật khó tưởng tượng Hàn Tây lại có thể từ bỏ chiếc điện thoại cô ấy vốn hết sức nâng niu, nếu bỏ trốn theo zai mà không mang theo điện thoại thì có phải là rất bất tiện không. Anh nhặt chiếc điện thoại lên, hi vọng có thể tìm kiếm được manh mối gì đó qua lịch sử cuộc gọi – - Gần như ngày nào anh cũng kiểm tra điện thoại của Hàn Tây, ngoài mấy tin nhắc rác quảng cáo lừa đảo ra, chưa bao giờ anh phát hiện ra bất kỳ số điện thoại khả nghi nào, nếu Hàn Tây có người khác bên ngoài thật thì rõ ràng trình độ che giấu của cô ấy rất chuyên nghiệp. Lần này cũng không phải ngoại lệ, qua mấy tiếng đồng hồ, chỉ có mấy  tin nhắn do chính anh gửi đến thôi.
Một chiếc hộp nhỏ màu xanh da trời nằm bên cạnh chiếc điện thoại nhanh chóng thu hút ánh mắt của anh: “Durex”, “Bao cao su làm từ mủ cao su tự nhiên”. Anh run rẩy nhặt chiếc hộp đó lên, mẹ nó chứ, cái hộp đắt tiền thế này, trông có vẻ không phải hàng nhái đâu!
Thẩm Đại Hổ bất chợt cảm thấy chiếc hộp chứa BCS này có vẻ nặng hơn so với tưởng tượn g của anh, anh tạm thời gác trái tim bị cháy xém vì thù hận sang một bên, kéo cái nắp đậy bên trên của chiếc hộp ra,  trước tiên là rút ra một cục vải trắng to bằng nắm tay,  chất liệu tương đối chắc chắn, kiểu giống như vải bò. Anh chợt nhớ ra, hình như hôm nay Hàn Tây mặc một chiếc quần bò bó sát màu trắng đi làm.
Anh tò mò nhìn chằm chằm vào nắm vải bò màu trắng này, hình thù không ra đâu vào đâu, như thể bị cắt ra rất vội vã. Lật tấm vải lại, anh sững sờ: trên nền vài trắng ghê sợ đó, có một vết máu đỏ thẫm.
Dường như chiếc hộp “Durex” này còn nặng hơn vừa rồi, anh thò tay vào trong đó 1 lần nữa, nhưng lập tức co rụt lại như vừa chạm vào nguồn điện, chiếc hộp bị vứt xuống, rơi lăn lóc trên sàn nhà, một ngón tay người trắng bệch thòi ra.
“Là ngón tay của Hàn Tây phải không?” Ba Du Sinh đã khoác xong áo gió lên người.
“Người của phòng kỹ thuật và phòng thí nghiệm đang bắt tay vào xác minh, nhưng Thẩm Đại Hổ quả quyết đó là của Hàn Tây, bởi vì kiểu hoa văn sơn móng tay hình hoa cúc trống tâm trên nền đỏ tím của ngón tay đứt đó chính là kiểu Hàn Tây mới đánh cuối tuần trước.
“Mễ Trị Văn! Hắn đã tỉnh chưa?”
Đầu điện thoại bên kia có chút ngập ngừng, Ba Du Sinh lập tức cảm thấy có điềm chẳng lành. Khi cảm giác này xuất hiện, kết quả khiến người ta rất khó chịu đựng.
Anh lặng nghe đối phương trả lời xong câu hỏi. Mồ hôi trên trán đã nhỏ giọt xuống khoé mắt, cay xè. Mễ Trị Văn,  một kẻ tình nghi quan trọng đang bị giám sát chặt chẽ đã biến mất khỏi tầm mắt của cảnh sát.
Nếu một người bạn hay thân nhân nào đó của Ba Du Sinh xuất hiện trước mặt anh vào lúc này, chắc chắn sẽ bắt gặp một Ba Du Sinh hoàn toàn không giống với vẻ bình lặng thường ngày, hoặc có thể nói, là gặp một người hoàn toàn khác – anh ta có tướng mạo giống hệt Ba Du Sinh nhưng có thần thái của một người xa lạ, mệt mỏi, thậm chí là già nua.
“Đội trưởng Ba?” Cậu cảnh sát trực ban cũng không quen với việc đội trưởng của mình im lặng quá lâu.
“Các cậu lập tức truyền đạt lệnh động viên đến các phân cục, lực lượng cảnh sát toàn thành phố cùng hiệp đồng điều tra. Tôi sẽ đến ngay lập tức.” Ba Du Sinh cố gắng lấy lại trạng thái bình thường. Anh cúp máy, nhanh chóng mặc đồng phục cảnh sát lên, nhưng rồi bất giác lại mở điện thoại ra, nhìn một cái tên trong danh bạ. Anh bắt đầu thấy tiếc nuối, không nên để cô ấy dính líu vào vụ án này.
Nhưng mà cho tới giờ phút này, cảm giác của anh lại mãnh liệt hơn bất cứ khi nào: Có thể, thật sự chỉ có cô ấy, mới có thể khiến bi kịch này kết thúc nhanh nhất.
Hoặc là, khiến bi kịch này trở nên tang thương hơn.
Nhưng anh không còn lựa chọn nào khác. Anh ấn nút gọi đi, chuông đổ được 3 tiếng,  giọng ngái ngủ của cô ấy đã cất lên: “Thầy Ba ạ?”
“Na Lan, tôi đã lưỡng lự rất lâu, không biết nên nói với em thế nào, lại phải kéo em vào vụ án, nhưng mà, không có cách nào khác….Án ngón tay đứt lại xảy ra rồi, chúng ta vừa có một nạn nhân nữa!”
Chương 2: Viếng Thăm Ma Quỷ
Mười ba hôm trước.
Qua khe mành mành cửa sổ, anh thoáng nhìn đã nhận ra Na Lan, đang băng qua làn mưa bụi giăng giăng.
Trên con đường rộng rãi trước khu điều trị nội trú, người qua lại như mắc cửi, rất đông bác sĩ, y tá và người nhà vào thăm bệnh nhân, ai nấy giương ô màu đen, màu ghi, màu xanh… nhưng anh nhận ra Na Lan ngay!
Với mỹ nữ, khuôn mặt và vóc dáng chỉ là hình ảnh hai chiều, chính phong độ và khí chất mới là nét đặc sắc khiến họ trở thành báu vật lập thể đa chiều.
Nhờ nhạy cảm với khí chất của Na Lan, bên Ba Du Sinh đỡ được bao nhiêu mệt mỏi vất vả trong việc tìm cô giữa đám đông. Thiếu nữ thời nay cho rằng mình mặc áo mỏng hai dây, hơ trên hở dưới hở lưng thì sẽ rất bắt mắt; đúng thế thật, không ai nghi ngờ gì, nó rất bắt mắt đàn ông nhưng đó chỉ là sức hút ở tầm thấp mang tính bản năng động vật, sự hấp dẫn mong manh ấy sẽ chỉ thoáng qua rồi tan nhanh.
Trình độ và hiểu biết của Ba Du Sinh đã vượt trên mặt bằng thẩm mỹ của “số đông”. Cũng đừng hiểu lầm ánh mắt ngưỡng mộ của anh khi nhìn Na Lan là sự thèm khát trỗi dậy. Không còn bồng hột như thời trai trẻ nữa, anh đang đầy mình bệnh tật và chẳng biết lúc nào sẽ bị ông trời “gọi đi”; anh chỉ muốn hoàn thành tâm nguyện sau cùng, biểu diễn một lần cuối, để lại ấn tượng sâu sắc cho thế giới này.
Sau đó, hạ màn, rời sân khấu.
Cho nên lần trình diễn này anh không được phép đọc nhầm một lời thoại hay làm nhầm một động tác nào. Cũng may vì Ba Du Sinh xưa nay luôn theo đuổi sự hoàn mỹ cho nên sự tự tin của anh là có căn cứ, anh dường như đã nghe thấy tiếng vỗ tay nhiệt liệt của khán giả.
Đúng giờ, Na Lan bước vào khu buồng bệnh. Tất cả đều diễn ra như sắp đặt của anh.
Bệnh viện Phổ Nhân nằm ngay trung tâm thành phố, là một trong những bệnh viện hàng đầu trực thuộc Đại học Y khoa Số 2 Giang Kinh, khu buồng bệnh vừa được trùng tu năm kia, có mái vòm cong cong, thảm sàn và giấy dán tường dùng màu ấm áp, giúp bệnh nhân giảm bớt cảm giác nặng nề. Bên ngoài khu nhà, cuộc chiến giữa gió lạnh và khí ấm chưa phân thắng bại; nhưng trong nhà, nhớ hệ thống sưởi nên mùa xuân nhân tạo vẫn đang ngự trị..
Thế mà khi bước vào khu buồng bệnh, Na Lan vẫn hơi rùng mình.
Có phải do tác động tâm lý không?
Na Lan là nghiên cứu sinh Khoa Tâm lý Đại học Giang Kinh, chính cô đã trải nghiệm và khám phá ra vụ án “năm xác chết”, vụ hung sát bằng ma  túy trong khu nhà tuyết miền đông bắc[1] , cô đã vận dụng hết mọi khả năng mà mình có, sau đó nhà trường và cảnh sát cùng ép cô chấp nhận mấy lần phỏng vấn. Nhà trường muốn xây dựng hình ảnh một trí thức trẻ tiêu biểu, cảnh sát thì muốn xây dựng hình ảnh một công dân tốt dũng cảm cộng tác với cảnh sát. Na Lan đã trả lời phóng viên nhiều lần, rằng tôi không phải đóa hồng bằng thép hay không biết sợ là gì; trái lại, cô rất sợ xem phim kinh dị, cô cực ghét ra đường một mình ban đêm.
[1] Đã được miêu tả lần lượt trong Hồ tuyệt mệnh và Tuyết đoạt hồn.
Lần đầu Na Lan tiếp xúc với tội ác là bảy năm về trước, khi cha cô bị hại. Kể từ lúc tận mắt nhìn thấy thi thể của cha, cảm giác sợ hãi luôn ám ảnh thậm chí bám riết lấy cô. Nhưng cảm giác sợ hãi cũng rèn luyện bồi đắp cho cô khả năng quan sát nhạy cảm đối với sự vật và con người.
Hôm nay cô lại nắm tay nỗi sợ hãi, nắm tay “người bạn cũ” vẫn sáng chiều đeo bám ấy.
Nguồn cơn của nỗi sợ hãi nằm ngay trong khu buồng bệnh đang cố trở nên đầm ấm này.
Hiện đang là lúc vào thăm bệnh nhân tấp nập nhất, thang máy khá chật, có ba y tá hộ lý và năm sáu người nhà bệnh nhân mà vẻ mặt của họ nặng nề hơn cả trời mưa gió; đứng trước bệnh tật, họ phãi chịu đựng tổn thất về sức khỏe, thời giơ, tiền bạc thậm chí cả người thân của mình.
Na Lan hiểu hơn ai hết cảm giác bị mất người thân. Người cha thân yêu của cô sớm ra đi ở tuối tráng niên, bạn trai mối tình đầu của cô vùi thây trong núi tuyết. Vết thương lòng của cô không những không lành mà ngày càng nhức nhối không biết khi nào mới nguôi.
Cửa thang máy mở, tầng thứ 11. Trong vòng mấy phút mà như đã trải đủ mấy mùa nóng lạnh, Na Lan nhanh chóng gạt bỏ những ý nghĩ rối bời, mỉm cười, đưa tay chào Ba Du Sinh đang đứng ờ hành lang đón cô.
“Áy náy quá, hôm qua anh giao cho cô cả đống bài tập.” Ba Du Sinh nói. “Cô luôn là học trò giỏi, chắc cô đã xem hết rồi?”
Ba Du Sinh thông minh, từng trải, nhiều chất thư sinh hơn là viên chức cảnh sát, là một trong những nguyên nhân khiến cô thích giao thiệp với anh. Cô mỉm cười, “Bài tập ở tổ trọng án của thầy Ba Du Sinh, em đâu dám lơ là? Nhưng em vẫn còn mấy vấn đề nhỏ muốn hỏi thêm.” Ba Du Sinh là một trong những người hướng dẫn luận văn tốt nghiệp cho Na Lan, mỗi lần gặp anh, cô cũng hay gọi là “thầy”.
Không hiểu tại sao hôm nay vẻ mặt anh nặng nề khác hẳn mọi ngày, thậm chí nét lo âu hiện lên rất rõ. Anh gật đầu nói, “Ta cứ vào gặp lão đã. Có vấn đề gì cô để đấy hỏi anh sau.”
Cả hai dừng chân trước căn phòng thuộc khu vực theo dõi bệnh nhân nặng. Tuy dành riêng cho bệnh nhân không còn khả năng chữa trị nữa nhưng cơ sở vật chất vẫn y hệt như các khu vực khác, vẫn giữ gam màu ấm, sáng sủa, tường dán giấy màu xanh da trời, treo những bức tranh sơn thủy êm đềm nhẹ nhõm, ánh sáng đầy đủ mà không chói mắt.
Ba Du Sinh nhìn qua cửa kính, nói, “Lão ấy kìa, giường giữa.”
Trên cái giường trắng là một ông già vóc người khô héo đang nằm, cái chụp thở ô xi gắn vào mũi là sợ dây cuối cùng duy trì sự sống của ông ta.
Na Lan nói nhỏ, “Thoáng nhìn, em đã có được câu trả lời đầu tiên.”
“Thế à?”
“Em vốn định đến để các định bệnh nặng đến mức nào và có đủ tiêu chuẩn để được ra bệnh viện dân sự điều trị không, nhưng dù không có chuyên môn y khoa em cũng nhận ra rằng bệnh tình của ông ta đã rất nguy kịch.” Na Lan nói.
Ba Du Sinh, “U não, bệnh động mạch vành khá nặng, tắc nghẽn động mạch phổi, bệnh liệt rung Pac-kin-sơn, tiểu đường… đủ cả…”
“Và tâm thần phân liệt nặng nữa.”
“Ừ nhỉ, trước mặt cô, anh không dám múa rìu qua mắt thợ, suýt nữa quên béng điều đó! Bị ngần ấy bệnh nặng, xét đến vấn đề nhân quyền và nhân đạo, đều nên được đưa ra điều trị ở bệnh viện dân sự…”
“… dù rằng phạm tội cưỡng dâm và giết người bất thành!” Na Lan thở dồn khi nhìn cẳng tay gầy đét như que củi thò ra ngoài chăn. “Có điều, với tội phạm nguy hiểm, hình như pháp luật kiểm soát rất chặt việc điều trị dân sự.”
Ba Du Sinh gật đầu, “Nhưng lão ốm quá nặng, bệnh viện nhà tù không đủ điều kiện chữa chạy thì lão phải được chuyển ra ngoài. Để đảm bảo, bên anh đã xin phép tòa án, đồng thời tổ chức giám sát lão một cách thỏa đáng. Tình trạng như lúc này, lão rất ít có khả năng gây ra mối nguy gì. Các bác sĩ cũng đều nhận định rằng sự sống của lão chỉ có thể tính từng ngày.”
“Bệnh nặng như vậy mà còn hứng thú chuyện phiếm với em à!” Na Lan hiếm khi dùng giọng châm biếm thế này, nhất là trước mặt Ba Du Sinh. Nhưng chẳng biết hôm nay cô bị rơi vào từ trường kỳ quái nào mà không giữ được khả năng tự kiểm soát. Hay là, phạm nhân đang nằm chờ bảo lãnh kia chính là một nguyên nhân?
“Lão nằng nặc đòi gặp cô.”
“Vì liên quan đến vụ án ‘ngón tay khăn máu’?” Na Lan bỗng cảm thấy nói ra mấy chữ “ngón tay khăn máu” nghe thật cải lương, mà cũng thật ghê rợn.
Ba Du Sinh hơn do dự, gật đầu, “Ít ra thì… chính lão đã gọi như thế.”
Chương 3: Ngón Tay Khăn Máu
Ông già nằm trên giường bệnh là một bệnh nhân tâm thần phân liệt phạm tội hiếp dâm, đòi gặp đích danh Na Lan, nói là muốn tiết lộ một bí mật gây chấn động Giang Kinh thậm chí toàn quốc.
Sự thật này chắc chắn sẽ trở thành một dòng status được lan truyền rộng khắp trên weibo[1].
Sự thật về vụ án “Ngón tay khăn máu”!
Trong ba mươi năm qua, ở Giang Kinh đã xảy ra một loạt vụ án phụ nữ mất tích, các vụ việc cách nhau một hai năm hoặc vài năm. Tính đến nay, đã có ít nhất mười phụ nữ là nạn nhân của dạng vụ án này. Giang Kinh là thành phố lớn, dân số cả chục triệu người, không hiếm các vụ mất tích, nhưng loạt vụ án mất tích này có chung một đặc điểm.
Đặc điểm khủng khiếp.
Một ngày mùa xuân năm 1980, có một công chức bình thường đang sốt ruốt sốt gan vì chờ đợi, mong mỏi một điều thần kỳ rằng cô em gái Nghê Phượng Anh đã mất tích một tuần sẽ trở về nhà. Nhưng chỉ thấy xuất hiện một chiếc xe đạp đưa thư cùng một bưu kiện nhỏ. Bao bì không ghi họ tên địa chỉ người gửi. Bên trong là một hộp giấy, trong hộp giấy là một chiếc khăn tay màu trắng, góc khăn có ghi tên Nghê Phượng Anh do chính cô thêu.
Giữa khăn là một vết đỏ thắm.
Mở khăn ra, một ngón tay trắng nhợt!
Không lâu sau đó, công an xác định rằng vết đỏ ở khăn là máu của Nghê Phượng Anh, ngón tay ấy cũng là của cô.
Những người cư trú lâu năm tại Giang Kinh vẫn nhớ, trong những năm tháng yên bình ấy, vụ án Nghê Phượng Anh mất tích đã khiến bao người xót xa, đã trở thành đề tài bàn tán ở khắp nơi. Có một thời gian các cô gái trẻ không dám ra khỏi nhà buổi tối. Bấy giờ, một tờ báo chuyên viết về đời thường tên là Tin chiều Tân Giang liên tiếp đăng tin bài về vụ án này, cộng thêm các phim kinh dị, trinh thám chiếu rạp cùng thời như Vụ mưu sát số 405 hay Mây mù trên đỉnh Thần Nữ, khiến âm thanh rùng rợn của cái ác như thấm qua mặt báo mà tác động vào thần kinh của mọi người.
Hung thủ có thể là ai? Hồi đó người ta đoán già đoán non, có thể là bọn đặc vụ Mỹ-Tưởng vẫn nằm vùng ở đại lục từ ba mươi năm qua, có thể là tay chân của “bè lũ bốn tên” hoặc bọn xã hội đen Hồng Kông… Một suy đoán có vẻ thực tế hơn là, một gã trai trẻ nào đó cùng làm ở xưởng dệt với Nghê Phượng Anh đã yêu cô nhưng bị cô từ chối.
Nhưng dù hung thủ là ai, là nam hay nữ, thì cũng đã ẩn thân rất giỏi, vì hắn vẫn là một câu đố không lời đáp, tung tích Nghê Phượng Anh vẫn mịt mùng.
Truyền thông và dân chúng đều chỉ có trí nhớ ngắn hạn, nhất là trong thời đại xã hội đang phát triển rầm rộ, ai cũng tất bật với vô vàn thay đổi từng ngày. Vài ba năm sau, họ đã dần quên khuôn mặt xinh xắn hiền hòa của Nghê Phượng Anh.
Thế rồi ba năm sau, một buổi tối mùa hè, Mã Vân bỗng nhiên mất tích.
Mã Vân là cô giáo iểu học mới vào nghề một năm. Vào buổi tối mùa hè bất hạnh ấy, khi Giang Kinh đang phải chịu cái nóng ghê gớm chưa từng thấy suốt nhiều năm qua, Mã Vân và mấy cô bạn ra bờ sông Thanh Anh hóng mát, nghịch nước… giống hàng trăm người dân khác của thành phố. Đùa nghịch mãi, rồi nóng bức, Mã Vân xung phong lên đê mua kem về cho mọi người, nào ngờ cô ra đi không bao giờ trở lại.
Người đầu tiên liên hệ hai vụ Nghê Phượng Anh và Mã Vân với nhau là Trần Ngọc Đống, một công an ở khu Văn Viên. Anh công an trẻ tuổi thường được gọi là “chú em” này trước đó đã từng tham gia điều tra vụ Nghê Phượng Anh. Khi phần lớn đồng nghiệp cho rằng Mã Vân là vụ án riêng rẽ thì Trần Ngọc Đống đã lờ mờ nhận ra sự liên quan giữa hai vụ mất tích cách nhau ba năm này, anh bèn báo cáo lãnh đạo về sự suy đoán mạnh dạn của mình, nhưng lại phải nghe một cuộc “trao đổi” sâu sắc và tình cảm, “Vụ Nghê Phượng Anh chưa phá được không phải là lỗi của chú em. Trước giờ thời nào chẳng có những vụ bế tắc không thể đóng hồ sơ, chú khỏi cần canh cánh bên lòng hay ngờ vực nhiều như thế. Huống chi, vụ Mã Vân do công an Tân Giang phụ trách, chúng ta chỉ phối hợp tìm hiếm, thu thập tin tức do quần chúng báo lên, còn việc trinh sát cụ thể thì Văn Viên chúng ta không thể nhúng tay vào.” Đúng là thế, Mã Vân cư trú ở Tân Giang, Trần Ngọc Đống không có cơ hội tham gia vào vụ này. Về đến ký túc xá, anh mở cuốn sổ “Ghi chép công tác” ra viết một câu, “Mình có linh cảm rằng chẳng mấy chốc dự đoán của mình sẽ được chứng minh là đúng.”
Thật không may, linh cảm của Trần Ngọc Đống hoàn toàn chính xác. Mã Vân mất tích đến ngày thứ năm thì một bưu kiện được gửi về gia đình đang nóng lòng như lửa đốt của cô.
Đó là một cái hộp giấy, bên ngoài chỉ ghi họ tên địa chỉ người nhận, không ghi bất cứ thông tin gì về người gửi.
Dù cảnh sát đã dặn tình hình thế nào cũng phải trình báo ngay, cha Mã Vân vẫn quên bẵng, ông hấp tấp mở luôn cái hộp, kêu to một tiếng rồi ngã lăn ra.
Mẹ Mã Vân đi chợ vắng, một bác hàng xóm đã về hưu nghe tiếng kêu bèn chạy vội sang đỡ ông dậy. Ông Mã chưa bất tỉnh, mà chỉ bị sốc do huyết áp cao, ông nắm tay bác hàng xóm nói, “Mau báo cảnh sát… cái hộp kia… bác đừng nhìn nó… và đừng kể cho nhà tôi biết…”
Bác hàng xóm bèn gọi người, rồi tìm tổ trưởng dân phố, cảnh sát khu vực… tuy nhiên bác vẫn không quên nhìn trộm vào cái hộp bí ẩn kia. Loài người là loài động vật tiến hóa không ngừng nhờ biết tò mò, dù rằng trong đại đa số trường hợp tò mò xong họ đều hối hận.
Bác già vừa tốt bụng lại vừa tò mò ấy nhìn vào hộp giấy. Chỉ nhìn một tích tắc mà ác mộng đeo bám bác suốt hơn hai mươi năm, đến tận khi bác qua đời.
Một cái khăn tay màu lục nhạt.
Một vết đỏ sẫm trên cái khăn.
Bên cạnh nó là một ngón tay trắng nhợt.
Công an thành phố thành lập tổ chuyên án, do một trong các phó giám đốc sở trực tiếp chỉ huy. Họ tổ chức trinh sát, phục kích suốt ngày đêm. Trần Ngọc Đống, vì có chút ít kinh nghiệm và bài học từ vụ Nghê Phượng Anh, nên được công an Văn Viên đề cử tham gia tổ. Tổ chuyên án tìm kiếm kiểu cuốn chiếu, rà soát gần như từng mét vuông suốt dải bờ sông hiện trường, nhưng không tìm thấy bất cứ manh mối nào về Mã Vân.
Cô có còn trên đời này không, hay đã biến thành một cái xác?
Tại sao hung thủ phải gửi về nhà chiếc khăn tay của người bị hại? Tại sao hắn lại chặt một ngón tay của cô?
Hai vụ án có do cùng một hung thủ gây ra không?
Hung thủ không để lại dù là một vết tích. Hắn là sát thủ “chuyên nghiệp” trong truyền thuyết chăng? Nghe chừng là chuyện chỉ xuất hiện trong phim xã hội đen do các lò sản xuất băng đĩa chui làm ra, chứ ở Giang Kinh thì chưa từng nghe nói đến. Tại sao lại giở thủ đoạn gây án chuyên nghiệp với hai cô gái rất bình thường? Hung thủ và nạn nhân có quan hệ gì? Hắn là một kẻ tâm thần cuồng sát ngẫu nhiên, hay là kẻ gây án có chủ đích có mục tiêu?
Những câu hỏi đại loại như thế đều được ghi trong cuốn sổ tay của Trần Ngọc Đống, anh viết kín đặc bốn trang giấy. Và vẫn còn rất nhiều câu hỏi anh chưa viết vào đây.
Cảnh sát thành phố Giang Kinh đã dốc toàn bộ lực lượng và tâm trí nhưng kết quả vẫn như vụ án Nghê Phượng Anh, không thể đóng hồ sơ. Mã Vân cũng như Nghê Phượng Anh đã biến mất khỏi thế giới này.
Trần Ngọc Đống vừa ngao ngán vừa phẫn nộ, mất ngủ liền mấy đêm, anh viết vào sổ tay, “Vụ án còn lâu mới dừng ở đây được. Tôi sẽ dốc hết sức lực đời mình để lôi tên hung thủ ác ma ra trước ánh sáng công lý.”
Thật không may, một lần nữa dự đoán của Trần Ngọc Đống lại đúng.
Chưa đầy hai năm sau, mùa xuân năm 1985, một cô gái tên là Tiết Hồng Yến mất tích. Lại cái hộp giấy, một khăn tay dính máu, và một ngọn tay trắng nhợt khiến người ta khiếp đảm.
Vụ án lại làm chấn động Giang Kinh, lại đẩy ảnh hưởng của tờ Tin chiều Tân Giang lên một tầm cao mới, và lại khiến mạch máu của Trần Ngọc Đống căng phồng. Sở Công an tai1p lập tổi chuyên án, Bộ Công an cũng cử chuyên gia xuống, cảnh sát toàn thành phổ tiếp tục lao vào trinh sát khám phá. Lần này Sở hạ quyết tâm chặn đứng tội ác, vụ án tàn bạo này mà không phá được thì sẽ gây cho người dân ấn tượng rất xấu, rằng công an chẳng hề tài ba như người ta tưởng, và sẽ kích thích làn sóng phạm tội đang dần nổi lên trong xã hội. Cho nên khẩu hiệu của tổ chuyên án là, Nhân dân tất thắng! Công an nhân dân tất thắng!
Năm ngoái ngoài tờ Tin chiều Tân Giang ra, còn có vài tờ nguyệt san về pháp chế cũng ăn theo, họ đặt cho loạt vụ án nói trên cái tên rất “văn học đại chúng” là “Vụ án ngón tay khăn máu”. Sau khi miêu tả sinh động hai trường hợp Nghê Phượng Anh và Mã Vân, họ còn tung ra những phỏng đoán sạc mùi tiểu thuyết về sự mất tích của Tiết Hồng Yến. Trong quá trình “sáng tác” này, những tình tiết thực hư về đời tư và gia đình của cả ba cô gái bị khai thác triệt để.
Chẳng nói cũng biết, khi Bộ Công an và Sở Công an tuyên bố rằng, nhờ nỗ lực phối hợp của cảnh sát toàn thành phố, vụ án “ngón tay khăn máu” đã được phơi bày, hung thủ bị đưa ra xét xử… thì tở Tin chiều Tân Giang và mấy trang tạp chí pháp chế kia phấn khích đến nhường nào!
Càng không khó để hình dung rằng mọi tình tiết về đời tư, gia đình… của hung thủ sẽ không thể bị bỏ sót.
[1] Mạng xã hội phổ biến ở Trung Quốc
Chương 4: “Ngón tay khăn máu” Tái Xuất
Hung thủ là La Cường, 29 tuổi. Theo ảnh đăng trên tờ Tin chiều Tân Giang, hắn có khuôn mặt dài hình tam giác ngược, trán rộng má vát cằm nhọn, hai mắt cách xa nhau đầy vẻ tàn bạo, mũi sư tử, đôi tai vểnh, càng tăng thêm nét hung ác. Nếu cho hắn đứng chung với chục thanh niên bất kỳ, rồi bảo anh “chọn” ra một tội phạm giết người, tin rằng anh sẽ không do dự chỉ vào mặt La Cường nói, “Là thằng này!”
Chắc chắn anh không chọn nhầm, vì anh còn chưa biết một điều rất có sức thuyết phục, hắn từng có tiền sự về tội lưu manh.
Không chỉ La Cường có tiền sự lưu manh, mà La Dực Vũ cho hắn cũng có tiền sự lưu manh.
“Cha yêng hùng con hảo lớn”, không cần học về gen anh cũng biết đã không bắt nhầm người.
Trần Ngọc Đống đã là tổ phó tổ chuyên án, là người có công lớn bắt được La Cường đưa về xử lý. Trong cuộc họp biểu dương các tấm gương tiên tiến, người ta được biết Trần Ngọc Đống đã từng thức trắng sáu đêm liền để phá vụ án này. Sau hai phen “trắng tay” khi trước, Trần Ngọc Đống hiểu ra rằng càn quét kiểu cuốn chiếu hoặc huy động “toàn dân tham gia” khó có thể có kết quả. Nếu không vận dụng kỳ binh, không phát huy mở rộng tư duy thì khó mà phá giải được vụ án hết sức mơ hồ này.
Số lượng người bị hại đã cung cấp điều kiện có lợi cho việc tổng kết và quy nạp, ba cô gái này có những điểm chung gì?
Trước tiên là địa điểm mất tích, đều ở khu Tân Giang, chứng tỏ hung thủ tương đối quen và cảm thấy gây án ở vùng này sẽ an toàn. Cho đến giờ hắn vẫn chưa để lộ mảy may dấu vết, chứng tỏ hắn tính toán kín kẽ, hành động cẩn thận. Một kẻ như hắn sẽ không ra tay ở địa điểm lạ, không mù quáng tùy tiện trong việc chọn nạn nhân, cũng không phải là bột phát gây án mà đã có toan tính rất kỹ, cho nên mới không hề để lại dấu vết giằng co vật lộn. Những điều này đồng thời cho thấy, một là, hung thủ có thể đã được đi học ở mức độ nào đó, hai là rất có thể hắn và ba cô gái này ít nhiều có tiếp xúc với nhau.
Mặt khác, sử dụng thủ đoạn tàn nhẫn như thế, lại liên tiếp gây án vài lần, chứng tỏ hắn không phải lần đầu phạm tội. Các chuyên gia của Bộ, của công an tỉnh và công an thành phố đã giúp tổ chuyên án phân tích rằng, hành vi phạm tội của hung thủ trọng án thường nâng cao dần, và đều có những đặc trưng trước khi phạm tội, vì dụ, bọn cướp đường sông đều bắt đầu từ những kẻ từ bé đã trộm cắp vặt, những kẻ sát nhân tàn độc đều bắt đầu từ đánh nhau ẩu đả…
La Cường có đầy đủ những đặc trưng này.
Cha hắn là La Dực Vũ, trước 1949, khoảng 17-18 tuổi đã trở thành tên du côn khét tiếng ở vùng Tân Giang, chỉ huy hơn trăm tên đàn em. Không phải y có sức khỏe đặc biệt hay là con nhà nòi xã hội đen, mà vì y có cái đầu tinh quái hơn người cùng khả năng nắm bắt thời cơ. La Cường “thừa kế” bộ óc ấy của La Dực Vũ, hắn học rất nhanh nghề sửa chữa đồ điện gia dụng và mánh khóe buôn bán, mở cùng lúc một cửa hàng thời trang và một ảnh viện, mau chóng kiếm được tiền, lại bắt tay mở hàng ẩm thực và bách hóa nho nhỏ, ngầm chiêu binh mãi mã rồi làm một tên trùm giữa vùng giáp gianh hai khu Tân Giang và Văn Viên. Không ai ngờ rằng hắn còn dư sức tự ôn rồi dự thi đại học dành cho người lớn tuổi, rồi lấy được bằng tốt nghiệp. Tấm bằng đại học cao đẳng vào những năm ấy gần như một huyền thoại, nó “có giá” hơn cả cử nhân chính quy thậm chí thạc sĩ tiến sĩ ngày nay.
Vốn có câu “thỏ khôn có ba hang”, với hiệu thời trang, ảnh viện, hiệu ăn, bách hóa cơ khí… La Cường có đến 100 hang!
Ngay từ khi điều tra vụ án Nghê Phượng Anh, Trần Ngọc Đống đã để mắt đến La Cường. Hắn không chỉ là bạn cùng học lớp ban đêm với Nghê Phượng Anh mà còn từng cặp kè với cô ở sân trượt băng nhân tạo. Về sau nghe nói cô có bạn trai là một cảnh sát vũ trang nhân dân thì hắn không bám riết nữa. Khi trước Trần Ngọc Đống không có thêm chứng cứ gì để nghi ngờ La Cường nên anh gác lại cho qua.
Ba năm sau, một cô bạn của Mã Vân kể lại, trong buổi tối mùa hè mà Mã Vân mất tích ở bờ sông, La Cường cùng mấy gã bạn có đi qua và đề nghị mua nước ngọt cho mấy cô gái, nhưng các cô đã khéo léo từ chối. Tương tự lần trước, Trần Ngọc Đống không có chứng cứ gì để nghi ngờ La Cường liên quan đến sự việc Mã Vân mất tích. Các bạn của hắn đều quả quyết khai rằng cả tối hôm đó La Cường chỉ đi chơi cùng họ.
Tiết Hồng Yến đã từng làm nhân viên bán hàng ở tiệm thời trang của La Cường. La Cường có cả bầy gái gú, và tật háu gái của hắn chẳng phải bí mật với ai. Không có gì đảm bảo rằng họ không dan díu, nhưng dẫu sao đây cũng chỉ là phỏng đoán.
Sau khi ba cô gái mất tích, La Cường không có biểu hiện gì khác thường, cuộc sống giang hồ vẫn tiếp tục. Nhưng khi việc điều tra vụ Tiết Hồng Yến tưởng chừng bế tắc thì cảnh sát khẳng định La Cường là hung thủ.
Về lý thuyết, La Cường phù hợp là hung thủ nhưng cảnh sát không thể dùng “lý thuyết” để còng tay hắn.
“Lý thuyết” thôi thúc Trần Ngọc Đống thuyết phục được một gã lâu la của La Cường, điều động hắn theo sát La Cường và thu thập mọi chứng cứ liên quan đến vụ án “ngón tay khăn máu”, hễ có được thì báo cáo, chưa có thì thôi.
La Cường vốn ham chụp ảnh, ảnh viện là một trong những nền tảng để hắn làm nên cơ nghiệp. Chân rết của Trần Ngọc Đống đã tìm thấy trong buồng tối của ảnh viện ba tấm ảnh của Mã Vân!
Và cả vài tấm ảnh của Tiết Hồng Yến nữa!
Nhìn góc chụp và vẻ mặt hai cô gái trong ảnh, có thể kết luận đây là những tấm ảnh chụp lén. Tin được báo ngay cho Trần Ngọc Đống. Sau đó, vào lúc chập tối yên tĩnh, hơn hai mươi chiến sĩ cảnh sát chia nhóm xông vào nhà La Cường bắt tên nhà giàu đã lộ rõ bản chất lưu manh này, vài cảnh sát khác xông vào buồng tối của ảnh viện.
Họ phát hiện rất nhiều ảnh thiếu nữ, đều là ảnh chụp lén từ cự li xa.
Kể cả ảnh của Nghê Phượng Anh năm năm về trước.
Chứng cứ đã rõ ràng, La Cường “vừa khéo” khớp với những nạn nhân của vụ án “ngón tay khăn máu”, tất nhiên có thể suy luận là hắn đang đi tìm con mồi mới. Những tấm ảnh này như sổ tay ghi chép của hắn. Hắn không phủ nhận các tấm ảnh, và lý sự rằng mình thích chụp ảnh các cô gái xinh, xuất phát từ đam mê cái đẹp, ai chẳng thích cái đẹp? Làm thế là phạm pháp hay sao?
Thẩm vấn liên tục mà không thắng được ý chí rắn đanh của La Cường, hắn gan lì đến cùng, quyết không nhận tội. Cảnh sát mở r6on5g và di sâu thẩm vấn, mấy tên đàn em ngày trước nói La Cường đi chơi cả đêm với chúng, nay thấy tình thế nguy ngập bèn “khai lại” không cam đoan như thế nữa. Thực ra những buổi tối xảy ra các vụ mất tích, La Cường đi đâu không ai biết. Có lẽ hắn đang rửa ảnh trong buồng tối, hoặc hắn đang ở với một trong các cô bạn gái khác, hoặc hắn đang gây án “ngón tay khăn máu” cũng nên. Có vô số khả năng, và chính hắn cũng không thể chứng minh mình không hề dính líu.
La Cường một mực cãi phăng, vẫn rất bình tĩnh. Không thể chứng minh mình vô tội, không có nghĩa là thừa nhận mình có tội.
Khi cả cảnh sát lẫn La Cường đang ở thế giằng co thì người ta đã tìm thấy trong hang ổ của La Cường mộ chứng cứ đầy sức nặng.
ở khu Văn Viên gần Đại học Công nghiệp Giang Kinh có một cửa hàng kim khí do một trợ thủ của La Cường kinh doanh, cảnh sát tìm thấy trong thùng rác đặt ở con hẻm bên cạnh có chiếc quần bảo hộ lao động cũ kỹ. Cảnh sát hình sự tìm thấy vết máu dính ở cái quần này. Vết máu đó đã rung tiếng chuông báo tử cho La Cường.
Các sợi tóc, các tế bào da... chứng minh quần này là của La Cường. Kết quả xét nghiệm vết máu, chứng minh đó là máu của Tiết Hồng Yến.
Chứng cứ tuy đanh thép nhưng La Cường vẫn phủ nhận. Máu của Tiết Hồng Yến mà có thể dính vào quần hắn! Hắn cười khẩy nói Tiết Hồng Yến là bồ của hắn, cô ra rất quái đản, nên phải tẩn cho một trận để cô ta biết điều, chỉ chảy máu xước da thì chết sao được?
Hắn đã phủ nhận hành vi gây án, tất nhiên càng không thể nói gì về tung tích của ba nạn nhân.
Cho đến ngày bị đưa ra trường bắn, hắn vẫn không hề tỏ ra hối cãi.
Tung tích của ba cô gái cũng tan biến cùng tiếng súng xử tử.
Sau năm mùa nóng lạnh, vụ án “ngón tay khăn máu” đã trở thành lịch sử. Thỉnh thoảng cũng có vài cô gái mất tích, có cô giận gia đình nên bỏ nhà ra đi, có cô trốn theo người tình, có cô bị lừa bán về vùng nông thôn hẻo lánh làm vợ người ta… nhưng đều không có tình tiết “ngón tay khăn máu”. Theo đà phát triển kinh tế, người dân Giang Kinh bận bịu với đời sống đã dần quên lãng vụ trọng án từng gây xôn xao một thời.
Nhưng vào mùa hè năm 1990, vụ án “ngón tay khăn máu” lại tái diễn.
Một nữ sinh đại học tên là Quan Tinh mất tích. Hai tuần sau, một gói bưu phẩm gửi đến nhà, lại là chiếc khăn tay dính máu và một ngón tay trắng nhợt.
Giang Kinh thêm một phen kinh hãi.
Hay là La Cường không phải hung thủ của vụ chặt ngón tay, hắn đã bị xử oan sai? Tờ Tin chiều Tân Giang nêu câu hỏi này, lãnh đạo Bộ Công an, Sở Công an và cả Trần Ngọc Đống cũng ngờ ngợ.
Anh tự hỏi phán đoán của mình ngày trước có nhầm lẫn gì về trình tự trinh sát hình sự không? Rõ ràng là các chứng cứ rất xác đáng, La Cường là hung thủ của vụ án. Được lãnh đạo công an quận và công an thành phố khuyến khích, anh nhận lời phỏng vấn của tờ Tin chiều Tân Giang, đối mặt với những câu hỏi sắc sảo của phóng viên.
“Theo đánh giá của anh, có bao nhiêu phần trăm khả năng công an đã giết nhầm La Cường?”
“Không phần trăm.” Trần Ngọc Đống bình tĩnh đáp, khiến phóng viên cảm thấy bất ngờ.
“Vậy thì nên giải thích thế nào về vụ án ‘ngón tay khăn máu’ mới xuất hiện?”
“Là mô phỏng.”
“Mô phỏng?”
“Trong và ngoài nước xưa nay không thiếu những vụ việc tương tự, hung thủ bắt chước các vụ án ‘nổi tiếng’ để thỏa mãn mục đích của mình là hành hung, tạo ra ‘vụ án lớn’ khiến dư luận chú ý. Chục năm về trước vụ án ‘ngón tay khăn máu’ chấn động Giang Kinh thậm chí toàn quốc, rất ‘nổi tiếng’, vì thế có kẻ mô phỏng thì cũng không có gì là lạ.”
Lập luận “mô phỏng” của cảnh sát không phải là vô căn cứ. Ba ngón tay trong ba vụ án trước kia được phòng kỹ thuật xác định là dùng dao sắc chặt đứt, còn ngón tay của Quan Tinh thì có nét khác biệt về vết cắt, hung thủ đã dùng một sợi thép nhỏ và cứng thít cho đứt ngón tay! Xét từ đặc điểm này, thấy rằng không chỉ là mô phỏng mà còn nâng cấp sự tàn nhẫn.
Cũng không ai có thể ngờ, trong 19 năm sau thời La Cường, cái lối mô phỏng này đã gây ra 9 vụ án “ngón tay khăn máu”, 9 cô gái mất tích, 9 ngón tay cắt rời, 9 gia đình tan nát với bao đau thương vô tận. Tính cho đến nay cả thảy có 12 vụ án rất giống nhau, vụ cuối cùng xảy ra năm 2009.
Cảnh sát cảm thấy bối rối, vì trong 9 ngón tay kia có 3 ngón tay bị dao cắt, 6 ngón tay bị sợi dây thép thít đứt. Có vẻ là hung thủ khác nhau thì dấu ấn để lại cũng khác nhau.
Gần đây các cô gái không mang khăn mùi xoa theo người nữa thì người nhà lại nhận được ngón tay gói trong khăn quàng hoặc áo lót, và vẫn dính một vệt máu đỏ khiến người ta kinh hãi.
Người nhà nạn nhân và cảnh sát đều rất đau đầu bởi trạng thái mù mờ không biết nạn nhân còn sống hay đã chết. Na Lan đoán rằng sau nhiều năm vẫn còn một số người thân của nạn nhân đang mong ngóng con cháu mình trở về. Nhưng những người làm nghiệp vụ liên quan đến tội ác và trừng phạt đều biết, nhiều khả năng là các cô gái đó đã bị sát hại cả rồi.
Có rất nhiều vụ án bạo lực, nhưng không mấy vụ hơn được “ngón tay khăn máu” về độ tàn nhẫn và ghê rợn.
Bóng đen của hung thủ, đến giờ vẫn còn nhơn nhơn ngoài vòng pháp luật.
Ba Du Sinh đã chuyển hết những tư liệu này cho Na Lan qua hòm thư bảo mật, cô cũng đọc ngay trong đêm. Trong số đó có rất nhiều tư liệu là sổ tay công tác của người cảnh sát gì Trần Ngọc Đống. Khi về hưu, ông đã trao các tư liệu liên quan cho Sở Công an Giang Kinh. Các tổ viên Tổ trọng ánh của Đội Cảnh sát Hình sự ở Sở đều biết, loạt vụ án nghiêm trọng kéo dài ba mươi năm gần như “không manh mối”, gần như hết hy vọng rồi, nhưng Ba Du Sinh tổ trưởng của họ vẫn quyết không gạt sang một bên.
Đó là nét đặc sắc, là thế mạnh khiến Ba Du Sinh trở thành một cảnh sát hình sự xuất sắc, nhưng có lẽ nó cũng là trở ngại khiến anh không thể thăng tiến - đôi khi anh rất cố chấp, nhất định không đổi ý. Mấy năm gần đây dân số thành phố tăng nhanh, cơ cấu xã hội không ổn định, các vụ án lớn chấn động Giang Kinh cũng nhiều lên, nhiệm vụ “dập lửa” của công an các cấp càng thêm nặng nề, họ đặt trọng tâm vào những vụ việc gay cấn mới phát sinh và những sự kiện cần xử lý gấp. Ngoài thời gian thực hiện nhiệm vụ khẩn cấp, Ba Du Sinh không dành nhiều thời gian và sức lực để giao lưu với các nhân vật quan trọng nhằm chuẩn bị cho bước thăng tiến tiếp theo, mà chỉ mải mê với các vụ án cũ bế tắc, rồi chìm sâu vào đó không thể dứt ra. Lập luận của anh là, phá được các vụ án tồn đọng là thử thách đỉnh cao đối với nghị lực và trí lực của trinh sát hình sự và cũng là tiêu chí quan trọng để đánh giá tác phong của cảnh sát hình sự.
Vụ án “ngón tay khăn máu” đã thành lịch sử, nhưng vụ cuối cùng trong loạt vụ án này chỉ cách đây bốn năm, chưa thể gọi là cũ, Ba Du Sinh tất nhiên không bỏ qua.
Dù rằng trong bốn năm đó không hế có một manh mối nào.
Mãi cho đến hôm qua.
Lão già phạm tội hiếp dâm khét tiếng đang nằm chờ chết ở buồng bệnh nặng này bỗng nói với cảnh sát rằng, lão biết tung tích của các nạn nhân trong vụ án “ngón tay khăn máu”.
Khi cảnh sát tiến hành thẩm vấn ngay tại giường bệnh, lão không nói 12 cô gái kia sống chết ra sao, cũng không nói ai là hung thủ của hàng loạt vụ án man rợ ấy, lão chỉ nói mình biết tung tích của các nạn nhân.
Và, chỉ muốn kể cho một mình Na Lan biết.
Chương 5: Thương Hiệt
Lúc này, qua cửa kính, Na Lan đang quan sát khuôn mặt không còn chút sinh khí nào của Mễ Trị Văn. Sau một lúc im lặng, cô thấy mình đã bình tĩnh trở lại, bèn nói, “Các anh loại trừ Mễ Trị Văn à? Hình như sau khi ông ta bị bắt thì loạt vụ án ‘ngón tay khăn máu’ cũng chấm dứt...”
Ba năm trước, hồi bắt lão, cảnh sát đã từng coi lão là nghi phạm số 1 và tiến hành thẩm vấn rất vất vả. Nhưng lão một mực phủ nhận, cảnh sát cũng không tìm ra chứng cứ gì. Ví dụ đơn giản thế này, theo lý luận và kinh nghiệm thực tiễn thì kẻ giết người hàng loạt, nhất là những kẻ bệnh hoạn gây án kiểu ‘ngón tay khăn máu’, rất hay nổi tính điên rồ thu thập ‘chiến lợi phẩm’ của mình, tức là kiểu gì cũng có chứng cứ...”
“Ví dụ lưu trữ ảnh các cô gái giống như La Cường năm xưa ấy à?” Na Lan đã đọc hết các tư liệu về vụ án nhưng cô vẫn hoài nghi một điều, La Cường có phải là sát thủ các vụ án “ngón tay khăn máu” ngày trước thật không? Nếu đúng là hắn đã giết ba cô gái kia... thì những hung thủ sau này là kẻ “mô phỏng”? Đã mô phỏng gần như y hết, và còn cao siêu hơn nữa, suốt gần 20 năm vẫn không để lộ một dấu vết nào. Nếu La Cường vốn dĩ không phải là hung thủ thì hóa ra địa ngục lại có thêm một oan hồn hay sao?
Ba Du Sinh khẽ thở dài, “Đại khái là thế này... La Cường có lén chụp ảnh các cô gái nhưng không thuộc dạng ‘chiến lợi phẩm’, mà chỉ giống như một thứ sở thích đồi bại... Về phương diện này thì Mễ Trị Văn lại rất ‘sạch sẽ’. Lão thuê một căn hộ chung cư bé tẹo, đồ đạc chẳng có mà bụi bặm cũng không, cứ như nơi tọa thiền của nhà tu khổ hạnh. Ngoài ra, nếu nói lão can tội ‘cưỡng dâm’ thì cũng chưa thật chuẩn, vì mọi lần cưỡng bức đều ‘chưa thành’; cách đây bốn năm lão mới có hành vi xâm hại. So với hung thủ của vụ án ‘ngón tay khăn máu’ thì hình như... lão còn thua xa.” Ý anh nói là về mức độ tàn ác. “Cho nên, dù bọn anh có cả ngàn lý do để nghi ngờ lão là hung thủ vụ án ‘ngón tay khăn máu’ thì vẫn không có một chứng cứ nào để kết tội cả.”
“Huống chi hiện giờ lão được bảo hộ nhờ nhãn mác bệnh thần kinh!” Na Lan cảm thấy ngữ điệu châm chọc pha lẫn căm giận lại xuất hiện trong câu nói của mình, nhất thời quên bẵng hết mọi “tu dưỡng” về tâm lý tội phạm học và thần kinh học, nghe giọng rất oán hờn.
Ba Du Sinh không chỉ trích gì cô. Anh nói, “Lão có tiền sử bệnh tâm thần phân liệt từ hơn 25 năm trước, chứ không phải sau khi bị bắt mới ‘ngẫu nhiên mắc bệnh’. Các bác sĩ cũng xác nhận là đúng. Nhưng tại sao vào lúc này lão lại muốn nói về vụ ‘ngón tay khăn máu’? Bọn anh thấy khó hiểu và cũng có ý cầu may...”
“Con quạ sắp chết, tiếng kêu cũng bi ai chăng[1]?” Na Lan nói “quạ” ám chỉ cảnh ngộ của Mễ Trị Văn. “Có thể, lão chính là hung thủ, sắp chết đến nơi nên muốn sám hối phần nào.”
[1] Nhại một câu cổ ngữ: Người sắp chết, tiếng kêu thật buồn thương.
Hình như Ba Du Sinh cũng hơi nhếch mép. “Đã nhiều lần gặp lão rồi, nên bọn anh chẳng trông mong gì nhiều. Nói đến trạng thái của lão hiện giờ, anh ví von hơi khó nghe nhưng cũng rất sát, lợn đã bị chọc tiết thì chẳng sợ nước sôi! Lão biết mình sắp toi đến nơi, cảnh sát thì không thể gây thêm sức ép bắt lão cung khai, lão luôn luôn kháng cự mọi cuộc thẩm vấn của cảnh sát.”
“Vậy thì khi vào, việc đầu tiên em nên làm là cảm ơn lão đã chiếu cố!” Na Lan bỗng không nhận ra mình nữa, cô đã biến thành chua ngoa tự lúc nào thế này.
Ba Du Sinh cảm thấy nặng nề, “Anh cho rằng... khỏi cần anh nói em cũng thừa hiểu, tiếp xúc với lão chẳng vui vẻ gì, thậm chí còn mắc bẫy của lão. Cho nên... em hãy cẩn thận, không rõ lão có ý đồ gì mà cứ đòi gặp em...”
“Em đã chuẩn bị rồi.” Na Lan bước đến cửa buồng bệnh.
Ba Du Sinh, “Nhớ là, đừng gọi lão là Mễ Trị Văn.”
“Chào ông... Thương Hiệt! Ông Thương Hiệt?” Na Lan bước đến bên giường, khẽ gọi. Cô đã đọc bản tổng kết về bệnh sử của Thương Hiệt, đúng như Ba Du Sinh nói, đã 26 năm mắc bệnh tâm thần phân liệt, trước khi bị bắt lão là khách quen của bệnh viện tâm thần. Cảnh sát nhà tù báo cáo rằng nửa năm nay sức khỏe của lão xuống dốc, thường xuyên phải nằm, phát rồ phát dại mỗi ngày một nhiều. Cũng từ nửa năm nay, Mễ Trị Văn nằm giường miệt mài nghiền ngẫm chữ cổ, lão có thể không ăn không ngủ mấy ngày liền, nhưng hôm nào cũng vùi đầu vào đống giấy cũ kỹ. Dần dần, lão khó chịu với ba chữ “Mễ Trị Văn”, lão chỉ cho phép người khác gọi lão là Thương Hiệt.
Cứ như là Mễ Trị Văn đã chết, còn Thương Hiệt thì tái thế[2].
[2] Tương truyền rằng Thương Hiệt là người nghiên cứu và sáng tạo ra chữ hán.
“Thương Hiệt” nằm trên giường, mắt nhắm tịt như đang ngủ say.
Có phải, ma quỷ đang ngủ cũng yếu ớt, nhất là hạng ma quỷ sắp tàn đời như nắm tro than leo lét? Na Lan nhìn cái chụp ô xi gắn ở mũi lão, kim truyền dung dịch cắm ở tay lão, lại nhìn bình ô xi, rồi nhìn tập giấy và mấy cuốn sách đặt trên cái tủ đầu giường, sách cổ văn, thơ, từ và một cuốn sách nhạc cổ mà sau này Na Lan sẽ được xem ở cơ quan cảnh sát, trong đó chi chít những ký hiệu kỳ quái lạ hoắc, là kiểu ghi nốt thường gặp trong các bản nhạc dành cho nhạc cụ cổ điển.
Trong buồng chỉ có cô và ba bệnh nhân sắp “đứt” đến nơi nằm trên ba cái giường.
“Cô định rút bỏ ống thở ô xi và ống truyền dịch của tôi, đúng không?” Thương Hiệt đang nhắm mắt bỗng mở miệng. Na Lan phát hoảng, nỗi sợ hãi lúc nãy lại trở lại với cô, cô bất giác giật lui mấy bước.
“Sao thế?” Na Lan tự nhắc nhở mình, lão là tên tội phạm cưỡng dâm, chưa bị coi là hung thủ thực sự của vụ án “ngón tay khăn máu”, có lẽ mình không cần phải sợ. Nhưng bản chất tà ác ma quỷ của con người ta đâu có thể cho là nặng hay là nhẹ?
“Cô định rút bỏ ống thở ô xi và ống truyền dịch của tôi.” Thương Hiệt nhắc lại. Na Lan nhanh chóng thầm chẩn đoán, đây là biểu hiện chứng hoang tưởng bị hại - một trong những triệu chứng điển hình của bệnh tâm thần phân liệt.
“Tôi không có quyền làm thế.” Giọng Na Lan rất bình tĩnh.
“Nhưng cô định làm thế. Không phải là có quyền hay không. Tôi biết... cô đã đoán tôi là ca tâm thần phân liệt điển hình, luôn hoang tưởng mình bị bức hại. May mà cô chỉ làm về tâm lý, nếu cô là bác sĩ thần kinh thì cô đã kê đơn cho tôi rồi...” Lão hơi rướn lên, ra hiệu cho Na Lan đặt cái gối vào lưng lão.
Na Lan kinh ngạc hít vào một hơi thật sâu. Cô làm theo ý lão. Rổi khẽ nói, “Tôi khâm phục trí tưởng tượng của ông.”
“Không phải tưởng tượng, mà là sự thật! Ánh mắt cô thể hiện điều đó. Cô đã nhìn những cái ống này rất lâu, hệt như đứa trẻ con lần đầu vào xem bệnh viện. Tay cô đang run, như thể sẵn sáng chìa ra làm những động tác kiến các y tá phải phẫn nộ... cô quá biết mình định làm gì.”
Lúc này Na Lan mới nhận ra những “bài tập” mà Ba Du Sinh đưa cho cô vẫn chưa đủ. Tình trạng thật của Mễ Trị Văn lúc này là gì? Bệnh nhân tâm thần phân liệt? Diễn viên siêu hạng? Bậc thầy tâm lý nghiệp dư? Hay một Sherloch Holmes hạng bét?
Điều duy nhất cô có thể làm là giữ im lặng.
Nhưng Mễ Trị Văn đang có hứng nói chuyện, “Tất nhiên cô đã kiềm chế được ý muốn tệ hại, cô không dại đến nỗi ấy! Gã Ba Du Sinh đứng ngoài kia đang chăm chú quan sát chúng ta... cho nên, điểm khác biệt giữa những người gọi là bình thường như các vị với những kẻ bị gọi là bệnh nhân tâm thần như chúng tôi là, các vị giỏi tính toán hơn, giỏi che giấu hơn, giỏi kiểm soát tâm trạng nôn nóng của mình...” Thương Hiệt ngước đôi mắt đỏ vằn những tia máu chằm chằm nhìn Na Lan.
Trước ánh mắt quái dị, phản ứng bình thường của mọi người là đỏ mặt, nhưng Na Lan vẫn lạnh như băng.
Im lặng.
Chỉ tiếc im lặng chẵng thể là bùa phép át được nỗi sợ hãi.
“Ông nói là muốn kể với tôi về chuyện vụ án ‘ngón tay khăn máu’, tôi sẵn sàng nghe đây.” Na Lan mở túi lấy ra cuốn sổ tay và bút bi.
“Một cô gái xinh đẹp siêu phàm thoát tục như vô mà nói ra mấy chữ này... e hơi tục thì phải? Cứ như là bông hoa nhài mọc trên bãi... bãi rác.”
“Nếu ông có danh từ nào sát hơn, trang nhã hơn... tôi cũng sẵn sàng nghe.” Kiên nhẫn và giỏi chịu đựng là tố chất cơ bản của chuyên gia tâm lý.
“Thử nói xem, tại sao cô làm nghề này?”
“Sao?” Na Lan chưa chuẩn bị để trả lời những vấn đề riêng tư nếu lão ta hỏi.
“Năm xưa cô thi Đại học Khoa học Xã hội, đỗ thứ 3 toàn tỉnh, thừa sức chọn khoa Ngoại thương, Tài chính... cho dễ kiếm sống, nhưng cô lại chọn khoa Tâm lý và nghiên cứu chuyên sâu về Tâm lý học tội phạm, rất mệt và không ăn nhằm gì, tại sao? Để tôi nghĩ xem nào... chắc là vì hồi cô học cấp III cha cô bỗng nhiên bị hại, vụ án mạng ấy đến nay vẫn chưa khám phá ra, nó là cú sốc tác động đến cô và gia đình cô...”
“Gì cơ?” Đây là chuyện riêng tư đau đớn nhất của Na Lan.
“Hôm nay là Ngày máy trợ thính thế giới hay sao? Cô có cần tôi nhắc lại không?” Đôi mắt vằn đỏ nhìn thẳng vào Na Lan.
Đã vượt quá giới hạn, tất nhiên phải phản kích. Cô gấp sổ tay lại, nói, “Ông Thương Hiệt, tôi đồng ý đến gặp ông vì ông định nói về manh mối vụ ‘ngón tay khăn máu’, nếu ông không định nói về nó, mà chỉ muốn chuyện phiếm linh tinh về gia đình tôi... thì tôi sẽ không trả lời. Tôi cho rằng có lẽ ông biết nhiều chuyện riêng tư của tôi. Thế thì để hôm khác nói chuyện vậy.” Nếu cô ra về lúc này, thì đây là lần đầu và cũng là lần cuối gặp lão ta.
“Nếu thế thì công an sẽ thất vọng đấy!”
“Nhưng...” Na Lan hơi mỉm cười. “Tôi đã rất thất vọng rồi.”
Cô quay người bước đi.
“Bây giờ tôi có thể nói cho cô biết Nghê Phượng Anh ở đâu.” Chờ đến lúc Na lan đưa tay mở cửa buồng bệnh, lão Thương Hiệt mới nhượng bộ. Rõ ràng lão cũng không muốn mất cơ hội nói chuyện với một cô gái xinh đẹp.
Na lan vẫn quay lưng lại. “Được. Ông nói đi. Tôi vẫn nghe thấy.”
“Cô phải lại đây mà nhìn, sau đó cô sẽ biết rằng, chỉ nói thì không thể diễn tả được.” Giọng Thương Hiệt không gấp gáp, không nài nỉ, gần như một lới mời thành thực. Lúc này Na Lan mới nhận ra rằng, trái hẳn với bộ dạng già nua suy kiệt của mình, lão có giọng nói trầm bổng khá rõ ràng và hơi khàn khàn.
Na Lan bước đến bên giường của lão, giữ một khoảng cách, và sẵn sàng đi ra luôn.
“Cô thạo đe dọa, và rất quyết đoán.” Lão lẩm bẩm. “Nhiều cô gái thiếu sự quyết đoán, kết cục sẽ rất đáng buồn. Tôi vẫn đang nghĩ, liệu có phải đặc điểm này là bí quyết giúp cô ràng buộc được trái tim đa tình của Tần Hoài?” Tần Hoài là một văn sĩ đầy ắp duyên tơ với nữ giới, từng cùng cô tham gia một vụ án lớn hơn một năm về trước, giữa hai người cũng nảy sinh một thứ tình cảm rất tinh tế.
Na Lan cố nén ý định bỏ ra ngoài lần nữa, lạnh lùng nói, “Tôi chỉ có thể đợi thêm năm giây.”
Thương Hiệt giơ tay đầu hàng, tay run run nhấc cặp kính lão lên đeo, đoạn cầm tập giấy ở đầu giường rút ra vài tờ, nhìn qua rồi lắc đầu. Na Lan trông thấy trên tờ giấy là những hình vẽ kỳ dị, chắc là những chữ cổ mà lão nghiên cứu gần đây.
Cuối cùng Thương Hiệt cũng tìm ra tờ giấy cần thiết, lão chỉ vào một chữ trên đó, “Nó đây!”
Chữ này được ghép bởi ba chữ, trên cùng giống như chữ Nhân, bên dưới na ná như chữ Điền hoặc chữ Tỉnh, dưới cùng là chữ Thập.
Khi Mễ Trị Văn giở quẻ biến thân thành Thương Hiệt rồi tự nguyện thông báo sẽ tiết lộ các manh mối, chẳng ai loại trừ khả năng đây chỉ là trò bỡn cợt công an. Nay nhìn thấy chữ này, Na Lan gần như buồn cười vì kỹ năng diễn xuất quá vụng về của lão.
“Giải thích xem sao?”
“Nói cộc lốc thế à?” Thương Hiệt lim dim mắt, các tia máu cũng sít lại trong như hai vệt đỏ.
“Khi nào ông giành được sự tôn trọng của tôi...” Na Lan nghĩ bụng, chẳng rõ kiếp trước mình gây nên tội gì mà bây giờ phải vạ thế này.
Thương Hiệt mỉm cười, “Xấu tốt gì tôi cũng đã già cả, sống bao nhiêu năm gian khổ, dẫu không có công lao thì cũng cần lao...”
“Phiền ông giải thích cho!” Na Lan cười. lão tưởng lão giỏi thuyết phục lắm đấy à?
Thương Hiệt nhẩn nha nói, “Cô biết không, kể từ khi kế thức sự nghiệp của Thương Hiệt và miệt mài nghiên cứu cải tiến văn tự Hán, thì tôi không tư duy theo lối tuyến tính hay phân kỳ như người bình thường nữa, mà chuyển sang tư duy hình ảnh - kiểu tư duy tối quan trọng đối với cội nguồn văn hóa nhân loại. Đó chính là thiên ý, thiên tượng, là sự giao tiếp giữa con người và thần linh, cùng sự thấu cảm bất chợt… Chữ viết ra đời đã ghi chép tư tưởng và tri thức của thánh nhân, cũng tức là bóc trần những bí mật sâu xa của thiên địa vạn vật. Bởi vậy tương truyền sau khi Thương Hiệt đặt ra chữ viết thì xuất hiện vô số hiện tượng lạ lùng, thóc gạo trên trời rơi xuống, ma quỷ khóc than vì không còn nơi ẩn náu nữa…”
“Hiểu rồi, ý ông là…” Na Lan thấy lão lắc đầu có vẻ không bằng lòng, cô nói sang ý khác. “Ông định nói là không thể cắt nghĩa, không thể giải thích. Ông định nói không hiểu tại sao chữ này nảy ra trong đầu và ý nghĩa của nó là gì. Đây chỉ là linh cảm trên trời bỗng dưng rơi xuống, đúng không? Nó là một câu đố không lời giải chứ gì?” Ngay từ đầu cuộc nói chuyện, Na Lan đã không trông mong gì lão sẽ xởi lởi nói ra tất cả. Nếu đây là một trò chơi thì cô sẽ chấm dứt ngay.
Thương Hiệt tạo chữ nhưng không tạo ra điển tích của chữ, ngày không có trách nhiệm giải thích… tất cả những điều cô muốn biết đều nằm trong chữ này.”
“Ít ra cũng biết chữ này đọc ra sao chứ hả?” Na Lan muốn tìm hiểu thêm về mức độ điên rồ của Mễ Trị Văn.
“Lịch sự quá nhỉ?” Lão thở dài.
“Xin hỏi ông, chữ này đọc thế nào?”
“Đọc là chừa.” Lão trả lời ngay. Cứ như chữ này đã tồn tại từ ngàn năm qua.
Na Lan thầm nghĩ, nghe gần như “bừa” trong chữ “nói bừa”.
“Vậy mong ông cho biết, tung tích của các nạn nhân khác trong vụ ‘ngón tay khăn máu’?”
“Hết!”
“Hết rồi?”
Thương Hiệt gỡ cặp kính xuống, mở to đôi mắt vằn đỏ nhìn Na Lan, nói giọng ác độc, “Cô xem, có lẽ trời có thể mưa ra thóc gạo thật, thậm chí có thể mưa ra cái bánh to như Kinh Thánh nói, nhưng trời không thể ban linh cảm nhiều như mưa! Để có được chữ này, chữ diễn tả tung tích của Nghê Phượng Anh, tôi đã tiêu hao rất nhiều nguyên khí và công lực. Các linh hồn mịt mùng còn lại chưa phát tin nhắn cho tôi. Cho nên, nếu cô tìm thấy Nghê Phượng Anh, thì cô lại đến gặp tôi, biết đâu lúc đó tôi đã có được thêm linh cảm và thông tin.”
Lúc thì ra vẻ tử tế lúc thì thô bạo, chứng tỏ trạng thái tinh thần của lão rất không ổn định.
Nhận ra nhược điểm này, Na Lan thấy mình bình tĩnh hơn nhiều, cô khẽ nói, “Có liên… ông có liên quan đến vụ ‘ngón tay khăn máu’ không?”
“Có chứ!” Thương Hiệt gần như gào lên.
“Hả?” Na Lan có thể hình dung ra Ba Du Sinh ngoài cửa tim đang đập như điên.
“Tôi không biết họ chết như thế nào nhưng tôi là người lượm xác họ… đương nhiên phải được cô trợ giúp. Kể từ lúc này, cô bé Na Lan ạ, cô cũng liên quan rất chặt chẽ với vụ án ‘ngón tay khăn máu’.” Thương Hiệt tỏ ra rất thỏa mãn với trò hề của mình.
“Sao lại là tôi? Sao lại đưa cái chữ này cho tôi mà không trực tiếp đưa cho cảnh sát?”
“Vì chỉ cô mới có thể giải mã được.”
“Tại sao?!”
Im lặng.
Hiểu rằng Thương Hiệt sẽ không hé lộ bất cứ thông tin nào ngoài con chữ này nữa. Na Lan đành nói “Chào ông”, rồi kẹp tờ giấy vào cuốn sổ tay, quay người bước đi.
Thương Hiệt bỗng nói, “Còn một điều…”
Na Lan quay lại nhìn lão bằng ánh mắt dò hỏi. Lão đưa bàn tay gầy nhẳng ra vẫy vẫy, cất cao giọng, “Tôi và vụ ‘ngón tay khăn máu’ có chút liên quan, nhưng… tôi không dám nói to.” Giọng lào bỗng run run, cứ như quá sợ hãi vì những “chân ngôn” mà mình sắp nói ra. Na Lan ngờ rằng hồi trẻ lão từng là diễn viên kịch cũng nên. Cô bước lại gần hơn, cố không cau mày vì hơi thở hôi hám của lão.
“Ông nói đi, không dám nói to thì nói khẽ vậy.”
Thương Hiệt im lặng mất một lúc lâu, tựa như còn bận thưởng ngoại dung nhan, làn da và mái tóc của Na Lan. Đến lúc Na Lan sắp lạnh lùng dịch ra, lão mới nuốt ực một cái, khẽ nói, “Đây là… một bí mật, vụ án mảnh khăn dính máu và ngón tay lìa… vẫn còn tiếp diễn.”
Chương 6: Lỡ Sổng Yêu Ma[1]
Na Lan không biết nên diễn tả cảm giác của mình thế nào khi ra khỏi buồng bệnh, nó giống như chạy trốn, lại giống như vừa tỉnh cơn ác mộng. Mễ Trị Văn đã là nến tàn trước gió rồi, nhưng hơi thở mong manh của lão vẫn đủ sức đưa hàn khí vào khu buồng bệnh ấm áp như xuân này. Ánh mắt, giọng nói và tâm trạng thất thường của lão gây nên ở cô cảm giác ấy. Dù thần kinh phân liệt đến mấy lão cũng không có bất cứ ký do gì để tự sa lưới pháp luật. Huống chi, dù lão đưa ra câu cảnh cáo “vụ án ‘ngón tay khăn máu’ sẽ tiếp diễn” trong khi đang được bảo lãnh để ra ngoài điều trị nhưng lão sắp xuống lỗ đến nơi, lại là tù nhân của giường bệnh, thì hành hung ai được?
Trạng thái tinh thần của Mễ Trị Văn càng khiến Na Lan không hiểu ra sao. Lão nói rặt những chuyện hão huyền, là biểu hiện của bệnh tâm thần phân liệt thật, hay là những lời bịa đặt đã được thiết kế tỉ mỉ? Lão có thể nói ra tâm tư của cô, rằng thâm tâm cô có ý nghĩ chấm hết cuộc đời tội lỗi của lão; thậm chí lão biết cả động cơ ban đầu thúc đẩy cô theo học tâm lý tội phạm… lão là con bệnh tâm thần phân liệt cực thông minh.
Kỳ cục nhất là tại sao lãi phải chơi cái trò chế chữ đoán chữ? Tại sao lão muốn cô tham dự?
Riêng điều này thì Na Lan không hề nghi ngờ, từ đầu đến chân Mễ Trị Văn toát ra toàn tà khí! Có lẽ cách đối xử nhân đạo nhất, đối với lão là đưa vào bệnh viện cao cấp điều trị thật kỹ càng thật chuyên nghiệp, còn đối với những nạn nhân từng bị lão xâm hại là tống lão vào ngục tối vĩnh viễn.
Ra khỏi buồng bệnh, câu đầu tiên Na Lan nói với Ba Du Sinh là, “Ai bảo lãnh cho lão được điều trị ở ngoài?”
“Tôi!” Một giọng nữ thản nhiên vang lên phía sau Na Lan.
Người ấy ngồi trên xe lăn. Làn da nõn nà với suối tóc đen dài buông xuống cùng ánh mắt trong veo. Một vẻ đẹp lạnh lùng thanh cao.
“Cô không ngờ chứ gì? Tôi là Hồng thái úy của ông ta.”
Na Lan ngẩn người một lúc mới nhớ ra điển cố “Hồng thái úy lỡ sổng yêu ma” trong truyện Thủy Hử. “Yêu ma” là một hình dung rất phù hợp để ví với Mễ Trị Văn tuổi tác như hiện nay. Na Lan sợ mình nhầm, bèn trố mắt nhìn kỹ đến mức gần như bất lịch sự, cuối cùng reo lên, “Ôi, cô gai1o Đổng Bội Luân! Em xin lỗi, đọc tài liệu chưa kỹ. Em không biết là cô.” Na Lan vốn định kêu ca về chuyện người đứng ra bảo lãnh dù người đó là ai, nhưng bây giờ cô không thể nói gì được.
Thực ra cô đọc tài liệu rất kỹ. Cách đây ba năm Mễ Trị Văn cưỡng bức Đổng Bội Luân, tuy không thành nhưng khiến chị ta bị thương nặng, lão bị kết án tù chung thân.
Thế mà bây giờ chính cô giáo này lại bảo đảm cho lão được điều trị ngoại trú!?
Đúng là truyền kỳ mạn lục chân thực nhất mà Na Lan từng nghe!
Na Lan ngoảnh lại nhìn Ba Du Sinh, ngụ ý, sao anh không sớm cho em biết? Trong các tư liệu mà Ba Du Sinh đưa cho cô, họ tên người bảo lãnh đã bị xóa đi.
Ba Du Sinh ho khan một tiếng, vẻ mặt anh không lúng túng không trách móc và không thanh minh gì cả. Chắc hẳn Đào Tử, cô bạn chung phòng với cô sẽ nhận xét đây là một người rất “đàn ông”. Đổng Bội Luân đã nhận ra ánh mắt và đôi mày nhíu lại của Na Lan. “Rốt cuộc tôi đã gặp được em rồi! Tôi cứ mong mãi.” Chiếc xe lăn chạy điện của chị từ từ nhích lên. Lúc này Na Lan mới nhận ra phía sau chiếc xe lăn còn có một bác sĩ cao tuổi.
Na Lan bước lại bắt tay Đổng Bội Luân, những ngón tay thon dài, mềm mại, giá lạnh. Chị ta nở nụ cười khó hiểu. “Chính tôi muốn đội trưởng Ba Du Sinh giữ kín họ tên người bảo lãnh. Chẳng phải tôi muốn tỏ ra bí hiểm, mà chỉ vì tôi muốn chính mình nói cho em biết.”
“Vâng. Vậy em muốn hỏi tại sao cô lại bảo lãnh cho lão?” Theo các tư liệu Ba Du Sinh đưa cho Na Lan thì Mễ Trị Văn không còn cha mẹ, sống một mình, không ai thân thích, lẽ ra sẽ không có ai chủ động bảo lãnh cho lão được điều trị ở ngoài. Bởi vậy cô vẫn rất nghi hoặc, ai đã làm việc đó, và động cơ của người ấy là gì? Hóa ra, người đảm bảo cho một tên tội phạm cưỡng dâm như Mễ Trị Văn lại chính là nạn nhân của lão!
Đổng Bội Luân không trả lời ngay, chị đăm đăm nhìn Na Lan hồi lâu rồi mới nói, “Tôi dường như nhìn thấy chính mình năm xưa.”
Có nên sửng sốt khi được so sánh với tuyệt thế giai nhân này không? Na Lan gần như muốn lớn tiếng phản đối hai chữ “năm xưa”, bà chị chẳng qua chỉ hơn tôi vài tuổi chứ mấy! Nhưng kinh nghiệm làm về tâm lý hơn một năm qua khiến cô nhanh chóng hiểu ra cảm nhận của cô giáo Đổng Bội Luân, ba năm trước gặp nạn, rồi bị tổn thương nặng nề cả tinh thần lẫn thể xác, tất nhiên sẽ có cảm giác mình đã trải qua rất nhiều năm tháng. Na Lan nhìn khuôn mặt không son phấn và đôi mắt thăm thẳm như nước hồ thu của Đổng Bội Luân, cô bỗng hiểu ra và khẽ gật đầu.
Đổng Bội Luân mỉm cười, “Tôi đoán rằng em đã hiểu tâm ý của tôi khi đảm bảo cho lão được điều trị ở ngoài.”
“Chắc cho rằng lão bị trừng phạt chưa đủ, muốn lão bị bệnh tật hành hạ lâu hơn chứ không được chết nhanh?” Na Lan nghĩ vậy thôi chứ không nói ra lời. Cô chỉ gật đầu và lại cảm thấy gai người.
Đổng Bội Luân nắm chặt tay Na Lan. Hai đôi tay đều nhỏ nhắn mềm mại nhưng đều giá lạnh, tựa hồ khí sưởi đang lan tỏa trong khu buồng bệnh chẳng có tác dụng gì. Đổng Bội Luân nói, “Em thông minh hơn tôi tưởng, tôi rất yên tâm.”
Người bác sĩ đứng sau xe lăn tên là Chu Trường Lộ, tuổi ngoài 60, là bác sĩ chủ nhiệm, phụ trách giám hộ điều trị cho Mễ Trị Văn. Chu Trường Lộ hơi gù, vẻ mặt hơi khắc khổ, nhưng vẫn có thể nhận ra hồi trẻ ông rất đẹp trai. Ông để bộ râu ria ngắn được cắt tỉa gọn gàng, đeo kính khá dày, bên trong chiếc áo blu trắng cũng là sơ mi trắng, thắt cà vạt xanh. Ba Du Sinh thường gọi ông là “Giám đốc Chu”. Ông là phó giám đốc phụ trách nghiệp vụ của Bệnh viên Phổ Nhân, cũng là Giáo sư khoa Nội của Đại học Y khoa Số 2 Giang Kinh.
Vào phòng làm việc của bác sĩ, Chu Trường Lộ nói, “Chúng tôi cũng nhất trí với cán bộ y tế bên cảnh sát, rằng bệnh nhân Mễ Trị Văn đang ở tình trạng rất nặng, cần được chăm sóc điều trị 24/24. Nói thật lòng, những người yêu nghề y hẳn sẽ hứng thú với một ca ‘bệnh tật đầy mình’ như ông ta. Một đời bác sĩ chưa chắc đã gặp được trường hợp nào tổng hợp đủ mọi thứ bệnh như thế này, khi chuyên gia các khoa cùng hội chẩn về nguyên nhân gây bệnh, bệnh lý, phản ứng chéo giữa các triệu chứng và phương án điều trị, toa thuốc và phương châm phẫu thuật… Chưa kể, những ca dạng này rất hữu ích cho việc đào tạo bác sĩ trong các bệnh viên trực thuộc.” Nhắc đến “cống hiến” của con bệnh Mễ Trị Văn đối với y học, Chu Trường Lộ đặc biệt phấn khích, ánh mắt rực sáng như muốn xuyên qua cả tròng kính dày.
“Một bệnh nhân như thế điều trị trong bệnh viên chắc phải rất tốn kém?” Na Lan hỏi, đồng thời nhìn sang Ba Du Sinh. Anh có vẻ lơ đãng, nhưng cô biết anh vẫn nghe không sót một chữ.
Chu Trường Lộ gật đầu, “Phần lớn do Bội Luân chi trả. Mễ Trị Văn cũng là đối tượng, nghiên cứu khoa học của tôi. Tôi phải thuyết phục mãi cô ấy mới đồng ý cho tổ nghiên cứu chúng tôi chi trả một phần phí tổn, ví dụ một số chi phí xét nghiệm.”
Na Lan biết, Đổng Bội Luân đã can đảm rũ bỏ quá khứ bị hại, bắt tay sáng lập một công ty công nghệ cao chuyên về những dự án phát triển phần mềm mở, chỉ sau ba năm, từ một nhân viên, Đổng Bội Luân đã trở thành giám đốc một tập đoàn, là một truyền kỳ và cũng là một giai thoại ở thành phố Giang Kinh. Cô nhìn ông Chu Trường Lộ bằng ánh mắt đầy kính trọng. Cô biết những năm gần đây con đường làm giàu của các học giả, giáo sư là rút ruột kinh phí nghiên cứu khoa học, nhưng ông Chu Trường Lộ lại chủ động xin chia sẻ phí tổn, đủ thấy là người rất cao thượng.
Ba Du Sinh dò hỏi, “Giám đốc Chu và Sếp Đổng có vẻ rất thân thiết.”
Chu Trường Lộ nói, “Cách đây ba năm, buổi tối hôm Bội Luân ngộ nạn, người ta đưa cô ấy vào viện chúng tôi cấp cứu, tôi đang là trưởng ca trực của bệnh viện, chịu trách nhiệm chính. Về sau tôi lại trực tiếp tham gia quá trình phục hồi sức khỏe cho cô ấy, vì thế chúng tôi có tình cảm bạn bè. Nói thực lòng, tuổi cao như tôi vẫn còn có cơ hội kết bạn với một phụ nữ kiên cường quả cảm, thực là vinh dự.” Qua câu nói này có thể thấy Chu Trường Lộ thuộc mẫu người đậm chất trí thức.
Ba Du sinh đứng lên nói, “Trong thời gian phạm nhân Mễ Trị Văn nằm viện, có thể phải làm phiền đến giám đốc Chu, tôi xin có lời cảm ơn sự hợp tác của ông.”
Na Lan vẫn chưa định ra về. Cô nói, “Mong giám đốc Chu giúp cho việc này. Cháu muốn được xem tiền sử bệnh thần kinh của Mễ Trị Văn, nhất là những báo cáo chẩn đoán gần đây của các bác sĩ?”
[1]. Tiêu đề này đặt phỏng theo tiểu đề hồi đệm của Thủy Hử, “Trương thiên sư cầu yên ôn dịch, Hồng thái úy lỡ sổng yêu ma”.
Chương 7: Trò Chơi Và Tội Ác
Khi cùng Na Lan trở ra hành lang ngoài khu bệnh nặng, đứng ngắm mưa bụi ngoài cửa kính, Ba Du Sinh nhận xét, “Anh thấy là nghe Mễ Trị Văn huyên thiên xong, cô đã lật lại vấn đề, rằng liệu lão có bị tâm thần phân liệt thật không.”
Na Lan nói, “Khi học chuyên tu môn thần kinh học lâm sàng ở Đại học Y khoa Giang Kinh, em từng tiếp xúc với nhiều bệnh nhân tâm thần phân liệt, nhưng còn lâu mới được gọi là chuyên gia. So với các bác sĩ cấp chủ nhiệm của Tổng viện thần kinh thì em chỉ là múa rìu qua mắt thợ, đâu có tư cách để nghi ngờ lão?”
“Nhưng cô vẫn nghi ngờ.”
“Mễ Trị Văn thông minh đến mức khiến em phát sợ.” Na Lan bất giác nhìn ra cửa chính, đưa mắt về phái khu chăm sóc bệnh nhân nặng, như thể Mễ Trị Văn nghe được họ nói chuyện, mặc dù hai bên cách nhau vài lần cửa và tường vách.
Ba Du Sinh thắc mắc, “Anh là dân ngoại đạo nhưng có nghe nói, rất nhiều bệnh nhân tâm thần phân liệt cực thông minh. Ví dụ John Nash trong Tâm hồn cao đẹp[1], nhưng điều đó không có nghĩa là…”
[1]. Tên một bộ phim Mỹ, nhân vật chính là một người điên và là nhà toán học kỳ tài.
“Mễ Trị Văn có khả năng quan sát một động thait1 rất nhỏ rồi suy ra tâm trạng em. Lão còn bỏ nhiều công sức để tìm hiểu hoàn cảnh gia đình và con người em. Anh xem, ba năm vừa rồi lão toàn nằm trong tù mà vẫn biết cha em bị hại và vài chi tiết về chuyên môn nghiệp vụ của em…”
Ba Du Sinh thở dài, “Có lẽ… anh phải chịu một phần trách nhiệm. Việc cô bị cuốn vào ‘vụ án năm xác chết’[2] ít nhiều cũng có liên quan đến anh. Sau khi vụ ấy được khám phá, tờ Tin chiều Tân Giang chẳng chịu buông tha cô, họ khai thác bao nhiêu chuyện về gia đình cô. Nếu Mễ Trị Văn là độc giả trung thành của tờ báo đó thì đương nhiên lảo nắm được tình hình. Trong tù vẫn cho đọc báo, huống chi ngày nay bọn họ cũng được lên mạng tra cứu chút đỉnh.”
[2] Xem “Vụ án năm xác chết” trong cuốn Hồ Tuyệt Mệnh.
Na Lan gượng cười, “Tất cả là tại em, mình làm mình chịu, đâu thể trách gì anh!” Đúng thế, hồi đó tờ Tin chiều Tân Giang đã ráo riết truy kích cô. Nào là đăng ảnh bơi lội của Na Lan hồi nhỏ, nào là phóng sự đau thương về vụ cha cô bị hại… cuộc sống của bị xới tung! Mễ Trị Văn hoàn toàn có thể đọc một lô các bài báo rồi tìm ra những bí mật đời tư thực ra không hề bí mật của cô.
Na Lan , “Cứ cho là lão đã đọc báo, nhưng khả năng khái quát và soi xét rất tinh tường, rồi kỹ xảo ăn nói dền dứ… khiến em khó mà tin lão là một bệnh nhân tâm phần phân liệt! Nhưng em lại không thể không tin sự chẩn đoán của các chuyên gia.”
Rốt cuộc Ba Du Sinh đã hiểu Na Lan định nói gì. Anh hơi nhướng mày, kinh ngạc, “Cô định nói là…”
“Em định nói là, đối với những kẻ như Mễ Trị Văn, dù có bệnh tâm thần phân liệt hay không, cách tốt nhất là mặc xác lão! Lão bảo em tin rằng, dùng cái chữ ấy có thể tìm thấy Nghê Phượng Anh. Nếu đó là lời nói rổ dại của con bệnh thì chúng ta không cần lãng phí thì giờ làm gì. Nếu lão chỉ giả vờ tâm thần phân liệt, và lời lão nói là thật, thì đúng là chúng ta có thể nghiên cứu cái chữ ấy để tìm ra Nghê Phượng Anh. Khi tìm thấy Nghê Phượng Anh, chúng ta đồn thời có thể sẽ chui vào một cái bẫy mà lão đã thiết kế tinh vi. Em không iết đó là cái bẫy như thế nào, nhưng em không sao tin được lão là người tình nguyện chủ động làm việc thiện.”
“Nhưng ta nên giải thích thế nào về câu nói cuối cùng của lão, vụ án ‘ngón tay khăn máu’ vẫn còn tiếp diễn?”
Ba Du Sinh nói, “Không loại trừ khả năng lão chỉ ba hoa khoác lác. Cũng có thể, đó là một chiêu bài để lão mặc cả, hòng thoát khỏi án tù chung thân.”
“Em cực ghét cái cảm giác mình bị thao túng. Một khi nghe theo lão để bắt đầu khám phá ý nghĩa cái chữ ấy, bắt đầu bước vào trò chơi mà lão thiết kế và điều khiển, thì rất có thể ta sẽ vô tình cung cấp bước đi đầu tiên cho nhiều tội ác khác, nói cách khác đó là điểm khởi đầu để vụ án ‘ngón tay khăn máu’ tiếp tục xảy ra! Đây chỉ là nỗi lo sợ mà em thoáng cảm thấy.”
Ba Du Sinh định nói gì đó nhưng lại thôi, anh cân nhắc kỹ lời nói của Na Lan. Cô lặng lẽ chờ anh nghĩ ngợi. Rồi cô lại nhỏ nhẹ tiếp, “Em chỉ chia sẻ với anh một chút lo ngại của em, chứ em vẫn biết mình nên làm gì. Chúng ta không thể bỏ qua bất cứ manh mối nào về vụ án ‘ngón tay khăn máu’.”
Ba Du Sinh khẽ thở ra, anh thấy nhẹ nhõm. Anh đưa trả cô tờ giấy viết cái “chữ” quái dị, nói, “Cô cứ giữ lấy.”
“Em tưởng anh sẽ cầm về để các chuyên gia bên anh phân tích?”
“Anh cầm về cũng chẳng mấy tác dụng. Cô quên lời của lão Thương Hiệt rồi à?”
“Chỉ em mới có thể giải câu đố chữ ấy chắc?” Na Lan gượng cười. “Anh mà lại tin lời đại sư Thương Hiệt ấy thật sao?”
Ra khỏi thang máy, Na Lan lại nhìn thấy Đổng Bội Luân và Chu Trường Lộ ở gần cửa khu nhà, cô ngạc nhiên vì họ có vẻ như đang chờ cô. Lúc này là giờ làm việc, một người là phó giám đốc và một người là sếp tổng tập đoàn, đều bận rộn cả mà lại muốn nói chuyện với cô lần nữa thì hẳn là có việc quan trọng.
Chu Trường Lộ đưa cô tấm danh thiếp, cô ngạc nhiên, mỉm cười cầm lấy. Có ai đó từng nói, bác sĩ là người rất không cần danh thiếp, cứ nhìn cái áo blu trắng của họ là hiểu ngay.
Trên danh thiếp không in các chức danh “Phó giám đốc” hay “Bác sĩ chủ nhiệm”, “Giáo sư khoa Nội”… mà ai cũng biết về ông, mà chỉ in hai chữ “Tiếng Lòng” viết hoa màu tím, dưới đó là một dòng chữ nhỏ “Chu Trường Lộ, ủy viên ban thường vụ”.
“Tiếng Lòng là tên đơn vị tình nguyện mà Đổng Bội Luân và tôi cùng tổ chức ra, dưới danh nghĩa Hội Phụ nữ khu Văn Viên” Chu Trường Lộ lùi lại đứng bên chiếc xe lăn của Đổng Bội Luân. “Là một tổ chức của phụ nữ, là nơi các chị em bị bạo lực xâm hại có thể trợ giúp và giao lưu với nhau. Phạm vi bị xâm hại từ hành vi hình sự cho đến bạo lực gia đình…” Cơ mặt ông Chu Trường Lộ hơi giật giật, đôi mắt hơi khép lại thấp thoáng một nét đau khổ, nhưng Na Lan vẫn nắm bắt được.
Đổng Bội Luân nói, “Chúng tôi muốn mời em, nếu em có thì giờ thì cùng tham gia, em chuyên làm về tâm lý học, sẽ giúp đỡ rất nhiều cho những người bị hại ở chỗ chúng tôi… ít ra tôi đã từng trải qua. Ngày trước nếu không được chuyên gia tâm lý tư vấn cho, e rằng tôi không thể tiếp tục nghĩ thoáng ra mà sống tiếp được nữa.” Chị ta cúi nhìn đôi chân bất lực của mình, mỉm cười tự chế nhạo. “Cảm ơn họ. Tôi đã tiếp tục bước đi và con bước những bước rất dài.”
Na Lan cảm thấy lòng chộn rộn. Hôm nay cô hơi thô bạo khi gặp Mễ Trị Văn, mộ biểu hiện cho thái độ không dung thứ trước hành vi xâm hại phụ nữ của lão. Tiếng Lòng rất thích hợp với cô. Cô gật đầu đáp, “Vâng ạ.”
Chu Trường Lộ mỉm cười, “Nếu rỗi cháu thử đọc trang mạng của chúng tôi nhé, sử dụng tính năng gì trên weibo ấy nhỉ?”
Đổng Bội Luân cười, “Search.”
Chu Trường Lộ lắc đầu ngượng nghịu, “Đổng Bội Luân chuyên phụ trách tuyên truyền. Chứ tôi dốt máy tính lắm!”
Có một người đã quan sát rõ ràng từ đầu đến cuối.
Na Lan thân mến, cô cho rằng bản thân chưa đủ rắc rối hay sao? Đường đời của cô đã không mấy bằng phẳng, sao cô còn dính vào cặp đôi sầu não này?
Người ấy thừa biết tổ chức do Đổng, Chu khơi mào là chốn nương náu tinh thần của những phụ nữ khổ đau ai oán, tổ chức này có tiếng vang ở Giang Kinh, nhất là về phương diện phản đối bao lực gia đình, có thể nói họ có thương hiệu đình đam trên toàn quốc. Nhưng nó dành cho những kẻ yếu. Na Lan không những không phải kẻ yếu, mà còn thu hút người ấy bằng chính tính cách kiên cường kiểu ngoan cố của cô.
Và cả sự yếu đuối khác thường ẩn sau sự kiên cường ấy nữa.
Người yếu đuối chưa chắc là kẻ yếu. Chẳng phải điều này rất biện chứng hay sao?
Ánh mắt và bước chân của người ấy cùng theo Na Lan di chuyển khỏi khu buồng bệnh.
Chương 8: Tiền Sử Tâm Thần Phân Liệt
Na Lan dành cả buổi chiều tra cứu tư liệu thư viện. Không được mang hồ sơ bệnh án thần kinh của Mễ Trị Văn ra khỏi bệnh viên, cô đành ngồi trong phòng làm việc của Chu Trường Lộ, đọc tỉ mỉ và ghi chép, cũng được kha khá. Chu Trường Lộ dặn cô muốn đến đọc lúc nào cũng được. Bệnh thần kinh luôn có nhiều vấn đề liên quan phức tạp, có những nội dung dường như vô can thậm chí lầm tưởng người lập hồ sơ bệnh án đã chểnh mảng tùy tiện, nhưng lại ẩn chứa không ít điều bí ẩn kỳ thú. Chỉ hiềm bệnh án của Mễ Trị Văn quá giản lược, khi phân tích tìm hiểu Na Lan cảm thấy hơi bất lực, vì dẫu sao cô cũng không phải bác sĩ thần kinh lâm sàng.
Sau đây là những ghi chép từ 20 năm trước, trong một lần Tổng viện thần kinh Giang Kinh nhận bệnh nhân Mễ Trị Văn vào chữa trị.
Ghi chép khi nhập viện
Mễ Trị Văn , nam, 38 tuổi, người thành phố Giang Kinh, không người nhà đưa vào. Ngày 26 tháng Tư năm 1990, bị công an khu Văn Viên - Giang Kinh bắt về tội cưỡng dâm bất thành. Trong lúc thẩm vấn, hắn có biểu hiện thần kinh và lên cơn điên, bác sĩ phó chủ nhiệm Đằng Lương Tuấn tham gia hội chẩn, sơ bộ nhận định hắn bị tâm thần phân liệt, đề nghị đưa vào viện điều trị. Ngày 29 tháng Tư nhập viện, lập biên bản. Đối chiếu lời hắn trình bày với lời khai ở công an Văn Viên do cảnh sát Vương Kiến Quốc thẩm vấn, thấy có những chi tiết tồn nghi, chưa rõ ràng.
Ngày 26 tháng Tư, Mễ Trị Văn lẻn vào nhà dân định cưỡng bức một cô gái nhưng cô ta chống cự hô hoán, hắn bị cha mẹ cô gái khống chế, rồi báo công an, sa đó bị giải về thẩm vấn ở công an Văn Viên. Hắn chỉ khai mình họ Vu, không chịu khai tên, và phủ nhận việc cưỡng bức. Hói hắn có biết cô gái đó không, hắn khai rõ họ tên, biệt hiệu của cô gái, nói mình và cô ta có tình duyên vạn kiếp, coi việc xâm hại tình dục là sự giao lưu thể xác tâm hồn. Cô gái kia phủ nhận quen biết hắn, chỉ nói mình từng nhìn thấy hắn bám theo ngoài phố. Tiếp tục thẩm vấn, hắn nhiều lần nói mình rất tâm đầu ý hợp với cô gái, và gọi cảnh sát là bọn ác nhân cùng nhiều kẻ ác trên đời hãm hại hắn, đến nỗi lúc này hắn phải trốn vào rừng rậm núi cao. Sau khoảng một giờ thẩm vấn, hắn bỗng kêu rít lên, mắt mũi trợn ngược toàn thân co giật, sùi bọt mép rồi ngã lăn ra. Nhân viên cấp cứu đã tiêm thuốc an thần làm dịu cơn điên, đồng thời phát hiện thấy hắn bị huyết áp cao và điện tâm đồ bất thường, bèn đưa vào bệnh viên Phổ Nhân để theo dõi.
Ngày 27 tháng Tư, tỉnh dậy sau vài giờ hôn mê, Mễ Trị Văn có thể trả lời thẩm vấn của công an một cách bình thường. Hắn khai họ tên là Mễ Trị Văn và đọc thuộc lòng số chứng minh thư. Nhưng khi hỏi về vụ cưỡng dâm bất thành tối hôm trước thì hắn đáp không nhớ rõ, nhưng vẫn nói đúng họ tên cô gái kia, và bảo đó là bạn gái của hắn, hắn mò vào để đưa cô ta cùng bỏ trốn. Hắn nói, vì hai người tuổi tác quá chênh lệch nên rất nhiều người không bằng lòng hắn và cô ta yêu nhau, định giết hắn. Công an lại hỏi hắn có quen người họ Vu kia không, hắn nói là không. Hồi 14 giờ ngày 27, bác sĩ phó chủ nhiệm Đằng Lương Tuấn tham gia hội chẩn ở bệnh viện Phổ Nhân chẩn đoán hắn bị tâm thần phân liệt, kê đơn điều trị bằng Chlorpromazine và đề nghị cho nhập viện chữa bệnh thần kinh.
Ngày 29 tháng Tư, sau khi đã xử lý các vấn đề về tim mạch, bệnh nhân đồng ý nhập viện điều trị. Vì không có ai thân thích nên hắn tự chi trả mọi phí tổn y tế.
Mễ Trị Văn là người như thế nào?
Nói cách khác, lão là một bệnh nhân như thế nào?
20 năm trước, cưỡng dâm bất thành rồi nhập viện, bản thân chuyện này đã chứa đựng nhiều điều kỳ quái. Tại sao lão tự xưng mình mang họ Vu? Tại sao hôm sau lão trở lại bình thường và nhớ ra họ tên thật của mình? Lão bị tâm thần phân liệt, có kèm theo chứng phân liệt đa nhân cách không? Hình như lão có khuynh hướng rất mạnh muốn trở thành một người khác. Giống như lão nhất quyết cho rằng mình là “đại sư Thương Hiệt”. Lão và cô gái tố cáo lão xâm hại tình dục có mối quan kệ gì không? Quan hệ như thế nào? Trí óc lão đã rối loạn, sao lão lại chủ động chấp nhận điều trị ở Tổng viện thần kinh bằng tiền túi? Một kẻ lang thang không nghề nghiệp, làm gì có tiền dành dụm?
Hồ sơ bệnh án này hầu như có thể phủ định khả năng Mễ Trị Văn là hung thủ của vụ án “ngón tay khăn máu”.
Hung thủ vụ án “ngón tay khăn máu” gây án hơn 30 năm ròng rã với ít nhất mười vụ trọng án mà chưa từng bị tóm. Mễ Trị Văn động cỡn giở chứng một lần không thành đã bị bắt; so với kẻ giấu mặt kia quả là khác nhau quá xa về tay nghề tội phạm.
Tuy nhiên, Na Lan tin ở trực giác của mình, tin ở nỗi sợ hãi sâu xa vào lần đầu giáp mặt Mễ Trị Văn.
Một tên tội phạm có đầu óc có thể dùng tiền sự phạm tội dường như rất thiểu năng của mình để đánh lạc hướng cảnh sát, nhằm che đậy vụ án nghiêm trọng hơn mà hắn gây ra.
Dù bề ngoài trông yếu ớt, hồ sơ bệnh án thì sơ sài đến mức vô dụng, Mễ Trị Văn vẫn gây cho Na Lan cảm giác lão chỉ là kẻ thâm hiểm thạo ngón nghề che giấu tội ác. Lão không chỉ là một người điên có khuynh hướng bạo lực khi cuồng nộ mà còn là một kẻ ác.
Cô giáo Đổng Bội Luân có thể làm chứng.
Các tài liệu trinh sát hình sự vẫn lưu giữ vài trường hợp bệnh nhân tâm thần phân liệt phạm tội một cách có ý thức. Thực tế là nhiều tội phạm mắc chứng tâm thần phân liệt đã lên kế hoạch chặt chẽ và lựa chọn kỹ đối tượng trước khi gây án, thậm chí có kẻ bố trí được cả chứng cứ ngoại phạm, sau khi hành hung, tiền sử tâm thần phân liệt sẽ trở thành tấm khiên gỡ tội cho họ. Liệu Mễ Trị Văn có phải là một cao thủ như thế không?
Trong lúc đọc tài liệu, thì thoảng Na Lan lại nhìn xuống tờ giấy “thiên thư của Thương Hiệt” đặt dưới cuốn sổ tay.
Tại sao lão nói chỉ cô mới giải mã được?
Đại sư Thương Hiệt, đành làm ông thất vọng vậy, tôi không có chút manh mối nào cả.
Trời sập tối lúc nào chẳng biết, đến khi đói bụng, Na Lan mới nhận ra thời giờ trôi đi quá nhanh. Cô vội vã rời khỏi thư viện. Mưa vẫn rơi không mệt mỏi.
Ký túc xá vắng ngắt, Đào Tử vẫn chưa thấy mặt. Gần đây cô bạn cùng phòng này bận yêu, phải nửa đêm mới về. Na Lan đã phải nghĩ rằng sớm muộn gì Đào Tử cũng rời ký túc xá và dọn đến một chung cư tình yêu.
Tối nay cô lại một mình một bóng và úp mỳ ăn vậy.
Một buổi tối như thế này, điều cô trăn trở đã lâu lại trỗi dậy, có nên đón mẹ về Giang Kinh này ít hôm? Mẹ cô mắc chứng trầm cảm khá nặng, hồi học đại học cô từng đến đón bà về đây, thuê một căn hộ chung cư nho nhỏ gần trường, hai mẹ con sống bên nhau bốn năm trời. Khi cô tốt nghiệp đại học, tình trạng của mẹ đã chuyển biến tốt, bà lại trở về quê, một thị trấn khai thác mỏ sắt ở Tứ Xuyên.
Năm năm trước đón mẹ về là vì sức khỏe của bà, nay là vì cô mong có bà ở bên.
Lẻ loi đơn chiếc là cuộc sống hiện tại của cô, nhưng không phải cuộc sống mà cô mong muốn. Có lẽ tiềm thức thúc giục cô chuyển hướng suy nghĩ, cô bất giác cầm tờ giấy viết chữ của Mễ Trị Văn lên. Đường nét vặn vẹo y hệt những câu nói rắc rối của lão, càng nhìn càng thấy như thể nó định kéo cô xuống một cái hố tối tăm chằng chịt.
Khi nỗi quạnh quẽ và sợ hãi mơ hồ kéo đến, Na Lan lại nhớ tới người bạn trai cũ Cốc Y Dương năm ngoái đã bỏ mạng trong hẻm núi tuyết vì cô, cũng nhớ Tần Hoài đã lẳng lặng từ biệt cô, nhớ cái lần hai người quấn lấy nhau trong một nụ hôn sau khi trải qua cơn sinh tử. Gần hai năm trời, chuyện rõ rành như mới hôm qua mà cũng vời vợi như đã xa cả kiếp, cảm giác mất mát hẫng hụt không sao diễn tả nổi.
Như thể có người nghe thấu tâm tư của cô, di động bỗng đổ chuông trong căn nhà tĩnh mịch.
Na Lan nhìn màn hình, tim cô đập nhanh.
Tần Hoài!
Cô đờ đẫn nghe tiếng chuông lặp lại không biết chán giai điệu Khúc nhạc buồn của Chopin, nhìn màn hình không nhừng nhấp nháy, mãi vẫn không bắt máy. Liệu có phải mình sinh ảo giác không?
Cuối cùng, cô cũng cầm máy lên nghe.
Nhưng ở đầu dây bên kia, chỉ là im lặng.
Khúc đệm
Quảng Châu, ba giờ trước.
Buổi tối mùa xuân ở Dương Thành tuyệt vời hơn hẳn ở Bắc Kinh, không có bão cát, không có rét nàng Bân, chỉ có lồng lộng gió ấm làm say lòng người. Trong không khí rất hài hòa, cô gái đã uống hai li rượu vang, đôi mắt cô lim dim dưới ánh đèn mờ tối và êm dịu, cô gần say thì phải?
Nhưng không, cô không thể say, vì đêm nay cô phải hành động.
Cô đang ngồi trong quán bar có tên là Nhã Vận, một trong những quán bar đẳng cấp nhất theo ý cô. Trang trí thiết kế của quán không có quá nhiều điểm đặc sắc đáng khen, với con mắt không nhà nghề thì thậm chí nó quá đơn giản, nhưng nhờ nằm trong một con ngõ thanh vắng tách hẳn dãy phố bar của đường Hoàn Thị, là chút yên tĩnh giữa bao nhộn nhạo, nên gần đây thu hút được khá nhiều vị khách tao nhã. Họ cho rằng quán Nhã Vận thú vị ở chỗ đơn giản, đơn giản mà không tầm thường, đèn chiếu sáng và cốc chén dụng cụ không sặc sỡ nhưng đều là hàng hiệu châu Âu; các đồ trang trí không nhiều nhưng mỗi thứ đều có xuất xứ bề dày đáng nể; họ không cần số lượng mà chú trọng chất lượng. Ví dụ cái đài nến xinh xắn đặt trên bàn của cô, nghe nói nó vốn là của gia đình một vị thượng tá sống ở tô giới Pháp ở Quảng Châu đầu thế kỷ 20. Tuy không thể khẳng định có đúng thế không nhưng vẫn khiến cho cái đài nến tinh xảo mà không cầu kỳ này tăng phần giá trị.
Cô nhâm nhi cốc rượu của mình. Nếu đang ở một quán bar tầm thường nào đó chắc đã có một chàng trai đến làm quen, nhưng ở quán Nhã Vận này, tuy cũng có những ánh mắt và nụ cười hướng đến song không thấy cô hưởng ứng thì họ cũng thôi. Cô đến quán bar không phải để làm một nữ tu thực tập, nếu là một hôm khác thì rất có thể cô cũng xuôi theo chiều gió mà vui vẻ một đêm.
Tối nay cô phải chờ một người.
Rốt cuộc người ấy cũng đã đến.
Mấy ngày không thấy, trông anh như gầy đi. Cô đã nhìn ảnh anh trên mạng, với mái tóc đen dày, bây giờ thì anh cắt tóc ngắn, ngắn hơn cả tóc húi cua. Trong ảnh, ánh mắt anh cố tỏ vẻ thâm trầm và u uẩn, còn anh lúc này lại đầy vẻ phong trần không hề làm bộ làm tịch gì.
Anh ta là Tần Hoài, nhà văn với những tác phẩm rất ăn khách.
Qua mạng và qua Na Lan, cô đã biết rất nhiều về Tần Hoài, một gã có duyên với phái đẹp, từng có tiếng là gã chơi bời… nhưng tất cả đều không đúng, thực ra anh là một con người rất giàu tình cảm. Nhớ đến Na Lan, cô cười khẩy. Cô cũng có chất như Tần Hoài, cô rất có duyên với nam giới và rất tự tin mình rất hiểu đàn ông, khác xa với Tiểu Long Nữ Na Lan giữ mình trong sáng cứ như sống trong tháp ngà, cô tin rằng gã đàn ông nào chẳng thích chơi bời và háu gái? Nói là nặng tình này nọ chẳng qua chỉ là cách nghĩ đơn phương của Na Lan, cô ta cho rằng mình rất hiểu Tần Hoài.
Chắc Na Lan chưa tin chứ gì? Tôi sẽ thử, rồi cô sẽ thấy ngay thôi.
Ánh mắt đa tình của Tần Hoài đã lướt đến cô. Cô cười thầm, sắc mặt tỏ ra nghiêm trang thậm chí hơi buồn bã một các vừa đủ độ, chỉ cần đừng giống như ai oán. Cô không chủ động lên tiếng, cô tin rằng Tần Hoài sẽ phải chú ý đến cô và sẽ đến bắt chuyện với cô. Cô tin chắc như vậy.
Cô là Mục Hân Nghi.
Cách đây hơn một năm, ở khu trượt tuyết dưới chân núi Trường Bạch, Hân Nghi đã “có duyên nợ” với Na Lan. Vì muốn độc chiếm La Lập Phàm, cô đã giết Thành Lộ vợ của La Lập Phàm và cũng là chị họ của Na Lan. Cô tưởng mình đã làm rất kín kẽ không hề sơ sẩy nhưng vẫn bị Na Lan khám phá ra, rồi gần như dồn cô đến chỗ phải bỏ mạng dưới khe núi tuyết ở Trường Bạch. May mà thể lực cô rất tốt, cô vẫn sống sót rồi thoát ra khỏi miền đất băng tuyết ấy, trở về đô thị đầy cám dỗ. Cuộc sống của Hân Nghi khi trước làm càn ở khu trượt tuyết, giờ đây thì tìm lạc thú ở chốn thị thành.
Mười bốn tháng trôi qua, nhưng đến nay cô vẫn thường xuyên nhớ đến La Lập Phàm, người đàn ông duy nhất khiến cô thực sự rung động. Đến nay chính cô cũng không thể nói rõ tại sao mình lại yêu người ấy. Có lẽ vì anh tinh khôn tháo vát, hoặc vì anh rất tự tin, hoặc vì anh cũng cứng đầu như cô. Khi xưa anh đã không biết mệt mỏi, hết lòng theo đuổi cô, nên cô mới bất chấp sự tồn tại cả Thành Lộ, bằng lòng cùng anh lao vào lưới tình. Rõ ràng là một người chỉ hay làm nũng và láu cá khôn vặt như Thành Lộ không thể xứng với La Lập Phàm. Nhưng thế giới này chẳng phải là một nơi cạnh tranh rất không công bằng hay sao?
Cho đến nay cô vẫn chưa biết rõ ai đã giết La Lập Phàm. Nhưng những điều này không quan trọng nữa, mà quan trọng là Na Lan đã hủy hoại cuộc sống của cô, biến cô thành kẻ tội phạm phải bỏ trốn, cô chỉ có thể lén lút sống vật vờ trong màn đêm ở nơi cách xa Bắc Kinh. Sau một năm dần dần tạm ổn định, cô bắt đầu nung náu việc trả thù Na Lan.
Kể ra thì cứ đến thẳng Giang Kinh giết luôn Na Lan là cách trả thù đơn giản dễ làm nhất, nhưng lại là cách trả thù ít khoái cảm nhất, ở tầm thấp nhất và rất không hả dạ! Trả thù đẳng cấp cao, là phải khiến con bé Na Lan sống còn khổ hơn chết!
Cho nên mục tiêu của Hân Nghi là nhắm đến Tần Hoài.
Lúc này kế hoạch của cô đang tiến gần đến thành công. Ánh mắt của Tần Hoài lướt đến, chính anh ta tự đề xuất một cuộc hẹn chết chóc.
Đừng cho rằng kế hoạch của cô là giết Tần Hoài, làm thế thì lại tầm thường và quá đơn giản.
Đã một tháng nay Hân Nghi quan sát Tần Hoài từ cự li gần, cự li xa, chưa thấy anh ta chủ động bắt chuyện với bất cứ cô gái nào. Dù ở khách sạn hay quán bar luôn có một số thiếu nữ nhận ra anh ta và chủ động mơn trớn nhưng anh ta đều mỉm cười né tránh, chắc sợ có thêm các cô gái dính đến anh ta rồi sẽ gặp bất hạnh. Người ta chẳng vẫn đồn đại, “gặp Tần Hoài lỡ cả một đời” đấy thôi, vợ anh ta mất, Ninh Vũ Hân và Na Lan cũng chẳng ai được hạnh phúc. Có thể anh ta vẫn còn vương vấn Na Lan, nhưng đấy là chuyện chẳng ai chắc được?
Đúng lúc cô cố ý nhìn xuống ly rượu thì Tần Hoài bước đến.
Cô vốn cho rằng mình đã qua cái thời con gái lần đầu thổn thức, mình đã biết đủ hạng đàn ông, nhưng Tần Hoài bước lại vẫn khiến tim cô đập nhanh.
“Tôi ngồi cùng được không?” Tần Hoài hỏi.
Hân Nghi mỉm cười gật đầu, “Đương nhiên! Hậu quả ra sao anh tự chịu trách nhiệm.”
Tần Hoài nói, “Cô nên hiểu cho, tôi chẳng có ý gì khác, tôi cảm thấy mình đã hiểu về cô nên tôi mới yên tâm tìm chô để nói chuyện…”
Vẻ mặt Hân Nghi hơi biến sắc, “Anh hiểu về tôi ra sao?”
Tần Hoài hình như không nhận ra vẻ hoang mang của cô, anh thò ngón tay chấm vào rượu vang rồi vạch lên mặt bài hai nét thành chữ L, rồi nói rất nhỏ, “Cô đến đây đâu phải một hai lần, quán bar Nhã Vận là nơi như thế nào, cô không thể không biết.”
Hân Nghi gật đầu, “Đương nhiên có biết nên em mới đến.”
“Đang thất tình à?” Tần Hoài ăn nói bỗ bã, người ta đồn chẳng sai.
“Có liên quan đến anh chắc?” Hân Nghi cau rúm mày, cầm ly rượu lên uống một nửa. Cô cảm thấy cay đắng, cô không chỉ thất tình mà còn vĩnh viễn mất người yêu, sự sống của người ấy đã hóa thành băng tuyết. “Anh nói là hiểu về em, chắc anh phải biết rằng dù đang cần được an ủi thì em cũng không tìm anh.”
Tần Hoài không hề tỏ ra khó chịu vì bị châm chích, trái lại vẫn tỏ ra khiêm nhường, “Quả nhiên anh đã không nhìn nhầm, em là cô gái phóng thoáng cơi mở. Cho nên anh cứ tự trách mình, mấy lần trước nhìn thấy em và cô bạn, anh vẫn do dự không biết có nên nhắc nhở em không, rằng cô gái ấy tuy rất tốt nhưng không nghiêm chỉnh đâu. Chắc em mới đến Quảng Châu ít lâu? Cô ta lâu nay vẫn có tiếng là chẳng ra gì, chỉ những ai mới đến đây mới bị mắc lừa.”
“Anh là đàn ông mà cũng đanh đá ra trò đấy!” Hân Nghi cau mày rõ chặt.
Thực ra Nhã Vận là quán bar đồng tính rất bí mật, nó khác các nơi khác ở chỗ tiếp đón cả gay lần lesbian, không có phòng Karaoke, không mở nhạc khiêu vũ, khách vào đây đều là những người đến để tìm thú vui riêng. Vài lần trước Hân Nghi đến đây và cố ý tìm một cô gái đầy tai tiếng, đây là lưới giăng của cô, quả nhiên Tần Hoài đã mắc bẫy.
Tần Hoài nói, “Lúc đầu anh do dự vì sợ em cho rằng anh tọc mạch, bây giờ anh nói thì rõ ràng đã quá muộn; đúng là tiến thoái lưỡng nan.”
“Anh không cho rằng nếu em thất tình thì anh sẽ có cơ hội đấy chứ? À, hình như anh toàn đến đây một mình, liệu có phải anh chỉ muốn mồi chài những ai đau khổ vì thất tình, tâm trạng không ổn định như em không?”
Tần Hoài lại gọi một ly rượu. Hân Nghi đã để ý thấy anh ta không hề nhấp tí nào, “rượu” của anh ta thực ra là nước hoa quả hoặc coca.
Tần Hoài nói, giọng buồn buồn, “Nếu định tìm lạc thú chơi bời thì anh chẳng đến Nhã Vận này. Anh đến đây là để tránh những chuyện trai gái… nhưng nếu nói là đi câu thì cũng chẳng sai…” Tần Hoài thở dài. Vẻ mặt Tần Hoài buồn vui lẫn lộn, anh ta đang nghĩ gì? Có phải lại nhớ đến cái truyền thuyết cũ kỹ về hồ Chiêu Dương, về người mặc áo tơi câu tính mạng, rồi câu mất con người quan trọng nhất và đánh mất luôn cả hạnh phúc của đời mình? “Anh đến để câu những cô gái như em… anh thấy em là con người có vô số câu chuyện… như lời một bài hát cách đây nhiều năm.”
Hân Nghi thầm cảm thấy cay đắng. Đúng, tôi có vô số câu chuyện, hơn một năm trước, đau khổ vì tình, rồi giết chóc, rồi chạy trốn… còn hay hơn nhiều so với anh đóng cửa ngồi nhà mà hư cấu. Cô giả bộ kinh ngạc, “Sao… anh lại biết được? Thực ra anh là ai… em có quen anh không nhỉ?”
Tần Hoài dịu dàng nói, “Đừng lo gì. Anh chưa từng quen em.”
“Hay là tại gần đây em hơi nhạy cảm, bị anh lèo mấy câu đã cảm thấy hình như mình đã gặp anh ở đâu đó.” Bàn tay vô hình của Hân Nghi đã kéo Tần Hoài nhập vai.
Tần Hoài nói, “Anh chuyên viết tiểu thuyết, tiểu thuyết hạng tầm tầm, cảm hứng thì chẳng có, vốn liếng cũng đã cạn nên anh muốn được nghe những chuyện của người khác. Nếu em không ngại chia sẻ thì anh rất cảm ơn.”
Một cái cớ quá tốt. Hân Nghi biết ý đồ của Tần Hoài là ở chỗ khác nhưng không sao, bẫy giăng của cô đã thành công, cô đã khiến Tần Hoài phải chú ý rồi muốn giao lưu với cô; tiếp theo, cô phải khống chế được tình hình. Cô vùng vằng tức tối ra mặt, “Tức là anh định dùng những chuyện riêng tư của em để kiếm tiền? Mặt bằng đạo đức của anh thật kỳ quặc khó lường!”
“Anh rất thành thật mà! Anh xin nói trước, nội dung các lần chuyện trò của chúng ta sau này rất có thể sẽ gợi mở cho một cuốn tiểu thuyết. Nếu em muốn tìm người để thổ lộ thì anh sẵn sàng lắng nghe... và không đòi em nộp phí tổn, tức là rất vì lợi ích cộng đồng. Huống chi...” Tần Hoài cầm cốc coca mới bưng lại, làm một hơi uống cạn. “Anh cũng có vô số chuyện chua chát muốn thổ lộ, đáng ra nên nói ra từ lâu nhưng anh vẫn cố nén chịu, nhưng đến hôm nay thì anh không kìm nén nổi nữa, nếu cứ kìm nén e sẽ mất cơ hội. Cho nên hai ta hãy thỏa thuận, sẽ uống cho thật say và cởi mở với nhau. Em nghĩ sao?”
“Em nghĩ, đầu óc anh có vấn đề, khá nặng đấy!” Hân Nghi lắc đầu than thở, “Em uống hơi nhiều nhưng chưa lú lẫn đến nỗi tâm sự chuyện riêng tư với một người lạ. Anh nói là uống cho thật say nhưng anh chỉ uống coca! Anh cho rằng em là con dở hơi chắc!”
Tần Hoài nói, “Anh dị ứng với chất cồn, nhấp một ngụm là say, em chưa tin thì anh có thể cho em xem y bạ... Em không muốn trò chuyện với anh cũng không sao, anh sẽ đi, nhưng trước khi đi anh muốn hỏi em một câu, những điều không bao giờ nói và cũng rất khó mở miệng, nên kể cho người quen, người thân, người yêu nghe hay nên kể cho người lạ nghe thì hơn?”
Hân Nghi im lặng, nhấp một ngụm rượu chua chua ngòn ngọt, ngẫm nghĩ câu hỏi của Tần Hoài. Có hai cô gái rất xinh sánh vai nhau bước vào, đi đến bàn bên cạnh rồi ngồi xuống. Dưới ánh nến đỏ hồng, hai cô gái ngồi đối diện đắm đuối nhìn nhau, ríu rít trò chuyện như đôi chim én dịu dàng thỏ thẻ. Ánh mắt Hân Nghi ngưỡng mộ nhìn sang họ, họ cũng nhìn lại cô dường như đang hỏi, đôi nam nữ kia sao thế? Họ vào nhầm nhà chắc? Có biết đây là đâu không?
“Này anh chàng lạ mặt, xin hỏi anh...” Hân Nghi đã bị thuyết phục, cô hỏi Tần Hoài. “Chúng ta nên đến đâu để nói chuyện?”
Trong căn hộ chung cư của Tần Hoài, cuộc trò chuyện lan man đã kết thúc, bây giờ là bước then chốt. Nhìn Tần Hoài mặt đỏ phừng phừng nằm vật trên giường, Hân Nghi cười tủm tỉm và bắt đầu cởi quần áo. Cô từng dự tính khối cách để hạ gục Tần Hoài, bằng thuốc mê, bằng ma túy, thuốc kích dục... nhưng lúc này khỏi cần nữa! Hai người xa lạ trao đổi tâm tình với bao chuyện buồn thương, cuối cùng gần như đã hòa làm một. Ngày trước Hân Nghi sở trường về tiếp thị dược phẩm rất thành công, thành công đó không phải ngẫu nhiên, cô có thể nhanh chóng kết thân với bất cứ ai trong bất cứ hoàn cảnh nào, điều này Na Lan đã từng được lĩnh giáo. Hân Nghi nói trong men say, chúng ta đã rất cởi mở rồi, vậy nên uống một chén! Anh nói là ta phải uống cho thật say kia mà? Uống xong, anh cứ việc say, còn em thì đã say nhưng vẫn có thể ra cửa gọi taxi để về. Tần Hoài hơi do dự nhưng lại nghĩ Hân Nghi nhóc con mới thất tình, cô ta chẳng thể làm gì khác, bèn nói, anh uống vào sẽ say luôn, nếu em thấy khuya quá không về được thì có thể ngủ lại ở phòng bên cạnh - phòng của cô em gái đang nằm viện điều trị thỉnh thoảng mới về.
Rồi Tần Hoài uống và say thật.
Màn hình chiếc laptop để trên tủ đầu giường vẫn sáng, lúc nãy Tần Hoài dùng nó để ghi lại các “câu chuyện” của Hân Nghi, lúc này webcam trên máy vẫn đang hoạt động. Hân Nghi chỉnh góc độ, rồi mỉm cười với ống kính, hình ảnh trông rất được.
Cô cầm di động của Tần Hoài lên tìm số máy của Na Lan. Cô sẽ gửi một tin nhắn cho Na Lan, để cô ta mở mạng chat QQ tìm Tần Hoài, mở video, cô sẽ cho Na Lan được ngắm cảnh thực sự của cô cùng Tần Hoài say sưa ra sao, đến lúc cao trào, cô sẽ chụp cái gối lên mặt Tần Hoài cho đến khi anh ta đi đời nhà ma!
Việc năm xưa cô đã làm không thành công trong căn nàh nhỏ ở núi tuyết, thì nay cô đã có cơ hội mới. Cô sẽ bắt Tần Hoài đi vào giấc ngủ vĩnh viễn, khiến cho Na Lan phải đau khổ cả đời.
Như thế mới là cuộc trả thù đỉnh cao.
Hân Nghi muốn xem thử Tần Hoài đã thực sự mất tri giác bất lực thạt chưa, cô hất hai cánh tay của anh ta ngược lên phía đầu giường, bố trí tư thế chiếm đoạt. Đồ nhãi con Na Lan hãy thưởng thức đi!
Đúng là Tần Hoài đã say bí tỉ, hai tay bị Hân Nghi ném lên đầu giường đập mạnh vào vật cứng bên cái gối mà anh ta không phản ứng gì. Vật cứng đó là cuốn sách “Kính Hoa Nghiêm đồ giải”. Hân Nghi hiếu kỳ mở ra nhìn, cười nhạt, “Sách nhập môn Phật giáo! Anh ta rất hay đến hiệu sách của bọn gay, thì ra anh ta đã từ bỏ ham muốn trai gái! Thế thì tôi sẽ cho anh được thỏa nguyện.” Hân Nghi thấy một cái bì thư kẹo trong cuốn sách, ghi là “Người gửi, Chùa Hoa đô Pháp Vân Quảng Châu; người nhận, Cư sĩ[1] Tần Hoài”.
[1] Người tu tại gia.
Cô rút thư ra xem, chỉ là tờ giấy in vài dòng chữ, đọc xong cô giật mình.
Đó là một tờ thông báo, chùa Pháp Vân chính thức thu nhận Tần Hoài là đệ tử Phật môn, ấn định ngày 27 tháng Ba sẽ xuống tóc. Tức là hai ngày nữa.
Chả trách anh ta không nén nổi muốn thổ lộ cho người lạ nghe mọi chuyện đắng cay của trần ai thế tục, vì hai ngày nữa anh ta sẽ đoạn tuyệt với những chuyện này!
Thấy thế, Hân Nghi nảy ra ý nghĩ, ngày “dâm sát” Tần Hoài sẽ hoãn lại, viêc trả thù Na Lan sẽ nhẩn nha tiến hành, cứa thịt cô ta bằng dao cùn thì vui biết mấy!
Hân Nghi cảm thấy sung sướng và rất hài lòng. Cô rất muốn chia sẻ ngay niềm vui, bèn bấm số gọi Quảng Châu. Người nhận, đầu dây bên kia là một giọng run run rất đáng thương, “A lô...” Tim cô như muốn tan chảy nhưng cô chỉ mỉm cười, im lặng.
Chương 9: Kỳ Nhân Suy Luận
Nhìn quầng thâm dưới mắt Na Lan, Ba Du Sinh lựa lời hỏi, “Chắc đêm qua ngủ không ngon giấc? Vẫn vì cái chữ của Mễ Trị Văn à?” Từ hôm lão nhắc đến tên Na Lan, anh đã cảm thấy không nên để cô tham gia điều tra vụ án này, nhưng lại không còn lựa chọn nào khác.
Na Lan lắc đầu, “Không hoàn toàn.” Cô rất muốn nói, còn vì nhận được điện thoại của Tần Hoài. Nếu Ba Du Sinh quan tâm hỏi thêm câu nữa thì có lẽ cô đã kể thật. Nhưng lúc ấy một viên cảnh sát tên là Vương Đồng lại bước vào phòng làm việc của Ba Du Sinh rồi tiện tay khép cửa lại, vậy là cơ hội để nói đã trôi qua.
“Nhân viên kỹ thuật của chúng ta tạm thời không thể giải được chữ ấy.” Ba Du Sinh vào đề luôn. “Chúng tôi đã hỏi ý kiến vài chuyên gia về văn tự cổ, họ đưa ra mọi lý luận và suy diễn, nhưng quanh đi quẩn lại kết quả vẫn vậy, không thể xác định được mối liên hệ giữa con chữ và vụ ‘ngón tay khăn máu’, cho nên mấy hôm tới đây chúng ta còn phải tiếp tục đổ công sức khám phá xem sao.”
Na Lan nói, “Em cũng đành thất vọng về đại sư Mễ Trị Văn vậy! Em chỉ nhận ra bệnh thần kinh của lão rất nặng chứ không thể nghĩ ra tại sao con chữ ấy lại dẫn chúng ta tìm đến nạn nhân thứ nhất trong vụ ‘ngón tay khăn máu’.” Không hiểu sao vừa nhắc đến bệnh thần kinh, Na Lan lại nghĩ về cú phôn không lời của Tần Hoài. Anh ấy định làm gì? Thần kinh có bình thường không? Hay là định giày vò cô đến suy nhược thần kinh?
Vương Đồng đưa cho Ba Du Sinh một thứ giấy tờ, nói, “Tư liệu nằm cả ở đây, tôi đã xem và không thấy có vấn đề gì.”
Ba Du Sinh toan nói, nhưng thấy ánh mắt Na Lan khang khác, anh chờ một lát rồi khẽ gọi, “Na Lan!” Cô sững sờ, biết mình đang mất tập trung, cô mấp máy nói, “Xin lỗi, em lơ đãng quá!”
“Anh muốn cô cầm tờ giấy có cái chữ của Mễ Trị Văn đem đến cho một người. Người ấy là ai... thì để anh kể cô nghe một vụ việc có thật. Chắc cô còn nhớ hồi ‘vụ án năm xác chết’ kết thúc, anh chưa viết xong báo cáo thì đã phải lao ngay vào một vụ án động trời?”
Na Lan nghĩ ngợi giây lát, rồi nói, “Hồi đó em về quê nghỉ hai tuần... à, nhớ ra rồi, đó là vụ quản lý cấp cao của tập đoàn Vạn Trúc cắt động mạch cổ tay tự sát trong phòng làm việc của mình.”
“Người vợ khăng khăng rằng chồng mình không tự sát nhưng lại không thể chứng minh, thoạt đầu, chị ta có vẻ không đáng tin, lượng thông tin cũng quá ít.”
Na Lan đã thực sự nhớ ra, “Vì chị ta không biết chồng mình đang nuôi ít ra là ba, bốn, năm... à, rất nhiều bồ nhí!”
“Ở hiện trường không có dấu vết vật lộn, nhưng có một bức thư tuyệt mệnh, viết là mình biển thủ công quỹ để buôn bán nhà đất, rồi mắc nợ đầm đìa, bế tắc không làm gì được, anh ta có lỗi với tổng giám đốc và anh em nhân viên... Thư viết tay, các chuyên gia đã giám định đúng là chữ anh ta, còn đóng dấu riêng của anh ta hẳn hoi. Con dấu ấy luôn được cất trong két bảo hiểm của gia đình, ngay chị vợ cũng không thể đụng đến, điều này giúp khẳng định đúng là thư do anh ta viết.”
Na Lan nghĩ ngợi rồi nói, “Dù bút tích là chính xác, dù con dấu là duy nhất, cũng không thể khẳng định 100% là tự sát. Rất có thể vì bị ép buộc mà đương sự phải làm những việc trái với lòng mình.”
“Không loại trừ khả năng này, nhưng cũng khó mà định hướng vụ án là bị sát hại. Anh vẫn ngờ ngợ cho nên chưa kết luận đó là tự sát.”
Na Lan nhớ đến một số tình tiết, “Nghe nói anh cũng chịu áp lực... Bàn tay của tập đoàn Vạn Trúc vươn khắp nơi, họ muốn nhanh chóng kết luận đó là vụ tự sát để giảm bớt các ảnh hưởng tiêu cực và liên lụy...”
Ba Du Sinh không tỏ thái độ gì, chỉ nhìn Na Lan như muốn hỏi, cô nghe ai đồn đại thế? Nhưng cuối cùng lại nói, “Ai cũng biết anh có một tật xấu là, với những vụ án còn nghi vấn, anh không thể tùy tiện kết luận cho gọn chuyện. Cho nên các cấp trên dưới ở Sở cũng chẳng làm gì được anh. Câu chuyện ngắn gọn là thế này, anh có nhận được một bức thư, không phải email cũng không phải tin nhắm, mà là thư viết tay. Người viết thư cho biết ông ta hay nghiên cứu tìm tòi, luôn nể phục công an Giang Kinh tài ba, đọc báo hay tin vụ án tự sát bí hiểm có liên quan đến bút tích và con dấu kia, nên muốn đóng góp chút công sức về mặt kỹ thuật. Anh bèn cầm lá thư tuyệt mệnh đến nàh cộng tác viên bí hiểm nọ. Ông ta phân tích bức thư mất hai tiếng, sau hai tiếng ấy anh tin rằng phải xử lý như vụ mưu sát, đồng thời cũng có ngay mục tiêu về nghi phạm. Kết quả cuối cùng chắc cô đã biết rồi.”
Na Lan gật đầu trầm trồ, “Các anh khui ra một công ty đã lợi dụng tập đoàn Vạn Trúc và viên quản lý kia nhằm gom tiền phi pháp để rửa tiền... hình như đó là công ty Vượng Giang Trí Nghiệp, đúng không? Trước khi rút toàn bộ vốn ra khỏi Giang Kinh rồi chạy sang New Zealand chúng giết viên quản lý này để bịt manh mối, dĩ nhiên còn uy hiếp anh ta phải viết thư. Anh ta có một vợ, hai con và ba người tình, quá nhiều ràng buộc đòi hỏi anh ta phải có trách nhiệm, dù phải hi sinh bản thân, nên anh ta đành làm theo ý bọn chúng. Anh tiết lộ xem, trong bức thư tuyệt mệnh ấy có manh mối gì?”
Ba Du Sinh mỉm cười, “Anh phải khen ông ta một câu đã, ông ta là bậc kỳ tài thứ thiệt!”
“Quen anh đã lâu, lần đầu tiên nghe thấy anh khen người ta là kỳ tài thì chắc chắn là bậc kỳ tài thật rồi!” Na Lan không thể không nhận ra mình đang hết sức tò mò.
“Ông ta cầm bức thư ấy lên, nói ‘anh sẽ phải ngồi chờ khá lâu đấy’. Rồi đọc từng chữ một. Tất nhiên các anh em ở phòng kỹ thuật đã đọc rất kỹ nhưng không phát hiện ra bất cứ điều gì. Sau đó ông ta dựng tờ giấy lên xoay trên xuống dưới dưới lên trên rồi đọc, cuối cùng ông ta lấy cái thước gỗ chặn ngang chặn dọc chéo che bớt một số chữ để đọc. Sau đó rất lâu, ông ta mới ngẩng lên nói ‘ở đây còn có cả tên nghi phạm trong vụ án mưu sát này’. Ông ta dùng bút chì khoanh chữ ‘tôi’ ở dòng thứ nhất của bức thư, sau đó khoanh chữ ‘tôi’ ở dòng thứ hai hơi chếch sang bên; ở dòng thứ ba, ông ta khoanh chữ ‘bị’ và chếch sang bên lại khoanh chữ ‘hại’.” Ba Du Sinh ngẩng nhìn Na Lan.
“Tôi bị hại!” Na Lan khẽ kêu lên. “Trong tình thế bị ép buộc phải viết mà vẫn dùng được mật mã, anh ta quá thông minh!”
Ba Du Sinh cười, “Ta nên khen phò mã tốt áo một câu, nạn nhân tốt nghiệp Đại học Thanh Hoa, chưa đầy 35 tuổi đã ngồi ghế quản lý cấp cao của tập đoàn, nghe nói anh ta còn là nhà thơ nghiệp dư và đã lập trình được một trò chơi diện tử gì đó... chỉ số IQ không hề thấp đâu!”
Na Lan hơi kinh ngạc, “Có lẽ, bậc kỳ tài đọc thư ấy là nhà tiên tri, tin rằng nạn nhân đã để lại mật mã trong bức thư?”
“Cho nên mới gọi đó là bậc kỳ tài! Trước khi liên lạc với anh, ông ta đã nghiên cứu toàn diện về nạn nhân, thậm chí nghiên cứu cả thơ và logic phần mềm trò chơi của anh ta, rồi rút ra hai kết luận. Kết luận thứ nhất cũng giống ý kiến của chị vợ, tức là với cá tính ấy, khả năng anh ta tự sát là cực thấp; con người đó thích phiêu lưu mạo hiểm, năm 28 tuổi và năm 31 tuổi đã hai lần thất bại trắng tay, một lần suýt bị đưa ra truy tố, nhưng đều không suy sụp, còn tiếp tục vươn lên được. Hai là, anh ta thông minh tuyệt đỉnh, biết mình chỉ còn đường chết nhưng không ngoan ngoãn chấp nhận, mà quyết không để hung thủ được sống yên ổn, cho nên rất có khả năng anh ta đã cài thông tin ở trong bức thư cuối cùng này.”
Na Lan, “Anh nói tiếp đi! Sau ‘tôi bị hại’ còn có nội dung gì nữa?”
“Tiếp đó bậc kỳ tài ấy khoanh thêm hai chữ ‘Vương’ và ‘Giang’.”
“Vương Giang, Vượng Giang?! Anh ta đã rất khéo dùng cách đọc chệch âm. Nếu viết thẳng chữ ‘Vượng’ thì hung thủ sẽ phát hiện ra... Nhưng trong bức thư tuyệt mệnh thì khó mà đưa chữ ‘Vương’ vào, trừ phi nhắc đến một ai đó họ Vương.”
Ba Du Sinh lại mỉm cười, “Đó mới là chỗ cao siêu của con người thông minh, và cũng là kỳ tài trong kỳ tài! Cô nói đúng, thực ra cả bức thư không hề có một chữ Vương. Bây giờ anh gợi ý cô, cái câu được bậc kỳ tài nhận ra chữ ‘Vương’ là ‘Hiện nay tôi đã đi vào ngõ cụt’.”
Na Lan ngẫm nghĩ một lúc, rồi nói, À, chữ ‘Hiện’ tách ra được chữ Vương và chữ Kiến.”
Ba Du Sinh cười, “Nếu đứng trước bậc kỳ tài ấy thì cô đừng nói thế, mà phải nói là ‘được chữ Ngọc và chữ Kiến’ mới đúng[1].”
[1] Chữ Hiện, gồm bộ Ngọc ghép với chữ Kiến, khi nằm trong bộ thì chữ Ngọc và chữ Vương viết giống nhau.
Na Lan trố mắt, “Thật mưu trí và tài tình mới nghĩ ra cách đó!”
“Điều tuyệt với nhất là tại sao cộng tác viên ấy lại nhận ra!” Ba Du Sinh khẽ lắc đầu, hình như đến giờ anh vẫn không dám tin. “Cả bức thư, chữ viết rất đẹp, ngay ngắn và đều đặn, riêng chữ Hiện thì bộ Ngọc bên trái và chữ Kiến bên phải hơi bị giãn ra. Bậc kỳ tài nói, chữ Vương (tức bộ Ngọc) đáng nghi, và ông ta đã nắm bắt rất chuẩn, đọc các chữ bố trí chênh chếch như trên đã nói, sẽ được câu ‘Tôi bị Vương Giang hại’.”
“Sau đó các anh sẽ điều tra xem Vương Giang nào liên quan đến nạn nhân, tất nhiên chỉ khoanh vùng Vạn Trúc chứ không tính những người dân thành phố trùng tên, rồi điều tra sang công ty Vượng Giang Trí Nghiệp, cuối cùng phá được vụ án?” Na Lan nói nhẹ như không, nhưng biết quá trình phá án phải phức tạp hơn nhiều.
Quả nhiên Ba Du Sinh nói, “Hoàn toàn không đơn giản như vậy. Nếu bậc kỳ tài không tìm ra thêm một manh mối quan trọng, thì bọn anh đã chậm một bước và con cá mập Vượng Giang Trí Nghiệp đã lọt lưới,” Na Lan nhận ra hôm nay sư phụ Ba Du Sinh nói năng cứ ngập ngừng úp mở, chắc anh lại lên cơn bảo mật!
Cô mỉm cười, “Được, em chiều ý thầy Ba Du Sinh! Manh mối đó thầy đã nhắc ban nãy rồi, đến giờ thầy lại thôi... con dấu chứ gì!”
Ba Du Sinh cười xòa, “Không dám không dám! Đừng gọi như thế kẻo anh phải cấm cô gọi anh là thầy! Nhưng cô đã đoán đúng, một manh mối nữa là con dấu. Anh đưa cho cộng tác viên xem, ông ta đóng thử, rồi so sánh nó với con dấu đóng trên thư tuyệt mệnh.”
Na Lan sực nghĩ ra, “Đúng là chuyện lạ. Con dấu được cất trong két ở nhà, nạn nhân thì rạch cổ tay rồi chết ở phòng làm việc... chỉ có thể coi là vụ tự sát được bố trí từ trước, nạn nhân viết thư và đóng dấu ở nhà, sau đó đến phòng làm việc để tự sát vì không muốn căn nhà bị xúi quẩy.”
“Thoạt đầu, cảnh sát hình sự cũng nhận định là tự sát, rất có lý. Nhưng bậc kỳ tài không chấp nhận. Ông ta bảo bọn anh thu thập các giấy tờ mà nạn nhân đã từng đóng dấu, rồi lại đóng thêm hàng chục con dấu ra giấy, lần lượt so sánh với con dấu ở bức thư, cầm kính lúp soi kỹ... Cuối cùng ông ta nói gì, cô đoán xem?”
Na Lan mỉm cười giả vờ ngô nghê, “Quả nhiên có chỗ khác lạ...”
“Quả nhiên chúng giống hệt nhau!”
Na Lan hơi kinh ngạc, nhưng hiểu ra ngay, “Ông ta nói rằng, thoạt nhìn, có vẻ giống hệt nhau!”
Ba Du Sinh gật đầu, “Các kỹ thuật viên của Sở cũng kết luận, đó chính là con dấu cất trong két sắt. Nhưng bậc kỳ tài nói, thoạt nhìn thì giống hệt nhau nhưng không phải do đóng bằng cùng một con dấu! Nói chung, để giám định dấu son đã triện trên giấy, cảnh sát phải quan sát thật kỹ từng nét chữ, từng vệt dao khắc trên chính con dấu, xem có thống nhất với nhau không. Nhưng vị đại sư này còn nghiên cứu những điều bên ngoài nét chữ. Về con dấu kia, đó là dấu riêng của nạn nhân, nên đã dùng lối khắc âm rất ít thấy.”
“Tức là dấu đóng ra có nét chữ rỗng và phần nền đỏ?”
“Đúng! Vị cao nhân chỉ nền đỏ trên thư tuyệt mệnh, bảo anh nhìn kỹ để so với nền đỏ đóng bằng con dấu nguyên bản. Anh chẳng thấy gì khác nhau cả, đều là màu đỏ cả. Ông ta đưa kính lúp bảo anh xem lại, anh cố nheo mắt quan sát hồi lâu mới nhận ra nền đỏ trên bức thư có chỗ hơi nhạt màu, rất nhỏ, chỉ khoảng hai ba milimet, nhìn bằng mắt thường thì khó mà nhận ra. Còn nền dấu nguyên bản thì màu đỏ rất đều đặn. Cao nhân nói, anh nhìn dấu đóng trên bức thư, màu đỏ khá đều tức là người đóng dấu ấn tay rất đều, nhưng tại sao lại có chỗ hơi mờ rất khó nhận ra? Chứng tỏ vật liệu dùng để khắc dấu không đạt độ đồng nhất, có tạp chất, độ cứng của tạp chất và đá khắc là khác nhau, khi day vào hộp mực rồi triện ra giấy, hiệu quả và độ đậm nhạt sẽ khác nhau. Ông ta giơ con dấu của nạn nhân lên, nói, cái này dùng đá núi Thọ Sơn để khắc, gọi là đá Điền Hoàng, chất đá tuyệt hảo, chỉ cần ấn đều tay thì dấu tin ra sẽ không bao giờ có vệt mờ màu. Cho nên, kết luận rằng đã có kẻ làm giả con dấu của nạn nhân rồi đóng vào bức thư tuyệt mệnh. Con dấu chỉ dùng một lần rồi vứt, thì không cần dùng nguyên liệu đá quý hiếm, cho nên chất đá để khắc chỉ bình thường, và như thế, nó để lại manh mối này.”
Na Lan gật gù, “Để bức tử nạn nhân, chúng vạch kế hoạch thực hiện trong phòng làm việc của anh ta cho chóng vánh, triện cả vào bức thư để tăng độ chân thực, còn phải làm con giấu giả để đỡ công tìm cách đến nhà anh ta lấy con dấu. Nhưng chúng không ngờ lại nảy ra chuyện.”
“Đúng ra là, nếu không có cộng tác viên bất ngờ ấy thì đến nay bọn anh vẫn rất bí. Nhưng cũng nên khâm phục mức độ tinh vi xảo quyệt của bọn tội phạm.” Ba Du Sinh luôn sẵn sàng đối diện với sự thật.
“Việc tiếp theo... để em đoán xem nào... Chắc là chỉ có vài người làm được con dấu y hệt nguyên bản, cao nhân đã chỉ cho các anh biết, sau đó các anh lần lượt loại trừ, tìm ra công ty Vượng Giang và hung thủ?”
Ba Du Sinh gật đầu, “Gần đúng. Cao nhân kia nói, người khắc triện đạt đến trình độ ấy thường giữ phẩm cách, không chấp nhận làm giả con dấu của cá nhân nào, chỉ những kẻ tầm thường hám tiền thì mới nhận làm. Ông ta đã mách bọn anh vài ứng viên. Bọn anh lập tức tìm đến, gã làm giả con dấu một mực chối cãi, nhưng rồi không thể gan lì mãi, gã đã khai nhận rằng khách hàng đó do cậu em vợ giới thiệu. Bọn anh lần theo, tóm được kẻ chủ mưu trong công ty Vượng Giang khi hắn chưa kịp trốn ra nước ngoài.”
Na Lan im lặng, lòng thầm thán phục. Ba Du Sinh lặng lẽ chờ đợi. Rồi Na Lan cũng lên tiếng, “Phải đi gặp cao nhân ấy thôi. Nhưng em đâu có làm về trinh sát hình sự mà anh bảo em cùng đi?”
“Anh không bảo cô cùng đi, mà là cô đi một mình.”
Na Lan hơi ngạc nhiên, nhưng cô nhớ ra đúng là lúc trước Ba Du Sinh đã nói thế. “Sao lại mình em đi? Và tại sao lại là em?” Cô bỗng nhớ lại câu nói quái quỷ của Mễ Trị Văn, chỉ cô mới giả mã được. Nên cô lại nói, “Em đi cũng được, nhưng tại sao anh không đi? Tại sao ông ta không thể đến cơ quan công an các anh?” Cô lại nhớ ra rằng lúc trước Ba Du Sinh nói anh đích thân đến gặp ông ta nhờ giúp đỡ.
“Vị cao nhân ấy... có hoàn cảnh đặc biệt, không thể ra khỏi nhà, cũng không muốn gặp nhiều người lạ... nói cho đúng là mỗi lần chỉ gặp một người. Quy tắc của ông ta là thế.”
“Không ra khỏi nhà? Cũng không gặp người lạ? Sao lại có chuyện như thế được...” Tuy nói vậy, nhưng cô cũng hiểu rằng thế giới và con người vô cùng đa dạng chứ không phải là một thứ logic đơn thuần.
Ba Du Sinh chỉ cười, nết mặt như muốn châm chọc, anh cứ tưởng cô là chuyên gia. Na Lan nói thẳng luôn, “Em mới học nghiên cứu sinh chưa đầy hai năm, đâu phải chuyên gia? Hay là ông ta... mắc chứng ‘sợ nơi đông người’?”
“Chẩn đoán rất sáng suốt!” Ba Du Sinh tán thành.
“Chỉ vì em được gợi ý nhiều đó thôi. Anh gần như đã cho em câu trả lời rồi! Nhưng, nếu đúng là ‘hội chứng sợ đám đông’ thì một lang băm như em không có quyền phát ngôn.” Na Lan nói.
“Liệu thầy lang như Du Thư Lượng có quyền phát ngôn không?” Du Thư Lượng là một trong rất ít chuyên gia thần kinh học ở Giang Kinh.
“Du Thư Lượng? Lời nói có sức nặng miễn bàn! Thì ra anh đã đào bới tận gốc rễ bậc cao nhân kỳ tài ấy?”
Ba Du Sinh nghiêm chỉnh nói, “Không đào tận gốc thì đâu dám đến thỉnh giáo ông ta chuyện cơ mật và những tình tiết liên quan đến vụ án? Cuộc đời ông ta rất trong sạch, gia đình cũng thanh bạch...”
“Anh nhất định bảo em đến một mình à?” Na Lan hỏi lại lần nữa.
“Nếu cô không muốn thì anh đi. Nhưng chỉ một trong hai chúng ta đến được thôi.”
Na Lan do dự giây lát, rồi nói, “Được! Em nghe lời sư phụ, em đi để tìm lời giải cho cái chữ mà chỉ mình em mới gỡ nổi ấy.”
Chương 10: Đến Tìm Đáp Án, Càng Nhiều Câu Hỏi
Bậc kỳ tài mà Ba Du Sinh nói, tên là Sở Hoài Sơn, ở một căn nàh hai tầng nho nhỏ trong khu tập thể trường trung học trực thuộc Học viện Âm nhạc khi Văn Viên. Na Lan xuống taxi, đi trong mưa bụi lất phất vào khu vực rợp bóng cây xanh. Mảnh đất yên bình giữ dòng đô thị ồn ã khiến cô thích thú, đoán rằng cao nhân kia là một thầy giáo kỳ cựu của trường trung học trực thuộc Học viện, hoặc là một người rất giàu có thì mới có thể ờ một nơi dễ chịu như thế này.
Số nhà 85, Ba Du Sinh đã cho cô biết. Ngôi nhà nhỏ, mặt ngoài tường màu vàng chanh, chắc mới quét vôi lại cách đây không lâu, bậc thềm lát đá và các góc tường nhà cũng mới sơn, nhưng vẫn không thể che lấp những chỗ lồi lõm. Na Lan đoán đây là nhà tầng kểu cũ chứ không phải nhà công bình thường. Sở Hoài Sơn có thể ở độc lập trong mảnh đất này, hẳn nhiên phải có quan hệ lâu năm với Học viên Âm nhạc, có quan hệ với các cấp lãnh đạo.
Cô bấm chuông cửa. Bên trong có tiếng bước chân đi xuống cầu thang.
Bước chân dừng ở sau cửa. Người ấy nhìn ra qua mắt thần.
Na Lan mỉm cười, kiên nhẫn chờ đợi.
Rồi cửa mở, nhưng chỉ he hé.
Cô tiếp tục chờ đợi, người ấy sẽ hỏi hoặc mời vào… nhưng sau một phút cửa vẫn he hé và vẫn không thấy người đâu.
“Chào thầy ạ…” Na Lan gọi.
Không trả lời.
Cô lại lặng lẽ chờ đợi. Rất lâu, quá sốt ruột, cô bèn gọi, “Thưa thầy, em vào đây!” Đoạn chùi giày thật kỹ lên tấm thảm đặt ở bậc thềm rồi đẩy cửa bước vào.
Đằng sau cửa là một hành lang trống, đón cô chỉ là hai giò phong lan treo hai bên tường.
Rõ ràng lúc nãy có tiếng bước chân, bây giờ cô bước vào thì vắng lặng, chủ nhân của bước chân ấy như đã tan vào làn hương lan dìu dịu.
“Thưa thầy…” Cô lại gọi.
Đương nhiên vẫn không ai trả lời.
Bên phải là một căn phòng, Na Lan đứng ở hành lang có thể liếc vào, cô nhìn thấy một cái tủ gỗ gụ đựng các bộ đồ trà, thấp thoáng đồ sứ rất tinh xảo. Nền nhà cho thấy đó là gian bếp.
Cô bước thêm vài bước, trước mặt là đầu cầu thang lên gác. Ở dưới bậc thang thứ nhất có hai đôi dép lê thuê hoa kích cỡ na ná nhau, một đôi kiểu nam một đôi kiểu nữ. Đôi dép nam nền vải xanh thêu cảnh sơn thủy, dòng sông có một con thuyền đánh cá; đôi dép nữ màu tím nhạt, thêu hoa mặc lan.
Na Lan hơi ngạc nhiên. Cô tháo giày, xỏ chân vào đôi dép nữ, có cảm giác êm êm như giẫm trên mây. Rồi cô nhẹ bước lên cầu thang, tiếng kêu ken két dưới chân cho cô biết cầu thang này đã ở độ tuổi cổ lai hy, tay vịn trông thật cũ kỹ nhưng không thô ráp, đặt tay vào chỉ thấy trơn mát.
Càng bước lên cao, hương lan vấn vít từ dưới hành lang càng đượm; là thứ hương thơm càng nhiều càng khoan khoái, chứ không phải càng nhiều càng nồng. Trạng thái căng thẳng nãy giờ của Na Lan dần dần tan biến.
Trên gác có ba phòng, nhưng chỉ một phòng đang mở cửa. Cô khẽ gõ cửa, không thấy ai ừ hữ, cô đánh bạo nhìn vào bên trong. Ấn tượng đầu tiên của cô, rõ ràng đây là thư phòng hoặc là phòng tranh, hoặc phòng ngồi chơi đàn. Chính giữa phòng là một cái bàn dài, trên đạt giá cài bút đang treo sẵn bảy tám cây bút lông. Bên cạnh giá bút là nghiên mực và một tập giấy tuyên. Đầu kia bàn đặt mấy cái triện đá, mộ hộp gỗ đang mở, gác chênh chếch vài con dao khắc các cỡ. Cách bàn một khoảng hơi xa có hai chậu rễ cây chạm trổ đang làm dở. Ở một góc phòng kê một cái giá, bên trên đặt cổ cầm, vách gỗ dựng bên cạnh là giá đàn với một cây cello, gần đó là một chiếc kèn cor, mặt tường bên trên treo một ống tiêu và một cây kèn clarinette.
Một mặt tường khác là tủ sách cao sát trần nhà, chứa đầ sách đủ các màu sắc. Na Lan đọc được vài cái tên, Tổng tập về nghệ thuật cắt giấy dân gian Thiểm Tây, Đại số tuyến tính, Niên giám Viện nghiên cứu hải dương học Giang Kinh, Đa tình kiếm khác vô tình kiếm, Data Mining Inference and Predictions... một bộ sưu tập sách đa dạng nhất thiên hạ.
Rồi Na Lan nhìn thấy người con gái. Trong một bức tranh.
Cô bước lại gần, đó là bức tranh sơn dầu rộng bằng một ô của tủ sách. Một nhan sắc nghiêng nước nghiêng thành, vẻ diễm lệ tự nhiên không son phấn, mũ trắng rộng vành, váy áo màu hồng, có vẻ như con người của thập kỷ 70-80 thế kỷ trước?
Điều thu hút Na Lan là ánh mắt hơi u buồn của cô gái trong tranh.
“Mẹ tôi đấy.”
Giọng nói từ phía sau vang lên khiến Na Lan giật mình quay lại. Một thanh niên cao gầy, có đôi mắt hơi u buồn giống cô gái trong bức họa.
“Tôi chụp... ảnh mẹ tôi ngày trước, rồi vẽ lại. Còn vụng lắm.” Người ấy nói.
“Xin lỗi. Tôi không cố ý xem trộm, nhưng quả là tôi rất không lịch sự...” Na Lan lúng túng không biết nên giải thích thế nào.
“Tôi mới nên xin lỗi chứ, tôi đã không lịch sự... tôi không ra đón khách...” Người ấy bước lên mấy bước. Mái tóc đen hơi xoăn và khuôn mặt trắng xanh. Rất tuấn tú. Na Lan chợt thấy rung động.
Còn nhớ năm xưa, lần đầu gặp Tần Hoài, cô cũng có tâm trạng thế này. Một sai lầm chí mạng.
Tự nhiên cô lại nhớ đến Tần Hoài, và thấy mình vô tội, tình yêu ngắn ngủi kết thúc đột ngột, Tần Hoài bỏ đi Lĩnh Nam điều trị vết thương cơ thể và cả vết thương lòng, gần hai năm qua cô chỉ nghe loáng thoáng về anh qua người khác, chứ không nhận được tin gì từ chính anh cả. Cô đã vài lần gửi email nhưng cũng chẳng khác gì mà xóa thư cho vào “thùng rác”. Cô có đủ lòng tự trọng để không đi tìm Tần Hoài bằng xương bằng thịt, cô chỉ biết lâu nay ngoài cuốn Hồ tuyệt mệnh ra, nhà “sản xuất văn” này không có tác phầm nào khác.
Mãi cho đến cú phôn không lời đêm qua.
Cô lại bâng khuâng nhớ đến Cốc Y Dương, giữa gian nguy trong núi tuyết, dường như mối tình xưa đã trở lại, nhưng rồi anh bỏ mình để cứu cô thoát hiểm. Đây có phải định mệnh không, rằng những ai yêu cô sẽ rời xa, dù theo những cách khác nhau đi nữa?
Để mình cô ở lại.
“Cô là Na Lan phải không?” Chàng thanh niên khẽ hỏi. Giọng anh dịu dàng, hơi trầm và cũng có nét u buồn, giống tiếng đàn cello ngân khẽ.
Nhận ra mình đã mất tập trung, Na Lan hơi đỏ mặt, gật đầu, “Vâng... tôi đến gặp thầy Sở Hoài Sơn.”
“Sáng nay đội trưởng, Ba Du Sinh, đã nhắn tin cho tôi. Nói là cô hoặc anh ấy sẽ đến gặp tôi.” Anh ta chỉ vào cái ghế duy nhất trong căn phòng. “Mời cô ngồi.”
Na Lan hơi kinh ngạc, “Anh là... thầy Sở Hoài Sơn?” Nhưng cô lại cảm thấy mình quá thộn. Ba Du Sinh đã nói Sở Hoài Sơn mắc chứng “sợ đông người”, mỗi lần chỉ tiếp một khách, thì đương nhiên không sống trong một gia đình lớn, cho nên Sở Hoài Sơn chỉ có thể là anh ta. Cô lại chưa hỏi Ba Du Sinh tuổi tác và dáng vẻ Sở Hoài Sơn thế nào, chỉ tâm niệm và hình dung đó là một ông trung niên hoặc cao tuổi với bộ râu dài chứ không nghĩ lại là một thanh niên.
Đoán ra tâm trạng của Na Lan, Sở Hoài Sơn mỉm cười, “Họ tên tôi, nghe rất cổ lỗ nên, khiến nhiều người hiểu lầm. Trước đây có vị khách, đã nói với tôi, ‘Tôi muốn gặp, thầy Sở của anh’.”
Na Lan cũng cười, “Xin lỗi, vì tôi có ấn tượng chủ quan nên... và, càng phải xin lỗi anh, chưa chờ anh nói thì tôi đã đi dép lê... mong sao tôi không đi nhầm dép.” Sở Hoài Sơn đang đi đôi dép lê màu xanh, thêu hoa văn na ná hình chim sẻ.
Như thế là ngụ ý gì?
Nhận ra ánh mắt thắc mắc của Na Lan, Sở Hoài Sơn hỏi, “Đoán xem, tại sao lại là, con chim nhỏ?”
Na Lan chú ý đến cách nói của anh ta, nhát gừng, câu rất ngắn. Cô đáp, “Không thể nói dối trước mặt cao nhân, đúng là tôi đang nghĩ, không biết anh có mấy đôi dép lê, nhưng có lẽ hai đôi đặt dưới kia là chuẩn bị cho tôi và anh Ba Du Sinh vì anh biết sau đây có thể anh ấy cũng sẽ đến... Đôi dép nam thêu cảnh sơn thủy - Ba sơn Du thủy[1] - chắc là ám chỉ Ba Du Sinh; dép nữ thêu hoa lan, tôi liều vơ vào vậy, ám chỉ chữ Lan trong tên tôi thì phải...” Cô còn định nói thêm một câu nữa...
[1] Núi Ba, sông Du.
Sở Hoài Sơn mỉm cười, “Đội trưởng Ba Du Sinh khen cô rất có, năng lực quan sát, không hề quá lời.”
“Anh có cần tôi kể lại anh ấy đã ca ngợi anh thế nào không?” Na Lan cũng mỉm cười, cô bỗng cảm thấy nói chuyện với bậc kỳ tài này rất dễ chịu, không có cảm giác gò bó như đứng trước mặt một số người tự coi mình là cao nhân. Theo học nghiên cứu sinh gần hai năm qua, cô đã gặp vô số nhân vật tự coi mình là nhất rồi.
Sở Hoài Sơn xua tay, “Xin miễn cho. Cả tên cô, cũng xin miễn cho...”
“Cho nên tôi đoán rằng con chim thêu trên đôi dép cũng có ý nghĩa...” Cô vẫn trở lại “chủ đề cũ”.
“Cô đoán là...”
Na Lan hơi do dự, rồi nói, “Tôi chẳng có manh mối gì hết!”
“Tức là, cô không biết hay là không muốn nói ra?” Giọng Sở Hoài Sơn hơi trầm xuống.
Gã này thật lợi hại! Na Lan ngẩng đầu nhìn anh ta, cô cố thể hiện thật bình tĩnh, “Trước khi tôi đến đây, anh Ba Du Sinh đã giải thích tại sao anh chỉ có thể tiếp chuyện một người.”
Hình như sắc mặt Sở Hoài Sơn càng trắng nhợt thêm? “Cho nên, con chim thêu có, liên quan đến căn bệnh của tôi, chứ gì?”
“Một con chim tự do, là điều anh hướng tới. Anh không muốn chen chúc giữa sự ồn ào phức tạp, ở một mình trong căn nhà nhỏ nhưng lòng anh vẫn hướng ra thế giới bên ngoài, không muốn làm con chim trong lồng và mong mình có thể tung cánh bay...”
“Nghiên cứu sinh tài ba của khoa Tâm lý Đại học Giang Kinh, quả là không phải chỉ có hư danh!” Sắc mặt Sở Hoài Sơn lại trở lại hiền hòa điềm tĩnh, anh mỉm cười.
Na Lan đắn đo định nói lại thôi, nhưng rồi cô vẫn nói, “Thực ra tôi không phải nhà tâm lý học tài ba, nhưng tôi vẫn có thể giúp anh.”
Sở Hoài Sơn hơi sửng sốt, hình như anh không quen với những đề nghị nhiệt tình. “Chuyên gia giỏi nhất về thần kinh, ở Giang Kinh là Du Thư Lượng, đã điều trị cho tôi, có kết quả nhưng còn xa, mới chữa được tận gốc.”
Na Lan định nói rằng, chữa trị chứng “sợ đám đông” không cần ác sĩ cao siêu, mà điều quan trọng là bệnh nhân phải quyết tâm và kiên trì. Cô chưa kịp nói thì Sở Hoài Sơn đã lên tiếng, “Trà đây rồi!”
Hai tay anh không có gì hết. Na Lan kinh ngạc nhìn ra mé cửa, chẳng rõ lúc nào, một phụ nữ đã bưng khay trà đứng đó.
Thì ra không phải anh ta ở một mình.
Cả hai người của nhà nay đều xuất hiện hết sức lặng lẽ.
Na Lan định nói “Chào bác ạ” vì trông người ấy có vài nét hao hao bà mẹ Sở Hoài Sơn trong bức tranh, nhất là đôi mắt. Nhưng cô lập tức xóa bỏ ý nghĩ đó, vì người phụ nữ này không nó nét duyên dáng, dịu dàng và đặc biệt là nét u buồn như người phụ nữ trong tranh. Ánh mắt người này cứng nhắc, lạnh lùng và không thân thiện.
“Cảm ơn!” Na Lan tươi cười đón chén trà, mong sẽ làm dịu bầu không khí.
Nhưng vô ích, sắc mặt người ấy vẫn lạnh lùng.
Na Lan đoán rằng, lúc nãy người phụ nữ này đi xuống mở cửa rồi lánh vào bếp chuẩn bị pha trà, cho nên tiếng bước chân ấy biến mất. Cô nhìn xuống đôi chân bà ta, không thấy đi dép lê, chỉ đi đôi bít tất trắng.
Sở Hoài Sơn giới thiệu, “Đây là dì Tư của tôi. Từ sau khi mẹ tôi qua đời, dì chăm sóc tôi suốt.” Nói đến hai chữ “qua đời”, hình như giọng anh nặng nề hẳn đi? Phải chăng bà mẹ mất sớm khiến anh ta mất cảm giác an toàn, rồi diễn biến thành nỗi sợ hãi? Cha anh ta đâu? Nhưng cũng may vì còn có người thân luôn ở bên. Nên phụ đề mấy câu vậy, người mắc chứng “sợ đám đông” đồng thời cũng sợ sống khép kín hoàn toàn. Vấn đề cốt lõi của họ là thiếu cảm giác an toàn.
Tôi có thể giúp anh.
Nhưng ai sẽ giúp tôi đây?
Na Lan bỗng có cảm giác đồng bệnh tương lân. Khi đứng gần Mễ Trị Văn, cô luôn cảm thấy bị đe dọa. Cô nhớ lại những sự kiện trải qua, cha cô bị hại, luận văn tốt nghiệp đại học làm về phỏng vấn các phạm nhân hình sự, bị cuốn vào vụ án “năm xác chết”, các hiểm họa ở núi tuyết, ngón tay đứt lìa... Hiểu biết nhiều về tội ác, thì sẽ xuất hiện hai trạng thái cực đoan, hoặc ngày càng chai sạn hoặc ngày càng nhạy cảm. Rất không may, cô rơi vào tình huống thứ hai.
“Muốn hỏi, mục đích của cô?” Sở Hoài Sơn một lần nữa cắt ngang dòng suy nghĩ của Na Lan.
Hôm nay mình sao thế này, cứ hay lơ đãng?
“Chúng tôi nhờ anh tìm một bí ẩn.” Na Lan lấy ra tờ giấy thiên thư của Mễ Trị Văn. “Một chữ bí hiểm.” Ba Du Sinh đã gọi điện cho anh rồi, chắc anh ta phải biết ít nhiều về mục đích của cô. Nghe Ba Du Sinh kể về Sở Hoài Sơn, hiểu rằng bậc kỳ tài này coi trọng chi tiết nên cô đã chuẩn bị để nói kỹ càng. Sở Hoài Sơn đưa bàn tay trắng xanh ra cầm tờ giấy, nghe Na Lan thuật lại vụ án ‘ngón tay khăn máu’ và cuộc tiếp xúc với Mễ Trị Văn. Anh ta nhìn con “chữ” rất lâu, không nói gì.
“Mễ Trị Văn nói, chỉ tôi mới có thể giải được câu đố này.” Cô định cười nhạt nhưng không sao cười được. “Và anh cũng biết đấy, tôi hoàn toàn không nhận ra điều gì.”
“Khiêm tốn quá...”
Na Lan khẽ thở dài, “Thôi được, cũng không hẳn là tôi không nghĩ gì. Trước hết, đây là một trò chơi của lão. Cũng như các trò chơi thể dục thể thao hoặc trò chơi trên mạng, trò chơi này cũng đi từ nông đến sâu, để cho người chơi có chút khoái trá đã rồi dần say mê. Nếu không, tôi đã bỏ cuộc từ sớm.”
Sở Hoài Sơn tủm tỉm, “Xem ra, Mễ Trị Văn đã tìm đúng người chơi rồi!”
Na Lan gượng cười, “Cảm ơn anh động viên. Cho nên, cái chữ oái ăm này chắc sẽ không quá mệt óc... đương nhiên là dưới sự giúp đỡ của anh, có lẽ sẽ không khó lắm. Chắc chắn lão ta đoán rằng tôi sẽ đi cầu cứu cao nhân. Một cách nghĩ khác là, nếu nói chỉ tôi mới giải mã được thì tức là một phần nào đó của chữ này có liên quan đến tôi.”
“Cô đã có, cách nghĩ thế này, thì đâu cần, anh mọt sách như tôi, hỗ trợ.”
“Nhưng tôi không biết nên bắt đầu từ đâu.”
“Cô đã nói là, chữ này, không khó lắm; một phần nào đó, có liên quan đến cô. Cách đơn giản, bước đầu là, tách nó thành vài bộ phận; Mễ Trị Văn đã tự xưng, là Thương Hiệt, thế thì phép tạo chữ, nguyên thủy, và trực tiếp nhất, là chữ tượng hình.”
Na Lan nhìn lại con chữ, nhẩn nha nói, “Chữ tượng hình... thì phần trên cùng là chữ Nhân...”
Sở Hoài Sơn gợi ý, “Là chữ Nhân, hoặc chữ Nhập. Theo thể chữ thông dụng Tân Tống thì là chữ Nhân; nhưng nếu theo thể chữ Triện, hoặc vài thể chữ cổ khác thì nó giống chữ Nhập hơn. Người thời cổ phát minh ra chữ viết, Thương Hiệt có công truyền bá. Đây là, ý kiến của riêng tôi, có nhiều khả năng, nó là chữ nhập.”
“Tạm coi phần trên cùng là chữ Nhập, vậy phần giữa thì sao? Nếu là tượng hình, thì nó vẽ cái gì? Hình như là chữ Điền hoặc chữ Tinh, hoặc chữ Khai. Phần dưới cùng thì trực quan rồi, đó là chữ Thập. Nhưng phối hợp tất cả lại, vẫn không thu được kết luận gì.”
“Nếu cô đã, không thể kết luận, thì tôi cũng đành thở dài vậy.”
Na Lan nghĩ bụng, là bậc kỳ tài kia mà, anh không thể không biết!
Sở Hoài Sơn nói như khuyến khích, “Chắc là, cô không thích, nghe câu này, nhưng tin rằng Mễ Trị Văn, không đùa bỡn cô, đúng là chỉ cô mới, có thể đoán ra, chữ này.”
“Nhưng...”
“Việc này, không thể vội vã.” Sở Hoài Sơn cầm một con dao khắc dấu trên bàn lên, khẽ thổi một cái, cứ như là vài hạt bụi đá dính vào mũi dao cũng không thể thoát nổi cặp mắt thần của anh ta. “Chắc anh Ba Du Sinh, đã kể rằng tôi và anh ta, từng hợp tác, vụ thứ nhất, vụ án tự sát giả.”
Na Lan nói, “Một câu chuyện rất hay.”
“Chắc anh ta đã nói, tôi phải tốn rất nhiều thời gian, để xem con dấu ấy.”
“Tôi đang chờ anh lấy kính lúp ra.”
Sở Hoài Sơn nhìn Na Lan, sắc mặt rất tươi, “Lần đó tôi nghiên cứu, là một đối tượng đã hình thành, con dấu đã in lên giấy, tôi thậm chí có ngay ấn tượng, biết là có người, đang hãm hại, viên quản lý đó, cho nên có thể tập trung sức chú ý. Nhưng hôm nay chữ này là một thứ giấu mặt, chúng ta không biết Mễ Trị Văn đang thiết kế một trò chơi như thế nào. Ta có thể suy ngẫm về một dấu son đã in rành rành ra đó, nhưng đối với một thứ đã được thiết kế tỉ mỉ, thì lẽ nào ta không cần tốn thời gian suy nghĩ nhiều hơn? Cô nên biết tuy đây chỉ là bước đầu tiên trong trò chơi của lão ta, nhưng chắc chắn không thể chỉ thoáng nhìn là khám phá được ngay. Nếu không thì, hóa ra là cảm hứng của bậc thầy tạo chữ ấy rất tầm thường hay sao?”
Thật hiếm có, Sở Hoài Sơn đã nói liền một hơi! Na Lan cảm thấy vã mồ hôi thay anh ta. Cô nhíu mày, “Anh phân tích rất có lý. Chỉ hiềm, trở về tôi sẽ rất khó ăn khó nói với đội trưởng Ba Du Sinh.”
“Cô cứ nói thật, nói rằng cao nhân kỳ tài này chỉ là người rất đỗi bình thường.”
“Anh khiêm tốn như thế, thì anh ấy sẽ nghĩ là anh kiêu ngạo.”
Sở Hoài Sơn khẽ thở dài, “Những người như tôi đôi khi cũng kiêu ngạo quá mức!”
“Hay là tôi nên nói với anh ấy rằng, kiên nhẫn là một đức tính?” Na Lan có phần bất mãn.
Lời cảnh báo “vụ án ‘ngón tay khăn máu’ sẽ còn tiếp diễn” lại vang bên tai cô.
Nhìn theo bóng Na Lan khuất hẳn ở góc phố, người phụ nữ lạnh lùng nói, “Cô ta rất nguy hiểm.”
Sở Hoài Sơn chỉ im lặng, nheo mắt nhìn dì Tư.
“Cháu đừng nhìn dì như thế!” Dì Tư mắng. “Mỗi lần dì nói toạc ra tâm tư của cháu, cháu lại lầm lì với dì.”
Sở Hoài Sơn vẫn không hé răng.
“Định chiến tranh lạnh với dì đến cùng chắc? Dì không ngán đâu! Cháu đã thích nó, đúng không?”
Rốt cuộc Sở Hoài Sơn cũng nhẩn nha nói, “Dì khích tướng khéo thật! Nếu cháu cứ ngậm miệng, chắc dì sẽ nói cháu im lặng là thừa nhận chứ gì?”
Dì Tư lắc đầu, vẻ khó tin, “Lẽ nào chỉ gặp một lần cháu đã...”
“Cho nên, ngay dì cũng cảm thấy là không tưởng đúng không? Thực ra, mỗi lần dì cho rằng mình nhìn thấu tim gan cháu, đều chỉ là... dì tự nghĩ thế thôi.” Sở Hoài Sơn than thở. Nói thật, mất lòng!
“Cháu cho rằng dì không nhận ra thật à? Nó ở đây chỉ nửa giờ mà cháu mỉm cười suốt. Còn dì, dì ở với cháu bấy nay mà chưa từng thấy mặt cháu tươi tỉnh lâu đến thế.”
Sở Hoài Sơn hơi sửng sốt, “Giả sử dì cảm thấy cháu có vẻ khác thường, thì dì cũng không cần thiết phải hà khắc như thế.”
Ngực dì Tư phập phồng rõ mạnh, hồi lâu sau mới dịu giọng nói, “Sơn à, lẽ nào cháu không hiểu dì lo cho sự an toàn của cháu? Cô gái đó rất nguy hiểm.”
Sở Hoài Sơn cúi nhìn con chim thêu trên dép lê. “Lẽ nào, chỉ vì cô ấy khuyên cháu hãy ra khỏi căn nhà này?”
“Không phải thế. Mà là vì chính cô ta. Báo chí đã viết mãi rồi, cháu không thể không biết những gì cô ta đã trải qua. Có những người bẩm sinh đã bị những mối nguy bám riết. Những ai gần gũi cô ta đều đã gặp bất hạnh.”
“Dì cũng có thể, dùng những câu này, để hình dung mẹ cháu.” Vẻ mặt Sở Hoài Sơn trở lại đờ đẫn như mọi ngày, buồn thương bao phủ khuôn mặt anh. Dì Tư đã đạt được mục đích của mình rồi đấy!
“Nói bừa!” Dì Tư định nổi nóng, nhưng Sở Hoài Sơn quay lưng lại. Dì biết, khi đứa cháu giở tư thế này ra thì nói nữa cũng vô ích.
Dì mím chặt môi, xoay người lặng lẽ bước đi. Đi đến đầu cầu thang, giọng của Sở Hoài Sơn bỗng vang lên sau lưng, “Tại sao... dì lại... bỏ dép ra?”
Vì dì muốn bước chân mình thật êm, để có thể nấp ở chỗ khuất quan sát cô gái nguy hiểm kia.
Chương 11: Đất mọc tay
Lão nằm trên giường, người lúc thì rã rời như thể xướng cốt nát nhừ , lúc thì đau đớn ngạt thở như bị trói chặt cứng. Thượng đế có thể lấy lão bất cứ lúc nào.
Có thượng đế hoặc Phật tổ thật không? Nếu có, thì tại sao họ lại bất công với lão nhường này? Lão bị giày vò từ nhỏ, từ lúc ngây thơ nhất! Cho nên không hề có thượng đế hay Phật tổ; hoặc nếu có thì lẽ ra họ không được hưởng quá nhiều vinh dự như thế, không được nắm giữ số phận của nhiều người như thế.
Vì vậy lão phải thiết kế ra trò chơi của mình.
Mục tiêu tiếp theo đã được lựa chọn, rất hoàn mỹ và phù hợp với mọi yêu cầu. Chỉ cần lão vẫn còn hít thở đến ngày hôm đó thì tất cả vẫn có thể tiếp tục thực hiện như kế hoạch.
Vụ án “ngón tay khăn máu” sẽ tiếp diễn.
Trước giờ nhà ăn đóng cửa, Na Lan mua được suất cơm rồi ngồi một mình nhấm nháp. Đầu óc cô vẫn hiện lên ký tự kỳ quái do Mễ Trị Văn sáng tạo ra. Thỉnh thoảng hình ảnh ngôi nhà gác nho nhỏ kỳ quái và hai chủ nhân của nó cũng lướt qua. Chỉ trong nửa ngày đã có quá nhiều chuyện kỳ quái.
Khác với hình dung của cô, Sở Hoài Sơn rất trẻ, hào nhã, khiêm tốn. Điểm đặc biệt nhất của anh ta là luôn tỉ mỉ từng li từng tí, chỉ đôi dép lê cũng rất chỉn chu. Dì Tư thì khiến người ta hết sức khó hiểu. Na Lan không cần giao lưu thêm cũng nhận ra thái độ hằn học không che giấu của người ấy. Tại sao lại thế? Là ý thức che chở và ghen tị của giống cái chăng? Tại cô chưa hề thể hiện mong muốn trở thành tri âm tâm đắc của người cháu tài ba nhà bà ta chăng?
Na Lan nhìn di động đang đặt trên bàn. Từ sau tối hôm qua, số máy quen thuộc ấy không lóe lên nữa. Tần Hoài đang giở chứng bỡn cợt gì không biết.
“Lan muội đang thẫn thờ gì thế?” Cô gái không mời mà đến, ngồi xuống bên cạnh Na Lan. Một cô gái rất hay cười. Khuôn mặt cô không thực sự hài hòa, nhưng đôi môi luôn nở nụ cười đã bù đắp đáng kể.
Đào Tử!
Đào Tử là bạn thời đại học rồi lại làm bạn nghiên cứu sinh với Na Lan, kể cả khi không học họ vẫn luôn quấn quýt, vì ở cùng một phòng trong ký túc xá. Họ rất hiểu nhau, đến nỗi người này nói ra câu trước thì người kia có thể nói tiếp câu sau. Hai năm qua có vài gã thích trêu ngươi thường gửi vào hộp thư của họ những cuốn tiểu thuyết bách hợp [1], thoạt đầu hai cô rất tức giận, ít lâu sau thì coi như “trơ” rồi, không thèm để ý nữa.
[1] Tiểu thuyết về đồng tính nữ
Na Lan nói, “Còn có thể là gì khác? Đương nhiên là mình đang nhớ đến ai đó…” Thực ra là cô đang nhớ đến con chữ kia, nhưng cô biết dù mình không nói trại đi thì Đào Tử cũng sẽ quy kết về Tần Hoài, đã nhiều lần Đào Tử khuyên cô hãy đá phăng Tần Hoài cho nhẹ nợ. Nhưng cô không làm được. Sau lần trùng phùng ngắn ngủi với Cốc Y Dương, tình xưa vừa nồng ấm trở lại thì đã tan vỡ. Chính Na Lan cũng không biết những lúc thẫn thờ nhớ nhung thì cô nghĩ đến ai.
Đào Tư cười nhạt, “Cậu định lừa ai thế? Nếu đang nhớ đến Tần Hoài thật thì cậu sẽ không nói ra!”
Đúng, chỉ có Đào Tử thấu hiểu cô.
“Mình nói thật vậy, hôm nay mình gặp một anh rất điển trai”. Na Lan do dự, không biết có nên kể cho bạn nỗi sợ hãi đối với Mễ Trị Văn hay không. Đào Tử là bạn chí thân, cô không muốn bạn chí thân vị cuốn vào cùng nguy hiểm nhất trong cuộc sống của cô. Nhưng cô lại thấy ý nghĩ này thật buồn cười, Mễ Trị Văn như khúc gỗ mục bị trói trên giường bệnh thì có gì là nguy hiểm?
Vụ “ngón tay khăn máu” sẽ còn tiếp diễn! Là sự đe dọa vô căn cứ hay là lời dự báo không hề úp mở?
Nghe Na Lan kể xong mọi điều tai nghe mắt thấy ở căn nhà Sở Hoài Sơn, Đào Tử nhẩn nha nói, “Anh chàng này cũng hơi thú vị đấy! Hội chứng “sợ đám đông” không phải bênh bẩm sinh, cảnh ngộ của anh ta ra sao?”
“Một là, cha mẹ đều mất, đứa trẻ từ nhỏ sẽ thiếu cảm giác an toàn.” Na Lan vẫn nghĩ, liệu có phải mất cảm giác an toàn bắt nguồn từ việc người cha bị hại một cách khác thường không?
Đào Tử chỉ ra, “Nhưng anh ta vẫn còn có tình thường của dì Tư.”
“Mình cho rằng không ai có thể thay thế cha mẹ.” Cô còn định nói dì Tư là nhân vật rất thú vị ở ngôi nhà nhỏ ấy.
“Điều thứ hai là gì?” Đào Tử hỏi.
“Có lẽ vị cao nhân này hồi nhỏ mắc tật nói lắp.” Na Lan nói. Mình không có căn cứ gì, nhưng anh ta thường nói nhát gừng, nói câu ngắn, nghe hơi kỳ lạ, đôi khi ngừng ngắt giữa chừng. Trẻ con nói lắp thường bị bạn học chế nhạo, vì thế mà thấy sợ đám đông, sợ giao tiếp.”
“Cậu ngẫu nhiên nói đến nỗi đau của mình rồi đấy, hôm nay mình đến bệnh viện Giang Kinh dạy Tâm lý học dẫn luận cho cánh trẻ , học sinh thời nay thái độ rất kém!”
Na Lan cười ngặt ghẽo, “Nhất là khi nhìn thấy cô giáo mỹ nhân dạy Tâm lý học, nam sinh thì được ngắm, nữ sinh thì vừa ngưỡng mộ vừa ghen tị, thái độ của họ tốt sao được?”
Buổi chiều, Na Lan phải lên lớp trợ giảng đến 5 giờ rưỡi. Khi cô chuẩn bị rời văn phòng thì chuông di động réo vang.
Sở Hoài Sơn gọi. Cô hơi bất ngờ.
“Cả chiều nay tôi nghĩ đến cô…”
Na Lan đỏ mặt. Sao anh ta có thể thế này?! Lẽ nào kỳ tài này còn là kỳ tài tán tỉnh?
Nghe tiếp thì cô mới hiểu, câu đầy đủ của Sở Hoài Sơn là “cả chiều nay tôi nghĩ đến cô, thuật lại lời Mễ Trị Văn, rằng ‘chỉ có cô mới có thể giải mã’.” Na Lan gượng cười, nhớ lại lúc trưa mình có kể với Đào Tử về tật nói ngắn, nhát gừng, ngắt câu không đúng chỗ của Sở Hoài Sơn, khiến người nghe hiểu lầm.
“Anh nói tiếp đi!” Na Lan tin chắc anh ta đã nhen nhóm ý tưởng nên mới gọi điện cho cô.
“Nói là chỉ cô mới có thể giải mã, thì chữ này phải liên quan đến cô. Hai phần trên dưới, gồm chữ Nhân hoăc Nhập, và chữ Thập, đều rất hay gặp. Đáng chú ý chỉ là, phần giữa của chữ này.”
“Nó hơi giống chữ Điền, phải không?”
“Tôi khẳng định không phải chữ Điền.” Giọng Sở Hoài Sơn rất tự tin. “Từ thời cổ đến giờ, chữ Điền luôn được khoanh kín xung quanh, còn chữ này thì bên dưới bỏ ngỏ, ở giữa có hai nét sổ, trông giống chữ Sách [2] hơn.”
[2] Chữ Điền (田), chữ Sách ( )
“Vậy nó có thể là chữ gì? Hay chẳng là chữ gì cả?”
“Cô đã trồng trọt bao giờ chưa?”
Na Lan cảm thấy quá xa xôi, “Tôi sống ở thị trấn, chưa trồng cây bao giờ cả.”
“Nhưng chắc cô đã nhìn thấy ruộng?”
“Có chứ! Nhưng anh vừa nói… phần giữa không phải chữ Điền?”
“Cô nghe cho kỹ đây.” Giọng Sở Hoài Sơn trở nên già dặn . “Bây giờ cũng ‘chỉ cô’ mới làm được, cô nhớ lại xem, cô đã từng nhìn thấy ở đâu đó một dấu hiệu, một bức vẽ , phù điêu, hoặc một kiến trúc … có thể là nằm ngoài ruộng đồng… trông na ná bộ phận ở giữa con chữ này không?”
“Dấu hiệu? Ở ruộng đồng?” Na Lan lẩm bẩm, và cố nhớ lại. Có vài hình ảnh, vài chuyện xưa cũ thấp thoáng lướt qua trong đầu.
Cô tĩnh tâm suy nghĩ, Sở Hoài Sơn cũng im lặng, để cô có thời gian và tinh thần hồi tưởng. Lát sau anh bổ sung một đặc điểm then chốt, “Chi tiết ấy có liên quan đến chết chóc, đến vụ án “ngón tay khăn máu” mà cô muốn khám phá. Chết chóc…”
Na Lan bỗng đứng lên. Hình ảnh chập chờn trong đầu lúc nãy… cô gần như đã có thể liên hệ các sự việc lại với nhau. Liên quan đến chết chóc!
“Tôi nhớ ra rồi. Tôi đã từng nhìn thấy một thứ giống như phần giữa của những chữ này.”
“Thế à?”
Cô đã nhớ ra, trong “vụ án năm xác chết” hồi nọ, cô từng đến vùng ngoại thành Lĩnh Nam để tìm khu mộ của gia đình “nhân vật số 1 Lĩnh Nam” Quảng Cảnh Huy. Ở đó có xây một cổng chào viết bốn chữ “Quảng thị âm thổ”. “Thì ra, hình tượng ở phần giữa cái chữ kia là cổng chào! Nằm giữa ruộng đồng và đương nhiên có liên quan đến chết chóc, vì cổng chào ấy xây ở lối vào khu mộ.”
Sở Hoài Sơn nói tiếp, “Đúng là rất giống. Rất hay gặp. Kết cấu của cổng chào kiểu đó là bốn trụ, ba cổng. Mễ Trị Văn nói đúng đấy, chỉ cô mới có thể giải được câu đố!”
“Thế mà gọi là đã giải được à?” Na Lan ngạc nhiên, nhưng mau chóng hiểu ra.
Con chữ quái dị của Mễ Trị Văn, trên cùng là chữ Nhập (đi vào), phần giữa là cái cổng chào chỉ mình Na Lan nhận ra, ngụ ý là nghĩa địa. Tức là tung tích của Nghê Phượng Anh ở đâu? Ở nghĩa địa! Có nhiều khả năng là “đã nhập mộ rồi”.
Xuống đất. Đã bỏ mạng.
Nhưng ở nghĩa địa nào?
Sở Hoài Sơn vẫn im lặng. Na Lan hiểu rằng anh ta muốn cô đưa ra kết luận. Cô thận trọng hỏi, “Có phải chữ Thập bên dưới là manh mối để tìm ra ngôi mộ không? Nó sẽ ở đâu? Có lẽ nó là tên của một nghĩa trang?”
“Các vụ ‘ngón tay khăn máu’ xảy ra ở Giang Kinh.” Sở Hoài Sơn tiếp tục gợi ý.
“Nghĩa trang chủ yếu của Giang Kinh là nghĩa trang Vạn Quốc. Nhưng hình như còn có nhiều nghĩa trang mới, an trí bên ngoài năm tuyến vành đai. Tên là nghĩa trang Bách Kiều, nghĩa trang…”
“Tây Sơn công mộ, Vĩnh Lăng viên, Vong Xuyên công mộ, Mai Hạc đường… trong các tên này đều có chữ Thập.” Sở Hoài Sơn không ra khỏi nhà nhưng dù sao vẫn là dân Giang Kinh, anh thuộc lòng tên các nghĩa trang.
Nhập, mộ, thập… chữ Thập sau khi chết?
Na Lan bỗng thốt lên, “Cơ đốc giáo! Giang Kinh có nghĩa trang của Cơ đốc giáo không?”
Ở đầu dây bên kia, Sở Hoài Sơn thở ra một hơi, không rõ là cảm xúc gì. Phải chăng anh ta đã đoán ra rồi? Lát sau anh ta mới nói, “Ở Giang Kinh có một nghĩa trang Thiên chúa giáo, tọa lạc đằng sau một nhà thờ cũ, nằm ở vùng giáp gianh hai khu Văn Viên và Tân Giang, cách Đại học Giang Kinh của cô không xa. Thời xưa là khu tô giới, người nước ngoài chết, nếu đưa về nước chôn thì phải chở bằng tàu thủy, quan tài sẽ bốc mùi, nên họ chôn ở đây. Tất nhiên cũng có một số mộ của các giáo dân danh giá người Trung Quốc…”
Na Lan ngồi trở lại bàn, lên mạng tra cứu, nghĩa trang Thiên chúa giáo là khu di tích cấp thành phố được bảo vệ, số nhà 153 đường Ao Bán Mẫu.
Vấn đề đã sáng tỏ hẳn, chữ Điền mà không phải chữ Điền, lại là chữ Mẫu! Hai nét chữ phía trên chữ Điền, trông tựa như chữ Nhập [3].
[3] Chữ Điền (田), chữ Mẫu ( ).
Sở Hoài Sơn tiếp tục nói, “Nhưng nghĩa trang này ngừng chôn cất từ lâu rồi…”
Na Lan rất muốn hỏi, anh có thể ra khỏi nhà, đi cùng tôi đến đó không? Liệu anh ta có chấp nhận việc bước ra xã hội lần đầu tiên lại là đi đến nghĩa địa? Nếu chứng sợ đám đông bắt nguồn từ vấn đề thiếu cảm giác an toàn, thì một mình cô tháp tùng đâu đủ trấn an anh ta? Cừ từ từ đã vậy.
Cô bèn nói cảm ơn. Rồi rảo bước ra khỏi văn phòng.
Nếu trao đổi với Sở Hoài Sơn thêm vài phút nữa, Na Lan sẽ biết ở Giang Kinh này có năm nhà thờ Thiên chúa giáo, trong đó nhà thờ Đức Bà và nhà thờ Chính tòa Thánh Giuse nằm ở khu Văn Viên. Nhà thờ Chính tòa Thánh Giuse là tổ chức duy nhất có nghĩa trang ở Giang Kinh. Na Lan ra vào khu nghĩa trang, trước mặt cô là cây thập tự bằng đá bạch ngọc nay đã sẫm màu.
Nhập, Điền, Thập; Nhập, Nghĩa trang, Thập; Mẫu, Thập… nên lý giải sao đây? Đầu óc cô vẫn rối bời.
Cổng sắt khóa. Nếu chờ cho trời tối hẳn, có thể trèo qua mà vào. Nhưng Na Lan không có tài leo trèo bẩm sinh nên đành đi vòng sang góc ngoặt, gõ cửa nhà thờ.
“Đã hết giờ mở cửa.” Bên trong, một bà xơ dịu dàng từ chối. Bà chừng ngoài 40 tuổi, rất điềm đạm.
“Cháu… không vào để làm lễ Misa ạ.” Na Lan không biết nên tự giới thiệu ra sao. “Cháu chỉ muốn… vào xem nghĩa trang của giáo hội các vị.”
Bà xơ rất nhẫn nại, “Ba mươi năm nay nghĩa trang không an táng ai nữa. Thành phố đã xếp hạng là kiến trúc lịch sử để bảo vệ, nói chung người ngoài không được…”
Di động của Na Lan bỗng đổ chuông, cắt ngang màn thuyết phục của cô.
Lại là Sở Hoài Sơn.
“Tôi chợt nghĩ ra, có lẽ cô không thể vào khu nghĩa trang ấy.” Kỳ tài lúc này chẳng khác gì quân sư nói vuốt đuôi!
Na Lan thở dài mỉm cười chào bà xơ. Bà cười đáp lễ rồi đóng cửa lại.
“Anh tiên tri giỏi nhỉ? Giá mà anh cho tôi biết trước…”
“Tôi vừa mới nghĩ ra. Thật đấy! Ấn tượng mà Ba Du Sinh, gây cho cô không đúng. Tôi chỉ là người có chỉ số IQ tầm tầm, chỉ số EQ thì thấp…” Anh ta quá khiêm tốn để làm gì nhỉ?
Na Lan nghĩ ngợi. “Nhưng, anh gọi điện chắc không chỉ là để tự kiểm điểm?”
“Cô đã nghe nói về, ông Ngôn Phụ Đức chưa?”
Na Lan lắc đầu, “Ông ta có thể giúp tôi mở cổng nghĩa trang phải không?”
“Đúng! Từ năm 1963, ông ấy là linh mục, đứng đầu giáo xứ Giang Kinh, đến năm 1998 thì qua đời, và được an táng, ở nghĩa trang này.” Xem ra, bà xơ nói “ba mươi năm không an táng ai” e là có vấn đề.
“Ý anh là, tôi nên sắm vai người nhà của ông Ngôn Phụ Đức?”
“Cô nên đoán xem, lần sau gặp Ba Du Sinh tôi sẽ, khen ngợi cô như thế nào.” Hình như Sở Hoài Sơn đang mỉm cười. “Cô nên tự xưng, là cháu họ ngoại của ông ấy. Ông ấy chỉ có, một cô cháu gái sinh cuối thập kỷ 1990, xấp xỉ tuổi cô, đã theo cha mẹ sang Canada định cư.”
“Anh cho rằng các bà xơ sẽ tin tôi nói khoác hay sao? Anh có thể cho tôi giấy tờ tùy thân của cô ta chắc?” Na Lan tưởng tượng ra mình ê mặt vì bị từ chối lần thứ hai.
“Không! Không phải cô, khoác lác. Tôi nói luôn vậy, bây giờ, cô là Tiêu Hoa Nguyệt, cháu của ông Ngôn Phụ Đức. Cô không cần chìa, giấy tờ gì hết. Chỉ cần để bà xơ, hỏi thử xem, cha xứ đương nhiên là ông Bão Quảng Hữu có nhớ ra, bé Nguyệt Nguyệt, cháu gái của, cha xứ quá cố không? Bé Nguyệt Nguyệt, đã từng ăn quả nhót tây, ở sân sau nhà linh mục Bão Quảng Hữu.”
Nghe mấy chữ “bé Nguyệt Nguyệt”, Na Lan lập tức nghĩ đến vụ án xảy ra gần trăm năm trước đang lưu truyền trên mạng, cô hơi lạnh xương sống, “Chuyện cách đây hai chục năm sao anh lại biết được?”
“Ai cũng có thể, biết chuyện hai chục năm trước, đọc Tiếng nói giáo dân, đọc trang web của thư viện thành phố, lướt mạng… là biết hết. Ông Ngôn Phụ Đức rất có uy tín, trong giáo hội, đã bồi dưỡng ông Bão Quảng Hữu. Ông Quảng Hữu, thường tổ chức, liên hoan giáo dân. Theo bản tin Tiếng nói giáo dân, cả nhà ông Ngôn Phụ Đức đều từng tham dự, khi đó bé Nguyệt Nguyệt 5 tuổi, đã biết hát Thánh ca… Tôi sẽ gửi cho cô các tư liệu này…”
Na Lan lại đến gõ cửa nhà thờ, vẫn bà xơ ấy, với nụ cười hơi giảm bớt sự kiên nhẫn.
Cháu mạo muội làm phiền…” Dù chưa chắc ăn nhưng Na Lan cũng đã tự tin hơn. “Vừa nãy xơ nói là… nói chung, không cho phép vào nghĩa trang, nhưng chắc vẫn có ngoại lệ?”
“Nếu là người nhà vào viếng mộ thân nhân, có hẹn trước, thì chúng tôi sẽ thu xếp.”
“Hẹn trước? Nhưng e không kịp mất! Ngày mai cháu phải ra sân bay, trở về Canada…”
“Cô là…” Dưới ánh đèn, thấy cặp long mày thanh mảnh của bà xơ hơi động đậy.
“Cháu là Tiêu Hao Nguyệt. Ông ngoại cháu an táng trong đó…”
Trời đã muộn, màn chiều đang buông xuống cả khu nghĩa trang. Na Lan đã cố thuyết phục để bà xơ không đi cùng, một mình cô len lỏi giữa các hàng bia mộ.
Hơn bốn trăm bia mộ, Na Lan soi đèn pin nhìn từng tấm bia. Sau khi trải qua hai vụ án lớn và vô số đêm hãi hùng, cô đã hình thành thói quen mang theo đèn pin.
Đúng như đã lường trước, ở đây không thấy có tên Nghê Phương Anh. Hung thủ của vụ án “ngón tay khăn máu” không thể trắng trợn công khai dựng bia cho nạn nhân mà hắn hãm hại, tự phơi bày tội ác cho thiên hạ biết. Điều này chứng tỏ hắn không phải hạng người quái gở dám thách thức quyền lực, khiêu khích luật pháp xã hội.
Mà là một kẻ nhu nhược.
Mục đích phạm tội của kẻ nhu nhược dường như không nhằm phô trương khả năng gây án của mình. Cho nên hắn đã che giấu rất kỹ tội ác gây ra rải rác ba mươi năm. Nhưng tại sao hắn lại công khai cái khăn dính máu và ngón tay bị chặt đứt? Xem ra, cũng như nhiều tội phạm sát nhân khác, hắn vẫn muốn thể hiện một điều gì đó.
Hắn muốn thể hiện điều gì?
Liệu có phải nếu không ai hiểu được ý đồ của hắn thì vụ án “ngón tay khăn máu” vẫn tiếp diễn, như Mễ Trị Văn dự báo không?
Lúc này Na Lan hầu như đã phủ định Mễ Trị Văn là hung thủ. Lão giống một diễn viên hạng hai hạng ba, chỉ lo mình không đủ tài diễn kịch. Nếu lão là đạo diễn vở “ngón tay khăn máu” thì rất khó hình dung suốt ba mươi năm nay lão kìm nén được sự thèm khát ra tay. Nhưng tại sao lão lại biết tung tích của Nghê Phượng Ah và chỉ dẫn cô tìm đến nghĩa trang này?
Hàng trăm bộ hài cốt nằm ở đây, bộ nào là của Nghê Phượng Anh?
Na Lan thất vọng nhìn khắp bốn bề khu mộ, muốn mình phải đào tất cả lên hay sao? Không thượng đế nào đồng ý.
Đại sư Mễ Trị Văn cũng không đồng ý. Niềm vui thực sự của đại sư còn ở phía sau. Lão đang sốt ruột chờ cô trở về. Cửa ải thứ nhất này không thể nào lại khó nhằn như thi Olympic Toán.
Cách tư duy phải đơn giản.
Na Lan quay trở ra cổng sắt của nghĩa trang, dừng lại bên một tấm biển lốm đốm gỉ, rọi đèn pin lên bảng nhựa in sơ đồ các khu vực bên trong. Nghĩa trang hình chữ nhật, gồm bốn khu vực trên dưới trái phải được chia bởi hai con đường hình chữ thập lát gạch, giao nhau.
Na Lan chú ý đến điểm giao nhau ấy.
Lại nhận ra một chữ “thập” nữa!
Cô vội bước đi, đến giữa đường gạch giao nhau. Cô cúi xuống, soi đèn pin vào viên gạch vuông ở chính giữa. Nó chỉ đặc biệt vì ở chính tâm, ngoài ra cũng rạn rịa cũ kỹ như da mặt người già, chẳng có gì khác các viên gạch lát xung quanh. Cô mở túi lấy con dao nhỏ, cũng là thói quen tốt hình thành sau khi trải qua hai vụ án lớn, thọc mũi dao vào kẽ quanh viên gạch, ở đó là đất cát và bùn, rêu cùng cỏ non ứ lên sau mưa, giống như vách ngăn tình cảm giữa người và người. Cô moi hết đất, cỏ và rêu, rồi nậy hẳn viên gạch lên. Đá vụn rải bên dưới đã bị xói đi quá nửa theo dòng thời gian, chỉ còn lại một lớp mỏng. Cô bới hết lớp đá, bên dưới là bùn đất xỉn khá mềm, do thấm nước mưa. Coi con dao như cái xẻng, cô đào sâu xuống khoảng ba phân rồi dừng lại.
Thấy một cái túi nhỏ.
Ánh đèn rọi vào một cái ví tiền xanh nhạt bằng nhựa, in các ô ca rô vàng, lam và lục, trông giống mẫu thiết kế của thương hiệu Burberry. Na Lan nhớ đến ví tiền nhựa mẹ dùng thời con gái, hồi nhỏ cô từng trông thấy khi vào gian chứa đồ của gia đình chơi trò tìm “báu vật”.
Và cũng thấy có ảnh cài trong ví, như lúc này.
Nghê Phượng Anh trang nhã xinh đẹp, đứng trước cây cầu bắc qua sông Thanh An mỉm cười, tràn trề sức xuân. Trong các “bài học” mà Ba Du Sinh đưa cho Na Lan có bản photo ảnh này. Dưới ánh đèn pin, nụ cười của Nghê Phượng Anh hiện lên nhợt nhạt, mắt cũng phảng phất ưu tư.
Nét ưu tư này trông quen quen? Na Lan sực nhớ đến bức tranh vẽ bà mẹ Sở Hoài Sơn.
Chắc tại ngồi xổm quá lâu, cô bỗng thấy chóng mặt. Có phải tại mưa bụi ngày xuân không, mà mắt cô nhòe ướt?
Nghê Phượng Anh rời xa thế gian này đã lâu. Không phải bây giờ Na Lan mới biết điều đó, nhưng vẫn cảm thấy thật khó chấp nhận sự thật này, nhất là cô có cảm giác người thiếu nữ quá cố ấy rất gần gũi với mình.
Cô hít vào một hơi thật sâu. Miệng ngậm đèn pin, dùng cả dao lẫn tay tiếp tục bới sâu xuống chừng nửa mét. Bấy giờ cô thấy đằng xa có tiếng bước chân, thậm chí nghe được cả giọng thất thanh của bà xơ, “Cháu đang làm gì thế?”
Na Lan dừng tay. Không phải vì câu nói của bà xơ.
Dưới ánh đèn pin, giữa đám đất nhão, hiện ra mấy mẩu xương trắng.
Là xương ngón tay.
Na Lan dường như nhìn thấy một bàn tay tuyệt vọng đang cố sức thò lên mặt đất, cầu cứu lúc sắp chết.
Mặc kệ tay đang dính đầy bùn, cô lấy do động ra gọi thẳng cho Ba Du Sinh.
Chương 12: Hàn mai sợ rét
Khi xẻng đất đầu tiên hắt xuống, cô biết đây chỉ là một chặng trong cả hành trình tra tấn dài dằng dặc. Là một chặng, nhưng không phải chặng thứ nhất.
Chặng thứ nhất đã hú còi đi qua. Cơn đau buốt tim thình lình ập đến vẫn còn hành hạ cô, sau khi ngất lịm rồi tỉnh lại, cô đã mất một ngón tay. Chẳng biết thời gian trôi qua lâu hay chóng, chỉ biết vết đứt đã nhiễm trùng mưng mủ.
“Xin ông hãy tha cho, cho tôi ra khỏi đây…” Dù cố mở mắt thật to, cô cũng chỉ trông thấy nước mắt hòa lẫn đất cát đang rào rào rơi xuống, và kẻ đứng bên trên chỉ là một bóng đen nhòe nhoẹt. “Hãy thả tôi ra! Rồi muốn làm gì tôi cũng được.”
“Sẽ mãi mãi nghe lời ta chứ?”
“Vâng, mãi mãi…”
Đất cát không rơi xuống nữa, bóng đen đang định chôn sống cô bỗng dừng tay. Đây là dấu hiệu tốt. Vẫn còn hy vọng sinh tồn.
Nhưng khi giọng kẻ kia lại vang lên thì hy vọng biến thành tuyệt vọng. “Ta biết người chỉ leo lẻo khéo nói để ta tha cho ngươi. Nhưng ta có một cách hay hơn, bảo đảm ngươi sẽ mãi mãi nghe lời, không bao giờ kêu ca nữa.”
Cái xẻng lại hoạt động, đất rơi xuống nhiều hơn.
“Tôi van ông…” Lần này cô cố gạt sạch những thứ đang che mắt. Dưới ánh trăng, cô nhìn thấy kẻ ấy nhếch mép cười. Cô biết lần này là chặng cuối cùng của hành trình man rợ. Cô không van xin nữa, cô gắng sức nhoài lên trên.
Nhưng cái hố quá sâu.
Đất ướt đang hắt xuống hết xẻng này đến xẻng khác.
Bàn tay cô tuyệt vọng giơ lên phía trên…
Na Lan kinh hãi bừng tỉnh, mồ hôi ướt đẫm áo ngủ.
Đầu vẫn nhưng nhức. Cô ngồi dậy, xuống giường đi vào gian vệ sinh chật chội, rửa mặt bằng nước lạnh. Người cô run run, có cảm giác như đất bùn ẩm ướt đang hắt vào mặt. Đây là đêm thứ ba cô gặp cơn ác mộng gần như giống hệt nhau. Cô không nhìn rõ mặt cô gái trong mơ. Là Nghê Phượng Anh? Mã Vân? Hay Tiết Hồng Yến?
Na Lan nhìn cô gái trong gương. Có phải là mình không? Trong tiềm thức, cô đã thay vai cho người bị hại. Đây là tín hiệu nguy hiểm khi con người lún quá sâu vào một chuyện.
Vụ án “ngón tay khăn máu” sẽ còn tiếp diễn!
Cơn đau đầu càng dữ dội.
Cô trở vào ngồi lên giường, lắng nghe tiếng ngáy khe khẽ đều đều của Đào Tử. Ngoài cửa sổ, mưa phùn vẫn lất phất bay, tiếng mưa rì rào gõ nhịp cho đêm dài tĩnh mịch.
Vụ án “ngón tay khăn máu” sẽ còn tiếp diễn.
Chỉ có cô mới có thể tìm ra bí mật này.
Nửa giờ sau, Na Lan mở cửa buồng bệnh nhân nặng. Y tá trực ban hốt hoảng kêu với theo, “Cô là ai?! Đêm khuya, bệnh nhân đang ngủ…”
Na Lan bước thẳng đến bên giường Mễ Trị Văn, hỏi cái “bộ xương khô” đang nằm bất động bằng giọng hung hãn, cứ như không phải giọng của cô nữa,, “Ai đã giết Nghê Phượng Anh? Là ông phải không? Tại sao ông lại căm thù sự sống? Sao ông lại giày xéo tôn nghiêm cơ bản nhất của con người? Sao ông lại làm thế? Động cơ của ông là gì…”
“Để cô có thể ngon giấc, phải không?” Rõ ràng là Mễ Trị Văn chưa ngủ say, lão mở to mắt trong bóng tối, đôi mắt hơi đỏ. “Tôi biết cô sẽ lại đến nữa.”
Na Lan tức tối gắt gỏng khiến một người nhà của bệnh nhân giường bên tỉnh giấc, ngơ ngác. Na Lan nhìn chằm chằm vào mắt Mễ Trị Văn. “Biết gì thì nói đi, coi như vẫn chưa muộn. Biết đâu ông sẽ không phải trở lại nhà tù nữa.”
Anh người nhà kia sực hiểu, “Thì ra người này là phạm nhân? Sao lại xếp ông ta nằm cùng buồng với cha tôi?” Y tá ban nãy đã vào tới nơi, “Cô là ai hả? Ra đi, nếu không tôi sẽ gọi bảo vệ!” Một người đàn ông xuất hiện sau lưng y tá, thì thầm mấy câu, y tá nhìn Na Lan rồi ngạc nhiên gật đầu, bước đến giường Mễ Trị Văn bật đèn đầu giường lên. Na Lan đoán rằng anh kia là cảnh sát do Ba Du Sinh bố trí giám sát Mễ Trị Văn.
Mễ Trị Văn cười nhạt, “Nhà tù thì có gì không tốt? Nếu thiếu giám thị, thì tôi đâu có thành tích về văn tự như hôm nay? Và xã hội sẽ có thêm một ác ma…”
“Thực ra, ai đã…”
“Cảnh sát thẩm vấn tôi ba ngày không lấy được câu trả lời, cô tưởng chỉ dùng một buổi tối là thành công chắc? Tôi đây không có thỏa thuận ngầm nào hết.” Có vẻ tự cho là mình rất hài hước, Mễ Trị Văn mỉm cười, để lộ mấy cái răng xiêu vẹo sứt mẻ. “Cô tưởng ba hôm nay Ba Du Sinh không hứa hẹn sẽ cho tôi tương lai sáng sủa gì đó hay sao?”
“Tôi không tin rằng ông không thèm quan tâm về chuyện được trả lại tự do.”
Lão thở dài. “Cô xem, tình trạng tôi như thế này thì được tự do hay không có gì khác nhau? Cho nên cảnh sát hứa trả lại tự do cho tôi, vì cho rằng tôi dù nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật thì cũng chẳng thể làm hại nổi ai nữa! Hà hà hà…” Lão gượng cười, còn Na Lan thì thấy sợ.
“Vậy là ông nhất quyết không nói? Ông sợ hung thủ sẽ trả thù chứ gì? Xem ra, ông chỉ là kẻ nhu nhược, còm cõi chẳng có gì đáng kể.”
“Dùng phép khích tướng à?” Mễ Trị Văn từ từ ngồi dậy, ra hiệu cho Na Lan chèn cái gối vào sau lưng lão. Na Lan không nhúc nhích. “Thực ra có phải tôi gây tội hay không, thì hài cốt của Nghê Phượng Anh sẽ cho manh mối, DNA sẽ nói lên tất cả. Còn tôi, có phải kẻ nhu nhược không…” Lão lại nhe hàm răng lởm chởm. “Cô có thể hỏi Bội Luân.”
“Hỏi Bội Luân?” Na Lan hơi kinh ngạc, “…người mà ông làm hại?”
“Là người mà tôi luôn nhớ nhung.”
Na Lan biết, nếu còn nán lại đây thì còn điên tiết không sao chịu nổi. Cô quay người bước đi.
“Cô đến hơi sớm đấy!” Lão nói với theo. “Tôi lại có một chữ nữa tặng cô, nhưng tôi nghĩ chưa thật hoàn chỉnh. Chờ ngày mai cô lại vào thì…”
Nhức đầu kinh khủng. Tại mình mất ngủ hay tại mùi đặc trưng của buồng bệnh? “Cảm ơn! Ông cứ đưa thẳng cho anh Ba Du Sinh.”
“Kiếm báu dâng tráng sĩ, hoa tươi tặng giai nhân! Ai đã giải được con chữ lần trước nhỉ?”
“Nói thật luôn, phát hiện thêm các bộ xương, tôi chẳng hứng thú gì!”
“Nhưng tôi có cảm giác chỉ có cô mới giải được chữ này. Rất có thể sẽ tiến thêm một bước để tìm ra hung thủ.”
Na Lan khẽ nói với y tá “Xin lỗi”, rồi đi ra khỏi buồng bệnh.
“Cô đừng quên, vụ ‘ngón tay khăn máu’ sẽ còn tiếp diễn… và chỉ cô mới có thể chấm dứt cơn ác mộng ấy! Coi chừng, kẻo không kịp mất!” Giữa căn buồng bệnh trong đêm, giọng lão không vang nhưng cứ như kim châm vào màng nhĩ của Na Lan.
Trở về ký túc xá, Na Lan cứ để nguyên quần áo nằm vật ra giường hai tiếng đồng hồ, không mộng mị gì, rồi dậy rửa mặt chải đầu qua loa. Cô nhìn mình trong gương, ngao ngán lắc đầu, cố thoa chút phấn son để che đi những dấu vết của một đêm bực mình mệt nhọc.
Tàu điện ngầm chạy vào trung tâm thành phố, đi qua đường hầm dưới đáy sông thì đến khu khoa học kỹ thuật cao Thanh Giang. Toa tàu chật như nêm, đang là giờ cao điểm điển hình, Na Lan nhận thấy khách đi tàu đều là thanh niên như cô. Đầu vẫn ngâm ngẩm đau, nhắc cô một điều, trong đám người trẻ tuổi này có khi tâm tư cô già nhất? Đào Tử “đáng ghét” đã bình luận, sau khi trải qua hai vụ án lớn, ngoại hình Na Lan vẫn thế nhưng tâm tư thì già đi mười tuổi rồi!
Cùng đám đông hành khách đi ra khỏi ga tàu điện ngầm, Na Lan nhận ra ngay tòa nhà văn phòng của Công ty Khoa học Kỹ thuật Vũ Cung ở đầu đường bên kia.
Tòa cao ốc vươn tận trời xanh, phòng làm việc của giám đốc Đổng Bội Luân đặt ở tầng trên cùng, từ trên này có thể nhìn toàn cảnh sông Thanh An.
Na Lan đứng ở phòng chờ, nhìn thành phố Giang Kinh đang chuyển mình vận động sau giấc ngủ đêm, sực nhớ mình không gọi điện hẹn trước với Đổng Bội Luân. Cô gái chui ra từ tháp ngà, đã mắc một sai lầm lớn trong giao tiếp. Na Lan đành tự an ủi, nếu bị từ chối cũng đành, ít ra mình vẫn được ngắm một cảnh tượng rất hoành tráng.
Một phụ nữ đứng tuổi mặc đồ công sở ngồi ở bàn thư ký giám đốc ngoài tiền sảnh, nghe Na Lan nói muốn gặp giám đốc, chị cười, “Cô là Na Lan à?”
“Vâng.”
“Giám đốc mời cô vào.”
Na Lan ngạc nhiên, “Phiền chị vào hỏi xem chị ấy có thì giờ không…lẽ ra tôi phải hẹn trước…”
“Giám đốc đã dặn trước, nếu cô Na Lan đến thì cứ mời vào. Chỉ cần đang có mặt ở văn phòng, giám đốc sẽ tiếp cô bất cứ lúc nào.”
Đổng Bội Luân rất thông minh, đã lường trước là cô sẽ đến. Muốn, thậm chí là mong mỏi, được trao đổi với cô, có phải thế không? Na Lan chợt cảm thấy mình có phần chủ quan.
Thư ký gọi điện báo cáo, đoạn dẫn Na Lan đến cửa phòng làm việc của Đổng Bội Luân rồi quay ra pha trà.
Trong phòng đang họp thì phải. Na Lan bước đến cửa thì có hai người đàn ông khoảng ngoài 30 tuổi cầm laptop bước ra.
Đổng Bội Luân, mái tóc dài buộc đơn gian thả ra sau gáy, sơ mi trắng cài hoa nhỏ màu tím nhạt, nhích xe lăn ra, mỉm cười bắt tay Na Lan, “Hoan nghênh em!”
Na Lan bất giác nhớ lại cái vẻ đắc ý huênh hoang của Mễ Trị Văn cách đây không lâu. Cô càng khâm phục nhân cách của Đổng Bội Luân khi không đắc ý nói rằng “Tôi biết thế nào cô cũng đến”.
Phòng làm việc rất rộng, không xa hoa cầu kỳ, tường sơn trắng muốt treo vài bức thư pháp với những nét mực đậm nhạt mau thưa. Nếu đây là phòng làm việc của giám đốc nào khác thì rõ là trưởng giả học làm sang! Không hiểu tại sao… có lẽ là vì bản thân chủ nhân vô cùng trang nhã, cho nên người và vật ở đây đều hài hòa. Chỉ hiềm, tổng thể có phần thanh đạm và hơi nhợt nhạt? Phải chăng chủ nhân muốn dùng cách trang trí đơn sơ trong sáng để tẩy mờ những hoen ố do bị xâm hại năm xưa?
Ánh mắt Na Lan dừng lại thêm mấy giây ở một bức tranh, Đổng Bội Luân nhận ra ngay, “Em biết về nó à?”
Đó là bức tranh thủy mặc, hình chữ nhật, vẽ cảnh cây mai khúc khuỷu gầy guộc, ngạo nghễ trong giá lạnh, hương thầm của nó dường như nhẹ lan ra khỏi bức tranh.
“Đây là bức Băng tư sảnh ảnh đồ của Văn Trưng Minh. Hồi đại học em có đi Nam Kinh chơi, đã nhìn thấy bản gốc bày trong bảo tàng.”
Đổng Bội Luân khẽ mỉm cười, không nói gì.
Na Lan bỗng nghĩ ra, kinh ngạc nói, “Lẽ nào… đây mới là bản gốc?”
Cặp mày cong mảnh của Đổng Bội Luân hơi nhích lên. “Tôi không nói thế đâu!”
“Chỉ là cảm giác, em chỉ đoán vậy. Cô là người theo đuổi sự hoàn mỹ, khi đã có tiềm lực kinh tế thì sẽ không treo các bức họa sao chép. Em không có ý nói là cô ưa phô trương…” Na Lan tự trách mình nói năng thật là dại dột.
“Em thích giả thiết, giả thiết tôi theo đuổi sự hoàn mỹ, giả thiết tôi tinh tế khá giả…” Không rõ ánh mắt của Đổng Bội Luận là khen ngợi hay là trách móc.
Na Lan nói, “Suy luận hợp lý cộng với giác quan thứ sáu thứ bảy gì đó… là sở trường hoặc là bệnh nghề nghiệp của những người làm về tâm lý học ạ.”
Đổng Bội Luân lại thoáng nét cười, “Trực giác của em khá chuẩn. Bức tranh bày trong bảo tàng Nam Kinh là bản sao. Khi có những cuộc triển lãm quan trọng, tôi đương nhiên có thể cho họ mượn.”
“Hàn mai vẫn ngạo nghễ trong sương giá, là hình ảnh ẩn dụ quá hay về tinh thần trỗi dậy sau khi bị tổn thương.” Na Lan bình luận dường như rất tự nhiên.
Đổng Bội Luân cười, nói, “Em đang phân tích tâm lý giúp tôi đấy à?”
“Em không biết ai là chuyên gia tâm lý cho cô, nhưng chắc chắn phải là chuyên gia hàng đầu ở Giang Kinh, em đâu dám mạo muội…” Không phải Na Lan khiêm tốn. Người có thể giúp Đổng Bội Luân vượt qua nỗi đau, nhất định không thể là hạng bình thường. Cô chuyển hướng, “Dù ẩn dụ về hàn mai đã được dùng quá nhiều, nhưng đúng là em đã nghĩ như vậy, cô không muốn mình sẽ héo khô trong những hoàn cảnh chẳng ra gì, bằng mọi cách, cô sẽ vươn lên, cứng cỏi kiên cường.”
“Cho nên, nếu em coi bức tranh này là tác phẩm thể hiện hoặc khích lệ ý chí, tôi cũng không có ý kiến gì.” Đổng Bội Luân chấp nhận sự phân tích của Na Lan. Ánh mắt luôn dừng trên khuôn mặt cô. Na Lan cảm thấy hình như Đổng Bội Luân đang quan sát đánh giá một đối thủ, đang ngạc nhiên khi gặp một điều bất ngờ. Thế thì cứ để cho bất ngờ ấy tiếp tục!” Em xin hỏi thẳng một câu, theo ý cô, một người như Mễ Trị Văn có thể gây ra các án mạng liên hoàn như “ngón tay khăn máu” không?”
Im lặng.
Đổng Bội Luân im lặng. Không phải vì đang cân nhắc từ ngữ, mà là vì đang kìm nén những chuyện xưa như nước lũ bắt đầu dâng lên, như mãnh thú rục rịch đứng dậy.
“Vụ án… liên quan đến Mễ Trị Văn và tôi, em đã biết được đến đâu?” Sau hồi im lặng, Đổng Bội Luân hỏi.
Na Lan nói, “Chỉ là các tin tức mà truyền thông đã đăng tải.”
“Anh Ba Du Sinh không cho em đọc các biên bản ghi chép về vụ đó à?”
“Không ạ. Các chi tiết liên quan đều đã bị xóa hết. Em chỉ hiểu về cô qua các tài liệu báo chí.”
Đổng Bội Luân gật đầu, “Ba Du Sinh là người rất có nguyên tắc, những người ưu tú như anh ta ngày càng ít… Vì thế, em cũng không hỏi thêm thông tin ở anh ta nữa.”
“Nhưng tài liệu của giới truyền thông lại quá ít. Ví dụ…” Ánh mắt Na Lan dừng ở chiếc giá kê nơi góc tường, bên trên là cây đàn tranh. “Ví dụ, em không biết cô lại chơi đàn tranh.”
Đổng Bội Luân bỗng rùng mình, “Đã rất lâu… tôi không đụng đến nó nữa rồi.”
“Mong cô thứ lỗi… em đã đường đột đến gặp cô.”
“Sau lần gặp em ở bệnh viện cách đây mấy ngày, không hiểu sao… có lúc tôi rất mong em sẽ đến đây… Này, lẽ nào em cho rằng tôi sẽ kể cho em biết về cơn ác mộng đó?”
“Em muốn giúp đỡ những cô gái mất tích lâu nay.”
“Rồi đi đến đâu? Em chẳng qua sẽ tìm ra thêm các thi thể mà thôi.”
“Không chỉ là thế ạ! Vì vụ án ‘ngón tay khăn máu’ sẽ còn tiếp diễn.” Na Lan nhắc lại lời Mễ Trị Văn và cảm thấy hoảng sợ, hình như cô đã bị tên ác ma ấy tẩy não, cô đã rơi vào trò chơi của lão!
Đổng Bội Luân cười nhạt, “Lão nói thế chứ gì? Và em đã tin? Dù vụ ‘ngón tay khăn máu’ do lão đạo diễn, rồi sao nữa? Em gặp lão rồi, em cảm thấy lão vẫn gây án được hay sao?”
“Nhưng nếu không phải lão, thì hung thủ vẫn đang tự do, hắn sẽ lại gây án.”
“Nếu hung thủ không phải Mễ Trị Văn, thì chuyện ngày trước lão gây ra đối với tôi liên quan gì đến hung thủ của vụ án ‘ngón tay khăn máu’? Cái logic này tôi thấy khó hiểu…”
Na Lan hít thật sâu một hơi, nhanh chóng sắp xếp suy nghĩ của mình. “Rõ ràng là Mễ Trị Văn rất tường tận vụ án ‘ngón tay khăn máu’, muốn có thay đổi đột phá cần nhằm vào lão ta. Dù không phải hung thủ đi nữa, thì nhiều khả năng lão biết hung thủ. Tìm hiểu và nắm vững trò chơi của lão thì có thể lôi hung thủ ra ánh sáng.”
Đổng Bội Luân lại trầm ngâm. Hình như đang cân nhắc để đưa ra câu trả lời chính xác. Việc cố gắng nhớ lại chuyện xưa chẳng khác gì cơn ác mộng, ánh mắt chị chồng chéo những khổ đau và căm hận. Rồi nói, “Em biết đấy, tôi không muốn nhắc lại những nỗi đau ngày trước và cũng không kể các tình tiết nặng nề cay đắng làm gì.” Nhận ra ánh mắt thất vọng của Na Lan, Đổng Bội Luân lại nói. “Em nên tin ở Ba Du Sinh, anh ta nắm được tường tận các tình tiết, sẽ đối chiếu các hành vi của Mễ Trị Văn với hành vi của hung thủ ‘ngón tay khăn máu’ và đưa ra phán đoán có phải là cùng một người hay không.”
Na Lan không thể không công nhận Đổng Bội Luân nói rất có lý. Cô dịu dàng nói, “Xin cô tha thứ cho em đã bất nhã hỏi cô một số vấn đề có phần nhạy cảm. Em xin hứa lần sau không dám thế nữa.”
Đổng Bội Luân mỉm cười, nét kiều diễm giá băng biến thành vẻ đẹp mê hồn. “Không sao. Thực ra tôi cũng không yếu đuối… và vẫn rất vui nếu gặp lại em. Không phải là nói xã giao, cứ tin tôi đi.”
Na Lan đứng dậy cáo từ. Đổng Bội Luân bỗng lộ vẻ thẫn thờ. Như thể muốn nói thêm điều gì.
“Tôi vẫn cảm thấy… tiếc vì để em phải ra về tay không. Coi như tôi gián tiếp trả lời vấn đề mà em quan tâm.” Dường như có làn sương mỏng bỗng trùm lên khuôn mặt, Đổng Bội Luân lại cân nhắc một lát. “Nói thế này đi, nếu có cơ hội thoát khỏi sự trừng phạt của bệnh tật, trốn khỏi nhà tù, thì việc đầu tiên Mễ Trị Văn làm là tìm đến tôi, để tiếp tục làm cái chuyện lão chưa hoàn tất trong đêm hôm đó.”
Hàn mai trong tranh, hình như, cũng vừa rùng mình.
Chương 13: Một búng chết hai
Đến nhận các di vật của Nghê Phượng Anh là đôi vợ chồng già tuổi gần sáu mươi. Đúng lúc Na Lan đang ở Sở Công an bàn với Ba Du Sinh về vụ án, nên cũng có mặt khi tiếp họ. Cô xót xa nhìn hai mái đầu đã bạc, bàn tay run run và mắt nhòa lệ. Ba Du Sinh giới thiệu, “Đây là cô Na Lan chuyên gia tâm lý, Sở chúng tôi mời cộng tác. Cô ấy muốn nói chuyện với hai bác…”
“Không cần! Ông già thô lỗ ngắt lời. “Đã ngần ấy năm, chúng tôi đã chuẩn bị tư tưởng, khỏi cần tư vấn tâm lý.” Khi xưa Nghê Phượng Anh chỉ có gia đình anh trai chị dâu là người thân. Chắc ông già ăn mặc giản dị này là ông anh, tên là Nghê Bồi Trung.
Na Lan nói, “Tôi muốn nói chuyện với ông bà, cốt biết thêm tình hình về Nghê Phượng Anh, qua đó giúp công an nhanh chóng tìm ra hung thủ sát hại cô ấy.”
“Nhanh chóng ư?” Ông già cười khảy. “Còn định nhanh như thế nào? Gần ba mươi năm rồi!”
Cứ nghĩ đến cảm giác chờ đợi khắc khoải của thân nhân người bị nạn, cũng thấy ông già lạnh nhạt như thế này không phải là vô lý. Na Lan nhẹ nhàng thuyết phục, “Đã phát hiện được hài cốt của Nghê Phượng Anh, rất có thể sẽ tiếp tục lần ra các tình tiết khác, chúng tôi muốn tìm hiểu thêm về cuộc sống của cô ấy ngày xưa, sẽ hữu ích cho việc suy đoán về hung thủ.”
Nghê Bồi Trung hình như càng được thể lấn tới, “Suy đoán cái gì? Dù là thằng khốn nào gây ra thì nó cũng đã ung dung suốt bao năm qua, đạo trời còn bất công nữa là… mấy cô gái trẻ sẽ tài ba hơn các anh công an kỳ cựu hay sao? Anh công an họ Trần ngày xưa đâu? Một người tài ba, yêu nghề, anh ta thế nào rồi?!” Ông già càng lúc càng nói to, bà vợ đứng bên khẽ kéo tay chồng, nhưng ông vẫn mặc kệ.
“Chính cô Na Lan đã phát hiện ra hài cốt của Nghê Phượng Anh!” Ba Du Sinh hờ hững chêm một câu.
Nghê Bồi Trung sững người, cả hai vợ chồng đều chăm chú nhìn Na Lan. Na Lan định nói thẳng, tại sao hồi Trần Ngọc Đống ghi biên bản đánh giá thì ông bà không tỏ thái độ hợp tác? Bấy giờ Nghê Bồi Trung là cán bộ ở một cơ quan địa phương, cô vợ Hồ Thanh là nhân viên OTK ở một xưởng chế biến thực phẩm, cả hai đều rất tốt tính, không hề có tiền sự hay động cơ gây án, Trần Ngọc Đống tuy không ưa thái độ của họ nhưng vẫn loại họ khỏi diện tình nghi. Anh em nhà họ Nghê mồ côi sớm, hàng xóm đều biết họ rất thân thiết đùm bọc nhau, Nghê Phượng Anh gần như do một tay vợ chồng anh chị nuôi nấng lớn khôn.
“Tôi muốn hỏi câu này, cũng như câu chú Trần Ngọc Đống năm xưa từng hỏi. Mong ông bà nhớ lại xem, Nghê Phượng Anh xinh đẹp như vậy, liệu có ai thèm khát, đố kỵ, hằn học hoặc hà hiếp gì cô ấy không? Cô ấy có chơi với người nào không tốt không?” Na Lan nhìn thẳng vào hai vợ chồng già.
Khuôn mặt vàng vọt nhăn nheo đỏ ửng lên, Nghê Bồi Trung kêu ca, “Hà hiếp cô ấy? Nghĩa là sao? Thế nào gọi là người không tốt? Hồi đó trật tự trị an xã hội tốt hơn hẳn bây giờ, khu tập thể cơ quan tôi còn chẳng cần khóa cửa ban đêm… Phượng Anh rất ngoan, không cứ lớn nhỏ việc gì cũng bàn với chúng tôi, có bạn trai là lập tức dẫn về ra mắt anh chị, không bao giờ đi đâu qua đêm như con gái thời nay, hết giờ làm là về nhà giúp đỡ gia đình. Hôm nó mất tích, là sau khi tan lớp học ban đêm…” Ông nghẹn ngào không nói tiếp được, đôi mắt rơm rớm…
Hồ Thanh từ đầu chỉ im lặng, bấy giờ tiếp lời chồng, “Lẽ ra tối hôm đó cậu bạn trai đến đón nó. Cậu ấy là cảnh sát, đang trên đường đi thì làm người tốt việc tốt, đưa một cụ già bị ngất ngoài phố vào viện cấp cứu, nên đến muộn vài phút, không đón được nó… chỉ muộn vài phút…” Bà cũng không nói được nữa.
Na Lan giơ một tấm ảnh lên, hỏi họ, “Ông bà có ấn tượng gì về người này không?”
Cả hai nhìn ảnh “đại sư Thương Hiệt” Mễ Trị Văn nằm trên giường bệnh, cùng lắc đầu. Cô lại đưa ra một bức ảnh vẽ, bà Hồ Thành cau mày, nói, “Không phải ảnh… người này và người gầy còm vừa nãy là một à? Trông trẻ hơn rất nhiều.” Bà lại nhìn Ba Du Sinh. “Trước đây đội trưởng Ba Du Sinh cũng cho chúng tôi xem rồi.” Đây là một ảnh in, kỹ thuật viên của Sở công an dùng phần mềm phân tích ảnh, dựa vào ảnh hiện giờ của Mễ Trị Văn chế ra bức ảnh suy luận hồi trẻ. Trong ảnh, Mễ Trị Văn vẫn gầy như khuôn mặt sáng sủa, tương đối đẹp trai.
Tiễn vợ chồng Nghê Bồi Trung ra về xong, Na Lan tương đối thẫn thờ, hẫng hut. Ba Du Sinh an ủi cô, “Chúng ta có thể hình dung ra tâm trạng của ông Trần Ngọc Đống ba mươi năm trước, vô số cuộc điều tra, thẩm vấn và vô số lần bế tắc.”
“Nhưng lần này ít nhiều đã có thu hoạch.” Na Lan tư lự.
“Thế à?”
“Hai người trả lời không mâu thuẫn gì với ngày trước, nhưng có một chi tiết… liệu có thể coi là mấu chốt không.” Na Lan cúi xuống lật giở cuốn sổ tay công tác mà Trần Ngọc Đống để lại, ghi chép các tình hình ban đầu của vụ án “ngón tay khăn máu”. “Khi em hỏi có ai đã từng hà hiếp Nghê Phượng Anh không, cô ấy có giao du với kẻ xấu nào không, thì hai vợ chồng họ cùng nhìn nhau. Có thể chỉ là ngẫu nhiên, cũng có thể là họ đang muốn che giấu điều gì.”
Ba Du Dinh khẽ gật đầu. Đây là sự nhạy cảm của người làm về tâm lý học như Na Lan.
“Cho nên em muốn tìm một người có thái độ bất hợp tác khác để nói chuyện.” Na Lan chỉ vào một cái tên ghi trong cuốn sổ tay.
Những năm 80 của thế kỷ trước, với Na Lan chẳng khác gì thời cổ đại. Ngày trước nghe cha mẹ kể chuyện cũ, cô hiểu rằng thời ấy con người chất phác giản dị, giác ngộ cách mạng cao, rất khó tưởng tượng không chỉ một người tỏ thái độ bất hợp tác với cảnh sát trong việc điều tra trọng án. Na Lan phỏng vấn một nhân vật khác có thái độ như thế, tên là Mạc Lệ Nhã. Theo ghi chép của Trần Ngọc Đống, đây là cô bạn thân nhất của Nghê Phượng Anh ngày xưa, sinh ra và lớn lên trong một khu nhà chung.
Mạc Lệ Nhã nay đã là một phụ nữ tuổi 50, đã dọn ra khỏi khu nhà chung. Hai năm trước, Trần Ngọc Đống có cập nhật địa chỉ mới vào ghi chép. Na Lan không thể không khâm phục người cảnh sát già đã hết sức tận tụy với vụ án, chỉ một manh mối xưa cũ cũng quan tâm.
Khi Na Lan tìm đến nhà Mạc Lệ Nhã thì bà ta vừa đi làm về. Cô đứng ngay ở sân nói chuyện. Mạc Lệ Nhã trang điểm khéo léo tinh tế, trông trẻ hơn nhiều so với tuổi thực tế. Biết mục đích viếng thăm của Na Lan, khuôn mặt hiền hòa của bà hơi nặng nề, “Sao các vị vẫn cứ lẽo đẽo mãi? Hai năm trước Trần Ngọc Đống còn liên lạc với tôi, tôi bảo những gì cần nói thì tôi đã nói từ ba mươi năm trước rồi, các anh cứ hỏi mãi để làm gì chứ?”
Giọng bà không vang nhưng âm cao lanh lảnh, rất không tự nhiên. Na Lan nghĩ mình không nên nói ra chi tiết đã tìm thấy hài cốt của Nghê Phượng Anh, cô mỉm cười, “Cháu thay mặt chú Trần Ngọc Đống xin lỗi cô, ngày ấy chú Đống còn trẻ bồng bột, nói năng vụng về, nên cô không bằng lòng.”
Mạc Lệ Nhã cảm thấy áy náy, mỉm cười, “Không đâu. Nhưng cháu xem, một vụ án ba mươi năm không phá được, mà cảnh sát còn hỏi đi hỏi lại những điều cũ rích.”
“Chúng cháu có một manh mối mới.” Na Lan lấy tấm ảnh Mễ Trị Văn ra, “Cô đã nhìn thấy người này bao giờ chưa?”
Mạc Lệ Nhã vừa nhìn đã lắc đầu, “Thế này mà gọi là mới? Lần trước anh Đống gặp tôi đã cho tôi xem rồi. Tôi chưa bao giờ thấy người này, tôi chẳng có ấn tượng gì.”
Na Lan cất tấm ảnh đi, mỉm cười, “Manh mối mới thực sự, là cô ạ!”
Mạc Lệ Nhã mặt lạnh hẳn đi. Na Lan tiếp tục, “Nghê Phượng Anh mất tích là khởi đầu của một loạt vụ án, và cũng là vụ được quan tâm nhất. Khi xảy ra vụ án này, Giang Kinh là nơi yên bình, hiếm khi xảy ra các vụ án hình sự tàn bạo, nếu cháu đoán không lầm thì hồi đó mọi người giác ngộ cao, luôn nhiệt tình phối hợp với công an. Nhưng những người thân của Nghê Phượng Anh, như vợ chồng người anh trai, và cả cô nữa, lại bị coi là có thái độ thiếu hợp tác. Phải chăng ngẫu nhiên, hay có điều gì sâu xa hơn? Chắc chú Trần Ngọc Đống cũng từng nghĩ như thế, nhưng các cô chú đều không thuộc diện tình nghi, nên dù không thoải mái thì cảnh sát cũng ngừng đào sâu. Về sau còn xảy ra nhiều vụ nữa, nên cảnh sát cũng ngưng chú ý đến Nghê Phượng Anh và các cô chú. Cháu đã suy nghĩ rất lâu, việc cả ba cùng tỏ ra khó chịu không thể chỉ là ngẫu nhiên, nhất định phải có lý do khiến các cô chú không hợp tác. Khoa tâm lý học giải thích rằng đó là tác dụng trái chiều sau khi bị bức xúc nặng nề. Có những điều cô rất muốn nói nhưng lại cảm thấy không thích hợp nên nén lại, và tỏ thái độ khó chịu chứ thâm tâm vẫn muốn giãi bày. Cho nên cháu đã gặp cô và sẵn sàng lắng nghe.”
Cả hai đứng đó nhìn nhau rất lâu. Thấy sắc mặt Mạc Lệ Nhã không ngớt thay đổi, Na Lan hiểu rằng mình đã bắt đúng mạch. Cuối cùng bà ra cũng nói, “Cháu trang nhã trẻ trung mà xem chừng cũng lắm mưu kế ra trò nhỉ?”
Na Lan cười, “Cháu chỉ là con mọt sách thích giải câu đố thôi.”
Mạc Lệ Nhã nhẹ nhõm hẳn đi, bà nhìn quanh rồi nói, “Lên nhà tôi ngồi chơi, ta nói chuyện!”
Đây là những điều tôi cố nén không nói ra.” Cùng ngồi xuống đi văng xong, Mạc Lệ Nhã chần chừ hồi lâu rồi mới nói, ánh mắt hơi thẫn thờ. “Hồi đó tôi cảm thấy nó không mấy liên quan đến việc Nghê Phượng Anh mất tích.” Bà trầm ngâm một lúc. “Thậm chí, tôi cho rằng Nghê Phượng Anh chủ động mất tích, nên nếu nói ra chuyện mình biết, tôi e sẽ bất lợi cho cô ấy.”
Na Lan lặng lẽ đợi bà nói tiếp. Mạc Lệ Nhã đắn đo một lúc, chợt hỏi, “Cháu không cần ghi biên bản à?”
“Không ạ. Cháu chỉ hỗ trợ điều tra về mặt kỹ thuật, cháu không phải cảnh sát phụ trách vụ án.” Na Lan biết, mọi người nhìn thấy ghi chép luôn tay thì họ sẽ nói năng thận trọng e dè, như thế sẽ không có lợi cho việc thu lượm thông tin.
Mạc Lệ Nhã tỏ ra tự nhiên thoải mái hơn, bắt đầu kể, “Có một chuyện này Nghê Phượng Anh chỉ thổ lộ riêng với tôi, còn bắt tôi thề không thuật lại với ai. Bấy giờ chúng tôi làm ở xưởng dệt, một hôm cũng vào nhà tắm tôi nhìn thấy lưng Phượng Anh có một vết đỏ tấy rất mới và vẫn đang rớm máu, bèn hỏi cô ấy nguyên do. Phượng Anh chỉ ấp úng nói lỡ va vào đâu đó. Tôi bảo đừng giấu tôi, đây rõ ràng là vết bỏng. Lúc đó cô ấy mới nói thật, rằng mấy hôm trước to tiếng với chị dâu, bà ta điên tiết cầm luôn cái bàn là đang nóng gí vào cô ấy. Tôi rất hồ nghi, vì Phượng Anh vốn tính mềm mỏng không sinh sự cãi cọ bao giờ. Tôi liền căn vặn truy hỏi, thì cô ấy òa khóc. Phượng Anh mồ côi cha mẹ từ khi còn rất nhỏ, cô sống với anh trai, khi anh lấy vợ cô vẫn ở cùng nhà với họ. Anh trai đã cấp dưỡng cho Phượng Anh đến tận khi cô ấy đi làm ở xưởng dệt. Ngày thường hai anh em có vẻ rất tốt với nhau, tới hôm đó cô ấy mới cho tôi biết, hai vợ chồng anh trai đã ngược đãi cô từ rất lâu rồi. Hồi chưa lấy vợ, người anh cũng hay nổi cáu đánh đập cô, nhưng chưa đến nỗi quá đáng. Sau đám cưới lại được chị dâu chua ngoa đanh đá khiến tinh thần cô càng thêm nặng nề. Phượng Anh vốn mát tính, biết ơn anh nuôi nấng bao năm nên dù bị đánh đập chửi mắng cô cũng ráng chịu, không hề phản ứng lại. Các cháu làm nghiêp vụ tất sẽ hiểu rằng, Phượng Anh càng nhẫn nhịn thì họ sẽ càng được thể lấn tới. Hôm đó ở nhà tắm cô ấy đã chỉ cho tôi xem nhiều vết thương khác ở dưới nách, ở gan bàn chân, ở mé trong đùi… tím tái hoặc tấy đỏ, có cả những vết thương đang đóng vẩy. Tôi quá kinh hãi, hỏi sao cậu mềm yếu quá thế, không đánh trả thì cũng phải nói toạc ra cho người yêu là anh Phạm cảnh sát biết chẳng hạn. Cô ấy phản đối, ‘Làm thế sao được? Đây là việc trong nhà, anh thay cha giáo dục em gái lẽ nào coi là phạm pháp? Tôi đâu có muốn anh chị phải vào trại giam! Anh tôi hơi xấu tính, chị dâu hơi đanh đá một chút nhưng cũng chưa phải kẻ xấu xa tàn độc gì. Tôi chỉ mong chóng kết hôn với anh Phạm để chuyển đi chỗ khác. Thế là ổn.’ Tôi không đồng ý với quan điểm của Phượng Anh, nhưng cũng không cho là sai lầm gì to tát. Chỉ nói, ‘Anh Phạm có vẻ tốt bụng, nhưng kết hôn là việc hệ trọng không thể hấp tấp cho qua, trước mắt cậu nên đi khỏi nhà, càng xa càng tốt, ví dụ dọn hẳn ra ngoài ở.’ Phượng Anh im lặng rất lâu, hình như cũng bị gợi ý của tôi tác động.”
Mạc Lệ Nhã thở dài, sắc mặt buồn rầu, ánh mắt thẫn thờ nhìn Na Lan.
“Rồi sao nữa?” Na Lan hỏi.
“Hết rồi, chỉ thế thôi. Không lâu sau đó, Phượng Anh mất tích.” Mạc Lệ Nhã nhìn đôi mắt vẫn đầy băn khoăn của Na Lan. “Chắc cháu thắc mắc rằng một chi tiết quan trọng như thế, tại sao khi xưa tôi không nói ra? Nhưng tôi biết nói thế nào? Không rõ… liệu có khiến sự việc xấu hơn nữa không.”
Na Lan gật đầu, “Cô biết không phải vợ chồng Nghê Bồi Trung gây án, vì tối hôm Nghê Phượng Anh mất tích có nhân chứng nhìn thấy họ, nhân chứng ấy chính là cô và gia đình cô. Nghê Bồi Trung là hàng xóm, là bạn của cha cô, hôm ấy họ ngồi chơi cờ ở nhà. Hồ Thanh cũng ngồi trò chuyện với mẹ cô. Khi anh Phạm chạy đến kể là không đón được Nghê Phượng Anh, chắc cô cho rằng Nghê Phượng Anh đã bỏ trốn.”
“Đúng thế! Tôi nghĩ Phượng Anh bị đánh đập nên lánh đi, sau này sẽ quay lại liên lạc với tôi. Nhưng rồi ngón tay ấy được gửi về nhà…” Mạc Lệ Nhã hít thật sâu một hơi. “Tôi đờ đẫn, không biết nên làm gì. Chắc chắn Phượng Anh đã bị hại rồi. Tôi có nên đến công an nói rằng vợ chồng Nghê Bồi Trung ngược đãi cô ấy không? Nói ra, rồi sao nữa? Tối hôm đó Nghê Bồi Trung không đủ thời gian đi gây án. Hai vợ chồng họ cuống lên vì vụ mất tích của cô em, sau khi nhận được ngón tay, họ như người mất hồn, không hề có vẻ giả vờ. Nếu tôi báo công an thì họ sẽ chết dở, bị điều tra lên bờ xuống ruộng đã đành, có khi còn bị cơ quan xử lý đuổi việc cũng nên. Bấy giờ họ lại đang có hai con nhỏ… Tôi do dự như thế ba năm trời, đến vụ án chặt ngón tay thứ hai thì tôi hiểu rằng mình đã quyết định đúng. Vợ chồng Nghê Bồi Trung không liên quan đến việc Phượng Anh bị hại.”
Na Lan hỏi, “Nhưng tại sao cô vẫn thấy nặng nề vì mình không nói ra?” Mục đích của Na Lan là muốn Mạc Lệ Nhã tiếp tục nói.
“Đương nhiên là thế! Bất kể giác ngộ ra sao, tôi vẫn biết thế nào là đúng sai đen trắng. Nghê Bồi Trung và Hồ Thanh không liên quan đến vụ chặt ngón tay hàng loạt, nhưng không có nghĩa là tội hành hạ Phượng Anh cũng được xí xóa! Cháu nghĩ xem, ác giả phải có ác báo chứ? Nhưng tôi vẫn không biết nên nói sao để họ phải nhận được bài học thích đáng mà không đến nỗi tàn đời… cả hai đã sáu mươi tuổi đầu, có cháu gái cháu trai cả rồi.”
Na Lan gật đầu, khẽ nói, “Cháu cảm ơn cô. Cô là người rất tốt, cô nói cháu hiểu cả. Cháu cũng tin rằng kẻ làm việc xấu, dù đại gian ác hay người bình thường, đều phải chịu báo ứng. Chỉ còn là thời cơ và cách thức mà thôi.”
Vợ chồng Nghê Bồi Trung cũng đã dọn đi khỏi khu nhà chung, đến ở căn hộ thuộc một chung cư nhỏ, cùng tòa nhà với Mạc Lệ Nhã. Nghê Phượng Anh vẫn còn hiện diện trong gia đình này. Vừa bước vào nhà có thể nhận ra ngay, ở phòng khách treo một số khung ảnh, có ảnh chụp chung cả nhà Nghê Bồi Trung ba thế hệ, ảnh các con các cháu, và vài bức ảnh đen trắng cũ, là di ảnh của cha mẹ Nghê Bồi Trung, ảnh cưới của vợ chồng ông và ảnh của Nghê Phượng Anh đứng trước cây cầu Thanh An mỉm cười rất tươi nhưng đôi mắt vương buồn.
Na Lan gần như dùng vũ lực để vào được nhà Nghê Bồi Trung. Ông ta chỉ he hé cửa nhưng cô cứ mạnh dạn tiến vào, nói, “Tôi chỉ hỏi có một câu, ông bà tính đi, hoặc trả lời tôi hoặc chờ công an đến hỏi lại.”
Hồ Thanh lớn tiếng, “Có ai lại như cô…”
Na Lan nhìn Nghê Phượng Anh trong tấm ảnh, nói, “Ông bà đã hành hạ Nghê Phượng Anh bao giờ chưa?”
Cả nhà im phăng phắc.
Lát sau, là tiếng thở càng lúc càng gấp gáp và tiếng bước chân bất an của Nghê Bồi Trung đi đi lại lại.
“Sao cô lại nói thế?” Nghê Bồi Trung phản bác nhưng giọng run run.
“Tôi không nói rằng ông bà đáng phải ngồi tù, cũng không nói rằng ông bà đã hại Nghê Phượng Anh. Tôi chỉ muốn hỏi khi cô ấy còn sống, ông bà đã đối xử với cô ấy như thế nào. Bao năm qua có thấy dằn vặt không? Hôm nay nhìn hài cốt và di vật của cô ấy, ông bà có hối hận không, hối hận vì lẽ ra ngày xưa mình nên đối xử tử tế với em hơn, đừng nên ngược đãi thể xác và tinh thần cô ấy?” Đôi mắt Na Lan rơm rớm lệ. Cô vốn không phải người hay nói, nhưng lúc này khó mà không kể tội, chất vấn họ.
“Cút ra ngay!” Nghê Bồi Trung gầm lên.
Hồ Thanh cũng mở cửa, tru tréo, “Ra đi! Ra đi! Ai cho mày vào đây? Nếu không ra tao gọi bảo vệ!”
Na Lan biết họ đã thừa nhận. Tuy không rõ họ hối hận được đến đâu, nhưng cô đã nói trúng đích, không nhầm. Cô bước ra. Vẫn nghe thấy tiếng hai vợ chồng thở hồng hộc ở đằng sau. Cô ngoái lại, “Nếu ông bà muốn nói chuyện, có thể liên lạc với tôi, tôi đã thả tấm danh thiếp vào thùng thư của nhà ta.” Rồi quay người bước xuống cầu thang, chẳng thiết nhìn lại họ nữa.
Xuống dưới sân, cô đứng im một lúc cho tỉnh táo. Cô thấy buồn cho thái độ tồi tệ của vợ chồng Nghê Bồi Trung và xót xa cho cuộc đời thê thảm của Nghê Phượng Anh. Ra khỏi cổng khu chung cư một quãng thì thấy Mạc Lệ Nhã đứng bên đường lạnh lùng nhìn lại.
Mạc Lệ Nhã hỏi, “Cháu đến nhà họ à?”
Na Lan gật đầu.
“Bị họ đuổi ra chứ gì?”
Na Lan lại gật đầu, nói, “Họ quá hổ thẹn rồi nổi nóng.”
“Tôi không hiểu cháu làm thế còn có ý nghĩa gì? Nghê Phượng Anh chết đã lâu, không thể cứu vãn được nữa.”
“Kẻ đã làm việc sai trái, ít ra cũng nên biết mình đã sai, nếu không sẽ thật bất công.” Na Lan định nói, nếu năm xưa Nghê Phượng Anh được giúp đỡ nhiều hơn, nếu có người sớm khai sáng cho nhà họ Nghê thì số phận cô gái sẽ khác hẳn.
Cả hai lặng lẽ đứng yên một lúc. Khi Mạc Lệ Nhã toan lên tiếng thì bỗng có tiếng phụ nữ kêu thét ở trên tầng gác không xa.
Phía nhà họ Nghê.
Lại có tiếng kêu thảm thiết. Na Lan phát hoảng.
Cả hai, không ai bảo ai, cùng bước về phía đó. Mạc Lệ Nhã bỗng rú lên một tiếng.
Giữa cảnh nhập nhoạng, họ nhìn thấy một bóng người xam xám từ tầng cao rơi vù xuống, chìm vào bóng chiều vừa buông.
Sau một tiếng động nặng nề, máu bắn tóe khắp mặt đường bê tông.
Người vừa rơi xuống là Nghê Bồi Trung.
Na Lan cũng kêu thất thanh, nhưng rồi gắng trấn tĩnh, nắm chặt tay Mạc Lệ Nhã. Cô nhìn đồng hồ, 5 giờ 28 phút chiều.
5 giờ 28 phút chiều.
Khi Na Lan đưa tay lên xem thì ở cửa một tòa nhà phía sau, cách cô 25 mét có một người cũng xem giờ. Trước đó người ấy vừa nói xong một cuộc điện thoại và đang nhìn Na Lan bằng ánh mắt xót thương thì vụ thảm án xảy ra. Không thể hiểu nổi tại sao cô ta lại đến nhà Nghê Bồi Trung, chỉ tổ rách việc. Cô ta hoàn toàn không nên dính vào vụ án “ngón tay khăn máu”, cô ta nên ngừng trò chơi với lão Mễ Trị Văn cô độc kia mới đúng. Cái gì nên xảy ra thì cuối cùng vẫn xảy ra, “ngón tay khăn máu” sẽ vẫn tiếp tục, đã ba mươi năm trời không ai ngăn nổi thì con bọ ngựa Na Lan định chặn cỗ xe bằng cách nào đây?
Trò chơi mà ta chơi với cô ta mới thực sự là trò chơi đỉnh cao.
Chương 14: Chữ thứ hai
Nghê Bồi Trung được xác định là chết ngay tại chỗ. Nhảy xuống từ tầng 7, đầu chạm đất trước, kết quả duy nhất là tử vong.
Sau đó cảnh sát lên nhà Nghê Bồi Trung và phát hiện ra Hồ Thanh đầu vỡ toác. Bên cạnh xác Hồ Thanh là một cái búa to dính máu, vết máu trên cán búa có dấu tay, kỹ thuật viên lấy mẫu vân tay gần như có thể kết luận ngay là dấu vân tay của Nghê Bồi Trung.
Trong vòng hai giờ, kết quả đối chiếu vân tay được phòng xét nghiệm công bố khớp với phỏng đoán của kỹ thuật viên, Nghê Bồi Trung dùng búa đập chết vợ là Hồ Thanh, sau đó nhảy lầu tự tử.
Trong phòng Trao đổi với nhân chứng.
“Trước khi xảy ra án mạng, đến nhà Nghê Bồi Trung cô đã nói những gì?” Sĩ quan cảnh sát tự giới thiệu là Kim Thạc hỏi Na Lan. Kim Thạc là phó chủ nhiệm Phòng Hiệp đồng các vụ án đặc biệt nghiêm trọng, thuộc Cục Trinh sát Hình sự Bộ Công an, sau khi vụ án ‘ngón tay khăn máu’ tái diễn, Bắc Kinh điều anh về đây phối hợp điều tra. Ba Du Sinh đến hiện trường vài phút rồi vội vã đi luôn. Na Lan đoán rằng anh có ý tạm né tránh, còn viên phó chủ nhiệm họ Kim thì thẳng thừng thể hiện thái độ bất mãn về chuyến thăm viếng riêng của Na Lan.
Tại sao Ba Du Sinh lại có ý né tránh?
Na Lan trả lời, có sao nói vậy. Kim Thạc hỏi, “Trước khi đến nhà họ, cô có lường trước hậu quả không? Sẽ giúp ích gì cho việc trinh sát phá án của chúng tôi đây?”
“Tôi không ngờ chỉ vì mấy câu nói mà Nghê Bồi Trung lại quá khích đến như thế.” Na Lan không nói ra lý luận về ác giả ác báo.
Bởi ác giả, đã chết rồi.
Kim Thạc nói, “Cô học về Tâm lý học, lại có kiến thức về bệnh học thần kinh…”
Na Lan biết những lời tiếp theo sẽ rất gay gắt.
“… cô nên biết những người có hành vi bạo lực thì trạng thái thần kinh rất không ổn định nhất là khi họ bị kích thích. Nghê Bồi Trung vừa mới biết tin chính xác em gái chết, tâm trạng đang rất lộn xộn thì cô lại đến chỉ trích ông ta rằng có những hành vi bạo lực của ông ta năm xưa không thể thoát khỏi ‘tuệ nhãn’ của cô, thì khả năng nảy sinh quá khích không lớn hay sao?” Kim Thạc tức giận đứng lên, cứ như thảm kịch của nhà họ Nghê là do Na Lan đạo diễn vậy.
Lúc này Na Lan mới chú ý nhìn Kim Thạc, anh ta tuổi ngoài 30, người trông cao, trông rất khí thế với sắc mặt như áp đảo người khác, thể hiện là một con người chuyên tâm với sự nghiệp.
“Tôi muốn làm rõ những hành vi thô bạo của ông ta đối với em gái, để hỗ trợ điều tra vụ án…”
“Kể từ nay, mỗi hành động liên quan đến vụ án của cô, kể cả gặp gỡ Mễ Trị Văn, đều phải được phép của Đội Trinh sát Hình sự. Không được tái diễn cảnh đêm tối xông vào buồng bệnh để đấu khẩu với lão ta nữa.” Kim Thạc lại ngồi xuống. “Chắc cô đã đoán ra, vì một nguyên nhân đặc biệt, tôi và Sở đã thống nhất, tôi thay anh Ba Du Sinh phụ trách điều tra vụ án này. Anh Sinh còn phải ứng phó với một số vụ quan trọng hơn, không thể phân tâm vào vụ án này nữa…”
Vụ “ngón tay khăn máu” sẽ còn tiếp diễn!
Na Lan nói, “Mễ Trị Văn từng cảnh báo vụ án ‘ngón tay khăn máu’ sẽ còn tiếp diễn. Anh được Bộ Công an điều về đây, chẳng lẽ vụ án này không quan trọng hay sao?”
“Đây là quyết định của Sở.” Kim Thạc lại đứng lên, nói “Chào cô” và định bước ra khỏi phòng Trao đổi với nhân chứng thì Na Lan gọi giật lại.
“Tôi muốn vào việc gặp Mễ Trị Văn, mong anh phê chuẩn.”
Khi Na Lan đến bệnh viện Phổ Nhân thì trời đã gần tối. Cô không ngờ Ba Du Sinh đang chờ cô ở khu bệnh nhân nặng.
“Em tưởng anh đã bye-bye vụ án này rồi?” Na Lan cảm thấy giọng mình khá nhẹ nhõm.
Ba Du Sinh mỉm cười, “Đúng là anh bị yêu cầu cách li vụ án, nhưng lúc này là ngoài giờ làm việc, anh không thể cứ thế mà cách li thật.”
“Tại sao anh phải cách ly?”
Ba Du Sinh không trả lời thẳng, chỉ nói, “Yêu cầu ấy là hơp tình hợp lý, nên anh chấp hành. Trước khi cô vào gặp Mễ Trị Văn, anh muốn cho cô biết một chi tiết điều tra mới phát hiện. Trước khi được lệnh cách ly, anh phát hiện ra rằng, máy điện thoại cố định không dây ở nhà Nghê Bồi Trung không cắm vào ổ sạc điện như thông thường, cảnh sát suy luận chắc là chủ nhân vừa mới có cuộc điện thoại nào đó. Đúng thế, sau khi tra cứu danh sách các cuộc gọi thì thấy hai phút trước khi Nghê Bồi Trung giết vợ rồi nhảy lầu, có người gọi điện đến nhà họ Nghê.”
Na Lan trầm ngâm. Chẳng lẽ ông ta nhận được cú phôn sai khiến, sau đó giết vợ rồi nhảy lầu tự tử? Sao ông ta có thể làm như thế? Giống như mô típ bị ai đó thôi miên hay xuất hiện trong tiếu thuyết kinh dị ấy? Không thể! Cú phôn đó do ai gọi đến? Tất nhiên cô hiểu chẳng ai dại gì để lộ, họ phải dùng di động nặc danh.
“Là di động nặc danh.”
Na Lan chợt nghĩ ra, “Mễ Trị Văn! Khi cú phôn ấy gọi đến nhà họ Nghê thì lão ta đang làm gì?”
Ba Du Sinh, “Không biết có phải ngẫu nhiên không, lúc đó lão vừa ra khỏi giường vào buồng vệ sinh. Thể trạng của lão hiện giờ, đi vệ sinh cũng là vấn đề lớn, cho nên nhân viên y tế và đồng nghiệp của bọn anh giám sát ở đó đều nhớ rất rõ.”
“Rất có thể chính là lão!” Na Lan khẽ thốt lên.
“Lục soát người lão thì không thấy có di động.” Ba Du Sinh khẽ thở dài. “Tất nhiên, nếu đúng là lão thì không đời nào lão giữ di động để chờ chúng ta đến tóm chứng cứ.”
Na Lan tư lự, “Nếu không phải Mễ Trị Văn gọi thì có thể là ai?”
“Đại sư Thương Hiệt!” Na Lan đến bên đầu giường, cất tiếng gọi, cô không thấy cách gọi này buồn cười.
Mễ Trị Văn đang nửa thức nửa ngủ, nghe thấy tiếng Na Lan gọi, mắt lão vẫn nhắm, mặc kệ cô đến mấy phút. Cuối cùng lão cũng mở miệng, “Mời ngồi. Cô nhẫn nại hơn nhiều rồi. Xem ra tôi đã không nhìn nhầm người.”
“Ông có quen Nghê Bồi Trung và Hồ Thanh không?” Na Lan ngồi xuống cái ghế bên cạnh giường.
Không ngoài dự đoán của cô, lão không trả lời, chỉ nói, “Sao cô cứ hỏi những câu cảnh sát đã hỏi mãi rồi?”
“Lẽ nào cùng một câu hỏi không thể có cách trả lời khác nhau? Tôi cho rằng ông đối với tôi khác với cảnh sát. Nếu không, tại sao ông không bảo cảnh sát giải mã con chữ kia?”
Mễ Trị Văn im lặng, lát sau mới nói, “Cô chỉ trích tôi bỡn cợt đám cảnh sát phải không? Tội lớn, tôi không dám thế đâu. Cho nên, việc trả lời cũng vậy. Tôi không quen hai kẻ đó, họ tự cho rằng mình rất ghê gớm nhưng thực ra họ không tự kiểm soát nổi số phận của mình.” Rõ ràng là lão đã biết tin về cái chết của hai vợ chồng nhà kia.
“Ông không gọi điện cho họ à?”
“Cô còn hỏi những câu thiểu năng như thế thì tôi đành giáng cấp cô chỉ như bình hoa di động, mà còn là thứ bình cổ lỗ.” Mễ Trị Văn hung hắng ho, có vẻ tức giận thật.
Na Lan đứng lên, nói, “Hoan nghênh ông coi tôi là đồ ngốc, điều này tôi quá mong! Xin chào! Cô không biết mình còn phải cố tỏ ra tư thế kiểu trẻ con này bao nhiêu lần nữa.
Còn Mễ Trị Văn, dường như chỉ số EQ của lão cũng rất thất thường. Lúc thì tinh quái bắt nọn, lúc lại đơn thuần như đứa trẻ. Lão nói, “Đừng đi vội! Cô đến chỗ y tá mà xem sổ ghi chép lúc 5 giờ chiều qua, ở đó có ghi một câu của tôi.”
Na Lan đến phòng trực ban. Nghe Na Lan hỏi, y tá rất ngạc nhiên, “Đúng thế thật, lúc 5 giờ tôi đi kiểm tra thì ông ta bảo tôi đưa cuốn sổ đang cầm nói là muốn cho tôi mấy chữ rất hay mà ông ta mới phát minh ra. Tôi biết ông ta lẩm cẩm, nên cũng chiều và đưa ông ta cuốn sổ ghi chép. Ông ta viết vào đó mấy chữ quái dị như nhau, tôi chẳng thiết hỏi gì thêm.” Rồi cô đưa cho Na Lan cuốn sổ. Đúng thế, dưới những ghi chép của cô y tá có năm ký tự kỳ quái y hệt nhau.
Na Lan nhìn mà không hiểu là gì, đang định cầm sang hỏi Mễ Trị Văn xem mấy chữ này liên quan gì đến cái chết của vợ chồng họ Nghê thì bỗng nhận ra phía sau của chúng viết gì đó, cô vội lật tờ giấy, thì thấy mặt sau viết bốn chữ số. 1728.
17 giờ 28 phút, là lúc Nghê Bồi Trung nhảy lầu.
Trên cuốn sổ ghi chép của y tá đi kiểm tra buồng bệnh lúc 5 giờ chiều mà lại ghi thời gian Nghê Bồi Trung giết vợ rồi tự sát, hai vụ án mạng xảy ra 28 phút sau đó!
“Ông…” Na Lan cầm cuốn sổ quay trở lại bên giường Mễ Trị Văn.
“Vẫn chưa rõ à? Tôi đã đoán ra số phận của hai người ấy.” Lão cười thâm thúy.
Thực không sao tưởng tượng nổi. Na Lan đứng chết lặng. Một loạt ý nghĩ kỳ quái nảy sinh, lão có năng lực đặc biệt hay sao? Chẳng lẽ vị trí hài cốt của Nghê Phượng Anh lão cũng đoán ra? Cô chưa bao giờ trải qua hoặc chứng kiến hiện tượng nào không lý giải nổi, nhưng cô biết Ba Du Sinh thường tin tưởng vào các hiện tượng siêu tự nhiên, dù anh chưa từng giải thích tại sao lại tin.
Ông mới chỉ là Thương Hiệt và chưa đổi tên là Phục Hy [1] thì phải? Ông đang cho chúng tôi biết ông có đồng bọn, các người cùng lên kế hoạch gây án, và hình như chỉ lo cảnh sát không đoán ra kẻ gây án kia! Hắn là ai? Các người liên lạc với nhau bằng cách gì? Na Lan còn vô số câu hỏi nhưng tin chắc rằng lão không chịu hợp tác. Dù ép lão ra khỏi trò chơi đoán chữ thì lão cũng không khai ra kẻ đồng mưu.
[1] Phục Hy là người thiết kế ra Hà đồ, tiền thân của Bát quái và Kinh Dịch sau này.
Vấn đề là tại sao lão lại công khai sự tồn tại của kẻ đồng mưu kia?
“Đã đọc mấy chữ tôi viết tặng cô y tá xinh đẹp ấy chưa?”
Na Lan sửng sốt. Chẳng lẽ…
“Cô ta không thể lĩnh hội, không thể nhận mấy chữ ấy thì tôi đành khổ sở chuyển lại cho cô vậy.” Mễ Trị Văn hé đôi mắt đầy những tia máu đỏ nhìn chằm chằm vào Na Lan. Cô thấy lạnh xương sống. “Chỉ là một chữ, cô lặp lại năm lần là được. Lặp lại vài lần là để hoàn thiện thư pháp. Chỉ một chữ là đủ rồi… tìm một người, chỉ cần một chữ thôi.”
Quả nhiên, chữ này là chìa khóa để tìm ra một nạn nhân khác của vụ án “ngón tay khăn máu”.
Na Lan cầm tờ giấy viết con chữ mà Mễ Trị Văn mới sáng tạo đặt trước mặt Kim Thạc. Kim Thạc nói, “Thì ra cô lại có thu hoạch mới!” Anh cau mày nhìn con chữ hồi lâu. “Được, cô cứ về nghỉ ngơi. Chúng tôi sẽ nhanh chóng nhờ chuyên gia phân tích… Nếu gặp khó khăn thì sẽ tạm gác lại, vì cũng chưa phải việc khẩn cấp. Điều quan trọng lúc này là phải nhanh chóng tìm ra người gọi cú phôn cho Nghê Bồi Trung.”
“Tạm gác lại?” Na Lan không tin ở tai mình nữa. “Chẳng có gì cấp bách bằng khám phá vụ án ‘ngón tay khăn máu’! Rất có thể kẻ gọi điện cho Nghê Bồi Trung là hung thủ chính trong suốt ba mươi năm xảy ra vụ án ‘ngón tay khăn máu’. Giải mã chữ này thì mới tiến đến gần sự thật được.”
“Bạn Na Lan ạ…” Kim Thạc định thử hài hước một chút. “Bạn chớ quên Mễ Trị Văn là bệnh nhân tâm thần phân liệt, là tên tội phạm rất xảo quyệt. Lẽ nào bạn thực sự tin rằng lão sẽ dẫn bạn tiếp cận sự thật?”
Câu nói không phải là không có lý. Na Lan ngớ ra, nhưng cô lại nói luôn, “Nhìn bề ngoài, lão có vẻ rồ rồ dại dại, nhưng cho đến giờ những lời lão nói không hề sai. Rõ ràng là nhờ chữ lần trước nên đã tìm được hài cốt Nghê Phượng Anh. Thậm chí lão còn dự báo cái chết của vợ chồng Nghê Bồi Trung! Cho nên, ít ra lão sẽ giúp chúng ta hiểu sâu rộng hơn về toàn bộ vụ án, và có thể phòng ngừa vụ án ‘ngón tay khăn máu’ tiếp theo.”
Kim Thạc hơi do dự. Ít ra anh cũng tán đồng một phần ý kiến của cô bèn hỏi, “Cô có đề nghị gì?”
“Đem ngay đến chỗ một cộng tác viên tên là Sở Hoài Sơn. Chắc anh đã nghe nói về anh ta?”
Kim Thạc cười nhạt, “Là một trong vài vũ khí bí mật của đội trưởng Ba Du Sinh!” Na Lan hình như nhận ra ngụ ý “một vũ khí bí mật nữa là cô”. Kim Thạc lắc đầu, “Trước hết chúng tôi đưa cho chuyên gia văn tự học chính cống đã…”
“Nhưng lần trước nếu không có anh ta…”
“Này, đã rất muộn rồi, tôi cử lái xe đưa bạn về trường nhé!”
Na Lan không ngờ lái xe được cử đưa cô về lại chính là Kim Thạc. Anh mở cửa bên phải cho cô, rồi lên ngồi trước vô lăng, nói, “Chỉ đường cho tôi đi, tôi chưa đến Đại học Giang Kinh bao giờ.”
“Phiền anh quá! Chắc anh bận việc không thể tưởng tượng được.” Cô có cảm giác Kim Thạc còn có dụng ý khác, chứ không chỉ muốn đưa cô về trường.
Đúng thế, đi được nửa chừng, anh hỏi, “Nghe nói cô có người chị họ đang làm việc ở Bắc Kinh?”
Cô đáp, “Vâng.” Và thầm nghĩ chắc anh đã đọc những chuyện bẽ bàng của tôi ở miền đông bắc năm ngoái, có phải anh có ý với bà chị tôi không? Thành Lộ sống cô đơn đã hơn một năm nay, nhưng dù chị ấy có thiếu tình yêu đến mấy thì tôi cũng không đẩy chị ấy vào “lò lửa” đâu!
Kim Thạc lại hỏi, “Hai chị em có hay gặp nhau không?”
“Chị ấy là người Giang Kinh, cha mẹ và anh trai vẫn đang ở Giang Kinh, nên cũng hay về đây. Những dịp tết nhất cũng có gặp nhau.”
Cô đoán đúng, Kim Thạc nói, “Tôi đã đọc các câu chuyện về cô, rất khâm phục. Ngày trước tôi cứ hình dung, tôi đoán cô… như một nữ hiệp can đảm, thận trọng, hôm nay gặp, tôi phải rơi kính đấy!”
Na Lan “Nhưng anh đâu có đeo kính?”
Kim Thạc bật cười, “Và càng không ngờ cô còn biết giả vờ ngớ ngẩn nữa.”
“Tôi ngớ ngẩn thật, nên mới chuốc lấy bao rắc rối.” Cô bỗng nhận ra mình đang nói rất thật.
“Nhưng tôi cảm thấy đội trưởng Ba Du Sinh đối với cô quá tàn khốc. Tôi không hề có ý kỳ thị phụ nữ, nhưng việc trinh sát hình sự, nhất là các vụ trọng án thường ghê rợn, nó tác động rất ghê gớm đến tâm lý. Cô đang đi học, nên tránh là hơn.”
Na Lan nói, “Cũng chẳng thể trách gì anh Ba Du Sinh, vì Mễ Trị Văn chỉ định tôi đến gặp.”
“Những kẻ như Mễ Trị Văn, tốt nhất là nên gạt sang bên, chứ đánh đu thì chỉ tổ mắc bẫy lão!”
Na Lan thầm nghĩ phải nói thể nào thì anh mới hiểu đây?
Kim Thạc bỗng hỏi, “Cô có đi Bắc Kinh chơi bao giờ chưa?”
Na Lan nói, “Đi rồi, cách đây mấy năm, hồi chị Thành Lộ mới ra công tác.” Cô nghĩ bụng, anh đừng có mà…
“Lần sau đi Bắc Kinh, cô cứ gọi tôi, dù bận đến đâu tôi cũng tháp tùng cô được!”
Na Lan dường như sắp chóng mặt chết ngất trên xe.
Chương 15: Rũ bỏ hồng trần
Ký tự mới của Thương Hiệt vẫn được đưa đến trước mặt Sở Hoài Sơn ngay lập tức. Na Lan đoán rằng Kim Thạc kế nhiệm Ba Du Sinh, có lẽ sẽ áp dụng phương thức khác hẳn, không dùng Sở Hoài Sơn và cô nữa, nên khi gặp Ba Du Sinh ở bệnh viện cô đã hỏi ý kiến anh, sau đó dùng di động chụp lại con chữ rồi gửi đến cho Sở Hoài Sơn.
Những điều này Kim Thạc không nhất thiết phải biết.
Trở về ký túc xá cô mở di động xem ngay. Có email của Sở Hoài Sơn, anh đang trên mạng chờ cô. Sau khi phát hiện ra hài cốt Nghê Phượng Anh, cô có nói chuyện với Sở Hoài Sơn một lần. Anh lo cô bị sốc, bàn an ủi cô vài câu. So với gặp mặt hoặc gọi điện thoại thì Na Lan thích giao lưu bằng WeChat hơn. Sở Hoài Sơn vẫn viết những câu rất ngắn gọn, không có cảm giác bị đứt quãng.
Sở Hoài Sơn: Nói về cái chữ ấy.
Na Lan: Anh đã phân tích và có kết quả ngay à?
Sở Hoài Sơn: Không có kết quả. Chữ lần trước mất hai ngày thì chữ lần này sẽ khó hơn. Tôi đã nghiên cứu nó liền hai giờ mà vẫn mờ mờ ảo ảo.
Na Lan: Chắc anh sẽ có cách. Mờ mờ ảo ảo, tức là nhỏ và xa xôi nhưng không có nghĩa là không có gì.
Cô tin Sở Hoài Sơn không phải gã vô duyên nửa đêm tìm con gái để tán gẫu.
Sở Hoài Sơn: Sau hai giờ ngẩn tò te, tôi kết luận rằng chỉ Na Lan mới có thể giải mã chữ này. Tôi tham gia chỉ là tác động thêm mà thôi.
Na Lan: Tôi mừng vì anh thuộc lòng lời dạy của Thương Hiệt.
Sở Hoài Sơn: Thật thế mà! Trong ký tự này, manh mối mà Mễ Trị Văn đưa ra chỉ có thể liên quan đến con người, các quá trình, quan hệ xã hội… của cô. Chữ lần trước đã chứng minh điều này.
Na Lan: Bản thân tôi không phức tạp gì nhưng con người, quá trình và quan hệ xã hội cũng có trăm ngàn chi tiết!
Sở Hoài Sơn: Cho nên tôi có thêm một kết luận nữa là, để giải chữ này, thì trong một thời gian ngắn tạm không coi cô là trọng tâm.
Na Lan: Anh định đưa tôi lên bàn phẫu thuật chắc? Đầu tôi đông đặc thực sự rồi.
Sở Hoài Sơn: Chữ lần trước ẩn chứa cái cổng chào, đơn giản và dễ nhận ra. Trọng tâm nằm ở quá trình từng trải của cô, vì nhận biết được nhanh, nên chỉ là một đề bài nhập môn. Chữ lần này ta không thể thoạt nhìn mà nhận ra ngay. Trước khi tiếp cận được đáp án, ta phải đi ngược về quá khứ, Mễ Trị Văn đã làm thế nào để nặn ra được chữ này.
Na Lan: Hiểu rồi. Ta phải tìm hiểu thêm về lão!
Hung thủ vụ án ‘ngón tay khăn máu’ là tên sát thủ vô hình đã ra lệnh cho Nghê Bồi Trung giết vợ rồi tự sát, nếu không phải Mễ Trị Văn thì là đồng bọn của lão. Mục đích của việc giải chữ chẳng phải để tìm ra tên đồng bọn ấy hoặc chứng cứ phạm tội của hắn hay sao? Cho nên ý kiến của Sở Hoài Sơn hoàn toàn hợp logic: tìm hiểu Mễ Trị Văn, càng tường tận về lão thì càng đến gần được tên đồng bọn.
Sở Hoài Sơn: Anh Ba Du Sinh biết rất rõ về Mễ Trị Sơn.
Na Lan: Được! Tôi sẽ liên lạc ngay với anh ấy.
Sở Hoài Sơn: Không cần vội thế đâu… cô… vẫn ổn chứ?
Na Lan cảm thấy anh ta hơi kỳ lạ. Sở Hoài Sơn do dự. Cô đáp, “Vẫn ổn. Anh sao thế?”
Sở Hoài Sơn: Vẫn ổn thì tốt rồi. Không cầu hoàn mỹ, chỉ cầu vẫn ổn.
Kết thúc. Na Lan không nghĩ về ý nghĩ sâu xa trong câu nói cuối cùng của Sở Hoài Sơn nữa, cô định gọi điện cho Ba Du Sinh thì chợt thấy rất mệt mỏi. Và, bây giờ mới nhận ra cô bạn cùng phòng Đào Tử đã ngồi phía sau lưng cô từ lúc nào, mắt đang dán vào màn hình. Cô ngáp dài, nói, “Cậu về khi nào? Sao lại lặng lẽ êm ru thế?”
Đào Tử nhấp chuột luôn, màn hình chuyển sang trang khác, cứ như đang làm gì bí hiểm không muốn cho Na Lan nhìn thấy. Đào Tử vẫn còn đeo tai nghe. Na Lan trêu chọc, “Chắc cậu đang lén xem phim người lớn, không sợ mình báo công an hay sao?”
“Phim người lớn sao phải xem lén? Thích thì mình xem ngay trên lớp ấy chứ!” Đào Tử cười gượng, nói phứa lên để xí xóa sự nghi ngờ của Na Lan.
Nếu lúc này nhắm mắt lại, Na Lan sẽ chỉ nhìn thấy cái bóng xam xám của Nghê Bồi Trung đang rơi, chỉ nghe tiếng kêu thảm thiết của Hồ Thanh. Cô quá mệt nhọc rồi, cả về thể xác lẫn tinh thần, nhưng không dám nhắm mắt để ngủ. Định trò chuyện với Đào Tử nhưng lại không biết nên nói hay không nói chuyện gì, hệt như Đào Tử đối với cô.
Câu nói xưa cũ vẫn đúng, con cái lớn lên, mỗi đứa một tâm tư.
Trong phút chốc cả hai cùng im lặng. Lần đầu tiên trong bao năm qua hai cô bạn thân lặng lẽ nhìn nhau. May sao tiếng chuông di động bỗng reo lên.
Na Lan nhìn di động, một số máy lạ.
“Khuya thế này mạo muội làm phiền, rất xin lỗi nhé!” Giọng nghe quen quen. Na Lan sửng sốt. Cô đã nhớ ra, đây là giọng Khám Cửu Kha trợ lý của Quảng Cảnh Huy.
Quảng Cảnh Huy là một ông già bí hiểm ở tít tận Quảng Đông, Quảng Diệc Tuệ là cô con gái duy nhất rất được ông nâng niu, mấy năm trước đã chết thê thảm ở Giang Kinh. Na Lan phải trải qua bao biến cố gian nan để khám phá bí ẩn sau cái chết của cô ta, lật mặt hung thủ, cũng vì thế mà cô quen Quảng Cảnh Huy. Ông già cô độc dần chuyển tình thương yêu cô con gái sang Na Lan, coi cô như con đẻ. Na Lan có phần mất tự nhiên nhưng rất xúc động trước cảnh ngộ của ông, thỉnh thoảng vẫn liên lạc và an ủi ông.
Vì Quảng Diệc Tuệ đã “hạ mình” lấy nhà văn Tần Hoài tầm tầm, sau đó cô gặp nạn, cho nên ông Quảng Cảnh Huy vẫn không thể tha thứ cho Tần Hoài đã đem vận đen đến cho con gái ông. Về sau, Tần Hoài có chút quan hệ tình cảm với Na Lan rồi bỏ đi Lĩnh Nam, Quảng Cảnh Huy liền lặng lẽ và tự nguyện giám sát mọi hành vi của Tần Hoài.
Khám Cửu Kha là tâm phúc của Quảng Cảnh Huy suốt hai mươi năm qua, Na Lan quen anh ta chưa đầy một năm nhưng vẫn nhận ra đó là con người tinh nhanh tháo vát và cũng rất kín đáo. Đang đêm gọi điện đến, chắc không phải để nói những chuyện bình thường.
“Chào anh Cửu.” Na Lan biết các thuộc hạ của ông Quảng Cảnh Huy thường gọi anh ta như thế. “Ông cụ vẫn ổn cả chứ?” Ông Quảng Cảnh Huy tuổi đã cao, người không được khỏe.
“Vẫn ổn… vẫn ổn.” Giọng Khám Cửu Kha hơi do dự. Không hiểu sao Na Lan bỗng nhớ đến câu nói hơi gượng gạo của Sở Hoài Sơn “không cầu hoàn mỹ chỉ cầu vẫn ổn”. Khám Cửu Kha lại hỏi, “Cô không biết chuyện thật à?”
Na Lan giật mình vì câu nói rất đột ngột! Một linh cảm chẳng lành kéo đến. “Biết về gì?”
“Tôi có nhắn tin riêng cho cô trên weibo.” Thế giới tuy rộng lớn, nhưng có weibo thì hết chỗ trốn. “Về chuyện Tần Hoài.”
Cô mở xem. Là một clip trên mạng Tudou [1], có tiêu đề Tiểu thuyết gia kinh dị Tần Hoài cắt tóc đi tu (quay lén). Số lượt xem đã vượt quá con số trăm ngàn.
[1] Một trang phim online của Trung quốc.
Tần Hoài xuất gia. Đoạn tuyệt tóc xanh, đoạn tuyệt tơ tình.
Na Lan vốn nghĩ chỉ trong tiểu thuyết võ hiệp mới có cái chuyện hão huyền như trò đùa này, đến khi trò đùa rơi ngay xuống đầu mình thì cô mới biết thực tế không bao giờ lãng mạn như trong tiểu thuyết, trái lại, rất tàn khốc. Còn nhớ năm ngoái thầy trò Quảng Cảnh Huy và Khám Cửu Kha cho cô biết Tần Hoài giao du với một vị cao tăng ở Quảng Châu, và bắt đầu học kinh Phật. Từ đó đến nay đã loại bỏ được lục căn [2] thì cũng hợp lẽ thôi.
[2] Lục căn, tức sáu cơ quan cảm giác nhận thức của con người, gồm: mắt, tai, mũi, lưỡi, xúc giác suy nghĩ.
Đôi mắt cô ươn ướt. Cũng hợp lẽ.
Rốt cuộc Tần Hoài vẫn không thể gỡ bỏ được nỗi nhớ người vợ Quảng Diệc Tuệ và sự cắn rứt trong lòng. Anh là con người rất chân tình. Cô không thể làm gì khác.
Cốc Y Dương rồi Tần Hoài lần lượt đi xa, để lại mình cô trăn trở khốn khổ trong cõi hồng trần, xoay xở ứng phó giữa đám người tối tăm.
Qua điện thoại, Khám Cửu Kha còn nói mấy câu nữa, nhằm giải thích, rằng nghi thức cắt tóc là chuyện rất riêng tư, thế mà có kẻ hiếu sự quay lén, hỏi cô có cần điều tra xem kẻ đó là ai không. Nhưng Na Lan đôi mắt nhòa lệ và đôi tai như như ù đi, chỉ biết nức nở mà thôi.
Cũng chẳng biết cuộc gọi ngắt từ lúc nào, cô vãn ngồi ngây ngẩn, tay cầm di động nhìn ra ngoài khung cửa sổ u ám như cõi lòng cô lúc này.
Một đôi tay ôm chặt Na Lan. Đó là Đào Tử. Bây giờ Na Lan mới hiểu ra, lúc nãy Đào Tử vội tắt máy tính là vì nhìn thấy cái clip kia. Có lẽ câu hỏi “cô vẫn ổn chứ” của Sở Hoài Sơn cũng là do anh ta đã xem nó, rồi muốn thăm dò tâm trạng của cô. Hình như cả xã hội đều biết cái điều bí mật gắn liền với cô này, chỉ riêng cô là không hay biết. Nhưng ít ra “những người tốt bụng” đều không láu táu mà tag cô vào!
Đào Tử khẽ nói, “Thực ra mình nghĩ rằng, Tần Hoài làm thế là rất có trách nhiệm với cậu, anh ấy không thể thực hiện lời hứa thì chỉ còn cách buông xuôi.”
Buông xuôi. Để cô rơi xuống vực sâu.
Suốt đêm nằm mơ, mơ thấy Tần Hoài, Cốc Y Dương, những cái xác nổi trên mặt hồ Chiêu Dương, hai cánh tay đang quạt nước, rừng thông phủ đầy tuyết, bạn đồng hành gục ngã, xe chạy trên tuyết phóng từ vách núi cao bay lượng như chim ưng, cô gái trong hố chôn, những ngón tay tuyệt vọng cầu xin, những ngón tay đứt lìa, và bóng tối vô tận.
Sáng sớm hôm sau Na Lan hầu như không dậy nổi nữa. Không ngủ được, cũng không thể dậy, cùng tấn công cô.
Đào Tử đã rửa mặt chải đầu xong xuôi, đứng bên giường Na Lan nói, “Cậu phải…”
“Phải làm một việc gì đó.” Na Lan tiếp lời.
“Cảm ơn trời đất, IQ của cậu vẫn còn nhiều lắm!”
“Cảm ơn cậu không nhắc đến chỉ số EQ của tớ.”
“Cậu định làm việc gì?” Đào Tử cố kéo Na Lan ra khỏi giường. “Lấy độc trị độc, chúng ta sẽ bắt đầu từ việc đi tìm anh chàng ấy.”
Ý tưởng này đã thức tỉnh Na Lan, cô nói, “Gần đây mình đặc biệt hứng thú với những gã đẹp trai già khú đế, nhất là gã sắp đứt hơi.” Cô ngồi lên. Chóng mặt quá!
Nhưng cô không đi tìm gã nào cả, cô đi gặp Đổng Bội Luân. Lại đi quấy rầy Đổng Bội Luân là hạ sách, Na Lan vốn không thích một việc gì đó phải làm hai ba lần, nên cô có cảm giác bị Mễ Trị Văn đẩy vào ngõ cụt, vụ việc ba năm trước xảy ra với Đổng Bội Luân chứa đựng nhiều điều khó nói, không thể gặp một lần đã rõ ràng hết được. Cô không muốn bỏ qua cái manh mối đầy rắc rối này.
Đổng Bội Luân là người biết giữ lời hứa, và đã từng nói, cảnh cửa văn phòng chị luôn rộng mở với Na Lan. Na Lan vừa đến tiền sảnh thì người thư ký đã nói luôn, “Mời vào! Giám đốc đã dặn chúng tôi rằng cô nhất định sẽ lại đến. Tôi vào thông báo để giám đốc thu xếp thời gian.”
Đổng Bội Luân đang họp qua điện thoại, trong phòng họp còn có mười mấy cán bộ quản lý cao cấp và các kỹ thuật viên nòng cốt. Na Lan chờ hơn mười phút thì cuộc họp kết thúc.
Trong phòng làm việc của Đổng Bội Luân.
“Tại sao cô nói là em nhất định sẽ còn đến nữa?”
“Vì em không may rơi vào trò chơi quái đản của Mễ Trị Văn.” Không cần nghĩ ngợi, Đổng Bội Luân chọc thẳng vào khối u nhức nhối của Na Lan. “Lão đưa ra tín hiệu bí hiểm, cho em hy vọng sẽ phá được vụ án, nhưng vẫn giữ lại một nghìn % cảm giác bí hiểm khiến em hết sức hiếu kỳ, muốn lột mặt nạ của lão, tìm hiểu về lão, nhưng dù cố gắng đến mấy em vẫn cứ như lạc vào một màn sương dày đặc nghẹt thở.” Đổng Bội Luân chỉ bầu trời đang xám xịt nặng nề ngoài cửa sổ. Kể từ sáng sớm hôm nay một màn sương xam xám vàng vọt bỗng bao phủ Giang Kinh, một thảm họa môi trường. “Sương dày đặc thế kia, có lẽ tôi phải nghỉ điều trị ngày mai cũng nên.” Đổng Bội Luân nhích xe lăn ra sau bàn làm việc rồi hỏi, “Này, cụ thể em định hỏi điều gì? Tôi không đoán ra và cũng chẳng muốn đoán nữa.”
“Có phải lão cũng từng chơi trò chơi tương tự với cô không?” Na Lan vào đề luôn, cô đang nóng lòng muốn biết điều này.
Trong một khoảnh khắc, Na Lan dường như thấy sắc mặt Đổng Bội Luân cũng xám lại tựa bầu trời ngoài cửa, nhưng vẻ hồng hào và nụ cười ung dung cũng lập tức hiện ra thay thế. “Xem ra em ngày càng giống tôi, giống tôi hồi trẻ. Nhưng, mong sao em đừng có kết cục như tôi.”
“Cô nói đúng ạ.” Na Lan đang bí không biết nên nói thế nào cho thỏa đáng. “Mễ Trị Văn giống như mắc chứng đa nhân cách, lúc thì hão huyền xa xôi, lúc thì quá ư tầm thường, lúc khác lại thâm thúy kinh khủng. Thực ra lão ta là người như thế nào?”
“Cô không chỉ là nạn nhân, đúng không? Trong lời khai với công an, cô nói không hề giao lưu gì với ông ta. Em đã đọc hồ sơ bệnh án và biên bản phạm tội của Mễ Trị Văn, thì nhiều năm về trước lão từng mắc bệnh hoang tưởng được yêu, thích rêu rao rằng quen biết nạn nhân từ lâu, thậm chí có quan hệ yêu đương. Nhưng những lần gây án về sau đều bất thành rồi bị bắt, lão không nói như trước nữa, tựa hồ đã tự biết mình, biết rằng dù nói thế cũng chẳng ai tin. Cho nên em vẫn ngờ ngợ không rõ cô có quen ông ta không.”
“Ý em là tôi đã nói dối cảnh sát chứ gì?”
“Tình thế và trạng thái của cô lúc đó… cô đang sốc, nếu cô lựa chọn hãy quên đi thì cũng là chuyện thường tình. Chính em sau cú sốc cách đây không lâu, khi trình bày với cảnh sát em cũng bị coi là nói dối vô số.” Na Lan định nói chắc bà chị không biết tôi rất bi đát, tôi đã từng trải kha khá.
Đổng Bội Luân im lặng một lát. “Em đoán bằng trực giác chứ gì? Về chuyện tôi có quen Mễ Trị Văn hay không…”
“Trong đám sách tham khảo để tạo chữ đặt ở đầu giường Mễ Trị Văn, có một cuốn nhạc phổ cổ, các ký tự dùng để ghi nhạc trông rất kỳ quái. Còn ở chỗ cô thì có một cây đàn tranh, liệu có phải ngẫu nhiên không?”
“Mễ Trị Văn từng dạy tôi chơi đàn tranh.” Lần này Đổng Bội Luân trả lời ngay không do dự.
“Rồi sao nữa ạ?” Na Lan hỏi.
“Về sau ra sao thì em biết rồi. Dù chưa biết thì em cũng có thể suy luận được đấy.”
“Em vẫn chưa hiểu…”
“Có những chuyện không thể nói quá rõ. Nhưng chí ít em hãy yên tâm, rằng tôi bảo lãnh cho điều trị tại ngoại không phải để mời lão dạy đàn tiếp.” Đổng Bội Luân lại nhìn sắc trời xám xịt ngoài cửa sổ. “Tôi sẽ bảo thư ký gọi taxi cho em, thời tiết hôm nay đừng nên ló mặt ra ngoài.”
Chương 16: Truy tìm bí mật
Mễ Trị Văn gây án cưỡng dâm bất thành lần đầu cách đây 28 năm. Nạn nhân là Thôi Dụ Hồng, hồng nhan bạc mệnh, chưa đến bốn mươi tuổi đã ung thư vú rồi qua đời. Nạn nhân thứ hai là Lý Tĩnh, cách đây 22 năm, sau ngày bị hại ít lâu đã sang Mỹ du học rồi ở lại định cư, đoạn tuyệt với quá khứ đau lòng. Nạn nhân thứ ba là Vu Ninh, bị hại cách đây 17 năm, sau đó mắc chứng trầm cảm chưa điều trị được thì đã tự sát. Đây là những tư liệu mà Sở Hoài Sơn thu thập được, ngoài Đổng Bội Luân còn có hai nạn nhân nữa nhưng trông tra ra được. Na Lan nhờ Sở Hoài Sơn giúp đỡ vì cô muốn tranh tiếp xúc nhiều với Kim Thạc, mỗi lần xin phê chuẩn cô có cảm giác mình mắc nợ anh ta, sẽ thêm áp lực phải trả nợ bằng chuyến đi Bắc Kinh sau này.
Hai người trao đổi qua weibo.
Sao anh lại tra ra được? Na Lan hỏi.
Sở Hoài Sơn: Nhờ phóng viên Tin chiều Tân Giang.
Na Lan: Người không ra khỏi nhà như anh, sao lại quen được phóng viên?
Sở Hoài Sơn: Tôi phục vụ Bộ Công an, đôi khi cũng phục vụ cánh phóng viên.
Na Lan bây giờ mới nhớ ra anh ta là cao nhân, tháo vát quá thì nhọc thân.
Sở Hoài Sơn: Mấy vụ án đó, tờ báo ấy đăng đầy đủ, có cả thông tin về người bị hại.
Na Lan: Nếu anh Ba Du Sinh còn làm thì đã không phiền đến anh.
Sở Hoài Sơn: Không sao. Chúc cô điều tra thuận lợi.
Nạn nhân có thể điều tra, giờ chỉ còn Vu Ninh. Sở Hoài Sơn cho biết cách thức liên lạc với cha mẹ Vu Ninh. Na Lan ngồi ngây đờ trước mặt máy tính. Nói vậy thôi, chứ đầu óc đang lên kế hoạch liên lạc với cha mẹ Vu Ninh, gặp gỡ ra sao, hỏi han những gì… Nhắc đến Vu Ninh liệu họ đau xót đến đâu? Tại sao mình lại tàn nhẫn thế nay?
Tất cả cũng chỉ vì câu nói của Mễ Trị Văn, vụ án “ngón tay khăn máu” sẽ còn tiếp diễn.
Sương mù bao phủ Giang Kinh suốt ngày nên lúc hoàng hôn thì trời đã đen kịt như đêm khuya. Na Lan đeo khẩu trang, tiến vào bóng tối nặng nề.
Cô không báo trước cho cha mẹ Vu Ninh, sợ bị họ từ chối thì lần sau sẽ càng khó gặp. Cô cũng không định nói những điều khiến hai ông bà già đau buồn mà chỉ hỏi những vấn đề có vẻ chắc ăn.
Bà mẹ Vu Ninh ra mở cửa. Na Lan là người lạ, nhưng dáng vẻ và trang phục của cô sẽ không khiến họ phải cảnh giác. Bà già ăn mặc giản dị, khuôn mặt hiền hòa, giọng nói ân cần, “Cháu muốn tìm ai?”
Nhìn vẻ mặt hiền từ của bà, Na Lan cảm thấy không nỡ khiến bà phải khổ tâm cô định nói “Cháu nhầm nhà” để rút lui, nhưng bà lại mỏ rộng cửa, bật đèn, khẽ kêu lên, “Cô là nghiên cứu sinh, hỗ trợ cảnh sát phá án phải không?”
Sau “vụ án năm xác chết”, báo chí Giang Kinh đã có bài viết về Na Lan, khiến cô đến trường cũng ngại, lúc nào cũng thấy người ta thì thầm và nhìn cô bằng ánh mắt là lạ. Không ngờ đến tận hôm nay, ở một khu vực lạ hoắc, vẫn bị một bà lão nhận ra. Bà bước lại gần hơn, ngắm nhìn Na Lan rồi nói, “Đúng là cô! Tôi nhớ rất chuẩn, không thể nhầm được…” Hình như sực nhớ ra điều gì, sắc mặt bà thay đổi, “Chắc không phải cô đến…”
Na Lan nghĩ, bà đã đoán ra ít nhiều, thì cũng tốt, mình đỡ phải tự giới thiệu.
“Cháu là Na Lan…” Cô hơi do dự. “Nếu bác không ngại… cháu muốn hỏi vài điều… chuyện của chị Vu Ninh,”
“Thế thì cháu phải thất vọng rồi.” Bà thở dài.
Na Lan sững người. Bà đã sẵn sàng từ chối?
“Bác ạ, cháu…”
“Tôi không có ý xua cháu đi, nhưng tôi cho rằng cháu đã hiểu lầm rồi. Là Ninh Ninh chán sống, mắc chứng trầm cảm một thời gian, tôi đã khuyên nhủ nó mãi nhưng không được.” Bà lại thở dài, rồi đưa ống tay áo lên chấm nước mắt. Bà bảo Na Lan vào nhà ngồi, rồi lặng người không nói được nữa.
Na Lan bước vào, nhanh tay khép luôn cửa vì sợ sương giá tràn vào nhà.
“Cháu thực tình không muốn nhắc đến chuyện của chị Vu Ninh khiến bác phải buồn. Nhưng vì có liên quan đến một vụ án khác…”
Bà hơi sửng sốt, chứng tỏ tư duy vẫn rất nhanh nhẹn. Bà gật đầu như đã hiểu ra, rồi lại lắc đầu, “Chắc cháu nói về thằng cha mất hết tính người ấy?” Bà liên tưởng đến Mễ Trị Văn.
Na Lan nói, “Nếu bác không tiện nói về lão.,..”
“Có gì mà tiện hay không tiện? Hắn là kẻ bệnh hoạn, một thằng điên! Ninh Ninh nhà này xấu số nên gặp phải kẻ ấy.” Bà trào nước mắt.
Na Lan định im lặng, nhưng rồi lại đánh liều hỏi, “Bác nói gặp phải nghĩa là sao ạ? Cháu được biết biên bản ghi chép về vụ án là, Vu Ninh học năm thứ ba Đại học Tài chính Kinh doanh, tham gia hoạt động đoàn thể rồi quen Mễ Trị Văn, xem ra là việc ngẫu nhiên.” Có lẽ Na Lan là người cuối cùng trên đời này tin ở sự kiện ngẫu nhiên.
Nhưng khi số phận đã bỡn cợt con người thì có thể còn bao nhiêu việc tuân theo các quy tắc khoa học nữa đây?
Bà mẹ Vu Ninh hỏi lại cô, “Cháu đã biết những gì về chuyện của Ninh Ninh?”
“Cháu chỉ biết đại khái đến thế.” Đúng là Na Lan đã thuộc lòng các tư liệu mà Sở Hoài Sơn tra cứu được. “Và còn một điều nữa, ngày trước từng có bài báo viết, bạn bè nhớ lại rằng Vu Ninh là một hạt nhân văn nghệ của trường, hát hay múa đẹp.”
“Nó còn biết chơi nhạc cụ dân tộc, đàn cổ, đàn tranh, đàn tỳ bà… đều biết ít nhiều.” Bà nhẹ nhàng nói.
Na Lan đã nhận ra mối liên hệ, “Mễ Trị Văn biết chơi nhạc cụ dân tộc?” Cô cùng nghe nói cách gảy cổ cầm và đàn tranh na ná nhau, biết một thứ là sẽ biết cả.
“Không chỉ biết chơi, mà hắn còn chơi rất hay.” Bà mẹ hít vào một hơi dài. “Cho nên hắn trở thành thầy dạy cổ cầm cho Vu Ninh.”
Lại là một tình tiết chưa ai biết, hệt như chuyện của Đổng Bội Luân.
Na Lan thốt lên, “Lão thực bỉ ổi! Lợi dụng việc dạy đàn để làm càn.”
Bà mẹ Vu Ninh tư lự mất một lúc, “Phải nói là… thằng cha ấy vô cùng bệnh hoạn, nhưng… chuyện này chúng tôi chưa từng nói với ai, hôm nay thật khác thường, lần đầu tiên kể với cháu. Chẳng biết ma xui quỷ khiến ra sao, Vu Ninh tự dưng… thích thằng cha Mễ Trị Văn!”
Vu Ninh đang tuổi hoa rực rỡ, có cảm tình với một gã trung niên khô cằn rồi bị hắn cưỡng bức nhưng chưa thành? Đây là cái logic gì vậy? Na Lan nhớ đến bệnh án thần kinh của Mễ Trị Văn, lão rêu rao rằng các nạn nhân ấy và lão đều có mối gắn kết đồng điệu tâm hồn, thậm chí là có quan hệ yêu đương, thoạt đọc sẽ coi là những lời điên rồ, nếu bà mẹ Vu Ninh nói đúng, thì tức là Mễ Trị Văn đã nói thật?
Na Lan dường như nghe thấy tiếng cười khẩy bất cần của lão, tôi có nói dối bao giờ đâu? Chính cô dựa vào cái chữ có được do linh cảm của tôi rồi tìm thấy hài cốt của Nghê Phượng Anh đấy thôi!
Đổng Bội Luân thì sao? Hay cũng là câu chuyện giống thế này?!
Na Lan tưởng tượng cảnh Đổng Bội Luân thông minh trong sáng, nõn nà như tiên nữ nhưng lại yêu lão ma nhập Mễ Trị Văn, cô vội lấy khẩu trang ra đeo, hình như sợ tâm trí mình bị sương giá độc hại xâm nhập rồi lú lẫn không biết đúng sai là gì nữa.
Nhưng, tại sao Mễ Trị Văn lại làm hại những cô gái mà trái tim đã thuộc về lão? Tại sao lão lại phải làm hại những người mà lão nói là có tâm hồn đồng điệu với mình?
Làm thế nào để nhìn rõ toàn bộ diện mạo của Mễ Trị Văn?
Ngồi trên tàu điện ngầm, Na Lan nhắn tin cho Sở Hoài Sơn: Càng tin Mễ Trị Văn không phải là hung thủ vụ án “ngón tay khăn máu”, tôi càng cảm thấy lão bí hiểm khó lường. Tại sao lão lại biết vị trí hài cốt của nạn nhân? Nếu lão không phải thần tiên thì chắc chắn có người nói cho lão biết. Cho nên việc cấp bách nhất là phải tìm ra tên sát thủ vẫn nhởn nhơ ngoài xã hội. Tuy không biết Mễ Trị Văn đã quen kẻ ấy từ khi nào, nhưng loạt vụ án “ngón tay khăn máu” đã trải suốt ba mươi năm, cả hai có thể là cố nhân lâu năm, cần tìm hiểu về lai lịch Mễ Trị Văn để từ đó lần ra tên bạn cũ của lão.
Tin nhắn tràng giang đại hải, nhưng Sở Hoài Sơn chỉ đáp lại hết sức ngắn gọn: Lai lịch Mễ Trị Văn, một con số 0.
Na Lan thở dài. Không có một thông tin nào về tiền sử lai lịch Mễ Trị Văn. Chẳng phải là tin mới. Ba Du Sinh cũng từng nói thế, đây là một trong những khó khăn của vụ án. Na Lan ngao ngán. Lẽ nào bế tắc hoàn toàn rồi?
Cô lại bấm bàn phím: Lẽ nào không có cách gì?
Sở Hoài Sơn: Đã nghe nói đến dốc Mễ Lung chưa?
Dốc Mễ Lung, Mễ Trị Văn. Giữa hai chữ này có liên quan gì chăng?
Dốc Mễ Lung ở ngoại thành phía bắc Giang Kinh, là một địa danh mang tính tiêu biểu cho thành phố này. Nhờ phát hiện di tích một nền văn minh cổ xưa ở đây mà Mễ Lung trở thành một thánh địa khảo cổ học nổi tiếng cả nước. Vùng đất chứa đựng bề dày lịch sử này có quan hệ sâu xa ra sao với lão già đậm đặc tà khí từ đầu đến chân như Mễ Trị Văn?
Sở Hoài Sơn lại nhắn thêm một tin nữa: Có biết xuất xứ của cái tên dốc Mễ Lung không?
Na Lan không phải là dân Giang Kinh chính gốc, nhưng cũng từng tham quan di tích Mễ Lung và có nghe về nguồn gốc cái tên này. Dốc Mễ Lung đối diện với sông Thanh An chín khúc, gọi là “dốc” nhưng thực ra chỉ là một khoảnh đất phẳng, hiền hòa, địa thế hơi cao hơn đồng bằng bên dưới, ở giữa có hai dốc nhỏ gồ lên. Người thời cổ định cư trên dốc này và trồng trọt chăn nuôi ở dưới thấp, như thế, dù sông Thanh An nước dâng họ cũng vẫn an toàn. Vào mùa nước nổi, nước sông tràn lên chỗ cao, người thời cổ liền đắp “lung”, tức là xe bờ xung quanh để trữ nước lại, tiếp tục trồng lúa trên đó, dần dà hình thành cái tên dốc Mễ Lung. Về sau, dụng cụ dùng để xay thóc được chế tạo ở đây, quan cai trị địa phương lại lấy tên Mễ Lung đặt luôn cho nó, bởi vậy Mễ Lung còn có nghĩa là “cối xay thóc”.
Sở Hoài Sơn: Còn có một lai lịch khác về dốc Mễ Lung, liên quan đến họa sĩ Mễ Thị thời Bắc Tống. Về già, ông Mễ Thị định cư ở Giang Nam, thế hệ con cháu thì dần dà lưu lạc bốn phương để tránh chiến loạn, họ di cư đến ngoại thành Giang Kinh, sinh sống ở dốc Mễ Lung bấy giờ đã vắng bóng người. Nơi này phong thủy tốt, đất đai màu mỡ, dần phát triển đông đúc, phồn vinh. Họ đặt tên khu vực này là thôn Mễ Gia, về sau có thêm rất nhiều người họ khác đến cư trú, bèn đổi là thôn Mễ Lung, dân chúng thành Giang Kinh hễ nhắc đến rẻo đất cao cao ấy, lại gọi luôn là dốc Mễ Lung.
Tin nhắn khá dài, khiến Na Lan chìm trong suy nghĩ.
Thôn Mễ Gia có còn không?
Có thể là do gen di truyền của Mễ Thị, hoặc do bầu không khí ham học được duy trì tốt đẹp, bao năm qua thôn Mễ Gia đã xuất hiện rất nhiều tú tài cử nhân, có người lên kinh thành và các nơi khác làm quan, nên dân cư thưa dần. Thời kháng chiến, Giang Kinh rơi vào cảnh rối loạn, trong thành có tô giới Anh, Pháp nên thành phố biến thành cô đảo, ngoại thành thì bị gót sắt của quân Nhật giày xéo, thôn Mễ Lung cũng không ngoại lệ, người chết người bỏ trốn. Cho đến khi chiến tranh kết thúc mới có một số dân họ Mễ trở lại cố hương, Mễ Lung lúc này đã đổ nát tàn tạ. Tuy nhiên vẫn có vài gia đình họ Mễ chính tông dựng lại nhà cửa trên nền đất cũ của thôn Mễ Lung. Mễ Trị Văn sinh ra trong một xóm nhỏ đằng sau dốc Mễ Lung.
Na Lan cố hồi tưởng hình ảnh di tích dốc Mễ Lung mà cô từng tham quan, nhưng không thể nhớ ra cái xóm nhỏ đằng sau dốc. Sở Hoài Sơn nói, sau những năm 80 của thời kỳ trước dốc Mễ Lung được coi là di tích khảo cổ cấp quốc gia, thì vài hộ còn sót lại trong thôn được chính quyền cho di dời vào nội thành Giang Kinh ở.
Na Lan: Tôi đã đọc mọi tư liệu về Mễ Trị Văn, không thấy nhắc đến nơi sinh của lão, sao anh biết lão ra đời ở thôn Mễ Lung?
Sở Hoài Sơn: Tôi đoán.
Na Lan: Anh nói rõ hơn được không?
Sở Hoài Sơn: Chắc cô biết mấy địa điểm mà Mễ Trị Văn từng gây án?
Na Lan: Rải rác ở vài khu, huyện của Giang Kinh, không nhận ra có quy luật gì.
Sở Hoài Sơn: Đánh dấu trên bản đồ, sẽ nhận ra quy luật.
Anh lập tức gửi cho Na Lan sơ đồ nội ngoại thành Giang Kinh. Vậy là anh đã nghiên cứu từ lâu. Các địa điểm Mễ Trị Văn gây án đánh dấu + đỏ, nối liền bảy dấu đỏ này được một đường thẳng!
Nếu kéo dài đoạn thẳng ấy thì nó sẽ đi xuyên qua dốc Mễ Lung!
Sở Hoài Sơn: Cô là chuyên gia tâm lý, phải thạo hơn kẻ ngoại đạo là tôi. Mễ Trị Văn làm thế dù có ý thức hay không thì vẫn toát ra một điều, dốc Mễ Lung rất quan trọng đối với lão.
Na Lan ngẫm nghĩ, nếu đúng là thế thì rất có thể xóm nhỏ bỏ hoang sau dốc Mễ Lung sẽ lưu lại dấu vết thời thơ ấu của Mễ Trị Văn. Dù chưa chắc chắn liên quan trực tiếp đến tên hung thủ thực sự kia, thì ít ra cũng là điểm xuất phát để đi sâu tìm hiểu.
Na Lan: Tôi sẽ đến đó ngay.
Sở Hoài Sơn rất kinh ngạc: Thời tiết này, cô đi ngay bây giờ ư?
Na Lan nhìn ra, trời đã tối mịt, đèn phố mờ ảo trong màn sương dày đặc, cô hiểu rằng mình quá hấp tấp. Để ngày mai vậy!
Nhưng hôm sau vẫn là sương mù nặng trĩu. Các chuyên gia nói bầu khí quyển bị ô nhiễm nặng nên sương độc còn tiếp tục hành hạ dân Giang Kinh từ ba ngày cho đến một tuần nữa. Không thể chờ đến ngày trời đẹp, hết giờ lên lớp buổi sáng Na Lan ngồi tàu điện ngầm tuyến số 6 đi dốc Mễ Lung.
Ra khỏi thành phố, tàu ngầm trườn lên mặt đất. Nhìn qua cửa sổ, sương mù đã loãng hơn, có thể nhìn thấy cột điện và nhà cửa đằng xa thấp thoáng trong sương. Rồi nhà cửa thưa dân, núi non thấp thoáng, Na Lan biết đã sắp đến dốc Mễ Lung.
Ga tàu cách dốc Mễ Lung khoảng năm cây số, khách du lịch tham quan mọi ngày thường phải đi xe buýt hoặc taxi đến di tích. Cô gọi taxi của một công ty đáng tin cậy, đưa cho anh lái xe xem sơ đồ mà Sở Hoài Sơn gửi cho cô tối qua. Anh ta ngạc nhiên, “Chỗ đó hoang vu không người ở, cô đến làm gì?”
Na Lan mỉm cười, “Khảo cổ!”
Nếu không vì đúng hôm vắng khách thì có lẽ taxi đã từ chối cô. Lái xe đành lên đường, chạy chừng hai mươi phút thì đến một vùng nhà cửa đổ nát, xe dừng lại. “Đây rồi. Cô có cần tôi chờ không?”
Na Lan đã tính sẵn, bèn nói,”Tôi chưa rõ mình sẽ nán lại đây bao lâu. Hay là anh cứ cho tôi số di động, khi nào tôi xong việc sẽ gọi, nhờ anh đến chở tôi quay lại.” Yêu cầu không có gì quá đáng, tất nhiên anh lái xe đồng ý.
Hơn chục ngôi nhà gạch và gỗ kết hợp nằm rải rác trong khoảng một dặm vuông hợp thành cái xóm nhỏ này, Na Lan kết luận sau khi đi quanh khắp một lượt. Cỏ dại mọc um tùm, tuy đã lâu không có người ở nhưng nhà cửa vẫn khá vững chắc không có nguy cơ đổ sập. Chứng tỏ sau chiến loạn năm xưa, dân thôn Mễ Giang không hề sống tạm bợ, họ đã chăm chỉ vun đắp cho nơi này. Nếu không vì họ ở quá gần dốc Mễ Lung khiến chính phủ buộc phải di dời thì đến nay khung cảnh vẫn cứ như cũ.
Mặt tiền các ngôi nhà không hề ghi tên chủ nhân, biết tìm “di tích” của Mễ Trị Văn ở đâu? Na Lan đã lường trước điều này nên chỉ còn cách tùy cơ ứng biến vậy.
Ba mươi năm trước, khi các gia đình di chuyển, họ đã dọn sạch tất cả, chỉ còn lại nhà cửa sân vườn cùng vài đống gạch ngói vỡ. Tuy nhiên nó không sạch tuyệt đối vì vẫn có dấu vết con người trong những năm gần đây, những hộp cơm, túi nhựa, lon bia… vứt bừa bãi, thậm chí có cả quần lót chưa kịp mặc lại và những cái bao cao su không thèm xử lý. Na Lan đi khắp thôn khoảng một giờ, vào sáu bảy ngôi nhà, không phát hiện thấy điều gì đáng kể, cô thoáng nghĩ hôm nay có khi phải tay không trở về.
Sau đó thì sao? Sẽ lại đến cầu khẩn Mễ Trị Văn và nghe lão cười chế nhạo?
Cô lại vào một ngôi nhà hoang khác.
Lúc nãy cô chú ý thấy nhà này không giống các nhà gần kề, tuy quy mô xấp xỉ nhau nhưng tình trạng rất xập xệ, xem chừng bỏ hoang lâu hơn. Bước vào trong thấy rất nham nhở, tường vữa lở lói tứ tung, nền nhà đầy bụi rác và gạch ngói vụn, đồ dùng cũ nát chất thành đống, tựa hồ vội vã tháo chạy khỏi thôn chứ không phải di chuyển một cách có trật tự như các hộ khác.
Na Lan đương nhiên để ý quan sát nhà này rất tỉ mỉ.
Tiếc rằng, sau nửa giờ cô lại dần thất vọng. Đồ đạc cũ nát không nói lên điều gì về chủ nhân. Trong ngôi nhà này cũng có một số rác mới, nhưng không thuộc loại Na Lan muốn tìm.
Cô bỗng nảy ra một ý, đồ dùng cũ nát kia ít nhiều cũng phản ánh con người và cá tính của chủ nhân, cô bèn lấy đèn pin ra soi. Ở bếp, nhặt được vài mảnh bát đĩa vỡ, già nửa cái vung nồi gốm, đều có hoa văn, chứng tỏ gia đình này trước kia tương đối khá giả, chủ nhân thuộc loại tinh tế, có lối sống trang nhã. Trong buồng ngủ kê một cái bàn nhỏ rất tinh xảo, đã gãy hai chân nhưng chất gỗ còn tốt, mặt bàn và ngăn kéo mài xoa nhẵn nhụi, xem ra không phải nhà nông bình thường. Gầm bàn la liệt những mảnh gương vỡ. Đây chắc là cái bàn dùng cho việc trang điểm?
Từ nhỏ tới lớn, Na Lan chưa từng nhìn thấy mẹ dùng bàn trang điểm, thế mà cách đây bao nhiêu năm, ở nơi này đã xuất hiện bàn trang điểm, chứng tỏ nữ chủ nhân có ý thức về khuôn mặt, da dẻ, đầu tóc.
Nhưng những điều này liên quan gì đến Mễ Trị Văn? Mễ Trị Văn! Dấu vết của lão ở đâu?
Một gian buồng ngủ khác, kê cái giường đơn cũ nát, các mảnh gỗ lả tả dưới đất.
Và một mẩu vải trắng.
Na Lan cúi xuống kéo mẩu vải ra. Vải trắng ố vàng, nhưng chưa thật cũ kỹ như các đồ vật khác trong nhà. Là một mảnh vải to.
Mảnh vải trắng lốp, chưa có dấu vết của thời gian.
Tim Na Lan đập nhanh dần. Cô nghĩ đến vụ án “ngón tay khăn máu”, nghĩ đến cái khăn dính máu, nghĩ đến vệt máu đỏ trên nền khăn trắng tinh. Và mím môi kéo thật mạnh, được cả một mảnh vải trắng khá lớn.
Lật mảnh vải lên.
Bên dưới không có gì.
Đúng hơn là, không có thứ gì giá trị, chỉ có hai viên ngói dễ dàng bắt gặp ở bất cứ đâu trong thôn xóm bỏ hoang này.
Giả sử có cặp trai lén lút làm tình thì họ sẽ mượn tạm tấm vải để hoàn thành cuộc khám phá tối nay, khỏi cần để ý hai viên ngói làm gì. Nhưng Na Lan chợt nghĩ, gạch ngói vỡ chỉ lăn lóc ngoài tường ngoài sân, trừ phi mái nhà sụp xuống thì trong nhà mới có ngói vỡ. Huống chi, đây lại không phải ngói vỡ mà là hai viên ngói nhỏ vuông vức hoàn chỉnh.
Cô lật hai viên ngói lên, trên mỗi viên đều khắc một ký tự.
Ký tự kỳ quái, cô từng trông thấy trong cuốn nhạc phổ của Mễ Trị Văn, là ký hiệu ghi nốt nhạc, âm giai và thế tay chơi đàn.
Mễ Trị Văn! Vậy là đã tìm ra lão, tìm ra quá khứ của lão. Cô chực gọi điện đến buồng bệnh lão nằm, cười khẩy và hỏi, ông còn nhớ những nốt cổ cầm chứ? Còn nhớ thời niên thiếu trong sáng vô tư chứ? Nhưng sao suy nghĩ của mình lại ấu trĩ thế này? Có thể là muốn lục vấn, cũng có thể là muốn trả đũa.
Na Lan mở di động ra chụp lại hai ký hiệu để gửi cho Sở Hoài Sơn và Ba Du Sinh. Ở đây còn nhiều điều bí mật cần cô khám phá.
Một lát sau, cô lại nhìn thấy hai viên ngói quay ngược đầu ngoắc vào nhau. Chúng nằm bên cạnh cái tủ con cũ kỹ đã sập xuống. Bức tường phía sau cái tủ con cũ kỹ đã sập xuống. Bức tường phía sau cái tủ có một tấm ván dựng đứng, chân tấm ván kê một viên ngói. Chứng tỏ tấm ván này không bình thường. Na Lan nhích tấm ván ra, sau nó là một hốc tường cao tới thắt lưng người.
Xem ra từ bé Mễ Trị Văn đã rất ham những trò bí hiểm.
Na Lan cúi xuống chui vào cái hốc. Hang động bên trong quá chật và nông, cô chạm ngay một bức tường, bèn đưa tay đẩy mạnh, mấy viên gạch lập tức rơi ra bên ngoài. Mùi ải mốc xộc ngay lên mũi, ánh sáng lờ mờ hắt vào.
Thì ra đây là một cái ngách bí mật thông ra thế giới bên ngoài. Na Lan tiếp tục đẩy, gạch lại rơi xuống. Mảnh tường độ một mét vuông thủng toác ra. Na Lan chui từ trong nhà ra ngoài, hơi sững sờ.
Cứ coi đây là kiệt tác của Mễ Trị Văn hồi nhỏ đi, thì tại sao lão phải dỡ một hốc tường? Tự bố trí một lối đi bí mật để chuồn ra ngoài. Chứng tỏ lão bị mất tự do, không thể đàng hoàng đi ra khỏi nhà. Hoặc đây chỉ là một cuộc thử nghiệm mạo hiểm, nhằm ra khỏi nhà vào những lúc không nên ra, ví dụ đêm khuya… Cũng có thể, hồi nhỏ Mễ Trị Văn thích nhập bọn với bóng tối.
Na Lan đang định quay trở vào thì bỗng nhìn thấy một viên ngói xám. Cô nhặt lên. Mặt trái của nó lại ghi một nốt nhạc cổ. Cô nhìn quanh. Trên bãi cỏ cách đó bốn năm mét có một viên ngói nữa. Cô bước đến. Đúng thế!
Xa hơn lại thấy một viên ngói nhỏ với một ký hiệu kỳ quái.
Cách vài mét là một viên ngói. Càng đi xa thì khoảng cách giữa hai viên ngói càng thưa, rồi thì cách hơn chục mét mới thấy một viên, tìm được nó không dễ. Cứ thế đi mãi chừng hai cây số… Na Lan kinh ngạc nhận ra mình đã đến chân dốc Mễ Lung!
Các viên ngói mất tăm mất tích.
Na Lan đi khắp hai bên chân dốc chừng mươi mét, không thấy viên ngói nào hết. Ngẩng đầu nhìn, thấy có một đường mòn nho nhỏ ngoằn nghèo chạy từ chân dốc lên sườn dốc và còn lên mãi. Cô đi theo. Quả nhiên lại nhìn thấy các viên ngói. Đầu tiên là vài viên nằm ở bên đường cách nhau vài mét, sau đó là các viên nằm rải rác trong bãi cỏ hoang mới mọc đầu xuân, rồi lại nằm sâu trong cỏ râm. Thình lình lại thấy hơn chục viên ngói nhỏ chất thành một đống.
Nếu nối hết các nốt nhạc viết trên ngói lại, liệu có thành một bản nhạc cổ không?
Mễ Trị Văn, lão chơi cái trò gì thế này?
Na Lan bước đến chỗ đống ngói, định lấy di động chụp toàn bộ các ký hiệu, bỗng thấy dưới đất chân nhũn ra, hình như bãi cỏ biến thành đầm lầy, cô kinh hãi co chân nhưng đã quá muộn.
Cô kêu thét lên rồi rơi xuống một cái hố sâu.
Rơi huỵch xuống đáy. Xung quanh tối đen. Tiếp đó ý thức của cô cũng tối sầm, không biết đau đớn là gì nữa. Cô ngất lịm đi.
Chương 17: Huyệt tối xương khô
Trên đầu bỗng có tia sáng, mặt cô dính bùn ươn ướt.
“Tỉnh lại đi!”
Giọng ai thế này?
Mễ Trị Văn? Không thể! Lão đang nằm trong buồng bệnh nan y, cách đây mấy chục cây số. Na Lan cố mở mắt, nhưng bị một nắm bùn hắt kín mặt luôn. Cô định nói nhưng không ra tiếng.
“Ngươi khiến ta cảm động đấy! Ngươi ráo riết truy tìm bí mật của ta và đã có chút thu hoạch. Tiếc rằng, cũng như bí mật của ta, ngươi sẽ bị chôn vùi mãi mãi ở đây.” Giọng nói bên trên còn rùng rợn hơn cả hàn khí trong lòng đất này. Đất tiếp tục rơi xuống nhiều hơn.
Na Lan định kêu lên “Dừng lại”.
“Muốn ta dừng lại cũng được. Muốn giữ lại cái mạng như bông hoa nhỏ, không phải là không thể thương lượng.” Cái giọng ma quỷ cố ra vẻ dịu dàng. “Chỉ cần ngươi van xin ta, nói rằng ngươi đã sai, ta mới là người nắm vận mệnh ngươi, thậm chí nói rằng ngươi yêu ta, ta có thể vui lòng chấp nhận.”
Na Lan nín lặng.
“Thấy chưa, đây là cái tật đáng chết của người. Ngươi quá kiêu kỳ, rất không linh hoạt, thì chắc chắn đời ngươi sẽ khốn đốn. Chi bằng để ta giúp ngươi siêu độ cho nhanh!”
Na Lan kêu lên, “Dừng lại, dừng lại!”
Rồi cô bừng tỉnh.
Đúng là bên trên le lói ánh sáng. Đầu nhức như búa bổ. Cô lấy di động ra. 5 giờ 30 chiều. Trời hôm nay xám xịt, có lẽ chút ánh ngày cũng sắp hết. Cô không nhớ nổi lúc bị rơi xuống hố thì chỗ nào chạm đất trước, chỉ biết hiện giờ toàn thân đau nhức, xương cốt như đã giập hết, không chịu nghe lệnh bộ não nữa. Cô cố gắng ngồi dậy co duỗi chân tay. Cũng may, không bị gãy xương bong gân. Xem ra đã ngất được vài giờ, người bị va đập nhưng cơ thể vẫn có phản ứng đối phó với sự kiện bất ngờ.
Na Lan sờ túi áo khoác lấy đèn pin ra chiếu lên trên. Dưới này cách mặt đất bao xa? 5 hay 6 mét? Soi nhìn xung quanh, hố không rộng nhưng cũng phải được 5-6 mét vuông, cỏ mọc tùm lum kín mít. Cô kiểm tra di động, thất vọng vì không hề có sóng. Đương nhiên rồi, dưới hố sâu ở nơi hoang vắng hẻo lánh, sóng di động không thể xuyên xuống. Cũng may không có cái âm thanh thâm hiểm kia uy hiếp, khiêu khích lòng tự trọng và kiêu hãnh của cô.
Na Lan tìm cách trèo lên, nhưng xung quanh không có rễ cây hoặc dây leo, cũng không có những mỏm đá nhô ra để bám. Cô thử đến mười mấy phút, đều vô ích. Hy vọng tự lực thoát khỏi đây hầu như bằng không. Lúc này cô mới thực sự sợ hãi, thần chết đang tiến đến gần cô.
Nếu không ai biết mình bị rơi xuống hố này thì cũng không ai cứu mình được.
Phải nén ngay nỗi sợ hãi vừa dâng lên, Na Lan hít thở thật sâu, rồi vắt óc suy nghĩ, Sở Hoài Sơn biết mình đến thôn Mễ Gia để tìm dấu vết của Mễ Trị Văn. Nếu tối nay không thấy mình trên mạng thì anh ta sẽ sinh nghi, nhưng người không bước chân ra khỏi nhà bao giờ như thế thì đến khi nào mới biết mình không hề trở về ký túc xá, để gọi điện cho cảnh sát?
Ký túc xá có Đào Tử, nhưng gần đây lại hay đi qua đêm, đâu thể ngẫu nhiên làm ầm lên vì mình vắng mặt một buổi?
Còn anh lái xe taxi, mình đã hẹn cứ chờ điện thoại, nhưng anh ta có bận tâm vì mình thất hứa hay không? Khả năng này không cao.
Có nghĩa là không hy vọng được ai biết chuyện đến cứu.
Hoang mang.
Ánh sáng le lói bên trên cũng không còn nữa.
Phải trấn tĩnh! Na Lan liên tục tự nhắc nhở. Nếu Mễ Trị Văn ngay từ khi chỉ là quái con đã đào được cái hố sâu thế này thì người lớn như mình cũng có thể đào được một lối thoát.
Cô lục cái ví cũng rơi theo xuống đáy, lấy ra con dao nhỏ, bắt đầu đào một cái hốc trên vách để bám và tỳ chân trèo lên. Đào một chập, cô thấy nản, vách đất lẫn đá rất xốp, cái hốc không đủ độ cứng, vừa đặt chân vào đã lở hết cả, cô lại rơi xuống.
Cô thử giẫm lên lần nữa. Trượt chân.
Mễ Trị Văn nhóc con hồi xưa ra vào cái hố này bằng cách nào? Chắc là phải dùng thang dài, thang giấu ở bãi cỏ.
Ngồi phệt một lúc, Na Lan đứng dậy thử lại. Đào hốc to và sâu thì giẫm được. Cô đào thêm một hốc bên trên để bám tay. Tay vừa co lên thì hốc chân lại lở ra, công cốc, cô ngã nhào xuống đáy. Thử mãi không biết bao nhiêu lần, tay chân vốn rã rời bây giờ lại càng tê dại. Lẽ nào nơi đây sẽ thành huyệt mộ chôn mình?
Tâm trạng tuyệt vọng dần dần trỗi dậy, đúng lúc ấy, Na Lan chợt nghe tiếng còi hú của xe cảnh sát. Cô xem điện thoại. 11 giờ 42 phút. Vẫn không có sóng di động. Chắc là Sở Hoài Sơn hoặc Đào Tử đã phát hiện ra mình mất tích.
Nhưng cơn phấn chấn lập tức bị thất vọng đè bẹp, thôn xóm vắng lặng hoang vu thế này, cảnh sát tìm thấy cô sao được? Sở Hoài Sơn và anh lái xe taxi chỉ biết mình đến thôn Mễ gia chứ đâu có biết mình lại đi theo những nốt nhạc chết toi kia mà lên dốc Mễ Lung rồi rơi xuống hố sâu giữa đồng cỏ dại?
Cô hét to, “Tôi là Na Lan! Tôi ở đây! Cứu tôi với…”
Tiếng còi hú gay gắt vẫn vang vọng dưới dốc xa xa, cô biết tiếng gọi của mình không thể truyền lên mặt đất và xuyên qua màn sương mù. Thế thì bật đèn di động và chiếu hắt lên trên. Ánh sáng quá yếu, soi lên miệng hố chỉ nhờ nhờ. Vô ích!
Na Lan lại gọi một chập nữa, khản cả cổ. Còi hú di chuyển ra xa.
Cùng với tiếng gọi mỗi lúc một yếu dần, hai mắt Na Lan trào lệ tự lúc nào chẳng biết. Đúng là sự giễu cợt đỉnh cao dành cho cô. Tiếng cười chế nhạo thuộc về Mễ Trị Văn.
Na Lan thân mến, đây là kết cục của trò chơi giữa cô và tôi.
Na Lan cố tự trấn an, cố quên đi cơn đói và mệt mỏi đang hành hạ, tĩnh tâm nghĩ ngợi. Có lẽ đây là điểm mấu chốt của trò chơi mà Mễ Trị Văn đã thiết kế từ nhiều năm trước, bất kỳ ai định tìm hiểu về lão thì đều bắt tay xem xét thôn Mễ Gia và thời niên thiếu của lão. Người chơi đáng thương ấy biết lão có duyên nợ với các nốt nhạc cổ cầm, cho nên sau khi nhìn thấy các viên ngói thì sẽ đi theo tín hiệu chỉ đường, tìm đến dốc Mễ Lung, tìm ra cái huyệt này. Không cần nhiều may mắn lắm, kẻ đó cũng sẽ rơi xuống huyệt sâu chờ chết!
Nếu người chơi đen đủi nọ không lên nổi thì coi như toi đời. Trong trò chơi điện tử, người chơi có vài mạng dự phòng, nhưng trong thực tế thì chỉ có một cơ hội. Mà cứ cho là sẽ sống sót, rồi sao nữa? Kẻ ấy sẽ được thêm máu ư? Hay thêm nhiều kiến thức về Mễ Trị Văn? Rồi tiếp cận, và bước vào… cái bẫy mà lão đã cài đặt?
Ma quỷ khi lập trình trò chơi, có nhớ thiết kế cửa ra hay không?
Lúc này Na Lan sực nghĩ đến một điều. Từ lúc bị rơi xuống huyệt rồi tình lại, cô toàn bận tâm cách thoát hiểm mà không quan sát tỉ mỉ cái huyệt này, liệu nó có ẩn chứa những điều kỳ lạ về Mễ Trị Văn không? Nói theo lối tiêu cực tức là, dù mình chết thì cũng phải chết cho rõ ràng.
Vì vẫn có ý thức tiết kiệm pin điện thoại và pin đèn, nên từ nãy đến giờ Na Lan chỉ đào các hốc đất bằng cách mò mẫm. Bây giờ tạm gác khát vọng sống lại, cô bật đèn pin quan sát kỹ càng tất cả.
Thấy một tấm ván úp ở chân vách huyệt, khá bằng phẳng. Cô nhấc nó lên, bên dưới là một cái hố không lớn, tạm gọi là “huyệt trong huyệt”. Hố này có mấy cuốn sách và vài thứ lặt vặt, từa tựa một cái kho nhỏ. Cô cầm các cuốn sách lên, bộ sưu tập này thật quái gở. Một cuốn sách cổ có tên là Thanh Sơn cầm sao, chép các bản nhạc dân tộc kinh điển như Quảng Lăng tán, Tống Ngọc bi thu, Tiêu Dao du… tất nhiên đều dùng các ký hiệu âm nhạc lạ lùng. Một cuốn Tâm lý học thường thức in năm 1955, một cuốn Lịch sử Hội họa phương Tây xuất bản năm Dân quốc thứ 35 (tứ 1946), một cuốn Giản lược về Lực học xuất bản năm 1952, một cuốn Giải phẫu cơ thể người xuất bản năm 1956, một cuốn Không dũ tùy đàm in và khâu theo lối cổ.
Na Lan chưa bao giờ nghe nói về cuốn Không dũ tùy đàm bèn thử giở ra xem. Sách do một người đời Thanh soạn, tập hợp các truyện ký dưới hai triều Minh-Thanh, gồm các mẩu truyện dã sử, các truyện dân gian quái dị. Hai năm trước Na Lan bị cuốn vào một vụ án lớn, cô đã từng đọc loại sách này, đêm nay lại chạm trán, có lẽ đây là điềm gở? Lật thêm mấy trang, cô thấy một cái thẻ đánh dấu sách. Là một sợi dây đàn.
Đúng là dấu ấn của Mễ Trị Văn.
Ý nghĩ bi quan được chứng minh ngay, sau khi nhấc hết mấy cuốn sách, cô đánh rơi luôn cái đèn pin, và kêu thét lên!
Bên dưới, là những khúc xương trắng hếu chồng chéo dày đặc!
Các khúc xương, các bộ xương có nhiều kích cỡ, nhìn chung là nhỏ, không phải xương người. Các hộp sọ cho thấy đây là xương mèo, chó và chuột. Điều đáng sợ và rùng rợn nhất ở đám xương này là do bị vặt từ thân thể các con vật ra, chứ không phải tập hợp thành từng bộ xương động vật hoàn chỉnh. Chúng bị bẻ bị xé, chứ không phải bị phân hủy theo thời gian. Đa số các khúc xương nhỏ được buộc lại thành bó, mỗi bó có 4-5 khúc xương.
Thì ra Mễ Trị Văn nhà người lại có cái sở thích như thế này!
Na Lan mường tượng lần sau gặp lão, cuộc đối thoại sẽ rất phong phú, nhưng một ý nghĩ khác chèn lên ngay, lần sau là bao giờ? Có phải lần đối thoại gần đây nhất, là lần cuối cùng không? Từ nhiều năm trước lão đã thiết kế ra cái bẫy này nhằm bảo đảm rằng đám xương khô và các bí mật liên quan không thể bị đưa ra ánh sáng, có phải thế không?
Vì phát hiện được cái ổ này rồi, người ta dễ dàng liên tưởng đến thủ đoạn dùng trong các vụ án “ngón tay khăn máu”, xé xác phanh thây kẻ yếu, tàn khốc và vô nhân đạo.
Mình phải ra khỏi chốn này!
Cô lại bắt đầu đào hốc, thử hết lần này đến lần khác và liên tục thất bại.
Cho đến lúc miệng hố trên kia có đất mới hắt xuống.
“Kẻ không thể tự làm chủ số phận thì ít ra cũng nên biết điều! Chỗ đáng buồn nhất của ngươi là ngươi lại lửng lơ đứng giữa.” Vẫn là cái giọng vừa quen vừa lạ, nghe như từ địa ngục vọng về.
Nếu âm thanh của địa ngục lại phát ra ở trên đầu, thì lúc này cô đang ở tầng thứ mấy?
Đất cát rào rào trút xuống. Na Lan muốn né tránh nhưng không sao cựa quậy được. Đành mặc đất tạt vào mặt, trong đất mới này hình như có giun, chúng đang ngọ ngoạy trên mặt cô.
“Cút đi!” Cô hét lên, nhưng âm thanh quá yếu, run run tắt ngấm trong cái lạnh mùa xuân.
“Tự ngươi muốn vào, sao bây giờ lại giở quẻ?” Giọng kia rin rít như rắn phun. “Ngươi cũng chỉ biết kêu ‘cút đi, thả tôi ra’ như bọn đàn bà khác khi xuống đây, eo éo bất lực như bọn đạo sĩ niệm chú hy vọng có thể chặn được tà ma! Nhất là ngươi luôn hiếu kỳ nghĩ mình cứng cỏi, thực ra người là kẻ đáng thương, sống như thế làm gì cho khổ? Hiếm thấy những kẻ thân làm tội đời như người!”
“Cảm ơn ngươi đã tư vấn tâm lý.” Na Lan cố trở lại bình tĩnh. “Ngươi có thể lừa ta rơi xuống đây nhưng đừng hòng đè bẹp ý thức của ta.”
Đất lại hắt xuống càng nhiều. Chỉ một lát đã ngập đến đầu gối cô.
“Nói gì đó có vẻ đáng thương đi chứ? Chưa chừng ta sẽ mủi lòng đổi ý cũng nên.” Kẻ ấy hỏi.
Na Lan định nói… nhưng toàn thân cô lạnh run, bụng đói cồn cào không thể suy nghĩ được nữa, cô thấy khát nước.
Cô im lặng. Ngươi có thể giành phần thắng trong trò chơi, nhưng không thể thắng nổi ta. Khi đất ngập lên đến ngực, Na Lan không thở được nữa.
“Đây là cơ hội cuối cùng. Ngươi nói thật đi, nói là ngươi rất đáng thương, số ngươi khổ, sống chẳng thú vị gì nhưng vẫn muốn tiếp tục sống, nhằm chứng minh ngươi có thể sống tiếp.”
Na Lan nhắm mắt lại.
Nước, mình chỉ muốn uống nước.
Sau khi bị rơi xuống hố này, đã bao lâu rồi mình không được uống một giọt nước? Tám? Mười? Hay mười hai tiếng đồng hồ?
Đất rơi xuống, từng đám, từng tảng, từng hạt… đánh bại bản năng sinh tồn của Na Lan. Cô có thể tỏ ra cứng cỏi, nhưng không thể kìm được nước mắt. Vốn đã là thế rồi, cô bị sát hại, mẹ cô suy sụp, Cốc Y Dương ra đi, Tần Hoài xuất gia, đâu còn hứng thú để sống nữa?
Nước mắt càng trào ra nhiều hơn.
Nước! Hình như có giọt nước rơi vào má, đọng ở bên mép.
Na Lan bỗng bừng tỉnh, lại có giọt nước rơi xuống mặt. Cô ngẩng đầu, toàn thân mềm nhũn không còn chút sức lực. Hình như có chút ánh sáng trên miệng hố. Trời đã sáng hay sao? Cô bỗng hiểu ra, giọt nước vừa rơi xuống là sương sớm đọng trên cỏ ở miệng hố rỏ xuống. Sương độc tích tụ của mấy hôm sương mù bao phủ. Đầu óc cô cứng đờ hỗn loạn nhưng vẫn nhớ ra mấy câu thơ cổ bi quan, “Kiếp người như sương sớm”, “Tựa như sương sớm, ngày trước bao khổ đau…” Hình như ác mộng vẫn tiếp tục.
Cô nhìn di động. 5 giờ 34 phút sáng. Khi màn hình sáng lên, cô bỗng cảm thấy xung quanh khang khác, hình như ở đây không chỉ có mình cô!
Cô quay người, nhưng không nhìn thấy gì hết. Cô sờ thấy chiếc đèn pin, tay run run chưa kịp bật thì một bóng đen bỗng xuất hiện trước mặt cô.
Chương 18: Thiếu mẩu xương ngón
Phản ứng đầu tiên của Na Lan, chắc đây vẫn là giấc mơ chưa tàn vì đói khát, mệt mỏi và sợ hãi, hoặc đây là ảo giác. Cô đã từng nếm trải những ảo giác như thật.
Cô kêu lên kinh hãi.
“Na Lan đừng sợ! Tôi đến cứu cô đây!”
Chưa đầy mười phút sau, còi hú của xe cảnh sát vang lên. Na Lan biết mình đã thực sự được cứu.
Chỉ trong mấy phút, Na Lan đã làm quen với vị cứu tinh. Một người đàn ông tuổi ngoài 60, gầy gò, râu bạc, tự giới thiệu mình họ Trần và nói có lẽ cô từng nghe nhắc đến. Ông đưa cho Na Lan chai nước khoáng và bánh quy đem theo. Nghe nói “họ Trần”, Na Lan liền đoán ra ngay, “Chú là…tiền bối Trần Ngọc Đống?”
“Cứ gọi tôi ‘chú Đống’ là được.”
Ba mươi năm trước, Trần Ngọc Đống là sĩ quan cảnh sát đã điều tra vụ án “ngón tay khăn máu” đầu tiên, cũng là chuyên gia tham gia trinh sát hầu hết các vụ án “ngón tay khăn máu” khác.
“Chú đã về hưu… mà vẫn…” Nếu Mễ Trị Văn có mặt, chắc lão sẽ nói cô “Biết rồi còn cố hỏi…”
“Đoán xem ai đã báo cho tôi biết?” Trần Ngọc Đống hỏi lại.
“Sở Hoài Sơn?”
“Cháu thông minh thật! Biết Ba Du Sinh không trực tiếp nhúng tay, anh chàng mới từ Bộ xuống lại càng không gọi tôi. Khi nhận được điện của Sở Hoài Sơn, tôi ngỡ gã nào đùa bỡn nói năng thì ấp úng lắp bắp, sau khi nghe ra anh ta biết rõ toàn bộ vụ án thì tôi mới hiểu tính chất nghiêm trọng của sự việc.”
Sỏ Hoài Sơn là người nhanh chóng báo động cảnh sát về việc Na Lan mất tích. Anh liên tục chờ kết quả khảo cổ thôn Mễ Lung của Na Lan, nửa đêm lên mạng vẫn không thấy cô, gọi điện cũng không được, cuống lên bèn gọi cho Kim Thạc. Kim Thạc dù tức giận vì Na Lan tự tiện hành động nhưng dẫu sao vẫn là sĩ quan cảnh sát cẩn thận có thừa, lập tức điều động ngay hai xe cảnh sát đến thôn Mễ Gia sau dốc Mễ Lung để tìm kiếm. Nhưng đêm khuya sương mù dày đặc, tìm không ra.
Kim Thạc cảm thấy sự việc nghiêm trọng, đành phải thông báo cho Ba Du Sinh. Ba Du Sinh và Kim Thạc bàn đến việc phải cho tìm kiếm quy mô toàn thành phố. Còn Sở Hoài Sơn thì nghĩ ngay đến Trần Ngọc Đống.
Mễ Trị Văn cưỡng bức Đổng Bội Luân bất thành rồi bị bắt, là vụ án xảy ra vài tháng trước ngày nghỉ hưu của Trần Ngọc Đống. Xem tư liệu mà Ba Du Sinh gửi cho, Sở Hoài Sơn biết Trần Ngọc Đống cũng tham gia xử lý vụ án này và đã đi sâu tìm hiểu về Mễ Trị Văn.
Về sau Sở Hoài Sơn kể với Na Lan rằng lúc đó anh bỗng sáng óc ra, chúng ta lâu nay muốn tìm hiểu kỹ về Mễ Trị Văn mà lại bỏ qua một cơ hội tốt, quên mất rằng không ai hiểu rõ vụ án “ngón tay khăn máu” và Mễ Trị Văn bằng Trần Ngọc Đống! Nhưng Trần Ngọc Đống đã nghỉ hưu,,,
Vụ án “ngón tay khăn máu” hoành hành suốt ba mươi năm, gần như song song với sự nghiệp cảnh sát của Trần Ngọc Đống. Sự nghiệp của ông, đúc kết cô đọng thì, thành công hay thất bại đều gắn liền với vụ án “ngón tay khăn máu”. Khi ông nghỉ hưu, vụ án vẫn đang tiếp diễn, những ai có tâm với sự nghiệp thì đều khó mà phủi tay với tất cả. Huống chi, tư liệu mà Trần Ngọc Đống để lại cho thấy ông là con người rất nhiệt tình với công tác trinh sát phá án hình sự, không bao giờ qua loa cẩu thả. Sở Hoài Sơn bèn gọi điện cầu cứu ông. Lúc đó đã 1 giờ 30 phút sáng.
Chỉ sau một hồi chuông reo, Trần Ngọc Đống đã nhấc máy, cứ như thức đêm để chờ điện thoại. Sở Hoài Sơn nói nhát gừng ngắt quãng, ông lại hỏi cụ thể nguyên do sự việc, sau đó lập tức đeo chiếc ba lô “tình trạng khẩn cấp” với đầy đủ dụng cụ rồi chạy ra khỏi nhà.
Trần Ngọc Đống không có ô tô, sau nửa đêm lại càng không thể kiếm được taxi đi đến dốc Mễ Lung hoang vu. Ông sang khu bên cạnh, gõ cửa nhà người bạn làm lái xe đã về hưu, nhà vẫn có chiếc ô tô Santana bình dân cũng đã đến tuổi về hưu. Trần Ngọc Đống vốn biết lái xe, sau mấy phút nói chuyện ông đã mượn được xe rồi phóng như bay đến dốc Mễ Lung.
Gọi là phóng như bay thì hơi quá, so với những chiếc Audi hay xe đua Lamborghini với chủ nhân phừng phừng men rượu, thì chiếc Santana già với bác tài cũng già này, chỉ như lững thững đi dạo phố. Khi chạy đến dốc Mễ Lung, đã gần 3 giờ sáng.
“Chú cũng nhìn thấy những viên ngói và các nốt nhạc cổ à?”
Trần Ngọc Đống nói, “Đầu tiên tôi nhìn thấy cái hốc tường.” Ông lầu bầu trách các nhân viên do Kim thạc cử đến, chắc đều là lính mới nên không chú ý bảo vệ hiện trường, mặt đất lẽ ra phải có dấu chân mới của Na Lan, nhưng đã bị một lô dấu chân giẫm lên xóa hết. Ông đã vào gần chục ngôi nhà có hốc tường thủng thì ông liền chú ý, nhà hoang, đương nhiên là tường ngói lở lói cũ kỹ, nhưng hốc tường này thì khác, Gạch ngói lâu ngày dầm mưa dãi nắng, nhất là gần đây mưa xuân ẩm ướt, thì phải bị nham nhở gặm nhấm, cũng rất dễ bị rêu xanh phủ kín, nhưng đống gạch lộn xộn ở dưới chân tường này thì quá phẳng phiu sạch sẽ, hình như mới bị dỡ xuống.
Trần Ngọc Đống bật chiếc đèn LED trong tay. “Chà! Hữu dụng quá, may mà có nó!” Ông nói, khi nhận ra các viên ngói vương vãi trong và ngoài nhà, bề mặt đều viết chữ rất kỳ quái.
Và cả dấu chân của Na Lan.
Sau khi ra khỏi thôn Mễ Gia, rất khó lần tìm dấu chân của Na Lan, nhưng những viên ngói đã chỉ đường cho ông.
“Tôi gọi điện cho Kim Thạc, bảo anh đến đây mà xem, có lẽ cần các anh ứng cứu.” Trần Ngọc Đống soi đèn pin lên trên. “Tôi dùng nó để xuống đây. Già rồi, phải chấp nhận vậy. Nếu trẻ hơn thì tôi đã nhảy ào xuống, không vấn đề gì.”
Na Lan nhìn thấy ở vách hố có sợi thừng nilon to bằng ngón tay cái.
“Hễ ra khỏi nhà là chú vũ trang đầy đủ như thế này à?”
Trần Ngọc Đống nói, “Thói quen hình thành từ hồi trẻ đi bộ đội, chuẩn bị kỹ thì đỡ lo, nếu không, lúc này cháu có gì mà ăn mà uống?”
Tiếng còi hú của xe cảnh sát lại vang lên, chừng hơn mười phút sau, theo chỉ dẫn của Trần Ngọc Đống, cảnh sát cứu viện đã tìm đến miệng hố rồi thả thang dây xuống. Trần Ngọc Đống hỏi Na Lan, “Cháu trèo được không?”
Na Lan đáp, “Cháu vừa được ăn, phải có ích chứ!” Trần Ngọc Đống đỡ Na Lan lên thang. Ông bật đèn pin rọi xuống, nhìn kỹ các “văn vật” vừa được khám phá. Na Lan sợ mình vẫn còn yếu, chỉ dám từ từ leo lên từng bậc. Lúc đến gần miệng hố bỗng nghe tiếng Trần Ngọc Đống, “Cháu có nhận ra chi trước của các động vật này đều thiếu một khúc xương ngón chân không?”
Chương 19: Suy diễn
Chân trước của mèo có 4 ngón, chân sau có 5 ngón. Chó cũng vậy, chuột cũng thế. Xương của các động vật vùi dưới hố này, bàn chân trước và sau đều được bó thành từng bó, mỗi bó 4 hoặc 5 cái xương, tức là chân trước và chân sau bó riêng. Có điều một nửa trong số đó, các bó xương chân trước, chỉ có 3 cái xương, đều thiếu một ngón.
Nghe có vẻ quen quen?
Vụ án “chặt ngón tay” hóa ra đã bắt đầu từ nửa thế kỷ trước. Địa điểm là một cái huyệt tối tăm.
Kim Thạc đi theo xe cứu thương, đưa Na Lan vào phòng cấp cứu bệnh viện Phổ Nhân, trưởng ca trực vừa khéo là Chu Trường Lộ. Ông đích thân khám cho Na Lan, rồi cho truyền dung dịch, xong xuôi mới đi ra. Kim Thạc nói, “Kỹ thuật viên của phòng thí nghiệm trinh sát hình sự sẽ nhanh chóng xác định tuổi của các bộ xương động vật ấy. Khi nào bệnh viện cho về, thì cô cứ nghỉ ngơi mấy hôm. Tôi báo kết quả điều tra kịp thời.”
Na Lan hỏi, “Có lẽ tòa nhà bên cạnh sẽ có câu trả lời, nhân khi tôi đang nằm viện, anh có thể cho phép tôi phỏng vấn ‘Thương Hiệt’ Mễ Trị Văn lần nữa không?
Kim Thạc cười nhạt, “Cô cho rằng lão sẽ cung khai à, vâng, hồi nhỏ đôi khi tôi thích hành hạ động vật, sau này lớn lên lại thích tra tấn con người. Hồi nhỏ tôi bẻ ngón tay mèo, chó, sau này tôi chặt ngón tay người… chứ gì? Cô khỏi cần bận tâm, chúng tôi nhất định sẽ thẩm vấn lão đến nơi đến chốn!”
“Nhưng tôi quá sốt ruột, Mễ Trị Văn đưa cho chúng ta chữ thứ hai, đến nay vẫn chưa khám phá ra…”
Kim Thạc đặt tay lên vai Na Lan, nói, “Bạn Na Lan ạ, hiện giờ bạn cần nghỉ ngơi để bình phục thể lực. Chữ này hay chữ nọ chỉ là trò chơi tâm lý do lão già khốn khiếp đó bày ra để bỡn cợt bạn, bạn càng cho là thật thì lão càng đắc ý!”
“Vậy là anh từ chối yêu cầu của tôi.” Na Lan thở dài.
“Chờ khi cô khỏe lại hãy hay.” Giọng Kim Thạc ngụ ý “khỏi cần nhiều lời”. Nói xong anh bước ra khỏi phòng hồi sức cấp cứu.
“Chờ hai chúng ta nói chuyện đã rồi tính sau.” Trần Ngọc Đống lên tiếng.
Na Lan ngạc nhiên, hóa ra từ nãy đến giờ Trần Ngọc Đống vẫn ở trong này! Phòng hồi sức cấp cứu có hơn chục cái giường, người nhà bệnh nhân không ngớt ra vào, chắc ông đã đi lẫn cùng họ. Kim Thạc chỉ mới gặp ông lần đầu, hỏi tỉ mỉ về việc giải cứu Na Lan là xong, chắc không ngờ ông lại theo vào tận đây.
Trần Ngọc Đống bước đến bên giường Na Lan, kéo ghế ngồi xuống, “Tôi nán lại trò chuyện với cháu. Khi nào xuất viện, mời cháu đến nhà tôi chơi.”
Hơn ba tiếng đồng hồ sau, Na Lan được ra viện. Chu Trường Lộ đích thân xem các xét nghiệm và chỉ số sức khỏe, nói rằng Na Lan đã ổn, nhờ kịp thời truyền dịch đã khắc phục được tình trạng mất nước, chỉ số điện giải của cơ thể đã cân bằng. Sau đây chỉ cần tĩnh dưỡng, ăn uống điều độ đúng giờ thì sẽ nhanh chóng bình phục hoàn toàn.
Trần Ngọc Đống hỏi Na Lan, “Cháu định về ký túc xá nghỉ ngơi hay là đến chơi chỗ tôi?”
Na Lan nói ngay, “Đến nhà chú!” Cô tin rằng ông muốn nói với cô nhiều điều liên quan mật thiết đến vụ án.
Trần Ngọc Đống đã trả chiếc Santana cho ông hàng xóm, nên cả hai đi tàu điện ngầm, rồi lên xe buýt. Hai mươi phút sau họ rẽ vào một khu chung cư cũ kỹ lem nhem. Trần Ngọc Đống nói đây vốn là tập thể Bộ Công an, gần đây chuyển sang nhà ở thương mại, một nửa số hộ trong này vẫn là các cán bộ công an có tuổi.”
“Lớp trẻ như Ba Du Sinh thì không gặp may như thế, khi họ bắt đầu ra công tác thì không còn chế độ phân nhà nữa. Chỉ nhận tiền trợ cấp rồi mua nhà thu nhập thấp thì vẫn thua việc phân nhà.” Ông than thở.
Na Lan bật cười, “Lớp trẻ à? Chú biết không, cháu vẫn gọi anh ấy là thầy, và là thầy thứ thiệt đấy!”
“Vụ án thứ nhất mà Ba Du Sinh hợp tác với tôi, là vụ xảy ra ở khu Văn Viên, cách đây 7 năm. Hồi đó anh ta đã có mấy năm kinh nghiệm, nhưng vẫn là anh chàng láu táu, đến giờ thì già sao được?” Giọng ông dịu đi. “Ngay lần đó tôi thấy anh ta ham đi sâu nghiên cứu, tôi đã biết anh chàng này sẽ rất có tiền đồ, ý tôi nói là về mặt trinh sát hình sự chứ không phải việc thăng quan tiến chức.”
Na Lan thừa nhận, “Vâng. Cho đến giờ cháu vẫn không hiểu tại sao anh ấy thình lình bị rút khỏi vụ án ‘ngón tay khăn máu’, thấy nói là để cách ly…”
Trần Ngọc Đống toan nói lại thôi, ông dẫn Na Lan vào hành lang, đi đến căn hộ số 7 tòa nhà 3. “Nhà tôi bề bộn, cháu vào cũng không tiện… nhưng đành vậy, vi tôi cần nói vài điều với cháu.”
Đúng là bề bộn chứ không phải ông nói khiêm tốn. Căn hộ ở tầng trệt, hành lang chất đủ thứ như các tòa nhà cũ vốn thấy, trong nhà càng lộn xộn hơn. Nhưng ngồi một lát, Na Lan lại nhận ra sự ngăn nắp trong hỗn loạn, chẳng qua là nhà chật, mà đồ đạc lại quá nhiều, xếp chật cứng. Chủ yếu là các chồng sách và tư liệu, chủ nhân kẹp mảnh bìa phân loại cho từng chồng, ghi “Mã Vân”, “Tiết Hồng Yến”, “Đường Tĩnh Phương”… đều là nạn nhân trong các vụ án “ngón tay khăn máu”. Đủ 12 người. Ba giá lớn chất đầy sách, dưới sàn cũng la liệt sách. Sách được phân nhóm rõ ràng, chuyên đề trinh sát hình sự, tâm lý học, pháp y, pháp luật, tiểu thuyết trinh thám…
“Nhiều sách quá!” Na Lan trầm trồ.
“Chúng rất hữu dụng, từ khi về hưu tôi lại có nhiều thì giờ để đọc thật kỹ. Tôi vốn là bộ đội chuyển ngành đi học hình sự, chủ yếu dựa vào kinh nghiệm và trực giác chứ ít khi nhờ đến lý luận. Tôi không bằng thế hệ như Ba Du Sinh mới vào nghề đã là cấp trưởng nhóm trưởng ban.” Ông chỉ vào cái ghế đệm da cũ kỹ, bảo cô ngồi, rồi đi pha trà.
Na Lan nói, “Cháu uống nước trắng là được. Cháu chủ yếu muốn nghe cao kiến của chú.”
Trần Ngọc Đống đáp, “Tôi đâu có cao kiến gì, nếu có thì đã phá được vụ án từ lâu.”
“Xem ra, sau khi về hưu chú vẫn không rời ‘ngón tay khăn máu’.”
“Đối với cảnh sát chúng tôi thì đây chỉ là một vụ án, nhưng với người đã khuất và thân nhân của họ, đây là một núi án mạng.” Giọng ông bức xúc xen lẫn tuyệt vọng. “Một núi án mạng không bao giờ khám phá ra được. Nửa đêm chúng bắt ta thức giấc rồi tiếp tục suy nghĩ…”
Na Lan không biết nên an ủi người cảnh sát già như thế nào, chỉ khe khẽ nói, “Chú đã làm hết sức rồi…”
“Cháu thử nói xem, những người bình thường như chúng ta, cả đời liệu làm được mấy việc lớn, việc có ý nghĩa, đáng để con cháu mình và lớp người sau cảm thấy tự hào?”
“Đừng nói là mấy việc, ngay cả một việc cũng rất khó làm rồi.”
“Chứ còn gì!” Trần Ngọc Đống đi đi lại lại trong khoảng trống chật hẹp của căn hộ. “Tôi không lập gia đình, không con cháu, chẳng hám để lại tiếng thơm, nhưng nghĩ đời người mấy chục năm ngắn ngủi, ít ra ta cũng nên làm được một số việc có tính thách thức và ý nghĩa một chút. Tôi là anh công an đã từng phá các vụ án lớn nhỏ, đã hết sức phục vụ nhân dân, chết cũng không có gì ân hận. Nhưng vụ án ‘ngón tay khăn máu’ này khiến tôi buồn nhất, già nửa đời người không lần ra manh mối! Hễ nghĩ đến hung thủ vẫn đang nhởn nhơ bên ngoài tự do hít thở như mọi người, thì tôi lại… cháu biết không… tôi lại có ham muốn mãnh liệt là muốn tóm cổ hắn đưa ra trước pháp luật. Cùng với thời gian, ham muốn ấy càng mạnh thêm. Cháu học về tâm lý, chắc hiểu được tâm trạng ấy của tôi?”
Na Lan cười nói, “Không cần học tâm lý cũng có thể hiểu được. Cuốn sách sự nghiệp công an của chú gắn liền với vụ án ‘ngón tay khăn máu’, đến khi về hưu vẫn viết là ‘hãy đón đọc, còn nữa’. Nếu là người đã dứt đường tơ chẳng bận tâm nữa thì sẽ nghỉ ngơi khỏi mệt óc. Chú không phải con người như thế cho nên chú không thể mặc kệ. Cháu rất hiểu.”
Trần Ngọc Đống gật đầu, “Được! Coi như chúng ta đã gạt bỏ trở ngại đầu tiên. Cháu đã hiểu tại sao tôi về hưu nhưng vẫn tham dự vào, đỡ công tôi phải thanh minh giải thích. Mong cháu thông cảm cho.”
“Vâng. Chú đã có ba mươi năm kinh nghiệm nghiên cứu về vụ án này và hung thủ, chính chú đã là một kho báu rất phong phú.”
Trần Ngọc Đống “hừ “một tiếng, không rõ có phải ông bất mãn với ai đó không. “Ba mươi năm, đúng thế. Nhưng ai mà chẳng có lúc đã phí hoài thời gian. Suốt ngần ấy năm chúng tôi toàn đi đường vòng, nếu không đã chẳng thành ra như thế. Thoạt đầu không có manh mối gì hết, lý luận không chỉ đạo được gì, chủ yếu là nghĩ đến đâu thì làm đến đó. Chúng tôi chưa từng gặp vụ nào vừa quái dị vừa kín kẽ như ‘ngón tay khăn máu’, cả tổ chuyên án đều như lần mò đi trong đêm. Có phát động quần chúng hẳn hoi, họ báo cho biết rất nhiều manh mối nhưng đều chẳng đâu vào đâu, thế là tinh lực của cả tổ bị phân tán. Về sau chúng tôi dần thay đổi sách lược, bắt đầu thu hẹp diện tình nghi và tổ chức giám sát một số người, rồi La Cường sa lưới.” Trần Ngọc Đống tiếp tục đi đi lại lại. “Thực tế chứng minh chúng tôi vẫn ở thế hạ phong, thậm chí ngờ rằng ngay từ khi hung thủ lựa chọn mục tiêu sát hại thì hắn đã an bài để chúng tôi dồn sự chú ý vào La Cường. La Cường chết rồi mà vụ án ‘ngón tay khăn máu’ vẫn xảy ra, làm tôi bàng hoàng, hung thủ thật tinh khôn! Bấy giờ tôi rất muốn biết về tên cao thủ súc sinh ấy, đầu óc tôi toàn miên man, hắn là ai, là kẻ như thế nào?” Trần Ngọc Đống đứng lại, nhìn Na Lan.
Na Lan thấu hiểu trạng thái chuyên tâm ấy, cũng giống như cô “say” Mễ Trị Văn hiện giờ.
Vẻ mặt Trần Ngọc Đống thể hiện rõ “Tôi biết cô đã đoán ra” đoạn nói tiếp, “Tôi bắt đầu đọc rất nhiều sách về tâm lý học tội phạm. Trình độ văn hóa của tôi vốn thấp, có nhiều nội dung khó, nhưng cố gắng miệt mài rồi cũng hiểu ra, muốn đi sâu tìm hiểu về hung thủ này, cách tốt nhất là ‘Suy diễn tâm lý học tội phạm’, điều này tôi không múa rìu qua mắt thợ nữa, chắc cháu hiểu hơn tôi nhiều. Có điều, hiện nay cháu bị đưa vào một tình thế kỳ lạ. Đối tượng của ‘Suy diễn tâm lý học tội phạm’ thường là chưa biết, nó trợ giúp cho công tác phá án, còn cháu đang đối diện với Mễ Trị Văn người thật việc thật với tính cách và các vụ án lão đã gây ra. Cho nên cháu không nghĩ đến ‘Suy diễn tâm lý học tội phạm’ cũng là điều bình thường thôi.”
Na Lan biết, Suy diễn tâm lý học tội phạm là nòng cốt của Tâm lý học tội phạm, là một kỹ thuật hỗ trợ trinh sát hình sự tuy còn phải tranh luận thêm nhưng vẫn đang được áp dụng rộng rãi ở một số nước phương Tây, nhất là đối với dạng vụ án hàng loạt. Chuyên gia tâm lý có trình độ sẽ căn cứ vào hành vi gây án hàng loạt và một số ít manh mối, dùng kiến thức tâm lý học để suy đoán về con người quá khứ và động cơ gây án. Kết quả suy luận sẽ giống như một bức tranh lập thể về hung thủ, phác họa về giới tính, tuổi tác, tầng lớp xã hội, hoàn cảnh sinh trưởng, từ đây thu hẹp diện tình nghi trong đám đông tội phạm. Sau đó, nhờ may mắn cộng với nỗ lực, có khả năng bắt đúng hung thủ.
Trở thành một chuyên gia về Suy diễn tâm lý học tội phạm, hoặc gọi là họa sĩ tâm lý học tội phạm vẫn là niềm mơ ước nghề nghiệp của Na Lan!
“Chú ạ, đúng là cháu đã quên mất việc tận dụng Suy diễn tâm lý học để hiểu vụ án này.” Na Lan thừa nhận, và cô tự hỏi tại sao mình lại quên nhỉ?
“Cũng nên thấy rằng không thể trách gì cháu. Ngay từ đầu cháu đã bị cuốn vào vụ án từa tựa trò chơi này, đố chữ, tìm hài cốt, điều tra về xuất thân… nên rất dễ bỏ qua mục đích thực sự của Mễ Trị Văn khi yêu cầu gặp cháu.”
Na Lan chưa hiểu. “Mục đích thật sự?”
“Tôi có cảm giác trò chơi của lão dành cho cháu không phải là đố chữ hay tìm hài cốt, mà là trò chơi tâm lý, trò chơi giữa tìm hiểu và bị tìm hiệu, giữa thao túng và bị thao túng.”
Na Lan đã hiểu ra, “Chú giữ thể diện cho cháu rồi, vì đã không chế nhạo ‘thảo nào mà cô luôn ở thế hạ phong’.”
“Không đến nỗi là thế hạ phong. Mai kia nhìn lại sẽ thấy đây chỉ là một quá trình.”
“Quá trình này suýt nữa biến thành chung kết. Nếu chú không kịp thời đến cứu thì cháu không thể tiếp tục chơi trò chơi tâm lý với Mễ Trị Văn nữa! Nhưng hiện giờ cháu càng cảm thấy mờ mịt, dù vận dụng Suy diễn tâm lý học để phân tích Mễ Trị Văn thì hình như vẫn không thể giải quyết được vấn đề then chốt, lão có phải hung thủ các vụ án ‘ngón tay khăn máu’ không? Hoặc, phải làm gì thì mới thông qua lão để tìm ra hung thủ?”
Trần Ngọc Đống giơ hai bàn tay lên cao. Na Lan hiểu, chỉ còn cách thử phác họa nguyên hình của Mễ Trị Văn thì mới có được câu trả lời. Trần Ngọc Đống nghĩ ngợi rồi lại nói, “Có phải hung thủ không? Ta nên hiểu rằng Suy diễn tâm lý học tội phạm hiệu quả đến đâu đi nữa cũng chỉ có giá trị gợi ý hoặc đưa ra phương hướng cho trinh sát hình sự chứ không thể phán đoán kết luận. Từ khi nghiên cứu môn học này, tôi từng thỉnh giáo các chuyên gia trong nước, chuyên gia Mỹ, cháu đoán xem họ nói gì? Sau khi suy diễn xong, hầu như ai cũng xác định là La Cường!”
Na Lan hết sức ngạc nhiên, nhưng nghĩ kỹ thì thấy không phải là không có lý. Kết quả Suy diễn tâm lý học tội phạm phác họa ra hung thủ, có thể phù hợp với nhiều đối tượng. “Tức là, chứng minh rằng không phải các chú ngẫu nhiên bắt La Cường, và càng không phải là bắt nhầm?”
Trần Ngọc Đống thở dài, “Nhầm vẫn là nhầm. Tên La Cường đã gây nhiều tội ác, số nó đen nên gặp phải tôi bắt nhầm, lại đúng vào năm có chiến dịch ra quân càn quét tội phạm, nên bị tuyên tử hình nhanh chóng rồi thi hành án ngay, không có cơ hội phúc thẩm hoặc kháng cáo nữa. Nếu nói đời tôi có điều gì khiến tôi chết không thể nhắm mắt thì chính là trường hợp ấy.”
Na Lan an ủi, “Chú đừng nói thế, chú tự làm khó cho mình nhiều quá.” Bỗng cảm thấy bức bối, cô đứng lên, “Mai kia cháu lại xin chú chỉ bảo cho, đặc biệt là cháu muốn xem chú và các chuyên gia đã suy diễn những gì về vụ ‘ngón tay khăn máu’.”
“Được! Trước hết tôi cho cháu biết một nhận định chung của tất cả các chuyên gia.” Trần Ngọc Đống tiễn Na Lan ra, tay ông đặt lên khung cửa. Lúc này cô mới chú ý thấy lưng ông còng, trông già nua hơn nhiều so với tuổi của mình. “Tất cả các chuyên gia đều nhận định rằng, tên hung thủ này chưa gây án đến mức dữ dội kinh khủng thì còn chưa chịu dừng tay. Vụ án ‘ngón tay khăn máu’ sẽ còn tiếp tục.”
Chương 20: Nói đúng tim đen
Phải chờ mất hai hôm, cuối ngày làm việc, Kim Thạc mới cho phép Na Lan vào gặp Mễ Trị Văn.
Vẫn như trước, lão nằm trên giường, mặt xám như tro, hai mắt nhắm nghiền, nghe tiếng động cũng chẳng buồn hé mắt. Na Lan đứng bên đầu giường lão một lúc, không biết nên đánh thức bằng cách nào, cho cái bạt tai hay là rút ống truyền dịch ra?
“Bị ăn quả đắng nên tìm đến tôi xả giận hả?” Mễ Trị Văn chủ động mở miệng.
Na Lan kinh ngạc, “Ai nói là tôi ăn quả đắng? Đồng bọn của ông chứ gì? Tại sao hắn không chôn sống tôi luôn để khỏi có người chạy đến trút giận lên ông?”
Lão ho rũ rượi một hồi. “Cô có nghĩ rằng nếu Thương Hiệt có chiến hữu thì sẽ rối loạn không? Người muốn tạo chữ vuông, người muốn tạo chữ tròn, người khác lại thích chữ ngang bằng sổ thẳng, người nữa lại thích chữ ABC… thế hệ sau sẽ khổ lắm! Cô bị ăn quả đắng là tất nhiên, sau cuộc điện thoại lần trước tôi biết ngay cô đã lầm đường lạc lối, cô tò mò không hiểu tại sao nhân vật tập hợp trí tuệ của thiên hạ như Thương Hiệt bỗng chốc lại biến thành lão già lưu manh bỡn cợt các cô gái? Chắc chắn cô sẽ cố gắng tìm hiểu mọi mặt về tôi, sẽ đến dốc Mễ Lung, đến thôn Mễ Gia… Đó đâu phải là những bí mật ghê gớm? Điều tra suy đoán là ra ngay. Cô rất có đầu óc, rồi sẽ tìm được cả nhà cũ của tôi, cũng như… các nốt nhạc cổ mà tôi để lại… Ôi mệt quá, các chuyện tiếp theo…” Lão mở mắt, cựa quậy. “Cô biết rồi đấy.”
Na Lan cảm thấy kinh hãi. Không phải vì giọng lưỡi ghê tởm mà vì các toan tính của lão già. Hình như từ nhiều năm trước lão đã biết chắc sẽ có người điều tra về thân thế lão, nên đã sớm để lại chỉ dẫn và giăng bẫy.
“Đã khiến ông thất vọng rồi, vì tôi không bị vùi trong cái huyệt ông đào.”
“Bị vùi sao được?” Lão lại ho dữ dội. “Mất em, anh được cả thế giới, để làm gì? Em bị vùi sâu thì ai sẽ cùng anh sống nốt kiếp sống thừa?” Chà! Lão Thương Hiệt còn nhớ cả câu hát từ đời nảo đời nào!.
Na Lan nói, “Cảm ơn ông đã sắp đặt cho tôi thăm viếng thánh địa thơ ấu, biết được ông có sở thích giết hại động vật. Đó là tâm ý của ông đúng không? Thậm chỉ còn để lại một sợi dây đàn, hình như để nhắc chúng tôi dây đàn có thể thít đứt ngón tay, nhằm chứng minh khả năng tàn độc của ông hay là nhằm bao che cho tên hung thủ của vụ án ‘ngón tay khăn máu’?”
Mễ Trị Văn nhắm mắt, im lặng.
Na Lan mỉm cười, dịu giọng, “Ông biết tôi có cảm giác gì không? Cảm giác rằng câu ông thừa nhận vào lần đầu chúng ta gặp nhau là không sai. Thực ra ông chẳng khác gì phần đông mọi người, hành vi của ông hiện nay chỉ là sự nối dài hành vi hồi nhỏ. Lúc qua đêm trong cái hố ông đào, tôi bỗng cảm thấy mình gần với tuổi thơ của ông hơn bao giờ hết.” Sau cuộc trao đổi với Trần Ngọc Đống, Na Lan rất ấn tượng với Suy diễn tâm lý học tội phạm, nên bắt đầu sơ bộ miêu tả Mễ Trị Văn, mỗi câu nói ra đều đã được suy tính kỹ và thêm thắt đôi chút. Đã là trò chơi tâm lý thì cô phải chơi cho hết mình.
“Hồi nhỏ, ông có cá tính lập dị khác người, không có bạn bè, đúng không? Ông không cần trả lời vì tôi biết đáp án là khẳng định. Một đứa trẻ cởi mở, đông bạn bè, sẽ không trốn ra khỏi nhà lúc nửa đêm, tìm đến nơi hoang vắng đào hố làm vui. Hầu hết trẻ em không lập dị bẩm sinh, mà là do ảnh hưởng của môi trường sống sau này. Hồi nhỏ ông đã bị sốc bởi chuyện gì? Vì thân thể còm nhom rúm ró, gia cảnh tầm tầm nên bị chúng bạn bắt nạt hạ nhục? Hay là vì hoàn cảnh gia đình tồi tệ, thường bị cha mẹ đánh mắng? Cũng có thể là do tất cả các yếu tố trên cộng lại. Nhưng xét cái chuyện ông dám khoét tường, thì tôi cho rằng gia đình ông có vấn đề. Hành vi thì lén lút nhưng nó công khai phản ánh ông rất muốn bỏ nhà ra đi, song ông không thể làm thế được vì bị ràng buộc về tình cảm và nhu cầu thực tế. Ông đành khoét tường, nơi cho ông cảm giác an toàn và sung sướng mà ông vẫn mong có được.”
Na Lan dừng lại, cố ý dành cho Mễ Trị Văn cơ hội ngắt lời. Những lão vẫn như ngủ say, nằm yên không động đậy.
Cô tiếp tục, “Đào hố chẳng có gì là quái dị, hầu như đứa trẻ nào cũng thích đào hố để chơi, nhưng đào cái hố sâu 5-6 mét thì xưa nay ít thấy, lại ngồi dưới đáy phanh thây bẻ chân những con vật nhỏ thì càng không có. Trốn vào hố sâu tách biệt, ông tìm thấy cảm giác an toàn, thứ thiếu hụt ở thế giới bên ngoài, con người xung quanh, họ đã làm gì? Chắc chỉ bạo lực và tàn nhẫn mới khiến ông phát sinh hành vi xả giận theo kiểu bạo lực và tàn nhẫn…”
“Đủ rồi đấy!” Mễ Trị Văn bỗng ngồi bật dậy, hai mắt đỏ quạch như lửa, máu và ma quỷ đang bao quanh, lão vung đôi tay gầy nhẳng ra bóp cổ Na Lan.
Biết lời mình nói sẽ khiến lão già nổi giận nên Na Lan đã chuẩn bị tư tưởng, chỉ không ngờ lão tấn công nhanh thế này. Hai bàn tay khô đét nhưng đầy sức mạnh, Na Lan cảm thấy khí quản sắp bị bóp vỡ, cô nghẹt thở, đưa tay lên gỡ nhưng chỉ tóm được đôi càng cua cứng như sắt đang hăng máu.
Cô muốn hét lên kêu cứu, nhưng cổ họng bị bóp chặt không thể phát ra tiếng.
Phải tự cứu! Mình nên làm gì đây?
Sờ được cái ví đầm đặt trên mặt tủ đầu giường, cô run run kéo phéc mơ tuya và lấy được con dao nhỏ vẫn mang theo.
Ngoài cửa vang lên những tiếng bước chân.
Mễ Trị Vân bỗng bỏ tay ra.
Kim Thạc và hai cảnh sát nữa bước vào, nhìn thấy Na Lan tay cầm dao nhỏ đứng bên giường lão già không còn sinh khí!
“Na Lan!” Kim Thạc sợ quá kêu lên.
Na Lan đã hơi định thần, cổ họng vẫn rát như bị lửa đốt, cô định nói “Lão tấn công tôi, hãy gọi kỹ thuật viên đến khám nghiệm vết thương và vân tay trên cổ tôi…” nhưng không, cô lại quay sang hỏi Mễ Trị Văn đang nằm, “Đây cũng là một phần trong trò chơi của ông phải không?” Cô bỗng có cảm giác đáng buồn về “thành công”, phân tích của cô chạm đến chỗ nhạy cảm của lão, kích thích lão nảy sinh phản ứng quá khích.
Hương vị của trả thù quả không hề ngọt ngào.
Mễ Trị Văn bỗng phun ra một tràng cười hé hé hé rất quái dị, rồi thâm thúy nói, “Cô gái tự cho mình là thông minh, tôi chúc mừng cô, cô đã tiến đến gần tôi hơn nhưng vẫn cách quá xa sự thật.”
“Tôi vẫn tưởng ông đang cho chúng tôi biết sự thật…”
“Tôi cho cô biết toàn là sự thật nhưng cô không hề coi trọng, cô lãng phí thời gian để đuổi theo những cái bóng. Sự thật nằm trong con chữ trời ban cho của tôi, cô đã giải mã đến đâu rồi? Cô như con khỉ con trong truyện ngụ ngôn, nhìn thấy quả đào thì vứt bắp ngô đang cầm, nhìn thấy dưa hấu thì vứt quả đào đi, cuối cùng thì vứt dưa hấu để đuổi theo con thỏ không bao giờ đuổi được! Có vẻ như cô muốn đứng nhìn vụ ‘ngón tay khăn máu’ tiếp tục xảy ra? Mau mau giải cái chữ ấy đi, may ra còn kịp!” Giọng lão uốn éo như rắn bò, len lỏi khắp khu buồng bệnh trong buổi tối yên tĩnh.
Có một người mặc áo blu trắng tự may theo kiểu của bệnh viện Phổ Nhân, ung dung ra vào khu buồng bệnh. Trong nhà vệ sinh chung có treo tấm gương, một mình người ấy đang tự đắc đứng trước gương, bất cứ ai nhìn thấy đều không mảy may nghi ngờ đây không phải là thầy thuộc. Ta phải thể hiện được vị trí của ta, vì những ngày gần đây Na Lan thường xuất hiện ở khu này và liên tiếp viếng thăm lão già biến thái đang ốm sắp chết đến nơi.
Lẽ nào trên đời này còn có kẻ biến thái hơn “thánh” biến thái ta đây?
Người ấy soi gương và mỉm cười, trông dáng vẻ này làm sao gọi là biến thái được chứ? Ta quan tâm đến Na Lan là vì tình cảm, không chỉ có thể, ta là người “nhìn” cô ta lớn lên, chứ đâu có như Mễ Trị Văn và mấy thằng nhãi con cô ta chẳng may gặp phải vài năm qua, chúng ở đâu ló mặt ra và còn giả bộ chín chắn lõi đời lắm!
Rời khỏi nhà vệ sinh, đi đến trước cửa buồng bệnh nhân nặng, đúng lúc nghe thấy giọng nói rin rít ghê rợn của Mễ Trị Văn, “Mau mau giải cái chữ ấy đi, may ra còn kịp!”
Lão già đang chơi cái trò gì thế? Lão lừa Na Lan vào cái hố ma quỷ ấy vẫn chưa đủ hay sao?
Người ấy tận mắt nhìn thấy Na Lan rơi xuống hố sâu, do dự xem có nên cứu cô lên không, nhưng cuối cùng đưa ra quyết định thỏa đáng và sáng suốt là khoanh tay đứng nhìn. Cứ để cô ta rèn luyện thêm thì hơn. Con người không ăn uống hai ba ngày vẫn ổn, lo gì!
Cho đến nay người ấy vẫn chưa đoán ra tại sao Mễ Trị Văn cứ bám riết Na Lan. Tất nhiên Na Lan đã vô tình đụng đến nhiều chuyện rắc rối, những kẻ tiếp cận cô là vì tình yêu, vì nhan sắc hoặc vì lai lịch của cô. Người ấy đã điều tra để thấy rằng Mễ Trị Văn và Na Lan không có quan hệ gì hết, cho nên lại càng nghi ngờ.
Na Lan và ba cảnh sát cùng bước ra, người ấy tránh mặt, đứng nhìn theo bọn họ đi vào thang máy.
Kim Thạc đề nghị dùng xe cảnh sát chở Na Lan về trường, nhưng cô từ chối, nói là từ bệnh viện về ký túc xá không xa, cô đi xe buýt là được. Thực ra cô sợ xe cảnh sát chở cô về trường sẽ lại gây ra bàn tán xôn xao, nếu ai đó quay clip tung lên mạng thì gay, và cũng vì cô sợ ngồi bên Kim Thạc nữa.
Nhưng cô vẫn không thể thoát kiếp ngồi bên anh ta.
Kim Thạc nói, “Không đưa về trường cũng được. Nhưng tôi có vài câu muốn nói với Na Lan .” Anh ra hiệu cho hai cảnh sát kia rút lui. “Ban nãy chúng tôi nhìn thấy cô cầm dao.”
Na Lan nói, “Đang nói chuyện, lão bất ngờ bóp cổ tôi, anh có thể thấy vết tay vẫn còn trên cổ đây này.”
“Tôi đã nghe băng ghi âm lần đầu cô nói chuyện với lão, lão đã nói toạc ra ý nghĩ của cô?”
“Ý nghĩ gì?” Na Lan vờ như không hiểu.
“Muốn rút ống truyền dịch hoặc ống thở ô xi.”
Na Lan định nói, tại sao anh phải giả bộ như thế? Anh thừa biết dù tôi rút mấy cái ống đó ra thật thì lão cũng không thể chết ngay. Cô lắc đầu, “Anh cũng bắt đầu tin lão hay sao?”
Giọng Kim Thạc dịu xuống, “Tất nhiên là không. Tôi chỉ cảm thấy… cô liên tiếp gặp nguy hiểm… thì nên nghỉ ngơi thực sự đi!
:Được, bây giờ tôi về đi nghỉ.” Cô quay người bước đi.
Na Lan tiến về phía nhà ga, đầu óc vẫn nghĩ ngợi, tiếp tục suy diễn tâm lý Mễ Trị Văn. Lão luôn thâm thúy, mưu trí và trấn tĩnh, tại sao hôm nay lão lại nổi khùng với mình? Lão muốn làm cho mình phải chú ý đến lão kia mà, tại sao khi nói đến điểm hệ trọng thì lão lại mất kiểm soát? Có phải điều trái ngược này thể hiện mâu thuẫn giữa tính cách và tâm lý của lão không? Lão muốn được giải thoát khỏi tội lỗi nhưng lại không đủ can đảm đối diện với sự tàn ác của mình, nên tung ra đủ thứ thông tin khiến cô phải đi đường vòng để từ từ phát hiện ra nguồn gốc tội lỗi của lão, rồi trở thành người phát ngôn cho lão? Nếu thế thì… đúng là lão đã gây ra các vụ án “ngón tay khăn máu” chứ gì?
Hay là, lão nổi khùng chỉ vì cô nhắc đến thời niên thiếu, đến bóng đen của hoàn cảnh gia đình luôn ám ảnh lão?
Bóng đen? Na Lan chợt linh cảm có một bóng đen thực sự đang bám theo cô từ một cự li vừa phải.
Có lẽ vì hai năm qua phải trải qua quá nhiều nguy hiểm, có lẽ vì những sự kiện trong quá khứ không ngừng gõ vào dây thần kinh nhạy cảm trước sợ hãi, giác quan thứ sáu lặng lẽ nhắc nhở rằng có người đã bám theo từ lúc cô rời khỏi khu buồng bệnh rồi đi ra nhà ga.
Cô dừng lại, lấy di động ra giả vờ loay hoay, mắt liếc trở lại. Một bóng người gầy nhỏ đang đứng dưới bóng cây xa xa. Không thể nhìn rõ mặt hoặc quần áo người ấy. Cô định quay từ từ trở lại, buộc người ấy phải ló mặt ra chỗ sáng, chí ít cũng nhìn được đại khái xem người ấy thế nào.
Nhưng đúng lúc ấy di động réo vang. Đổng Bội Luân gọi.
“Nghe nói em gặp bất trắc, vẫn ổn chứ?”
Chu Trường Lộ biết Na Lan gặp nguy hiểm, chắc chắn là ông đã cho Đổng Bội Luân biết tin.
“Vẫn ổn ạ, em cảm ơn cô quan tâm.”
“Người không sao thì tôi yên tâm rồi. Giám đốc Chu nói ông ta trực tiếp khám cho em. Tôi chỉ lo em quá khiếp hãi.”
Na Lan ngẩng nhìn bóng đen ở chỗ xa xa. Khỉ thật, không thấy người ấy đâu nữa!
“Cũng không phải lần đầu em gặp nguy hiểm. Em đã quen rồi.” Cô nhớ đến hậu quả của lần gặp hiểm nguy trên núi tuyết cách đây một năm, suýt nữa phải đi viện tâm thần.
“Tổ chức của chúng tôi có một hoạt động, em tham gia được không?” Đổng Bội Luân và Chu Trường Lộ thành lập một đoàn thể là Tiếng Lòng, chuyên giúp đỡ những phụ nữ nạn nhân của bạo lực.
“Được ạ! Lần trước giám đốc Chu đã nhắc, em vẫn mong được tham gia một lần. Cô cứ cho em biết địa điểm và thời gian cụ thể đi!”
“Ngay bây giờ, ở nghĩa trang Vạn Quốc.”
Mục lục:

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét