Trang

Thứ Sáu, 10 tháng 1, 2020

Thiền uyển tập anh 1


Lê Mạnh Thát

Thiền Uyển Tập Anh
Soạn giả:    Kim Sơn - Thiền phái Trúc Lâm
Thế Kỷ 14
(1337)
Tựa sách:    Thiền Uyển Tập Anh                                   Năm
Soạn giả:     Kim Sơn - Thiền phái Trúc Lâm                 1337
Dịch giả:     Lê Mạnh Thát (Dựa trên bản in năm 1715)          1976
Nhà xuất bản:      Đại Học Vạn Hạnh – Saigon             1976, 1999
Chuyển sang ấn bản điện tử bởi:       Lê Bắc                   2001
Điều hợp:    Lê Bắc - bacle@hotmail.com                          2001

Mục Lục
Bài Tựa In Lại Thiền Uyển Tập Anh          7
Thiền Uyển Tập Anh Ngữ Lục          10
Quyển Thượng     10
Dòng Pháp của Thiền Sư Vô Ngôn Thông 10
1. THIỀN SƯ Vô Ngôn Thông (759 - 826)          10
Thế Hệ Thứ Nhất (1 người)     14
2. THIỀN SƯ Cảm Thành (? - 860)  14
Thế Hệ Thứ Hai (1 người)       17
3. THIỀN SƯ Thiện Hội (? - 900)     17
Thế Hệ Thứ Ba (1 người)         19
4. THIỀN SƯ Vân Phong (? - 956) (Một tên nữa là Chủ Phong)      19
Thế Hệ Thứ Tư (2 người, 1 người khuyết)  21
5. Đại Sư Khuông Việt (933 - 1011) (Trước tên là Chân Lưu) 21
Thế Hệ Thứ Năm (2 người, khuyết 1)         26
6. THIỀN SƯ Đa Bảo    26
Thế Hệ Thứ Sáu (3 người, 1 người khuyết lục)     27
7. TRƯỞNG LÃO Định Hương (? - 1075) 27
8. THIỀN SƯ Thiền Lão         29
Thế Hệ Thứ Bảy (7 người, khuyết 1) 30
9. THIỀN SƯ Viên Chiếu (999 - 1090)      30
10. THIỀN SƯ Cứu Chỉ          42
11-12 HAI THIỀN SƯ Bảo Tính (?- 1034), Minh Tâm (?- 1034)     44
13. THIỀN SƯ Quảng Trí       45
14. Lý Thái Tôn   46
Thế Hệ Thứ Tám (6 người, thiếu 3 người)  48
15. QUỐC SƯ Thông Biện (? - 1134)        48
16. Đại Sư Mãn Giác (1052 - 1096)  51
17. THIỀN SƯ Ngộ Ấn (1020 - 1088)       53
Thế Hệ Thứ Chín (8 người, 3 người khuyết lục)   55
18. THIỀN SƯ Đạo Huệ (? - 1073)  55
19. THIỀN SƯ Biện tài 56
20. THIỀN SƯ Bảo Giám (? - 1173) 57
21. THIỀN SƯ Không Lộ ( ? - 1119)         58
22. THIỀN SƯ Bản Tịnh (1100 - 1176)     61
Thế Hệ Thứ Mười (Gồm 12 người, 2 người khuyết lục) 63
23. THIỀN SƯ Minh Trí (? - 1196) (Trước tên Thiền Trí)      63
24. THIỀN SƯ Tín Học (? - 1200)    64
25. THIỀN SƯ Tịnh Không (1091 - 1170)          65
26. THIỀN SƯ Đại Xả (1120 - 1180)         67
27. THIỀN SƯ Tịnh Lực (1112 - 1175)      70
28. THIỀN SƯ Trí Bảo (? - 1190)    71
29. THIỀN SƯ Trường Nguyên (1110 - 1165)     73
30. THIỀN SƯ Tịnh Giới (? - 1207)           74
31. THIỀN SƯ Giác Hải         78
32. THIỀN SƯ Nguyện Học (?- 1181)       79
Thế Hệ Thứ Mười Một (9 người, 8 người khuyết lục)    82
33. THIỀN SƯ Quảng Nghiêm (1122 - 1190)      82
Thế Hệ Thứ Mười Hai (Có 7 người, 6 người khuyết lục)         84
23. THIỀN SƯ Thường Chiếu (? - 1203)    84
Thế Hệ Thứ Mười Ba (Có 5 người, 3 người khuyết lục) 87
35. CƯ SĨ Thông Sư (? - 1228)         87
36. THIỀN SƯ Thần Nghi (? - 1216)         88
Thế Hệ Thứ Mười Bốn (Gồm 5 người, 3 người khuyết lục)     90
37. THIỀN SƯ Tức Lự (Một tên là Tĩnh Lự)        90
38. THIỀN SƯ Huyền Quang (? - 1221)    90
Thế Hệ Thứ Mười Lăm (Có 7 người, ở đây chỉ có 1 người)     93
39. CƯ SĨ Ứng Vương.  93
Thiền Uyển Tập Anh Ngữ Lục          94
Quyển Hạ   94
Dòng Pháp của Tỳ Ni Đa Lưu Chi - Chùa Pháp Vân    94
40. THIỀN SƯ Tỳ Ni Đa Lưu Chi    94
Thế Hệ Thứ Nhất (1 người)     98
41. THIỀN SƯ Pháp Hiền (? - 626)  98
Thế Hệ Thứ Hai (1 người)       100
Thế Hệ Thứ Ba (1 người)         100
Thế Hệ Thứ Tư (1 người)         100
42. THIỀN SƯ Thanh Biện (? - 686)          100
Thế Hệ Thứ Năm (1 người khuyết lục)       102
Thế Hệ Thứ Sáu (1 người khuyết lục)         102
Thế Hệ Thứ Bảy (1 người khuyết lục)        102
Thế Hệ Thứ Tám (3 người, 2 người khuyết lục)   102
43. THIỀN SƯ Định Không (? - 808)         102
Thế Hệ Thứ Chín (3 người, đều khuyết lục)         104
Thế Hệ Thứ Mười (4 người, 1 người khuyết lục)  104
44. TRƯỞNG LÃO La Quý    104
45. THIỀN SƯ Pháp Thuận (925-990)      105
46. THIỀN SƯ Ma Ha  (Tên cũ là Ma Ha Ma Gia)       107
Thế Hệ Thứ Mười Một (4 người, 2 người khuyết lục)    109
47. THIỀN ÔNG Đạo Giả (902-979)         109
48. THIỀN SƯ Sùng Phạm (1004-1087)    109
Thế Hệ Thứ Mười Hai (7 người, 2 người khuyết lục)     110
49. THIỀN SƯ Vạn Hạnh (?-1025)  110
50. THIỀN SƯ Định Huệ        116
51. THIỀN SƯ Đạo Hạnh (? - 1117)          116
52. THIỀN SƯ Trì Bát (1049-1117) 123
53. THIỀN SƯ Thuần Chân (? - 1105)      124
Thế Hệ Thứ Mười Ba (6 người, 2 người khuyết lục)      126
54. TĂNG THỐNG Huệ Sinh (? - 1064)    126
55. THIỀN SƯ Thiền Nham (1093-1163)  129
56. QUỐC SƯ Minh Không (1066-1141)  129
57. THIỀN SƯ Bản Tịch (? - 1140) (Trước tên là Pháp Mật) 131
Thế Hệ Thứ Mười Bốn (4 người, 3 người khuyết lục)    133
58. TĂNG THỐNG Khánh Hỷ (1067 - 1142)     133
Thế Hệ Thứ Mười Lăm (3 người, 1 người khuyết lục)    136
59. THIỀN SƯ Giới Không     136
60. THIỀN SƯ Pháp Dung (? - 1174)        137
Thế Hệ Thứ Mười Sáu (3 người)       139
61. THIỀN SƯ Trí Nhàn (Một tên là Tĩnh Lự)    139
62. THIỀN SƯ Chân Không (1046-1100)  141
63. THIỀN SƯ Đạo Lâm (? - 1203)  143
Thế Hệ Thứ Mười Bảy (có 4 người, 1 người khuyết lục)         145
64. THIỀN SƯ Diệu Nhân (1042-1113)     145
65. THIỀN SƯ Viên Học (1073 -1136)      146
66. THIỀN SƯ Tịnh Thiền (1121 - 1193) 147
Thế Hệ Thứ Mười Tám (có 2 người, 1 người khuyết lục)         148
67. QUỐC SƯ Viên Thông (1080 - 1151)  148
Thế Hệ Thứ Mười Chín - Hai Mươi (1 người khuyết lục)        151
68. THIỀN SƯ Y Sơn (? - 1216)      151
Hệ Phái của Thiền Sư Thảo Đường   153
69. THIỀN SƯ Thảo Đường   153
Thế Hệ Thứ Nhất (3 người)     153
70. HOÀNG ĐẾ Lý Thánh Tôn        153
71. THIỀN SƯ Bát Nhã 153
72. CƯ SĨ Ngộ Xá         153
Thế Hệ Thứ Hai (4 người)       154
73. THAM CHÁNH Ngô Ích  154
74. THIỀN SƯ Hoàng Minh   154
75. THIỀN SƯ Không Lộ       154
76. THIỀN SƯ Định Giác {Tức Giác Hải} 154
Thế Hệ Thứ Ba (4 người)         155
77. THÁI PHÓ Đỗ Vũ   155
78. THIỀN SƯ Phạm Âm       155
79. HOÀNG ĐẾ Lý Anh Tôn 155
80. THIỀN SƯ Đỗ Đô   155
Thế Hệ Thứ Tư (4 người)         155
81. THIỀN SƯ Trương Tam Tạng    155
82. THIỀN SƯ Chân Huyền   156
83. THÁI PHÓ Đỗ Thường     156
Thế Hệ Thứ Năm (4 người)     156
84. THIỀN SƯ Hải Tịnh         156
85. HOÀNG ĐẾ Lý Cao         156
86. XƯỚNG NHI QUẢN GIÁP Nguyễn Thức    156
87. Phụng Ngự Phạm Đẳng     156
Bài Tựa In Lại Thiền Uyển Tập Anh thế?
[1a1]
Thiền uyển tập anh, sao dùng nghĩa đó? Xin thưa, dùng sự anh tú của nó làm nghĩa vậy. Sao Người theo Thiền tôn cố nhiên là nhiều, nhưng kẻ biết lẽ huyền thật ra lại hiếm: chính như một con phụng giữa bầy gà, một cây lan trong đám cỏ. Nếu chẳng phải phú bẩm anh dị, tri kiến siêu quần, làm sao thấu được ý chí huyền vi, để có thể làm lãnh tụ cho kẻ hậu học và mô thức cho người đời sau?
Đáng tin thay! Trong vườn Thiền, người anh kỳ là hiếm, nhân đấy trích lấy những bậc danh công, thạc đức để làm tỏ sự tổ thuật của Thiền học. Nên cái nghĩa của Tập anh chính do đó mà có tên.
Kể từ hỗn độn bắt đầu, bấy giờ có Phật Uy Âm xuất thế1, sáng làm tị tổ của Thiền tôn. Nhưng thời ấy, tục còn thuần hậu, người nhiều chất phác, kinh giáo ở tại hư không [1b1], không cần nói ra để làm máy hóa độ. Kẻ nào lấy ma làm Phật kẻ đó trá ngụy ngày càng sinh, gian dâm ngày càng dấy, nghiệp nợ kết đầy, chướng tội thêm thẳm. Nếu chẳng dùng đến thuyền từ cứu vớt, thì chẳng thể được.
Cho nên cha cả Thích Ca xuất hiện ở Ta Bà2, vì họ mà nói ra kinh kệ, dạy dỗ chúng sanh, chín kiếp vượt tu3, công thành quả mãn. Do thế, Phật giáo đại hành, Thiền tôn tiếp nối, như gió thổi qua sáu nẻo4, để đem mát lành, tuyết rơi trên ba đường5 để dẹp nóng dữ. Bí quyết thành Phật làm Tổ, từ đó mới mở được mối manh.
Nước Đại Việt ta, lời Phật thấm nhuần khắp cả, mưa pháp sóng gội nhiều nơi, cắt tóc xuất gia, chứng ấn ngộ không thì cũng có người. Về hành tích, lòng Thiền họ sáng như mặt trời, gương đạo trong như giá băng. Có người ra đời để giúp nước an dân, có kẻ nhập thế để đỡ ngã, vớt chìm. Có người sớm ngộ ấn tâm, chống gậy làm thần diệu cơ mầu của Đạt Ma6 [2a1]. Có kẻ muộn vào cửa Thiền, chú sen7 khiến hiển hiện bí quyết của Đồ Trừng. Còn những vị, chim rừng chuộng niềm đức, nghe kinh trong cửa, dã thú mến lòng nhân, cửa bếp dâng cơm. Đó là lòng thành cảm cách đã hiệp, chỗ học thần hóa được
1 Uy Âm Phật: tức Đức Phật đầu tiên của thế giới Không kiếp, trước đó không có một Đức Phật nào hết. Cho nên tên Đức Phật này được dùng để chỉ cho ranh giới giữa giai đoạn lúc chưa có sự phân biệt của chúng sanh và giai đoạn sau đó khi đã có sự phân  biệt. Xem Pháp hoa thông nghĩa 6 và Tổ đình sự uyển 5.
2 Ta bà: Phạn: Sahà, tên thế giới của chúng ta, được định nghĩa là thế giới "chịu nhận ba thứ độc (tức tham, sân, si) và các loại phiền não". Xem Bi hoa kinh 5 tờ 119c 22-23.
3 Cửu kiếp lịch tu: Điển tích Phật Thích Ca, nhờ ngợi ca Đức Phật Phất Sa bằng bài tán: Thiên thượng thiên hạ vô như Phật
Thập phương thế giới diệc vô tỉ Thế gian sở hữu ngã tận kiến Nhất thiết vô hữu như Phật giả.
trong khi đang làm một vị Bồ Tát trên đường đi tới giác ngộ, mà đã có thể thâu ngắn thời gian tu hành của mình bằng cách vượt
được chín kiếp, để trở thành Phật Thích Ca, trong khi Di Lặc còn phải đợi chín kiếp nữa. Xem Đại trí độ luận 25 tờ 87b27.
4 Lục đạo: cũng gọi là Lục thú, tức chỉ cho sáu con đường sống sáu lối sống, đây là con đường sống của thiên thần, của con người, của phi thiên, của súc sanh, của quỉ đói và của địa ngục.
5 Tam đồ: tức ba con đường, đấy là: 1. con đường lửa chỉ cho chỗ lửa dữ của địa ngục, 2. Con đường máu chỉ cho thế giới ăn nuốt lấy sinh mạng của nhau tức loài súc sanh và 3. Con đường đao kiếm chỉ cho thế giới đấu tranh bức hiếp lẫn nhau tức loài quỷ đói. Xem Tứ giải thoát kinh.
6 Tức Bồ Đề Đạt Ma, Phạn Bodhidharma, đến Trung quốc vào năm 520 và mất năm 528, người được coi thực sự khai sáng ra nền thiền Trung quốc. Về sự tích, xem Truyền đăng lục 3 tờ 217a9 - 220b25 và Tục cao tăng truyện 16 tờ 551b27 - c26 và Lịch đại pháp bảo kỳ  tờ 180 c3 - 181a18.
7 Tức Phật Đồ Trừng (232 - 348). Chú sen có nghĩa là đọc chú làm cho hoa sen mọc lên từ một bát nước. Sự tích lấy từ truyện Trừng gặp Thạch Lặc, và Lặc hỏi Trừng về chuyện "Đạo Phật có linh nghiệm gì? Trừng biết Lặc không hiểu tới lẽ sâu của Đạo, nên có thể dùng đạo thuật để làm bằng cớ, nhân đó nói rằng: "Đạo cả tuy xa, nhưng có thể lấy việc gần để làm chứng". Bèn lấy một cái bình bát đựng đầy nước, đốt hương và niệm chú thì phút chốc mọc lên một hoa sen xanh, sắc đẹp sáng chói mắt. Lặc do đó tin phục. Xem Cao tăng truyện 9 tờ 383c3 - 10. xong, há chẳng là sự mầu nhiệm của bốn mắt nhìn nhau ư ! Thật đã đủ để làm bậc anh tú trong vườn Thiền vậy.
Ôi ! Phật đạo chí huyền, mà lòng lại huyền ở trong huyền1. Phật đạo rất lớn mà lòng lại lớn ở trong lớn. Lòng ư ! Lòng ư ! Nó là cái chủ tể của sự tu đạo ư !
Một sách Thiền uyển này, bắt đầu từ Thiền sư Vô Ngôn Thông truyền đạo, đèn đèn nối nhau, ánh ánh huy hoàng, song rút gọn lời dài, làm ngắn chuyện rộng thì cũng đều cái lòng ấy là Chánh giác vô thượng vậy. Xét nguyên do nó, nếu chẳng phải gột rửa sáu trần, rời bỏ bốn tướng2 mà có thể được như thế sao?
Tôi ròng học sách Nho, xem [2b1] thêm kinh Phật, xét về lý hữu vô của chúng, tuy nói là hai đường, nhưng khảo về chỗ quy kỉnh thì tợ cùng một lẽ. Nhân khi rảnh rỗi giảng dạy ở trường3, gặp một bạn thiền đến bàn lời Phật, đối thoại hồi lâu, là những vấn đề lông rùa sừng thỏ. Ông nhân đó lấy ra từ trong tay áo, có Tập anh một tập nhờ tôi chỉnh cú, để tiện in lại, nhằm khỏi sai lầm. Tôi xem trong sách ấy có nhiều cao thiền, danh tổ, học tu hết sức, chứng ngộ rất thiêng bất giác ttrong lòng vừa kính vừa phục. Họ bàn không, nói giác, đấy đương nhiên không phải nằm trong phần việc của tôi.
Nhưng kinh Dịch có nói: "Trẻ nhỏ cầu ta"4. Cho nên, tôi không thể không theo lời xin của ông để sửa lại những chữ thiếu và mất, thêm vào những chỗ sót và thoát lạc. Trong khoảng tuần nhật, lời văn nghĩa lý của sách này rõ ràng trở lại như xưa, không kém gì ánh trăng thêm sáng. Ông nhân đó xin tôi một bài tựa dùng để khắc vào đầu sách, nhằm hiển dương Phật giáo [3a1]. Tôi không tiếc công, cho gọi đứa ở đến trước mặt, bảo lấy bút giấy, chuẩn bị viết lách, rồi thảo một thiên lời quê.  Ông nhân đó vái chào mà nhận. Cẩn tự.
In lại vào ngày tốt tháng tư năm Lê Vĩnh Thịnh thứ 11 (1715).
[3b1] Thác tích của Thiền tôn: Thích tử Như Trí
Môn đồ:      Sa di  Tính Nhu
                   Tính Xuyến
                   Tính Trung
                   Tính Huy
                   Tính Kiến
                   Tính Bổn
Thiện nam tử                 Tính Phận
          Tính Thành
          Tính Từ
          Tính Hưng
          Tính Minh
1 Huyền trung chi huyền: Đây là một trong ba thứ huyền của phái Lâm tế, đấy là: 1. Huyền trung huyền, 2. Thể trung huyền và
3. Cú trung huyền. Xem Nhân thiên nhãn mục 2 tờ 311b19. Xem thêm Lão Tử, Đạo đức kinh thượng thiên tờ 1b3, Huyền chi hựu huyền, Chúng diệu chi môn.
2 Sáu trần: tức sáu đối tượng của sáu giác quan, mà thông thường thì gồm sắc là đối tượng của mắt, thanh là đối tượng của tai, hương là đối tượng của mũi, vị là đối tượng của lưỡi, xúc là đối tượng của thân, và pháp là đối tượng của ý.
Bốn tướng: tức bốn diễn trình của sự vật, đấy là sự sinh ra, sự trì giữ, sự thay đổi và sự diệt chết. Xem Câu xá luận 5 tờ 27a12 - 20a9.
3 Chiên đường: Điển lấy từ việc Dương Chấn (? - 124) dạy học, trước nhà có treo bảng một con chim ngậm trong mỏ ba con cá chiên, nên sau này người ta gọi nhà chiên hay chiên đường, để chỉ chỗ các thầy đồ dạy học. Xem Hậu Hán thư 84 tờ 1b5-9. 4 Dẫn Chu dịch: "Quẻ Mông": "Phỉ ngã cầu đồng mông, đồng mông cầu ngã". Xem Chu dịch 1 tờ 9a3.
Tính Băng Thiện nữ nhân hiệu Diệu Tặng
hiệu Diệu Đạo Tính Phụng

Thiền Uyển Tập Anh Ngữ Lục
Quyển Thượng


[4a1]

Dòng Pháp c ủ a Thi ề n S ư Vô Ngôn Thông

1. THIỀN SƯ Vô Ngôn Thông1 (759 - 826)
Chùa Kiến sơ, làng Phù đổng, Tiên du2. Sư vốn người Quảng châu, họ Trịnh, nhỏ đã mộ đạo, không màng gia sản, đến thọ nghiệp tại chùa Song lâm ở Vũ châu3. Tính tình trầm hậu, ít nói, im lặng mà biết, rõ hiểu mọi việc một cách tổng quát. Cho nên, người đương thời gọi là Vô Ngôn Thông {Truyền đăng4 gọi Bất Ngữ Thông}.
1 Thiền sư Vô Ngôn Thông
Đối chiếu với các tư liệu Trung Quốc:
(a). Truyền đăng lục 9 ĐTK. 2076, tờ 268a28-b13: Hoài Nhượng thiền sư, đệ tam thế Hồng châu Bách Trượng Hoài Hải thiền sư pháp tự Quảng châu, An hòa tự, Thông thiền sư giả, Vụ châu, Song lâm tự thọ nghiệp, tự ấu, quả ngôn, thời nhơn vị chi Bất Ngữ Thông dã. Nhân lễ  Phật, hữu thiền giả vấn vân: "Tọa chủ lễ để thị thập ma? Sư vân: "Thị Phật" Thiền giả nãi chỉ tượng vân: "Giá cá thị hà vật?" Sư vô đối. Chí dạ, cụ oai nghi, lễ vấn thiền giả vân: " Kim nhật sở vấn, mỗ giáp vị tri ý chỉ như hà". Thiền giả vân: "Toạ chủ kỷ hạ da? Sư vân: "Thập hạ" Thiền giả vân: "Hoàn tằng xuất gia dã vị?" Sư chuyển mang nhiên. Thiền giả vân: "Nhược dã bất hội, bách hạ hề vi?" Thiền giả nãi mệnh Sư đồng tham Mã Tổ. Hành chí Giang tây, Mã Tổ dĩ viên tịch. Nãi yết Bách Trượng, đôn thích nghi tình. Hữu nhân vấn: "Sư thị thiền sư phủ?" Sư vân: "Bần đạo bất tằng học thiền." Sư lương cửu khước triệu kỳ nhân. Kỳ nhân ứng nặc. Sư chỉ tông lư thọ tử. (kỳ nhân vô đối). Sư nhất nhật linh Ngưỡng Sơn tương sàng tử lai. Ngưỡng Sơn tương đáo. Sư vân: "Khước tống hoàn bản xứ. Ngưỡng Sơn tùng chi. Sư vân: "Sàng tử na biên thị thập ma vật?" Ngưỡng Sơn  vân: "Vô vật". Sư vân: "Giá biên thị thập ma vật?" Ngưỡng Sơn vân: "Vô vật". Sư triệu: "Huệ Tịch". Ngưỡng Sơn vân: "Nặc". Sư vân: "Khứ".
(b). Liêu đăng hội yếu 7 (Vạn 136 tờ 275a15), chép giản lược hơn, và nói Huệ Tịch lúc bấy giờ còn là một Sa di.
(c). Đại quang minh tạng, quyển trung (Vạn 137 tờ 422b.), chép từ đoạn "có người hỏi Sư có phải Thiền sư ?" vân vân, như Truyền đăng lục (đã dẫn), cuối cùng có lời bình của Bản Đàm: "Cổ nhân tự lợi căn thượng trí dĩ hoàn nhất đẳng phác mậu chi tư, đại lược tương tợ. Kỳ thọ đạo ký bất tương viễn, nhi dụng xứ diệc nhiên, Bất Ngữ Thông dĩ hạ chí vu Đại An chư sư, thân tự Bách Trượng lô bị trung lai, nhi đoàn liu tinh kim, lược vô chỉ uế. Thử đản trước kỳ nhất thời ứng cơ nhi dĩ, yếu nghiệm kỳ khí lực tương địch, lợi độn tương ma, tự phi kỳ gia đệ huyễnh, thục cảm khinh xúc?".
(d). Ngũ đăng hội nguyên 4 (Vạn 138 tờ 63b), chép như Truyền đăng lục, đã dẫn, từ đầu đến cuối, chi tiết đối thoại với Ngưỡng Sơn có khác một chút: "Sư nhất nhật triệu Ngưỡng Sơn: "Tương sàng tử lai". Sơn tương đáo. Sư viết: "Khước tống bản xứ trước." Sơn tùng chi. Sư triệu: "Huệ Tịch" Sơn ứng nặc. Sư viết: "Sàng tử na biên thị thậm ma vật?". Sơn viết: "Chẩm tử" giá biên thị  thậm ma vật?" Sơn viết: "Vô vật" Sư phục triệu: "Huệ Tịch". Sơn ứng nặc. Sư viết: " Thị thậm ma" Sơn vô đối, Sư viết: "Khứ".  (e). Ngũ đăng nghiêm thống 4 tờ 103b. và Chỉ nguyệt lục 11 tờ 125c cả hai bài đều chép như Ngũ đăng hội nguyên đã dẫn.
2 Tức huyện Tiên du. Đại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, nói: "Huyện Tiên du ở xiên về phía đông bắc phủ lỵ Từ sơn 10 dặm, rộng từ đông sang tây 18 dặm, nam xuống bắc 10 dặm, phía đông 10 dặm thì đến địa giới huyện Quế dương, tây 7 dặm thì đến địa giới huyện Yên Phong, nam 11 dặm thì đến địa giới huyện Siêu loại của phủ Thuận an, bắc 6 dặm đến địa giới huyện Yên phong. Đời Trần về trước nguyên đã có tên huyện này. Sử ký nói Nguyễn Thủ Tiệp chiếm cứ Tiên du, tức là ở đây. Đời thuộc Minh, châu Vũ ninh gồm lấy nó và thuộc phủ Bắc giang. Đời Lê Quang Thuận, đổi nó thuộc phủ Từ sơn. Triều ta nhân theo đấy. Nó gồm hai tổng, 56 xã thôn". Nay tức là huyện Tiên du, tỉnh Hà bắc. Làng Phù đổng ở tại huyện này. Chùa Kiến sơ, như truyện của Cảm Thành xác định là do một nhà giàu họ Nguyễn của làng đấy đem nhà mình cải thành chùa, rồi đem cúng cho Cảm Thành có lẽ khoảng năm 820 hay trước đó không lâu.  Huyện Tiên du này, vào thời kỳ nhà Lý chắc gọi là quận Tiên du, bởi vì trong truyện Cảm Thành nói Thành là người Tiên du, xuất gia ở núi Tiên du quận mình."
3 Vụ châu, địa danh đời Đường, sau đổi là Tư châu. Nay là huyện lỵ huyện Vụ Xuyên, Quý châu.
4 tức Truyền đăng lục do Đạo Nguyên khởi viết năm 1004. Nó gồm cả thảy 30 quyển, mô tả lịch sử truyền thừa của Thiền tôn từ Phật Tỳ Bà Thi trở xuống cho tới Thiền sư Huệ Thành (941 - 1007). Năm Cảnh Đức thứ 4 (1007) là năm ông hoàn thành tác phẩm này. Vì nó được viết trong khoảng Cảnh Đức (1004 - 1007) đời Tống Chân Tôn nên cũng có tên Cảnh Đức truyền đăng lục, hiện ở trong Đại tạng kinh số ĐTK 2076.
Một hôm vào lúc Sư lễ Phật, có một Thiền khách đến hỏi: "Tọa chủ lễ cái gì đó?" Sư đáp: "Lễ Phật"
Thiền khách chỉ tượng Phật hỏi: "Cái này là cái gì?" Sư không đáp được.
Đêm đó Sư y phục nghiêm chỉnh đến lạy thiền khách, thưa rằng: "Điều ngài hỏi khi nãy tôi chưa biết ý chỉ như thế nào?"
Thiền khách hỏi: "Tọa chủ xuất gia đến nay trải được mấy hạ?" Sư thưa: "Mười hạ".
Thiền khách hỏi: "Lại từng xuất gia chưa?" Sư trở thành hoang mang.
Thiền khách bảo: "Nếu không hiểu điều đó, thì dù có trăm hạ cũng chẳng ích gì !"
Rồi đem Sư cùng đến tham vấn Mã Tổ1. Đi tới Giang tây2, thì Tổ đã tịch [4b1], bèn đến yết kiến Thiền sư Bách Trượng Hoài Hải3.
Bấy giờ có vị tăng hỏi: "Thế nào là pháp môn đốn ngộ của Đại thừa?" Bách Trượng đáp:          "Đất lòng nếu không,
Trời tuệ tự chiếu4.
Nghe xong Sư tỉnh ngộ.
Trở về Quảng châu, trụ trì chùa Hoà an. Có người hỏi: "Thầy phải là Thiền sư chăng?" Sư đáp: "Bần đạo không từng học thiền"
Im lặng giây lâu, Sư gọi, Người đó đáp: "Dạ". Sư chỉ cây soan. Người đó không trả lời.
Thiền sư Ngưỡng Sơn5, khi còn là sa di, có lần Sư gọi: "Tịnh con, đem cái giường lại đây cho ta".
Nguỡng Sơn đem giường đến. Sư bảo: "mang lại chỗ cũ". Nguỡng Sơn vâng theo.
Sư lại hỏi:   "Tịch, bên này có cái gì?"
"Không vật". "Còn bên kia?" "Không vật".
Sư lại hỏi: "Tịch con !"
1 Tức Thiền sư Đạo Nhất (709 - 788) ở Giang tây, là học trò đắc pháp duy nhất của Nam Nhạc Hoài Nhượng. Sư người họ Mã, nên thường gọi là Mã Tổ. Về tiểu sử, xem Truyền đăng lục 6 tờ 245 c23-246c6.
2 Giang tây, vùng đất ở phía nam thuộc lưu vực trung bộ sông Dương tử, tương đương với phần đất tỉnh Giang tây ngày nay.
3 Bách Trượng Hoài Hải (749 - 814) là học trò của Mã Tổ. Sư người Trường lạc, Phúc châu. Sau khi đắc pháp với Mã Tổ rồi, bèn đến tại núi Đại hùng ở Hồng châu, vì ở ngọn núi này cao dốc nên cũng gọi là Bách trượng. Xem Truyền đăng lục 6 tờ 249b26 - 250c. Ở Trung Quốc, Hải được coi như là vị thầy của hai người học trò đã khai sinh ra hai phái thiền lớn của Trung Quốc, đấy là Linh  Hựu ở Qui Sơn, người đã cùng với học trò mình là Huệ Tịch ở Ngưỡng Sơn khai sinh ra phái thiền Qui Ngưỡng, và Hy Vận ở Hoàng bá, người đã dạy cho học trò mình là Nghĩa Huyền ở Lâm Tế thành lập nên phái thiền Lâm tế. Ở đây, ta có thể nói Hải còn có một nguời học trò thứ ba cũng khai sinh ra một thiền phái lớn khác ngoài đất Trung Quốc, đấy là thiền phái Kiến sơ của Vô Ngôn Thông ở Việt nam.
4 Tham chiếu Truyền đăng lục 6 tờ 250a17: Thiền sư Bách Trượng, có Tăng hỏi: "Như hà thị Đại thừa đốn ngộ pháp môn?" Sư viết: "Nhữ đẳng tiên hiết chư duyên, hưu tức vạn sự; thiện dữ bất thiện, thế, xuất thế gian, nhất thiết chư pháp, mạc ký, mạc ức, mạc duyên niệm, phóng xả thân tâm linh kỳ tự tại, Tâm như mộc thạch, vô sở biện biệt. Tâm vô sở hành. Tâm địa nhược không, tuệ nhật tự hiển. Như vân khai nhật xuất (...)".
5 Ngưỡng Sơn Huệ Tịch (814 - 890): Xem Truyền đăng lục 11 tờ 282a - 283c); Huệ Tịch ngữ lục, ĐTK 1910, tr. 582a và tr. 584c23.
Nguỡng Sơn thưa: "Dạ". Sư bảo: "Đi đi".
Tháng chín mùa thu năm Canh tý Đường Nguyên Hoà thứ 15 (820), Sư đến trác tích chùa đấy1.
Ngoài việc cơm cháo, vui cái vui thiền, thường ngồi quay mặt vào vách, không bao giờ nói năng, suốt mấy năm mà không ai biết. Chỉ có thầy Cảm Thành chùa đó [5a1] lòng càng tôn kính, hầu hạ hai bên, âm thầm rõ thấu huyền cơ, được hết yếu chỉ.
Một hôm Sư không bệnh, tắm rửa thay y phục, gọi Cảm Thành đến dạy rằng: "Ngày xưa, Tổ ta là Nam Nhạc Nhượng Thiền sư2, khi ngài sắp tịch, có dạy:
"Tất cả các pháp Đều từ tâm sinh Tâm không chỗ sinh Pháp không chỗ trụ Nếu đạt đất lòng Chỗ làm không ngại Không gặp thiện căn Cẩn thận chớ nói"3
Dạy xong, Sư chắp tay mà mất. Cảm Thành làm lễ trà tì thu xá lợi4, dựng tháp thờ Sư tại núi Tiên du, bấy giờ là nhằm ngày12 tháng giêng năm Bính ngọ Đường Bảo Lịch thứ 2 (826), Sư thọ sáu mươi tám tuổi5.
Đến năm Khai Hựu Đinh sửu (1337) phàm có năm trăm mười hai năm1. Thiền học nước Việt ta bắt đầu từ Sư vậy2.
1 Tức chùa Kiến sơ, làng Phù đổng.
2 Nam Nhạc Hoài Nhượng (677 - 744), đệ tử đắc pháp của Huệ Năng và thầy của Mã Tổ Đạo Nhất. Xem Truyền đăng lục 5 tờ 240c7 - 241a26.
3 Nguyên văn:
Nhất thiết chư pháp, Giai tùng tâm sanh Tâm vô sở sanh, Pháp vô sở trụ.
Nhược đạt tâm địa, Sở tác vô ngại.
Phi ngộ thượng căn, Thận vật khinh hứa.
So sánh Truyền đăng lục 5 tờ 241a13: (Nam Nhạc Thiền sư nói:) Nhất thiết pháp giai tùng tâm sinh, Tâm vô sở sinh, pháp vô năng trụ. Nhược đạt tâm địa, sở tác vô ngại. Phi ngộ thượng căn, nghi thân tự tại.
4 Trà tỳ, cũng gọi là Xà duy, là những phiên âm của chữ Phạn savya, nghĩa là sự đốt xác người sau khi chết, tức hỏa táng. Xá lợi, phiên âm của chữ phạn sàrìra, chỉ cho số xương cốt còn lại sau khi đốt, mà người ta thường gọi là linh cốt của đức Phật và các vị tổ.
5 Nguyên văn: Thời Đường Bảo Lịch nhị niên Bính ngọ chính nguyệt thập nhị nhật nhị thập bát niên. Câu này đoạn đầu thật quá rõ ràng, đây là "Bấy giờ ngày 12 tháng giêng năm Bính ngọ. Đường Bảo Lịch thứ hai". Điểm khó khăn nằm ở bốn chữ cuối cùng, mà nhiều người đã nhận thấy. Xem Gaspardone, Bibliographie Annamite tr. 147 chẳng hạn. Chúng tôi nghĩ rằng bốn chữ "nhị thập bát niên" nếu thêm chữ "thọ" vào trước chữ "nhị" và sửa chữ "nhị" thành chữ "lục", thì ta sẽ có "thọ lục thập bát niên". Và tuổi thọ    của Vô Ngôn Thông chắc chắn phải là 68, như ta có thể truy ra sau. Cứ vào tiểu sử, ta biết Thông xuất gia từ nhỏ, vì Thông "thiếu mộ không môn, bất trị gia sản". Vậy với tư cách một đồng chân nhập đạo, với sự "quả ngôn mặc thức" của mình, Thông chắc  chắn phải thọ giới Tỳ kheo, để thực sự làm một nhà sư Phật giáo vào lúc Thông 20 tuổi. Đến khi Thông gặp vị Thiền khách thì bấy giờ theo chính lời Thông, Thông đã trải qua 10 hạ, nghĩa là 10 năm từ lúc thọ giới. Nói cách khác, khi gặp vị Thiền khách Thông  đã 30 tuổi. Năm Thông 30 tuổi này cũng là năm Thông được vị Thiền khách vừa nói đem đến yết kiến Mã Tổ Đạo Nhất. "Nhưng vừa tới Giang tây thì Tổ đã thị tịch". Tổ đây tức là Mã Tổ, và năm Mã Tổ mất là năm 788. Vậy năm 788 này cũng là năm Thông 30 tuổi. Từ đó, suy ra năm sinh của Thông tức rơi vào năm 759. Bấy giờ, ta biết Thông mất vào năm 826. Như thế tuổi thọ của Thông tính theo lối đông phương đúng là 68 tuổi. Do đó, chúng tôi nghĩ: "nhị thập bát niên" là một viết sai và thiếu của "thọ lục thập bát niên". Viết thiếu chữ, trường hợp này Thiền uyển tập anh bản in năm 1715 có khá nhiều. Chẳng hạn, ở tờ 17b6 hai cái tên khá quen thuộc là Bảo Tính và Minh Tâm thì bị viết thành Bảo Tính Minh. Về việc chữ lục bị viết thành chữ nhị thì cũng khá dễ xảy ra, vì tự dạng của chúng rất dễ lầm.

Pháp tự của Thiền sư (Vô Ngôn) Thông ở Kiến sơ.
1 Nguyên văn: Hựu chí Khai Hựu Đinh sửu nhị thập tứ niên. Câu này cùng có một trường hợp tương tự như câu trên, và chúng tôi  đề nghị cách đọc và hiểu nó thế này. Thứ nhất, chữ hựu chắc phải là chữ dĩ viết lộn, bởi dáng chữ khá giống nhau. Tiếp đến, những chữ nhị thập tứ niên, chúng tôi nghĩ chúng là một viết lộn, sai và thiếu cũng có thể những chữ sau "phàm ngũ bách thập  nhị niên". Nhị thập là một viết ngược của thập nhị. Sự viết ngược này xuất hiện khá nhiều trong Thiền uyển tập anh, như Lương Nhiệm Văn thì viết thành Lương Văn Nhiệm trong truyện của Cứu Chỉ. Chữ tứ chắc là một viết sai và ngược của chữ bách, bởi  dáng chữ chúng khá giống nhau. Như vậy, nhị thập tứ niên đúng ra phải đọc bách thập nhị niên. Cuối cùng, vấn đề thêm hai chữ "phàm ngũ" Ngó vào tự dạng của hai chữ đấy, ta thấy chúng có những nét rất giống với chữ sửu đi trước. Có thể, người hiệu đính bản in năm1715 của Thiền uyển tập anh, vì để bản đã lu mờ hay bị mọt cắn, đã không thấy ý nghĩa của chữ phàm ngũ ấy và coi chúng như những điển tự của chữ sửu đứng trước, nên đã loại ra. Còn chữ bách thập nhị, một khi đã loại chữ phàm ngũ thì bỏ   chữ bách, hoặc sửa nó lại thành chữ tứ hay một chữ gì đó. Trong trường hợp này, có lẽ họ đã sửa thành chữ tứ và tạo nên sự viết lộn ngược trên. Dầu sao đi nữa, chúng tôi nghĩ rằng một đề nghị giải quyết một đoạn văn như thế không đến nỗi hoàn toàn   không có lý. Và lý do cho đề nghị ấy là sau.
Ta biết tác giả Thiền uyển tập anh biết khá nhiều về Truyền đăng lục của Đạo Nguyên. Mà cứ theo lối viết của Nguyên thì sau
những vị tổ chính yếu của Thiền tôn Trung Quốc như Bồ Đề Đạt Ma cho đến Huệ Năng mất, Nguyên đều tính từ năm mất của họ đến năm Nguyên đang viết Truyền đăng lục, tức năm Cảnh Đức thứ nhất (1004), và nói "đến nay năm Giáp thìn Cảnh Đức thứ nhất phàm bao nhiêu năm. Ví dụ, về Huệ Năng thì ông nói "đến nay năm Giáp thìn Cảnh Đức thứ nhất phàm 292 năm. Năng mất năm 713, đến năm 1004 thì quả là 292 năm. Trường hợp Thiền uyển tập anh cũng vậy. Tác giả muốn tính cho ta biết từ khi Vô Ngôn Thông mất đi cho tới lúc ông đang viết tác phẩm của mình gồm cả thảy bao nhiêu. Thông mất năm 826 đến đời Trần, Khai Hựu Đinh sửu (1337), thì Thông cách ta đúng 512 năm theo lối tính phương đông. Đấy là lý do tại sao chúng tôi đề nghị sửa nhị thập tứ niên thành phàm ngũ bách thập nhị niên và dịch theo đó.
2 Nguyên văn: Ngã việt thiền học tự Sư chi thỉ. Câu này đã làm một số người như Gaspardone (sđd.) tự hỏi làm sao tác giả Thiền uyển tập anh có thể viết một câu như thế, trong khi biết rõ ràng rằng, thiền học Việt nam không phải bắt đầu với Vô Ngôn Thông, mà là với Tỳ Ni Đa Lưu Chi như chính ông đã ghi lại. Phải chăng đã có những sai lầm văn cú trong lúc truyền bản? Thực ra, viết như thế, tác giả Thiền uyển tập anh muốn phơi bày quan điểm và lập trường viết sử của mình, để từ đó biện minh cho việc ông đã bắt đầu cuốn sử về Thiền tôn Việt nam của mình bằng dòng Vô Ngôn Thông. Nói khác đi, Thiền của Vô Ngôn Thông mới là phái Thiền chính thống theo quan niệm của ông. Thiền của Tỳ Ni Đa Lưu Chi dù có xưa hơn vẫn không thể có danh dự đó được. Viết về lịch sử Thiền tôn Việt nam cho đến thời ông đã có nhiều đánh giá khác nhau, mà việc nổi bật nhất là việc Thông Biện không thừa nhận có phái thiền của Nguyễn Bát Nhã, tức thiền phái Thảo Đường, và thiền phái của Nguyễn Đại Điên. Quan điểm này sau đó được Thường Chiếu, tác giả của Nam tôn tự pháp đồ, chấp nhận, đến nỗi Quách Thần Nghi phải tra hỏi. Nhưng đến tác giả Thiền uyển tập anh  dù quan điểm vừa nói vẫn đang còn có giá trị, ông đã phải thêm vào phần ghi lại sự truyền thừa của phái Thảo Đường. Ta không biết, đây có phải là vì ảnh hưởng của Huệ Nhật, tác giả Liệt tổ yếu ngữ , một người được tác giả Thiền uyển tập anh tôn trọng dẫn ra với một niềm tôn trọng và tin tưởng khá vô biên? Và Huệ Nhật, một sử gia Phật giáo khác thời Lý Trần, phải chăng đã gồm thêm phái Thảo Đường trong cuốn sách của mình?.
Ngoài ra như đã chứng minh trong phần nghiên cứu, tác giả Thiền uyển tập anh thuộc phái thiền Trúc lâm. Mà phái thiền đấy
xuất phát từ dòng Kiến sơ. Cho nên không có gì là lạ khi ông bắt đầu thiền Việt nam từ Vô Ngôn Thông.

Thế Hệ Thứ Nhất (1 người)

2. THIỀN SƯ Cảm Thành (? - 860)
Chùa Kiến sơ, đời thứ 2. Người Tiên du, họ Thị1. Ban đầu Sư [5b1] xuất gia, tên đạo là Lập Đức, ở tại núi Tiên du2 của quận mình. Sư lấy việc đọc kinh làm sự nghiệp. Có hương hào họ Nguyễn mến Sư đức hạnh cao cả, muốn đổi nhà làm chùa mời Sư tới ở, bèn đến lấy tình mời Sư, Sư chẳng chịu nhận.
Ban đêm mộng thấy thần nhân mách: "Nếu theo ý của Nguyễn, thì chẳng mấy năm sẽ được điều lành lớn", bèn đáp lại lời mời. {Nay là chùa Kiến sơ ở Phù đổng}.
Chẳng bao lâu thì Thiền sư Vô Ngôn Thông đến. Sư biết Thông là người phi thường, sớm hôm phục dịch, chưa từng biếng nhác. Thông cảm động trước lòng thành của Sư, bèn đặt tên là Cảm Thành. Một hôm, Thông gọi Sư đến dạy: "Xưa, Đức Thế Tôn vì một nhân duyên lớn , mà xuất hiện ở đời3, hóa duyên xong xuôi, ngài vào Niết bàn. Chân tâm vi diệu như thế gọi là Chánh pháp nhãn tạng, thật tướng vô tướng, tam muội pháp môn, chính ngài tự thân trao cho đệ tử là tôn giả Ma Ha Ca Diếp làm Sư tổ4, đời đời truyền nhau, đến Đại sư Đạt Ma từ Ấn Độ sang, trải bao hiểm nguy, để truyền pháp này cho đến Lục tổ Tào Khê, đắc pháp với Ngũ tổ. Khi Đạt Ma [6a1] mới đến, vì người đời chưa biết tin, nên lấy sự truyền y để làm rõ việc đắc pháp. Nay đức tin đã chín muồi, thì y bát là đầu mối của tranh chấp, phải dừng lại ở nơi ông, không nên truyền nữa5. Từ đó, lấy tâm truyền tâm, không truyền y bát. Bấy giờ Nam Nhạc Nhượng đầu tiên được tâm truyền, rồi Nhượng trao cho Mã Tổ Nhất, Nhất lại trao cho Bách Trượng Hải6. Ta nhờ ở Bách Trượng mà được tâm pháp đó. Lâu nghe phương này, hâm mộ Đại thừa cũng nhiếu, nên ta xuôi Nam để tìm thiện tri thức. Nay gặp được ngươi, ấy bởi duyên xưa. Hãy lắng nghe ta nói kệ:
1 Bản đời Lê viết "Tánh Thị", thì Thị đây chỉ họ của Cảm Thành. Thành như vậy họ Thị, họ Thị không phải là không biết đến trong lịch sử. Tam quốc chí 63 còn ghi lại một nhân vật của triều Tôn Ngô tên Thị Nghi, rồi chú rằng: Nghi nguyên có họ Thị nhưng sau viết cải thành Thị. Bản đời Nguyễn trước chữ "Tánh Thị", viết thêm hai chữ "vị tường". Đây chắc là một tăng bổ của Phúc Điền, nếu không phải là của Tiêu sơn tự cổ bản.
2 Lịch triều hiến chương loại chí 3 tờ 2a6-7 nói: "Phật tích ở tại huyện Tiên du, lại có tên là núi Tiên du. Xưa có tiều phu Vương Chất vào thấy hai ông già đánh cờ dưới bóng cây tùng, bèn dựa búa đứng xem. Xem xong cuộc cờ, ngó lại thì không thấy ai cả, mà cán búa đã mục bao giờ, nên có tên là thôn Lạn kha". Vậy núi Tiên du cũng có tên là núi Phật tích hay núi Lạn kha. Và núi Lạn kha này, Đại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, nói: "Núi Lạn kha ở tại huyện Tiên du về phía nam cách bốn dặm, trên núi có ao Thú long, trên chóp Thất sơn có bàn cờ đá. Tương truyền xưa có tiều phu Vương Chất vào núi thấy hai ông già đánh cờ dưới bóng cây tùng bèn dựa búa đứng nhìn, đến khi cuộc cờ tan, mà không biết cán đã mục tan. Dưới núi có động tên Vạn phúc, cảnh trí thanh vắng tương truyền đời Lý dựng nên. Sử ký nói Triệu Đà đóng quân ở núi Tiên du đánh với An Dương Vương, tức là nơi đây. Truyền kỳ lục nói Từ Thức cởi áo cừu cho tiên nữ, tức cũng ở núi đây". Tuy nhiên An nam chí lược 1 tờ 22 cũng ghi: "Núi  Tiên du có bàn đá lấp loáng dấu những đường gạch, tương truyền Tiên đánh cờ trên đó, sau bọn con gái đi hái củi giao hợp ở trên đó nên nó lật xuống và vỡ ra". Nay tức núi Lạn kha, huyện Tiên du, Hà Bắc.
3 Kinh Pháp hoa, phẩm Phương tiện: "Chư Phật Thế Tôn chỉ vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở đời". Xem Diệu pháp liên hoa kinh 1 tờ 7a21.
4 Truyền đăng lục 1 tờ 205b26 - 28 nói, khi Phật sắp nhập diệt, Phật nói với đệ tử Ma Ha Ca Diếp rằng: "Ta đem thanh tịnh pháp nhãn. Niết bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng, vi diệu chánh pháp, đem giao cho ngươi, ngươi nên giữ gìn".
5 Cả đoạn từ "Khi Đạt Ma mới đến" cho tới "không nên truyền nữa" ở đây là dẫn y nguyên văn câu nói của Hoằng Nhẫn cho Huệ Năng lúc Nhẫn truyền ca sa cho Năng, mà cả Pháp bảo đàn kinh tờ 394a28 lẫn Truyền đăng lục 3 tờ 223a20 đều có chép. Nguyên văn nó đọc: "Tích Đạt Ma sơ chí, nhãn vị chi tín, cổ truyền y bát dĩ minh đắc pháp. Kim tín tâm di thục, y nãi tranh đoan. Chỉ ư  nhữ thân, bất phục truyền dã". Vì dẫn nguyên văn này, cho nên chữ ông trong đoạn này phải hiểu là chỉ Huệ Năng.
6 Sự truyền thừa nói đến trong đoạn này, ta có thể vẽ thành đồ biểu như sau: Thích Ca Mâu Ni
Ma Ha Ca Diếp ...
Bồ Đề Đạt Ma (? - 528) Huệ Khả (487 - 593)
Tăng Xán (? - 606)
Đạo Tín (580 - 651)
Hoằng Nhẫn (601 - 674)
"Các nơi đồn đãi Dối tự rao truyền Rằng thủy tổ ta Gốc tự Tây thiên
Truyền pháp nhãn tạng Gọi đấy là Thiền
Một hoa năm lá1 Hạt giống liên miên Ngầm hợp mật ngữ
Muôn ngàn có duyên2 Tam tông đều gọi Thanh tịnh bản nhiên Tây Thiên cõi này
Cõi này Tây Thiên Xưa nay nhật nguyệt Xưa nay sơn xuyên
Đụng đâu cũng vướng3 Phật tổ thành oan
Sai một mảy may
Đi mất trăm ngàn Ngươi khéo quan sát Chớ lửa cháu con Dẫu có hỏi ta
Ta vốn Vô Ngôn4
[6b1] Nghe xong lời đó, Sư liền tỉnh ngộ.
Một lần có vị Tăng đến hỏi: "Thế nào là Phật?" Sư đáp: "Khắp hết mọi nơi."
Lại hỏi: "Thế nào là tâm Phật?"
Huệ Năng (638 - 713)
Nam Nhạc Hoài Nhượng (677 - 744) Mã Tổ Đạo Nhất (709 - 788)
Bách Trượng Hoài Hải (720 - 814)
1 Nguyên văn: Nhất hoa khai ngũ diệp. Đạt Ma truyền pháp cho Huệ Khả đọc bài kệ: Ngô bản lai tư độ
Truyền pháp cứu mê tình Nhất hoa khai ngũ diệp Kết quả tự nhiên thành
Xem Truyền đăng lục 3 tờ 219c 17-18
2 Nguyên văn: Tiềm phủ mật ngữ, thiên vạn hữu duyên. Lời phú chúc của Đạt Ma cho Huệ Khả cũng nói: Tiềm phù mật chứng
Thiên vạn hữu dư
Nhữ dương xiển dương Vật khinh vị ngộ.
Xem Truyền đăng lục 3 tờ 219c15.
3 Nguyên văn: Xúc đồ thành trệ. Hoà thượng Bảo Chí, Thập tứ khoa tụng: Ngu nhân bị tha cấm hệ
Trí giả tạo tác giai không Thanh văn xúc đồ vi tuệ
Đại sĩ nhục nhãn viên thông.
Xem Truyền đăng lục 29 tờ 450 c13-14. Xem thêm Bích nham lục 5 tắc 4 (tờ 182a5).
4 Nguyên văn: Ngã bản vô ngôn. Có thể dịch: "Ta vốn không lời". Vô Ngôn có thể chỉ Vô Ngôn Thông, cũng có thể chỉ cái chân lý không thể diễn tả được.
Sư đáp: "Chẳng từng che dấu" Lại thưa: "Người học không hiểu". Sư bảo: "Đi quá xa rồi"
Về sau, Sư không bệnh mà mất. Bấy giờ là năm Canh thìn Đường Hàm Thống thứ nhất (860).

Thế Hệ Thứ Hai (1 người)

3. THIỀN SƯ Thiện Hội (? - 900)
Chùa Định thiền1 làng Siêu loại2. Người Điển lãnh3. Lúc nhỏ xuất gia với sư Tiệm Nguyên chùa Đông lâm4 cùng làng, tự gọi là Tổ Phong.  Sư rảo khắp cõi ngoài, cầu học Thiền chỉ.  Sau gặp Cảm Thành chùa Kiến sơ, bèn xin ở lại hầu hạ hơn mười năm, mà hoàn toàn không mỏi mệt. Một hôm Sư vào thất hỏi: "Trong kinh5 nói: "Đức Thích Ca Như Lai, nhân địa tu hành trải qua ba tăng kỳ kiếp mới được thành Phật"6. Nay Đại đức lại luôn luôn bảo: "Tức tâm tức Phật". Tôi thật chưa hiểu, xin một phen khai thị cho".
[7a1] Thành hỏi: "Trong kinh đó là do ai nói?" Sư thưa: "Há chẳng phải Phật nói sao?"
Thành hỏi: "Nếu là Phật nói thì tại sao trong kinh Văn Thù bảo: "Ta ở đời 49 năm, chưa từng nói một chữ cho ai"7. Vả lại cổ đức nói: "Người tìm văn lấy chứng, thì thêm vướng mắc. Người khổ hạnh cầu Phật thì đều lầm mê. Người lìa tâm cầu Phật là ngoại đạo. Người chấp tâm tức Phật là ma".1

1 Đây chắc là một viết đảo của tên chùa Thiền định tại làng Khương tự huyện Siêu loại ngày xưa, nay là huyện Thuận Thành Hà Bắc. Đại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh viết: " Chùa Diên ứng ở tại xã Khương tự, huyện Siêu loại, có bốn pho tượng Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi và Pháp Điện rất có dấu thiêng. Đời Trần, Mạc Đĩnh Chi dựng chùa một trăm gian, tháp chín tầng, cầu chín nhịp, nền cũ nay hãy còn.  Xét Pháp vân Phật truyện thì thuở Sĩ Nhiếp làm thái thú đóng tại thành Luy lâu, ở núi xanh phía tây thành ấy có một vị Sư tên Khâu Đà La. Có người con gái của Tu Định tên A Man bị Sư phạm đến mà có thai, sinh ra một đứa con gái. Sư đem dấu trong một cây to giữa núi sâu, sau bị gió mưa lớn, cây trốc gốc, nổi trong nước trôi đến bến Luy lâu. Người ta cho là lạ, vớt cây lên bờ rồi đẽo thành bốn pho tượng Phật, rồi cất chùa tên là Thiền định, tức nay là chùa Diên ứng để đặt bốn tượng ấy mà thờ. Về sau mỗi khi cầu mưa đều có linh ứng, nên đặt tên là Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện. Thập di ký của Lý Tế Xuyên nói: "Người Cổ Châu mỗi năm mừng ngày Phật đản đều họp nhau ở chùa Thiền định". Đời Trần Nghệ Tôn có khen ban mỹ hiệu. Sử đời Lê chép Lê Nhân Tôn vào năm Thái Hoà thứ 6 (1448) sai Lê thái úy đến Cổ châu rước tượng Phật Pháp Vân về chùa Báo thiên tại kinh thành để cầu mưa.
2 Tức huyện Siêu loại. Đại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh viết: "Huyện Siêu loại, từ đông sang tây 27 dặm, từ nam xuống bắc 9 dặm, đông đến địa phận huyện Lương tài 7 dặm, tây đến địa phận huyện Gia lâm thuộc phân phủ 6 dặm, bắc đến địa giới huyện Gia bình 3 dặm, thuộc đất Luy lâu đời Hán. Sử ký nói, Sứ quân Lý (Lãng công) chiếm cứ Siêu loại, tức là ở đây. Năm Thiên Huống Bảo Tượng (1068) đổi làng Thổ lôi làm làng Siêu loại (xin ghi vào đây để tiện tham khảo), sau đổi làm huyện. Đời thuộc Minh nó thuộc Bắc giang. Lê Quang Thuận cải thuộc phủ Thuận an và do phủ đó kiêm lý. Triều ta nhân theo. Nó coi 6 tổng 68 xã thôn". Hiện nay là huyện Thuận Thành, tỉnh Hà bắc. Cương mục chính biên 3 tờ 26b6 nói: "Làng Siêu loại ở tại huyện Siêu loại, tỉnh Bắc ninh, nay là xã Thuận quang". Nhưng hiển nhiên xã Thuận quang hiện không có chùa Thiền định. Do đó, làng Siêu loại đời Lý phải coi là tương đương với huyện Siêu loại tức huyện Thuận thành ngày nay.
3 Điển lãnh, tên làng. Truyện này nói Thiện Hội "lúc nhỏ xuất gia với Sư Tiệm Nguyên chùa Đông lâm cùng làng". Vậy chùa Đông lâm ở tại làng Điển lãnh. Bây giờ cứ Cổ châu pháp vân Phật bản hạnh ngữ lục tờ 16b3-4 ta biết một ngôi chùa tên Đông lâm ở Điển lĩnh, và đây là chùa thờ Phật Pháp vân thời Lý Nhân Tôn. Vậy Điển lãnh cũng là Điển linh và ở tại làng Khương tự ngày nay. Ngoài chùa Đông lâm, làng này còn có chùa Phúc Thánh mà Minh Trí (tức Thiền trí) trụ trì.
4 Chùa này, Đại Việt sử lược 2 tờ 10b3 nói dựng vào năm Long Thụy Thái Bình năm thứ hai (1055), nhưng không nói rõ ở đâu. Cứ theo đây thì nó phải ở làng Điển lãnh. Truyện của Thiền sư Minh Trí ở dưới còn ghi thêm một chùa khác nữa cũng thuộc Điển lãnh đó là chùa Phúc thánh. Chùa này theo Toàn thư B4 tờ 6b4 ghi vào năm 1144 Lý Anh Tôn cũng cho dựng một chùa tên Phúc thánh.
5 Giáo, chỉ Phật giáo được truyền thừa bằng kinh điển; các tông phái ngoài Thiền tông.
6 Tham chiếu, Phú pháp tụng nhân duyên truyện 1 tờ 297b6-8: "Khi gặp diệt độ, Phật bảo đại đệ tử Ma Ha Ca Diếp: " Ngươi nay nên biết, trong vô lượng a tăng kỳ kiếp, ta vì chúng sanh, siêng tu khổ hạnh, một lòng chuyên tìm pháp không gì hơn. Nguyện xưa của ta như vậy, nay đã thỏa rồi".
7 Vị tằng thuyết nhất tự. Các thiền gia thường nói nó xuất xứ từ kinh Văn Thù. Hiện có một số kinh mang tên Văn Thù hay Văn Thù là người đối thoại chính. Nhưng không có kinh nào có câu đó. Ý nghĩa tương tự cũng có thể tìm thấy trong kinh Lăng già 3 tờ 498c17-19: "Ngã tùng mỗ dạ đắc tối chánh giác nãi chí mỗ dạ nhập bát Niết bàn, trung gian nãi chí bất thuyết nhất tự."

Sư hỏi: "Như vậy tâm này là cái gì? Cái chẳng phải Phật là cái gì?" Sư tiếp: "Như vậy tâm này là Phật gì?"
Thành đáp: "Xưa có người hỏi Mã Tổ: "Tâm tức là Phật, cái nào là Phật?" Mã Tổ dạy: "Ông nghĩ cái nào không phải là Phật chỉ ra xem?". Người ấy không trả lời. Tổ dạy "Hiểu được khắp nơi có, không hiểu mãi xa sai"2
Chỉ một câu thoại đầu nầy, ngươi lại hiểu chưa?" Nghe lời đó xong, Sư thưa: "Con đã hiểu rồi".
Thành hỏi: "Ngươi hiểu như thế nào?"
Sư thưa: "Khắp cả mọi nơi, không chỗ nào là chẳng phải tâm Phật". Sư liền sụp xuống lạy.
Thành bảo: "Cần [7b1] phải làm thế a?"
Nhân đó đặt tên là Thiện Hội. Về sau, Sư mất tại chùa mình, tức năm Canh thân Đường Quang Hoá thứ 3 (900).

1 Thiền sư Đại Châu Huệ Hải: "Tầm văn thủ chứng giả ích trệ, khổ hạnh cầu Phật giả cu mê, ly tâm cầu Phật dã ngoại đạo, chấp tâm thị Phật dã vi ma". Xem Truyền đăng lục 6 tờ 248a1-3.
2 Thiền sư Đại Châu Huệ Hải: "Hữu hành giả vấn" Tức tâm thị Phật, na cá thị Phật?". Sư vân: "Nhữ nghi na cá bất thị Phật chỉ xuất khán". Vô đối. Sư vân: "Đạt tức biến cảnh thị, bất ngộ vĩnh quai sơ." Xem Truyền đăng lục 6 tờ 247a22-24.

Thế Hệ Thứ Ba (1 người)

4. THIỀN SƯ Vân Phong (? - 956) (Một tên nữa là Chủ Phong)
Chùa Khai quốc1, kinh đô Thăng Long, người Từ Liêm, quận Vĩnh Khương2, họ Nguyễn. Khi mẹ mang thai, bà thường ăn chay, tụng kinh, lúc sinh có ánh sáng lạ chiếu khắp nhà. Cha mẹ thấy điềm lạ, nên cho Sư đi xuất gia. Lớn lên, Sư theo hầu sư Thiện Hội ở Siêu loại làm đệ tử nhập thất3, lặng nắm huyền chỉ, thiền học ngày thêm càng tiến triển. Hội có lần bảo Sư: "Sống chết là việc lớn, cần phải giải quyết ngay".
Sư hỏi: "Khi sống chết đến, làm sao tránh khỏi?"
Hội đáp: "Hãy nắm lấy chỗ không sống chết mà tránh". Sư hỏi: "Thế nào là chỗ không sống chết?"
Hội đáp: "Ngay trong sống chết nắm lấy nó mới được". Sư hỏi: "Làm sao mà hiểu?"
Hội đáp: "Ngươi hãy đi, chiều nay sẽ đến".
Chiều Sư [8a1] lại vào, như đã hẹn, Hội bảo: "Đợi đến sáng mai đông đủ, sẽ chứng minh cho
ngươi".
1 Tây hồ chí, phần về Cổ tích, ghi: "Chùa Khai quốc ở tại bờ sông Nhị hà, phía bắc của hồ (Tây), nay là bến Yên phụ mé ngoài đê. Nguyên Nam Đế nhà Tiền Lý nhân nền cũ của chùa An trì của triều Hồng Bàng, mà dựng lên, nên có tên Khai quốc. Sau danh tăng triều Ngô là Nguyễn Vân Phong người Từ Liêm tu bổ lại. Trong khoảng hai triều Đinh và Lê, Quốc sư Ngô Khuông Việt thường trụ trì tại đó. Nhà Lý trùng tu lại". Đến phần về chùa chiên, Tây hồ chí lại ghi: "Chùa Khai quốc do Nam đế triều Tiền Lý nhân nền cũ chùa An trì, mà dựng lên. Chùa ở bến Yên Phụ trên bờ sông phía ngoài đê thuộc mạn bắc hồ. Khi họ Lý dời đô đến, có sửa sang lại. Những danh tăng như Lý Thảo Đường, Ngô Thông Biện, đến Viên Học và Tịnh Không đều có ở đó. Triều Trần thường hay đến chơi. Trong khoảng Đại Bảo nhà Tiền (phải đọc là Hậu) Lê (1428 - 1789), vua ban tên An quốc. Tiên nhân Trần Tú Uyên sinh ở đó nên có tên vậy. Trong khoảng Hoằng định (1600 - 1618) nhà Hậu Lê, bờ sông bị lở, người trong ấp dời vào bên hồ, nay là chùa Trấn bắc".
Về chùa Trấn bắc này, nó viết tiếp: "Trấn bắc là chùa An quốc dời vào, đổi tên như vậy, nay ở trong phần đất phường An phụ. Bãi Rùa trên hồ nguyên có điện Hàm nguyên của triều Trần việc dựng điện có nói trong phần về cổ tích, nền cũ nó vẫn còn. Năm Lê Hoằng Định thứ 16 (1615) sông lở, chùa gần sụp. Người trong ấp dời vào dựng lại ở đấy. Trong khoảng Chính hoà (1680
- 1704), vua đến chơi, đổi tên chùa là Trấn quốc. Trong khoảng Vĩnh Hựu (1735 - 1739) và Cảnh Hưng (1740 - 1786) có những danh Tăng như Hà Giác Quan, Đỗ Tu Ma, Đỗ Trung Nghĩa đều ở đó. Ba tháp Thông quang, Linh quang và Viên quang cùng tượng của họ hiện còn. Đời Gia Long của triều ta, Bùi phương trượng kế đăng, tháp Tịch quang của Sư này nay vẫn còn. Đầu đời Thiệu Trị, vua tuần du Bắc hà, đổi tên chùa là Trấn Bắc, sắc cho quan tỉnh làm bảng vàng treo, nay còn". Đó là lai lịch chùa Khai quốc của thủ đô Hà nội viết vào khoảng sau năm 1851, năm Nguyễn Đăng Giai được bổ làm kinh lược sứ sáu tỉnh miền Bắc, mà Tây hồ chí nhắc tới. Đây là niên đại chậm nhất xuất hiện trong nó. Về chùa Trấn bắc này, Đại nam nhất thống chí, tỉnh Hà nội, viết:  "Chùa Trấn bắc vốn tên là chùa Trấn quốc, ở bên Hồ Tây, phường Yên phụ, huyện Vĩnh Thuận, xây vào khoảng Lê Hoằng Định (1600 - 1618) đến khoảng Vĩnh Tộ (1619 - 1628) thì trùng tu nên cơ sở trở nên rộng rãi, cảnh trí trở nên đẹp đẽ. Bi ký của Trạng nguyên Nguyễn Xuân Chính viết đang còn. Năm Minh Mạng thứ hai (1821) triều ta vua ban cho chùa 20 lạng bạc. Đến năm Thiệu Trị thứ hai, vua xa giá đến chơi cúng chùa một đồng tiền vàng lớn và 200 quan tiền kẽm, đổi biển chùa làm chùa Trấn Bắc".
2 Kiến văn tiểu lục 6 tờ 2a6 nói: "Vào thời Lý, Trần, đặt trấn Vĩnh Khương, ở Từ liêm". Về huyện Từ liêm, Đại nam nhất thống chí, tỉnh Hà nội, viết: "Huyện Từ liêm, từ đông sang tây rộng 11 dặm, từ bắc xuống nam rộng 14 dặm, đông đến huyện Vĩnh thuận một dặm, tây đến địa giới huyện Đan phụng 10 dặm, nam đến địa giới huyện Thanh trì, phủ Thường tín 5 dặm, bắc đến bờ sông Nhị hà đối diện với địa giới huyện Đông ngạn tỉnh Bắc ninh và huyện An lãng, tỉnh Sơn tây 9 dặm. Đời Hán là đất huyện Luy lâu. Đời Tuỳ đổi làm huyện Giao chỉ. Đường Vũ Đức năm thứ tư (621) cắt ra, đặt tên huyện Từ liêm, rồi đặt Từ châu vì huyện đó có sông Từ và sông Liêm, nên gọi tên đó. Năm thứ 6 (623) đổi làm Nam Từ châu. Năm đầu Trinh Quán (627) bỏ châu đó đi, đem ba huyện sáp nhập vào huyện Giao chỉ thuộc Đô hộ phủ. Sau phục nguyên tên huyện chưa rõ đời nào. Đời thuộc Minh, nó thuộc phủ Giao châu. Đời Lê Quang Thuận nó thuộc thống hạt của phủ Quốc oai tỉnh Sơn tây. Năm đầu Gia Long triều ta nhân theo. Năm Minh Mạng thứ 12 (1832) cải thuộc phủ Hoài đức kiêm lý, gồm 13 tổng, 87 xã thôn sở". Nay là đất huyện Hoài đức, tỉnh Hà tây.
3 Nhập thất đệ tử, chỉ người đệ tử đắc ý nhất. Ý nghĩa rút ra từ câu "Do giả thăng đường hỷ, vị nhập ư thất giả" của chương Tiên tiến trong Luận ngữ. Xem Luận ngữ 11 tờ 3b7.
Sư hoát nhiên tỉnh ngộ, liền sụp lạy. Hội hỏi: "Ngươi thấy đạo lý gì?"
Sư thưa: "Con đã lĩnh hội".
Hội hỏi: "Ngươi hiểu như thế nào?".
Sư đưa nắm tay lên, thưa: "Bất tiếu là cái này đây". Hội liền bảo thôi.
Về sau, Sư mất vào năm Bính thìn Hậu Chu Hiển Đức thứ 3 (956).

Thế Hệ Thứ Tư (2 người, 1 người khuyết)

5. Đại Sư Khuông Việt (933 - 1011) (Trước tên là Chân Lưu)
Chùa Phật Đà, làng Cát lợi, Thường lạc1. Người Cát lợi, họ Ngô, thuộc dòng dõi Ngô Thuận Đế. Sư tướng mạo khôi ngô, tính tình phóng khoáng, nhỏ theo học Nho, lớn lên quy y Phật. Sư cùng bạn học Trụ Trì đến Thiền Sư Vân Phong chùa Khai quốc, thọ giới Cụ túc2. Từ đó, Sư đọc khắp sách Phật, tìm hiểu yếu chỉ của Thiền. Năm bốn mươi tuổi, danh Sư vang tới triều đình. Vua Đinh Tiên Hoàng mời đến, Sư đối đáp hiệp chỉ, bèn phong làm Tăng thống3. Năm Thái Bình thứ hai (917). Vua ban hiệu Khuông Việt đại sư4.
Hoàng đế Lê Đại Hành càng kính trọng Sư hơn, phàm việc quân, việc nước ở triều đình, Sư đều dự vào.
1 Tây hồ chí, phần Đền miếu, nhân nói về Sóc Thiên vương ghi rằng: "Vương là người ấp Sóc sơn làng Thường lạc" rồi chú là "nay huyện Kim anh". Chú như thế có lý hay không? Chúng tôi nghĩ là có lý, vì hai cớ sau. Thứ nhất , trong truyện của Thiền sư Trí Bảo đời thứ 11 dòng Kiến sơ, thì Bảo ở chùa "Thanh tước núi Du hỷ làng Cát lợi hy, Thường lạc". Bây giờ, cứ Đại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, thì "núi Thanh tước ở tại phía tây huyện lỵ Kim anh 14 dặm, giáp giới huyện An lãng, tỉnh Sơn tây". Núi Thanh tước này, chúng tôi nghĩ là núi Du hý mà Khuông Việt đã đến dựng chùa, và chùa Thanh tước mà Trí Bảo ở, rất có thể là do Việt dựng. Sau này, có lẽ vì tên Du hý không được nghiêm trang cho lắm, nên người ta đã lấy chùa Thanh tước, để gọi nó. Chứng cớ thứ hai là cái bia chùa Báo ân tìm thấy tại xã Tháp miếu, huyện Yên lãng, tỉnh Vĩnh phú ngày nay. Trong phần ghi giới hạn ruộng của  chùa này, ta có câu: "Đông cận chí Lợi hy xã vi giới phía đông gần đến xã Lợi hy làm giới hạn. Cứ vào đây thì không cần phải bàn biết ruộng chùa Báo ân lúc đó gồm những gì, ta có thể kết luận rằng, xã Lợi hy ở phía đông huyện Yên lãng và xã Tháp miếu, nếu xã Lợi hy đấy là thuộc làng Cát lợi hy của Thường lạc nói trên. Quận Thường lạc đời Lý như vậy chắc chắn phải bao gồm phần đất của huyện Kim anh ngày nay.
Đại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh viết: "Huyện Kim anh ở về phía tây hơi xiên nam của phủ Thiên phúc 20 dặm, từ đông sang tây rộng 36 dặm, nam xuống bắc rộng 42 dặm, từ huyện lỵ sang phía đông tới địa giới huyện Đông ngạn phủ Từ sơn 22 dặm, phía tây tới địa giới huyện Yên lãng, tỉnh Sơn tây 14 dặm, phía nam tới địa giới huyện Đông ngạn, phủ Từ sơn 9 dặm, phía bắc đến địa giới huyện Phổ an tỉnh Thái nguyên 33 dặm. Đầu đời Lê Quang Thuận đặt gọi là Kim hoa. Năm Thiệu Trị thứ nhất triều ta (1841) cải làm Kim anh, lãnh 9 tổng 33 xã thôn". Huyện Kim anh ngày nay thuộc tỉnh Vĩnh phúc.
2 Thọ giới Cụ túc, tức nhận lấy đầy đủ những kỷ luật chi phối đời sống cá nhân và đời sống tập thể của tổ chức Phật giáo. Thường thường, những kỷ luật ấy gồm số những điều luật, mà tùy theo tôn phái và nam nữ, có thể bắt đầu từ khoảng hai trăm mấy chục giới cho đến 500 giới, dùng cho đời sống cá nhân. Khi một người nào chịu nhận số những điều luật đó, họ được gọi là Tỳ kheo nếu là đàn ông, hay Tỳ kheo ni nếu là đàn bà, và họ là những người đã thọ Cụ túc giới.
3 Đại Việt sử lược 1 tờ 17a9 nói: Năm Thái Bình thứ hai (971) đặt phẩm trật cho quan văn quan võ, thầy tu và đạo sĩ". Toàn thư B1 tờ 3b6-8 cũng ghi: Năm Thái Bình thứ 2 bắt đầu định phẩm cho văn võ Tăng đạo", nhưng còn thêm: "Tăng thống Ngô Chân Lưu được vua ban hiệu là Khuông Việt đại sư". Cứ vào đây thì cũng có thể thấy, dù cả hai bộ sử không ghi rõ năm nào Việt được phong làm Tăng thống, ta có thể kết luận dễ dàng là, Việt phải được phong làm Tăng thống vào chính năm Thái Bình thứ 2 (971), bởi vì Tăng thống là một chức quan do triều đình thiết lập trong liên hệ với tổ chức Phật giáo, mà thời Đinh Tiên Hoàng thì đến năm (971) mới bắt đầu thiết lập những phẩm trật không những cho các quan văn vũ, mà còn cho cả tăng sĩ và đạo sĩ, do đó chức Tăng thống của Việt cũng phải ra đời vào năm đó.
4 Đây là lần đầu tiên chức Tăng thống được nói đến trong lịch sử của nước ta. Về lai lịch chức này tại Trung quốc, Đại tống tăng sử lược quyển trung tờ 243a 19b-12 viết: "Về sự bắt đầu của chức này, thì khi nhà Diêu Tần đặt chế độ ở Quan trung, bèn lập nên Tăng chính để làm người đứng đầu Phật giáo. Khi nhà Ngụy lên ngôi ở đất Bắc, bèn cải làm Tăng thống để thống lãnh sư sãi, tuy nêu một tên mới, nhưng chức vụ vẫn giữ. Trong khoảng Hậu Ngụy Hoằng Thỉ (396-397), Sa môn Pháp quả ở Triệu quận, giới hạnh tinh nghiêm, mở trường thuyết pháp, vua Thái Tổ trưng làm Sa môn thống. Chức quan Sa môn thống bắt đầu từ Pháp Quả vậy. Lại có Sa môn Sư Hiền người Kế tân, vốn dòng vương gia đông du đến đất Lương, rồi lại tới kinh đô, gặp lúc Phật pháp bị bãi bỏ (440 - 451), bèn tạm làm nghề bốc thuốc để giữ đạo không đổi. Đến ngày Phật pháp trùng hưng lại làm Samôn cùng với năm người bạn. Vua Ngụy (Văn Thành Đế 452 - 465) tự mình cắt tóc cho Sư, xuống chiếu cho Hiền làm Tăng thống. Chức quan Tăng thống bắt đầu từ Sư Hiền vậy. Đến khi nhà Tùy trùng hưng Phật giáo, thay đổi hoàn toàn phong tục, mời Tăng Mãnh ở chùa Đại hưng thiện làm Tuỳ quốc đại thống. Lại có Sa di Hiệu Thánh, trước ở Lạc dương giữ chức Quốc tăng đồ sau mời vào Nghiệp, đổi làm Quốc thống, tức Tăng thống của một nước vậy. Nhà Tống nhân theo chế độ nhà Đường, bỏ Tăng thống mà lập Tăng lục".
Ở Trung quốc như vậy, chức Tăng thống bắt đầu với Sư Hiền khoảng từ năm 452 cho đến đời Đường thì bỏ chức đó mà lập nên
chức Tăng lục. ở nước ta Đinh Tiên Hoàng đã thiết trí chức Tăng thống, nhưng đồng thời cũng đặt luôn chức Tăng lục, vì năm 971 này, sau khi ban Khuông Việt đại sư cho Tăng thống Ngô Chân Lưu, thì cùng lúc đã cử Trương Ma Ni làm Tăng lục.
 Một lần Sư đi chơi núi Vệ linh1 ở quận Bình lỗ2, thích phong cảnh vắng đẹp, bèn muốn lập am để ở. Đêm xuống nằm mộng thấy một vị thần, mình mặc áo giáp vàng, tay trái cầm thương vàng, tay phải đỡ bảo tháp, hơn mười người theo hầu, hình tướng dễ sợ, đến nói rằng: "Ta là Tỳ Sa Môn thiên vương3, những người theo ta là Dạ xoa. Thiên đế có sắc sai ta đến nước này để giữ gìn biên giới, khiến cho Phật pháp thịnh hành. Ta có duyên với ngươi, nên đến đây báo cho ngươi biết". Sư kinh hãi thức dậy, nghe trong núi có tiếng kêu la ầm ĩ, lòng rất lấy làm lạ. Đến sáng Sư vào núi, thấy một cây to, cao khoảng mười trượng, cành lá sum sê, bên trên lại có mây xanh bao phủ, nhân đó sai thợ đến chặt. Đem về, khắc tượng như đã thấy trong mộng, để thờ.
Năm Thiên Phúc thứ 1 (981), binh Tống đến quấy nước ta. Vua biết rõ việc đó, liền sai Sư đến bàn thờ cầu đảo. Quân giặc kinh hãi, rút về giữ sông Hữu ninh4, lại thấy sóng gió nổi lên, giao long nhảy nhót, giặc bèn [9a1] tan vỡ1.
1 Lịch triều hiến chương loại chí 3 tờ 4b2-3 viết: "Núi Vệ linh ở tổng Kim hoa bàn cứ giữa một số xã, trước núi có một ngọn hình giống cái lư hương, đầy núi có hàng ngàn cây tùng xanh biếc, quang cảnh u tịch. Tương truyền (Phù Đổng) Thiên Vương phá giặc Ân rồi, đến đó, cưỡi ngựa sắt bay lên trời mà đi mất, để lại một chiếc áo treo ở cây si. Nay bốn xã xung quanh núi đều phụng thờ. Miếu ở dưới chân núi, rất có tiếng thiêng".
Đại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, viết: "Núi Sóc ở xã Vệ linh huyện Kim anh, cũng gọi là núi Vệ linh. Địa dư chí của Nguyễn Trãi nói, sông Thiên đức và Vệ linh Kinh bắc. Vệ linh tức là núi đó. Tương truyền đó là chỗ Phù Đổng Vương đánh ngựa bay lên trời, nay có miếu thờ. Thế núi quanh co, phía trước có một ngọn giống như hình cái lư hương, cách bên bờ núi, cây cối xanh tốt, quang cảnh u tịch.
Núi Vệ linh như vậy cũng có tên núi Sóc ở tại huyện Kim anh tỉnh Vĩnh phú ngày nay. Truyện Thiền sư Trường Nguyên thuộc đời thứ 10 dòng Kiến sơ của Thiền uyển tập anh nói Nguyên ở tại chùa Sóc thiên vương núi Vệ linh chợ Bình lỗ. Chùa này rất có thể là chùa do Khuông Việt dựng nên.
2 Cái tên Bình lỗ xuất hiện xưa nhất trong Toàn thư B4 tờ 2b4-8 trong trận đánh với nghĩa quân Thân Lợi vào tháng 5 năm 1141. Nhưng phải đợi đến câu nói của Trần Quốc Tuấn rằng: "Đời Đinh, Lê dùng được người tài giỏi, Nam phương mới mạnh, Bắc phương mệt yếu trên dưới cùng một chí, dân tâm không rã rời, đắp thành Bình lỗ, mà phá quân Tống", mà Cương mục chính biên 8 tờ 36b2-4 cũng ghi lại, rồi chú về thành Bình lỗ như : "Thành Bình lỗ, Cựu sử không ghi, chỉ Địa dư chí của Nguyễn Trãi chú  rằng triều Lý đào sông Bình lỗ để tiện việc đi lại ở Thái nguyên". Nhưng khảo Địa dư chí của Nguyễn Trãi, thì lời chú vừa dẫn không phải do Nguyễn Trãi hay những người thời ông viết ra. Ngược lại, nó do Nguyễn Thư Hiên của thế kỷ thứ 18 chép lại từ chính sử. Hiên đậu tiến sĩ năm 1721. Khảo chính sử tức Toàn thư B3 tờ 12a6 thì trong thời nhà Lý không bao giờ có việc đào một con sông nào tên Bình lỗ hết. Ngược lại chính vào thời Lê mới xảy ra việc ấy. Toàn thư B11 tờ 77a và Cương mục chính biên 18 tờ 14b 4-8 viết: "Năm Thái Hòa thứ 7 (1449) sai tư khấu Lê Khắc Phục, đốc lĩnh Bách tác chư cục, Tứ sương thiên khai vệ quân và binh dân trấn Thái nguyên đào sông Bình lỗ từ Lãnh canh đến cầu Phù lỗ thông với Bình than để tiện việc đi lại ở trấn Thái nguyên". Như vậy, chắc Nguyễn Thư Hiên đã cứ vào đoạn này để nói tới chuyện nhà Lý đào sông Bình lỗ, bởi vì về một mặt Toàn thư B3 tờ 12a-6 có ghi là vào "năm Quảng Hựu thứ 5 (1089) đào sông Lãnh kênh, và mặt khác đoạn vừa dẫn lại bảo đào sông Bình lỗ bắt đầu từ Lãnh canh. Nói khác đi, theo Hiên và cứ vào hai đoạn đó thì sông Lãnh kênh cũng là sông Bình lỗ. Vậy sông Bình lỗ là sông nào? Cứ vào đoạn Toàn thư vừa dẫn, ta phải đào sông Bình lỗ từ Lãnh canh tới cầu Phù lỗ thông với Bình than. Thế thì cầu Phù lỗ ở đâu? Ngày nay tại huyện Kim anh, tỉnh Vĩnh Phú ta có một làng tên Phù lỗ. Đại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, không những xác nhận có làng tên Phù lỗ, mà còn nói làng này có chợ, gọi là chợ Phù lỗ. Nó ở huyện Kim anh. Làng này hiện có một con sông chạy ngang qua, đó là sông Cá lồ. Vậy sông Bình lỗ chắc là sông Cá lồ này, chứ không gì khác. Quận Bình lỗ từ đó phải gồm phần đất con sông này chảy qua, mà ta có thể tưởng tượng là rơi vào khoảng huyện Kim anh ngày nay.
3 Theo vũ trụ quan huyền thoại Phật giáo tiểu thừa thì vũ trụ chia làm ba cõi, đó là cõi có tham dục, cõi có hình tướng, cõi không hình tướng. Cõi có tham dục hay dục giới lấy núi Tu di làm trung tâm, và quả đất chúng ta ở về phía nam ngọn núi ấy, tên là Nam diêm phù đề. Núi đó có bốn tầng. Tầng thứ nhất cho đến tầng thứ ba là chỗ ở của những loài dạ xoa. Tầng thứ tư là chỗ ở của bốn vị vua trời hay Tứ Thiên Vương ở tại bốn phương của tầng ấy, mà về phía bắc thì do vị vua tên Tỳ Sa môn Thiên Vương, tức phiên âm của chữ vaisravâna, cũng gọi là Đa Văn Thiên Vương. Cuối cùng trên chóp đỉnh tu di là cõi trời Tam Thập Tam Thiên hay cũng gọi là trời Đao lợi hay Đâu suất, nơi ngự trị của Đế Thích. Đế Thích như vậy theo huyền thoại này cai quản cõi Dục giới. Xem Trường a hàm 20 tờ 39c.
Những tên thần nói đến trong truyện đây là dẫn từ thần thoại vừa kể.
4 Đại Việt sử lược 1 tờ 19ab-9: "Năm Thiên phúc thứ nhất (981) mùa xuân tháng ba, Hầu Nhân Bảo đem quân đến Lãng Sơn, Trần Khâm Tộ đến Tây kết, Lưu Trừng đến sông Bạch Đằng, vua tự làm tướng đem quân chống lại, đóng cọc ngăn sông. Quân Tống rút lui về giữ sông Ninh, Vua sai quân đánh giả hàng, để dụ Nhân Bảo lên phía Bắc. Nhân Bảo thua, Bảo bị bắt và chém. Khâm Tộ
v.v ... nghe Nhân Bảo thua, rút lui". Toàn thư B1 tờ 14 a1-7 viết: "Năm Thiên Phúc thứ hai (981) mùa xuân tháng ba Hầu Nhân Bảo và Tôn Toàn Hưng đến Lạng sơn. Trần Khâm Tộ đến Tây kết, Lưu Trừng đến sông Bạch đằng. Vua tự làm tướng đem quân chống lại, sai quân sĩ đóng cọc ngăn sông. Quân Tống rút lui, lại đến sông Chi lăng. Vua sai quân sĩ giả hàng để dụ Nhân Bảo, nhân thế bắt được Bảo, chém đi. Khâm Tộ v.v... nghe quân thủy bại, rút quân về. Vua đem các tướng đuổi đánh. Quân Khâm Tộ thua lớn, chết hơn phân nửa, thây rải đầy đồng, bắt tướng chúng là Quách Quân Biện và Triệu Phụng Huân đem về Hoa lư".

Năm Thiên Phúc thứ 7 (986), người Tống là Nguyễn Giác sang sứ nước ta. Bấy giờ pháp sư Đỗ Thuận cũng có tiếng tăm lừng lẫy. Vua sai Pháp sư cải trang làm người lái đò để nghinh đón Giác ở Giang khúc. Giác thấy Pháp sư giỏi bàn văn chương, bèn đem thơ tặng, có câu: "Ngoài trời lại có trời soi rạng". Vua đưa hỏi Sư. Sư thưa rằng: "Đây nó muốn tôn kính Bệ hạ cùng với chúa nó không khác ". Khi Giác trở về, Sư làm một bài thơ nhan đề Vương lang qui 2 để tin đưa. Bài từ như sau:

Cương mục chính biên I tờ 16b5 - 18a1 cũng chép chuyện này. Về sông Chi lăng, nó chú rằng: "Chi lăng thuộc Ôn châu phủ Trường Khánh là ở đầu địa giới tỉnh Lạng sơn. Sông Chi lăng là sông của xã Chi lăng".

Xã Chi lăng hiện nay ở về phía nam huyện Chi lăng tỉnh Lạng sơn, có dòng sông Thương chảy ngang qua nó ở khúc ải Chi lăng sát dưới chân dãy núi đá vôi có tên Cai kinh, rồi xuôi dòng xuống sông Lục đầu. Vậy sông Chi lăng của Toàn thư tức là sông Thương ngày nay. Còn sông Ninh của Đại Việt sử lược là sông nào? Con sông này chắc là sông Chi ninh, vì Toàn thư B1 tờ 30a8-9 ghi chuyện Lê Ngọa Triều cho cột người nơi mạn thuyền, rồi cho người chèo qua chèo lại để cho cá sấu ăn, ở tại sông Ninh, nhưng Đại Việt sử lược 1 tờ 21b4 lại ghi sự việc đó xảy ra ở sông Chi Ninh. Vậy nó cũng là sông Hữu ninh, mà Thiền uyển tập anh ở đây nói tới. Chữ chi và chữ hữu tự dạng rất giống nhau, và chữ hữu của bản in Thiền uyển tập anh ngày nay là một bản khắc lộn của chữ chi bởi vì cứ vào đoạn trích của nó trong Việt điện u linh tập tờ 42 thì nó ghi là Chi giang. Như vậy, sông Ninh là sông Chi ninh, và cứ những dẫn chứng trên thì nó phải là sông Chi lăng. Sông Chi ninh có lẽ đến cuối đời Lê vì kỵ húy của Lê Trang Tôn( (1533 - 1548) là Ninh, nên đã sửa lại là Chi lăng, nhân ở cạnh đấy đã có ải Chi lăng và xã Chi lăng.
1 So sánh đoạn này với đoạn trích của nó nhan đề Sóc thiên vương sự tích ký do Nguyễn Văn Chất (1422 - ?) thêm vào trong Việt điện u linh tập tờ 39, mà sau này một "nho sĩ họ Đoàn" đã chép lại vào quyển thứ ba của Lĩnh nam trích quái truyện tờ 115 vì truyền bản cũ chứa nhiều chữ sai, nên tôi xin phiên âm ra đây để tiện việc đối chiếu:
"Án Thiền uyển tập thơ, tích Lê Đại Hành thời, hữu Khuông Việt thái sư bất sỹ, thường nhàn du Bình lỗ quận Vệ linh sơn, ái kỳ cảnh trí u nhã, dục sáng am cư chi. Nhất nhật du lãm sơn am, giả mỵ kiến, thân phi kim giáp, thủ chấp kim thương, tùng giả sổ thiên nhân tự xưng thị Sóc Thiên Vương, quản lĩnh Dạ Xoa thần linh, phụng Thượng đế mạng, bảo thử thổ hộ phương dân, dự quân hữu duyên, cố tương kiến sĩ. Thái sư kinh giác, văn sơn trung hát thanh, nhân nhập thâm sơn, kiến nhất đại mộc phồn mậu, thụy khí khả ái, nải tức kỳ xứ lập miếu, phạt thủ đại mộc tố thần tượng, như mộng trung sở kiến giả.

Thiên Phúc niên gian, Tống binh nhập khấu. Đại Hành hoàng đế tố văn kỳ sự đảo. Thời Tống binh trú Tây kết thôn nội, lưỡng quân vị tiếp. Hốt kiến nhất nhân, thân trường trượng dư, phi phát nộ mục, tùng giang trung xuất, ba đào dũng kích. Tống binh đại cụ nhi thối. Tống tướng quân Quách Quỳ nãi ban Sư bắc hồi. Đại Hành mạng tăng lập từ vũ dĩ tạ chi".

Đoạn trích trong Việt điện u linh tập, trừ hai câu cuối cùng mà Nguyễn Văn Chất hay những người sao chép về sau đã thêm vào một cách sai lầm, tương đối trùng hợp với bản văn của Thiền uyển tập anh. Bản trích của nho sĩ họ Đoàn trong Lĩnh nam trích quái, dù dựa vào Nguyễn Văn Chất, đã có nhiều xuất nhập văn cú, đặc biệt là đoạn về rút quân về giữa Chi ninh giang của tướng Tống. Nó bảo: "Quân Tống bỗng thấy một người xuất hiện giữa sóng gió, cao hơn mười trượng, tóc tai dựng ngược lên, trừng mắt mà nhìn, ánh sáng thần chói lọi. Quân Tống thấy mà khiếp sợ, rút về giữa Chi (nó viết là kỳ) giang".
2 Ngọc lang quy, mà bản đời Nguyễn tờ 5b10 gọi Vương lang quy, là tên Khuông Việt đặt cho bài từ, chứ đúng ra nó phải có tên Nguyễn lang quy, bởi vì thể tài, âm luật và nhạc điệu, của nó hoàn toàn đồng nhất với Nguyễn lang quy . Nguyễn lang quy chỉ sự từ biệt Đào Nguyên để trở về trần của Lưu Thần và Nguyễn Triệu. Chính nó dựa tích đó mà có tên, và từ đấy nó thường là một thứ nhạc từ tin đưa. Theo từ luật 4 tờ 19b2-5 thì âm luật của loại từ Nguyễn lang quy thế này:
x        b        x        t        t        b        b
x        b        x        t        b                
x        b        x        t        t        b        b
          x        b        x        t        b       
b        t        t        t        b        b       
x        b        x        t        b                
x        b        x        t        t        b        b
x        b        x        t        b                

trong b là vần bằng, t là vần trắc và x là có thể là bằng hay trắc tùy ý. Như vậy bài từ theo điệu Nguyễn lang quy đúng là có 4 vế, mỗi vế hai câu, mà câu đầu có 7 chữ và sau 5 chữ. Nhưng riêng câu đầu của vế thứ 3 thì chỉ có 6 chữ, nên tổng cộng số chữ của bài từ loại đấy tất có cả thảy 47 chữ. Bây giờ cứ vào âm luật vừa nêu, ta thử xét lại bài từ Ngọc lang quy đó các bản chép lại của Khuông Việt. Bản in đời Lê, đời Nguyễn của Thiền uyển tập anh đều chép:

Tường quang phong hảo cẩm phàm trương Thần tiên phục đế hương
Thiên trùng vạn lý thiệp thương lương Cữu thiên quy lộ trường
Nhân tình thảm thiết đối ly trường Phan luyến tinh tinh lang
Nguyện tương thâm ý vị Nam cường Phân minh báo ngã hoàng.

Trời lành gió thuận, gấm buồm dương Thần tiên về để hương
Muôn trùng vạn dặm biển mênh mang Trời xanh xa dặm trường
Tình ray rứt chén lên đường Bịn rịn sứ tinh lang
Nguyện đem thâm ý vì Nam bang Phân minh tâu Thượng hoàng1.


Toàn thư B1 tờ 18b5 - chép:
Tường quang phong hảo cẩm phàm trương Diêu vọng thần tiên phục đế vương
Vạn trùng sơn thủy thiệp thương lương Cữu thiên quy lộ trường
Tình thảm thiết đối ly trường Phan luyến sứ tinh lang
Nguyện tương thâm ý vị Nam cường Phân minh tấu ngã hoàng.

Việt sử tiêu án 1 tờ 70a3-6 chép giống y như Toàn thư, chỉ trừ câu thứ nhất nó chép thiếu chữ quang và câu thứ bảy nó đối hai chữ nam cương thành biên phương. So hai bản chép Thiền uyển tập anh và Toàn thư với bản âm luật nêu trên thì hiển nhiên bản chép của Thiền uyển tập anh tỏ ra dư một chữ, trong khi bản Toàn thư dư đến hai chữ. Xét ra, câu thứ năm của bản Thiền uyển tập anh có đến bảy chữ, trong khi theo luật thì chỉ có sáu chữ thôi, như vậy dư một chữ. Bây giờ, so câu đó với câu tương đương trong Toàn thư thì quả nó dư một chữ, và chữ đó là chữ nhân. Do đó, sau khi loại bỏ chữ nhân ra khỏi nó và chúng tôi nghĩ chữ ấy là một diễn tự từ chữ trường đi trước nó mà ra, bản chép Thiền uyển tập anh tỏ ra hoàn toàn phù hợp với bản âm luật trên. Bản chép Toàn thư , ngược lại, đi thêm vào câu thứ hai 2 chữ "diêu vọng", và như vậy câu đấy có 7 chữ. Chúng tôi hiện chưa truy ra đâu là nguyên do của sự thêm hai chữ đó. Song cứ vào bản âm luật trên thì chúng dĩ nhiên là không phù hợp, và không phù hợp ngay cả với bản chép Thiền uyển tập anh. Vì thế, chúng tôi đề nghị nên lấy bản Thiền uyển tập anh, sau khi đã loại bỏ chữ nhân trong câu 5, làm chuẩn cho việc nghiên cứu lịch sử từ và nhạc điệu từ Việt Nam.

Có thể nói bài Ngọc lang quy đây là bài từ xưa nhất thuộc loại Nguyễn lang quy hiện còn, không những của nước ta, mà còn của Trung quốc nữa, bởi vì những bài từ Nguyễn lang quy xưa nhất hiện còn ghi trong các sách từ như Tống lục thập danh gia từ, Tuyệt diêu hảo từ thiêm, Từ tổng v.v... là câu Aâu Dương Tu và Tô Thức, Hoàng Đình Kiên và Yên Cơ Đạo. Trong Giáo phường ký tờ 5b7, Tồi Lịnh Khâm có ghi Nguyễn lang mê giữa những tên khúc không lưu hành trong giáp phường đời Đường. Chúng tôi nghi Nguyễn lang mê đấy là tiền thân của Nguyễn lang quy. Về nhạc điệu bạch thạch đạo nhân ca khúc 2 tờ 2a8 liệt nó vào loại lịnh, nhưng đã không ghi lại nhạc bản của nó. Cho nên, ngày nay ta khó biết đích xác nó phải hát như thế nào, dầu có sách nói nó thuộc chính khúc cung nam lữ v.v ...
1 Toàn thư B tờ 18 a5-b8 viết: "Năm Đinh hợi Thiên Phúc thứ 8 (987) Tống lại sai Lý Giác đến san phong. Bấy giờ, vua sai Pháp sư tên Thuận giả làm người chèo đò, đi đón. Giác rất giỏi văn chương. Lúc ấy, gặp khi có hai con ngỗng bơi trên mặt sông, Giác vui ngâm:
Ngỗng ngỗng đôi con ngỗng Ngoảnh mặt ngó ven trời.
Pháp sư đang lúc cầm chèo, cũng tiếp vần đọc: Lông trắng phơi dòng biếc
Sóng xanh chân hồng bơi.
Giác càng lấy làm lạ. Đến khi về tới sứ quán, Giác làm một bài thơ gởi cho Sư rằng : May gặp thời minh giúp việc vua
Một mình hai đợi sứ Giao châu
Đông đô đôi biệt dòng lưu luyến
Nam việt muôn trùng ngóng chửa bưa Ngựa đạp mây mù qua sóng đá
Xe rời núi biếc thả buồm đưa Ngoài trời còn có trời soi rạng Sóng lặng khe đầm trăn ngắm thu.
Thuận đem bài thơ dâng cho vua. Vua mời Sư Ngô Khuông Việt đến xem. Không Việt nói: " Bài thơ này có ý tôn trọng Bệ hạ cùng với chúa nó không khác". Vua khen ý đó, tặng thưởng càng nhiều. Giác giã từ trở về, vua xuống chiếu cho Khuông Việt viết một khúc từ đến tin đưa. Bài từ thế này:
"Trời thanh gió thuận buồm gấm trương Xa ngắm thần tiên về đế hương
Muôn trùng sông núi vượt đại dương Xa xôi hút dặm đường
Lòng lưu luyến ngỏ ly trường

Sau Sư lấy cớ già yếu, xin từ về núi Du hí ở quận mình1, lập chùa trụ trì; người học tìm tới đông đảo. Một hôm, đệ tử nhập thất là Đa Bảo hỏi: "Thế nào là chung thủy của sự học đạo".
Sư đáp: "Thủy chung không vật, diệu hư không Hiểu được chân hư, thể tự đồng".
Bảo tiếp: "Làm sao đảm bảo được?".
Sư đáp: "Không có chỗ cho nguời xuống tay".
[9b1] Bảo nói: "Hòa thượng nói xong rồi". Sư lại hỏi: "Ngươi hiểu gì".
Bảo bèn hét lên.
Ngày 15 tháng hai năm Thuận Thiên thứ 2 (1011) triều Lý, khi sắp cáo tịch, Sư dạy Đa Bảo kệ rằng:
 Trong cây vốn có lửa Có lửa, lủa mới bừng Nếu bảo cây không lửa Cọ xát do đâu bùng.
Nói kệ xong, sư ngồi kiết già mà mất, thọ 82 tuổi {Có nơi nói thọ 79 tuổi}2.
Cầm tay Sư hỏi han
Nguyện đem thâm ý vì Nam bang Phân minh tâu thượng hoàng".
Giác vái mà trở về.
Xem thêm Việt sử tiêu án 1 tờ 69b37a6 có chép đủ và y hệt những bài thơ ở đây. Cương mục chính biên 1 tờ 22b7-23a2 của năm
Đinh hợi Thiên Phúc thứ 7 không ghi việc Lý Giác đến san phong cho Lê Đại Hành. Đại Việt sử lược cũng thế.
1 Núi Du hý của quận Thường lạc này chắc là núi Thanh tước của huyện Kim anh, tỉnh Vĩnh phú ngày nay. Truyện của Thiền sư Trí Bảo thuộc đời thứ 11 dòng Kiến sơ nói Bảo ở tại chùa "Thanh tước, tại núi Du hý, làng Cát lợi hy, Thường lạc". Như vậy, ngay thời Lý đã có chùa Thanh tước tại núi Du hý. Nó có lẽ do Khuông Việt dựng lên. Đất quận Thường lạc ngày nay gồm một phần nếu không là toàn bộ vào huyện Kim anh ngày nay. Đại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh nói: "Núi Thanh tước ở phía Tây huyện Kim anh cách huyện lỵ 14 dặm, giáp giới với huyện Yên lãng, tỉnh Sơn tây". Cái tên Du hý có vẻ không được trang nghiêm lắm, nên có người đã đổi nó thành Thanh tước, như tên nó ngày nay.
2 Cứ tiểu sử này thì Khuông Việt được phong làm Tăng thống lúc 40 tuổi. Nhưng theo Đại Việt sử lược1 tờ 17a10 cũng như Toàn thư B1 tờ 3b7-8 thì đến năm Thái Bình thứ hai, nghĩa là vào năm 971 mới có việc định phẩm trật của văn võ và Tăng đạo. Cho nên, chức Tăng thống của Việt không thể phong trước năm 971.
Vậy, Việt phải sinh vào năm 930. Bấy giờ, nếu Việt mất vào năm Thuận Thiên thứ hai nhà Lý, tức năm 1011, như thế thì tuổi thọ của Việt, tính theo tuổi Việt nam, tất phải 82 tuổi. Cả ba bản in triều Lê và Nguyễn đều ghi thọ 52 tuổi, thọ ngũ thập hữu nhị.
Chúng tôi nghĩ chữ "ngũ" chắc chắn là một viết sai của chữ "bát", một điều rất dễ xảy ra, do thế, đề nghị sửa "thọ ngũ thập hữu nhị" thành "thọ bát thập hữu nhị" và dịch là "thọ 82 tuổi".

Thế Hệ Thứ Năm (2 người, khuyết 1)

6.       THIỀN SƯ Đa Bảo
Chùa Kiến sơ, làng Phù đổng, Tiên du. Không biết người đâu, và cũng không biết họ gì. Khi Đại sư KhuôngViệt giảng dạy tại chùa Khai quốc, Sư đến tham học. Đại sư khen là người gặp việc thì chóng hiểu, xử sự cẩn thận, nên riêng cho nhập thất.
Sau khi đắc pháp, Sư chỉ một mình một bát, tiêu dao ngoại vật. Sau được chùa Kiến sơ, bèn đến ở đó. Lý Thái Tổ lúc chưa lên ngôi, Sư thấy tướng mạo đẹp đẽ khác thường, bèn bảo: "Chú này cốt tướng khác phàm, ngày kia làm vua ắt là nó đây". Vua cả kinh, thưa: "Hiện nay [10a1] đức Thánh thượng anh minh còn đó, trong ngoài cả nước yên vui, thầy ta sao lại nói lời phải tội tru di này?".
Sư bảo: "Mệnh trời đã định, người dù muốn trốn cũng chẳng được nào. Giả như lời này mà
đúng, thì mong chớ bỏ nhau".
Khi Vua lên ngôi, nhiều lần triệu Sư vào cung, hỏi bàn yếu chỉ của Thiền và lễ Sư rất hậu. Cả đến công việc chính trị của triều đình, Sư đều dự phần giải quyết. Vua xuống chiếu trùng tu chùa Sư1. Sau không biết Sư tịch ở đâu.
1 Về việc Đa Bảo đến ở chùa Kiến sơ và có những liên lạc với Lý Công Uẩn, truyện Xung thiên dũng liệt chiếu ứng uy tín đại vương của Việt điện u linh tập tờ 205 viết: "Xét Báo cực truyện và Thế truyền nói, Vương thần thổ địa chùa Kiến sơ giáng sanh. Xưa Thiền sư Chí Thành (nghi là Cảm Thành) ở chùa Kiến sơ tại làng Phù đổng, lập nhà thờ thần thổ địa ở mé bên phải của chùa làm chỗ thanh tịnh để niệm Phật tụng kinh. Ngày tháng soi mòn, phần lớn đã làm mất dấu cũ của nó, nên Sa môn thiền sư không do đâu mà biết được. Thổ nhân ưa thờ quỷ, đốt hương cầu đảo, gọi bậy là dâm từ. Đến khi Thiền sư Đa Bảo trùng tu chùa, cho chỗ thờ là dâm từ, muốn phá hủy đi.
Một hôm, tại cây cổ thụ của đền thờ thần hiện một bài thơ đề kệ rằng: Phật pháp ai hay hộ
Giữ đức tại Kỳ viên
Nếu không ta gây giống Sớm theo xứ khác thiên Chớ chở Kim cang bộ Dấu kín Na la diên
Đầy trời người như bụi Chùa Phật thành oan khiên.
Ngày khác, một bài kệ khác lại hiện ra ở đó, thần ứng ra tám câu viết: Phép Phật từ bi lắm
Oai quang khắp đại thiên Muôn thần đều hướng hóa Ba cõi thảy khắp truyền Thầy ta ra hiệu lịnh
Tà qủy ai dám trên
Nguyện thường theo họ giới Lớn nhỏ giữ Kỳ viên.
Sư lấy làm lạ, bèn lại thiết đàn trì giới cho thần, cúng dùng đồ chay lạt. Lý Thái Tổ lúc còn tiềm long, biết Đa Bảo đức hạnh cao thượng, cùng làm đàn việt cho Bảo. Khi đã nhận ngôi, tự thân đến chơi chùa Bảo. Thiền sư nghênh giá đi qua bên chùa. Sư lên tiếng hỏi: "Phật tử, ngươi sao không nhanh nhẹn đến chúc mừng đức tân thiên tử?". Thần ứng thanh, hiện ra nơi da cây bốn câu rằng:
Đức kế càn khôn lớn Oai thanh yên tám miền Cõi âm nhờ ân huệ
Nhuần thấm phong Xung thiên.
Thái Tổ thấy đọc, rất biết ý của thần, ban hiệu là Xung thiên thần vương. Bài thơ tự nhiên biến mất. Vua lấy làm lạ, sai thợ tạc tượng của thần, dung nghi hùng vĩ, và tướng hầu tám pho. Sơn thếp xong rồi, lại hiện ở dưới đại thụ một bài thơ bốn câu:
Một bát nước công đức Tùy duyên hóa thế gian
Sáng choang còn chiếu đuốc Bóng mất trời lên non.

Thế Hệ Thứ Sáu (3 người, 1 người khuyết l ục)

7. TRƯỞNG LÃO Định Hương (? - 1075)
Chùa Cảm ứng, Ba sơn1, phủ Thiên đức2, Sư họ Lã, người Châu minh3, gia thế dòng tịnh hạnh. Thuở nhỏ thọ giáo với Thiền sư Đa Bảo tại chùa Kiến sơ. Trải qua 24 năm, môn đồ của Bảo có hơn trăm Sư đem bài kệ trình vua. Thái Tổ không hiểu nó nói gì. Về sau nhà Lý tám đời thì truyền ngôi cho nhà Trần. Chữ Bát cùng với chữ Bát giống nhau. Một tám tức như tám. Huệ Tôn tên là Sám, đấy gọi là "trời lên non". Nó thần diệu như vậy đó.
Truyện Xung thiên chiêu ứng thần vương của Lĩnh nam trích quái truyện cũng trùng trường hợp như vừa dẫn, trừ một số những sai khác về văn cú và điểm xuất phát, mà theo nó thì chuyện này rút ra từ Cổ pháp ký và Kỷ đức ký. Tuy nhiên cứ Toàn thư  B4 tờ 34a4-b1 trong lời bàn của Ngô Sĩ Liên về việc nhà Lý mất ngôi thì nhân vật chính của chuyện không phải là Đa Bảo, mà là Vạn Hạnh. Liên viết: Thế truyền Lý Thái Tổ lúc mới được thiên hạ, xa giá trở về Cổ pháp đến thăm chùa làng Phù đổng. Có thần nhân đề thơ trên cột chùa rằng:
Một bát nước công đức Tùy duyên hóa thế gian Sáng choang còn soi đuốc Bóng mất trời lên cao.
Sư Vạn Hạnh đem bài thơ dâng lên. Lý Thái Tổ xem, nói rằng: "Việc thần nhân không thể hiểu được". Người đời truyền tụng nó, mà không biết nó nói gì. Đến khi họ Lýmất ngôi, mới biết bài thơ quả đúng. Bởi vì Huệ Tôn trở lên đến Thái Tổ có tám đời, mà Huệ Tôn tên Sám, tức trời lên non thì bóng mất". Như thế, nhân vật chính của cả truyện trên đúng ra phải là Vạn Hạnh chứ không phải Đa Bảo. Và cứ vào đấy, thì những bài thơ trên cũng phải là của Vạn Hạnh. Chúng thực tế có thứ chất thơ phong thủy và sấm truyền của những bài thơ hiện còn lưu truyền mệnh danh là của Vạn Hạnh. Việt sử tiêu án 1 tờ 128a6-9 cũng ghi lại chuyện Lý Thái Tổ gặp bài thơ vừa nói, nhưng không ghi ai dâng lên.
1 Đây nói Hương ở chùa Cảm ứng tại Ba sơn, nhưng truyện của Viên Chiếu dưới nói: " Chiếu đến học với Định Hương ở núi Ba tiêu". Vậy, Ba sơn tức cũng Ba tiêu sơn. Có lẽ vì sự sai khác vừa thấy, bản in đời Nguyễn thay vì có Ba sơn, nó đã viết Tiêu sơn. Nhưng cứ sử thì Ba sơn và Tiêu sơn cũng là một. Vạn Hạnh sau khi dựa vào sấm văn để tuyên bố là "nhà Lê đương mất, nhà Lý đương hưng", thì "Lý Công Uẩn sợ lời nói đó tiết lộ, sai anh mình đem Vạn Hạnh đi mất". Đại Việt sử lược 2 tờ 1b3 nói "dấu Vạn Hạnh ở Ba sơn". Song Toàn thư B1 tờ 32a6 thì nói "dấu Vạn Hạnh ở Tiêu sơn". Thì rõ ràng Tiêu sơn của thời Lê trở đi là Ba sơn của thời Lý Trần.
Lịch triều hiến chương loại chí 3 tờ 2a5-6 nói: "Tiêu sơn ở tại xã Tiêu sơn huyện Yên phong, trên có chùa Trường liêu, triều Lý dựng theo chỗ tu trì của tể tướng Thiền sư Vạn Hạnh. Lý Thái Tổ đầu thai ở đó". Đại nam nhất thống chí 38, tỉnh Bắc ninh viết: "Tiêu sơn ở phía tây nam huyện lỵ Yên phong 14 dặm. Núi có chùa Thiên tâm và chùa Trường liêu. Mẹ Lý Thái Tổ có lần đến chơi chùa Tiêu sơn, cùng giao hợp với thần nhân mà sinh ra vua. Quốc sư nhà Lý là Sư Vạn Hạnh có bài sấm cây bông gạo truyền ra từ nơi đây". Núi Tiêu sơn như vậy ở tại xã Tiêu sơn, huyện Yên phong tỉnh Hà bắc ngày nay.
Còn về chùa Cảm ứng, Lịch triều hiến chương loại chí cũng như Đại nam nhất thống chí không thấy nói tới. Bộ trước kê ra một chùa tên Trường liêu cho núi Tiêu sơn. Bộ sau thêm chùa Thiên tâm. Vậy chùa nào là chùa Cảm ứng? Về chùa Trường liêu, Đại nam nhất thống chí  39, tỉnh Bắc ninh viết: "Chùa Lục tổ tức là chùa Trường liêu. Sử ký nói, Sư Vạn Hạnh trú trì chùa đó, sau mất, Lý Thái Tổ tự thân đến điếu viếng, dựng đàn siêu độ, cấp dân làm tự đinh, quanh năm cúng thờ". Nhưng cứ truyện Thường Chiếu tờ 37b7 thì chùa Lục tổ ở tại làng Dịch bảng phủ Thiên đức, tức làng Đình bảng, huyện Từ sơn hiện nay. Vậy chùa Trường liêu dứt khoát không phải là chùa Lục tổ. Cứ Cương mục chính biên 2 tờ 7b1 thì chùa Trường liêu tức chùa Tiêu sơn. Còn chùa Thiên tâm, Việt sử tiêu án 1 tờ 77a9-b1 viết: "Nguyên trước, viện Cảm tuyển, chùa Thiên tâm, châu Cổ pháp có con chó sinh con sắc trắng có lông đen vằn vện có hai chữ "Thiên tử", người ta bàn cho rằng đó là điềm năm Tuất sẽ sinh ra một người đại quý.
Vua quả sinh vào năm Giáp Tuất Thái Bình thứ 5" Chuyện này Đại Việt sử lược 2 tờ 2a5-7 nói xảy ra ở "chùa Ứng Thiên, châu Cổ pháp", còn Toàn thư B2 tờ 1b6-2a1 thì ghi nói tại "viện Cảm tuyển chùa Ứng thiên tâm, châu Cổ pháp". Ngoài ra Toàn thư B2 tờ 1a3 bảo mẹ Lý Công Uẩn thường đến chơi chùa Tiêu sơn, cùng giao hợp với thần nhân mà sinh Uẩn. Việt sử tiêu án 1 tờ 77b6-8 lại dẫn Ngoại truyện, rồi viết: "Mẹ vua năm tuổi hai mươi, nghèo khổ không chồng, đến nương tựa vị Sa môn già chùa Ứng thiện, vị Sa môn già cho làm bếp, bèn giả ngủ, lửa tắt, vị Sa môn bỗng chạm đến, kinh hoảng đứng dậy, trong lòng biết mình có thai mà sinh ra vua". Cứ vào những dẫn chứng đó thì chùa Tiêu sơn cũng là chùa Ứng thiên , cũng là chùa Ứng thiên tâm, cũng là chùa Thiên tâm. Từ đấy ta cũng có thể nói chùa Cảm ứng là nó bởi những sai khác tên gọi vừa thấy đồng bởi chùa Ứng thiên tâm. Lại có viện Cảm tuyển, mà chính truyện của Vạn Hạnh của Thiền uyển tập anh viết thành Hàm toại, nên rất có thể tự nguyên ủy người ta thường gọi tắt tên chùa là Cảm ứng.
2 Đại Việt sử lược 2 tờ 2b10 và Toàn thư B2 tờ 3a2 nói năm 1010 Lý Thái Tổ "đổi Cổ pháp làm Thiên Đức". Cương mục chính biên 2 tờ 6b3-6 chú: "Cổ pháp tên châu, từ Đinh về trước là châu Cổ lãm, nhà Lê đổi là Cổ pháp, nhà Lý nâng lên làm phủ Thiên đức, đời Trần cải làm huyện Đông ngạn, nhà Hậu Lê nhân theo, nay là huyện Đông ngạn, tỉnh Bắc ninh ấy vậy". Đại nam nhất thống chí 38, tỉnh Bắc ninh cũng chép vậy. Nhưng rõ ràng phủ Thiên đức đời Lý không chỉ gồm có huyện Đông ngạn, bởi vì Thiền uyển tập anh ở đấy nói Ba sơn ở phủ Thiên đức, nhưng Ba sơn ngày nay và thời Đại nam nhất thống chí ở tại huyện Yên phong. Vậy tối thiểu phủ Thiên đức gồm ngoài huyện Đông ngạn ra, còn có huyện Yên phong, và huyện Tiên du nữa.
3 Châu minh là quê hương của bốn vị Thiền sư khác ngoài Định Hương, đấy là Bảo Tính, Minh Tâm, Cứu Chỉ, và Tín Học. Nó cũng là nơi có chùa Thông thánh, ở đấy Tức Lự đã sống và dạy dỗ học trò. Theo truyện của Tức Lự thì nó thuộc về phủ Thiên đức. người, chỉ có Sư cùng với Quốc Bảo Hòa được chọn làm thủ lãnh, nhưng Sư thấu rõ nhất tôn chỉ của Bảo.
Một hôm Sư hỏi Bảo: "Làm thế nào để thấy được chân tâm?" Bảo dạy: "Chính ngươi tự phát hiện".
Sư bỗng nhiên hiểu được yếu chỉ, liền thưa: "Hết thảy đều như thế, chứ có riêng gì tôi". Bảo hỏi: "Ngươi đã hiểu chưa?".
Sư đáp: "Khi đệ tử hiểu rồi, cũng giống như lúc chưa hiểu"1. Bảo dạy: "Nên đem tâm đó mà quyết chắc"
Sư bưng tai, đứng quay lưng lại. Bảo liền quát "Đi". Sư sụp lạy.
Bảo dạy: "Từ nay ngươi hãy như một kẻ đui điếc trong việc tiếp người".
Đô tướng thành hoàng sứ là Nguyễn Tuân khâm phục tài đức của Sư, nên mời về chùa đó ở.
Người học vân tập, dạy dỗ dắt dìu, công Sư không ít.
Ngày mồng 3 tháng 3 năm Canh dần2 Sùng Hưng Đại Bảo thứ 2 (1050) triều Lý Thái Tôn, Sư nhuốm bệnh, họp chúng để từ biệt, đọc kệ:
"Bản lai không xứ sở3 Xứ sở ấy chân tông
Chân tông huyền như vậy Huyền hữu tức không không"4.
Nói kệ xong, Sư lặng lẽ viên tịch.
Truyện của Cứu Chỉ nói Chỉ người Phù đàm, Chu minh. Đại Việt lịch triều đăng khoa lục  có ghi một làng tên Phù đàm quê hương của Quách Tán tiến sĩ khoa 1478 và nói Phù đàm thuộc huyện Đông ngạn, tức huyện Từ sơn, tỉnh Hà bắc hiện nay. Cứ vào đồng nhất này và cứ vào việc Chu minh rất có thể bao gồm cả địa phận làng Phù đàm và vài làng kế cận huyện Từ sơn tỉnh Hà bắc hiện nay.
1 Nguyên văn: Đệ tử liễu thời hoàn đồng vị liễu. Thiền sư Qui Sơn Linh Hựu: "Cho nên Tổ sư nói: Biết rồi cũng giống như chưa ngộ". Xem Truyền đăng lục 29 tờ 264b25. Xem thêm Long Nha hoà thượng, Cư độn tụng:
Ngộ liu hoàn đồng vị ngộ nhân Vô tâm thắng bại tự an thần Tùng tiền cổ đức xưng bần đạo
Hướng thử môn trung hữu kỷ nhân.
Xem Truyền đăng lục 29 tờ 453 a1-2.
2 Nguyên văn: "Sùng Hưng Đại Bảo tam niên Canh dần. Nhưng cứ Đại Việt sử lược 2 tờ 9a2 và Toàn thư B2 tờ 37b1 thì Canh dần phải nhằm năm Sùng Hưng Đại Bảo thứ hai, chứ không phải thứ ba. Chữ tam chắc chắn là một viết lộn của chữ nhị, chỉ cần thêm một nét thôi. Chúng tôi dịch theo đề nghị sửa sai này.
3 Đồng An Sát thiền sư. Thập huyền đàm: Diệu thể bản lai vô xứ sở
Thông thân hà cánh hữu tung do.
Xem Truyền đăng lục 29 tờ 455b9-10.
4 Về ý và từ, rút ra từ định nghĩa Không Không trong Đại trí độ luận. "Những gì là Không Không? Trả lời: Tất cả mọi vật đều Không, cái Không ấy cũng Không nên gọi là Không Không"
(Hà đẳng vi Không Không? Nhất thiết Pháp Không thời Không diệc Không, thị danh Không Không).
Đại trí độ luận còn định nghĩa thêm: "Không Không là đem Không mà phá vỡ nội Không, ngoại Không phá ba Không đó gọi là Không Không" (3) Xem Đại trí độ luận 31 tờ 287c24-27

8. THIỀN SƯ Thiền Lão1
Chùa Trùng minh, núi Thiên phúc2, Tiên du. Ban đầu Sư đến tham bái Thiền sư Đa Bảo tại chùa Kiến sơ, lãnh được tâm yếu rồi đến trác tích tại núi ấy3. Gió thiền càng nổi, kẻ học hàng nghìn, đông đảo làm cho tòng lâm thịnh vượng.
Vào khoảng Thông Thụy (1034 - 1038), Lý Thái Tôn có lần đến [11a1] chùa và hỏi Sư rằng: "Hòa thượng ở núi này đến nay được bao lâu?".
Sư thưa:      "Chỉ biết tháng ngày này Ai hay xuân thu trước"4
Vua hỏi: "Hàng ngày làm việc gì?"
Sư đáp:                 "Trúc biết hoa vàng đâu cảnh ngoại5 Trăng trong mây bạc hiện toàn chân"
Vua hỏi: "Có ý chỉ gì?"
Sư đáp: "Lắm lời không ích về sau" Vua hoát nhiên như có sở đắc.
Khi sắp sai sứ rước Sư về triều làm cố vấn, thì Sư đã viên tịch trước đó6. Vua rất buồn tiếc, làm thơ thương khóc, sai trung sứ ban nhiều lễ hậu, lập đàn trà tỳ, thu linh cốt, xây tháp ở cửa núi, lại sửa sang rộng rãi chùa Sư, đặt môn đồ lo việc hương hỏa.
1 Thiền Lão đúng ra phải có tên là Thiền Nguyệt. Xem chú thích (2) truyện Lý Thái Tôn. Nhưng có lẽ vì tôn trọng Nguyệt nên chỉ xưng Thiền Lão, rồi sau thành quen. Nhưng cũng có thể tránh húy Nguyệt của Thiện Đạo quốc mẫu.
2 Núi Thiên phúc này là một ngọn của núi Tiên du, bởi vì truyện của Đạo Huệ ở tờ 23b5 nói Huệ ở "chùa Quang minh, núi Thiên phúc, Tiên du", nhưng truyện của Cứu Chỉ ở tờ 16b7 nói Chỉ "vào ở chùa Quang minh núi Tiên du". Thì núi Thiên phúc là núi Tiên du, tức núi Lạn kha hay núi Phật tích ở xã Phật tích huyện Tiên du, tỉnh Hà bắc hiện nay. Có lẽ, cái tên Thiên phúc bắt đầu xuất hiện lúc Lý Thái Tôn xây viện Thiên phúc ở núi Tiên du, mà Toàn thư B2 tờ 29b7 ghi lại vào năm 1041.
3 Từ sơn đây chắc là Tư sơn khắc sai vì tự dạng giống nhau. Hiện tượng này xảy ra nhiều lần trong bản in này. Ngoài ra cứ truyện của Thiền Lão thì Lão không ở nơi nào khác "chùa Trùng minh núi Thiên phúc, Tiên du".
4 Tham chiếu câu trả lời của Toàn Phó trong Truyền đăng lục. Có người hỏi Phó: " Hoà thượng tuổi nhiều ít?" Phó trả lời: "Thỉ kiến khứ niên cửu nguyệt cửu
Như kim hựu kiến thu điệp hoàng" (Mới thấy năm qua chín tháng chín Mà nay lại gặp lá thu vàng.)
Xem Truyền đăng lục 12 tờ 297b20-21
5 Thúy trúc hoàng hoa. Cách ngữ của thiền nhằm chỉ chân lý không nằm đâu xa, nó nằm ngay trước mặt, ý nghĩa rút từ câu nói của Thiền sư Đại Châu Huệ Hải: "Trúc biếc xanh xanh, đều là pháp thân, hoa vàng dờn dợn, chẳng gì là chẳng phải Bát nhã". Xem Truyền đăng lục 6 tờ 247c15.
6 Cứ vào đây thì hình như Thiền Lão phải viên tịch dưới thời Lý Thái Tôn. Nhưng truyện của Quảng Trí ở tờ 18a9-10 nói: "Năm đầu Chương Thánh Gia Khánh (1059) Sư bỏ đời đến tham học với Thiền Lão ở Tiên du", thì rõ ràng Lão không thể viên tịch dưới triều Lý Thái Tôn được, bởi vì Chương Thánh Gia Khánh là niên hiệu của Lý Thánh Tôn. Lý Thái Tôn mất năm 1054.

Thế Hệ Thứ Bảy (7 người, khuyết 1)

9. THIỀN SƯ Viên Chiếu (999 - 1090)
Chùa Cát tường, kinh đô Thăng Long, Sư họ Mai, tên Trực, người Long đàm1 Phúc đường2, là con người anh bà Linh Cảm thái hậu nhà Lý3. Thuở nhỏ thông minh hiếu học, nghe đồn vị trưởng lão tại chùa Mật nghiêm4 quận mình xem tướng giỏi, nên đến xem thử cho biết. Vị trưởng lão nhìn kỹ [11a1] rồi bảo: "Ngươi có duyên với Phật pháp, nếu xuất gia sẽ là người trong hàng thiện Bồ tát, bằng không thì việc thọ yểu khó bảo toàn". Sư cảm ngộ, giã từ cha mẹ, đến núi Ba tiêu theo học với Định Hương, hầu hạ nhiều năm, nghiên cứu Thiền học, Sư thường trì kinh Viên giác, rõ thấy được phép Tam quán5. Một tối trong lúc thiền định, Sư thấy Bồ tát Văn Thù cầm dao mổ bụng, rửa ruột rồi dùng thuốc rịt lại. Từ ấy,
1 Tức huyện Thanh trì. Lịch triều hiến chương loại chí 2 tờ 28b2 nói: "Huyện Thanh trì, xưa gọi là Thanh đàm" Đại nam nhất thống chí, tỉnh Hà nội, nói: "Huyện Thanh trì xưa là châu Long đàm thuộc phủ Giao châu, Lê Quang Thuận đổi lại cho lệ thuộc vào phủ thống hạt. Đời Trung Hưng tránh tên húy mới đổi là Thanh trì". Phương đình địa dư chí 5 nói: "Huyện Thanh trì xưa là Long đàm nhà Minh đổi làm Thanh đàm thuộc châu Phúc yên, Lê Trung Hưng đổi làm Thanh trì, lại đổi chữ Thanh ba chấm thủy thành chữ Thanh không có ba chấm thủy, lĩnh mười hai tổng, 100 xã thôn sở". Hoàng minh thực lục ghi: "Ngày mồng một Quí tị tháng sáu năm Vĩnh lạc thứ năm (1407) đổi huyện Long đàm xưa ra làm Thanh đàm". Lịch triều hiến chương loại chí 2 tờ 28b2 viết: "Huyện Thanh trì xưa gọi là Thanh đàm, đời Lê Trung Hưng vì tránh húy của Thế tôn (là Đàm) cải làm Thanh trì". Nay là huyện Thanh trì, tỉnh Hà đông.
2 Phúc đường vì bao gồm Long đàm, tức phải gồm huyện Thanh trì và một số huyện khác, mà trong đó rất có thể nhất là huyện Thượng phúc ngày nay. Cái tên Phúc đường cho đến thời Trần vẫn còn dùng. Thầy của Tuệ Trung Thượng Sỹ là Tiêu Diêu, quê quán ở Phúc đường. Thượng sĩ ngữ lục tờ 31b7-32a3 còn chép một bài thơ của Tuệ Trung tả cảnh vật Phúc đường, nhan đề Phúc đường cảnh vật:
Phúc đường cảnh trí đã sum vầy Nhờ ngọn gió thiền mát mẻ vây Lơ thơ dậu đổ măng gầy mọc Vắng vẻ sân sâu thông dại đầy
Chưa nhằm lúc thới người hiền hiện Hãy thích rừng sâu thú quý đây Sớm muộn trời già khai Phật nhật Mận đào khắp ngõ ánh xuân say.
3 Tức là mẹ của Lý Thánh Tôn. Đại Việt sử lược 2 tờ 11a1 viết: "Long Thụy Thái Bình năm thứ nhất (1054) tôn mẹ Mai Thị làm Linh Cảm thái hậu". Hoàng Xuân Hãn trong Lý Thường Kiệt (Viện Đại học Vạn Hạnh xuất bản, 1966, tr 422 và 432) vì không nhận ra điều vừa dẫn tưởng lầm Linh Cảm thái hậu là Linh Nhân thái hậu, nên đã hai lần viết "Sư Viên Chiếu cháu Thái hậu Linh Nhân" hay "Sư Viên Chiếu là con anh thái hậu _ Lan". Thực ra, Đại Việt sử lược là cuốn sử duy nhất nói thái hậu Linh Cảm là mẹ của Lý Thánh Tôn. Các cuốn sử khác như Toàn thư B2 tờ 39b1 và Cương mục chính biên 3 tờ 21a1 thì ghi: "Tôn mẹ Mai Thị làm Kim Thiên hoàng thái hậu". Đại Việt sử lược là một cuốn sử đời Trần ghi là thái hậu Linh Cảm, thì không biết Toàn thư đã lấy cái tên Kim Thiên hoàng thái hậu từ đâu?
4 Truyện của Nguyện Học ở tờ 35b7 có nói Học "nhỏ theo học với Viên Trí chùa Mật nghiêm". Nhưng Viên Trí chùa Mật nghiêm này tất không phải là vị trưởng lão chùa Mật nghiêm ở đây, bởi vì Nguyện Học mất năm 1175 thì dù Học có sống tới 95 tuổi đi nữa, Viên Trí bấy giờ mới là người cùng thế hệ với Viên Chiếu mà thôi. Chiếu sinh năm 999 và mất năm 1090. Do thế, vị trưởng lão chùa Mật nghiêm ở đây rất có thể là thầy của Viên Trí.
5 Tức ba phép tu thiền định kê ra trong kinh Viên giác nhằm đạt được sự giác ngộ hoàn toàn, đây là samatha (Phạn: samatha), tam ma bạt đề (samàpatti) và thiền na (dhyàna). Samatha nguyên nghĩa nó là dừng nghỉ, nghĩa là, làm cho tâm hồn tán loạn, dừng nghỉ lại một chỗ. Do sự thanh trừng các ý niệm sai lầm và hiểu được sự vọng động của các thức, "trí tuệ thanh tịnh phát sinh,  thân tâm khách trần theo đấy mà mất hẳn, từ đó bên trong cảm thấy tĩnh tịch nhẹ nhàng. Do sự tịch tĩnh đó nên tâm của các Như Lai ở trong mười phương thế giới được hiện rõ như bóng ở trong gương. Phương tiện đó gọi là sa ma tha". Samàpatti nguyên nghĩa là để vào một nơi, tập trung vào một chỗ, nghĩa là "đem cái tâm giác ngộ thanh tịnh, hiểu biết rằng tâm tính và căn trần  đều do huyễn hóa mà dấy lên các huyễn để trừ huyễn, biến ra các huyễn để phơi bày mọi thứ huyễn, nên bên trong phát ra lòng đại bi nhẹ nhàng. Phương tiện đó gọi là tam ma bát đề". Dhyàna nguyên nghĩa là suy nghĩ, chiêm nghiệm nghĩa là, "biết rõ rằng thân tâm đều trở ngại vì không biết sự giác ngộ sáng suốt là không dựa vào các thứ ngăn che, vĩnh viên vượt qua được thế giới có ngăn che và không ngăn che, phiền não và niết bàn cũng không còn vướng mắc nhau, thì niềm nhẹ nhàng tịch diệt phát ra bên trong phương tiện đó gọi là thiền na". Xem Đại phương quảng viên giác tu đa la liễu nghĩa kinh ĐKT 842 tờ 917c14 tờ 918a4.
những gì đã học trong lòng, trở thành rõ ràng như từng biết1, sâu rõ ngôn ngữ tam muội2, thuyết giảng lưu loát. Sau đó, Sư đến bên tả kinh thành dựng chùa để ở. Người học qui tụ đông đảo.
Có tăng hỏi:         "Phật với Thánh, nghĩa ấy thế nào?" Sư đáp:      "Cúc trùng dương dưới dậu Oanh thục khí đầu cành3"
Lại hỏi: "Cảm ơn, nhưng người học này không hiểu xin thầy dạy lại". Sư đáp:   "Ngày thì ác vàng dọi
Đêm đến thỏ bạc soi"
Tăng lại hỏi:         "Chân ý Sư đã rõ,
Máy huyền ấy thế nào?"
Sư đáp:                 "Bưng chậu nước đầy không cẩn thận Một phen vấp ngã hối mà chi?"
Vị tăng nói: "Cảm ơn thầy".
Sư chỉ nói:  "Sóng sông chìm chớ tát
[12a1]         Gieo mình tự đắm thôi".
Lại hỏi: "Thiếu Thất, Ma kiệt rất huyền, từ xưa đến nay, ai nối nhau làm chủ?"4. Sư đáp: "Sáng tối tượng trời do quạ thỏ
Lõm lồi hình đất nọ núi sông"5
Lại hỏi: "Thế nào là căn nguyên đại đạo thẳng đường đi?"
1 An nam chí nguyên 3 tờ 209 dẫn đoạn này: "Thiền sư Viên Chiếu là vị sư huyện Thanh Đàm thông minh hiếu học, nghiên cứu Thiền tôn. Một hôm nằm mộng thấy Bồ tát Văn Thù đem dao đến mổ bụng súc ruột dùng thuốc rịt lại. Từ đó những gì đã học trong lòng trở thành rõ ràng như đã từng biết. Về sau tôn phong của Sư nổi lớn". Xem thêm Đạo giáo nguyyên lưu quyển thượng tờ 16a4-5.
2 Ngôn ngữ tam muội này, tức là một tên khác của Phân biệt chư pháp cú tam muội, một trong 108 thứ tam muội do Đại phẩm bát nhã dẫn ra, mà Đại trí độ luận giải thích thế này: "Chứng được thứ tam muội đó thì có thể phân biệt hết ngôn ngữ văn tự của tất cả các pháp, giảng thuyết cho chúng sanh không vướng mắc trở ngại". Xem Đại trí độ luận 17 tờ 400c 28-29.
3 An nam chí lược 15 tờ 147 dẫn đoạn này, rồi bảo là từ Tham đồ hiển quyết. Nó viết: " Thiền sư Mai Viên Chiếu thường viết Tham đồ hiển quyết, đại khái nói rằng: "Một hôm đang ngồi trước nhà, bỗng có một vị sư đến hỏi: "Phật với Thánh, nghĩa ấy thế nào?" Chiếu đáp:          "Cúc trùng dương dứơi dậu
Oanh thục khí đầu cành. Sách ấy phần lớn gồm những lời như vậy".
Cứ vào đâu nói "Sách ấy phần lớn gồm những thứ đó" của Lê Tắc, ta có thể kết luận rằng tất cả cơ duyên thoại ngữ trong truyện này đều rút ra từ Tham đồ hiển quyết, nếu không là toàn bộ Tham đồ hiển quyết, mà các tác giả Thiền uyển tập anh đã chép vào đây. Chúng tôi nghĩ rằng, nó rất có thể là toàn bộ, bởi vì so với phần Đối cơ của Thượng sĩ ngữ lục, số thoại ngữ dẫn ra đây lên tới đến 180 câu hỏi đáp, trong khi của Thượng sĩ ngữ lục chỉ tới 96 câu mà thôi, thì cũng đủ thấy nó đã đầy đủ tới mức nào . Dầu một phần hay toàn bộ, ta có thể nói rằng Tham đồ hiển quyết là tác phẩm văn học và tư tưởng xưa nhất của đời Lý được bảo tồn dưới một dạng hình trọn vẹn.
4 Bồ Đề Đạt Ma chín năm bích quán trên Thiếu thất. Phật Thích Ca 20 ngày trầm mặc tại Ma Kiệt đà.  ở đây muốn nói đến mật chỉ của Phật và Tổ. Lâm Khê Kỉnh Thoát hoà thượng, nhập đạo thiển thâm tụng:
Thiếu thất dữ Ma kiệt Đệ đại xưng dương hử Ngã kim vấn nhữ đồ Thủy tác tương lai chủ.
Xem Truyền đăng lục 29 tờ 454 a21.
5 Càn tượng và Khôn duy là những từ lấy ở Chu Dịch, thiên Hệ từ thượng:"Trời cao đất thấp, định ra càn và khôn. ở trên trời thành nên tượng, ở dưới đất tạo nên hình, biến hóa mà hiện ra". Xem Chu dịch 7 tờ 1a3-7. Những từ đấy dùng để chỉ trời đất. Từ Nhạc Hoài là để chỉ núi sông. Nhạc tức là Ngũ nhạc, tức năm ngọn núi lớn của Trung quốc, đây tượng trưng cho tất cả núi. Hoài tức sông Hoài, đây chỉ cho tất cả sông.
Sư đáp: "Gió lộng bờ cao hay cỏ cứng
Nhà tan nước mất biết trung lương"1.
Lại hỏi: "Tất cả chúng sanh từ đâu mà đến? Trăm năm sau sẽ về đâu?" Sư đáp: "Rùa đui chui vách đá
Trạch què bò núi cao"
Lại hỏi: "Xanh xanh trúc biếc thảy chân như2. Thế nào là dụng của chân như?". Sư đáp:          "Tặng anh ngàn dặm xa
Cười mang trà một bình"3
Tăng thưa:  " Đến suông có ích gì là sao?"4. Sư đáp:    "Ai biết đi Đông a
Nửa đường đầu đã bạc"5
Lại hỏi: "Đã hiên một cửa vắng Thong thả gõ ai hay"6
Sư đáp:                 "Kim cốc đìu hiu hoa cỏ rối Mà nay hôm sớm thả trâu dê".
Tăng thưa:  "Vì sao như vậy?"
Sư đáp:                 "Giàu sang cùng kiêu thái Lầu chợ khiến tan hoang"7
Lại hỏi: "Long nữ [12b1] dâng châu thành Phật quả,
Đàn na bố thí phước ra sao?"8.
1 Ý và tứ rút từ hai câu của Đường Thái Tôn tặng cho Tiêu Vũ: Tật phong tri kỉnh thảo
Bản đảng thức thành thần.
Xem Tân đường thơ 101 tờ 2a9-10. Trong Quốc âm thi tập Nguyễn Trãi dịch: "Khi bão mới hay là cỏ cứng
Thuở nghèo thì biết có tôi lành."
2 Có người hỏi Thiền sư Viên Chiếu: "Một tạng tròn sáng, thì thế là gì?" Chiếu đáp: "Nhọc người xa đến". Hỏi: "Thế thì chẳng phải là một tạng tròn sáng sao?". Chiếu đáp: "Xin uống một chén trà". Xem Truyền đăng lục 20 tờ 367c13-15.
3 Có người hỏi Thiền sư Án Xương: "Khi không chịu bàn bạc thì sao?" Xương đáp: "Thì đến mà làm gì?". Hỏi "Đến cũng không bàn bạc". Đáp: "Đến suông cũng ích gì?" (Không lai hà ích). Xem Truyền đăng lục 20 tờ 363b 15-17.
4 Có người hỏi Thiền sư Đại Châu Huệ Hải: Pháp thân và Bát nhã là gì? Hải đáp: "Xanh xanh trúc bíêc đều là pháp thân, dờn dợn hoa vàng chẳng cái nào là chẳng Bát nhã". Xem Truyền đăng lục 6 tờ 247c15.
5 Đông a, nơi ông già hẹn gặp Trương Lương sau 13 năm. Trương Lương là bầy tôi nước Hàn. Khi Tần Thỉ Hoàng thống nhất Trung quốc, Lương muốn báo thù cho nước, nhưng không có cách nào thành công. Môt hôm gặp một ông già trên cầu. Ông đánh rơi chiếc dép xuống cầu và bảo Lương đi lượm. Lương dầu tức giận, vẫn làm theo lời ông. Sau ông trao bí quyết cho Lương và dặn Lương sau 13 năm đến gặp ông ở Cốc thành. Bùi Ân chua Cốc thành ở huyện Đông a. Xem Sử ký 55 tờ 2b2-4.
6 Dã Hiên, tên một vị Thiền sư . Những tài liệu Phật giáo và Thiền tôn Trung quốc không ghi một ai có tên như vậy cả. Trong Thượng sĩ hành trạng do Trần Nhân Tôn viết và in ở Thượng sĩ ngữ lục tờ 40a4-5, Trần Nhân Tôn nói rằng trong khi để tang mẹ mình thì có yêu cầu Tuệ Trung "giảng hai lục Tuyết đậu và Dã hiên". Tuyết đậu lục là của Thiền sư Trùng Hiển ((980-1052). Còn Dã hiên lục của ai, thì nay ta không rõ. Rất có thể là tác phẩm của một Thiền sư Việt nam. Nếu Dã Hiên là một Thiền sư Việt nam thì ông phải sống trước thời Viên Chíêu, tức trước năm 999.
7 Kim Cốc, nơi Thạch Sùng, người giàu nhất đời Tấn, xây dựng lâu đài cực kỳ tráng lệ xa hoa và là nơi ái thiếp của Sùng là Lục Châu tự tử, hiện ở phía tây bắc huyện Lạc dương, tỉnh Hà nam. Xem Tấn thư 3 tờ 10b7-13a4.
8 Long nữ hiến châu. Điển một người con gái dâng châu cho Phật trên hội Linh sơn và thành Phật ngay sau đó. Xem Diệu pháp liên hoa kinh 12, phẩm Đề Bà Đạt Đa tờ 3a-b. Xem thêm Hoà thượng Đan Hà, Ngoạn châu ngâm:
Long nữ Linh sơn thân hiến Phật Bần nhi y hạ kỷ ta đà.
Sư đáp:                 "Trong trăng quế muôn thuở Rậm, thưa vẫn một vành".
Tăng thưa:  "Nhọc mà vô ích là sao?"1.
Sư đáp:                 "Như gương treo trên trời Nhân gian soi khắp nơi".2
Lại hỏi: "Qua sông phải dùng bè
Đến bến hết cần ghe
Khi không qua sông thì sao?"3.
Sư đáp:                 "Ao khô cá lên cạn Sống cả vạn năm xuân".
Tăng thưa:  "Thế nào là "Theo dòng mới đạt được Diệu lý?"4. Sư đáp:     "Nghe nói bạn Kinh Kha
Một đi không trở lại"5.
Lại hỏi: "Lẫn lộn quặng vàng cùng một chất Xin thầy phương tiện luyện tinh ròng"6.
Sư đáp:                 "Không phải khách Tề quân Sao biết biển cá lớn"7.
Xem Truyền đăng lục 30 tờ 463b25.
Đàn na, phiên âm chữ phạn dàna, nghĩa là bố thí.
1 Lao nhi vô công. Chữ lấy từ thiên Hiếu Hạnh lãm của Lã thị xuân thu: "Cầu chi kỳ bản, kinh tuần nhi đắc, cầu chi kỳ mạt, lao nhi vô công." (Tìm cái gốc nó thì qua tuần tất có, tìm cái ngọn nó thì nhọc mà vô ích). Xem Lã thị xuân thu 14 tờ 3a8, thành ngữ Lao nhi vô công cũng thường dùng trong Phật giáo để chỉ việc tu Thiền mà không kiêm tu Tịnh độ.
2 Có người hỏi Thiền sư Aâu chương:
"Thế nào là:                   Một vầng trăng treo Muôn nước đều thấy"
Chương đáp: "Khó nói với kẻ nhắm mắt". Xem Truyền đăng lục 20 tờ 367b 23-24.
3 Thí dụ chiếc thuyền, rút ra từ kinh Kim cang:
"Nên biết rằng Ta nói pháp cũng như thí dụ về chiếc thuyền". Xem Kim cang kinh tờ 749b10. Vĩnh Gia Huyền Giác, Quán tâm thập môn:
Nhiên độ hải ưng thượng thuyền Phi thuyền hà năng độ?
(Nhưng qua biển phải lên thuyền, Không thuyền sao qua được?)
Xem Truyền đăng lục 5 tờ 242a18-19
4 T ùy lưu thỉ hoạch diệu lý. Từ và ý rút ra từ bài kệ truyền pháp của Ma Noa La, tổ thiền thứ 22 ở Ấn độ: Tâm tuỳ vạn cảnh chuyển
Chuyển xứ thật năng u Tùy lưu nhận đắc tánh Vô hỷ phục vô ưu
Xem Truyền đăng lục 2 tờ 214a 24-25
5 Điển Kinh Kha đi sứ Tần trong Chiến quốc sách. Thái tử nước Yên và khách khứa tin Kinh Kha đến sông Dịch. Cao Tiệm Ly đánh đàn, Kinh Kha tiến mà ca:
"Gió vi vu hề sông Dịch lạnh tê Tráng sĩ một đi hề không trở về"
Xem Chiến quốc sách 31 tờ 5b10-11
6 Thí dụ vàng quặng của kinh Viên giác: "Thiện nam tử, như luyện quặng vàng, vàng không phải do luyện mà có. Khi đã thành vàng rồi thì không trở lại làm quặng nữa, trải qua thời gian vô cùng, tính vàng vẫn không hoại mất". Xem Đại phương quảng viên giác tu đa la liu nghĩa kinh tờ 915c17-18.
7 Điển của Tề Văn trong Chiến quốc sách và của thiên Thuyết lâm trong Hàn phi tử. Tỉnh Quách Quân nước Tề muốn xây thành Tiết. Có nhiều người can ngăn nên dặn kẻ gác cửa, h ai xin vô để can ngăn thì đừng cho vô. Có người nước Tề xin vô để nói ba tiếng thôi, rồi chết cũng đành. Quách Quân cho vô. Người khách chỉ nói lớn ba tiếng "Biển cá lớn", rồi vọt chạy. Quách Quân ngạc
 Tăng thưa: "Quách quân nếu không nhận
Can gián chẳng làm chi".
Sư đáp:                 "Nếu muốn bưng uống trước Vẽ rắn khéo hãy thôi"1.
Lại hỏi: "Rắn chết giữa đường Xin thầy cứu sống"2.
Sư đáp:       "Ngươi là người phương nào?". Tăng đáp: "Vốn người ở núi".
Sư dạy:                 "Mau về [13a1] non cũ ẩn Chớ gặp Hứa Chân Quân"3.
Lại hỏi: "Hải tạng mênh mông không nên hỏi Tào khê từng giọt nghĩa ra sao?"4.
Sư đáp:                 "Rừng tùng tiếng gió thê lương thổi, Mưa tạnh bùn nhơ ngập lối đi".
Tăng thưa:  "Không khác với ngày nay, là thế nào?"5. Sư đáp:       "Cúc trùng dương dưới giậu
Oanh ngày nắng đầu cành".
Lại hỏi: "Sờ sờ ở khoảng mắt lòng Rành rành trong chốn sắc thân Nhưng lý không thể phân Tướng không thể thấy
Vì sao không thấy được?"6. nhiên cho gọi lại. Người khách mới giải thích ba chữ đó có nghĩa gì. Quách Quân mới thôi xây thành Tiết. Xem Chiến quốc sách 8 tờ 1b2a và Hàn phi tử 8 tờ 5b-6a.
1 Điển của Tề Văn 2 trong Chiến quốc sách. Nước Sở có hai người thi vẽ rắn để uống rượu. Một người vẽ xong trước lại vẽ rắn thêm chân. Người vẽ xong sau không chịu, cho rằng rắn không có chân, rồi giựt ly rượu mà uống. Xem Chiến quốc sách 9 tờ 2b-3a.
2 Thiền sư Thanh Lâm:
Tử xà dương đại lộ Khuyết tử mạc đương đầu (Rắn chết giữa đường lớn Xin ông chớ đương đầu)
Xem Vạn tùng lão nhân bình xướng Thiên Đồng Giác hoà thượng lụng cổ thung dung am lục 4 tắc 5 tờ 264a26-c6.
3 Hứa Chân Quân, tên tục là Hứa Tốn làm quan lịnh Tinh dương đời Bắc ngụy. Theo truyền thuyết, ông sau theo đạo thần tiên và bay lên trời, đến đời nhà Triệu Tống thì được phong là Thần công diệu tế chân quân. Cái tên Hứa Chân Quân do thế mà có. Xem Nguỵ Thư 46 tờ 2b8 và Thái Bình quảng ký, Thần tiên 14.
4 Hải tạng, chỉ đạo Phật trong kinh điển hay tất cả kinh điển đạo Phật. Tào khê, chỉ cho Thiền phái. Phật Quả tham bái Chân Giác Thắng. Thắng chích cánh tay chảy máu rồi nói: "Đây là một giọt Tào khê". Xem Tục truyền đăng lục 25 tờ 634a5.
5 Bất dị kim thời, đặc ngữ của Thiền chỉ cho việc sau khi giác ngộ không khác gì lúc chưa giác ngộ. Hoà thượng Bảo Chí, Thập nhị thời tụng:
Giả sử tâm thông vô lương thì Lịch kiếp hà tằng dị kim nhật (Giả sử lòngthông từ vô thỉ
Nhiều kiếp sao tằng khác hôm nay).
Xem Truyền đăng lục 29 tờ 450b16-17.
6 Thiền sư Minh Giác thượng đường, có vị sư hỏi: "Sờ sờ ở khoảng mắt lòng, mà tướng không thể thấy, rành rành trong vòng sắc trần mà lý không thể phân. Đã ở trong khoảng mắt lòng sao lại không thấy tướng của nó? (Chiêu chiêu ư tâm mục chi gian, nhi tướng bất khả đổ. Hoảng hoảng tại sắc trần chi nội nhi lý bất khả phân. Ký ư tâm mục chi gian, vi thập ma bất đổ kỳ tướng?) Xem Minh giáp ngũ lục tờ 760a4.
Sư đáp:                 "Trong vườn hoa rực rỡ Trên bờ cỏ tràn lan".
Tăng thưa:  "Năm lạnh mầm non rụng
Lấy gì để thưởng công".
Sư đáp:                 "Mừng cho ông tự rõ Sung sướng biết chừng nào !"
Tăng thưa:  "Hôm nay, may nghe giải
Từ nay hết hoang mang ".
Sư dạy:                 "Đắm cạn vừa vớt ra Ngoảnh đầu đầm muôn trượng".
Lại hỏi: "Trong thành Niết bàn vẫn còn nguy hiểm1 Thế nào là chỗ không nguy hiểm?".
Sư đáp:       "Trên rèm che làm tổ Cành lau xõa tóc mai".
Tăng thưa:  "Nếu gặp lúc cấp bách
Đôi đường xử lẽ nào ?".
[13b1] Sư đáp:     "Trượng phu theo phóng khoáng Trăng gió hãy vui chơi"2.
Lại hỏi: "Hết thảy chúng sanh đều bảo là Phật, lẽ ấy chưa tường, mong thầy chỉ dạy?". Sư đáp: "Nông trang hãy gắng khuyên anh thế
Đợi thỏ người kia chớ nhọc theo"3.
Tăng thưa:  "May được thầy chỉ rõ
Trọn chẳng đến ai tìm".
1 Thiền sư Đồng An Sát, Thập huyền đàm, "hồi cơ": Niết bàn thành lý thượng do nguy
Mạch lộ tương phùng một định kỳ Quyền quải cấu y vân thị Phật
Khước trang trân ngự phục danh thùy Mộc nhân dạ bán xuyên ngoa khứ Thạch nữ thiên minh tải mạo qui
Vạn cổ bích đàm không giới nguyệt Tái tam lao lộc nãi ưng tri.
(Niết bàn thành ấy vẫn còn nguy Đường phố gặp nhau chẳng hẹn kỳ Giả mặc đồ dơ tên gọi Phật
Nếu mang áo ngự gọi tên gìn
Nữa đêm người gỗ mang giày mất Vừa sáng gái trơ đội mũ về
Đầm biếc ngàn xưa trăng luống giọi Ba lần mò mẫm mới hay ri).
Xem Truyền đăng lục 29 tờ 455c5-8
2 Long Đàm Sùng Tín hỏi Đạo Ngô: "Làm sao để quyết chắc?" Ngô nói:  "Nhiệm tính tiêu diêu
Tuỳ duyên phóng khoáng" (Tiêu diêu mặc tính
Phóng khoáng tùy duyên) Xem Truyền đăng lục 14 tờ 313b21-22.
3 Điển rút từ thiên Ngũ đồ trong Hàn Phi Tử. Nước Tống có người làm nông gặp một con thỏ chạy vấp phải một gốc cây mà chết. Anh đem về làm thịt ăn. Hôm sau anh ra đồng, bỏ cả cày bừa, đến gốc cây ngồi đợi một con thỏ khác. Thỏ khác đã không được, mà còn bị cả nước Tống cười. Xem Hàn phi tử 19 tờ 1a-b.

Sư dạy:                 "Khá thươngmột lần nghẹn Ngồi đó trót quên ăn".
Lại hỏi: "Bao năm dồn chứa ngọc trong túi Tận mặt hôm nay thấy rõ rành1".
Sư đáp:                 "Trăng trung thu chờ mãi Gặp phải mây mưa xông"2.
Tăng thưa:  "Tuy nghe thầy dạy bảo
Lý đó vẫn chưa thông".
Sư dạy:                 "Cười người suông ôm cột Chết đuối nhắm giữa dòng !"3.
Tăng hỏi:    "Thế nào là một phái?"4.
Sư đáp:                 "Vừa thấy xuân gieo và hạ lớn Gặp ngay thu chín với đông thâu".
Tăng thưa:  "Thành phật nhiều thế là sao?". Sư đáp:    "Tổ Long thôi nghĩ chạy
Từ Phúc luống đường xa"5.
Tăng hỏi:    "Kiến tính thành Phật, nghĩa ấy thế nào?". Sư đáp: "Xuân đến cây khô hoa đua nở
Gió đưa ngàn dặm nức [14a1] hương thần"6.
1 Nang trung bảo, từ rút ra từ khác phẩm Ngũ bách đệ tử thọ ký của kinh Pháp hoa, nhằm chỉ cho Phật tánh sẵn có trong mọi người. Thơ của Thiền sư Đỗ Lăng Uùc:
Ngã hữu thần châu nhất khỏa Cửu bị trần lao cơ tỏa
Kim triêu trần tịnh quang sanh Chiếu kiến sơn hà vạn đóa. (Ta có ngọc thần một quả
Lâu bị bụi phần phủ xoá Sáng nay bụi sạch sáng ra Soi thấu sơn hà muôn đóa).
Xem Tục truyền đăng lục 13 tờ 547b8-9
2 Có người hỏi Âu Chương: "Bỗng nhiên không mây, thì trăng trung thu ra sao?". Chương đáp: "Tốt nhất là không mây". Xem Truyền đăng lục 20 tờ 367b 22-23
3 Điển lấy từ thiên Đạo chích của Trang Tử. Vỹ Sinh có hẹn với một đứa con gái dưới cầu. Người con gái ấy không đến. Nước sông dâng lên. Vỹ Sinh ôm cột cầu mà chết. Xem Trang Tử 9 tờ 21a2-3.
4 Một pháp hay nhất pháp, nếu muốn cho đủ thì phải nói: "Thật tế lý địa
Bất thọ nhất trần Phật sự môn trung Bất xả nhất pháp".
Xem Truyền đăng lục 14 tờ 269b 17-18.
5 Tổ Long, một biệt hiệu của Tần Thỉ Hoàng, hâm mộ thuật trường sinh, sai Đạo sĩ Từ Phúc, cũng có tên là Từ Thị, dẫn một ngàn đồng nhi ra biển đông tìm Bồng lai vào năm 217 trước tây lịch. Bồng lai đâu không thấy, mà bảy năm sau, Tần Thỉ Hoàng chết. Và họ chẳng bao giờ trở về. Xem Sử ký 6 tờ 14a11 và 21a8.
6 Có người xin Diên Chiểu "Chặt đứt cội gốc" Chiểu đáp:      "Ít gặp khách sâu mũi
Nhiều trạm người khắc thuyền"
Hỏi:   "Chính vào lúc đó thì sao?" Chiểu đáp:     "Rùa mù gặp gỗ đầu yên ổn
Cây héo sinh hoa vật ngoại xuân".
Xem Truyền đăng lục 14 tờ 303a10-13

Tăng thưa:  "Học nhân không hiểu, xin thầy dạy lại". Sư đáp:         "Muôn năm cây cà ấy,1
Xanh ngát tận chân mây".
Lại hỏi: "Ma ni cùng các sắc
Chẳng hợp chẳng phân ly"2.
Sư đáp:                 "Hoa xuân cùng bươm bướm Lúc luyến lúc ruồng nhau".
Tăng hỏi:    "Theo người xen lẫn là sao" Sư đáp: "Chẳng phải mắt Hồ tăng3
Uổng công dâng ngọc Biện"4.
Lại hỏi: "Thế nào là chạm mắt là Bồ đề?"5. Sư đáp:     "Cây cong chim mãi sợ
Dưa nguội người thổi hoài".
Tăng thưa:  "Học nhân không hiểu, xin thầy cho ví dụ khác". Sư đáp:      "Kẻ điếc nghe tiếng đàn
Người mù ngắm bóng trăng".
Lại hỏi: "Vốn đã có hình thêm có ảnh Có lúc ảnh cũng lìa hình sao?".
Sư đáp:       "Trăm sông đổ về đông kìa, muôn dòng đua chảy.
Ngàn sao chầu Bắc đẩu kìa, thiên cổ quy tâm". Lại hỏi: "Thế nào là một câu tỏ ngộ, vượt muôn ngàn?"6.
1 Có người hỏi Thiền sư Huệ Thanh: "Xưa Phật chưa ra đời thì như sao?". Thanh đáp: "Ngàn năm gốc cà ấy" (Thiên niên già tử căn). Xem Truyền đăng lục 12 tờ 297c18-19.
2 Thiền sư Văn Ích, Văn ích tụng:
Ma ni bất tuỳ sắc Sắc lý vật ma ni
Ma ni dự chứng sắc Bất hiệp bất phân ly (Ma ni không theo sắc) Trong sắc chẳng ma ni Ma ni cùng các sắc
Không hiệp không phân ly) Xem Truyền đăng lục 29 tờ 454b19.
3 Hồ Tăng Nhãn. Bồ Đề Đạt Ma thường được các môn đệ thiền gọi là Bích nhãn hồ tăng, "thầy tu Hổ mắt xanh". Xem Bích nham lục 5 tắc 47 tờ 183b18-19.
4 Điển rút từ thiên Hoà thị của Hàn phi tử. Biện Hòa người nước Sở được ngọc phác, dâng Lệ Vương, bị chặt hết một chân, vì Lệ Vương cho là dối, sau lại dâng vua kế vị là Vũ Vương, lại bị chặt một chân nữa cũng cùng lý do. Xem Hàn phi tử 4 tờ 10b5-13.
5 Xúc mục bồ đề, nhìn bất cứ đâu cũng thấy là giác ngộ cả. Thạch Sương Khánh Chư tham kiến Đạo Ngô, hỏi: "Thế nào là xúc mục bồ đề?". Đạo Ngô gọi sa di. Sa di đáp: "Dạ". Đạo Ngô nói: "Thêm nước vào tịnh bình".
Xem Truyền đăng lục 15 tờ 320c11 và Minh giáo ngữ lục tờ 675a18.
6 Dẫn Vĩnh Gia Huyền Giác, Chứng đạo ca: Phần cốt tuỷ thân vị túc thù Nhất cú liêu nhiên siêu bách ức (Nát thịt tan xương chưa đủ đền
Một câu rõn được vượt muôn ngàn).
Xem Vĩnh gia chứng đạo ca ĐTK 2014 tờ 316c21.
Sư đáp:                 "Xa kẹp Thái sơn qua biển Bắc Ngửa quăng gậy chống vào cung trăng."
Lại hỏi: "Chỉ một sự này thật,
[14b1]         Còn hai chẳng phải chân1 Thế thì, chân là gì?".
Sư đáp:                 "Gió dễ lay đầu gậy Mưa thành nẩy trên đường".
Lại hỏi: "Không nhắm Như Lai xin Diệu tạng Không mong lửa tổ nối đèn chong Ýchỉ rốt ráo thế nào?".
Sư đáp:                 "Trời thu lúa xào xạt Cảnh tuyết mẫu đơn cười".
Lại hỏi: "Thế nào là câu tối diệu?"
Sư đáp:                 "Một người ngoảnh mặt khóc Cả tiệc uống không vui"2.
Lại hỏi: "Xưa nay việc lớn xin không hỏi
Điểm lạ Tây lai ý thế nào?"3.
Sư đáp:                 "Kẻ khéo lời đẹp mặt4 Phường đập ngói hong rùa"5
Lại hỏi: "Tâm, pháp đều quên, thì tính tức chân6 Thế nào là chân?".
1 Duy thử nhất sự thật, dư nhị tắc phi chân. Câu rút ra từ phẩm Phương tiện của kinh Pháp hoa nhằm nói chỉ một Phật thừa duy nhất là sự thật, hai thừa kia, tức Thanh văn thừa và Duyên giác thừa, chỉ là sự quyền biến. Xem Diệu pháp liên hoa kinh 2 tờ 8a.
2 Nguyên văn:      "Nhất nhân hướng ngung lập
Mãn tòa ẩm bất hoan."
Nhưng cứ vào xuất xứ của từ và ý của hai câu này, chúng ta phải đọc: "Nhất nhân hướng ngung khấp
Độc hướng ngung dĩ yểm lệ".
Và dịch theo cách đọc ấy. Bởi vì trong bài Sênh phú, Phan Nhạc có viết câu: "Chúng mãn đường nhi ẩm tửu
Độc hướng ngung dĩ yểm lệ".
Lý Thiện chú thích nó thế này: "Thuyết uyển nói: Người xưa cho thiên hạ giống như một nhà. Nay cả nhà uống rượu, một người riêng bỗng nhiên ngoảnh mặt khóc thì người trong nhà đều không vui". (Thuyết uyển viết: Cổ nhân ư thiên hạ nhất chí đường thượng, kim hữu mãn đường ẩm tửu, hữu nhất nhân độc sách thiên hướng ngung khấp, tắc nhất đường chi nhân giai bất lạc). Xem Văn tuyển Lý Thiện chú 18 tờ 17a 2-4. Xem thêm Thuyết uyển 5 tờ 2a 10-17. Chúng tôi dựa vào xuất xứ đây, để đề nghị cách đọc và dịch trên.
3 Việc lớn hay đại sự tức đại sự nhân duyên, mà phẩm Phương tiện của kinh Pháp hoa nói tới, đây là mở bày cho chúng sanh con
đường để đi vào tri kiến giác ngộ. Xem Diệu pháp liên hoa kinh 2 tờ 7a21. Tây lai ý, chỉ cho sự mật truyền của Bồ Đề Đạt Ma.
4 Dẫn chữ từ thiên Học nhi của Luận ngữ: "Xảo ngôn lịnh sắc, tiện hỷ nhân". (Kẻ khéo nói, đẹp mặt, thường ít có lòng nhân). Xem Luận ngữ 1 tờ 1b8 và 17 tờ 6b7.
5 Nguyên văn: Toản quy đả ngõa nhân. Về từ "Toản qui" xuất xứ của nó từ phần Quy sách trong Sử kyù 128 tờ 4a7-8. Theo đó thì "Bậc vương giả ra quân làm tướng tất phải toản qui trên miếu đường, để giải quyết việc tốt xấu". Lời chua của Dương Kinh trong thiên Vương chế của Tuân Tử 5 tờ 10a3 viết: "Toản qui tức là đốt lửa bằng cỏ gai mà hong mu rùa". Toản qui do thế có nghĩa là bói rùa. Còn Đả ngõa hay đập ngói thì lấy từ tích của quan làm việc Trường Di bị tầng lớp quân đội ném gạch đá vào, vì Di chủ trương không cho họ dự vào hàng thanh phẩm. Xem Bắc sử 43 tờ 5a10-13. Đả ngoã đây như vậy có nghĩa ăn cướp.
6 Dẫn Chứng đạo ca của Vĩnh Gia Huyền Giác: Tâm thị căn, pháp thị trần
Lưỡng chủng do như kính trượng ngân Ngân cấu tận trừ quang thỉ hiện

Sư đáp:                 "Đàn Bá Nha gió khua sân trúc1 Lệ Nữ Thần mưa rắc hoa non2
Lại hỏi: "Thế nào là câu tối diệu?".
Sư đáp:                 "Yếu hầu còn mắc nghẹn Yên ở chẳng vui gì".
Lại hỏi: "Có tu có chứng, khơi bốn bệnh3 Ló đầu sao được thoát hồng trần".
Sư đáp: "Núi cao chất nhất dung muôn vật Biển rộng bao la chứa vạn sông".
Lại hỏi: "Chỉ có Phật với Phật mới biết [15a1] việc đó4.
Thế thì việc đó là thế nào?".
Sư đáp: "Đường hẹp chi chít trúc Gió thổi nhạc tự thành".
Lại hỏi: "Chẳng cần bình thường, chẳng cần thiên nhiên, chẳng cần tác dụng, thì nay làm gì đây?".
Sư đáp: "Cỏ bồng én đậu thấp Biển rộng ẩn cá lân".
Lại hỏi: "Tứ đại mang về từ nhiều kiếp
Xin thầy phương tiện thoát luân hồi".
Sư đáp: "Loài thú trên đời Tê là quý Nó ăn gai góc mẹp bùn nhơ"5.
Lại hỏi: "Mọi thứ thủ, xả đều luân hồi, không thủ không xả thời thế nào?"1
Tâm pháp song vong tánh tức chân. (Tâm là căn, pháp là trần
Hai thứ còn như vết trên gương Vết bụi chùi sạch gương mới sáng Tâm pháp đều quên tính tức chân).
Xem Vĩnh Gia chứng đạo ca ĐTK 2014 tờ 396b22. Xem thêm chú giải của Ngạn Kỳ, Chứng đạo ca chú TcT111 tờ 193b-194a.
1 Về đờn của Bá Nha, thiên Hiếu Hạnh lãm của Lã thị xuân thu nói: "Bá Nha đánh đờn, Chung Tử Kỳ nghe đờn. Khi Nha mới đánh đờn, và ý nghĩ đến Thái sơn, Chung Tử Kỳ nói: "Đánh đờn hay thay ư, cao ngất như núi Thái ư !". Một chặp chi, Nha lại nghĩ đến giòng nước chảy, Chung Tử Kỳ nói: "Đánh đờn hay thay ư, ồ ạt như dòng nước chảy ư !". Chung Tử Kỳ chết, Bá Nha phá đờn, cắt dây. Suốt đời không còn đánh đờn lại nữa, cho rằng đời không còn ai còn đủ khả năng nghe cho mình đánh đờn lại nữa". Xem Lã thị xuân thu 14 tờ 4a7-14.
2 Vũ trích nham hoa, Thiền sư Minh Giác, có người hỏi bản nguyên chư Phật ra sao, đáp: "Màu lạnh ngàn núi". Lại hỏi: "Nguyên ủy hướng thượng có có không?". Sư đáp: "Mưa rơi hoa non" (Vũ trích nham hoa). Xem Tục truyền đăng lục 2 tờ 476a8-9.
3 Bốn bệnh: tức bệnh làm ra (tác bệnh), bệnh phó mặc (nhiệm bệnh), bệnh đình chỉ (chỉ bệnh) và bệnh hủy diệt (diệt bệnh), mà người ta gặp phải trên con đường đi tìm sự giác ngộ hoàn toàn. Kinh Viên giác, định nghĩa bốn bệnh như sau: Bệnh làm ra xảy ra khi người ta nghĩ rằng "tôi làm ra các hạnh để cầu Viên giác". Bệnh phó mặc mắc phải khi người nói rằng: "tôi không có ý đoạn tuyệt với sinh tử, không cầu Niết bàn đối với Niết bàn sinh tử không có ý niệm dấy lên hay diệt đi, phó mặc cho tất cả, tuỳ thuận pháp tính để cầu Viên giác". Bệnh đình chỉ tức bệnh nói rằng "tự tâm tôi, tôi đứt hết các ý niệm được tất cả tính bình đẳng tịch diệt để cầu Viên giác". Bệnh huỷ diệt có được khi người ta nói rằng: "tôi diệt hết tất cả phiền não thân tâm hoàn toàn không, không có, huống hồ là cảnh giới hư vọng của căn trần, tất cả đều vắng lặng hẳn để cầu Viên giác". Xem Đại phương quảng viên giác tu đa la liu nghĩa kinh tờ 920b.
4 Chữ lấy từ kinh Pháp hoa: "Duy Phật dữ Phật nãi năng cứu tận chư pháp thật tướng" (chỉ người giác ngộ với người giác ngộ mới có thể rõ hết thật tướng thật của tất cả mọi vật). Xem Diệu pháp liên hoa kinh 2 tờ 5c.
5 Nội thiên trong Bảo phác tử của Cát Hồng (284-363) nói: "Tề thông thiên sở dĩ nó có thể chống độc, ấy bởi nó là con thú chuyên ăn mọi thứ có độc và những thứ cây có gai nhọn, chứ không ăn bậy những thứ có cây mềm dẻo bao giờ".(Thông thiên tê sở dĩ năng cấp độc giả, kỳ vi thú chuyên thực bách thảo chi hữu độc giả cập chúng mộc hưu thích cứu giả, bất vọng thực nhu, hào chi thảo mộc). Xem Bảo phác tử 7 tờ 23a4.
Sư đáp: "Giềng hồng đẹp đẽ xưa nay vậy Có lá sum sê chẳng có hoa".
Lại hỏi: "Dứt hết nói năng ý ấy thế nào?"2. Sư đáp: "Theo gió tiếng còi luồn bụi trúc
Kèm trăng trái núi quá đầu tường".
Lại hỏi: "Chư Phật thuyết pháp là để giáo hóa mọi loài,
nếu hiểu được bản ý thì gọi là xuất thế, bản ý là gì?".
Sư đáp: "Xuân dệt hoa như gấm Thu sang lá tựa vàng".
Lại hỏi: "Thế nào là một đường nhắm thẳng?"3. Sư [15b1] đáp:      "Đông tây xe ngựa ruỗi
Hôm sớm bụi mờ bay".
Lại hỏi: "Có pháp, có tâm, sinh vọng thức Làm sao tâm, pháp thảy tiêu vong?".
Sư đáp: "Ví được lá tùng xanh cao ngất Sá gì sương tuyết lả tả rơi".
Lại hỏi: "Ý tổ và ý kinh thế nào?".
Sư đáp: "Chống trượng lên mây khi thích chí Mệt buông rèm trúc ngủ giường tre".
Lại hỏi: "Tổ tổ truyền nhau là truyền những gì?". Sư đáp: "Đói đến tìm thức ăn
Rét thời xin áo mặc"4.
Lại hỏi: "Thế nhân đều thuê nhà Người dột ở đâu ta?".
Sư đáp: "Vầng ô cùng ngọc thố Tròn khuyết dối nhọc chia".
Lại hỏi: "Thế nào là con đường duy nhất đến Tào khê?".
1 Ý rút từ Chứng đạo ca của Vĩnh Gia Huyền Giác: Xả vọng tâm, thủ chân lý
Thủ xả chi tâm thành xảo ngụy. (Bỏ lòng vọng, lấy lẽ chân
Bỏ lấy, lòng đó thành dối xảo).
Xem Truyền đăng lục 30 tờ 406c5.
2 Ngôn ngữ đạo đoạn. Chữ của luận Đại trí độ: Thế nào là chân lý tuyệt đối?" Đáp: "Tất cả ngôn ngữ đều dứt, tâm hành đều diệt" (nhất thiết ngôn ngữ đạo đoạn tâm hành xứ diệt) Xem Đại trí độ luận tờ 61b7. Xem thêm Tín tâm minh:
Tín tâm bất nhị Bất nhị tín tâm
Ngôn ngữ đạo đoạn Khư lai phi kim.
Xem Truyền đăng lục 30 tờ 457b23.
3 Thiền sư Phong Huyệt Diên Chiểu, có người hỏi: " Thiền nào là một đường thẳng?". "Nhắm thẳng vào chỗ cong". Xem Truyền đăng lục 13 tờ 303c12. Xem thêm Chứng đạo ca của Vĩnh Gia Huyền giác: "Trực diệt căn nguyên của Phật sở ấn" Xem Truyền đăng lục 30 tờ 460a1.
4 Ý lấy từ hai câu của Tuệ Trung quốc sư: "Cô tức nghiết phạn, hàn tức trước y. (Đói thì ăn cơm rét thì mặc áo). Xem Truyền đăng lục 28 tờ 439a22-23

Sư đáp: "Khá thương kẻ khắc thuyền1.
Rốt cuộc ý hoang mang".
Sư từng soạn Dược sư thập nhị nguyện văn2. Vua Lý Nhân Tôn lấy bản thảo của Sư, sai sứ đem sang Triết Tôn3. Triết Tôn cho mời Pháp sư Cao tòa chùa Tướng quốc đến xem4. Xem xong liền chắp tay lạy, mà nói rằng: "Phương Nam có bậc Đại sĩ nhục thân ra đời, ấy là vị Pháp sư khéo giảng kinh điển vậy. [16a1] Bần đạo đâu có thể dám thêm bớt". Nhân đó chép lại một bản, rồi giao trả bản cũ. Sứ giả trở về thuật lại vua nghe, vua rất khen thưởng.
Vào một ngày tháng chín năm Canh ngọ Quảng Hựu thứ sáu (1090), Sư không bệnh, gọi chúng đến dạy rằng: "Trong thân ta đây, thịt xương gân cốt, tứ đại giả hợp, đều là vô thường, ví như ngôi nhà kia khi sụp đổ, cột kèo đều đổ. Cùng các con giã từ, hãy nghe bài kệ ta đây:
Thân như tường vách đổ xiêu rồi, Thiên hạ bồn chồn xót dạ thôi,
Nêu rõ tâm không, không tướng sắc, Sắc không ẩn hiện mặc xoay dời.
Nói kệ xong, Sư ngồi ngay thẳng viên tịch, thọ 92 tuổi đời, và 56 tuổi hạ5. Có để lại tập Tán viên giác kinh, Thập nhị bồ tát hành tu chứng đạo trường và Tham đồ hiển quyết một quyển6 ngày nay còn truyền ở đời7.
1 Khắc chu khách. Điển lấy từ Thiện thận đại lãm của Lã thị xuân thu. Nước Sở có người đi thuyền, bị rơi kiếm xuống sông, bèn làm dấu chỗ rơi trên mạn thuyền để tới bến mà tìm. Xem Lã thị xuân thu 15 tờ 19a9-13. Kinh Bách dụ có một chuyện tương tự thế đó. Xem Bách dụ kinh ĐKT 209 tờ 545c. Thiền sư Văn Ích cũng có làm bài tụng:
Bảo kiếm bất thất Hư chu bất khắc Bất thất bất khắc Bất tử vi đắc.
Xem Truyền đăng lục 19 tờ 545b 15
2 Nghệ văn chí của Lê Quí Đôn ghi: "Dược sư thập nhị nguyện văn, 1 quyển Long Đàm Viên Chiếu thiền sư soạn ".Văn tịch chí của Phan Huy Chú chỉ ghi :"Dược sư thập nhị nguyện văn, 1 quyển", mà không ghi tác giả. Đây chắc là một bài văn phát triển 12 nguyện của Phật Dược Sư, trong kinh Dược Sư nhấn mạnh đến tính chất tại thế của kinh này.
3 Đây chắc phải là Sứ bộ năm 1087 do Hộ bộ viên ngoại lang Lê Chung và Phó hiệu uý Đỗ Anh Bối làm chánh và phó sứ dẫn đầu, bởi vì Triết Tôn lên ngôi 1086 và đến năm 1090 nghĩa là năm Viên Chiếu mất, ta mới gởi một bộ phái khác sang kết hiếu. Do thế nếu phái bộ ngoại giao năm 1090 có mang sách Dược sư thập nhị nguyện văn sang Tống để cho các nhà sư Tống ngợi ca, thì ở nhà Viên Chiếu đã mất, nên Chiếu không thể nào nhận lời khen của Lý Nhân Tôn được. Xem Tục tư tri thông giám thường biên 399 tờ 5b4, Tống sử 17 tờ 4b6 và 9b1, Đại Việt sử lược 2 tờ 18a3-9, vàToàn thư B3 tờ 11b6-7.
4 Pháp sư cao tòa ở đây có thể là Thiền sư Đại Bản .Lâm gian lục quyển hạ tờ 55a5-b2 nói Đại Bản bị triệu đến ở chùa Tướng quốc dưới thời Tống Thần Tôn và rất có thể sống ở đó cho tới năm 1087, khi sứ bộ ta tới.
5 Về tuổi hạ, xem chú thích(7) truyện Chân Không.
6 An nam chí lược 15 tờ 157: "Thiền sư Mai Viên Chiếu thường soạn Tham đồ hiển quyết đại lược nói: "Một hôm khi đang ngồi trước nhà, bỗng có 1 vị Tăng hỏi: "Phật cùng với Thánh, nghĩa ấy thế nào ?". Đáp: "Dưới dậu thu cúc rậm. Đầu cành xuân yến ca".  Sách ấy phần lớn gồm những thứ như thế đó. Cứ vào dẫn chứng này của Lê Tắc, ta có thể nói rằng tất cả cơ duyên thoại ngữ dẫn chứng trong truyện này đã hoàn toàn rút ra từ Tham đồ hiển quyết, nếu không nói là chúng chính là toàn bộ nội dung và văn ngữ của Tham đồ hiển quyết. Nếu khẳng định tất cả cơ duyên thoại ngữ đấy là Tham đồ hiển quyết, thì nó là một tác phẩm đời Lý được giữ lại cho tới ngày nay, một tác phẩm xưa nhất của lịch sử văn học, tư tưởng và triết học Phật giáo nước ta.
7 Cứ vào truyện này thì tác phẩm của Viên Chiếu gồm có:
1. Dược sư thập nhị nguyện văn
2. Tán Viên giác kinh
3. Thập nhị Bồ tát hành tu chứng đạo tràng
4. Tham đồ hiển quyết
Nhưng cứ một câu viết trong truyện của Nghiêm Bảo Tính và Phạm Minh Tâm ở dưới, theo đó, "Viên Chiếu thường có ca thi gởi tặng Bảo Tính, ngợi ca cái chí hướng cao thượng của Tính, có ghi đầy đủ trong tập của Chiếu nên đây không phiền chép ra" (Chiếu thường hữu ca thi di Bảo, mỹ kỳ cao chí, cụ tại tập trung, tư bất phiền lục). Ta bắt buộc phải nghĩ rằng Chiếu còn có một tác phẩm khác bao gồm tất cả thi ca của Chiếu mang tên có lẽ là Viên Chiếu tập hay Viên Chiếu thi tập.

10. THIỀN SƯ Cứu Chỉ
Chùa Diên linh, núi Long đội1, Yên lãng2, Người Phù đàm, Châu minh3, họ Đàm. Thuở nhỏ hiếu học, sách Nho, sách Phật, không thứ gì là không quán xuyến. Một ngày nọ ôm [16b1] sách than rằng: "Khổng Mặc chấp có, Trang Lão chấp không, sách vở của thế tục chẳng phải là phương giải thoát. Chỉ có Phật pháp không kể có, không, có thể dứt sanh tử, nhưng phải siêng năng giữ giới, cầu bậc thiện tri thức ấn chứng cho mới được". Nhân đó bỏ tục, đến chùa Cảm ứng ở Ba sơn thọ Cụ túc với Định Hương trưởng lão. Ngày cầu đạo, Trưởng lão hỏi: "Thế nào là nghĩa của cứu cánh?".
Sư đáp: "Chưa"
Sơn nói: "Ta với ngươi là nghĩa của cứu cánh rồi !". Sư ngẫm nghĩ.
Sơn nói: "Qua mất rồi".
Nhờ lời nói đấy, Sư rõ được yếu chỉ. Nhân đó lấy tên Cứu Chỉ. Sau Sư vào chùa Quang minh ở núi Tiên du, tu khổ hạnh đầu đà4 sáu năm không bước chân xuống núi. Tiếng tăm giáo hóa của sư vang đến tai vua. Vua Lý Thái Tôn nhiều lần cho mời, Sư không đến, nên ba lần thân hành đến chùa Sư, lấy lời an ủi thăm hỏi. Thái Sư Lương Văn Nhậm5 cũng rất kính trọng.
1 Lịch triều hiến chương loại chí 2 tờ 33a2-5 viết: "Núi Long dội ở tại xã Đội sơm huyện Duy tiên, bổ sát xuống dòng sông. Lý Nhân Tôn dựng bảo tháp Sùng thiện điên linh, văn bia chữ toàn dùng thuyết nhà Phật hoang lạ chưa từng thấy. Cuối đời trần, người Minh phá hủy tháp đó. Lê Thái Tổ bình định rồi, lại sai dựng lại. Thánh Tôn lên chơi có đề thơ:
Ngàn nhận non cao chỗ Hóa thành Leo bao bực đá đến am thanh Chuyện kỳ triều Lý bia trơ đó
Tội ác giặc Minh vết đã rành
Đường vắng chân người rêu phủ biếc Xuân nhiều mưa núi cảnh phô xanh Lên cao tầm mắt xa vô tận
Muôn dặm mênh mông cỏ giống cành"
Núi Long dội như vậy ở tại xã Đội sơn phía đông nam huyện Duy tiên, tỉnh Hà nam ngày nay. Đại Việt sử lược 2 tờ 2b10 và Toàn thư B3 tờ 21a7 nói: "Năm Thiên Phù Duệ Vũ thứ ba (1122) mùa xuân tháng hai bảo tháp Sùng thiện điện linh ở Đội sơn làm xong". Cứu Chỉ mất trong khoảng 1059 - 1065, cho nên chùa Diên linh ở đây đã có từ trước, rồi sau đó đến năm 1122 mới xây thêm tháp.
2 cái tên Yên Lãng được Thiền uyển tập anh kể tới cả thảy năm lần, kể lần thứ nhất tức ở truyện Cứu Chỉ đây. Lần thứ hai ở trong truyện của Đạo Hạnh ở tờ 53b3, nói cha của Đạo Hạnh "đến học ở làng Yên lãng, rồi lấy con gái họ Tăng, nhân làm nhà ở đó". Lần thứ ba ở truyện Trí Thiền tờ 63b7 nói Thiền ở "am Phù môn núi Cao dã, Yên lãng". Lần thứ tư ở truyện Y sơn tờ 70b8, nói Y sơn "về già dời tới trú trì chùa Nam mô làng Yên lãng". Lần thứ năm ở truyện Hoằng Minh tờ 71b10 nói Minh người làng Yên lãng, Vĩnh hưng". Trong năm lần này, làng Yên lãng của Từ Đạo Hạnh chắc chắn là tại Yên lãng thuộc huyện Vĩnh thuận của Bắc thành địa dư chí tức làng Yên lãng hay làng Láng ở gần phía tây thủ đô Hà nội ngày nay. Còn Yên lãng có núi Cao dã của truyện Trí Thiền thì chắc phải nằm tại huyện Yên lãng tỉnh Vĩnh phú ngày nay. Về những bàn cãi xem chú thích tại những truyện liên hệ. Cuối cùng, Yên lãng của truyện Cửu Chỉ đây chắc phải đồng nhất với làng Yên lãng tại Vĩnh hưng bởi vì nó có núi Long đội hiện nằm tại huyện Duy tiên mà Vĩnh hưng thì ở tại huyện Đông yên, tỉnh Hưng yên. Xem chú thích (1) truyện Hoằng Minh. Do thế cứ vào vị trí núi Long đội nói trên Yên lãng đây phải nằm tại huyện Duy tiên. Địa phận nó thế nào ta hiện không thể xác định. Ta không hiểu tại sao đời Lý lại có ba địa danh cùng mang tên Yên lãng nằm ở ba nơi khác nhau như vậy.
3 Tức làng Phù đàm huyện Từ sơn tỉnh Bắc ninh ngày nay. Xem chú thích (3) truyện Định Hương.
4 Đầu đà, phiên âm chữ Phạn Dhùta, cũng phiên là đỗ trà hay đỗ đa. Dhùta đến từ động từ Dhù có nghĩa là rũ bỏ, tiêu diệt, cho nên hạnh đầu đà, có nghĩa là rũ bỏ các phiền não, tiêu diệt những chướng ngại do ăn mặc ở tạo nên. Vì vậy, nội dung hạnh tu này đại khái gồm 12 việc sau: Đấy là mặc áo dùng đồ giẻ rách may lại , thứ áo đó không quá ba cái, xin mà ăn, chỉ ăn một bữa, chỉ ăn một lần trong ngày, không ăn nhiều, ở nơi quạnh vắng, ở bên bãi mồ, ở dưới gốc cây, ở giữa đất trống, ở trong đám cỏ, thường ngồi mà không nằm. Đấy là 12 việc, người tu hạnh đầu đà phải hoàn thành. Xem Đại thừa nghĩa chương 15.
5 Nguyên văn: Lương Văn Nhiệm. Nhưng cứ Đại Việt sử lược 2 tờ 5a3 và Toàn thư B2 tờ 16a7 thì "Thiên Thành năm thứ nhất (1028) lấy Lương Nhiệm Văn làm Thái sư". Truyện Huệ Sinh tờ 58b4 cũng có Lương NhiệmVăn. Văn Nhiệm ở đây chắc chắn là một viết ngược của NhiệmVăn. Chúng tôi sửa lại và dịch theo.

Trong khoảng Long Thụy Thái Bình (1054 - 1058) Tể tướng Dương Đạo Gia đem chùa mình, mời Sư về trụ trì. Sư quyết từ không được, đành phải làm theo. Ngày Sư xuống núi [17a1] bèn nói với mọi người rằng: "Ta không trở lại đây nữa". Chim muông trong rừng kêu thương ba tuần không dứt.
ở vừa ba năm,vào một ngày tháng, năm nào đó của niên hiệu Chương Thánh Gia Khánh (1059 - 1065), khi sắp thị tịch, Sư họp môn đồ dạy rằng:
Tất cả pháp môn Vốn từ tính ngươi Tất cả pháp tính Vốn từ tâm ngươi Tâm, pháp như một Vốn chẳng hai pháp Phiền não trói buộc Tất cả đều không Phải quấy, tội phứơc Tất cả đều huyền
Không đâu chẳng quả, chẳng nhân
ở trong nghiệp không phân biệt ở trong báo không phân biệt Nếu có phân biệt đối với nghiệp Thì không tự tại
Tuy thấy tất cả pháp Mà không chỗ thấy Tuy biết tất cả pháp Mà không chỗ biết Biết tất cả pháp Nhân duyên làm gốc Thấy tất cả pháp Chính tâm làm tôn Tuy nhiễm thực tế Hiểu rõ thế gian Đều như biến hóa Thấu rõ chúng sanh Chỉ là một pháp Không có hai pháp
Không bỏ nghiệp cảnh Phương tiện thiện xảo Đối giới hữu vi
Bày pháp hữu vi Mà không phân biệt
[17b1] Tướng của vô vi
Vì muốn dứt trừ Vọng niệm so đo Của ta ấy vậy.
Rồi nói kệ rằng:
"Rõ biết thân tâm vốn lặng yên, Thần thông biến hóa hiện mọi tướng Hữu vi vô vi từ đây hiện
Thế giới hà sa không thể lượng Tuy dù biến khắp cả hư không Mỗi mỗi xem ra chẳng hình dạng

Ngàn năm muôn năm khó sánh đó Xứ xứ nơi nơi thường tỏ rạng1.
Đúng ngọ hôm ấy, dựng đàn trà tì, đồ chúng thu linh cốt của Sư xây tháp phụng thờ.

11-12 HAI THIỀN SƯ Bảo Tính (?- 1034), Minh Tâm (?- 1034)
Chùa Cảm ứng, Ba sơn, phủ Thiên đức. Đều là người Châu minh2, Bảo Tính họ Nghiêm, Minh Tâm họ Phạm. Thuở nhỏ cùng sớm xuất gia, là bạn đồng chí.
Lúc đầu, cùng với Thiền sư Viên Chiếu, đều thờ Định Hương thượng nhân, sâu hiểu chỗ cốt tuỷ của Hương. Về sau mỗi người mang tâm ấn, tuỳ phương giáo hóa, nổi tiếng là bậc thượng thủ của tòng lâm. Viên Chiếu thường có ca, thơ gởi tặng Bảo Tính ngợi khen cái chí hướng cao thượng của Sư.* {Có đủ ở tập của Chiếu, ở đây không phiền chép}.
Hai Sư sống chung thường lấy việc trì tụng kinh Pháp hoa làm phận sự. Trải mười lăm năm, chưa từng trễ nãi tí nào. Mỗi lần tụng đến phẩm Dược Vương3, [18a1] họ đều rơi nước mắt, bảo nhau: "Nhân địa của Bồ tát nhiều kiếp huân tu, mà đối với tâm Đại thừa, còn phải phát đại dũng mãnh tinh tấn, không tiếc thân mạng. Huống gì bọn chúng ta ở trong đời mạt pháp, là người mới phát tâm. Nếu chẳng chí thành như vậy, thì đối với chân tâm đại bồ đề của Đại thừa làm sao có thể mong thấy được !".
Đến tháng tư năm Thiên Thành thứ bảy (1034) hai Sư sắp thiêu thân thì được mời vào triều, bèn mở hội giảng kinh. Họ cùng vào trong tam muội hỏa quang4. Những hài cốt còn lại đều thành thất bảo. Có chiếu lưu ở chùa Trường thánh để cúng dường. Lý Thái Tôn cho là linh dị, cải nguyên Thông Thụy5 dựng tháp thờ.
1 Nguyên văn:
Giác liễu thân tâm bản ngưng tịch Thần thông biến hóa hiện chư tướng Hữu vi vô vi tùng thử xuất
Hà sa thế giới bất khả lượng
Tuy nhiên biến mãn hư không giới Nhất nhất quán lai một hình trạng Thiên cổ vạn cổ nan thử huống Giới giới xứ xứ thường lãng lãng".
Bài kệ này rập vần mà mượn chữ từ bài kệ sau của Huệ Tư (514-577):
Đốn ngộ tâm nguyên khai bảo tạng Ân hiện linh thông hiện chư tướng Độc hành độc tọa thường nguy nguy Bách ức hoá thân vô số lượng
Tung hiệp bức tắc mãn hư không Khán thời bất kiến vi trần tướng Khả tiếu vật hề vô tỉ huống
Khẩu thổ minh châu quang hoảng hoảng Tầm thường kiến thuyết bất tư nghi Nhất ngữ tiêu danh ngôn hạ đáng.
Xem Truyền đăng lục 27 tờ 431b5-9.
2 An nam chí nguyên 5 tờ 211 viết: "Hai Thiền sư Bảo Tính và Minh Tâm là sư huyện Đông ngạn, đứng đầu trong tòng lâm, có lần dựng hội giảng kinh, cùng vào hỏa quang tam muội. Xương cốt đều hoá thành thất bảo".
3 Tức phẩm Dược Vương Bồ tát bản sự của kinh Pháp hoa, chép sự tích Bồ Tát Dược Vương tự đốt mình để phụng sự đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức. Xem Diệu pháp liên hoa kinh tờ 53a.
4 Hoả quang tam muội, Phạn tejoprabhàsamàdhi, cũng gọi Hỏa quang định, tức một loại thiền định khiến cho thân thể bốc lửa. Xem Bản hạnh tập kinh 40 tờ. "Bấy giờ đức Như Lai cũng vào hỏa quang tam muội như thế, thân mình bốc ra ngọn lửa lớn" (Như Lai dĩ thời diệc nhập như thị hỏa quang tam muội, thân xuất đại hỏa).
5 Toàn thư B2 tờ 22a4-6 và Cương mục chính biên 2 tờ 38b6-39a1 viết: "Thiên Thành năm thứ nhất. Bấy giờ, có hai nhà sư Nghiêm Bảo Tính và Phạm Minh Tâm thiêu thân mình tự thành bảy báu. Vua xuống chiếu đem bảy báu đó giữ lại ở chùa Trường thánh để cúng dường đèn nhang. Vua cho đó là điềm lành, nên cải nguyên là Thông Thụy".

13. THIỀN SƯ Quảng Trí
Chùa Quán đảnh, núi Không lộ1. Người Kinh sư, họ Nhan, anh của Hoàng phi Chương Phụng, đạo tháo cao khiết, không thích hoa lệ.
Năm đầu Chương Thánh Gia Khánh (1059), Sư bỏ tục đến tham bái Thiền Lão núi Tiên du. Nhờ một câu nói, Sư ngộ được yếu chỉ. Từ đó ngày tháng miệt mài, dốc chí tu thiền, không đầy một năm mà phong độ tiếng tăm truyền xa. Sau đến núi ấy, [18b1] trác tích, thường mặc áo vá, ăn hạt thông, cùng với sơn tăng Minh Huệ kết bạn phương ngoại. Người ta nói Hàn Sơn, Thập Đắc2 tái thế. Công bộ thượng thư Đoàn Văn Lim3 tôn kính, thường tặng thơ rằng:
Chống gậy non cao trút sáu trần Lặng nương mộng huyễn hỏi phù vân Ân cần khôn ngỏ tham Trừng Thập4 Trói buộc bầy cò lớp áo khăn5.
Vào ngày tháng, năm nào đó của niên hiệu Quảng Hựu (1085 - 1091), Sư quy tịch.  Ông Lim khóc than thảm thiết, rồi đi viếng bằng bài thơ:
Mán rừng đầu bạc lánh thành đô Hương ngát non cao áo vẫy mờ
Những muốn khăn sồng hầu chiếu giảng Bỗng nghe của viện khép dày trơ6
Sân chùa chim vẳng trăng suông dõi Tháp mộ minh ghi ai viết chừ
1 Cương mục chính biên 13 tờ 34b-5 viết: "Núi Không lộ ở tại huyện Thạch thất, phủ Quốc Oai, tỉnh Sơn tây, trên núi có chùa Lạc lâm, xưa đó là chỗ hoá thân của Thiền sư Không Lộ, nên có tên đây". Nhưng Đại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn tây, cải chính chú thích vừa rồi của Cương mục chính biên như sau: "Núi Không lộ, xét bia ký chùa Lạc lâm ở tại núi Phụng hoàng xã Sơn lộ, huyện An sơn ngày nay thì chùa do người phương bắc dựng vào thời Lý, không thấy nói Không Lộ thoát hoá ở đấy, trong chùa cũng không có thờ Không Lộ. An nam chí của Cao Hùng Trưng nói ở tại huyện Thạch thất, bởi Thạch thất và Yên sơn xưa là một huyện, mà tên núi lại nhân theo tên xã, mà vì viết tên Sơn thành Không, nên sợ hoặc có tên như vậy". Tuy thế, điều chắc chắn là vào thời Lý vàTrần, núi Không lộ đã có tên Không lộ, như chính Thiền uyển tập anh ở đây đã ghi. Nó ngày nay tức núi Phụng hoàng ở tại xã Sơn lộ, huyện Thạch thất, tỉnh Hà tây.
2 Hàn Sơn và Thập Đắc là hai nhà thơ thiền tâm giao nổi tiếng đời Đường. Về sự tích, xem Truyền đăng lục 27 tờ 433c-434a.
3 Truyện Chân Không tờ 66a9 cũng chép một bài thơ truy điệu Không vào năm 1100 và bảo là của " Công bộ thượng thư Đoàn văn Khâm". Hai bài thơ của "Công bộ thượng thư Đoàn văn Lim" ở đây đã được Lê Quí Đôn chép luôn với bài thơ truy điệu vừa nói dưới cái tên "Công bộ thượng thư Đoàn văn Khâm" trong Kiến văn tiểu lục 4 tờ 13a6-b6. Theo Đôn như vậy, công bộ thượng thư Đoàn văn Lim cũng là Công bộ thượng thư Đoàn văn Khâm, và chữ Lim thực ra là một viết sai của chữ Khâm. Kết luận như thế, ta không biết Đôn quả đã có bản in Thiền uyển tập anh xưa hơn bản in năm 1715 của ta ngày nay và bản in đó đã có Đoàn Văn Khâm thay vì Đoàn Văn Lim, như bản in 1715 đã có. Hay Đôn đã dựa vào sự suy luận về tự dạng chữ Khâm và chữ Lim rất giống nhau, để có một kết luận như vậy? Tôi nghĩ rằng rất có thể Đôn có một bản in xưa hơn bản in năm 1715 hiện nay của ta. Dẫu sao đi nữa, nếu Đoàn Văn Khâm Đoàn Văn Lim là một người, thì ông này đã giữ chức Thượng thư bộ công gần cả đến 15 năm hay hơn nữa, bởi vì Quảng Trí mất trong khoảng 1085-1091 còn Chân Không mất năm 1100.
4 Trừng tức Phật Đồ Trừng (232-248) danh tăng thần dị Tây vực thời Tấn. Xem tiểu sử trong Cao tăng truyện 9 tờ 383b-387a. Thập tức Cưu Ma La Thập (?- 409) dịch giả lỗi lạc Tây vực đời Dao tần. Xem tiểu sử Cao tăng truyện 3 tờ 330a-333a.
5 Kiến văn tiểu lục 4 tờ 13a7-8:
Trụ tích nguy phong bãi lục trần Mặc cư huyễn mộng vấn phù vân Ân cần vô kế tham Trừng Thập Sách bạn trâm anh tại lộ quần.
6 Di lý, chiếc dép để lại. Bồ Đề Đạt Ma chết. Sau ba năm, Tống Vân trên đường đi sứ Tây Vực, gặp Sư tại Thông lĩnh, vai quảy một chiếc dép. Vân về tâu. Vua Hiếu Trang nhà Bắc ngụy (528-530) cho khai tháp khám nghiệm thì trong quan tài của Bồ Đề Đạt Ma chỉ còn lưu lại một chiếc dép. Về sau, Thiền sư chết thường được nói là "chích lý tây qui" hay "di lý". Xem Truyền đăng lục 3 tờ 220b5-10.

Bạn đạo thôi đừng buồn vĩnh biệt Ngoài am non nước đó hình xưa1.

14. Lý Thái Tôn2
Lúc bấy giờ vua Lý Thái Tôn thường đến thăm vấn thiền chỉ với Thiền Lão3 núi Thiên phúc. Kim chùy4 vừa giáng thì đầu óc đều thông. Những lúc rảnh rỗi việc nước, vua lấy thiền duyệt làm vui, nhân đó, cùng với các bậc kỳ túc [19a1] khắp nơi giảng cứu chỗ dị đồng. Vua bảo trước: "Trẫm nghĩ đến nguồn tâm của Phật tổ, từ xưa Thánh hiền chưa khỏi bị chê bai, huống gì người hậu họ! Nay, Trẫm muốn cùng các đại đức, sơ tỏ ý mình, mỗi vị thuật một bài kệ, để xem chỗ dụng tâm ra làm sao". Tất cả đều bái tạ nhận lệnh.
Trong lúc mọi người đang tìm ý, vua đã làm xong bài kệ rằng:
1 Kiến văn tiểu lục 4 tờ 13a9-b2: Vãn Quảng Trí Thiền sư thi: Lâm loan hồi thủ độn kinh thành
Phất tụ cao sơn viễn cánh sinh
Kỷ nguyện tịnh cân xu trượng tịch Hốt văn di lý đả thiền khuyễnh Trai đình u điểu không đề nguyệt Mộ tháp thùy nhân vị tác minh Đạo lữ bất tu thương vĩnh biệt Viện tiền sơn thủy thị chân hình.
2 Lý Thái Tôn (1001-1054), tên thực là Lý Đức Chính, con của Lý Công Uẩn, nối ngôi Uẩn năm 1028 đến năm1054 thì mất. Xem Đại Việt sử lược 2, Toàn thư B2.
3 Cứ Lược dẫn thiền phái đồ in vào đầu Thượng sĩ ngữ lục tờ 5b6-7a6 thì thế thứ truyền thừa và vai trò của Lý Thái Tôn như sau: "Từ thuở đức Đại thánh ta là Phật Thích Ca Mâu Ni đem Chính pháp nhãn tạng niết bàn diệu tâm trao cho Tôn giả Ma Ha Ca Diếp, lần lượt truyền thọ phàm 28 đời thì đến Đại sư Đạt Ma. Đạt Ma vào Đông độ, truyền cho Đại sư Thần Quang. Thần Quang truyền xuống phàm sáu đời thì đến Đại sư Thần Hội. Chính vào lúc đó, chính pháp mới truyền vào đất nước ta. Không biết người nhận được trước là ai. Hãy ghi từ Thiền sư Thiền Nguyệt truyền cho Nguyễn Thái Tôn, tiếp đến Trưởng lão Định Hương, Thiền sư Viên Chiếu, Thiền sư Đạo Huệ tiếp nhau truyền thọ, tên họ ẩn hiện, khó tìm manh mối, phân làm ba tôn:
(a) Tôn môn ta đã liệt ra ở bản đồ, không phiền chép đủ.
(b) Thiền sư Vương Chí Nhàn truyền cho Hoà thượng Nhiệm Tạng. Hoà thượng Nhiệm Tạng truyền cho Cư sĩ Nhiệm Túc,
đến nay chìm mất, không rõ thừa kế.
(c) Hoà thượng Nhật Thiển được pháp với ai đó, truyền cho Chân Đạo đại Vương, đến nay tôn này rồi cũng chìm mất. Lại có cư sĩ Thiên Phong từ Chương tuyền đến, cùng với Ứng Thuận đồng thời, tự xưng thuộc tôn Lâm Tế, truyền cho quốc sư Đại Đăng và Hoà thượng Nan Tư . Đại Đăng truyền cho hoàng đế Thánh Tôn ta và các ngài Liu Minh quốc sư, Thường Cung, Huyền sách, Huyền Sách truyền cho Phả Trắc v.v ... nay cũng mờ dần không rực rỡ lắm. Ôi, Thiền tôn thạnh suy, há nói xiết sao. Nay lược kể các phái Thiền để lưu lại về sau, hầu bậc học giả biết Thiền có tôn đáng học, chứ chẳng phải chuyện tự bịa đặt bày ra, ấy vậy". Sau lời tự dẫn này mới chính là bản đồ truyền thừa của Thiền phái Trúc lâm, mà người viết lời tự dẫn vừa dịch tự xưng là tôn mình. Cái gọi là Lược dẫn thiền phái đồ đây chắc chắn là do một tác giả thuộc phái Trúc lâm viết ra, bởi vì nó không những xưng Trần Thánh Tôn là "Hoàng đế Thánh Tôn ta" và Lý Thái Tôn là Nguyễn Thái Tôn, mà còn vì trong bản đồ của phái Trúc lâm, nó liệt đến ba người đệ tử của Pháp Loa là hết. Thêm vào đó, thật lục của Trần Nhân Tôn trong Thánh đăng lục tờ 40a2 khi nói đến những người đệ tử nối dòng của Nhân Tôn, nó viết: "Đệ tử nối pháp đã liệt kê đầy đủ trong Tuệ trung Thượng sĩ ngữ lục đồ tinh dẫn." Cái gọi là "Tuệ trung Thượng sĩ ngữ lục đồ tinh dẫn" này tức là Lược dẫn thiền phái đồ vừa dịch. Như vậy, bản lược đồ đấy phải viết sau khi Nhân Tôn mất, tức sau năm 1308, để cho Thật lục có thể dẫn. Nó do ai viết? Chắc phải là một trong những người đệ tử của Pháp Loa, mà chính bản đồ của Lược dẫn ghi gồm ba người, đấy là Huyền Quang, Cảnh Huy và Quế Đường. Một trong ba người này hay là thị giả cao đệ của họ đã ghi lại.
Bấy giờ, cứ bản Lược dẫn thiền phái đồ thì thầy của Lý Thái Tôn là Thiền sư Thiền Nguyệt. Thiền uyển tập anh nói vua "tham vấn
thiền chỉ với Thiền Lão". Thiền Lão như vậy đúng ra phải có tên là Thiền Nguyệt mà vì tôn trọng phải gọi thành Thiền Lão, như trường hợp Thông Thiền đã gọi thành Thông sư. Ứng Thuận gọi thành Ứng vương, để khỏi phạm húy của thầy. Do đó Thiền Lão từ đây nó phải là Thiền Nguyệt.
Đọc lời tự dẫn của bản Lược dẫn thiền phái đồ trên, ta có thể chắc chắn nó phải viết ra trước năm 1337 khi tác giả Thiền uyển tập anh hoàn thành tác phẩm của mình, bởi vì nếu có Thiền uyển tập anh người viết lời tự dẫn đã không phải nói"không biết người đắc pháp về trước Thiền Nguyệt là ai". Rất có thể tác giả lời tự dẫn trên đây cũng là tác giả của Thiền uyển tập anh. Xem những bàn cãi trong phần nghiên cứu.
4 Châm chùy, hoặc nói là kiếm chùy, chỉ cho sự đào luyện khó nhọc của Thiền gia. Phổ Chiếu, Bích nham lục tự: "Bỉnh phanh Phật
đoàn Tổ kiềm chùy, tụng xuất nạp tăng hướng thượng ba tỉ". Xem Bích nham lục 1 tờ 39a5.
Bát nhã thật không tôn
Nhân không, ngã cũng không Quá, hiện vị lai Phật
Pháp tính bản lai đồng.1
Mọi người đều phục sự nhanh trí của nhà vua.
1 Kiến văn tiểu lục 4 tờ 12b9-10 chép y bài kệ ở đây.

Thế Hệ Thứ Tám (6 ng ườ i, thi ế u 3 ng ườ i)

15.     QUỐC SƯ Thông Biện (? - 1134)
Chùa Phổ ninh, Từ liêm1. Người Đan phụng2, họ Ngô, con dòng Phật tử. Bẩm tính thông tuệ, rất giỏi tam học3. Ban đầu đến tham bái Thiền Sư Viên Chiếu, chùa Cát tường. Khi rõ được yếu chỉ bèn đến ở tại Quốc tư ỉ của Thăng kinh4, tự gọi hiệu là Trí Không.
Ngày 15 tháng 2, mùa xuân năm Hội Phong thứ 5 (1016) Phù Thánh Linh Nhân hoàng thái hậu5 có lần [19b1] đến trai tăng ở chùa Sư, cùng với các bậc kỳ túc thăm hỏi ý nghĩa Phật và Tổ, có gì hơn thua ? Phật trú phương nào? Tổ ở nơi đâu? Đến đất nước này từ lúc nào? Trao truyền đạo đây, ai trước ai sau. Còn niệm tên Phật, đạt tâm Tổ, tuần tự truyền nhau, thì chưa biết cái nào là tôn chỉ?
Mọi người đều không lên tiếng, Sư bèn đáp rằng: "Thường trụ thế gian, không sanh không diệt thì gọi là Phật. Hiểu rõ Tâm tôn của Phật, hạnh giải đều hiệp nhau, thì gọi là Tổ6. Phật và Tổ là một. Bởi bọn lạm xưng học giả tự dối nói là có hơn thua vậy. Vả Phật nghĩa là giác ngộ,và sự giác ngộ đó xưa nay vắng lặng thường trú. Hết thảy hàm sinh, đều cùng một nguyên lý đấy. Nhưng bởi bụi lòng che khuất, theo nghiệp nổi trôi, mà chuyển nên các cõi. Đức Phật vì lòng từ bi,nên thị hiện đản sanh đất Trúc. Bởi vì nó là nơi được gọi trung tâm của trời đất7. Năm 19 tuổi xuất gia, năm 30 thành đạo. ở đời thuyết pháp 49 năm, mở bày các phương tiện, khiến người ngộ nhập đạo đó. Ấy gọi là sự hưng khởi của một [20a1] thời đại kinh giáo8. Khi sắp nhập Niết bàn, sợ người sau mê chấp sinh tệ, nên bảo với Văn Thù rằng: "Suốt 49 năm, ta chưa từng nói một chữ, sao bảo là có điều để nói". Rồi cầm một cành hoa đưa lên, mọi
1 Tức huyện Từ liêm cũ, nay đấy Hoài đức, tỉnh Hà đông. Xem chú thích (2) truyện Vân Phong.
2 Tức huyện Đan phụng, Đại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn tây, viết: "Huyện Đan phụng ở tại phía đông của phủ 35 dặm, từ đông sang tây rộng 20 dặm, từ nam xuống bắc rộng 25 dặm, từ huyện lỵ đến phía đông giáp giới với huyện Từ liêm của Hà nội 12  dặm, phía tây đến sông Hát đối ngạn với địa giới huyện An sơn 8 dặm, phía nam đến địa giới huyện Từ liêm, tỉnh hà nội 13 dặm, phía bắc đến huyện Phúc thọ phủ Quảng oai 12 dặm. Nó là đất cú lậu đời Hán. Đời Trần về trước đặt tên Đan Phụng. Đời Minh cải làm huyện Đan sơn sáp nhập với châu Từ liêm, sau tinh nhập, vẫn thuộc phủ Giao châu. Đời Lê Quang Thuận phục hồi lại tên cũ, cải thuộc phủ Quốc oai kiêm lý". Nay là huyện Đan phụng tỉnh Hà tây.
3 Tam học. Chỉ ba môn học chính của Phật giáo, đấy là học về giới, học về định và học về tuệ, hay thường gọi tắt là giới định tuệ.  Để học về giới, người ta phải dựa vào những bản điều luật Phật giáo, tức là luật tạng. Để học về định, người ta phải suy gẫm về những lời dạy của Phật Thiùch Ca, tức kinh tạng. Để học về tuệ, người ta nghiên cứu những tác phẩm triết học Phật giáo, tức luận tạng. Cho nên, nói rằng giỏi về tam học, tức cũng có nghĩa giỏi về toàn bộ kinh điển Phật giáo, tức kinh, luật và luận. Xem Thích thị yếu lãm quyển trung tờ 292c22-23.
4 Nguyên văn: Thăng kinh Quốc tự. Quốc tự đây nghi là bản in khắc sót chữ Khai, tức chỉ chùa Khai quốc của kinh đô Thăng long, nơi những cao tăng của triều Đinh Lê đã từng sống. Về chùa Khai quốc, xem chú thích (1) ở truyện Vân Phong.
5 Phù Thánh Linh Nhân hoàng thái hậu. Nguyên bản viết là Phù Thánh Cảm Linh Nhân hoàng thái hậu. Nhưng chúng tôi cứ theo Đại Việt sử lược, Toàn thư và Cương mục chính biên để sửa lại là Phù Thánh Linh Nhân. Linh Nhân là mẹ của vua Lý Nhân Tôn. Người làng Thổ lỗi, mà sau này khi sinh ra Nhân Tôn đã cải lại là Siêu loại, họ Lê được Thánh Tôn nạp vào cung năm 1063 và đặt tên là
_ Lan phu nhân. Năm 1066 sinh Nhân Tôn và được tôn làm Thần phi. Năm 1073 khi mới lên ngôi một năm, Nhân Tôn u sát Dương thái hậu và tôn mẹ minh lên làm Linh Nhân hoàng thái hậu. Linh Nhân mất năm 1117 và được thụy là Phù Thánh Linh Nhân hoàng thái hậu.
6 Dương Huyền Chi hỏi Bồ Đề Đạt Ma sao gọi là Tổ, Bồ Đề Đạt Ma trả lời: "Kinh Phật tâm tông, hạnh giải tương ưng, danh chi viết Tổ". Xem Truyền đăng lục 3 tờ 220a5. Hành giải tức có nghĩa như tri hành hiệp nhất. Hành tức việc làm, và giải có nghĩa sự hiểu biết.
7 Nguyên văn: "Cố thị sanh Trúc thổ cái vị thiên địa chi chính trung giả". Tham chiếu Mâu tử lý hoặc luận trong Hoằng minh tập 1 tờ 1c25-26. Sở dĩ sanh Thiên trúc giả, thiên địa chi trung, xử kỳ trung hoà giả.
8 Nhất đại thời hưng giáo. Thuật ngữ của Thiền gia chỉ giáo pháp tam thừa do Phật Thích Ca nói trong suốt 49 năm tại thế, bao gồm các thứ quyền thiệt, đốn tiệm v.v... ngoại trừ Thiền tôn, một thứ "giáo ngoại biệt truyền". Từ này tương đương với từ "nhất đại giáo" của Chỉ quán nghĩa lệ hay "nhất đại thánh giáo" của Thiên thai tứ giáo nghi, mà những người Thiền tôn, đặc biệt là những người, chuyên về giáo phán, dùng để gọi toàn bộ giáo lý của Phật Thích Ca. Xem Chỉ quán nghĩa lệ và Thiên thai tứ giáo nghi.
người đều ngơ ngác, chỉ có Tôn Giả Ca Diếp nở mặt mỉm cười1, Phật biết Ca Diếp đã tỏ ngộ, liền đem Chánh pháp nhãn tạng giao cho, ấy là vị Tổ thứ nhất. Đó gọi là Tâm tôn, truyền riêng ngoài giáo điển.
Về sau, Ma Đằng2 đem kinh pháp truyền vào đất Hán, và Đạt Ma đem tâm chỉ truyền sang  Lương và Nguỵ. Việc truyền kinh pháp đến Thiên thai3 thì thịnh, gọi là Giáo tôn. Được yếu chỉ của Đạt Ma thì đến Tào khê4 mới sáng, gọi là Thiền tôn. Hai tôn ấy truyền đến nước Việt ta đã nhiều năm. Giáo thì lấy Mâu Bác5, Khương Tăng Hội6 làm đầu. Thiền thì lấy Tỳ Ni Đa Lưu Chi làm phái trước, Vô Ngôn Thông làm phái sau. Đó là những vị Tổ của hai phái".
Hậu nói: "Hãy để Giáo tôn đó đã, còn hai phái Thiền có gì bằng chứng?".
Sư đáp: "Xét Đàm Thiên pháp sư truyện7 thì vua Tùy Cao [20b1] Tổ gọi Pháp sư nói: "Trẫm nghĩ đến lời dạy từ bi của đức Điều Ngự, muốn báo đền công đức, không biết làm sao. Trẫm trộm làm bậc nhân vương, rộng giúp Tam bảo, đã khắp ban di thể xá lợi, đồng thời ở trong nước dựng bảo tháp phàm 49 cái để làm bến cầu giác ngộ cho đời, còn hơn 150 tự tháp ngoài do các xứ kiến lập mong tạo phước nhuận thấm tới đến cả thế giới đại thiên. Song xứ Giao Châu kia tuy đã nội thuộc, nhưng còn ky my, nên phải chọn những sa môn danh đức, đến các xứ của châu ấy để dạy dỗ, hầu khiến cho tất cả đều giác ngộ"8.
1 Truyền thuyết của Thiền tôn về nguyên lai của tôn mình. Vương An Thạch hỏi Sư Huệ Tuyền về xuất xứ của truyền thuyết này. Tuyền nói trong Đại tạng không thấy chép. Vương bảo, tình cờ ông đọc thấy nó trong Đại phạm thiên vương vấn Phật quyết nghi kinh (?). Nó gồm có ba quyển, và nội dung nói theo Vương, thì như sau: Phạm vương đến Linh sơn, dâng hoa ba là màu vàng cúng Phật và cúng thân mình làm giường ngồi, xin Phật vì chúng sanh mà thuyết pháp. Thế Tôn lên tòa giảng, cầm hoa dơ lên, trời người trăm vạn đều không hiểu ra. Chỉ có đầu đà Kim Sắc rạng mặt mỉm cười. Thếâ Tôn nói: " Ta có chính pháp nhãn tạng Niết bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng, đem giao cho Ma Ha Ca Diếp". Vương cũng còn thêm rằng: "Kinh này phần lớn bàn tới việc đế vương, vì vậy nên bị cất đi trong cung vua và người đời ít nghe tới nó". Xem Nhân thiên nhãn mục 5 tờ 325b3-13.
2 Tức Ca Diếp Ma Đằng, dịch giả kinh Phật đầu tiên tại Trung quốc theo truyền thuyết. Xem Cao tăng truyện 1 tờ 322c13-323a23.
3 Tức Trí Khải (538-597) vì sống ở núi Thiên thai, nên cũng gọi là Thiên Thai hay Thiên Thai đại sư, người sáng lập nên một trường phái mang tên Thiên Thai tôn, mà tự nguyên uỷ vì dựa vào kinh Pháp hoa nên gọi là Pháp hoa tôn, và đề xướng ra một phương pháp tu hành chỉ quán thường được mệnh danh "Thiên thai giáo quán". Xem Tục cao tăng truyện 17 tờ 564a18-568a15.
4 Tức Huệ Năng (638-713), vì sống ở chùa Nam hoa dựng gần khe Tào, nên cũng gọi là Tào khê. Xem Truyền đăng lục 5 tờ 235b10- 237a12 và Tống cao tăng truyện 8 tờ 754c1 - 755c10.
5 Tức Mâu Tử (165 - ?) tác giả Mâu tử lý hoặc luận, tác phẩm lý luận Phật giáo đầu tiên tại nước ta cũng như của miền đông châu Á, viết vào khoảng năm 198 sau Tây lịch. Xem Hoằng minh tập 1 tờ 1a26-7a22, Xuất tam tạng ký tập 12 tờ 82c29-83a1, Phật tổ thông ký 35 tờ 332a27 - b5; Phật tổ lịch đại thông tải 5 tờ 510b17 - 514a9, Thích thị khể cổ lược 1 tờ 769a12-c6.
6 Khương Tăng Hội (? - 280), sản phẩm đầu tiên của nền Phật giáo nước ta, tác dịch giả một số tác phẩm quan trọng, mà đặc biệt nhất là Lục độ tập kinh, đóng góp rất nhiều tài liệu lịch sử văn học cho công tác nghiên cứu cổ sử của ta. Xem Xuất tam tạng ký tập 13 tờ 96a29-97a17 và Cao tăng truyện 1 tờ 235a13-236b13 v.v ...
7 Đàm Thiên pháp sư truyện ở đây tức là truyện của Pháp sư Đàm Thiên đời Tuỳ trong Tục Cao tăng truyện 18 tờ 571b12-574 b6, chứ không phải là của Kinh sư Đàm thiên đời Tề trong Cao tăng truyện 13 tờ 413a18 - 26, như Trần Văn Giáp (Le Bouddhisme en Annam BEFEO XXXII (1932) đã đồng nhất một cách sai lầm. Đàm Thiên đời Tuỳ sinh năm 542 và mất năm 607, thọ 66 tuổi, quả đã có những quan hệ rất mật thiết với Tùy Cao tổ và đặc biệt về việc cúng dường xá lợi, ông quả đã có một cống hiến đặc biệt. Xem tiểu sử trong Tục Cao tăng truyện vừa kể.
8 Nguyên văn: "Án Đàm thiên pháp sư truyện, Tùy Cao Tổ vị (chi) pháp (giả hậu) sư vân: Trẫm niệm Điều Ngự từ bi chi giáo, báo đức vô do, vị thiêm nhân vương, hoằng hộ Tam bảo, dĩ biến thu di thể xá ly, nhưng ư quốc nội, lập thụ bảo tháp, phàm tứ thập cửu sở, biểu thế tân lương, dư nhất bách ngũ thập tự tháp, ngoại các Giao, châu chư xứ kiến lập, ký tư phước nhuận, dĩ cập đại thiên. Nhiên bỉ Giao châu tuy nội thuộc, do hệ ky my, nghi tuyển danh đức Sa môn, vãng bỉ chư xứ hoá, già lịnh nhất thiết, cu đắc bồ đề".
Trong đoạn này, những chữ để trong vòng ngoặc là những chữ chúng tôi coi như những din tự do lỗi của người viết hay người khắc bản, vì vậy đã không được dịch. Còn những chữ in đậm là những chữ chúng tôi thêm vào, cứ trên những dữ kiện lịch sử ngoại tại khác, để ý nghĩa đoạn văn được chính xác.
Thứ nhất, ở câu "Tuỳ Cao tổ vị (chi) pháp (giả hậu) vân" của nguyên bản, chúng tôi cho rằng những chữ "chi giả hậu" là những diễn tự của câu đi trước, ở đây ta có "nhị phái chi tổ giả hậu viết". Sau khi loại những chữ "chi giả hậu" đi rồi, chúng tôi thêm chữ sư vào, để cho câu văn được gọn nghĩa.
Thứ hai, về loại bỏ chữ Giao châu ở câu "dư nhất bách ngũ thập tự tháp ngoại các Giao, châu chư xứ kiến lập, ký tư phước nhuận", thì chúng tôi cứ vào chính bản tiểu sử của Đàm Thiên nay trong Tục Cao tăng truyện 18. Ở tờ 537b25-c14, Đạo Tuyên ghi lại rất rõ những diễn tiến của việc ban bố xá lợi và xây tháp của Tùy CaoTổ. Tháng sáu năm Nhân Thọ thứ nhất (601), Cao Tổ ra lệnh "chọn 30 chỗ cao sảng thanh tịnh để dựng tháp thờ xá lợi" trong khắp Trung quốc, đồng thời ban cho mỗi nơi một hòm xá
Pháp sư đáp: "Một phương Giao châu, đường thông Thiên trúc, Phật pháp lúc mới tới, thì Giang Đông chưa có, mà Luy lâu lại dựng chùa hơn 20 ngôi, độ tăng hơn 500 người, dịch kinh 15 quyển, vì nó có trước vậy. Vào lúc ấy, thì đã có Khâu Đà La1, Ma La Kỳ Vực2, Khương Tăng Hội, Chi Cương Lương, Mâu Bác tại đó. nay lại có Pháp Hiền thượng sĩ, đắc pháp với Tỳ (21a1) Ni Đa Lưu Chi, truyền tông phái của tam Tổ, là người trong hàng Bồ tát, đang ở chùa Chúng thiện dạy dỗ học trò. Trong lớp học đó không dưới 300 người, cùng với Trung quốc không khác. Bệ hạ là cha lành của thiên hạ, muốn bố thí một cách bình đẳng thì chỉ riêng khiến sứ đưa xá lợi đến, vì nơi ấy đã có người, không cần đến dạy dỗ3.
Lại bài tựa Truyền pháp của tướng quốc Quyền Đức Dư4 đời Đường, nói: "Sau khi Tào Khê mất đi, Thiền pháp thịnh hành đều có thừa kế. Chương Kính Uẩn thiền sư5 dùng tâm ấn của Mã Tổ hành hóa ở Ngô, Việt. Vô Ngôn Thông đại sĩ đem tôn chỉ của Bách Trượng khai ngộ tại Giao châu". Đó là những chứng cứ vậy".
Thái hậu lại hỏi về thứ tự truyền thọ của hai phái trên.
lợi. Cứ Xá lợi cảm ứng ký do VươngThiệu viết trong Quảng hoằng minh tập 17 tờ 216b10 thì chùa Thiền chúng của Giao châu được chọn làm nơi dựng tháp giữa số 30 chỗ của 30 châu đấy. Sau đợt ban bố thứ nhất này, tháng giêng năm sau, tức năm 602, Cao Tổ lại ban bố xá lợi đợt hai cho "hơn 50 châu", mà Khánh xá lợi cảm ứng biểu do Vương Hùng viết trong Quảng hoằng minh tập 17 tờ 216c7 - 221a7 nói rõ là có 51 châu với một châu được ban lần thứ hai là thành ra 52 châu. Và đợt ban bố xá lợi thứ ba xẩy ra vào mùa xuân năm Nhân Thọ thứ 4 (604), theo đó "vua ra lệnh xây miếu ở 30 châu, rồi bèn sai dựng linh tháp ở hơn một trăm chỗ của các châu lớn ở trong nước, để khuyên người tôn sùng điều lành". Như vậy, rõ ràng dưới thời Tùy Cao Tổ, việc ban xá lợi cho các châu xảy ra cả thảy ba lần. Lần đầu năm 601 cho 30, lần thứ hai năm sau cho 51 châu và lần thứ ba cho hơn 100 sở ở tại các châu lớn. Do thế, trong đoạn văn trên, ta thấy Tùy Cao Tổ kể đến ba lần ban bố xá lợi này, mà lần thứ nhất nó không cho biết rõ số châu được ban bố và chỉ viết "biến phân (thu) di thể xá lợi", nhưng lần thứ hai thì nó ghi rõ là "cho lập bảo tháp phàm 49 sở ở khắp nước" thì hiển nhiên nó muốn nói tới đợt phân phát xá lợi thứ hai cho 51 châu năm 602. Và lần thứ ba nó viết "còn hơn 150 tháp do các xứ của mỗi châu kiến lập để mong phước nhuận thấm tới đại thiên" thì rõ ràng nó muốn đề cập tới đợt phân phát thứ ba năm 604, chứ dứt khoát không thể là "còn hơn 150 chùa tháp của các xứ Giao châu được. Chữ Giao châu trong câu đó vì vậy phải loại ra coi nó là một diễn tự lấy từ câu tiếp theo, đấy là "Nhiên bỉ Giao châu tuy nội thuộc". Chúng tôi do thế đã thêm chữ Giao châu ấy vào cho câu tiếp theo đấy.
Dựa vào dữ kiện của truyện Đàm Thiên trong Tục Cao tăng truyện hiện nay, để mà sửa sai và chấm câu lại đoạn văn trên, ý nghĩa
cũng như những mẫu tin lịch sử của bây giờ đã trở thành rõ ràng và có lý cứ.
1 Nguyên bản viết Khâu Ni danh. Đây chắc là một viết sai và khắc lộn của cái tên Khâu Đà La, mà Cổ châu Pháp Vân Phật bản hạnh ngữ lục kể ra cùng với Kỳ Vực như hai vị sư "cùng một lúc đến thành Luy lâu, trị sở của Sĩ Vương" vào khoảng cuối triều Hán Linh Đế. Ở đây, họ được một Ưu bà tắc tên Tu Định mời ở lại. Nhưng Kỳ Vực từ chối và tiếp tục cuộc hành trình của mình, còn Khâu  Đà La thì bằng lòng và cuối cùng đã truyền pháp lại cho A man với sự ra đời của bốn vị thánh Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện. Cổ châu tứ pháp phổ lục cũng nói tới truyện này. Đạo giáo nguyên lưu quyển thượng tờ 9b6-9 dưới mục "Sư Ấn độ thời vua Hùng" đã coi Khâu Đà La như một "nhà sư Ấn độ thời vua Hùng" đã gặp Tu Định và truyền pháp lại cho A Man. Nội dung chuyện này thì đại khái giống truyện Man Nương của Lĩnh nam trích quái tờ 25-26, nhưng ở đó tên Khâu Đà La đã bị đổi thành Giả La Chà Lê.
2 Tức Kỳ Vực của Cổ châu Pháp Vân Phật bản hạnh ngữ lục và đến Luy lâu cùng một lúc với Khâu Đà La vào cuối thời Hán Linh Đế, tức khoảng những năm 168-189. Cao tăng truyện 10 tờ 388a16-c5 cũng nói tới một Kỳ Vực đã từng trải qua "miền Giao châu và Quảng châu và đều có chuyện linh dị", rồi đến Lạc dương vào khoảng cuối đời Tấn Huệ Đế, tức khoảng những năm 305-306. Như vậy, Kỳ Vực này đến Giao châu sớm lắm thì cũng khoảng vào những năm trước sau năm 290. Thế thì, hai Kỳ Vực đây phải chăng là cùng một người?. Cứ trên hành trạng của hai người thì ta bắt buộc phải đồng nhất họ với nhau. Nhưng bằng vào sự sai khác niên đại, một sự sai khác đến những trăm năm, ta tất yếu phải giả định sự có mặt của hai người khác nhau cùng mang tên Kỳ Vực, nếu quả thật những sử liệu của Cổ châu Pháp vân Phật bản hạnh ngữ lục là đáng tin cậy.
3 Truyện Pháp sư Đàm thiên ngày nay trong Tục Cao tăng truyện 18 tờ 571b12-574b6 không có lời đáp này của Đàm Thiên cũng như câu đề nghị của Tùy Cao Tổ. Nhưng cũng chính Tục Cao tăng truyện 18 tờ 574b5-6 lại ghi thêm rằng "có Sa môn Minh Tắc vì Thiên mà viết hành trạng, đầu đuôi quán xuyến, kinh sư ưa chuộng". Thế có nghĩa, trước và ngoài bản Tục Cao tăng truyện, ta còn có một bản khác mang tên Hành trạng do Minh Tắc viết về Thiên. Phải chăng bản Hành trạng này đã chứa đựng những câu nói trên của Tùy Cao Tổ và của Đàm Thiên và đamg còn lưu hành ở nước ta vào thời Thông Biện, để cho Biện viện dẫn? Dẫu sao đi nữa, những gì do hai bản đấy nói không phải không kiểm chứng được với những tài liệu hiện có ngày nay. Cũng cần thêm là, cứ vào nội dung của câu nói trên, thì cuộc đối thoại giữa Tùy Cao Tổ và Đàm Thiên, xảy ra vào mùa xuân năm Nhân Thọ thứ tư (604), bởi vì đầu tháng giêng thì Cao Tổ ra lệnh xây hơn một trăm cái tháp, mà chính câu nói đã kê ra, và đến tháng tư thì nhuốm bệnh và tháng bảy thăng hà.
4 Quyền Đức Dư (757-818) làm Tể tướng dưới thời Đường Hiến Tôn. Bài tựa cho cuốn sách nhan đề Truyền pháp này ngày nay đã thất lạc. Văn uyển anh hoa, Toàn Đường văn cũng như Toàn Đường văn bổ di không thấy chép một bài tựa nào như thế cả.
5 Tức Thiền sư Hoài Uẩn (? - 818) chùa Chương kính ở Kinh Triệu. Xem Truyền đăng lục 7 tờ 252b19-c23.

Sư đáp: "Phái của Tỳ Ni Đa Lưu Chi, tức nay Lâm Huệ Sinh, Vương Chân ấy vậy1. Kỳ dư chia chẻ ra bao la không thể kể hết".
Thái hậu rất vui, bèn phong Sư làm Tăng lục2, ban cà sa tía3 và hiệu [21b1] Thông Biện đại sư, cùng thêm hậu thưởng để tỏ lòng yêu chuộng. Không lâu, Hậu triệu Sư vào cung, phong làm Quốc sư4, hỏi han yếu chỉ của thiền. Bà sâu hiểu tôn chỉ nó.*{Thái hậu đã từng có bài kệ Ngộ đạo rằng: sắc là không, không tức sắc, không là sắc, sắc tức không, sắc không đều không bận, mới hiểu được chân tông}.
Tuổi già, Sư dời đến ở chùa mình, mở pháp hội lớn, mưa cơn mưa pháp. Sư dạy người sửa mình, thường dùng đến kinh Pháp hoa, cho nên người bấy giờ gọi Sư là Ngộ Pháp Hoa.
Ngày 12 tháng 2 năm Giáp dần Long Chương Bảo Tự thứ hai (1134), Sư cáo bệnh.

16.     Đại Sư Mãn Giác (1052 - 1096)
Chùa Giác Nguyên, Cửu liên5. Người Lũng chiền, làng An cách1 họ Nguyễn tên Trường. Cha là Hoài Tổ làm quan đến chức Trung thư viên ngoại lang2. Vua Lý Nhân Tôn, lúc còn làm thái tử, xuống
1 Lâm Huệ Sinh tức Huệ Sinh tăng thống (? - 1064) của thế hệ thứ 13 của giòng Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Thế hệ này theo Thiền uyển tập anh thì gồm cả thảy sáu người, nhưng nó chỉ ghi lại tiểu sử của bốn người thôi, đấy là Lâm Huệ Sinh, Khương Thiền Nham, Nguyễn Minh Không, và Nguyễn Bản Tịch, chứ không có người nào mang tên Vương Chân hết. Thế hệ thứ 14 cũng không có ai mang tên đó cả. Thế hệ thứ 12 cũng vậy, chỉ có tên Vạn Hạnh, Định Huệ, Đạo Hạnh, Trì Bát và Thuần Chân. Phải chăng Vương Chân là một viết sai của Thuần Chân hay Chân Không? Mai Viên Chiếu (999 - 1090) và Nhan Quảng Trí (mất khoảng những năm (1085-1091) thuộc thế hệ thứ 7 của giòng Vô Ngôn Thông. Thế hệ này có bảy người nhưng Thiền uyển tập anh chỉ ghi lại tiểu sử và tên sáu người thôi, đấy là Mai Viên Chiếu, Đàm Cứu Chỉ, Nghiêm Bảo Tính, Phạm Minh Tâm, Nham Quảng Trí và Lý Thái Tôn, chứ không ghi ai tên Lôi Hà Trạch cả. Những thế hệ trước và sau thế hệ này cũng không ai mang tên ấy hết. Nhưng ở tiểu sử của Nguyễn Giác Hải thuộc thế hệ thứ 10 cũng của giòng Vô Ngôn Thông này, ta được bảo: "Hải trước cùng với Không Lộ đều thờ Hà Trạch làm thầy, sau bỗng chốc trở thành pháp tự của Lộ." Như vậy, quả có một Thiền sư có lẽ thuộc thế hệ thứ 7 hay cùng lắm là thứ 8 mang tên là Hà Trạch, mà cả Giác Hải và Không Lộ thờ làm thầy. Nhưng ở trong bản tiểu sử của Không Lộ thì chỉ nói rằng Lộ "trong khoảng Chương Thánh Gia Khánh (1059-1065) đã cùng với bạn đạo là Giác Hải đều vân du phương ngoại, tạm đến chùa Hà trạch nương thân". Thế thì, Hà trạch là tên một ngôi chùa, chứ không phải là tên người. Tuy nhiên, tên chùa cũng có thể dùng xưng hô thế cho tên người. Lôi Hà Trạch do vậy là một nhân vật có thật và có lẽ thuộc thế hệ thứ 7 hay cùng lắm là thứ 8 của giòng Vô Ngôn Thông, bởi vì Không Lộ là thuộc thế hệ thứ 9 của giòng này. Từ đó, chữ "tức kim" đi trước chữ "Lôi Hà Trạch" trong nguyên bản, chúng tôi coi như những diễn tự và đã bỏ đi không dịch.
2 Toàn thư 1 tờ 3b6-9 (Thái Bình) năm thứ hai (971) lần đầu tiên định giai phẩm của văn võ và Tăng đạo, lấyTăng thống Ngô Chân Lưu cho hiệu Khuông Việt thái sư, Trương Ma Ni làm Tăng lục đạo sĩ, Đặng Huyền Quang làm Sùng chính uy nghi". Tăng lục như vậy là một chức quan do triều đình đặt ra cho Phật giáo và bắt đầu ở nước ta ngay từ lúc Đinh Tiên Hoàng mới lập quốc, qua nhà sư tên Trương Ma Ni. Ở Trung quốc, chức này bắt đầu xuất hiện với Đoan Phủ dưới triều vua Đường Văn Tôn (827-840). Chức năng của chức này có thể thấy qua lời chiếu sau đây viết đầu thời Vũ tôn: "có Phật pháp đến đây, từ xưa tới nay, hưng phế có gì làm chứng, xin lưỡng nhai Tăng lục cùng các Sư tam học viết ra những sự việc, dâng lên". Xem Đại Tống tăng sử lược quyển trung tờ 243c26-28. Chức năng của Tăng lục ngoài việc giữ giấy tờ hộ tịch, như vậy còn có chức năng của một Sử quan Phật giáo, một chức năng khá thích hợp với Biện.
3 Tục ban áo tía cho các nhà sư bắt đầu tới Võ Tắc Thiên (684-774) ở Trung quốc. Năm 690, nhà sư Pháp Lãng đã tìm một dẫn chứng trong kinh Đại vân biện minh cho sự lên ngôi của Thiên, nên được Thiên phong làm Huyện công và ban áo cà sa tía. Xem Đại Tống tăng sử lược quyển hạ tờ 248c3-249a29. Ở nước ta, Thông Biện là người đầu tiên nhận áo tía được biết.
4 Đại Tống tăng sử lược quyển trung tờ 244b29-c15 nói về lai lịch của chức Quốc sư, bắt đầu với Pháp Thường dưới thời Bắc Tề (550-577), đã xác định nội dung nó thế này: "Về giáo lý bên trong thì học thông cả ba tạng, gồm thông cả năm món học, cả nước quy y theo, thế là làm rõ hiệu đó". Năm món học hay ngũ minh nói tới đây tức là triết học, ngôn ngữ học, luận lý học, y dược học và kỹ thuật học. Ở nước ta thì Khô Đầu có lẽ là vị sư đầu tiên được biết mà Lý Nhân Tôn phong làm Quốc sư năm Quảng Hựu thứ tư (1088). Toàn thư quyển 3 tờ 11b9-12a2 còn ghi thêm: "Có nơi nói, vua ban cho Sư tiết việt, cùng với tể thần đứng ngang hàng trên điện vua để xử đoán việc vàn và kiện tụng của thiên hạ". Nhìn đó, ta có thể thấy sơ vai trò của Quốc sư trong triều đình và lịch sử Việt nam.
5 Cửu liên là tên một châu. Đại Việt sử lược 3 tờ 20b7 nói Lý Huệ Tôn "năm Kiến Gia thứ 8 (1218) tháng tư đi chơi châu Cửu liên xem bắt cá". Đó cũng là nơi đóng quân của Trần Tự Khánh vào mùa xuân năm 1215, rồi sai các tướng mình lên đóng ở Cửu Cao và Cửu ông để chống lại Nguyễn Nộn. Toàn thư B4 tờ 29b1-5 nói mùa xuân năm 1216 Lý Huệ Tôn "ban đêm cùng với phu nhân lén đi đến quân của Tự Khánh, gặp trời sáng, dừng lại nhà của tướng quân Lê Mích ở huyện An diên thì gặp tướng của Tự Khánh là Vương Lê đem thủy quân đến đón. Vua bèn ở lại châu Cửu liên, gọi Tự Khánh đến chầu". Đại Việt sử lược 3 tờ 29b8-11 cũng ghi những sự việc ấy, nhưng không nói rõ lộ trình và nơi trú lại của Huệ Tôn. Điều quan trọng là nó ghi lại ngày tháng xảy ra sự chiếu mời con em các danh gia vào hầu hai bên. Sư nhờ nghe nhiều, nhớ kỹ học thông cả Nho, Thích nên được dự tuyển. Sau những lúc việc quan, thường chú tâm vào Thiền học.
Đến khi vua lên ngôi, vì rất mến chuộng Sư, ban cho Sư tên Hoài Tín
Trong khoảng Anh Vũ Chiêu Thắng (1076 - 1084), Sư dâng biểu xin xuất gia. Khi đã được tâm ấn nơi Quảng Trí chùa Quán đảnh, (22a1) bèn cầm gậy vân du, khắp tìm bạn đạo, đến đâu học giả thường vân tập đến đấy. Sư xem Đại tạng kinh, được Vô sư trí3, là lãnh tụ Giáo hội của một thời vậy. Vua cùng với Linh Nhân hoàng thái hậu lúc mới lưu tâm đến Thiền học, liền xây chùa bên cạnh cung Cảnh hưng4, mời Sư đến ở, để tiện hỏi han. Nói chuyện với Sư, vua chẳng gọi tên mà thường gọi là Trưởng lão.
Một hôm vua gọi Sư nói: "Bậc chí nhân thị hiện, tất lo việc cứu đời, không hạnh nào chẳng đủ, không việc gì chẳng làm, không phải chỉ có sức định huệ, mà cũng có công phò tá. Vậy xin kinh bổ nhiệm ngài".
Bèn trao Sư chức Giáo nguyên thiền viện Hoài Tín đại sư truyền tổ vô tu vô chứng tâm ấn phụng chiếu nhập nội đạo tràng tứ tử đại sa môn đồng tam ti công sự. Trong lúc nhận chức này, Sư được lấy thuế hộ năm mươi người.
Ngày 30 tháng 11 năm Hội Phong thứ 5 (1096)5, Sư cáo bệnh, có kệ dạy chúng rằng: "Xuân đi trăm hoa rụng,
Xuân đến trăm hoa cười
Việc đời qua trước mắt Già đến trên đầu rồi ! việc đó vào ngày Giáp tuất (nguyên bản viết là Giáp thìn, nhưng nghi thìn là chữ tuất viết lộn) bởi vì 13 ngày sau vào ngày Bính tuất (nguyên bản viết là Canh tuất, Canh nghi là viết sai của chữ Bính) Đại Việt sử lược 3 tờ 30a2 nói: "Tự Khánh dựng điện cỏ ở Tây phù liệt, qui mô nó hoàn toàn phỏng theo Đại nội", mà Toàn thư thì nói Lý Huệ Tôn ở lại Cửu liên và cho gọi Tự Khánh tới châu ở đó. Thế là, nếu Cửu Liên không là Tây phù liệt, như vậy có thể nằm trong khoảng phần đất hai huyện Thanh oai và Thanh trì, tỉnh Hà đông ngày nay.
Truyện của Mãn Giác ở đây nói vua Lý Nhân Tôn cùng "Linh Nhân hoàng thái hậu lúc mới lưu tâm đến Thiền học, liền xây chùa bên cạnh cung Cảnh Hưng, mời Giác tới để tiện hỏi han". Đại Việt sử lược 2 tờ 12b6-7 cho biết "Năm Chương Thánh Gia Khánh thứ 7 (1065) tháng 8 vua đến chơi hành cung Cứu lan, đặt tên cung đó là Cảnh hưng". Vậy dựng chùa ở cung Cảnh hưng tức dựng ở hành cung Cứu lan. Cứu lan đây chắc là một viết khác của Cửu liên. Như vậy, chùa Giáo nguyên ở Cửu liên, tức là chùa do Lý Nhân Tôn dựng bên cạnh cung Cảnh hưng, nghĩa là bên cạnh cung Cứu lan. Nó có lẽ là chùa Cứu lan mà Huyền Quang làm bài tứ tuyệt "Nhân sự đề Cứu lan tự" do Trích dim thi tập ghi lại và Lê Quí Đôn dẫn ra trong Kiến văn tiểu lục 9 tờ 18a4-6.
1 Hai tên Lũng chiền và An cách này không thấy sử sách nào nói tới. Tuy nhiên, Bắc thành địa dư chí lục 3 trong khi liệt kê các tổng xã của huyện Duy tiên, có kê hai xã của tổng Hồng khê mang tên Lũng xuyên và Chiền đầu. Chúng tôi nghĩ rằng hai xã Lũng xuyên và Chiền đầu này vào thời Lý chắc là ấp Lũng chiền thuộc làng An cách của Mãn Giác nói ở đây. Đất của làng An cách đời Lý như vậy thuộc địa phận huyện Duy tiên tỉnh Hà nam ngày nay. Chúng tôi hiện chưa có dịp làm một cuộc khảo sát hiện địa, nên chỉ đoán vậy thôi. Truyện Mãn giác ở đây cũng nói làng An cách có chùa Sùng nghiêm. Đây là một điểm chỉ rất tốt cho công tác điều tra hiện địa của chúng ta, vì ta có thể tìm xem hiện ở hai làng Lũng xuyên và Chiền đầu ngày nay có ngôi chùa nào không?, và chùa đó có phải trước có tên Sùng nghiêm không?
2 Tức Lý Hoài Tổ làm trưởng đoàn phái bộ ngoại giao qua cáo ai và xin phong năm 1073. Xem Lý Đào, Tục tự thị thông giám trường biên 243 tờ 5a7.
3 Vô sư trí tức thứ trí tuệ không do thầy truyền dạy, thường dùng để chỉ cho Phật trí hay tự nhiên trí hay nhất thiết trí. Phẩm thí dụ kinh Pháp hoa có câu: "Nhất thiết trí, Phật trí, tự nhiên trí, vô sư trí". Pháp Tạng giải thích: "Vô sư trí tức là thứ trí tuệ trước vì không do thầy mà được, nên gọi là vô sư trí". Xem Diệu pháp liên hoa kinh sớ 6.
4 Do Thánh Tôn dựng vào năm 1065. Đại Việt sử lược 2 tờ 12b6-7 vào năm đó viết: "Tháng 8, ngày Quí mùi, vua đi chơi hành cung Cứu lan đặt tên cung đó là Cảnh hưng". Cung này như vậy ở tại núi Cửu liên, làng An cách.
5 Chép năm 1096 này là năm Mãn Giác mất, sợ là một sai lầm, bởi vì đến thế hệ thứ 9 Mãn Giác có một người đệ tử tên Bản Tịnh, và Thiền uyển tập anh chép Tịnh mất năm 1176 lúc ông 77 tuổi. Như thế Tịnh sinh năm 1100 và do đó làm sao có thể gặp Mãn Giác được để làm đệ tử? Giả như ta cho con số 77 là một viết sai của 97 đi nữa, thì vào năm Giác mất, Tịnh mới 16 tuổi, nghĩa là Tịnh đang ở vào cái tuổi chưa thể nhận tâm ấn của Giác một cách dễ dàng. Vì vậy chúng tôi nghĩ, có lẽ Mãn Giác mất vào năm 1100, tức năm Hội Phong thứ 9, bởi chữ ngũ rất dễ lẫn với chữ cửu, và như thế, nếu Tịnh sống tới 97 tuổi, ta có một giải quyết thoả đáng cho vấn đề liên hệ thầy trò giữa Giác và Tịnh.
 Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết, Ngoài sân đêm trước một cành mai."
[22b1]
Tối đó, Sư ngồi kiết già mà mất, thọ 45 tuổi đời, 19 tuổi hạ. Vua tặng hậu lễ, công khanh mỗi mỗi đến dâng hương, trà tỳ xong, thu xá lợi xây tháp ở chùa Sùng nghiêm, làng An cách. Vua sắc thụy là Mãn Giác.

17. THIỀN SƯ Ngộ Ấn (1020 - 1088)
Chùa Long ân, Ninh sơn1, phủ Ứng Thiên2, người Từ lý, làng Kim bài3, họ Đàm tên Khí. Mẹ là Cù Thị, lúc chưa lấy chồng, nhà ở bên cạnh rừng Mộ, thấy người bẫy chim đêm bà buồn bã nói: "Thà chịu chết làm lành, chứ không chịu sống làm ác".
Một hôm, bà bắt đầu dệt gấm, có một con khỉ lớn từ trong rừng ra, đến ôm lưng bà, trọn ngày mới bỏ đi. Cù Thị biết mình có thai. Đến khi sinh con, bà ghét lắm, đem bỏ trong rừng. Có người Chiêm thành cùng làng là Cụ Sư4 họ Đàm lượm đem về nuôi, nhân đó đặt tên là Khí.
Đến năm 10 tuổi, theo học nghiệp Nho. Học vấn càng ngày càng tiến, rất giỏi chữ Hán và Phạn. Năm19 tuổi xuất gia, đầy đủ giới định. Đối với nghĩa của hai kinh Viên Giác, Pháp hoa (23a1) Sư nghiên cứu rất tinh tường. Khi đã được tâm ấn nơi Quảng Trí chùa Quán đảnh, Sư vào thẳng Ninh sơn dựng am tranh tu hành, gọi là Ngộ Ấn.
Có lần vị tăng hỏi: "Thế nào là đại đạo?" Sư đáp: "Đường lớn".
Vị tăng thưa: "Kẻ học đạo này hỏi đại đạo, mà thầy đáp là đường lớn, vậy không hiểu ngày nào mới đạt được đại đạo?".
1 Đại nam nhất thống chí, tỉnh Hà nội, viết: "Núi Ninh ở phía bắc huyện lỵ Chương đức 19 dặm, trông ra sông Hát, triều Lê dựng hành cung trên núi để làm nơi đến viếng chơi". Lịch triều hiến chương loại chí 2 tờ 31a1-2 nói: "Ninh sơn ở phần trên huyện Chương đức, trông ra sông Hát, cảnh trí u nhã. Trịnh Hy Tổ thuở trước thường xây dựng làm nơi du hành". Huyện Chương đức, theo Đại nam nhất thống chí, tỉnh Hà nội, thì đông giáp huyện Thanh oai, tây giáp huyện Mỹ lương, tỉnh Sơn tây nam giáp huyện Hoài an và bắc giáp huyện Yên sơn, tỉnh Sơn tây. Đất huyện Chương đức như vậy tương đương với huyện Chương mỹ, tỉnh Hà đông hiện nay. Ninh sơn nằm tại huyện đấy.
2 Đại nam nhất thống chí, tỉnh Hà nội, khi viết về lai lịch phủ Ứng hòa nói: "Đời Hán thuộc quận Giao chỉ, đời Lý lấy làm phủ Ứng thiên, sau cải làm huyện Ứng thiên, đời Minh cải làm Ứng bình thuộc châu Oai man lệ, phủ Giao châu. Lê Quang Thuận lại đặt làm phủ Ứng thiên thuộc Sơn nam, Thừa tuyên, gồm 4 huyện. Năm Cảnh hưng thứ 2 (1741) nó lại thuộc lộ Sơn nam thượng. Đời Tây sơn nó thuộc trấn Sơn nam thượng. Năm đầu Gia Long triều ta nhân theo. Năm thứ 14 (1815) cải làm phủ Ứng hòa. Năm Minh Mạng thứ 3 (1823) cải thuộc trấn Sơn nam, đến năm 12 (1831) đổi không thuộc. Năm thứ 13 (1832) trích hai huyện Chương đức và Thanh oai, đặt làm phân phủ. Năm Tự đức thứ 31 (1878) bỏ phân phủ. Nó vẫn gồm bốn huyện".
Bốn huyện của phủ Ứng hòa nói đây là Sơn minh, Hoài an, Chương đức và Thanh oai, tức đất những huyện Ứng hòa, Mỹ đức, Chương mỹ, và Thanh oai, tỉnh Hà đông hiện nay. Phủ Ứng thiên thời Lý chắc gồm phần lớn đất của bốn huyện này.
3 Thiền uyển tập anh hai lần kể ra tên Kim bài. Một ở đây và một ở truyện Thần Nghi tờ 39b8. Truyện Thần Nghi nói Nghi ở "chùa Thắng quang, làng Thị trung, Kim bài". Kim bài này như vậy, chắc chắn chỉ một địa phận lớn hơn đơn vị làng. Nhưng ở đây, ta được bảo Ngộ Ấn "người Tư lý, làng Kim bài". Vậy ta có thể giả thiết có làng Kim bài thuộc châu Kim bài hay phủ Kim bài. An nam chí lược 1 tờ 27 có nói sự tích bãi Kim bài, nhưng không nói rõ nó nằm ở đâu. Cứ Bắc thành địa dư chí lục 3 tờ 12a6 thì tổng Thời trung của huyện Thanh oai vào thời Gia Long có xã Kim bài. Đất làng Kim bài và châu Kim bài thời Lý như vậy chắc chiếm một phần đất huyện Thanh oai, tỉnh Hà đông ngày nay. Ấp Tư lý của Ngộ Ấn ở đây rất có thể là làng Uùc lý, tổng Đông Cứu của  huyện Thanh Oai trong Bắc thành Địa dư chí lục 3. Nếu vậy, địa phận làng Kim bài xưa chắc gom hai tổng Thời trung và Đông cứu.
4 Cụ Sư nghi là tên người, bởi vì Toàn thư B3 tờ 22b5 và 37a7 có ghi tên hai người Chiêm Thành, mà tên họ bắt đầu bằng chữ Cụ, đấy là Cụ Ông và Cụ Ban. Về Cụ Ông, Toàn thư viết: "Năm Thiên Phù Duệ Vũ thứ 5 (1124) người nước Chiêm thành là Cụ Ông và đồ đệ ba người đến chầu". Về Cụ Ban, nó viết thêm: "Thiên Thuận năm thứ 5 (1132) mùa thu tháng 7 người nước Chiêm thành là Cụ Ban v.v...trốn trở lại nước mình, đến Nhật lệ thì bị người trại Nhật lệ bắt gởi về kinh sư".
Sư đáp: "Mèo chưa biết bắt chuột?".
Tăng thưa: "Con mèo có Phật tánh không?". Sư đáp: "Không"1.
Tăng liền hỏi: "Hết thảy hàm linh đều có Phật tính, sao riêng Hoà thượng lại không?". Sư đáp: "Không, ta không phải hàm linh".
Tăng thưa: "Đã không phải hàm linh, vậy có phải Phật không?" Sư đáp: "Ta không phải Phật, cũng không phải hàm linh"2.
Có người hỏi: "Phật là gì? Pháp là gì? Thiền là gì?".
Sư đáp: "Đấng Pháp vương vô thượng, ở thân là Phật, ở miệng là Pháp, ỡ tâm là Thiền. Tuy là ba phần, nhưng điểm kết là một. Ví như nước của ba con sông kia, tuỳ chỗ đặt tên, tên gọi tuy không giống, nhưng tính của nước thì không khác"3.
Ngày 14 tháng 6 năm Quảng hựu thứ 4 (1088) [23b1] khi sắp thị tịch, Sư nói bài kệ sau: Diệu tính rỗng không chẳng thể bâu
Rỗng không tâm ngộ có gì đâu
Trên non ngọc đốt màu thường đẹp Sen nở trên lò ướt chưa khô.
Nói kệ xong, Sư vui vẻ ra đi, thọ 69 tuổi. Môn đồ để tâm tang ba năm.
1 Thiền sư Triệu Châu (778-897).Có vị sư hỏi: "Con chó có Phật tánh không?". Châu trả lời: "không". Xem Vô môn quan tờ 292c21.
2 Thiền sư Duy Khoan(735-817). Có vị sư hỏi: "Thế nào là đạo?". Sư đáp: "Núi đẹp lớn". Tăng nói: "Kẻ học đạo mà hỏi thầy về đạo, sao thầy lại nói về núi đẹp?" Sư đáp: "Ngươi chỉ biết có núi đẹp thì làm sao mà đạt đạo". Tăng hỏi: "Con chó có Phật tính không?" Sư đáp: "Có". Tăng hỏi: Hoà thượng có có không?". Sư đáp: "Ta không có". Tăng hỏi: "Tất cả chúng sanh đều có Phật tính, Hoà thượng vì sao mà riêng không có?" Sư đáp: "Ta chẳng phải là tất cả chúng sanh". Tăng hỏi: "Đã chẳng phải là chúng sanh thì là Phật sao?" Sư đáp: "Chẳng phải Phật". Xem Truyền đăng lục 7 tờ 255a1ù6-22.
3 Thiền sư Duy Khoan. Bạch Cư Dị thường đến hỏi Sư: "Thiền sư lấy gì mà thuyết pháp?". Sư đáp: "Vô thượng bồ đề, mặc ở thân là luật, nói ở miệng là pháp, hành ở tâm là thiền. Ứng dụng nó thì có ba, nhưng đích nó là một. Ví như sông Dương tử, sông Hoàng Hà, sông Hoài, sông Hán tùy theo chỗ mà đặt tên, tên tuy không phải là một, nhưng tính nước không phải là hai. Luật tức là pháp, pháp tức là thiền, thì làm sao trong đó có thể dối dấy lên sự phân biệt". Xem Truyền đăng lục 7 tờ 255a25-29.

Thế Hệ Thứ Chín (8 người, 3 người khuyết lục)

18. THIỀN SƯ Đạo Huệ (? - 1073)
Chùa Quang Minh, núi Thiên phúc, Tiên du1. Người Chân hộ2, Như nguyệt3, họ Âu. Tướng mạo đoan chánh, tiếng nói rổn rảng. Năm 25 tuổi đến xuất gia với Ngô Pháp Hoa4, tại chùa Phổ ninh nắm thấu lẽ huyền , hiểu sâu áo chỉ của Hoa. Sau đến chùa Quang minh trác tích, tu luyện giới luật, tập tành thiền định, lưng không dính chiếu, ròng rã sáu năm, bèn đạt được "Tam quán tam ma địa"5. Môn đồ có hơn nghìn người. Ngày đêm trì kinh, cảm hóa được các loài khỉ vượn trong núi. Chúng tụ họp kéo nhau đến nghe pháp. Do đó tiếng Sư vang tới kinh đô.
Năm Đại Định thứ 20 (1159), Thụy Minh hoàng cơ đau6, vua sai sứ triệu Sư đến xem bệnh. Lúc ra đi (24a1) khỉ vượn buồn kêu như biết lưu luyến. Đến cung, lúc Sư còn đang ở ngoài cửa phòng, thì bệnh của Hoàng cơ liền bớt. Vua Lý Anh Tôn hết sức vui mừng, mời Sư đến ở chùa Báo thiên7. Trong
1 Tức núi Tiên du hay núi Phật tích tại xã Phật tích, huyện Tiên du, tỉnh Bắc ninh ngày nay. Xem chú thích (1) truyện Thiền Lão.
2 Tức làng Chân hộ, huyện Yên phong, tỉnh Bắc ninh ngày nay. Làng này theo Đại Việt lịch triều đăng khoa lục 2 và 3 là nơi quê hương của số tiến sĩ thời Hậu Lê như Ngô Phúc Tinh khoa năm 1535, Nguyễn Nghiêu Tá và Ngô Khánh Nồng khoa 1556, Nguyễn Long Bảng khoa 1683. Đại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, mục Đê yến, giữa những cửa cống của sông Nguyệt đức, tức sông Cầu, có ghi cửa cống làng Chân hộ.
3 Như Nguyệt đây, cứ một câu cuối truyện Đạo Huệ theo đấy sau khi Huệ chết, "môn đồ Quách tăng thống sắm đủ lễ vật, đem về bản quận làm lễ trà tỳ", chắc là tên một quận đời Lý. Nó cũng có thể là một gọi tắt của Như nguyệt giang lộ, mà An nam chí lược  1 tờ 19 đã ghi lại. Địa phận nó chắc bao gồm những làng mạc nơi ngã ba làng Như nguyệt hiện nay, trong đó phần đất huyện Yên phong chắc phải thuộc vào.
4 Tức Thông Biện, Biện họ Ngô mà vì giỏi kinh Pháp hoa, nên cũng gọi là Ngô Pháp Hoa. Ngô Pháp Hoa cũng là Ngộ Pháp Hoa đấy. Xem truyện Thông Biện trước.
5 Tam quán tam ma địa, tức lối Thiền định dùng ba lối quán tưởng. Có tam quán của tôn Hoa nghiêm. Có tam quán của tôn Duy thức. Có tam quán của tôn Luật. Có tam quán của tôn Thiên thai. Và có tam quán tam ma địa của kinh Viên Giác. Tam quán tam ma địa ở đây có thể là tam quán của kinh Viên giác, mà truyện Viên Chiếu đã nói tới và đã giải thích, và nó là một thứ thiền định thường được ưa chuộng trong Thiền tôn Việt nam. Nhưng bởi Đạo Huệ là đệ tử của Thông Biện, một chuyên viên về kinh Pháp hoa nổi tiếng đến nỗi có tên là Ngộ Pháp Hoa, tam quán tam ma địa ở đây, do thế, có thể chỉ tam quán của Thiên thai tôn đã dùng kinh Pháp hoa như một văn kiện nghiên cứu và tu hành cơ bản. Phép tam quán của tôn này gồm có Không quán, Giả quán và Trung quán. Không quán tức nhìn sự vật bằng bản chất không của chúng, nghĩa là nhìn chúng xuất hiện do điều kiện. Khi nhìn được thế rồi, ta tiến tới được cái nhìn giả, tức giả quán, nghĩa là ý thức được rằng sự vật nằm trong một sự liên hệ hỗ tương, nên chúng phải tùy thuộc vào sự liên hệ đó, mà không thể có sự độc lập tuyệt đối được. Sau khi đạt được cái nhìn đó, ta tiến thêm một bước thứ ba, đấy là cái nhìn trung đạo, tức cái nhìn nhận sự vật trong chân tướng của nó, không còn nhìn nó hoặc như một xuất hiện hoàn toàn do điều kiện, hoặc hoàn toàn lệ thuộc vào những điều kiện ấy. Nó cũng có một hiện hữu nào đấy trong hệ thống liên hệ hỗ tương.
6 Nguyên văn: Đại Định nhị thập niên Thụy Minh hoàng cơ đắc tật. Nhưng cứ Toàn thư B4 tờ 10a3 thì "Đại Định năm thứ 12 mùa đông tháng 10 (1151) Thụy Minh công chúa mất". Như vậy vào năm 1151 công chúa Thụy Minh tức bà cô của Lý Anh Tôn và là con của Thần Tôn, đã mất. Do thế, không thể nào đến năm Đại Định thứ hai mươi, tức năm1159, lại còn bị đau. Phải chăng chữ nhị thập ở đây là một viết ngược của chữ thập nhị? Đây là có thể gần thật nhất, bời vì Thiền uyển tập anh có nhiều điều viết ngược tương tự, như tên của Lương Nhiệm Văn thì viết thành Lương Văn Nhiệm là một thí dụ. Tuy nhiên, Toàn thư đôi khi có những sai khác với những sử liệu khác như Đại Việt sử lược, nhất là về một số niên đại của một số nhân vật nên ta không nhất thiết phải tin hoàn toàn ở Toàn thư. Chẳng hạn, theo Toàn thư B5 tờ 5b7 thì Nguyễn Nộn mất vào năm Kiến Trung thứ 5 (1229), nhưng theo Đại Việt sử lược 3 tờ 31b3 thì Nộn đã chết trước đó 10 năm, tức năm Kiến Gia thứ 9 (1219).
7 Đại nam nhất thống chí, tỉnh Hà nội, viết: "Chùa Báo thiên ở tại thôn Tiên thị, huyện Thọ xương, xưa gọi là phường Báo thiên, do vua Lý Thánh Tôn dựng. Vua lại xây bảo tháp Đại thắng tư thiên, cao vài chục trượng, hình thức nó gồm 12 tầng. Vua phát đồng 12000 cân để đúc chuông. Đến đời Nhuận Hồ, đỉnh tháp rơi. Quan An phủ sứ đông đô vì không báo tai biến đó, bị biếm chức. Cuối đời Lê, Ngụy Tây gỡ lấy gạch ngói để dùng việc xây cất khác. Các ngói gạch ấy đều có khắc niên hiệu thời Lý. Nay những hòn đá xanh còn lại có hình hoa sen là những hòn đá xây bề ngoài của tháp, còn những viên có tám góc là những viên xây bệ tháp. Chúng đều những vật xưa cả". Tang thương ngẫu lục quyển hạ viết: "Bảo tháp Đại thắng tư thiên tại chùa Báo thiên dựng từ thời vua Lý Thánh Tôn. Tháp xây 12 tầng, cao mấy chục trượng. Tương truyền bốn vật lớn của An nam thì tháp này là một. Khoảng Minh Tuyên Đức, Thái Tổ hoàng đế của tiên triều tiến binh vây Đông đô. Viên tướng giữ thành là Thành sơn hầu Vương Thông, phá hủy tháp lấy đá chế súng để giữ thành. Tiên triều nhân nền cũ đắp các núi đất phủ lên trên. Sau hồi thay đổi triều vòng một tháng, các quan viên và bạn đạo khâm phục phong cách của Sư, kéo đến đông không kể xiết, Sư liền mở trường dạy dỗ, không trở về núi nữa. Cháu con nối dõi, thịnh thành một phái.
Ngày mồng một tháng tám năm Nhâm thìn Chánh Long Bảo Ứng thứ 10 (1172).  Sư thị bệnh than rằng:
"Loạn lạc tứ tung Do đâu mà đến?"
Rồi nói kệ:
Đất, nước, gió, lửa, thức. Nguyên lai tất cả không Như mây tan rồi hợp, Trời Phật chiếu vô cùng.
Lại nói:
Sắc không cùng diệu thể, Chẳng hợp chẳng lìa xa, Nếu ai muốn rõ biết, Trong lò một cành hoa.
Vào canh ba đêm đó, Sư lặng lẽ đi luôn. Môn đồ là Quách tăng thống, sắm đủ lễ vật, đem về quận mình làm lễ trà tỳ. Khi chịu tâm tang xong, bèn xây tháp tại chùa Bảo khám núi Tiên du, rồi rước xá lợi về tôn trí.

19. THIỀN SƯ Biện tài
Chùa Vạn tuế1, kinh đô Thăng long. Người Quảng châu, đến nước ta vào thời vua Lý Thánh
[24b1] Tôn2, là người nối pháp của Quốc sư Thông Biện, vâng lịnh vua biên sửa "Chiếu đối lục"3.
vua, người ta lại bỏ chùa để làm chợ Báo thiên, dùng các núi đất làm chỗ để xử tử người tội. Năm Giáp dần (1794) lại cho đào lấy những gạch đá ở nền tháp để tu bổ thành lũy Thăng long. Khi phá nền tháp, thấy có tám pho tượng Kim cương chia đứng bốn cửa. Ngoài ra còn có những tượng người tiên, chim muông, cả đến những giường ghế, chén bát, các thứ lặt vặt không thể kể xiết, toàn bằng đá cả. Những hòn gạch hoa, hòn nào cũng thấy khắc những chữ "Lý gia đệ tam để Long Thụy Thái Bình tứ niên tạo".
Mẩu tin của Tang thương ngẫu lục liên quan đến việc nhà Lê cho đắp nền đất trên nền tháp Báo thiên chắc chắn là sai, bởi vì cả Toàn thư B11 tờ 10a9-b2 và Cương mục chính biên 16 tờ 11b4 đều ghi việc trùng tu chùa Báo thiên vào năm 1434. Đây là một cuộc trùng tu lớn, như chính Toàn thư thừa nhận với cái mô tả "thợ mộc trọng đại" do nhà nước đảm nhận sáu năm sau ngày đất nước hoàn toàn giải phóng khỏi bọn xâm lược Minh. Không những thế, cảToàn thư B12 và Cương mục chính biên 18 tờ 5b4 đều nói năm 1448 Lê Nhân Tôn cùng mẹ đến chùa Báo thiên để cầu mưa. Như vậy, rõ ràng không phải "Tiên triều đã nhận nền cũ của chùa để đắp các núi đất phủ lên trên". Tiên triều đấy có thể chỉ đời Lê Trung Hưng chăng?.
Dẫu sao đi nữa, nền cũ chùa Báo thiên hiện nay nằm trên nền nhà thờ lớn Thiên chúa giáo Hà nội. Cũng cần thêm là, Đại Việt sử lược và Toàn thư B4 tờ 14b1 nói Chính Long Bảo Ứng năm thứ 10 (1162) thì phải là năm Nhâm thìn, chứ không phải Ất hợi. Thật ra, trong khoảng Chính Long Bảo Ứng, tức từ năm 1163 đến 1172, không có năm nào là năm Ất hợi hết. Do thế, Ất hợi là một chép lầm của Nhâm thìn. Tự dạng những chữ đó rất giống nhau.
1 Đại Việt sử lược 2 tờ 3a6 và Toàn thư B2 tờ 5a2 viết: "Năm Thuận Thiên thứ hai (1011) dựng chùa Vạn tuế trong thành". Tây hồ chí phần Chùa am, nói: "Chùa Vạn niên ở phía tây hồ Tây thuộc địa phận ấp Quán la, xưa tên Vạn tuế, sau đổi Vạn niên. Năm Giáp dần Thuận Thiên thứ 5 (1014) Hữu nhai tăng thống tâu xin lập giới đàn tại đó cho tăng chúng thọ giới. Vua chuẩn tấu. Thời đó, những danh tăng như Lâm Huệ Sinh, Lý Thảo Đường kế tiếp trụ trì tại đây. Sau có nhà sư khác thường ở Quảng châu là Biện Tài đến, viết sửa Chiếu đối lục, còn lưu hành. Chùa nay còn".
2 Lý Thánh Tôn, cả bản đời Lê lẫn bản đời Nguyễn, đều viết Hiếu Thánh Tôn. Chúng tôi nghi chữ hiếu là một viết sai của chữ lý. Tự dạng chúng khá giống nhau. Tài đến nước ta dưới thời Lý Thánh Tôn. Như vậy, Tài rất có thể là một trong những tù binh người Trung quốc do Lý Thánh Tôn bắt về Hà nội kiểu Thảo Đường trong chiến dịch đánh Chiêm thành năm 1069.
3 Chiếu đối lục. Cứ một câu truyện Thần Nghi tờ 40a9 thì cũng gọi là Chiếu đối bản. Theo câu đấy, thì tác giả của Chiếu đối bản là Thông Biện, chứ không phải là Biện Tài. Phải chăng Chiếu đối lục và Chiếu đối bản là hai tác phẩm? Ta có thể nói rằng Chiếu đối bản là một tác phẩm hoàn toàn của Thông Biện, còn Chiếu đối lục là một tác phẩm do Biện Tài phụng sắc vua sửa lại Chiếu đối bản của Thông Biện mà thành. Dĩ nhiên, những thêm thắt sửa sai của Tài chắc chắn tương đối phải ít, bởi vì Tài là đệ tử nối dòng

20. THIỀN SƯ Bảo Giám (? - 1173)
Chùa Bảo phúc, Quân chương, Mỹ lương1. Người làng Trung thụy, họ Kiều tên Phù, là người trung tín, thành thực, điềm đạm, giản dị. Nhỏ theo Nho nghiệp: Thi, Thư, Lễ, Dịch2 không thứ gì là không khảo cứu, lại viết đẹp, vẽ khéo, làm quan dưới triều Lý Anh Tôn, chức Cung hầu xá nhân3.
Năm 30 tuổi Sư từ quan, đến xuất gia với vị chủ chùa Bảo phúc, tại Đa vân. Cả tạng kinh chùa đó đều tự tay Sư chép ra. Đến khi vị chủ chùa mất, Sư kế chân làm trú trì, tự sống đời đạm bạc, mình thường mặc áo vải, không dùng tấc lụa, nhiều năm như thế, lòng không thối chí. Thường bảo đồ chúng rằng: "Bước lên chiếc xe của Phật là nhờ siêng năng, thành tựu Chánh giác của Phật là do trí tuệ. Giống như mũi tên bắn đi, nó tới được ngoài trăm bước, là nhờ cái lực, nhưng trúng được đích, không phải nhờ vào lực vậy"4.
Ngày mồng 7 tháng 5 năm Chánh Long Bảo ứng thứ 11 (1173) khi sắp viên tịch, Sư nói kệ:
Được thành chánh giác ít nhờ tu Trí tuệ ưu tiên thoát ngục tù Nhận lẽ ma ni huyền diệu ấy Như kìa trời rộng tỏa vừng ô. của Thông Biện, và do đó, dẫu có thêm bớt sửa sai Chiếu đối bản, Tài làm vậy để làm rạng rỡ uy danh của thầy mình. Vì vậy, ta không có gì đáng ngạc nhiên, khi thấy về sau những người như Thường Chiếu và Quách Thần Nghi chỉ nhắc tên Thông Biện trong liên hệ với Chiếu đối bản, mà không nhắc gì tới Biện Tài, và cũng từ đó ta có thể nói Chiếu đối lục tức cũng là Chiếu đối bản với một vài tu chỉnh nào đấy, mà ngày nay ta không biết. Cả Chiếu đối lục lẫn Chiếu đối bản đã tán thất hiện nay chưa tìm thấy. Tây hồ chí viết khoảng sau năm 1851 là tác phẩm duy nhất nói tới Chiếu đối lục của Biện Tài.
1 Lời cầu án của Nguyễn Thiên Tích trong Địa dư chí của Nguyễn Trãi kê My lương như một huyện của phủ Quảng oai thuộc Sơn tây. Nhưng Đại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn tây, mục Kiến trí diên cách nói: "huyện Mỹ lương vốn là huyện Quảng oai. Đời Trần về trước nguyên có tên huyện Mỹ lương. Đời Minh nhân theo, lệ nó vào châu Quảng oai. Đời Lê Quang Thuận nó thuộc phủ   Quảng oai. Khoảng năm Cảnh Hưng, đổi nó thuộc phủ Quốc oai. Triều ta nhân theo. Năm Tự Đức thứ 5 (1852) bỏ tri huyện, do phủ kiêm lý, gồm 7 tổng, 49 xã thôn". Về vị trí huyện này, nó viết: "Ở cách phủ lỵ 18 dặm, đông tây rộng 53 dặm, nam bắc rộng 64 dặm, từ huyện lỵ phía đông đến ranh giới huyện Chương đức tỉnh Hà nội 2 dặm, phía tây đến ranh giới huyện Bất bạt 51 dặm, phía nam đến ranh giới huyện An hóa, tỉnh Ninh bình 62 dặm, phía bắc đến ranh giới huyện An sơn 2 dặm". Cứ vào mô tả này, thì đất huyện Mỹ lương cũ nằm trong địa phận huyện Lương sơn tỉnh Hoà bình ngày nay.
Cũng cần thêm là hai chữ Quân chương, chúng tôi nghi là do chữ quận viết rời và sai mà tạo nên, bởi vì chữ chương rất có thể là chữ ấp viết sai, một điều khá tự nhiên, và nếu vậy thì chữ "quân ấp" là chữ quận viết rời. Hơn nữa, trong truyện nói chùa Bảo phúc là thuộc Đa vân, chứ không phải là thuộc Quân chương, dù ta không biết Đa vân là ấp hay là hương. Dĩ nhiên, Đa vân có thể là tên một ấp, và Quân chương là tên chùa Bảo phúc vì vậy có thể thuộc cả Đa vân lẫn Quân chương. Dẫu sao đi nữa, bản in đời Lê có Quân chương, mà bản đời Nguyễn khắc thành Quận chương, chúng tôi tiếp tục để nguyên như vậy để tồn nghi.
2 Truyện này chỉ nói Bảo Giám người làng Trung thụy, nhưng truyện Quảng nghiêm tờ 36a11 nói chùa Tịnh quả của Nghiêm ở tại "Trung thụy, Trương canh". Trương canh, cứ Kiến văn tiểu lục 6 tờ 2a6, thì "đời Lý Trần đặt quận Trương canh tại Đan phụng". Trước đó, ở tờ 1a3-4 nó có viết: "Các huyện Từ liêm và Đan phụng của phủ Quốc oai có nhiều bãi dâu nên chuộng nghề nuôi tằm dệt vải. Các xã Hạ hội, Thiên mụ, _ la, Trung thụy và Đại phùng giỏi dệt các thứ vải quyến the và sa cùng các loại vải quyến dày, mà tục gọi là lãnh, bả và lãng". Trung thụy như vậy là tên một làng thuộc huyện Đan phụng. Do thế, nói rằng Bảo Giám người Trung thụy, tức cũng nói Bảo Giám quê quán làng Trung thụy huyện Đan phụng. Đại Việt lịch triều đăng khoa lục 1 ghi " làng Trung thụy, hạt Đan phụng" là quê của Đàm Đình Phương tiến sĩ khoa 1481. Nay là làng Trung thụy huyện Đan phụng tỉnh Hà đông.
Đây là tên gọi tắt những bộ sách chính yếu của các nhà Nho. Thi tức Kinh thi hay Thi kinh, sách chép những bài thơ và ca dao xưa nhất của Trung quốc, tương truyền là do Khổng Khưu san định. Thư tức Kinh thư hay Thư kinh, cũng gọi là Thượng thư, sách chép về cổ sử Trung quốc. lễ tức lễ ký, bộ sách chép về các lễ nghi và cách cư xử ấn định theo tập tục phong kiến cổ sơ của Trung quốc. Dịch tức Chu dịch, bộ sách bói khoa, tương truyền là do Cơ Đán viết ra và Khổng Khưu san hộ.
3 An nam chí lược 14 tờ 133 ghi Cung hầu xá nhân như một chức quan văn tương đương với Nội trực điện của bên võ.
4 Động Sơn Lương Giới, Bảo kỉnh tam muội ca: "Nghệ dĩ xảo lực
Xạ trúng bách bộ
Tiển phong tương trực Xảo lực hà dự"
Xem Nhân thiên nhãn mục 3 tờ 321b5.
Lại nói:
Người trí như trăng chiếu khắp trời Sáng trùm mọi cõi chẳng vì ai
Nếu người muốn biết nên phân biệt Man mác chiều non khói toả khơi.
"Tâm ý của đức Như Lai, đều không thể hiểu được, chỉ nên dùng Vô lượng trí (mới hiểu nổi thôi).
Cho nên, biết rằng tâm của Như Lai ví như hư không, là nơi nương tựa của tất cả sự vật, thì trí tuệ của Như Lai cũng như vậy".
Nói xong, Sư mất. Môn đồ thu xá lợi xây tháp.

21. THIỀN SƯ Không Lộ ( ? - 1119)
Chùa Nghiêm quang, Hải thanh1. Người Nghiêm quang, Hải thanh, họ Dương. Dòng dõi làm nghề chài, sau bỏ nghề chài, hướng lòng theo Phật, thường trì tụng đà la ni môn. Trong khoảng Chương Thánh Gia Khánh (1059 - 1065) cùng bạn đạo là Giác Hải cất bước vân du, tạm đến chùa Hà trạch2 nương thân, mặc áo cỏ, ăn lá cây, đến nỗi quên chính thân mình. Ngoài dứt ruỗi dong, trong tu thiền định, tâm thần tai mắt ngày một nhẹ nhàng, bèn bay [25b1] lên không, đi trên nước, làm cọp nép, kêu rồng xuống, muôn quái nghìn kỳ, người không lường nổi3.
Sau Sư về quận mình lập chùa. Một hôm, có thị giả thưa rằng: "Từ ngày con đến đây, chưa được thầy dạy bảo chỗ tâm yếu, nhưng con mạn phép xin trình một bài kệ:
"Rèn luyện thân tâm mới được trong Sum suê cây thẳng ngó sân không
Có người đến hỏi không vương pháp,4 Aũnh rập hình ngồi cạnh chấn phong".5
1 Đại nam nhất thống chí, tỉnh Nam định, viết: "Chùa Thần quang, xưa là Nghiêm quang, ở tại xã Dũng Nhuệ, huyện Giao Thủy, thể chế rộng rãi, là chỗ trụ trì của Dương Không Lộ, nay hiển linh, phàm có thiên tai thủy hạn đến cầu liền nghiệm". Chùa Thần quang ngày nay như vậy là chùa Nghiêm quang thời Lý. Làng Dũng nhuệ nay gọi là làng Dũng nghĩa thuộc huyện Giao thủy, tỉnh Thái Bình. Chùa Thần quang thường cũng gọi tắt là chùa Keo, hiện vẫn còn.
Xác định vị trí chùa Nghiêm quang như vậy thì vị trí Hải thanh đương nhiên phải rơi vào địa phận huyện Giao thủy, tỉnh Thái bình ngày nay.
2 Chùa Hà trạch này chắc là chùa của Lôi Hà Trạch, tên một vị Thiền sư mà Thông Biện nói tới như người đồng thời với Mai Viên Chiếu và Nhan Quảng Trí. Xem chú thích (22) truyện Thông Biện. Việt sử tiêu án 1 tờ 109b3 ghi lời bàn của Ngô Thời Sỹ thế này: "Triều Lý sùng Phật, từ Vạn Hạnh nổi tiếng, người ta ưa theo. Tiếp đến có Dương Không Lộ, Nguyễn Giác Hải đều người Hải thanh, thờ sa môn Hà Trạch làm thầy. Lại có Chân nhân Thông Huyền cũng nổi tiếng phép thuật, nên Nhân Tôn có lời khen: "Giác Hải tâm như hải, Thông Huyền đạo lại huyền". Nhưng kêu rồng xuống làm cọp nép, đấy chẳng phải tài phò nguy định loạn. Đi trên không, bay giữa trời, đấy chẳng cách trị dân giữ nước ..."
3 An nam chí nguyên 3 tờ 211 dẫn đoạn này nói về Không Lộ. Nó viết: "Thiền sư Không Lộ là sư huyện Giao thủy, có thể bay giữa không, đi trên nước, làm cọp nép, kêu rồng xuống, muôn quái nghìn kỳ, người không lường nổi".
4 Không Vương pháp, pháp của Không Vương, tức của Phật, đo đạt được bản tính không của vạn hữu mà thiết lập. Xem câu hỏi trong truyện Diên Chiểu ở Truyền đăng lục 13 tờ 303b5:
Bất tằng bác lãm Không Vương giáo Lược tá huyền cơ thế đạo khan
5 Bài kệ rập theo bài thơ tặng Duy Nghiễm của Lý Cao trong Truyền đăng lục. Cao hỏi Nghiễm: "Thế nào là đạo?". Nghiễm giơ tay chỉ trên dưới nói: "Hiểu không?". Cao đáp: "Không hiểu". Nghiễm nói: "Mây trên trời, nước trong bình". Cao bèn mừng rỡ sụp lạy và viết bài kệ:
Luyện đắc thân hình tợ hạc hình Thiên chu tùng hạ lưỡng hàm kinh Ngã lai vấn đạo vô dư thuyết
Sư xem xong bảo: "Ngươi đem kinh đến, ta vì ngươi nhận, ngươi mang nước đến, ta vì ngươi uống, thì có chỗ nào mà ta lại không cho ngươi tâm yếu?"1. Bèn cất tiếng cười ha hả. Sư thường nói kệ rằng:
"Chọn chỗ đáng nương, đất rắn rồng, Tình quê suốt buổi mãi vui rong
Có khi lên thẳng đầu non quạnh Huýt một hơi dài lạnh cõi không"2.
Ngày mồng 3 tháng 6 năm Kỷ hợi, Hội Tường Đại Khánh thứ 10 (1119), Sư viên tịch. Môn đồ thu thập xá lợi táng trước cửa chùa.
Sau đó, vua ban chiếu sửa rộng chùa này và đặc cách cho thuế hộ 20 người để trông coi hương khói.*{Vị Sư này không có niên đại có thể truy cứu, nay dựa theo thứ tự truyền pháp trong Nam tôn đồ mà mô tả ra đây}3.
Vân tại thanh thiên thủy tại bình (Rèn được thân hình giống hạc hình Dưới tùng ngàn cỗi đôi hòm kinh Ta đi hỏi đạo không thêm nói
Mây tại trời xanh, nước tại bình) Xem Truyền đăng lục 14 tờ 312b13-17.
1 Thiền sư Sùng Tín nói với Thầy mình là Đạo Ngô: Tôi từ thuở tới đây không được thầy chỉ thị tâm yếu? Ngô đáp: "Từ lúc ngươi tới đây ta chưa từng không chỉ thị tâm yếu cho ngươi". Tín nói: "Chỉ thị chỗ nào?". Ngô đáp: "Ngươi mang trà đến ta tiếp cho ngươi, ngươi mang cơm đến ta nhận cho ngươi. Lúc nào ngươi chào ta, ta liền cúi đầu. Thế thì chỗ nào là ta không chỉ thị tâm yếu?". Xem Truyền đăng lục 14 tờ 313b19-22. Xem thêm truyện Thiền sư Thiện Hội nói với một tiểu thị giả: "Ngươi nấu cơm, ta nhóm lửa. Ngươi dọn bàn, ta dở bát. Ta phụ rãy ngươi ở chỗ nào đâu?". Xem Truyền đăng lục 15 tờ 324b6.
2 Thiền sư Dược Sơn một đêm kinh hành trên núi, mây vẹt trăng tỏ, bèn cười vang, truyền dài 90 dặm đông tới Phong dương. Thứ sử Lý Cao nhân đó làm bài thơ tặng:
Tuyển đắc u cư hiệp dã tình Chung niên vô tống diệc vô nghinh
Hữu thời, trực thượng cô phong đỉnh Nguyệt hạ phi vân tiếu nhất thanh.
Xem Truyền đăng lục 14 tờ 312b22.
3 Bản in đời Nguyễn của An Thiền dưới cái tên Trùng khắc đại nam thiền uyển truyền đăng tập lục quyển thượng chép về một truyện sử hoàn toàn khác với truyện sử đây về Không Lộ. Nó chép ở tờ 20a6-22a9: "Trong khoảng Thái Ninh đời vua Lý Nhân Tôn, có Thiền sư Không Lộ, người Lại trì, huyện Chân định, tỉnh Nam định, họ Nguyễn, thường cùng với Giác Hải và Từ Đạo Hạnh kết làm đồng chí. Năm ông 29 tuổi ba người đi qua nước Thiên trúc, theo học với một vị Sa môn. Được lục trí thần thông rồi, bèn quay trở về quê mình, dựng chùa Diên phúc, chuyên trì chú Đại bi. Bấy giờ Không Lộ muốn tạo cho nước Đại nam bốn món đồ, chỉ hiềm vì nhà nghèo sức mọn. Một hôm ông nghĩ tới nước Tống đất rộng tất có nhiều đồng tốt có thể dùng cho việc đúc tạo, bèn liền rút ngắn đường, đi lên phương Bắc, khách trú ở nhà một trưởng giả, rồi xin đất sáu tấc để dựng chùa. Vị trưởng giả cười nói rằng: "Xưa Lương Thái tử dựng chùa, đất rộng ngàn dặm, vàng ròng khắp đất. Sao bây giờ lại lấy sáu tất đất như thể chỗ chuồng gà mà làm?". Đêm đó, bèn tung áo cà sa phủ khắp mười dặm đất. Vị trưởng giả thấy ông có phép làm thần, bèn đem hết vợ con đến lạy tạ. Từ đó, cả nhà đều qui y Tam bảo.
Ngày hôm sau, ông mặc pháp phục, cầm gậy vào triều, thẳng đứng giữa sân rồng. Vua bấy giờ đang buổi thị triều thính chính văn võ hai ban, thấy vị Sư già, bèn triệu vào hỏi: "Lão ông là dân người phương nào, tên họ là chi, đến đây có việc gì?" Vị     Sư già thưa: "Tôi là bần tăng của một nước nhỏ, xuất gia đã lâu năm, nay muốn tạo bốn món đồ cho Đại nam, nhưng vì sức không theo lòng, cho nên tôi không ngại vượt núi băng rừng ngàn dặm đến đây. Ngưỡng mong Thánh đế mở rộng tấm lòng bố thí cho một ít đồng tốt, để tiện việc tạo đúc". Vua hỏi: "Đồ đệ bao nhiêu?". Sư đáp: "Chỉ một mình bần tăng thôi, xin đầy một bao đồng, tự mình gánh về là đủ". Vua nói: "Phương Nam đường sá xa xuôi, cho phép Sư tùy sức mà lấy, chẳng cần đếm ghi". Vị Sư nghèo đã lấy hết kho đồng rồi, mà vẫn chưa đầy một bao, bèn le lưỡi lắc đầu, vào tâu việc đó. Vua ngạc nhiên hối tiếc, nhưng nghiệt vì đã hứa cho, nên không thể làm sao được. Vua đem trăm quân tiễn đưa về nước. Vị Sư nghèo từ chối, nói rằng: "Một bao đồng, tự mình đủ sức mang đi, chẳng nhọc đưa gánh".
Vị Sư nghèo đi ra ngoài rồi, bèn lấy gậy quảy bao mà đi một cách nhẹ nhàng. Qua sông bèn lấy nón mà chở, rồi trở về. Trong phút chốc đã tới bến Hoàng giang, bèn tới chùa Quỳnh lâm, huyện Đông triều, tỉnh Hải dương, đúc tượng Phật đại Phật Di Đà, tháp Báo thiên ở kinh đô một ngọn, chuông lớn chùa Phổ lại một quả, vạc lớn chùa Phổ minh một cái. Số đồng còn lại đem đúc hồng chung cho chùa ở xã mình, nặng ba ngàn ba trăm cân. Lại đúc cho chùa Diên phúc, huyện Giao thủy một quả hồng chung nặng ba ngàn cân. Công quả hoàn thành, bèn làm bài kệ tán rằng:
Cỡi nón vượt biển lớn
Một giây muôn dặm đường Tổng đồng một bao hết Tay múa sức ngàn cân.
Bấy giờ Hoàng đế Nhân Tôn xây điện Hưng Long năm sau mới xong, cực kỳ tráng lệ. Bỗng nghe trên rường hai con ễnh ương kêu lớn, tiếng như sấm to. Vua ủ rũ không vui. Lúc ấy, vị chỉ huy sứ tâu: "Chỉ có Không Lộ và Giác Hải mới trừ được loài quái vật đó". Chỉ huy sứ tức thì nhận lệnh vào hôm rằm tháng giêng đến trước am sư, Sư hỏi: "Chỉ huy đến sao trễ thế?" Vị chỉ huy trả lời: "Thầy sao biết trước chức tước của tôi?" Sư đáp: "Ta cỡi trăng đạp mây nhân vào thành vua, nên sớm biết việc đó". Ngày đó Sư đến kinh đô. Vua đem một cây đinh lớn đóng vào cột điện, nói rằng: "Ai có thể nhổ cái đinh đó ra thì làm Pháp chủ". Không Lộ lấy tay bật cái đinh ra một cách nhẹ nhàng và mật tụng thần chú thì hai con ễnh ương nghẹn cổ không còn kêu và giây lát rớt xuống đất. Vua thưởng vàng ròng một ngàn cân, ruộng đèn nhang năm trăm mẫu và phong làm Quốc sư.
Bấy giờ vua Thần Tôn tuổi mới 21, bỗng nhiên biến làm một con cọp dữ, xông xáo cắn người, nanh vuốt dễ sợ. Vua phải dựng một chuồng vàng mà nhốt đi. Thì nghe con nít huyện Chân định hát rằng:
Nước có Lý Thần Tôn
Triều đình muôn chuyện thông Muốn yên bệnh thiên hạ
Phải được Nguyễn Minh Không
Vua xuống chiếu cho vị chỉ huy rằng: "Đem thuyền đi đón Sư". Vị chỉ huy đến am, Sư cười nói: "Phải chăng chẳng là chuyện cứu con cọp dữ đó sao?". Vị chỉ huy hỏi: "Thầy làm sao biết sớm vậy?". Sư đáp: "Ba mươi năm trước đây ta đã biết chuyện này rồi".
Sư đến, lên trên điện vua ngồi, lớn tiếng nói: "Trăm quan vui lòng đem đỉnh dầu lớn đến đây". Trong đấy, Sư để thêm một trăm cái kim, rồi nổi lửa đốt cháy hừng hực. Bên cạnh để cái chuồng giữ vua. Sư lấy tay mò vào trong đỉnh, lấy ra một trăm cái kim, phóng vào mình vua, quyết rằng: "Làm Thiên tử là quý". Vua tự nhiên lông đuôi vuốt nanh rớt rụng hết và trở lại làm thân vua. Vua trả ơn bằng vàng ròng một ngàn cân, ruộng đèn nhang một ngàn mẫu, vĩnh viễn làm ruộng chùa không ghi vào sổ thuế.
Sư ra đời ngày 14 tháng 8 năm Bính thìn, đến ngày 13 tháng 6 năm Giáp tuất thì mất. Hiện nay, trước huyện lỵ Thọ Xương, tỉnh Hà nội có đền thờ Lý Quốc Sư thờ thần tượng Sư hiện có bia ký. Thị dân đạo Tiên muôn đời đèn nhang phụng sự".
Trên đây là tiểu sử của Không Lộ theo bản in đời Nguyễn của Thiền uyển tập anh do Hoà thượng Phúc Điền thực hiện vào năm 1858 dưới cái tên Trùng khắc Đại nam thiền uyển truyền đăng tập lục quyển thượng. Nó rõ ràng là một hỗn hợp khá lộn xộn những việc làm khác nhau của ba người khác nhau vào một, đấy là chuyện đi xin đồng của Không Lộ theo truyền thuyết mà đã nổi tiếng từ thế kỷ thứ 14, như An nam chí lược 15 tờ 147 đã ghi lại chuyện Giác Hải cùng Thông Huyền làm rơi hai con ễnh ương và chuyện chữa bệnh vua Lý thần Tôn của Minh Không. Chuyện của Giác Hải thì đã ghi trong tiểu sử Giác Hải. Chuyện của Minh Không cũng thế. Chúng tất do đó, không thể nào xảy ra với Không Lộ được. Tiểu sử dịch trên của Không Lộ như vậy chắc chắn là một tạo dựng hậu kỳ khá vụng về, tối thiểu là từ bản in đời Lê vào năm 1715 trở đi. Vấn đề bây giờ là ai đã tạo dựng nên nó? Phải chăng Hoà thượng Phúc Điền, người đứng khắc bản in 1858 trên?
Trong lời tựa viết cho bản in năm đó, mà bộ Phật điển tùng san cho in lại trong Ngự chế thiền điển thống yếu kê đăng lục tờ 1b4-2a1, Phúc Điền nói: "Về phía nước ta thì xưa có Thiền uyển lục là Thiền uyển, tên là Tập anh, ghi lại nhữngbậc thạc đức cao tăng của ba triều (Đinh, Lê, Lý) và trình bày sơ cuộc đời họ". Nhưng trong lổ ngổ không phải một và sai trái thật khó nghe.
Cho nên tôi đã hiệu đính lại, rồi cho chép sạch ra, để in mà công bố, nhằm giữ lại bản xưa, riêng in làm quyển thượng. Viết thế này, phải chăng Phúc Điền đã khẳng định rằng mình không phải là người đã tạo dựng nên nó?. Vậy phải chăng nó đã đến từ cái để bản, mà Phúc Điền dùng và gọi là "Cựu bản Tiêu sơn tự" nghĩa là " bản gỗ cũ chùa Tiêu sơn?" Đây là một có thể. Nhưng về "Cựu bản Tiêu sơn tự" này nó in năm nào và do ai? Ta không biết một tí gì hết. Có kẻ sẽ nghĩ rằng "Cựu bản Tiêu sơn tự" này chính là bản Thiền uyển tập anh in năm 1715 đây. Song, đấy dĩ nhiên chỉ là một cách nghĩ vô căn cứ, nếu không là hoàn toàn sai lầm, khi ta thấy sự sửa đổi trầm trọng đã xảy ra ở trên trong bản tiểu sử của Không Lộ.
Tính tạo dựng hậu kỳ trên của bản tiểu sử càng bộc lộ rõ rệt với sự đồng nhất của truyện Dương Không Lộ trong Lĩnh nam trích quái truyện với bản tiểu sử của Không Lộ trong Thiền uyển tập anh của chúng ta không những về cốt truyện, mà ngay cả về văn từ. Lĩnh nam trích quái truyện tờ 35: "Hải thanh, Nghiêm quang tự, Không Lộ Thiền sư. Tánh DươngThị, nãi Hải thanh nhân giả, thế nghiệp điếu ngư, Sư xả kỳ nghiệp nhi tăng yên, cư thường niệm gia trì đà la ni môn kinh. Chương Thánh Gia Khánh niên gian, dự Giác Hải vi đạo hữu, tiềm chí Hà trạch tự thê thân yên, thảo y mộc thực đãi vong kỳ thân, ngoại tuyệt tha cầu, nội tu thiền định, tâm thần nhĩ mục, nhật giác sảng nhiên. Tiên năng phi không lý thủy, phục hổ hàng long, vạn quái thiên kỳ, nhân mạc chi trắc. Hậu tầm quy cố hương, sáng tự cư chi. Nhất nhật hữu thị giả khải vân: "Mỗ tự đáo lai vị mông chỉ thị tâm yếu, cảm trình kệ vân:
Đoàn luyện thân tâm thỉ đắc thanh Sum sum trực cán đối hư linh
Hữu thân lai vấn không không pháp Thân tại bình biên ảnh tập hình.
Sư giác chi, viết: "Nhữ tương kinh lai, nhữ tương kinh lai, ngô vị nhữ thọ, ngô vị nhữ ái, hà xứ bất dự nhữ tâm nguyện?" Nãi kha kha đại tiếu. Sư thường thuyết kệ vân:
Tuyển đắc long xà địa khả cư Dã hình chung nhật lạc vô dư
Hữu thì trực thượng cô phong đỉnh Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư.
Hội tường Đại Khánh thập niên Lý Nhân Tôn niên hiệu Kỷ hợi lục nguyệt sơ tam nhật, thị tịch, môn nhân thu xá lợi hàm táng vu tự môn. Hữu chiếu quảng kỳ tự, quyên hộ tam thiên dĩ phụng hương hỏa".
Đọc qua truyện này, có thể thấy nó đồng nhất với bản tiểu sử của Không Lộ trong Thiền uyển tập anh, trừ một vai sai khác nhỏ nhặt do việc tam sao thất bổn. Cũng cần thêm là, sự đồng nhất thật đáng ngạc nhiên. Phải chăng cả Thiền uyển tập anh lẫn Lĩnh nam trích quái truyện đã sao truyện của mình từ một bản gốc chung mà Thiền uyển tập anh cho biết là Nam tôn tự pháp đồ của Thường Chiếu? Hay chúng hoặc những người hiệu đính chúng đã sao chép lẫn nhau? Đây là một vấn đề khá lôi cuốn cần phải được nghiên cứu một cách nghiêm chỉnh.

22. THIỀN SƯ Bản Tịnh (1100 - 1176)
Am Bình dương, núi Chí linh, Kiệt đặc1. Người Phù Diễn, Vĩnh khương2, họ Kiều. Sư nhỏ hiếu học, rõ lẽ sinh tử nhà Phật, theo dấu nhân nghĩa nhà Nho, nhận được ý chỉ nơi Thiền sư Mãn Giác chùa Giác nguyên. Năm Đại Định thứ 2 (1141), Sư thẳng đến núi đó trác tích. Hữu bật Ngụy Quốc Bảo3 hâm mộ phẩm cách và đức độ của Sư, nên kính Sư như bậc thầy.
Sau Sư nhận lời mời của Thành Dương công chúa4, đến trụ trì chùa Càn an, thừơng phát đại nguyện rằng:
"Đời đời kiếp kiếp Ý Phật không mê Tự giác, giác tha, Không chia đó đây,
Đề huề phương tiện, Một nẻo cùng về".
Vào một hôm trong tháng Giêng năm Trịnh Phù thứ 1 (1176), Sư không bệnh, gọi chúng đến dạy:
 Một nẻo, một nẻo5 Mèo đá đuôi vẫy6
1 Lịch triều hiến chương loại chí, 3 tờ18b7-19a4 viết: "Núi Phụng hoàng ở tại xã Kiệt đặc xưa thuộc Phụng nhãn. Đỉnh núi đứng thẳng khi sườn xoè ra giống hình con phượng múa. Thời Trần có xây điện Lưu quang và cung Tử cực.(...) dưới núi có giếng, đáy có ngọc châu, đẹp nhuyễn như bùn phơi khô thành châu. Bên núi có hồ Ba ba. Sườn núi có chùa Lệ kỳ. Khoảng đầu đời Trần, đạo sĩ Huyền Vân ẩn cư để luyện đan, gọi là Huyền vân động. Chu Văn Trinh, đời Trần khi đã giũ áo từ quan, thích phong cảnh của Chí linh, đến ở đó ..." Bắc thành địa dư chí lục 2 và Đại nam nhất thống chí, tỉnh Hải dương cũng ghi những điểm tương tự núi Chí linh ở Kiệt đặc của truyện đây như vậy phải là núi Phụng hoàng vừa mô tả. Xã Kiệt đặc hiện thuộc huyện Chí linh tỉnh hải dương ngày nay.
Am Bình dương cho đến đời Trần cũng còn. Nó là nơi Trần Nhân Tôn nhân bữa ăn cúng dường cuối cùng do Tuyên Từ hoàng thái hậu dâng, như Tam tổ thực lục tờ 10b2 và Thánh đăng lục tờ 36b5 ghi lại.
2 Tức làng Phù diễn, huyện Hoài đức, tỉnh Hà đông ngày nay. Vĩnh khương là tên thời Lý của huyện Từ liêm, tức đất huyện Hoài đức. Xem chú thích (2) truyện Vân Phong. Đại nam nhất thống chí, tỉnh Hà nội mục Thị tứ còn ghi thêm một làng Phù diễn thuộc huyện Từ liêm ở đây có chợ Phù diễn và cầu Phù diễn. Quê hương của Bản Tịnh chắc tại làng Phù diễn này. Làng Phù diễn ngày nay thuộc huyện Hoài đức, tỉnh Hà đông và cầu Phù diễn cũng gọi là cầu Diễn, bắc ngang qua sông Nhuệ, cách cầu Giấy khoảng 10 cây số.
3 Theo Toàn thư B3 tờ 31b1-3 thì năm Thiên Thuận thứ 1 (1128) Ngụy Quốc Bảo từ chức Nội thư gia lên làm Tả ty, rồi liền đó lên làm Nội thường thị, năm sau lại lên làm Viên ngoại lang, rồi đến năm 1135 lên làm Tả ty lang trung. Sau khi Lý Thần Tôn, tên Ngụy Quốc Bảo không còn thấy nhắc đến nữa. Không thấy sử liệu nào khác nói Ngụy Quốc Bảo giữ chức Hữu bật.
4 Cả bản đời Lê lẫn bản đời Nguyễn đều viết: "Thành Dương công chi thỉnh". Nhưng chúng tôi nghi rằng chữ chi trong hợp từ đó là một khắc lộn của chữ chúa, bởi vì tự dạng của chúng gần nhau và bởi vì chữ Thành Dương với lối viết chữ Thành có bộ thổ một bên thường để viết tên cho những công chúa đời Lý như Kim Thành, Thiên Thành... dẫu hiện tại chúng tôi chưa tìm ra một công chúa thời Lý nào tên Thành Dương cả.
Còn chùa Càn an có thể là chùa Càn an ở bên cạnh văn miếu tại thủ đô Hà nội, nơi mà vào thế kỷ 14 đã thực hiện nhiều bản in kinh luận Phật giáo mà nay còn ghi.
5 Nguyên văn: Nhất quỉ. Để xác định thêm nội dung từ này, tham chiếu câu viết sau đây trong bài văn tiến Quảng Ninh của Đào Khưu Nhất và những người khác ở Ngụy chí: "Tuy xuất xử thù đồ, phủ ngưỡng dị thế, chí ư hưng trị mỹ tục, kỳ quỉ nhất giả". (Tuy xuất xử khác đường, như cúi ngửa khác dáng, nhưng đến việc làm thịnh việc chính trị, làm đẹp phong tục thì nẻo đó là một vậy). Xem Tam quốc chí 11 tờ 21b9-10
6 Ba câu nói đến tục thờ ma mèo trong truyện Độc Cô Đà ở Tuỳ thư. Theo đó thì mẹ vợ của Đà trước thờ ma mèo (miêu quỷ) nhân thế mà đưa đến nhà Đà. Vua vẳng nghe mà không tin, gặp khi Hiến hoàng hậu và vợ của Dương Tố là Trịnh Thị đều mắc bệnh, cho mời thầy thuốc đến, họ đều nói: "Đây là bệnh ma mèo". Vua cho Đà là em khác mẹ của Hoàng hậu và vợ của Đà là em khác mẹ của Dương Tố nên nghi là do Đà làm, bèn mật sai anh của Đà là Mục lấy tình anh em mà khuyên giải. Vua lại nhờ tả hữu nói Đà, Đà nói là không có. Vua không bằng lòng đổi thành Thứ sử Thiên châu. Đà bèn ra lời oán giận. Vua bèn sai Tả bộc xạ cao thích nạp ngôn Tô Uy, Đại lý chính Hoàng Phủ Hiếu Tự và đại lý thừa Dương Vin cùng xét việc đó. Con ở của Đà là Từ A Ni nói mình vốn theo nhà mẹ Đà đến, thường thờ ma mèo, mỗi đến ngày Tý thì cúng nó vào ban đêm vì Tý là chuột vậy. Ma mèo đó mỗi khi giết người, của cải của nhà người bị giết lặng lẽ dời đến nhà nuôi ma mèo. Đà thường ở nhà đòi rượu, vợ Đà nói: "Không có tiền để mua". Đà do thế bảụo A Ni "co ùthể sai ma mèo đến nhà Việt công, để ta có đủ tiền". A Ni liền đọc chú. Về vài ngày thì Xông đến vồ chuột Hóa ra là quỷ
Nếu tỏ rõ được Vàng từ lệ thủy1.
Rồi nói bài kệ sau:
Thân huyễn vốn từ không tịch sinh, Giống như trong kính hiện ra hình, Hiểu rành hết thảy đều không huyễn,
Thật tướng phút giây thân huyễn thành2. Nói kệ xong, Sư tịch, thọ 77 tuổi.3 ma mèo liền đến nhà Dương Tố, Khai Hoàng năm thứ 11 (590) vừa từ Tinh châu trở về. Đà ở trong vườn gọi A Ni bảo, có thể sai ma mèo đến nhà Hoàng hậu khiến bà ban cho ta nhiều vật". A Ni lại đọc chú, ma bèn vào trong cung. Dương Viễn bèn sai A Ni gọi ma mèo ở Môn hạ ngoại tỉnh. Trong đêm đó A Ni đặt nhang vào một bát cháo, cầm thìa gõ mà gọi rằng: "Mèo ta có thể đến, đừng ở trong cung nữa". Một lát mặt A Ni xanh lè, như bị ai trói kéo, nói rằng: "Ma mèo đã đến". Vua đem việc đó giao cho công khanh bàn nghị. Kỳ chương công Ngưu Hoằng nói: "Yêu dị là do người tạo nên, giết người đi thì có thể làm đứt nó...". Xem Tùy thư 79 tờ 2b12-3a9.
1 Kim sinh lệ thủy, chữ và ý rút ra từ thiên Đảo ngôn trong Hàn phi tử, theo đây thì trong sông Lệ của đất Kinh nam có vàng. Có lệnh cấm đãi vàng, mà nếu phạm tội thì phải tội phanh thây ở chợ. Nhưng người ta vẫn tiếp tục đãi trộm vàng, vì biết rằng mình có thể không bị bắt. Cho nên Hàn phi tử kết luận: "Vì không bắt hết được, thì tuy có hình phạt phanh thây, chuyện ăn trộm vàng vẫn không chấm dứt". Xem Hàn phi tử 9 tờ 9a4-11.
2 Nguyên văn:
Huyễn thân bản tự không tịch sanh
Do như kỉnh trung (nội tâm) xuất hình tượng Giác liễu nhất thiết không
Huyễn thân tu du chứng thật tướng.
Cả bản đời Lê lẫn bản đời Nguyễn đều chép như vậy. Chúng tôi tham chiếu bài kệ thị pháp của Phật Tỳ bà Thi trong Truyền đăng lục 1 tờ 204c22-23, theo đó:
Thân tùng vô tướng trung sanh thọ Do như huyễn xuất chư hình tượng Huyễn nhân tâm thức bản lai vô Tội phúc giai không vô sở tru.
Và đề nghị tái thiết lại bài kệ thị tịch của Bản Tịnh như sau: Huyễn thân bản tự không tịch sanh
Do như kỉnh trung xuất hình tượng Giác liễu tâm nội nhất thiết không Huyễn thân tu du chứng thật tướng.
3 Cứ đây thì Bản Tịnh mất năm 1176 và thọ 77 tuổi. Do đó Tịnh sinh năm 1100. Nếu thế làm sao có thể nói "Tịnh nhận được ý chỉ nơi Thiền sư Mãn Giác của Giác Nguyên?" Bởi vì Mãn Giác mất năm 1096 lúc ông 45 tuổi, nghĩa là mất lúc Tịnh chưa ra đời. Vậy hoặc năm mất của Giác chép sai, hoặc tuổi thọ của Tịnh ghi lộn. Chúng tôi nghĩ rằng cả hai trường hợp đều có thể. Tuổi thọ của Tịnh có thể đúng ra là 97, nhưng vì chữ Hán viết chữ cửu dễ lộn với chữ thất, nên đã chép lộn thành 77. Nếu Tịnh quả sống đến 97 tuổi thì ông phải sinh vào năm 1080, nghĩa là sinh ra 16 năm trước khi Giác mất. Nhưng với tuổi 16 này, dù lịch sử phái thiền cũng có ghi một số vị đắc pháp với số tuổi đó hay ít hơn như trường hợp Đạo Tín, chúng tôi vẫn nghĩ nó còn ít quá để cho một người đắc pháp. Vì thế, năm mất của Mãn Giác có thể bị chép sai. Xem chú thích (6) truyện Mãn Giác ở trên.

Thế Hệ Thứ Mười (Gồm 12 người, 2 người khuyết lục)

23. THIỀN SƯ Minh Trí (? - 1196) (Trước tên Thiền Trí)
Chùa Phúc thánh, Điển lãnh1. Người làng Phù cầm2, họ Tô. Sư bẩm tính thông tuệ, đọc khắp các sách. Đến tuổi 20, gặp Đạo Huệ thượng sĩ, bèn bỏ tục xuất gia, gõ trúng bảng huyền. Hiểu rõ tôn chỉ các kinh Viên giác, Nhân Vương3, Pháp hoa và sách Truyền đăng. Sư giảng dạy đồ chúng không biết mệt mỏi, nên được ban hiệu Minh Trí.
Một hôm, Sư cắt cỏ, có một vị Tăng khoanh tay đứng bên trái. Sư ném chiếc liềm đến trước mặt vị Tăng, cắt đứt một gốc cỏ.
Vị tăng thưa: "Cổ nhân dạy Hoà thượng chỉ cắt được một cái đó sao?" Sư cầm chiếc liềm đưa lên, vị Tăng nhận lấy, bèn đứng thế cắt cỏ.
Sư nói: "Lại nhớ được câu sau đó chăng? Ngươi chỉ cắt được cái đấy, mà không cắt được cái kia sao?"4
Vị tăng nghĩ rồi bỏ đi.
Sư nói chuyện một vị Tăng, bên cạnh có một vị Tăng khác nói: "Nói hết sức tức là Văn Thù, im lặng hết sức tức là Duy Ma"5
Sư bảo: "Không nói [27a1] không im lặng, chẳng phải là ông sao?". Vị Tăng gật đầu.
Sư bảo: "Sao chẳng hiện thần thông?"
Vị Tăng thưa: "Chẳng từ chối việc hiện thần thông, chỉ sợ hoà thượng thâu vào giáo". Sư bảo: "Ngươi chưa phải là con mắt ở ngoài giáo điển6. Bèn nói kệ:
"Ngoài giáo khá riêng truyền Cao sâu vực Tổ Phật


1 Làng Điển lãnh tức làng Khương tự, nơi có chùa thờ Phật Pháp vân, chùa Phúc Thánh, cứ Toàn thư B4 tờ 6b4, do Lý Anh Tôn lập vào năm 1184.
2 Đại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, giữa những bến đò của sông Nguyệt đức tức sông Cầu ngày nay, có ghi bến đò Phù cầm. Bến đò này nằm giữa hai bến Phù yên và Đẩu hàn. Đẩu hàn là quê hương của Đỗ An Vĩnh tiến sĩ khoa 1499, còn Phù yên là của Lê Doãn Chấp tiến sĩ khoa 1505, cả hai làng ấy Đại Việt lịch triều đăng khoa lục ghi là thuộc "hạt Yên phong" tức thuộc huyện Yên phong, tỉnh Bắc ninh ngày nay. Phù cầm do thế cũng phải thuộc huyện đó. làng Phù cầm đời Lý như vậy cũng là Phù cầm huyện Yên Phong tỉnh Bắc ninh ngày nay.
3 Tức Phật thuyết nhân vương bát nhã ba la mật kinh. Cưu Ma La Thập dịch, 2 quyển ĐTK 245, giả thiết rằng bản dịch này là bản lưu hành nhất vào thời Lý, bởi vì có một bản dịch thứ hai do Bất Không thực hiện khoảng năm 765 cũng có tên Phật thuyết Nhân vương hộ quốc bát nhã ba la mật kinh, 2 quyển, ĐTK 246.
4 Thiền sư Ẩn Phong(...), một hôm, trong khi Thạch Đầu cắt cỏ, Sư khoanh tay đứng một bên. Thạch Đầu liệng cái liềm đến trước mặt Sư, làm đứt một cọng cỏ. Sư nói: "Hoà thượng cắt được cái này, không cắt được cái kia". Thạch Đầu đưa cái liềm lên. Sư đón bắt được, làm thế cắt cỏ. Thạch Đầu nói: "Ngươi cắt được cái kia, không cắt được cái này". Xem Truyền đăng lục 8 tờ 259b11.
5 Văn Thù, Duy Ma Cật và 32 vị bồ tát thảo luận về pháp bất nhị. Các vị kia, mỗi vị, tuỳ trường hợp, đều nói, lìa đối đãi là bất nhị. Văn Thù nói: "Vô ngôn, vô thuyết, vô thị, vô thức, vượt ngoài đối đáp là bất nhị". Rồi hỏi Duy Ma Cật. Duy Ma im lặng. Nhân đóVăn Thù tán thán. Xem Duy Ma Cật sở thuyết kinh quyển trung, phẩm Bất nhị pháp môn tờ 550b28-551c27.
6 Thiền sư Ngưỡng Sơn Huệ Tịch trong lúc đang nói chuyện với một vị tăng; một vị tăng khác đứng bên cạnh, nói: "Nói là Văn Thù, im lặng là Duy Ma". Sư nói: "Không nói không im lặng, há không phải là ông sao?". Vị Tăng im lặng. Sư nói: "Sao không hiện thần thông?" Tăng nói: "Không từ chối gì sự hiện thần thông, chỉ sợ Hoà thượng thâu vào giáo điển". Sư nói: "Xét chỗ ngươi đến, thì chưa có con mắt ở ngoài giáo điển". Xem Truyền đăng lục 11 tờ 283b9-c3.
kệ sau:
Nếu ngươi muốn rõ đích, Tìm khói giữa diệm dương."1
Một ngày tháng nào đó của năm Bính thìn Thiên Tư Gia Thụy thứ 11 (1196), lúc sắp tịch, Sư nói
"Gió tùng trăng nước tỏ, Không ảnh cũng không hình Sắc thân là cái đó,
Không không tiếng vọng tìm".
Nói kệ xong, Sư yên lặng mà mất.

24. THIỀN SƯ Tín Học (? - 1200)
Chùa Quán đỉnh, núi Không Lộ. Người châu Minh, phủ Thiên đức, họ Tô. Đời đời chuyên nghề khắc kinh. Nhỏ thờ Thanh giới, không giao du bừa bãi.
Năm 32 tuổi, theo Du thiền sư đến núi Tiên du, thế phát với Đạo Huệ. ở hầu hạ ba năm. Sư sâu hiểu tôn chỉ, nhân đó một mình chống gậy du phương, đến ở chùa Quán đỉnh.
Có lần ở trước tượng Phật [27b1], Sư đốt ngón tay và phát nguyện rộng lớn rằng: "Trần lao nhiều kiếp, dứt không vướng lại". Sư chuyên tu pháp tam quán trong kinh Viên giác. Mỗi ngày chỉ ăn một bữa, hình dung khô gầy. Nhiều năm như thế, hoàn toàn không có vẻ gì chán nản, nên sau đạt phép Tam quán chính thọ.2
Công khanh sĩ thứ, rất ngưỡng mộ phong thái cao nhã của Sư, đua nhau theo hầu. Sư thường
dạy:
Có lợi tất có nhiễm Có nhiễm tất có lợi Có lợi có nhiễm
Bồ tát không làm Không lợi không nhiễm Bồ tát mới làm.
Ngày 9 tháng giêng năm Canh thân3, Thiên Tư Gia Thụy thứ 15 (1200), Sư cáo bệnh, gọi chúng
đến đọc bài kệ.
"Núi rừng cọp beo Vằn vện lẫn lộn
Nếu muốn phân biệt Con kêu mẹ mổ"4.
1 Nguyên văn: Dương diệm mích cầu yên. Dương diệm tức là thứ ánh nắng mùa xuân có trộn lẫn với bụi mờ giữa nội. Những con nai khát nước nhìn thấy ánh nắng đó tưởng là nước, rồi cứ đuổi theo cho đến lúc chết. Xem Lăng già kinh 2.
2 Chính thọ là một dịch nghĩa của chữ tam muội (samàdhì). Quán kinh huyền nghĩa phần nói: "Gọi là chính thọ, khi tưởng và tâm
đều dứt, duyên và lự đều quên, tương ứng với tam muội, thì gọi là chính thọ". Xem thêm Đại thừa nghĩa chương 13.
3 Nguyên văn: Thiên Tư Gia Thụy ngũ niên Canh thân. Nhưng cứ Đại Việt sử lược 3 và Toàn thư B4 thì Thiên Tư Gia Thụy thứ 5 tất phải nhằm năm Canh tuất, chứ không phải năm Canh thân. Nếu là năm Canh thân, thì nó phải là năm Thiên Tư Gia Thụy thứ 15 (1200). Ở đây, chúng tôi nghĩ rằng vì chữ tuất khó viết lộn thành chữ thân nên cho rằng nguyên văn có lẽ thiếu chữ thập trước chữ ngũ, nên đề nghị đọc lại thành Thiên Tư Gia Thụy thập ngũ niên, và dịch theo đó.
4 Nguyên văn: Tử tối mẫu trác. Đại sư Hương Nghiêm tập Đăng. Trí Nhàn tụng, "Độc cước": Tử tối mẫu trúc
Tử giác vô xác
Nói xong Sư tịch.

25. THIỀN SƯ Tịnh Không (1091 - 1170)
Chùa Khai quốc, phủ Thiên đức. Vốn người Phúc xuyên1, họ Ngô. Ban đầu xuất gia và thọ giới Cụ túc ở viện Sùng phúc tại châu minh.
Năm 30 tuổi, Sư đi hành cước phương Nam, đến chùa Khai quốc. Trải 5, 6 năm, tu hạnh đầu đà, mỗi ngày chỉ dùng một hạt gạo, hạt mè, ngồi hoài không ngủ, Mỗi lần nhập định, thường trải nhiều ngày [28a1] mới dậy. Đàn tín bốn phương đến cúng, chất cao như núi. Hoặc có kẻ đến rình ăn trộm, Sư tất bảo lấy những vật Sư hiện có.
Bấy giờ Nam Khương công chúa, ý muốn xuất trần, riêng đến xin Sư thụ giới. Sư bằng lòng thế độ. Triều đình hay được, xuống chiếu bắt Sư. Khi Sư tới khuyết, thần sắc thản nhiên, vua càng thêm kính, phong làm thạc đức danh tăng. Sư cố từ không được. Một hôm Sư thượng đường, có một vị Tăng cầm gậy đến hỏi: "Thế nào là pháp thân?".
Sư đáp: "Pháp thân vốn vô hình?" Lại hỏi: "Thế nào là pháp nhãn?".
Sư đáp: "Pháp nhãn vốn không mờ". Rồi tiếp: "Trước mắt không pháp, ý ở trước mắt. Pháp chẳng là chỗ của tai mắt".
Vị tăng bật cười ha hả. Sư hỏi: "Cười điều chi?"
Vị Tăng đáp: "Hoà thượng là bậc xuất thế số một, nhưng chưa có tôn chỉ, phải đến tham vấn
Đạo Huệ mới được!"
Sư hỏi: "Đến hỏi thầy kia thì được việc gì?"
Vị Tăng bảo: "Trên không ngói lợp; dưới không cắm dùi". Sư bèn thay áo, thẳng đến Đạo Huệ ở núi Tiên Du2.
Mẫu tử câu vong Ứng duyên bất thác Đồng đạo xướng hỏa Diệu vân độc cước
Xem Truyền đăng lục 29 tờ 452b16-18. Xem thêm Bích nham lục 16 tờ 156a21-24 về cái công án "kêu mỗ": Có vị sư hỏi Kỉnh Thanh: "Học nhân kêu, xin sư mỗ". Thanh đáp: "Có sống lại được không?" Vị sư đáp: "Nếu không sống thì gặp người là chuyện lạ" Thanh nói: "Ấy là tên giữa đám cỏ".
1 Phúc Xuyên, Đại Việt lịch triều đăng khoa lục 2 có ghi một làng tên Phúc Xuyên, quê hương của Phan Nhuệ, tiến sĩ khoa 1748, nhưng lại ghi làng Phúc xuyên ở hạt Tiên phong. Song Tiên phong là tên một huyện ở Sơn tây. Điều chắc chắn là nó phải nằm ở phía bắc phủ Thiên đức, bởi vì trước khi đến ở tại chùa Khai quốc phủ Thiên đức, Tịnh Không đã phải "hành cước nam phương". Bây giờ, truyện của Không cũng nói rằng Không "ban đầu xuất gia ở viện Sùng phúc châu mình. Nếu viện Sùng phúc ở đây là chùa Sùng phúc dựng tại làng Siêu loại vào năm 1115, mà Đại Việt sử lược 2 tờ 21a2-3 ghi lại, thì làng Siêu loại như vậy thuộc vào Phúc xuyên. Và Phúc xuyên tên một châu đời Lý mà địa phận có thể gồm huyện Siêu loại, tức huyện Thuận thành tỉnh Hà bắc ngày nay, với một số huyện khác chưa thể xác định được. Có lẽ Sùng phúc nguyên trước là một viện nhỏ. Đến năm 1115 nó được Linh Nhân thái hậu xây dựng lại và đổi thành chùa. Chắc vào năm này Không đã rời Sùng Phúc để hành cước xuống chùa Khai quốc ở phía nam, bởi vì ta biết Không mất vào năm 1170, lúc ông hơn 80 tuổi, mà ông bắt đầu hành cước lúc ông 30 tuổi.
2 Thiền sư Giáp Sơn Thiện Hội: "Một hôm Đạo Ngô cầm gậy đến gặp Sư thượng đường, Tăng hỏi: "Như hà thị pháp thân?", Sư viết: "Pháp thân vô tướng". Viết: "Như hà thị pháp nhãn?". Sư viết: "Pháp nhãn vô hà". Sư hựu viết: "Mục tiền vô pháp, ý tại mục tiền. Bất thị mục tiền pháp, phi nhĩ mục sở đáo". Đạo Ngô nãi tiếu. Sư nãi sinh nghi, vấn Ngô: "Hà tiếu?". Ngô viết: "Hoà thượng nhất đẳng xuất thế, vị hữu sư, khả vãng Chế trung, Hoa đình huyện, tham Thuyền Tử Hoà thượng khứ". Sư viết: "Phỏng đắc hoạch phủ?". Đạo Ngô viết: "Bỉ Sư, thượng vô phiến ngõa già đầu, hạ vô trác chùy chi địa". Sư toại dịch phục trực nghệ Hoa đình.           Xem Truyền đăng lục 15 tờ 323c25-324a7. nghĩ.
 Huệ nói: "- đây không phải không có tôn chỉ, nhưng thầy quyết chắc bằng cách nào?."Sư ngẫm
[28b1] Huệ hét: "Ngay mặt quá đà rồi !"
Sư lãnh hội yếu chỉ, nhân đó ở lại nâng khăn, xách guốc cho Đạo Huệ 3 năm. Sau Sư trở về chùa cũ, thâu nhận đồ chúng. Một hôm Sư hội họp đồ chúng nói kệ:
"Trên không mảnh ngói lợp Dưới không chỗ cắm dùi.1 Hoặc đổi áo thẳng đến Hoặc xách trượng ra đi.
Động chuyển chuyển nhằm chỗ Tợ rồng nhảy đớp mồi".
Vị Tăng hỏi: "Từ trước "trực chỉ" là nói cái gì?"2 Sư đáp: "Ngày ngày đi gặt lúa
Giờ giờ kho lẫm không" Tăng thưa: "Con chẳng hiểu"
Sư dạy: "Trời trăng luôn sáng, Mây nổi khuất che".
Rồi sư đọc kệ:
Người trí không ngộ đạo Ngộ đạo tức kẻ đần
Nằm dài chân khách duỗi Sao biết ngụy cùng chân"3
Lại hỏi: "Thế nào là Phật?"
Sư đáp: "Nhật nguyệt sáng ngời muôn vạn cõi Ai hay mây móc phủ non sông".
Sư đáp: "Mục đồng chỉ giỏi cưỡi lưng trâu Sĩ có anh hùng vượt được y"
Lại hỏi: "Ý tổ và ý kinh giống hay khác?"
Sư đáp: "Muôn dặm thuyền tàu, đều chầu cửa khuyết".
Lại hỏi: "Hoà [29a1] thượng có việc kỳ đặc, sao không nói cho học nhân biết?"
1 Giáp Sơn Thiện Hội. Đạo Ngô viết: "Bỉ sư thượng vô phiến ngõa già đầu, hạ vô trác chùy chi địa". Xem Truyền đăng lục 15 tờ 324a1.
2 Tùng thượng trực chỉ, vi thập ma thuyết? Giáp Sơn Thiện Hội tăng vấn: "Tùng thượng lập Tổ ý, Giáo ý, Hoà thượng thử gian vi thập ma ngôn vô?" Sư viết: "Tam niên bất thực phạn, mục tiền vô cơ nhân". Xem Truyền đăng lục 15 tờ 324a20-21.
3 Nguyên văn:
Trí nhân vô ngộ đạo Ngộ đạo tức ngu nhân
Thân cước cao ngọa khách, Hề thức ngụy kiêm chân.
So sánh Giáp Sơn Thiện Hội : Sư có bài tụng: Minh minh vô ngộ pháp
Ngộ pháp khước mê nhân Trường thư lưỡng cước thụy Vô ngụy diệc vô chân.
Sư đáp: "Ông thổi lửa, tôi vo gạo, ông khất thực, tôi cầm bát, ai phụ ông đâu?"1
Vị Tăng liền tỏ ngộ.
Vào một ngày tháng nào đó của năm Chính Long Bảo Ứng thứ 8 (1170), khi sắp thị tịch, Sư từ giã chúng, dặn dò: "Các con hãy khéo giữ mình như khi ta còn sống, chớ có đắm trước mà sinh ra quyến luyến buồn rầu".2
Nửa đêm hôm ấy, Sư ngồi kiết già mà tịch, thọ trên 80 tuổi.*{Cơ duyên thoại ngữ của truyện này cùng với chuyện của Hoà thượng Giáp Sơn trong Truyền đăng 3 rất hợp, song xét Liệt tổ yếu ngữ4 của Huệ Nhật thì đều đã chép đủ, không dám cải chính}.

26. THIỀN SƯ Đại Xả (1120 - 1180)
Chùa Báo đức, núi Vũ Ninh5. Người phường Đông tác6 họ Hứa. Nhỏ xuất gia theo Đạo Huệ, núi Tiên du, tập tành Thiền học, biết sơ nét chính của nó.
Sư thường ngồi trì tụng thần chú Diệu môn Phổ Hiền trong kinh Hoa nghiêm7 làm công việc hàng ngày. Có lúc Sư xỏa tóc, bỏ ăn, cư trú không nơi nhất định. Các Vương công đua nhau đến hầu hạ Sư.

1 Thiền sư Giáp Sơn Thiện Hội: Một tiểu sư hầu hạ lâu năm, sau đó bỏ đi tham phương nhưng không có chỗ dụng tâm. Tiểu sư nghe đồn mọi người đang đổ xô về Thiện Hội học thiền, bèn trở về nói với Thiện Hội: "Hoà thượng có sự kỳ đặc như vậy, sao không sớm nói cho con biết?". Sư đáp: "Oâng nấu cơm, tôi thổi lửa, ông khất thực, tôi cầm bát, thì chỗ nào là chỗ cô phụ ông?". Vị tiểu do đó mà ngộ nhập. Xem Truyền đăng lục 15 tờ 324b2-7.
2 Giáp Sơn Thiện Hội: "Ngày 7 tháng 11 năm Tân sửu Đường Trung Hoà thứ nhất (881), Sư mời chủ sự tới nói: "Ta cùng với chúng tăng nói đạo nhiều năm, ý chỉ sâu sắc của Phật pháp, mỗi một người phải tự biết lấy, ta nay thân huyễn hết thời tức phải đi. Các ngươi nên khéo giữ gìn, như khi ta còn sống, chớ có ùa theo người đời mà sinh ra buồn bã. Nói xong, đên nửa đêm Sư lặng lẽ mất".
3 Tức truyện của Hoà thượng (mà Nguyên văn ở đây viết là hòa cái) Thiện Hội ở Giáp sơn, Phong châu, trong Truyền đăng lục 15 tờ 323c20-324b28 ngày nay. Hội họ Liêu, người Kiến đình, Quảng châu, đệ tử của Đức Thành. Hội sinh năm 805 và mất năm 881 thọ 77 tuổi. Với những dẫn chứng trên, rõ ràng cơ duyên thoại ngữ, tức những đối thoại giữa hai thầy trò Thiền sư nhằm tạo một cơ duyên cho sự giác ngộ, cho đến câu nói cuối cùng trước khi mất của Tịnh Không đều phần lớn lấy ra từ truyện của Thiện Hội.
4 Liệt tổ yếu ngữ của Huệ Nhật, Thiền uyển tập anh dẫn hai lần, một ở đây và một ở truyện Nguyện Học. Cứ vào hai dẫn chứng này thì có thể nói đa số, nếu không tất cả những cơ duyên thoại ngữ của Thiền uyển tập anh đều lấy ra từ Liệt tổ yếu ngữ. Bởi vì ngay cả trong cả hai trường hợp dẫn đây, mặc dù cơ duyên thoại ngữ của Tịnh Không cũng như của Nguyện Học hầu như hoàn toàn đồng nhất với cơ duyên thoại ngữ của Giáp Sơn Thiện Hội và Huệ Tư trong Truyền đăng lục, tác giả vẫn không thể loại bỏ, với lý do là: "chúng đã chép đủ trong Liệt tổ yếu ngữ của Huệ Nhật". Huệ Nhật này là ai và sống vào khoảng nào, ngày nay ta hiện chưa biết. Về nội dung của Liệt tổ yếu ngữ , ta đã biết một phần nào.
5 Tức Trâu Sơn, Đại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, viết: "Trâu sơn, một tên là núi Vũ ninh ở phía đông huyện lỵ Quế dương 12 dặm, hình núi liên tiếp, trên núi có Việt tính. Tương truyền đời Hùng Vương, vua nhà Aân đến xâm lăng, đóng quân ở dưới núi, Đổng thần vương đánh phá, vua Ân chết tại núi đó, thổ nhân lập đền thờ, lâu năm đền bỏ hoang. Đến đời Tần, Thôi Lượng lại sửa sang miếu thờ. Ân Vương cảm bội, khiến tiên Ma Cô trao cho Lượng một món thuốc tiên, trị được bệnh ngọc kinh xà lũ. Bên núi có đền thờ tiên Ma Cô, lại có đền thờ Triệu Vũ Đế và Triệu Việt Vương". An nam chí nói: "Núi Vũ ninh ở tại châu Vũ ninh, núi có Tỉnh cương, có rắn đá tên Ngọc kinh tử, có mộ Việt vương". Sử ngoại ký nói: "Triệu Đà lấy núi Vũ ninh để cùng với An Dương Vương giảng hòa, tức là ở đây". Núi Vũ ninh như vậy là núi Trâu ở tại huyện Quế dương tỉnh Bắc ninh hiện nay.
Về chùa Báo đức, Đại Việt sử lược 2 tờ 11a8 viết: "Năm Long Thụy Thái Bình thứ 6 (1059) mùa xuân tháng ba, vua đi săn ở sông Nam bình tại Lạng châu, nhân đó đến thăm nhà phò mã Thân Cảnh Nguyên, dựng chùa Sùng nghiêm báo đức ở châu Vũ ninh". Chùa Báo đức như vậy gọi cho đủ phải là Sùng nghiêm báo đức và do Lý Thánh Tôn dựng vào năm 1059. Hiện không biết có còn vết tích gì của chùa này tại Trâu sơn hay không?
6 Bắc thành địa dư chí lục 1 có chép tên phường Đông tác giữa những phố phường của thành phố Hà nội đầu thời Gia Long. Trong bốn tổng của huyện Thọ xương, đây là những tổng Hữu túc, Hậu túc, Tiền nghiêm và Tả nghiêm, nó đều ghi là phường Đông tác. Phường này như vậy có thể là một đường dài ăn thông qua bốn tổng, hay cũng có thể là nó ở vào nơi bốn tổng ấy giáp giới nhau. Vì thiếu bản đồ, chúng tôi chưa thể xác định được. Nhưng cứ Phương đình dư địa chí 2 thì phường Đông tác ở vào tổng Hữu túc. Mấy tổng khác không thấy ghi.
7 Hoa nghiêm diệu môn Phổ Hiền thần chú, tức Tốc tật mãn Phổ Hiền hạnh nguyện đà la ni, có lẽ do Bất Không thêm vào trong lời nguyện của Phổ Hiền trong bản dịch kinh Hoa nghiêm 40 ĐTK293 tờ 847a2-848b9 của ông và sau này đã trích thành một bản văn riêng rẽ, mà người ta gọi là Phổ Hiền bồ tát hạnh nguyện tán ĐTK297 tờ 880a1-882c17. Nó đọc: "Nẵng ma tát để rị giả địa vỹ ca nam đát tha nghiệt đa nam. Án a mậu phạ ra vĩ nghì dĩ sa phạ ha".

Kiến Ninh Vương1 và Thiên Cực công chúa2 cũng hết lòng tôn kính. Sư thường ở Hổ nham tại Tuyên minh3, lập chùa giáo hóa [28b1], học trò đến học rất đông. Có vị Sư nước Tống hiệu Nham ông, nghe tiếng cảm mộ, bèn đốt một ngón tay để cúng dường. Người ta nghi Sư có yêu thuật, nên trong khoảng Thiên Cảm Chí Bảo (1174 - 1175), Thái uý Đỗ Anh Vũ4 ra lệnh bắt vào trong cấm, hết lời nghiêm trách. Sư vẫn không có vẻ gì là sợ hãi. Thiên Cực tâu xin thả ra, nên Sư được khỏi.
Một hôm, vua Lý Anh Tông cho mời Sư vào hỏi: "Trẫm nhiều phiền hoặc, có phép thuật gì trị chăng?"
Sư tâu: "Phép 12 Nhân duyên là căn bản của sự tiếp nối sinh tử, nếu dùng nó để trị, thì đó là phương thuốc vậy".
Vua lại hỏi về yếu chỉ của nó.
Sư tâu: "Vô minh nhân duyên hành, cho đến lo, buồn, khổ, não. Muốn cầu quả Bích Chi Phật nên nói đến 12 nhân duyên5, để trị thân này thì không còn nghiệp phiền não nữa". Vua nói: "Thế thì Trẫm phải tĩnh tâm tu tập".
1 Đại Việt sử lược 3 tờ 11a6-8 viết: "Năm Trinh Phù thứ 10 (1185) mùa xuân, Kiến Ninh Vương Long Ích đem quân 12 ngàn người hơn, đi đánh Lào núi ở Linh sách để trả thù trận La sách. Quân đến thôn Đỗ gia, bèn sai người đi chiêu dụ. Thủ quân Đinh Vũ, quan lang Đinh Sáng v.v ... đều hàng. Long Ích bắt hết ..."
Kiến Ninh Vương như vậy là tước của Lý Long Ích, con của Lý Anh Tôn. Về sự việc đó, Toàn thư B4 tờ 21a8 viết: "Trinh Phù năm thứ 10 mùa thu tháng 7, sai Kiến Khương Vương Long Ích đem quân đi đánh các bọn mọi Viêm sách, bình định được". Thế thì Kiến Ninh Vương và Kiến Khương Vương là một người. Ta không hiểu tại sao Toàn thư lạicó Kiến Khương Vương. Có lẽ bị người đời Lê Trung Hưng cải chữ Ninh thành chữ Khương để tránh húy của Lê Trang Tôn chăng?.
2 Đại Việt sử lược 3 tờ 7b2-3 viết: "năm Chính Long Bảo Ứng thứ 5 (1167) gả Thiên Cực công chúa cho châu mục Lạng châu Hoài Trung Hầu". Đến năm Trị Bình Long ứng thứ năm (1209) nó lại viết ở tờ 19b4-7: "Vua sai Phạm Du đến Hồng lộ huấn luyện quân sĩ, ý muốn đánh người Thuận lưu. Khi người Hồng Lộ tới đón đã đúng hẹn, thì Du đang còn cùng Thiên Cực công chúa thông dâm, không biết hẹn đã quá lúc, bèn cùng với người Hồng Lộ mất nhau". Du bèn lên thuyền do đường sông mà đi, tới bến Cổ châu lên bộ đi tới xã A cảo ở Ma lãng thì bị người Bắc giang là Nguyễn Nậu và Nguyễn Nãi bắt, đưa tới vương tử Sám giết". Không những Phạm Du đã chết trong tay cô công chúa này, mà một tay kiệt hiệt khác cùng số người khác cũng sắp mất, đây là Tô Trung Tự, Đại Việt sử lược 3 tờ 22a7-8 viết: "Năm Kiến Gia thứ nhất (1211) tháng 6 Tô Trung Tự đêm đến nhà ở Gia lâm cùng Thiên Cực công chúa thông dâm, bị chồng nàng là quan nội hầu Vương Thượng giết". Năm sau, nhà cô ở Lạng châu bị nghĩa quân Đinh Cỗi lấy của cải. Đến năm 1214, Lý Huệ Tôn cùng mẹ đến ẩn ở nhà cô. Đấy là những gì ta hiện biết về cô công chúa khá đào hoa này của triều Lý.
3 Nguyên văn: Tuyên minh hổ nham. Có người dịch là "hang Tuyên minh hổ", nhưng Tuyên minh vốn là tên một trại, mà Toàn thư B4 tờ 2a5 nói tới khi kể ra việc tham dự trận đánh chống nghĩa quân Thân Lợi của chủ đô trại Tuyên minh là Trần Thiềm, còn Hổ nham thì Đại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn tây, dẫn Thiên hạ quân quốc lợi bệnh, nói: "Năm Minh Vĩnh lạc thứ 5 (1407) mới đặt phủ Giao châu thì châu Tuyên giang lãnh ba huyện Tây lan, Đông lan và Hổ nham. Năm Vĩnh lạc thứ 13 (1415) sáp nhập huyện Hổ nham vào châu Tuyên Giang". Vậy Hổ nham là tên một huyện thời thuộc Minh, và cứ truyện Đại Xả ở đây thì nó có thể là tên huyện thời Lý, Trần nữa.
Đại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn tây, mục Từ quán, còn chép một ngôi chùa tên Hổ nham. Nó viết: "Chùa Hổ nham ở tại sơn phần xã Vân nham huyện Hùng quan, trên vách đá có đề ba chữ lớn "Hổ nham cương", gần phía đông có núi Mãn, phía tây có sông Lô và ngọn núi Am chạy bên cạnh, là thắng cảnh của một phương. Khoảng năm Lê Hồng Đức, thổ dân dựng lầu ở trên động, mỗi năm ngày mồng năm tháng giêng, sĩ nữ đều hội lại để đi xem chơi. Khoảng năm Đại Chính đời Nhuận Mạc, trùng tu lại, mới đổi tên là Hổ nham, có đủ bia ký".
Như thế, Hổ nham không những là tên huyện Hổ nham và từ đó chắc có làng Hổ nham, mà còn có gò Hổ nham, hay Hổ nham cương tại phần núi của xã Vân nham, huyện Hùng quan tỉnh Sơn tây thời Nguyễn, tức phần đất phía nửa đông bắc tại huyện Đoan hùng tỉnh Vĩnh phú hiện nay tại tả ngạn sông Lô và sông Cháy. Xã Vân nham hiện ở phía nam chỗ hợp lưu của hai con sông đấy. Dù Đại nam nhất thống chí có nói cái tên chùa Hổ nham đến thời Mạc mới có tên, ta vẫn có thể giả thiết nó rất có thể dựng từ thời Lý và chắc bắt đầu với nhà sư Đại Xả nói tới ở đây. Một cuộc nghiên cứu hiện địa tương lai sẽ giải đáp vấn đề đó cho ta.
4 Toàn thư B4 tờ 14a4 nói: "Đại Định năm thứ 19 (1158) mùa thu tháng 8 Đỗ Anh Vũ chết". Nếu vậy, làm gì có truyện "trong khoảng Thiên Cảm Chí Bảo (1174-1175) Thái úy Đỗ Anh Vũ ra lệnh bắt Đại Xả vào cung cấm và hết lời nghiêm trách" nói tới ở đây. Phải chăng Toàn thư chép sai năm mất của Anh Vũ? Đây là một có thể, cứ vào một số trường hợp sai khác đã xảy ra.
5 Phép mười hai nhân duyên hay đạo lý 12 nhân duyên là một phạm trù cơ bản của tư tưởng Phật giáo nhằm giải thích sự sống chết của con người. Khởi hành từ cái thực tin già chết, ta hỏi nguyên nhân tại sao, thì câu trả lời là vì có sự sinh ra. Hỏi tại sao có sự sinh ra, ta trả lời vì sự có thai. Hỏi tại sao có thai, ta trả lời là vì có sự giao cấu. Hỏi tại sao có sự giao cấu, ta trả lời là vì có sự thương yêu. Hỏi tại sao có yêu thương, trả lời vì có cảm giác. Hỏi sao lại có cảm giác, ta trả lời là vì có va chạm. Tại sao có va chạm, ta trả lời là vì có sáu giác quan. Tại sao có sáu giác quan, ta trả lời là vì có những điều kiện tâm lý và vật lý. Hỏi tại sao có những điều kiện tâm lý và vật lý, ta trả lời vì có thức. Hỏi tại sao có thức, ta trả lời vì có hành động liên tục. Hỏi tại sao có hành

Sư tâu: "Khi giữ được nghiệp thức an tịnh, tức là thanh trừng được phiền não, chớ không còn có phép nào khác đáng tu tập cả. Ngày xưa Lương Vũ Đế1 thường đem việc đó hỏi Thiền sư Bảo Chí2, Bảo Chí cũng đáp như thế. Nay tôi cũng xin trộm trình với [30a1] bệ hạ điều y hệt như vậy3.
Đến ngày mồng 5 tháng 2 năm Trinh Phù thứ 5 (1180) Sư dặn dò đệ tử rồi nói kệ: "Bốn rắn cùng lồng4 vốn trống trơn,
Núi cao năm uẩn5 chẳng bà con,
Linh minh chân tính không ngăn ngại Sinh tử Niết bàn nỡ vấn vương".
Lại nói:
"Trơ trơ răng ngựa đá6 Tháng ngày kêu ăn mạ Trên đường ai cũng qua Không đi người trên ngựa.
Đến canh 5, Sư uống thuốc độc rồi mất, thọ 61 tuổi.
động, ta trả lời vì vô minh. Đây là một dây chuyền 12 khâu kết nối với nhau, mà từ ngữ Phật học Trung quốc thường gọi là vô minh, hành , thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử. Sự liên hệ giữa 12 khâu này, từ Phật học Trung quốc thường diễn tả bằng chữ duyên. Do thế, khi nói vô minh duyên hành, có nghĩa vô minh làm điều kiện cho hành động xuất hiện. Hay nói, hành duyên thức, tức cũng nói, hành làm điều kiện cho thức ra đời cho đến sự ra đời của lo buồn, khổ não tức bắt nguồn từ sự sinh ra. Vì có một liên hệ nhân quả liên tục như thế, nghĩa là một sự liên hệ trong đó nhân trở thành quả và quả trở thành nhân nên 12 khâu trên được gọi là 12 nhân duyên.
Kinh sách Phật giáo khẳng định rằng đạo lý 12 nhân duyên vừa mô tả có thể được khám phá trong những lúc và tại những nơi không có tư tưởng hay kinh sách Phật giáo. Những người khám phá ra đạo lý đó không dựa hay nhờ Phật giáo thì Phật giáo gọi họ là những Bích Chi Phật, tức những người giác ngộ nhờ vào chính mình và chỉ một mình mình mà thôi. Bích Chi Phật là một phiên âm chữ Phạn Pratyekabuddha, mà từ Phật học Trung quốc dịch là "Độc giác".
1 Lương Vũ Đế hay vua Vũ Đế nhà Lương, tên thật là Tiêu Din, người đã lật đổ nhà Tề tại miền Nam Trung quốc và lập nên nhà Lương vào năm 502. Đến năm 549, Hầu Cảnh khởi nghĩa và bức tử tại Đài thành. Lương Vũ Đế thường được coi là vị vua sùng thượng Phật giáo nhất trong lịch sử các vua chúa Trung quốc. Xem Lương thư 1-2
2 Bảo Chí (419 ?- 515), một nhà sư có những hành tung tương tự như của Đại Xả ở đây, có những liên hệ sấm ngữ với Lương Vũ Đế. Về cuộc đời ông xem Truyền đăng lục 27 tờ 429c18-430a23.
3 Đoạn đối thoại giữa Lý Anh Tôn và Đại Xả ở đây hoàn toàn lấy ra từ truyện của Bảo Chí trong Truyền đăng lục 27 tờ 430a6-11, theo đấy (Lương Vũ) Đế một hôm hỏi Bảo Chí rằng: "Đệ tử phiền hoặc, lấy gì mà chữa?" Sư đáp: "Lấy 12. Kể hiểu biết cho rằng 12 nhân duyên là thuốc trị phiền hoặc". Lại hỏi về ý chỉ của 12. Sư đáp: "Ý chỉ ở tại trong 12 chữ viết chỉ thì giờ của đồng hồ. Kẻ hiểu biết cho rằng nó được viết vào trong 12 giờ khắc." Lại hỏi: "Đệ tử lúc nào thì được tĩnh tâm mà tu hành?" Sư đáp: "An lạc tâm. Kẻ hiểu biết cho rằng tu hành những giới cấm là để làm đừng nghỉ, nghĩa là đến lúc tới được cho sung sướng thì mới thôi".
4 Hình ảnh lấy từ phẩm Quang minh biến chiếu cao quý đức vương Bồ tát của kinh Đại bát niết bàn, theo đấy có một ông vua đem bốn con rắn độc đựng chung vào một cái lồng, bảo người thị thần nuôi dưỡng. Nếu để cho chúng không vừa lòng thì người đó bị xử tử. Người đó bỏ chạy, vua cho năm người chiên đà la đuổi bắt lại. Đuổi không kịp, bèn sai một người giả bộ hiền lành đi dụ dỗ, thì người kia đi đến một làng trống vắng. Vừa tới, người kia nghe nói đêm đó sẽ có sáu tên cướp đến cướp. Bèn sợ hãi, chạy đến gặp một con sông cuồn cuộn nước. Bèn quyết ý vượt qua, bất giờ mới giải thoát thảnh thơi. Bốn con rắn độc ấy, kinh này nói là dụ cho bốn nhân tố vật chất tạo nên con người, đấy là đất, nước, gió, lửa. Từ Phật học Trung quốc gọi là tứ đại. Xem Đại bát niết bàn kinh 23.
5 Hình ảnh lấy từ phẩm Sư Tử Hống Bồ Tát của kinh Đại bát niết bàn, ở đấy, sự sinh, già, bệnh , chết của con người được ví với bốn ngọn núi lớn "từ bốn phương đến muốn hại nhân dân". Xem Đại bát niết bàn kinh 29. Ngũ ấm, tức năm nhân tố tâmvật lý tạo nên con người, đấy là vật chất, cảm giác, tưởng tượng, ý chí, và tri giác hay nhận thức. Từ Phật học Trung quốc thường gọi sắc, thọ, tưởng, hành, thức.
6 Ngựa đá, trâu đất, Thiền gia thường dùng để chỉ cho công vị của thiền. Thiền sư Thúy Nham, Công huấn vấn đáp: "Nê ngưu ẩm tận trừng đàm nguyệt
Thạch mã gia tiên bất chuyển đầu". (Trâu đất uống hết trăng đầm lặng Ngựa đá roi quất chẳng ngoanh đầu).
Xem Nhân thiên nhãn mục 3 tờ 316b5-6

27. THIỀN SƯ Tịnh Lực (1112 - 1175)
Am Việt vương trì, Tỉnh Cương, Vũ ninh1 người Cát lăng, Vũ bình2 họ Ngô, tên Trạm. Thuở nhỏ Sư thông minh, biện tài, sở trướng nghề văn, thể chữ càng giỏi. Trong khi du học, được gặp Đạo Huệ, núi Tiên du, bèn quyến luyến nhau, như cây kim hạt cải, nên gửi lòng đất Phatả, mặc áo cỏ, ăn cây lá, phước huệ cùng tu, trải mấy tinh sương, lòng càng bền chặt. Đạo Huệ thường bảo: "Tâm ấn Chư Phật, người đã có sẵn, không cần theo ai mà được."
Sư thưa: "Đã được thầy chỉ dạy, nhưng nay nên trụ nơi nào?"
Đạo Huệ bảo: "Chẳng cần đi đâu xa, ở tại Vũ ninh là tốt" (30b1). Sư thẳng lên núi, cất am cỏ, ở tu. Trong 12 thời, Sư lễ Phật sám hối, thâm nhập được pháp môn niệm Phật tam muội3 nên âm thanh trong trẻo như tiếng Phạm thiên. Thường giảng kinh Viên giác, nghĩa lý nếu có chỗ nào chưa ổn, Sư đích thân cải chính. Người bấy giờ bảo trong miệng Sư hùng hoàng4.
1 Đại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, mục Sơn xuyên, trong khi viết về Trâu sơn, nói: "Trâu sơn, một tên là núi Vũ ninh", rồi dẫn An nam chí rằng: "Núi Vũ ninh ở châu Vũ ninh, có Tỉnh cương và có Thạch xà gọi là Ngọc kinh tử, lại có mộ của Việt Vương.
Tỉnh cương như vậy là một cái gò trên núi Trâu hiện nay. Cái gò này vì có một cái giếng, nên gọi là gò Giếng hay Tỉnh cương. Bên cạnh gò có lẽ có một cái đầm và vì nó gần mộ của Việt Vương, nên gọi là Việt Vương trì hay Vương trì. Còn Vũ ninh, cái tên đặt ra từ thời Tôn Ngô, đến thời Lý vẫn còn dùng để gọi một châu. Đại Việt sử lược 2 tờ 11a8 nói: "Năm Long Thụy Thái Bình thứ 6 (1059) vua dựng chùa Sùng nghiêm báo đức ở châu Vũ ninh" Đất châu này ngày nay thuộc địa phận hai huyện Quế dương và Vũ Giang tỉnh Bắc ninh.
2 Theo Cương mục tiền biên 3 tờ15a1-4 thì "Vũ bình vốn đất huyện Phong khê, khoảng đầu đời Ngô đặt ra, gồm có 7 huyện. Đời Tùy bỏ quận, đổi làm huyện Long bình, đời Đường đổi làm huyện Vũ bình, sau đó lại đặt làm Đằng châu. Đời Đinh và Lê lấy làm hai phủ Tiên hưng và Khoái châu, nay là đất tỉnh Hưng yên vậy".
Đại nam nhất thống chí tỉnh Hưng Yên, mục phần dã cũng có một ý kiến tương tợ, đấy là đặt Đằng châu và Khoái châu làm tên cho quậnVũ bình đời Lương, rồi chú chép là "chép trong sử Lý Cao Tôn". Toàn thư B4 tờ 25a8 có ghi "Năm Trị Bình Long Ứng thứ 5 (1209) mùa xuân tháng giêng Phạm Bỉnh Di đem người Đằng châu và Khoái châu đi đánh Phạm Du". Nhưng không nói gì đến chuyện đặt tên Đằng châu và Khoái châu cho Vũ Bình hết. Mà truyện Tịnh Lực ở đây xác nhận là cái tên Vũ bình cho tới thời Lý vẫn đang còn dùng.
Các sử sách Trung quốc thì Nguyên hòa quận huyện đồ chí 38 tờ 12b4-9 nói "huyện Vũ bình, từ huyện lỵ đến phủ lỵ    (Giáo châu) phía tây nam 19 dặm, vốn là đất thành bọn mọi Phù nghiêm. Năm Kiến Hoạch thứ 3 (271) đời Qui Mạng Hầu nhà Ngô đánh tan bọn mọi Phù nghiêm đặt quận Vũ bình, năm Khai Hoàng thứ 10 (590) bỏ quận, lập huyện Sùng bình thuộc Giao châu.
Năm Vũ Đức thứ 4 (621) đổi tên là Vũ bình". Huyện Vũ Bình như vậy ở vào phía đông bắc của phủ trị Giao châu, mà vào thời Lý Cát Phủ viết Nguyên hoà quận huyện đồ chí, tức những năm 806-820, thì đã ở tại phần đất của thủ đô Hà nội ngày nay. Cứ vào mô tả đó thì huyện Vũ bình có thể ở vào địa phận tỉnh Hưng yên lắm.
Thái bình hoàn vũ ký 17tờ 8b9-9a3 cũng có những mô tả tương tự. Nó viết: "Huyện Vũ bình, nhà Ngô đặt quận Vũ bình, nhà Tùy đổi thành huyện. Nó vốn là huyện Phong Khê thời Hán. Khoảng đầu năm Kiến Vũ, người con gái huyện Mê linh tên Trưng Trắc làm phản, đánh hãm Giao chỉ. Mã Viện đem quân tới đánh, ba năm mới bình. Vũ đế bèn đặt thêm hai huyện Vọng hải và Phong khê. Phong khê tức huyện này. Đời Tuỳ gọi nó là Long bình. Đường Vũ Đức năm thứ 4 (621) đổi nó làm huyện Vũ bình". Những mẫu tin của Nhạc sử ở đây đều chép lại Nguyên văn của phần địa lý về huyện Vũ bình trong Cựu đường thư 41 tờ 43a8- 11, Tân Đường thư 43 thượng tờ 10a1 cũng không có một điểm gì mới lạ.
Chúng tôi nghĩ rằng, cứ vào những tài liệu Trung quốc vừa dẫn thì huyện Vũ bình đời Đường cho đến đời Lý vẫn là một địa phận với những thêm bớt cắt xén nào đó. Vũ bình thời nhà Lý rất có thể là tên một quận hay một châu, và nó nằm tại phần đất tỉnh Hưng yên ngày nay. Bắc thành địa dư chí lục 3 tờ 18b2 và 19a2 có kê một tổng xã tên Cát dương thuộc huyện Phù dung và một tổng xã tên Cát lăng thuộc huyện Tiên lữ, phủ Khoái châu. Cát lăng quê hương của Tịnh Lực ở đây có thể gồm địa phận các tổng Cát dương và Cát lăng vừa nói.
3 Niệm Phật tam muội, Phạn: Buddhànusmrti-samàdhi. phương pháp Thiền định bằng cách nhớ nghĩ đến Phật. Sự nhớ nghĩ này hoặc bằng một lòng quán tưởng những nét đẹp của xác thân Phật hay thật tướng của pháp thân Phật thì gọi là quán tưởng niệm Phật, hoặc bằng một lòng đọc tụng tên Phật thì gọi là danh xưng niệm Phật. Đây là nhân hành của việc niệm Phật. Đến khi vào thiền định mà thấy được chính Phật hiện ra trước mắt hay thấy được pháp thân Phật, thì đấy là kết quả của việc niệm Phật tam muội. Xem Quán vô lượng thọ kinh ĐTK 365 và Niệm phật tam muội kinh 7 ĐTK 1996.
4 Hùng hoàng theo Thần nông bản thảo kinh là một loại đá có thể làm cho người ta "nhẹ người thần tiên" và chống lại được bệnh do tà ma quỉ quái tạo ra. Ngô Phổ giải thích nó là thứ hùng của các loại đan nên gọi là hùng hoàng. Xem Thần nông bản thảo kinh 2 tờ 2b1-11 và Bản thảo cương mục 9 tờ 21b9-28b1. Đặc biệt đây là chất người Trung quốc thường dùng để bôi xoá những chữ viết sai. Cho nên về sau nói người nào có hùng hoàng trong miệng là muốn nói người đó giỏi biện luận, có thể sửa sai người khác.

Vào một tháng nào đó của năm Thiên Cảm thứ 2 (1175)1, Sư cáo bệnh gọi môn đồ đến dạy: "Các ngươi hết thảy đều là kẻ học đạo. Lòng siêng cúng dường Phật, không ngoài việc chỉ nhằm khiến dứt trừ các ác nghiệp. Tâm và miệng niệm tụng phải tin, hiểu, nghe, biết. ở chỗ vắng vẻ yên lặng, gần gũi thiện tri thức, mở lời hoà vui, nói năng đúng lúc, trong không sợ khiếp, hiểu rõ nghĩa lý, xa lìa ngu mê, an trụ bất động, xem hết mọi pháp vô thường vô ngã, vô tác vô vi, ở chỗ lìa phân biệt. Đó là người học đạo. Ta nay hoá duyên đã xong".
Rồi Sư nói bài kệ sau:
"Trước tuy nói cát sau nói hung Từ đấy theo xưa huý chẳng tùng Vì gặp thấy rồng làm con Phật 2
Chợt trông chuột hiện lặng vô cùng".3
Nói xong Sư ngồi ngay ngắn [31a1] thị tịch, thọ 64 tuổi.

28. THIỀN SƯ Trí Bảo (? - 1190)
Chùa Thanh tước, núi Du hý, làng Cát lợi hy4, Thường lạc. Người Ô diên5 Vĩnh Khương, họ Nguyễn, nguyên là cậu của Thái úy Tô Hiến Thành6, triều vua Anh Tôn nhà Lý. Bỏ tục xuất gia, ở tại chùa núi đó, thường mặc áo rách, ăn gạo lứt, 10 năm chưa thay một chiếc áo, ba ngày không nấu một nồi cơm, tay chân chai cóp, thân thể khô gầy. Thấy một kẻ nghèo thì vòng tay tránh đường, gặp một sa môn thì quỳ gối lễ bái. Siêng tu thiền định, đến 6 năm thì đạo thành, bèn chống gậy xuống núi, hoặc sửa cầu đường, hoặc dựng chùa tháp, tuỳ duyên khuyến khích mọi người, không màng lợi dưỡng.
Có lần, có vị Tăng hỏi: "Sanh từ đâu lại, chết sẽ về đâu?".
1 Thừa Tiên là tự của Lâu Huyền đời Tôn Ngô và của Thái Hựu đời Bắc chu. Họ đều là những trung và công thần của hai triều đại ấy. Xem Ngô chí 20 tờ 2a2-3a1 và Chu thư 27 tờ 2b13-4b6.
2 Nguyên văn: Vị ngộ hiện long vi Phật tử. Hiện long là một từ lấy từ quẻ càn của Chu dịch: "Hiện long tại điền, lợi kiến đại nhân". (Rồng ra ở ruộng, lợi thấy đại nhân). Khổng tử giải thích: Đức rồng ở chính trung thì lời nói thường mà tin, việc làm thường mà cẩn thận, tránh điều tà mà giữ lòng thành, giỏi việc đời mà không khoe khoang, đức hạnh rộng để giáo hoá. Dịch nói: "Rồng ra ở ruộng, nên thấy đại nhân, đó là đức của vua vậy." Xem Chu dịch 1 tờ 2b7-10.
3 Nguyên văn: Hốt tào thử xuất tịch vô cùng. Chuột trong câu này là chỉ bọn bầy tôi phá hoại quốc dân, một từ lấy ra ở thiên Chính lý của Thuyết uyển: "Tề Hoàn Công hỏi Quản Trọng: "Nước có nạn gì?" Quản Trọng đáp: "Nạn là nạn chuột xã. Hoàn Công hỏi: "Sao gọi thế? Quản Trọng đáp: cái xã là do bó cây mà trét đất lên. Chuột nhân đó đến ở gá vào. Đốt chúng đi thì sợ cháy cây. Tạt chúng đi thì sợ lở đất. Chúng do đó không thể giết được là vì ngôi xã. Nước cũng có loại chuột xã, tức là kẻ hầu hạ hai bên vua vậy. Bên trong thì chúng bưng bít việc thiện ác đối với vua. Bên ngoài thì chúng mua bán quyền hành đối với dân. không diệt chúng thì nước loạn, mà giết chúng thì bị vua xét hỏi. Nên chúng cứ chiếm lấy vua mà sống. Đấy tức là bọn chuột xã của nước vậy". Xem Thuyết uyển 7 tờ 11a1-7.
4 Những tư liệu thời Lý , Trần hiện còn thì hoặc có tên Cát lợi, hoặc có tên Lợi hy, chứ chưa thấy tài liệu nào có tên Cát lợi hy. Về tên Cát lợi, Đại Việt sử lược 3 tờ 24a2, ghi lại sự việc "năm Kiến Gia thứ 2 (1212) tháng 2 Nguyễn Tự tấn công người cát lợi là Ngô Thưởng ở Vũ cao, bị tên độc trúng, bèn trở về xóm Tây dương, tuần hơn lỡ giao cấu với đàn bà, khí độc phát lại mà chết". Còn  tên Lợi hy, văn bia của chùa Báo ân tại xã Tháp miếu, huyện Yên lãng, tỉnh Vĩnh phú dựng năm Trị bình Long Ứng thứ 5 (1210) triều Lý Cao Tôn thì ghi nó như một tên xã. Về vị trí nó, xem chú thích (2) truyện Khuông Việt.
5 Cương mục tiền biên 4 tờ 12a4-6 viết: "ô Diên là đất Giao chỉ xưa, năm Đường Vũ Đức thứ 4 (621) đặt huyện Ô Diên cùng với Từ liêm và Vũ lập là ba huyện đều thuộc Giao chỉ, Sử cũ chua Ô diên là xã Hạ mỗ ở Từ liêm. Xã ấy có đền thờ Bát lang thần, "đó tức là đền thờ Nhã Lang vậy". Sử cũ mà Cương mục dẫn ra đây tức là Toàn thư N4 tờ 20a1. Kiến văn tiểu lục 6 tờ 1b5-7 cũng lập lại những gì Toàn thư đã nói, như Cương mục đã dẫn. Nó viết: "Xã Hạ Mỗ, sử nói tức là thành Ô diên, nơi ở của Triệu Việt Vương". Xã đó có đền thờ Bát lang thần, tức là Lý Nhã Lang, rể của Triệu Việt Vương. Đại nam nhất thống chí, tỉnh Hà nội , mục Từ miếu cũng ghi thế. Quê hương của Trí Bảo như vậy phải là làng Hạ mỗ, huyện Hoài đức, tỉnh Hà tây ngày nay.
6 Tô Hiến Thành (? - 1179). Cứ Đại Việt sử lược 3 và Toàn thư B4 thì trong trận đánh chống nghĩa quân Thân Lợi vào năm 1139 (Toàn thư ghi vào năm 1141) Tô Hiến Thành mang chức Thái phó. Đến năm 1159, Toàn thư B4 tờ 14a 7 nói: "Vua phong Tô Hiến Thành làm Thái uý". dặm".
Sư trầm ngâm suy nghĩ, thì vị tăng ấy bảo: "Trong lúc ngẫm nghĩ thì mây trắng đã bay xa ngàn
Sư không đáp được. Vị Tăng ấy liền quát: "Chùa tốt mà không có Phật".1
Nói rồi bèn bỏ đi. Sư tự than rằng: "Ta tuy có tâm xuất [31b1] gia, nhưng chưa đạt được yếu chỉ của người xuất gia. Như kẻ đào giếng, dù đào đến chín nhẫn mà không tới mạch, còn phải bỏ giếng, huống là tu thân mà chẳng ngộ đạo thì phỏng có ích gì?". Từ đó, Sư đi khắp bốn phương, tìm hỏi các hàng tri thức. Nghe Đạo Huệ đang giáo hoá ở núi Tiên du, bèn đến bái kiến hỏi rằng: "Sinh từ đâu đến, chết rồi lại đi đâu?".
Huệ đáp: "Sinh không từ đâu lại, chết cũng chẳng về đâu". Sư thưa: "Thế chẳng lẽ rơi vào chỗ hư vô sao?"
Huệ bảo: "Chân tính tròn đầy mầu nhiệm, bản thể vốn không tịch, vận dụng tự tại không đồng với sinh tử. Vì lẽ đó mà sinh không từ đâu đến, chết cũng chẳng về đâu".
Sư nghe lời bèn tỉnh ngộ, rồi nói:
"Chẳng nhân gió cuốn mây bay sạch, Sao thấy trời xanh muôn dặm thu?"2
Đạo Huệ hỏi: "ông thấy được gì?"
Sư thưa: "Quen nhau khắp thiên hạ, Tri âm được mấy người !"3
Rồi từ tạ trở về núi.
Từ đấy, Sư nói ngang, nói dọc như chọi đá nháng lửa. Một hôm Sư thăng đường, Tăng tục đông nghẹt, có người hỏi: "Thế nào là tri túc?"
Sư đáp: "Người xuất gia [32a1] tại gia đều dừng lại ở tri túc. Nếu tri túc thì ngoài chẳng lấn người, ttrong không tổn mình. Vật nhỏ nhặt như lá rau ngọn cỏ, người không cho, mình chẳng nên lấy. Huống gì những vật khác thuộc của người. Hãy dấy lên cái ý tưởng đó là vật của người thì mình rút cuộc không vì chúng mà sinh lòng trộm cắp. Cho đến thê thiếp của người, hãy dấy lên cái ý tưởng đó là thê thiếp của người, thì mình cũng không vì thế mà sinh lòng dâm.
Các người nghe ta nói kệ:
1 Ý và chữ lấy từ câu nhận xét về Vô Nghiệp của Đạo Nhất. Khi Nhất lần đầu tiên gặp Nghiệp, thấy vóc dáng Nghiệp cao lớn. Tiếng nói như chuông, Nhất bảo: "Chùa Phật vòi vọi, mà trong không có Phật" (nguy nguy Phật đường, kỳ trung vô Phật). Xem Truyền đăng lục 8, tờ 257a8-9. Xem thêm chuyện Thân Tán, theo đó Tán, sau khi bỏ thầy mình đến học với Bách Trượng rồi trở về, thầy Tán hỏi: "Con bỏ chỗ ta đi rồi, giờ có được sự nghiệp gì không?" Tán đáp: "Không có sự nghiệp gì ráo", nên bị thầy sai hầu hạ. Một hôm ông bắt Tán tắm cho ông, Tán vỗ vào lưng ông nói: "Điện Phật đẹp mà Phật không thiêng". (Hảo sở Phật điện, nhi Phật bất thánh). Xem Truyền đăng lục 9 tờ 168a10-14.
2 Có người hỏi Tôn Triệt: "Tính địa nhiều u tối làm sao hiểu rõ?" Triệt đáp: "Mây nổi gió cuốn, bầu trời bỗng trong". Xem Truyền
đăng lục 12 tờ 293a 22-23.
3 Trường Sinh hỏi Huyền Sa Sư Bị: "Hoà thượng có thấy rõ ràng chỗ thấy không ?" Bị đáp: "Biết nhau khắp thiên hạ" (Tương thức mãn thiên hạ). Xem Truyền đăng lục 18 tờ 347a13-14. Xem thêm Viên Ngộ Phật Quả thiền sư ngữ lục 1 tờ 715b24. Thiền sư Kế Bằng thượng đường, chấp tay hỏi:
"Biết nhau khắp thiên hạ, Tri âm được mấy người". (Tưởng thức mãn thiên hạ Tri âm năng kỷ nhân)
Xem Truyền đăng lục 2 tờ 476b 20-21.
Câu sau từ Ngũ đăng hội nguyên. Xem thêm câu hỏi trong truyện Diên Chiểu ở Truyền đăng lục 12 tờ 302a24-25 Can mộc phụng Văn hầu
Tri âm hữu kỷ nhân.
"Bồ tát của mình biết đủ thôi,
Của người chẳng muốn chỉ thương yêu . Lá rau không biếu, ta không lấy,
Không tưởng của người, đức ngọc treo, Bồ tát vợ mình biết đủ thôi.
Sao còn ham muốn vợ con người, Thiếp thê ai nấy lo gìn giữ,
Sao nỡ lòng mình nghĩ lả lơi".1
Đến ngày 14 tháng 4 năm Thiên Tư Gia Thụy thứ 5 (1190), triều vua Lý Cao Tôn, Sư cáo bệnh rồi mất. Đệ tử làm lễ hoả táng, thu linh cốt, xây tháp thờ tại cửa núi.

29. THIỀN SƯ Trường Nguyên (1110 - 1165)
Chùa Sóc Thiên vương, núi Vệ linh, chợ Bình lỗ2 [32b1]. Người Trường nguyên, Tiên du3, họ Phan, giòng dõi Thích tử.
Lúc đầu xuất gia, được Đạo Huệ chùa Quang minh ấn khả, bèn đi thẳng vào núi đó ẩn tu. Mặc áo cỏ, ăn hạt dẻ. Sư suốt ngày làm bạn với suối đá, khỉ, vượn. Trong 12 thời, Sư tôi luyện thân tâm, thuần nhất một mảnh, dùng để trì kinh. Trải 5, 6 năm, người ta chưa từng nom được bóng dáng. Vua Lý Anh Tôn nghe danh, ngưỡng mộ đạo hạnh của Sư, muốn gặp mà không thể được. Vua bèn sai bạn cũ của Sư là Phiên thần Lê Hối, đi dụ Sư về kinh đô, khi tới kinh, để Sư ở chùa Hương sát.
Sư tự hối hận, trốn trở về, gọi môn đồ đến dạy rằng: "Hạng người thân khô lòng nguội, không phải để cho thế gian trá ngụy làm vật. Bởi vì chí hạnh của ta chưa được thuần phục, nên suýt nữa bị các thứ bẫy lồng vây khốn. Hãy nghe kệ ta đây:
"Rừng xanh con nhỏ vượn ôm về4 Hiền thánh ngàn xưa chẳng thể ghi, Oanh hót xuân về hoa nở rộ,
Cúc cười thu đến dáng hình chi".
Lại thường bảo mọi người: "Lạ thay ! Lạ thay ! Các chúng sinh đây, sao có đầy đủ trí tuệ của Như Lai mà ngu [33a1] si, mê hoặc chẳng thấy, chẳng biết, ta thường đem đạo lý dạy dỗ khiến cho họ vĩnh viễn xa lìa vọng tưởng chấp trước để trong tự thân, mà thấy được trí tuệ rộng lớn của Như Lai, lợi ích an lạc".
1 Ý và chữ của đoạn văn và bài kệ trên đây rút ra từ chương Ly cấu của phẩm Thập địa trong kinh Hoa nghiêm: "Bồ tát ư tự tư tài, thường tri chỉ túc, ư tha từ thứ, bất dục xâm tổn. Nhược vật thuộc tha, khởi tha vật tưởng, chung bất ư thử, nhi sanh đạo tâm.  Nãi trí thảo diệp, bất dự bất thủ, hà huống kỳ dư, tư sinh chi cụ. Tính bất tà dâm. Bồ tát ư tự thê tri túc, bất cần tha thê. Ư tha  thê thiếp tha sở hộ nữ, thân tộc môi định, cập vi pháp sở hộ, thượng bất sinh ư tham nhim chi tâm, hà huống tùng sự, huống ư phi đạo". (Bồ tát đối với của cải mình, biết vừa đủ, đối với của người, thì thương yêu tha thứ, không muốn lấn hại. Nếu vật thuộc của người mình dấy lên cái ý tưởng là vật của người thì rốt cuộc không sinh lòng trộm cắp. Cho đến ngọn cỏ, lá cây, người không cho, mình không lấy, huống nữa là những vật dùng cho đời sống khác. Bồ tát biết đủ đối với vợ mình, mà không vợ người. Đối với thê thiếp của người, con gái do người bảo hộ, mình còn không móng lòng tham nhim, huống nữa là tùng sự dâm dục, huống nữa là nơi phi đạo). Xem Đại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh 35 tờ 185a25-b2.
2 Về Bình Lỗ và núi Vệ linh, xem chú thích (5) truyện Khuông Việt
3 Về Tiên du, xem chú thích (2) truyện Vô Ngôn Thông.
4 Thiện Hội ở Giáp sơn, có người hỏi về cảnh Giáp sơn, đáp: Viên bảo tử quy thanh chướng lý
Điểu hàm hoa lạc bích nham tiền (Vượn bồng con về trong núi xanh Chim ngậm hoa rơi trước hang biếc)
Xem Truyền đăng lục 15 tờ 324b20-21.

Đến ngày mồng 7 tháng 6 năm Chính Long Bảo Ứng thứ 3 (1165), Sư nhuốm bệnh, nói kệ rằng: "Tại quang tại trần1,
Thường lìa quang trần, Lòng dạ trong vắt, Cùng vật không thân Thể ở tự nhiên,
Ứng vật vô ngần, Lưỡng nghi trời đất, Đãi bỏ nhân luân Nuôi nấng vạn vật,2 Cùng vật vui xuân, Làm múa gái sắt,
Khuya trống mộc nhân"3
Nói kệ xong, Sư hóa, thọ 56 tuổi.

30. THIỀN SƯ Tịnh Giới (? - 1207)
Chùa Quốc thanh, núi Bí linh4, phủ Nghệ an {Có chỗ chép chùa Quốc thanh, phủ Trường an5}.
Người Mão hương, Ngung giang, Lô hải6, họ Chu, tên Hải Ngung.
1 Những từ chủ yếu trong 4 câu đều lấy từ chương 56 của Đạo đức kinh: "Tri giả bất ngôn, ngôn giả bất tri, tắc kỳ đoài, bế kỳ môn, toả kỳ nhuệ, giải kỳ phân, hoà kỳ quang, đồng kỳ trần, thị vị huyền đồng, cố bất khả đắc nhi thân, bất khả đắc nhi sơ, bất khả    đắc nhi lợi, bất khả đắc nhi hại, bất khả đắc nhi quí, bất khả đắc nhi tiện, cố vị thiên hạ vi" (Người biết không nói, người nói không biết, ngậm miệng lưỡi, bịt tai mắt, nhụt bén nhọn, bỏ chia phân, hoà ánh sáng, đồng bụi bậm, ấy gọi là huyền đồng cho nên không thể được mà thân, không thể được mà sơ, không thể được mà lợi, không thể được mà hại, không thể được mà sang, không thể được mà hèn, không nên thành vật quý của thiên hạ). Xem Đạo đức kinh hạ thiên tờ 12a13-b6.
2 Những từ chủ yếu trong 6 câu đây lấy ra từ chương 51 của Đạo đức kinh, "Đạo sinh chi, đức súc chi ... trưởng chi, dụ chi, đình chi, dưỡng chi, phú chi..." (Đạo sinh đó, đức nuôi đó, ..., lớn đó, nắn đó, đúc đó, dưỡng đó, che đó). Xem Đạo đức kinh hạ thiên tờ 9b6-10a6. Xem thêm Biện mệnh luận của Lưu Tuấn trong Văn tuyển Lý Thiện chú 54 tờ 7b13- 8a8: "Rằng sinh hết muôn vật thì gọi là đạo, sinh mà không có chủ thì gọi là tự nhiên, tự nhiên là vật thấy mình vậy mà không biết tại sao mình vậy ..., sinh ra, không có lòng nắn đúc, chết đi há có ý giết bỏ ..." (Phù thông sinh vạn vật, tắc vị chi đạo, sinh nhi vô chủ, vị chi tự nhiên, tự nhiên giả, vật kiến kỳ nhiên, bất chi kỳ sở dĩ nhiên          , sinh chi, vô đình độc chi tâm, tử chi, khỉ kiền lưu chi chí).
3 Gai sắt, người gỗ, Thiền gia dùng để mô tả diệu dụng của Thiền. Thiền sư Đông An Sát, Thập huyền đàm: "Mộc nhân dạ bán xuyên ngọa khứ
Thạch nữ thiên minh đái mạo quy" (Người gỗ nửa đêm xỏ dép đi Sáng mai gái đá đội nón về)
Xem Truyền đăng lục 29 tờ 455c6-7. Xem thêm Cổ túc thập trí đồng chận vấn đáp: "Mộc nhân tuy bất ngữ
Thạch nữ dẫn hồi đầu". (Người gỗ tuy không nói Gái đá hết ngoảnh đầu)
Xem Nhân thiên nhãn mục 1 tờ 305c5-6.
4 Trong mấy chục ngọn núi của hai tỉnh Nghệ an và Hà tĩnh ghi trong Đại nam nhất thống chí 13-15, tỉnh Hà tĩnh và tỉnh Nghệ an, không thấy ghi ngọn núi nào tên Bí linh cả. Phải chăng nó đã bị đổi tên? Trong tình trạng hiểu biết và tư liệu hiện tại, chúng tôi chưa thể trả lời được.
5 Cương mục chính biên 2 tờ 11a2 nói: "Phủ Trường an, đời Lý là phủ, đời Trần và Lê nhân theo, nay là phủ Yên khánh, tỉnh Ninh bình vậy". Phủ Yên khánh, theo Đại nam nhất thống chí, tỉnh Ninh bình, mục phần dã thì đời Nguyễn gồm bốn huyện, đây là Yên khánh, Gia vin, Yên mô và Kim sơn. Nó như vậy tương đương với phần đất của những huyện Yên khánh, Gia khánh, Gia viên và Yên mô, tỉnh Ninh bình hiện nay. Phủ Trường yên là do Lý Công Uẩn đổi thành Hoa lư, kinh đô của nhà Đinh và Lê, vào năm 1010 mà ra.
6 Lô Hải đây chắc phải nằm trong địa phận những huyện Hoằng hoá và Hậu lộc tỉnh Thanh hóa ngày nay, bởi vì, Đại nam nhất thống chí 16, tỉnh Thanh hóa, mục Sơn xuyên, tờ 43a4-6 có kể tên một con sông tên Ngung Giang, Nó viết: "Ngu giang ở tại ranh giới của ba huyện Hoằng hoá, Mỹ hóa, và Hậu lộc, một tên là Ngung giang. Nguồn nó bắt đầu từ hai sông Mã và Lương mà tới,
Xuất thân hàn vi, nhưng tính tình thuần hậu. Lúc nhỏ theo học chữ Nho. Đến năm 26 tuổi Sư mang bệnh mộng thấy thiên thần cho thuốc, tỉnh giấc bệnh lành ngay. Sư bèn quyết chí xuất gia, đến ở với [33b1] một vị kỳ túc trong làng, dần thọ được giới Cụ túc, chuyên thực hành giới luật. Nghe nói Lãng sơn1 thanh vắng, có thể ở được, Sư xách gậy đi về phương Đông. Trải 7 năm tham học, Sư gặp Bảo Giác chùa Viên minh2 qua một câu nói, Sư liền khai ngộ. Tháng 10 năm Quý tỵ Chánh Long Bảo Ứng (1173), lúc Bảo Giác sắp tịch, gọi Sư đến dạy: "Sanh, già, bệnh, chết, đời thường là thế, há ta riêng khỏi?"
Sư hỏi: "Hôm nay Tôn đức thế nào?"
Bảo Giác gật đầu mỉm cười, nói bài kệ rằng: "Muôn pháp về không chẳng chỗ vin
Chân như vắng lặng trước mắt duyên, đến cửa An phái thì phân dòng mà chảy qua những huyện Hoằng hoá và Mỹ hóa, rồi ngoặt qua Hậu Lộc thì có nước Khe trà,...một tên Bào giang chảy vào, rồi đổ vào cửa _ bích. Cái gọi là sông Nhị, sông Cát, sông Bút, sông Bích đều là những tên khác của sông này. Sử nhà Lê nói trong khoảng Thiên Hựu (1557) Mạc Kính Sử đánh bị thua, về giữ sông Bút cương, tức nơi đây".
Ngu giang ở đây chắc là Ngung giang của chúng ta, bởi vì cả chữ Ngu lẫn chữ Ngung đều có âm phù ngu, âm phù đó cũng đọc ngung, cho nên trị sở của Quảng châu thời Hán đúng ra cũng phải đọc Phiên ngu, nhưng chúng ta cũng thường đọc là Phiên ngung. Chúng tôi do đó coi Ngung giang cũng là Ngu giang. Vào thời Lý, việc lấy tên sông mà đặt tên cho một địa phận cũng thườngxảy ra, đặc biệt là tại vùng Thanh hoá. An nam chí lược 1 tờ 21 nói: "Phủ lộ Thanh Hoá là quận Cửu chân đời Tây Hán, Ái châu đời Tuỳ Đường. Những thuộc ấp của nó ngày nay gọi là giang, trường, giáp, xã".
Về vị trí thực sự của Lô hải, cũng như của Ngung giang, chúng tôi nghĩ rằng nó nằm vào khoảng vào tổng Lỗ hương, mà trước năm 1839 thuộc huyện Hoằng hoá mà sau đó thì bị cắt làm huyện Mỹ hoá cùng những tổng khác, rồi đến năm 1850 lại thuộc huyện Hoằng hoá. Từ tổng Lỗ hương đó đi ra phía đông đến biển và cửa Ý bích có thể là địa phận của Lô Hải xưa thời Lý. Nói khác đi nó bao gồm phần lớn đất do Ngu giang chảy qua. Ngu giang ngày nay là sông Lạch trường. Cửa _ bích là cửa Lạch trường. Nên Lô hải là Ngung giang nằm tại vùng lạch trường đó.
Những địa danh như Mão hương, Ngung giang, và Lô hải bàn cãi ở đây, chúng tôi chưa thấy một sách sử nào nói tới. Do thế không cần phải nói là những bàn cãi trên có tính chất tạm thời và giả thiết.
Cứ An nam chí nguyên 3 tờ 209 thì "Thiền sư Tịnh Giới là vị Sư huyện Đông quan, tu hạnh đầu đà, cảm hoá như thần, Giao châu có hạn, họ Lý sai sứ đi đón về. Nửađêm Sư đứng giữa sân đốt hương. Mưa ngọt đổ lớn. Họ Lý khen, tặng làm thầy Mưa". Nói là gốc huyện Đông quan, bởi vì Giới về ở chùa Báo thiên, Hà nội, chứ thật sự không phải.
1 Lãng Sơn đây nghi là Lãng sơn ở huyện Lập thạch, tỉnh Sơn tây thời Nguyễn tức nay là huyện Lập thạch, tỉnh Vĩnh phú. Dù chữ Lãng trước viết với bộ thủy và Lãng sau viết với bộ nguyệt. Thiền uyển tập anh thường có cái tật thay chữ đồng âm này với một chữ đồng âm khác, mà không sợ đổi nghĩa, nhất là trong những tường hợp danh từ riêng. Ví dụ ở tờ 4b1 chữ hoài của Bách Trượng Hoài Hải thì bị viết thành hoài.
Về Lãng sơn Kiến văn tiểu lục 6 tờ 6a4-b8 nói: "Núi Lịch ở tại xã An lịch, huyện Sơn dương, bắt từ núi Sư khổng của huyện Đương đạo chạy xuống đến xã đây thì giữa đất bằng nổi lên năm sáu ngọn núi đất, rồi rẽ ngang thành một nhánh chạy xuống huyện. Lập thạch thành Lãng sơn. Trên Lãng sơn - tục gọi là núi Lạng - cũng có đền thờ vua Thuấn. Trước núi lại nổi lên một ngọn núi đất hơi thấp. Trên đỉnh nó, như hình cây giao nhau bên trong rộng ước độ vài sào, có thể trồng loại tiêm nha 100 bông - 1 bông 40 bó, 100 bông 4000 bó - tục truyền đó là chỗ vua Thuấn trồng, nhân đó gọi là núi Bách bông". Đại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn tây, mục Sơn uyên, cũng dẫn đoạn vừa viết của Kiến văn tiểu lục, khi nói về Lịch sơn.
Lãng sơn như vậy là chi nhánh của núi Lịch ở tại huyện Lập thạch. Ngày nay huyện Lập thạch tỉnh Vĩnh phú còn có Lãng sơn, mà người ta thường gọi là núi Hạng. Ta hiện chưa biết núi Hạng này còn có một ngôi chùa nào chăng? Truyện Tịnh Giới ở đây nói khi Giới đã xách gậy đông du, tức từ Thanh hóa đi ra miền bắc, để đến tại Lãng sơn thì "trải bảy năm tham học, Giới gặp Bảo Giác chùa Viên minh" Thế thì phải chăng Giới đã gặp Bảo Giác tại Lãng sơn? Phải chăng chùa Viên minh ở tại núi đó? Chúng tôi hiện chưa rõ.
2 Tiểu sử của Viên Thông thuộc đời thứ 18 của phái Pháp vân nói: "Cha của Viên Thông là Huệ Dục, làm quan dưới triều Lý Nhân Tôn đến chức tả hữu nhai tăng lục, đạo hiệu là Bảo Giác". Phải chăng Bảo Giác chùa Viên minh nói ở đây là cha của Viên Thông? Thật khó mà trả lời. Viên Thông mất năm 1151 lúc đã 72 tuổi. Cha của Viên Thông do thế không thể sống quá năm 1151 này, có quá lắm thì sống sau đó khoảng năm hay mười năm là cùng, nghĩa là tới khoảng năm 1161. Nhưng Bảo Giác chùa Viên minh ở đây lại mất vào năm 1173, như vậy khó có thể làm cha Viên Thông.
Thế thì phải chăng Bảo Giác chùa Viên minh đây là một viết lộn cái tên của Bảo Giác chùa Bảo phúc tại Đa vân thuộc thế hệ thầy của Tịnh Giới? Đây là một có thể, bởi vì tiểu sử của Bảo Giám nói Giám mất vào năm 1173 cùng năm với Bảo Giác chùa Viên minh, chỉ khác tháng mà thôi. Một bên mất vào tháng 10, một bên mất vào tháng 5. Nhưng không quan trọng cho lắm, bởi vì chữ ngũ có thể viết lộn thành chữ thập và ngược lại. Có khác chăng là khác chùa, một bên chùa Bảo phúc, một bên chùa Viên minh, nhưng cũng không thiết yếu lắm với sự dời đổi thường xuyên của phần lớn những vị Thiền sư .
Dầu sao, cuối tiểu sử của Tịnh Giới ở đây, người viết đã chú thích là "truyện của Giới đại khái so với Quốc sử và văn bia không giống, nay xin khảo chính lại", thì cũng đủ thấy, ngay từ thời Thiền uyển tập anh ra đời, cuộc đời của Giới cũng đưa ra khá nhiều vấn đề, đến nỗi cần phải khảo chính lại. Vì thế, Tịnh Giới cuối cùng có thể là đệ tử của Bảo Giác, cha của Viên Thông.
 Lòng viên ngộ được không cần chỉ Nước lặng trăng lòng dứt mọi xen".1
Nói kệ xong, Bảo Giác truyền Pháp cụ cho Sư. Từ đấy, Sư tùy phương giáo hóa, dần dần đến chùa Quốc thanh, dừng lại ở đó cấm túc 6 năm, tu hạnh đầu đà, nên hàng long phục hổ, cảm hóa như thần. Châu mục Phạm Từ nghe Sư danh đức, càng thêm lễ chuộng, xin Sư cho đúc một quả hồng chung để trấn cửa núi.
Mùa hè năm Trinh Phù thứ 2 (1177), gặp hạn, vua ban chiếu cho danh tăng khắp thiên hạ cầu mưa, nhưng không ứng nghiệm. Vua Lý Cao Tôn, lâu nghe danh Sư, sai sư đón về [34a1] chùa Báo thiên2 ở kinh đô. Nửa đêm, Sư đứng giữa sân đốt hương, trời bèn mưa xuống. Vua rất khen sủng, thường gọi là Thầy mưa3. Nhân đó triệu vào tiện điện, hỏi các pháp yếu, ban thưởng rất hậu. {Tục
1 Nguyên văn:
Vạn pháp quy không vô sở y Quy tịch chơn như mục tiền ky Đạt ngộ tâm viên vô sở chỉ Thủy băng tâm nguyệt mẫn tâm nghi.
Câu 2 theo luật thơ phải là "Chân như quy tịch mục tiền ky". Còn chữ "nghi" trong câu 4 nguyên đọc là nghĩa. Nhưng chữ nghĩa cũng đọc là nghi. Xem thiên Tứ sử, phần Xuân quan của Chu lễ 19 tờ 6b 12-13 và nghi cũng có nghĩa là "hướng đến". Xem Ngoại thích truyện của Tiền hán thơ 97 thượng tờ 18b 13 - 19a1. Nên "mẫn tâm nghi" chúng tôi dịch là "đứt mọi xen", tức dứt mọi thú hướng của tâm.
Tư tưởng "vạn pháp qui không" là một tư tưởng lớn và căn bản của những trường phái Đại thừa Phật giáo. Nhưng chữ không đó có nghĩa gì thì mọi trường phái giải thích khác nhau. Nó cũng trở thành công án của thiền. Xem Truyền đăng lục 8 tờ 262c5. Phúc Khê có người hỏi: "Duyên tán qui không, không qui hà sở?". Sư đáp: "Ta". "Mục tiền ky" là cơ duyên trước mắt, thuật ngữ lấy bài kệ Lăng hành bà gởi Triệu Châu trong Truyền đăng lục 8 tờ 263a12-13.
Khốc thanh sư dĩ hiểu Dĩ hiểu phục thùy tri Đương thì Ma kiệt quốc Kỷ táng mục tiền ky
2 Về chùa Báo thiên, xem chú thích (6) truyện Đạo Huệ.
3 Truyện Nhị Trưng phu nhân trong Việt điện u linh tập tờ 11 có đoạn nói về chuyện Tịnh Giới cầu mưa này, nhưng lại bảo nó xảy dưới thời Lý Anh Tôn. Truyện đó viết: "Lý Anh Tôn, nhân có hạn, sai Thiền sư Tịnh Giới cầu mưa, chốc lát thì được mưa, khí mát thấm người. Vua mừng đến xem, bỗng thấy buồn ngủ, mộng thấy hai người con gái mặt hoa mày liễu, áo xanh quần đỏ, mũ đỏ mang đai, cỡi ngựa sắt mà đến gặp. Vua lấy làm lạ hỏi thì họ đáp: "Thiếp là hai chị em họ Trưng, vâng lệnh Thượng đế đến làm mưa". Vua thức dậy, cảm động, sai sửa lại đền miếu, sắm đủ lễ để đến tế, sau rồi sai nghênh về phía bắc thành trong đại nội, dựng đền Vũ sư để thờ. Sau thác mộng cho vua xin lập đền thờ ở xã Cổ lai, vua nghe theo, sắc phong là Trinh Linh phu nhân".
Truyện Tịnh Giới ở đây nói Giới cầu mưa vào Trinh Phù thứ 2 (1177). Nhưng cả Đại Việt sử lược lẫn Toàn thư không ghi một lần hạn nào cả cho đến 1188. Năm đấy, Toàn thư B4 tờ 19b9-220a1 nói: "Thiên Tư Gia Thuỵ năm thứ 3, mùa hạ tháng 5  hạn, vua thân hành đến chùa Pháp vân ở Luy bà (bà, nghi là viết sai của chữ lâu. L.M Thát chú) cầu mưa, nhân đó nghênh tượng Phật Pháp vân về chùa Báo thiên. Như vậy, phải chăng chuyện cầu mưa Tịnh Giới thực sự bắt đầu dưới thời Lý Anh Tôn? Chúng tôi nghĩ đây là một có thể, bởi vì cứ Đại Việt sử lược 3 tờ 7b9 thì "năm Chính Long Bảo Ứng thứ 10 (1172) mùa đông, dựng đền Trinh Linh phu nhân ở ngoài cầu Tây dương." Mà danh hiệu Trinh Linh phu nhân, cứ truyện Nhị Trưng phu nhân dẫn trên, là do  Lý Anh Tôn phong. Hơn nữa, vì đền này xây ở "ngoài cầu Tây dương", nó chắc phải xảy ra sau khi việc cầu mưa của Tịnh Giới thành công khoảng một thời gian vài ba năm, bởi vì đền nguyên nằm trong Đại nội ở tại đền Vũ sư. Nói khác đi, phải có hạn trước năm 1172.
Cứ Đại Việt sử lược 3 và Toàn thư B4 thì dưới triều Lý Anh Tôn ta có những năm hạn sau đây: 1140 "Từ xuân đến hạ không mưa, vua mới cầu mưa"
1142 "Từ xuân đến hạ hạn, vua thân hành cầu, tháng 6 Đinh sửu mới mưa. 1146 "Mùa hạ tháng 4 trâu bò bị dịch chết, hạn, cầu thì mưa".
1150 "Mùa xuân tháng 3 hạn. Mùa thu tháng 7 hạn" 1148 "Mùa hạ hạn, cầu thì mưa"
1165 "Mùa hạ tháng 6 đại hạn, dân chúng bị bệnh dịch lớn, trâu, bò chết phần lớn, giá gạo nhảy vọt".
Như thế, trong vòng 10 năm đầu hơn của Lý Anh Tôn, năm lần hạn đã xảy ra, khoảng cách cứ hai năm một lần. Và những lần hạn này lại kéo dài thường từ ba đến sáu tháng. Với những cơn hạn kiểu đó, mới có việc "vua ban chiếu cho danh tăng khắp trong thiên hạ cầu mưa" như truyện Tịnh Giới đã ghi. Ngoài ra, Tịnh Giới tham gia việc cầu mưa theo tục truyền, như chính truyện đã viết, là để hợp thức hoá số thuế của Giới, mà "người chị Giới là Chu Thị thường năm thay Giới nạp thuế". Với một mục đích đấy, Giới tất tìm cách thực hiện khi có dịp. Do thế, không phải là không có lý, khi nói Tịnh Giới có cầu mưa dưới thời Lý Anh Tôn, như Việt điện u linh tập đã có.
Tuy nhiên, bởi vì Giới xuất gia năm 26 và mất vài ba năm ở chùa làng mình cùng 7 năm sống ở Lãng Sơn và 6 năm tu hạnh đầu đà ở chùa Quốc thanh. Ta có thể chắc chắn là khi hành đạo Giới lúc bấy giờ cũng phải ít nhất trên 40 tuổi. Mà Giới lại mất năm 1207, nên giả sử Giới có sống trên 90 tuổi đi nữa, thì việc cầu đảo của Giới cùng lắm phải xảy ra bắt đầu từ những năm truyền Sư xuất gia lúc tuổi Đinh tráng, thiếu thuế nạp quan. Bà chị Chu Thị hàng năm thay Sư nạp thuế. Sư mỗi khi nghĩ tới, vẫn không có cách miễn được. Lúc nghe triều đình xuống chiếu cầu mưa, bèn lén về nhà chị, bí mật khiến đào một cái ao trong vườn sâu sau nhà. Đêm đến, đốt hương đứng cầu. Chốc lát, mưa xuống chỉ ở trong vườn đó. Quan sở tại đem chuyện kinh lạ tâu về triều đình. Vua rất vui, sai sứ   đón về chùa Báo thiên ở kinh sư. Đúng trong đêm đó, quả mưa xối xả. Bèn được độ làm Sư, lại được làm hợp lệ sổ thuế cho cả họ} Năm Trinh Phù thứ 4 (1174), chùa Chân giáo, núi Vạn bảo làm thành1, vua cho mời các bậc kỳ túc, đến làm lễ khánh tán. Sư vâng chiếu vào triều, ngụ tại gác Lâm tiêu. Bây giờ trời bắt đầu mưa ròng rã, đường sá lầy lội, phương hại đến việc lễ hội, Sư khấn, liền tạnh. Hội xong 7 ngày thì trời lại mưa như xưa. Sau Sư trở về làng cũ trùng tu chùa Quảng thánh và quyên tiền đúc chuông.
Trong khi đốt lò thì mây kéo đến muốn mưa, Sư đứng giữa sân, dộng gậy trừng mắt giây lát, trời lại quang tạnh. Sau này, trải bao binh lửa, nhưng chuông Sư đúc đến nay vẫn còn. Rồi Sư trở về chùa cũ [34b1] dạy dỗ học trò.
Có vị Tăng hỏi Sư về Phật lý, Sư đáp: "Chính ta và ngươi ".
Lại thường nói: "Tâm là tính nên nói Như Lai tạng, tâm tức tính nên tự tính tâm là thanh tịnh". Ngày mồng 7 tháng 7 năm Trịnh Bình Long Ứng thứ 3 (1207), lúc sắp thị tịch, Sư nói kệ sau: "Thời nay giảng đạo hiếm tri âm
Chỉ bỏi như kia đạo táng tâm Sau giống Tử Kỳ đa sầu cảm Nghe qua thấu rõ Bá Nha cầm".
Lại nói:
"Ngực áo thu về khí lạnh xâm
Tài ngang tám đấu đối trăng ngâm Cười bấy khách thiền ai dại dột Sao đem lời lẽ để truyền tâm".2
Nói xong, Sư ngồi kiết già mà mất. {Truyện này đại khái cùng Quốc sử và Bia văn không giống, nay xin khảo chính lại}3.
1160 trở đi mà thôi. Nói cách khác, truyện Tịnh Giới ở đây, nói Giới cầu mưa vào khoảng Trinh Phù không phải là hoàn toàn vô căn cứ.
1 Đại Việt sử lược 3 tờ 9b9-10 viết: "Năm Trinh Phù thứ 4 (1179) tháng 5 sửa thêm chùa Chân giáo, xuống chiếu lấy chùa đó làm nơi hành hương vào ngày kỵ của Anh Tôn". Việc này, Toàn thư và các sử khác không ghi.
Về chùa Chân giáo tại núi Vạn bảo, Tây hồ chí, phần Tự am tập viết: "Chùa Chân giáo xưa tại đỉnh ngọn Phục tượng của núi Vạn bảo trong thành Đại la. Chùa dựng vào mùa thu năm Thuận Thiên thứ 15 (1024) để làm nơi vua ngự xem tụng kinh. Nay chùa chỉ còn một gian, biển cũ cũng mất, vì vậy ít người biết gốc tích. Tục chỉ gọi chùa Tượng sơn. Núi và chùa nay ở tại trại cần bảo huyện Vĩnh Thuận, phía tây ngoài thành. Lại xét chỗ đất trũng trước chùa có nước đọng, thời xưa là ao Ngoạn Thiềm, triều Trần bắc cầu Lâm ba trên nó, nay di tích không còn.
Về núi Vạn bảo, Tây hồ chí, mục Sơn xuyên, viết: "Núi Vạn bảo gồm 15 ngọn ở về phía nam của hồ, nay thuộc tổng Vĩnh thuận nội, các ngọn chia thuộc 16, 17 trại, điếm. Những cung điện, chùa miếu của ba triều Lý, Trần , Lê, nền cũ phần nhiều còn đó. Có nói rõ trong Thăng long chí. Ba ngọn Phục tượng, Phục hổ và Thần bút là chi nhánh núi Vạn bảo".
2 Kiến văn tiểu lục 4 tờ 13b6-8 chép:
Thu lai lương khí giáp khâm trung Bat đẩu tài cao hướng nguyệt ngâm Kham tiếu thiền gia si độn khách
Vị tương hà ngữ dĩ truyền tâm.
Những chữ in đậm là đọc khác với bản của Thiền uyển tập anh.
3 Nguyên văn: Thử truyện lược dự quốc sử cập bi văn bất đồng, kim phục khảo chính. Quốc sử đây chắc phải là Đại Việt sử lược của Trần Chu Phổ còn văn bia của Tịnh Giới hiện ta chưa tìm lại được. Vì Quốc sử là của Phổ, cho nên qua những bàn cãi trên, ta thấy những sự việc ghi trong truyện Tịnh Giới không thấy nói tới trong Toàn thư . Ngược lại, một trong những việc ấy lại do Đại Việt sử lược, một tác phẩm sử học đời Trần hiện còn chép.

31. THIỀN SƯ Giác Hải
Chùa Diên phúc, Hải thanh, người Hải thanh, họ Nguyễn1. Nhỏ thích đánh cá đi câu, thường dùng một chiếc thuyền con làm nhà, sống lênh đênh khắp sông biển. Năm 25 tuổi, Sư bỏ nghề, xuống tóc làm Tăng.
Ban đầu, Sư và Không Lộ cùng thờ Hà Trạch. Sau Sư lại kế thừa dòng pháp của Không Lộ.
Đời vua Lý Nhân Tông, Sư thường cùng Thông Huyền chân nhân, bị triệu vào nhà hóng mát Liên [35a1] manh hầu hạ, bỗng có tiếng cắc kè kêu nhau chối tai, đáng ghét. Vua khiến Huyền làm cho nó đừng kêu. Huyền bèn lâm râm niệm chú, làm rơi trước một con. Huyền cười Sư, Sư bảo "Đang còn một con, để đó cho Sa Môn". Sư chú mục nhìn, trong giây lát, nó cũng rơi theo. Vua lấy làm lạ, làm một bài thơ khen:
"Giác Hải tâm như hải Thông Huyền đạo lại huyền Thần thông cùng biến hóa Một Phật, một thần tiên"2
Từ đó, tiếng tăm Sư vang khắp thiên hạ, Tăng tục ngưỡng chuộng. Vua thường đối đãi Sư như bậc thầy. Mỗi lần ra chơi hành cung Hải thanh, vua tất đến chùa Sư trước. Một hôm, vua hỏi Sư: "Phép ứng chân thần túc, có thể được nghe chăng? Sư bèn làm tám phép thần biến rồi vung thân lên hư không, cách đất vài trượng rồi lại hạ xuống. Vua và các quan đều vỗ tay khen ngợi. Do đó, vua ban cho Sư một kiệu vai, để ra vào cửa khuyết.
Đến đời Thần Tôn, nhiều lần triệu vào, nhưng Sư từ chối, viện cớ già bệnh mà không tới. Có vị Tăng hỏi:
"Phật và chúng sanh ai khách, ai chủ?". Sư dùng bài kệ đáp:
"Gái tơ chỏm tóc bạc3 Báo ngươi tác giả biết
[35b1] Nếu hỏi cảnh giới Phật Long môn gặp điểm trán".4
1 Đại nam nhất thống chí, tỉnh Ninh bình, mục Từ miếu, nhân viết về đền Nguyễn Giác Hải, có nói: "Đền đời Nguyễn Giác hải ở tại  xã Yên vệ, huyện Yên khánh. Thần họ Nguyễn tên Quốc Y, hiệu Giác Hải người Giao thủy, Hải nam - nay là tỉnh Nam định - sinh khoảng thời Lý Thái Tôn. Nhỏ theo nghề chèo chài lưới của cha. Sau bà mẹ đem về Yên vệ, cùng với Nguyễn Minh Không kết bạn, đi Tây Trúc cầu đạo. Được đạo rồi, bèn trở về Giao thủy, trụ trì chùa Nghiêm quang".
Nói như thế, phải chăng chùa Diên phúc là chùa Nghiêm quang ở đây? chắc chắn là không phải, bởi vì chùa Nghiêm quang tức chùa Thần quang hay chùa Keo ngày nay, và chùa chưa bao giờ có tên Diên phúc. Chúng tôi chưa có dịp nghiên cứu hiện địa vùng Giao thủy, nên chưa thể trả lời dứt khoát chùa Diên phúc là chùa nào và nằm tại đâu hiện nay. Kiến văn tiểu lục 4 tờ 2b4 có ghi tên một chùa tên Diên phúc. Ở thôn Cồ việt, ở đó có tấm bia do Nguyễn Công Diệm soạn vào năm 1113. Nhưng Khảo bắc thành địa dư chí lục, chúng tôi không thấy thôn Cồ việt ở đâu cả, nên cũng chưa xác định hẳn vị trí chùa Diên phúc được.
2 Nam ông mộng lục tờ 9 dưới mục " Tăng đạo thần thông" chép y chuyện này. Kiến văn tiểu lục 4 tờ 13a5-6 chép nguyên lại bài thơ.
3 A giác nữ đầu bạch người con gái còn để chỏm mà đầu đã bạc. Thiền sư Đầu Tứ Đại Đồng được hỏi:"Hoà thượng sống ở đây có cảnh giới gì?", Sư đáp: "A giác nữ bạch đầu ty" (Người con gái còn để hai chỏm tóc, nhưng đầu đã bạc như tơ), Xem Truyền đăng lục15 tờ 319c13.
4 Long môn tào điểm ngạch. Tháng 3 cá chép vượt cửa Rồng để thành rồng, nếu không vượt nổi thì bị chấm trên trán mà trở về. Linh Thứu Nhàn thiền sư , có Hoà thượng Minh Thủy hỏi: "Thế nào là mau được pháp thân?". Sư đáp:
"Nhất thấu Long môn vân ngoại vọng Mạc tác Hoàng hà điểm ngạch ngư".
(Một khi đã tới cửa rồng, ngó trời ngoài mây
Thì chớ làm cá sông Hoàng hà bị chấm trên trán)
Lúc sắp tịch, Sư gọi chúng đến dạy kệ.
"Xuân đến bướm hoa khéo biết thì, Cần nhau hoa bướm biết nhau khi Bướm hoa vốn thảy đều hư huyễn Chớ đem hoa bướm giữ lòng chi".
Đêm ấy có ngôi sao lớn rớt ngay góc Đông nam phương trượng của Sư. Nói xong, Sư ngồi ngay ngắn mà mất1. Vua xuống chiếu cho thuế 30 hộ để cúng hương hỏa và cho hai người con của Sư làm quan để tỏ lòng khen thưởng.2

32. THIỀN SƯ Nguyện Học3 (?- 1181)
Chùa Quảng báo, làng Chân hộ, Như nguyệt4. Người Phù cẩm5, họ Nguyễn. Thuở nhỏ Sư thọ pháp với Viên Trí chùa Mật nghiêm6.Khi được yếu chỉ, trước tiên Sư đến ẩn ở núi Vệ linh7 chuyên tu phạm hạnh trải 12 năm. Mỗi khi nhập thiền quán đến 3 ngày mới dậy. Sư thường trì Hương hải đại bi đà la ni, nên việc cầu mưa, trị bệnh, không việc gì là không hiệu nghiệm tức khắc.
Vua Lý Anh Tôn, thấy các điều thần hiệu của Sư, ban chiếu cho vào ra cung cấm, để dùng chú chữa bệnh.
Xem Truyền đăng lục 10 tờ 278b18-19
Long môn là một tên đất tại tỉnh Tứ xuyên ở Trung quốc, ở đấy có cái vực rất to ăn thông với sông Dương tử. Tương truyền ở đó có cái ao tên Vũ môn. Tục truyền hễ đến tháng 7 nước to, cá chép các nơi kéo về đua nhau nhảy qua cửa đáy. Con nào nhảy qua thì hóa thành rồng. Con nào không thì bị một chấm trên trán, mà trở về. Ở nước ta, theo Kiến văn tiểu lục 6 tờ 13b4-7 thì Long môn ở tại đất những động Dĩ lý và Hào trang của Mộc châu, ở đấy "có một ngọn núi ở trung lưu sông Đà, đá lớn lộn xộn, mỗi năm đến ngày 8 tháng 4, các bày cá bơi ngược dòng mà lên, nhưng chỉ các chép một hai con thì có thể được. Giao châu ký nói: có Long môn, nước sâu trăm tầm, cá lớn lên đó thì hoá thành rồng".
1 An nam chí nguyên 3 tờ 211 viết: "Thiền sư Giác Hải là Sư huyện Giao thủy, thần thông rộng lớn, biến hóa như thần. Khi sắp thị tịch, có sao hỏa rơi vào Thái thất. Đến sáng, Sư mất". Xem thêm Đạo giáo nguyên lưu quyển thượng tờ 16b8.
2 Truyện Dương Không Lộ và Nguyễn Giác Hải trong Lĩnh nam trích quái truyện tờ 36 chép nguyên truyện Giác Hải ở đây với một vài sai lầm chính tả và thiếu sót do sao lục, nhưng không quan trọng. Từ Đạo Hạnh đại thánh sự tích thật lục do "Đạo nhân Quán tam thanh" thêm vào trong Việt điện u linh tập tờ 48-51 chép chuyện Giác Hải ké với Từ Đạo Hạnh và Minh Không, song cũng không có gì đặc sắc đáng nói cả. Nó chỉ điển hình cho tình trạng thất truyền của cuộc đời Giác Hải mà thôi. Cái ghi chú của An nam chí lược 15 tờ 147 về "hai thầy Không Lộ và Giác Hải thường vào Đại quốc xin đồng về đúc chuông" hai cái để tại chùa núi Phổ lại, và việc "Giác Hải giỏi lặn dưới nước" cũng không thêm gì hơn là giúp ta xác định niên đại những truyền thuyết thần kỳ về những vị sư này.
3 An nam chí nguyên 3 tờ 210 viết: "Thiền sư Nguyện Học là sư châu Vũ ninh. Trong lúc tập thiền định, thân như cây khô, vật và ta đều quên, cho nên chim bay đến châu, thú rừng lẩn quẩn, nhất loạt như vật nuôi trong nhà. Tùy Cao Tổ sai sứ xây tháp cúng dường". Nhưng rõ ràng đấy là văn cú lấy trong truyện Pháp Hiền. Đạo giáo nguyên lưu quyển thượng tờ 16b1 cũng chép Pháp Hiền như thế. Nhưng trước Pháp Hiền nó ghi lại ở tờ 16a12 những mô tả về Nguyện Học và viết: "Thiền sư Nguyện Học là Sư châu Vũ ninh, siêng tu phạm hạnh, mỗi khi vào thiền quán, nhiều ngày mới đứng dậy, đến chết thì ngồi kiết già mà mất". Do thế, những gì viết về Nguyện Học của bản in An nam chí nguyên ngày nay là lấy từ Pháp Hiền, do việc chép nhảy hàng gây ra, bởi vì cả Học lẫn Hiền đều nói là "sư châu Vũ ninh", nên sau những chữ ấy, đúng ra người viết phải chép tiếp những mô tả về Học, nhưng đã nhảy hàng và chép thay vào, những mô tả về Pháp Hiền.
4 Tức làng Chân hộ huyện Yên phong, tỉnh Bắc ninh ngày nay. Xem chú thích (2) truyện Đạo Huệ.
5 Tức làng Phù cầm, huyện Yên phong, tỉnh Bắc ninh ngày nay. Xem chú thích (2) truyện Minh Trí.
6 Chùa này ở tại Long đàm, Phúc đường, tức khoảng vùng huyện Thanh trì, tỉnh Hà đông ngày nay. Xem chú thích (3) truyện Viên Chiếu.
7 Tức núi Sóc, huyện Kim anh, tỉnh Vĩnh phúc ngày nay. Xem chú thích (5) truyện Khuông Việt.
Sau Sư cáo lão về trụ trì chùa Quảng Báo. Môn đồ không dưới 100 người (36a1). Đến ngày 11 tháng 6 năm Thiên Cảm Chí Bảo thứ 2 (1175)1, lúc sắp thị tịch Sư gọi chúng đến dạy:
Đạo không hình tượng Trước mắt chẳng xa, Xoay lại tìm kiếm,
Chớ cầu người ta Dẫu cho cầu được2
Được chẳng thật đâu, Ví có được thật
Thật đó vật nào?
Vì thế chư Phật ba đời Lịch đại sư tổ
Ấn thọ tâm truyền Cũng nói thế cả.
Hãy nghe ta nói kệ:
"Rõ hiểu thân, tâm mắt tuệ khơi Linh thông biến hoá, hiện thật tướng Ngồi, nằm, đi, đứng riêng siêu nhiên Ứng hiện hoá thân chẳng thể lượng. Hư không đầy dẫy tuy lấp khắp, Xem qua chẳng thấy như có bóng Thế gian không vật hay kịp sánh
Mãi hiện ảnh thiêng sáng rạch ròi Thời thường dạy dỗ bất tư nghị Không được một câu đáng làm lời"1
1 Nguyên văn: Thiên Cảm Chí Bảo bát niên. Nhưng theo Đại Việt sử lược 3 và Toàn thư B4 thì niên hiệu Thiên Cảm Chí Bảo chỉ gồm có hai năm, đấy là năm 1174 và 1175 thôi. Như thế, chữ bát chắc chắn là một viết sai của chữ nhị chúng tôi đề nghị sửa và dịch theo cách hiểu đây.
2 Ý lấy từ Bài kệ thị chúng của Huệ Tư.
Đạo nguyên bất viễn Tánh hải phi diêu Đản hướng kỷ cầu Mạc tùng tha mích Mích tức bất đắc Đắc diệt phi chân.
(Nguồn đạo không ngái Bể tính chẳng xa
Chỉ nhắm mình tìm Chớ tìm ở người Tìm tức không được
Được cũng chẳng chân) Xem Truyền đăng lục 27 tờ 431b2-4
Nói kệ xong, Sư ngồi kiết già mà mất. {Truyện này với truyện của Huệ Tư trong Truyền đăng 2
đại khái giống nhau. Nay cứ vào những gì do Liệt tổ yếu nghĩa của Huệ Nhật chép}.
1 Thiền sư Huệ Tư. Kệ viết:
Đốn ngộ tâm nguyên khai bảo tạng Án hiện linh thông hiện chư tướng Độc hành độc toạ thường nguy nguy Bách ức hoá thân vô số lượng
Tung hiệp bức tắc mãn hư không Khán thời bất biến vi trần tướng Khả tiêu vật hề vô tỷ huống
Khấu thể minh châu quang hoảng hoảng Tầm thường kiến thuyết bất tư nghì Nhất ngữ tiêu danh ngôn hạ đáng.
Xem Truyền đăng lục 27 tờ 431b5-9
2 Tức truyện của Huệ trong Truyền đăng lục 27 tờ 431a14-c8. Tư sinh năm 514 và mất năm 577, thọ 64 tuổi, người Vũ tân, họ Lý. Cái mà tác giả Thiền uyển tập anh gọi là "truyện của Học với truyện Huệ Tư đại khái giống nhau" rõ ràng nằm trong những bài kệ Thị chúng dẫn trên.

Thế Hệ Thứ Mười Một (9 người, 8 người khuyết lục)

33. THIỀN SƯ Quảng Nghiêm (1122 - 1190)
Chùa Tịnh quả, Trung thụy, Trương canh1. Người Đan phụng, họ Nguyễn (36b1). Sớm mất cha mẹ, Sư theo người cậu là Bảo Nhạc thọ nghiệp, đấy là bước đầu phát tâm. Nghe Trí Thiền2 giáo hóa ở chùa Phúc thánh tại Điển lãnh. Sư liền đến đó tham vấn.
Một hôm, nghe Thiền giảng Tuyết đậu ngữ lục3 đến chuyện hai vị tôn túc Đạo Ngô và Tiệm Nguyên, tới nhà người chết hỏi việc sống chết4, Sư như có điều tỏ ngộ, liền hỏi: "Một câu thoại đầu ấy, cổ nhân nói, nhân trong sống chết còn có lý không?".
Thiền đáp: "Người thể nhận được lý do đó chăng?" Sư thưa: "Thế nào là lý không sinh tử?"
Thiền đáp: "Chỉ ở trong sinh tử, mới khéo hiểu được nó" Sư thưa: "Thế là đã vô sinh rồi"
Thiền bảo: "Tức cũng tự mình hiểu lấy"
Nghe xong, Sư hoàn toàn được giải đáp, bèn hỏi: "Làm cách nào để quyết chắc?" Thiền đáp: "Rõ rồi cũng giống như chưa rõ".
Sư sụp lạy, Từ đấy, tiếng tăm Sư vang khắp Thiền lâm.
Lúc đầu Sư đến chùa Khánh ân tại Siêu loại trác tích. Binh bộ Thượng thư Bằng Giáng Tường nghe danh kính mộ, thỉnh Sư về trụ trì chùa Tịnh quả. Sư nêu cao tôn chỉ, Thiền (37a1) lữ đến học đều không đến suông5.
Một hôm có đệ tử nhập thất là Thường Chiếu, nêu kinh Kim cang ra hỏi:
"Pháp mà Như Lai đạt được, pháp đó không thật, không hư vậy nó là pháp gì?"6 Sư đáp : "Người đừng có chê khéo đức Như Lai"
Chiếu đáp: "Hoà thượng đừng có chê khéo lời kinh". Sư hỏi: "Kinh đó do ai nói?"
Chiếu đáp: "Hoà thượng đừng có đùa lâu với con, há chẳng phải Phật nói sao?"
1 Xem chú thích (2) truyện Bảo Giám
2 Nguyên văn chép Trí Thiền. Nhưng truyện Minh Trí ở trên nói "tên trước của Trí là Thiền Trí". Vậy Trí Thiền chắc là một chép lộn của Thiền Trí hay ngược lại.
3 Tức Minh Giác Thiền sư ngữ lục, 6 quyển, ĐTK 1996 tờ 669-711, của Thiền sư Trùng Hiển (980-1052) núi Tuyết đậu ở Minh châu, sau khi mất, được vua Tống ban hiệu cho là Minh Giác.
4 Đạo Ngô và Tiệm Nguyên đi điếu tang. Nguyên vỗ quan tài nói: "Sống ư? Chết ư?". Ngô nói: "Sống, không nói. Chết không nói". Nguyên hỏi: "Vì sao không nói?". Nguyên đáp: "Không nói là không nói". Xem Bích nham lục 6, tắc 55 tờ 198a.
5 Nguyên văn: Hư vãng, Trang tử "Đức sung phù": "Lập bất giác, tọa bất nghị, hư nhi vãng, thật nhi quy". Xem Trang tử 2 tờ 16a3- 4.
6 Kim cang kinh: "Như Lai sở đắc pháp, thử pháp vô thật vô hư" Xem Kim cang kinh tờ 750b29
Sư đáp: "Nếu là Phật nói, tại sao trong kinh lại bảo: "Nếu nói Như Lai có chỗ thuyết pháp, tức là huỷ báng Như Lai"1
Chiếu không nói được.
Có vị Tăng đến hỏi: "Pháp thân là gì?" Sư đáp: "Pháp thân vốn không tướng". Lại hỏi: "Thế nào là Bát nhã?"
Sư đáp: "Bát nhã không hình" Hỏi: "Thế nào là cảnh Tịnh quả?".
Sư đáp: "Cây thông, cây thu bên bãi tha ma xưa". Hỏi: "Thế nào là người trong cảnh?"
Đáp: "Một mình ngồi bít miệng bình".
Lại thưa: "Chợt gặp tri âm, làm sao tiếp đây?" Sư đáp: "Tuỳ duyên nhướng đôi mày".
Lại thưa: "Làm sao mới là con cháu Kiến sơ và dòng dõi Âu công?"2 Sư đáp: "Người Ngu nước Sở".
Vị Tăng không đáp được.
Đến ngày rằm tháng 2 năm Canh Tuất Thiên Tư Gia Thụy thứ 5 (1190), lúc sắp tịch, Sư nói bài
kệ sau:
"Lìa tịch mới bàn câu tịch diệt Được vô sinh sau nói vô sinh Làm trai có chí xông trời ấy
Chở hướng Như Lai hành xứ hành"3.
Nói kệ xong, Sư chấp tay ngay ngắn mà mất, thọ 69 tuổi. Bằng công làm lễ hỏa táng, dựng tháp thờ.
1 Đại Châu Huệ Hải hỏi một giảng sư kinh Kim cang: "Kinh đó là ai nói?" Vị sư lên tiếng đáp: "Hoà thượng nói giỡn sao: Há không biết Phật nói sao?. Sư nói: "Nếu bảo Như Lai có chỗ thuyết pháp tức là hủy báng Phật, người đó không biết nghĩa ta nói ..." Xem Truyền đăng lục 6 tờ 247a2-5.
2 Kiến sơ chỉ cho Vô Ngôn Thông, thiền phái của Thông cũng gọi là phái Kiến sơ. Âu công chỉ cho Đạo Huệ, Đạo Huệ họ Aâu.
3 Thiền sư Đồng An Sát, Thập huyền đàm: "Trượng phu tự hữu xung thiên chí Mạc hướng Như Lai hành xứ hành".
Xem Truyền đăng lục 29 tờ 455b16-17.

Thế Hệ Thứ Mười Hai (Có 7 người, 6 người khuyết lục)

23. THIỀN SƯ Thường Chiếu (? - 1203)
Chùa Lục tổ, làng Dịch bảng, phủ Thiên đức1. Người làng Phù ninh2, họ Phạm. Triều Lý Cao Tôn, Sư làm quan Lệnh đô tào ở cung Quảng từ3. Sau từ quan, đi học pháp xuất thế với Quảng Nghiêm chùa Tịnh quả, bèn chính thân được tâm ấn. Sư hầu thầy nhiều năm, rồi đến ở ngôi chùa xưa tại làng Ông mạc4 để giảng diễn giáo chỉ. Sau đó dời sang chùa Lục tổ. Môn đồ Sư càng ngày càng đông. Có vị Tăng hỏi: "Khi vật và ta duyên nhau thì làm thế nào?"
Sư đáp:
"Ta vật (38a1) đều quên, Tâm tính vô thường
Dễ sinh dễ diệt
Giây phú không ngừng, Ai kẻ vin bắt?
1 Đại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, mục Tự quan, nói: "Chùa Lục tổ tức là chùa Trường liêu. Sử ký nói: "Sư Vạn Hạnh trú trì chùa đó, sau mất, Lý Thái Tổ tự thân đến điếu viếng, dựng đàn siêu độ, cấp dân làm tự dinh, quanh năm cúng thờ".Nhưng Lịch triều hiến chương loại chí 3 tờ 2a5-6 viết: "Tiêu sơn ở xã Tiêu sơn, huyện Yên Phong, trên có chùa Trường liêu, triều Lý dựng theo chỗ tu trì của Tể tướng Thiền sư Vạn Hạnh, Lý Thái Tổ đầu thai ở đó".
Như vậy, một mặt chùa Trường liêu ở tại Tiêu sơn, huyện Yên phong. Mặt khác, truyện Thường Chiếu ở đây nói chùa Lục tổ ở tại làng Dịch bảng phủ Thiên đức, tức làng Đình bảng, huyện Từ Sơn hiện nay. Do đó, chùa Trường liêu dứt khoát không phải là chùa Lục tổ, bởi vì hai chùa ấy ở tại hai huyện khác nhau. Chúng tôi không hiểu tại sao Đại nam nhất thống chí đã có một sự đồng nhất trên. Cương mục chính biên 2 tờ 7b1-2 ghi: "Chùa Tiêu sơn là chùa Trường liêu tại xã Tiêu sơn, huyện Yên phong tỉnh Bắc ninh". Cương mục viết như vậy hợp lý hơn. Và chùa Lục tổ từ đó phải ở vị trí làng Đình bảng huyện Từ sơn, tỉnh Hà bắc hiện nay.
2 Làng Phù ninh đây chắc chắn không phải là thuộc huyện Phù ninh, tỉnh Sơn tây đời Nguyễn, tức Vĩnh phú ngày nay, bởi vì những truyện La Quý tờ 48a7 và Thiền ông tờ 51a8 nói rõ ra là phủ Thiên đức có làng Phù ninh với ngôi chùa Song lâm nổi tiếng. Đại Việt lịch triều đăng khoa lục 1 và 2 cũng ghi một làng tên Phù ninh là quê hương hay trú quán của một số tiến sĩ nước ta dưới thời Lê như Phạm Ngữ khoa năm 1463, Nguyễn Khắc Trung khoa 1523, Lê Diêu khoa 1557, Đào Quốc Hiển khoa 1691 v.v...và nói làng Phù ninh ấy thuộc hạt Đông ngạn. Ngày nay huyện Từ sơn tỉnh Hà bắc đang có một làng tên Phù ninh nằm tại phía nam làng Đình bảng và phía bắc làng Phù đổng. Làng Phù ninh của Thường Chiếu tức làng đó.
3 Đại Việt sử lược 3 tờ 3b6 nói: "Đại Định năm thứ 4 (1143) dựng cung Quảng từ cho thái hậu ở". Toàn thư B4 tờ 5b3 chép việc này vào năm Đại định thứ 6 (1145), rồi ghi tiếp ở tờ 6b3 là "năm Đại Định thứ 9 (1148) mùa đông tháng 10 khánh thành cung Quảng từ". Đến năm Đại Định thứ 10 (1149) Đại Việt sử lược 3 tờ 5a2 viết: "Mùa thu tháng 8 vua đến chơi cung Quảng từ xem đua thuyền". Việc này Toàn thư B4 tờ 10a2 chép vào năm Đại Định thứ 12 (1151).
Sự so le hai năm về niên đại này, Hoàng Xuân Hãn trong Lý Thường Kiệt tr. 444-445 cho là đến từ việc Toàn thư đã bỏ sót năm Quý sửu (1133) không chép, nên đề mục của năm đó trở thành đề mục của năm sau tức năm Giáp dần (1134), do thế mà chép việc chậm đi một năm. Còn Đại Việt sử lược thì lại chép việc sớm hơn một năm, không biết vì lý do gì. Do một bên chép sớm một năm, một bên chép chậm một năm, nên có sự so le vừa thấy.
Như vậy đúng ra cung Quảng từ bắt đầu làm năm 1144, khánh thành năm 1147 và Lý Anh Tôn đến chơi năm 1150. Việt sử tiêu án tờ 113b2-3 nói việc xây cung Quảng từ để cho mẹ của Anh Tôn là Lê thái hậu thông dâm với Đỗ Anh Vũ. Nó viết: "Anh Vũ mặt mày đẹp đẽ, múa giỏi hát hay, triều Thần Tôn đem vào hầu dưới trướng. Lê thái hậu ưa tiếng nói và sắc đẹp của Vũ, muốn tư thông với Vũ đã lâu. Đến lúc ấy, mới dựng cung Quảng từ cực kỳ lộng lẫy xa hoa, ngày đêm cùng với Anh Vũ làm nơi ngủ ngày, mà vua không biết".
Về chức Lịnh đô tào, An nam chí lược 14 tờ 113 có ghi Đô Tào như một chức quan văn, nhưng không thấy ghi Lịnh đô
tào.
4 Tức Ô Đông mác thủ đô Hà nội ngày nay. Trong bản điều trần dâng cho Mạc Mậu Hợp vào ngày 2 tháng 8 năm Quang Hưng thứ 9 (1586) do Lê Quý Đôn ghi lại trong Đại Việt thông sử tờ 113a3, Giáp Trưng đề nghị "Thành Đại la từ cửa nam Ông mạc đến Nhật chiêu, những lũy đất nên đắp cao thêm và những con hào nên vét sâu thêm". Cửa nam Ông mạc hay Ông mạc nam môn, ta có thể hiểu là cửa nam ở phường Ông mạc. Cái tên ở phường Ông mạc như vậy còn dùng từ thời Lý cho đến đời Mạc.
Sinh thì vật sinh Diệt thì vật diệt Pháp kia có được
Thường không sinh diệt"
Vị Tăng thưa: "Người học chưa hiểu, xin thầy dạy lại". Sư bảo: "Rõ tâm tình mà tu đạo, thì ít sức mà dễ thành; không rõ tâm mình mà tu đạo, thì chỉ phí công vô ích mà thôi".
Lại hỏi: "Pháp thân biến khắp mọi nơi là thế nào?"
Sư đáp: "Như một lỗ chân lông, biến khắp cả pháp giới, tất cả lỗ chân lông thảy đều như thế. Nên biết không có một chút nào mà không có thân Phật. Vì cớ sao? Vì pháp thân ứng hóa thành Đẳng chánh giác, không chỗ nào không đến. Phải biết như vầy: Đức Như Lai dùng sức tự tại của tâm, không khởi, không chuyển mà chuyển pháp luân, vì biết tất cả pháp thường không khởi. Dùng ba thứ pháp nói đoạn nên không đoạn, mà chuyển pháp luân, vì biết tất cả pháp đều lìa biên kiến. Lìa cõi Dục và cõi Phi Dục mà chuyển pháp luân, vì vào cõi hư không của tất cả các pháp (38b1). Không có ngôn thuyết mà chuyển pháp luân, vì biết tất cả các pháp đều không thể nói. Rốt ráo tịch diệt mà chuyển pháp luân, vì biết rõ tất cả các pháp là tính Niết bàn1. Ấy gọi là không có tính tướng, không có tính tận, không có tính sinh, không có tính diệt, không có tính ngã, không có tính phi ngã, không có tính chúng sinh, không có tính phi chúng sinh, không có tính Bồ tát, không có tính pháp giới, không có tính hư không cũng không có tính thành Đẳng chánh giác2.
Bèn nói tiếp bài kệ sau:
"Tại thế làm thân người Tâm là tạng Như Lai Chiếu ngời khắp mọi cõi Vắng bóng lúc tìm tòi".
Đến ngày 24 tháng 9 năm Thiên Gia Bảo Hựu thứ 2 (1203), Sư tỏ ra đau tim, nhóm chúng nói kệ
rằng:
" Đạo vốn không nhan sắc
1 Câu nói này lược dẫn một đoạn trong phẩm Như Lai xuất hiện của kinh Hoa Nghiêm do Thật Xoa Nan Đà dịch Đại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh, Như Lai xuất hiện phẩm 37: "Phật từ bồ tát ma ha tát ưng tri Như Lai thân nhất mao khổng trung, hữu nhất thiết chúng sanh số đẳng chư Phật thân, hà dĩ cố? Như Lai thành chánh giác thân, cứu cánh vô sanh diệt cố. Như nhất mao khổng biến pháp giới, nhất thiết mao khổng, tất diệc như thị. Đương trí vô hữu thiểu xứ hứa, không vô Phật thân, Hà dĩ cố? Như Lai thành chánh giác, vô xứ bất chí cố. (Tùy kỳ sở năng, tùy kỳ thế lực, ư đạo tràng bồ đề thọ hạ sư tử tòa thượng, dĩ chủng chủng thân, thành đẳng chánh giác...Phật tử bồ tát ma ha tát, ưng vân hà tri Như Lai ứng chánh đẳng giác chuyển pháp luân? Phật tử bồ tát ma ha tát, ưng như thị tri Như Lai dĩ tâm tự tại lực, vô khỉ vô chuyển, nhi chuyển pháp luân. Tri nhất thiết pháp, hằng vô khỉ cố, dĩ tam chủng chuyển, đoạn sở ưng đoạn, nhi chuyển pháp luân. Tri nhất thiết pháp, ly biên kiên cố, ly dục tế phi tế, nhi chuyển pháp luân. Nhập thất thiết pháp, hư không tế cố, vô hữu ngôn thuyết, nhi chuyển pháp luân. Tri nhất thiết pháp, bất khả thuyết cố, cứu cánh tịch diệt, nhi chuyển pháp luân. Tri nhất thiết pháp, niết bàn tính cố, nhất thiết văn tự, nhất thiết ngôn ngữ, nhi chuyển pháp luân. Như Lai âm thanh, vô xứ bất chí cố, tri thanh như hưởng, nhi chuyển pháp luân..." Xem Đại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh 52 tờ 275b17-276a6.
Chúng tôi đã dựa vào xuất xứ này sửa sai một số văn cú của câu nói để dịch cho đúng đắn và dễ hiểu hơn. Chẳng hạn
câu: "Đương tri vô hữu thiểu hứa xứ, không vô Phật thân" của kinh Hoa nghiêm, cả hai bản đời Lê và đời Nguyễn của Thiền uyển tập anh đều viết: "Đương tri vô hữu thiểu hứa tâm, không vô Phật thân". Chữ tâm của câu sau đương nhiên là một chép sai của chữ xứ câu trước, nhất là khi chữ xứ viết tắt thì tự dạng của nó rất gần với chữ tâm. Chúng tôi do thế đề nghị sửa chữ tâm thành chữ xứ.
2 Câu này cũng là lược dẫn một đoạn khác của phẩm Như Lai xuất hiện trong kinh Hoa nghiêm. Đại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh, Như Lai xuất hiện phẩm 37: "Phật tử, Như Lai thành Chánh giác thời, ư kỳ nhân trung, phổ kiến nhất thiết chúng sanh nhập niết bàn, giai đồng nhất tánh, sở vị vô tánh. Vô hà đẳng tánh?. Sở vị vô tướng tánh, vô tận tánh, vô sanh tánh, vô diệt tánh, vô ngã tánh, vô phi ngã tánh, vô chúng sanh tánh, vô phi chúng sanh tánh, vô bồ đề tánh, vô pháp giới tánh, vô hư không tánh, diệc phục vô hữu thành chánh giác tánh. (tri nhất thiết pháp, giai vô tánh cố, đắc nhất thiết trí, đại bi, tương tục cứu độ chúng sanh...Xem Đại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh 52 tờ 275a19-26.
Ngày ngày mới mới khoe Ngoài đại thiên sa giới Nơi đâu chẳng phải nhà".
Nói kệ xong, Sư ngồi kiết già mà mất. Đệ tử Thần Nghi làm lễ trà tỳ, thu thập xá lợi, dựng tháp phụng thờ. Sư thường soạn Nam tôn tự pháp đồ 1 quyển1, còn lưu hành ở đời.
1 Nam tôn tự pháp đồ, Thiền uyển tập anh dẫn nó hai lần, một ở cuối bản tiểu sử của Ma Ha và gọi bằng tên tắt Nam tôn đồ, và một ở cuối bản tiểu sử của Định Huệ. Nghệ văn chí trong Đại Việt thông sử của Lê Quí Đôn ghi nó là do Thường Chiếu soạn. Văn tịch chí trong Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú chỉ ghi Nam tôn pháp đồ 1 quyển nhưng lại thêm một chi tiết khá lôi cuốn là nó có bài tựa của Trạng nguyên Lương Thế Vinh. Vinh đậu trạng nguyên năm 1463. Vậy cuốn Nam tôn tự pháp đồ do Vinh đề tựa chắc chắn là bản in do Vinh hay người thời Vinh đứng in. Thế thì, phải chăng nó đã lưu hành cho tới thời Phan Huy Chú? Cứ vào một câu viết của Thiền uyển tập anh ở bản tiểu sử của Thần Nghi, theo đó "Chiếu...đem Chiếu đối bản của Thông Biện ra và ghi lại những điều về tôn phái, để làm đồ biểu phân tôn tự pháp" (Chiếu ...toại trừu xuất Thông Biện Đối chiếu bản cập ký kỳ tôn phái điều, vi phân tôn, tự pháp đồ...), thì nội dung của Nam tôn tự pháp đồ, mặc dầu văn bản nó ngày nay hiện vẫn thất lạc, có thể nó gồm hai phần. Phần thứ nhất là ghi những điều cần biết về các tôn phái thiền tại Việt nam như nguyên lai, thế thứ truyền thừa, và rất có thể niên đại cùng một số những chi tiết khác, cần thiết cho việc thiết lập những đồ biểu về các tôn phái đó. Còn phần sau là gồm những đồ biểu. Về số tôn phái, Thường Chiếu đã đi theo Thông Biện và chỉ thừa nhận có phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi và phái Vô Ngôn Thông, còn phái của Nguyễn Đại Điên cũng như của Nguyễn Bát Nhã cùng những chi phái khác, mà Thông Biện nói là "chia chẽ ra bao la không thể kể xiết", thì chắc chắn đã không được nói tới, như câu hỏi của Thần Nghi với Thường Chiếu đã xác nhận. Và cũng cứ vào câu trên thì cũng rõ ràng là, Nam tôn tự pháp đồ không phải đồng nhất hay hoàn toàn mô phỏng theo Chiếu đối lục.
Ngoài ra, cũng cần thêm là, cả Văn nghệ chí của Lê Quý Đôn lẫn Kinh tịch chí của Phan Huy Chú đều liệt kê một tác
phẩm khác nữa của Thường Chiếu nhan đề Thích đạo khoa giáo 1 quyển, mà Thiền uyển tập anh không biết tới. Phải chăng, Thích đạo khoa giáo vẫn còn lưu hành vào thời Lê Quý Đôn hay Phan Huy Chú? Và đây chắc hẳn là một cuốn sách dạy học trò đi thi về những khoa Phật giáo tổ chức dưới triều Lý và Trần.
(39a1)

Thế Hệ Thứ Mười Ba (Có 5 người, 3 người khuyết lục)

35. CƯ SĨ Thông Sư1 (? - 1228)
Ốc hương, An la2. Người Ốc hương, họ Đặng. Ban đầu Sư cùng Quách Thần Nghi, chùa Thắng quang, thờ Thường Chiếu chùa Lục tổ làm thầy.
Một hôm Sư vào thất, hỏi thỉnh ích3 rằng: "Làm thế nào để hiểu rõ Phật pháp?"
Thường Chiếu đáp: "Phật pháp không thể hiểu được. Rõ được điều đó thì cần gì hiểu Phật pháp.
Chư Phật như vậy tu hành. tất cả các pháp vốn là bất khả đắc".
Sư nhờ câu nói ấy mà lĩnh hội yếu chỉ.
Sau đó Sư trở về làng mình giảng pháp. Học giả theo học rất đông. Phàm có ai hỏi, Sư đều lấy tâm ấn mà ấn truyền.
Hoặc có kẻ hỏi: "Thế nào là người xuất thế?"
Sư đáp: "Há không thấy người xưa nói: Chỉ xem ngũ uẩn đều không, tứ đại vô ngã, chân tâm không tướng, không đi không lại, khi sinh tánh không đến, khi chết tánh không đi, tròn đầy vắng lặng, tâm cảnh như một. Chỉ cần trực nhận tức khắc như thế thì không còn bị ba đời ràng buộc. Đó là bậc xuất thế, dứt khoát không được có chút gì (39b1) nhắm tới nữa".
Lại hỏi: "Nghĩa vô sinh là gì?" Sư đáp: "Phân biệt các uẩn đây
Tính nó vốn vắng trơn
Trống không, nên không diệt
Đấy là nghĩa vô sinh".
Lại hỏi: "Thế nào là lý vô sinh?"
1 Tức Cư sĩ Thông Thiền trong truyện của Tức Lự. Gọi Thông Sư có lẽ để tỏ lòng tôn kính với Thiền. Và Thông Thiền đây chắc không phải là Ngô Thông Thiền môn đồ của Viên Học, bởi vì không những Thông Thiền đây họ Đặng, và Thông Thiền kia họ Ngô, mà còn vì Đặng Thông Thiền chết năm 1228, trong khi Ngô Thông Thiền thì đã lớn khôn để đưa đám thầy mình vào năm 1136. Ngô Thông Thiền do thế khó mà sống được tới năm 1228.
2 Cái tên An la được Thiền uyển tập anh kể ra hai lần, một ở đây, và một ở tờ 72a4 nói rằng: "Thiền sư Phạm Âm làng Thanh oai, An la". Toàn thư B4 tờ 25a1-2 nói: "Năm Trị Bình Long Ứng thứ 3 (1207) mùa đông tháng 10 mọi núi Tản viên, châu Quốc oai đi ăn trộm, cướp bóc làng Thanh oai, chúng quá mạnh, không thể chế ngự được". Làng Thanh oai này, Đại nam nhất thống chí, tỉnh Hà nội, mục Kiến trí diên cách nói: "Nó xưa là đất Đỗ động, cái tên Thanh oai mới thấy ở thời Lý - Năm Trị Bình Long Ứng thứ 3 (1207) của Cao Tôn gọi làng Thanh oai, sau đổi làm huyện. Đời thuộc Minh đem gồm vào châu Oai man thuộc phủ Giao châu. Lê Quang Thuận cải thuộc thống hạt phủ Ứng hòa. Sau đổi chữ Thanh bộ thủy làm chữ Thanh không bộ thủy. Triều ta nhân theo". Huyện Thanh oai đời Nguyễn, tức huyện Thanh oai tỉnh Hà đông bây giờ như vậy là xuất phát từ làng Thanh oai đời Lý. Mà làng Thanh oai đời Lý, cứ dẫn chứng trên, lại thuộc An la. An la đây do đó có thể là tên một châu hay một quận thời Lý. Địa phận nó chắc chắn gồm phần lớn đất đai huyện Thanh oai ngày nay, hay hơn nữa. Từ xác định ấy, Ốc hương của Thông Thiền chắc chắn phải nằm trong vùng đất Thanh oai đây hay cùng lắm thì lan ra một vài xã của những huyện kế cận. Chúng tôi coi lại bảng liệt kê những tổng xã thôn trại của phủ Ứng hoà trong Bắc thành địa dư chí lục, nhưng không tìm thấy một tên đất nào có thể giúp đoán định vị trí thật sự của Ốc hương cả. Một cuộc nghiên cứu hiện địa nay mai sẽ giúp giải quyết vấn đề vừa nêu.
3 Thỉnh ích, theo Phần Dương "thì thiền tôn có cả thảy 18 lối hỏi, mà Phần dương thập bát vấn kê ra như sau: Thỉnh ích, trình giải, sát biện, đầu cơ, thiên tị, tâm hành, thám bạt, bất hội, kinh đảm, trí, cố, tá, thật, giả, thẩm, trưng, minh và mặc. Trong số này trừ lối cuối cùng tức lối hỏi bằng im lặng, mà Dương cho là "khó xác định vì phải biết ý người đến hỏi", những lối còn lại thì tùy theo cơ hội, và Dương cho một số thí dụ về những lối hỏi này. Xem Nhân thiên nhãn mục 2 tờ 307c3-308a25.
Sư đáp: "Điều phục được các uẩn Mới tỏ được tánh không Tánh không, không thể diệt Đấy là lẽ vô sinh"
Tăng hỏi: "Phật là?"
Sư đáp: "Bản tâm là Phật, cho nên Đường tam tạng Huyền Trang1 nói: "Chỉ rõ tâm địa
Nên gọi Tổng trì Hiểu pháp vô sinh Tên gọi Diệu Giác".
Sau đó, vào tháng 7 năm Mậu tý Kiến Trung thứ 4 (1228) của Hoàng triều2, Sư viên tịch.

36. THIỀN SƯ Thần Nghi (? - 1216)
Chùa Thắng quang, làng Thị trung, Kim bài3. Người Ngoại trại4, họ Quách, con nhà đời đời phạm hạnh. Lúc mới xuống tóc, Sư thờ Thường Chiếu chùa Lục tổ làm thầy. Đến khi Chiếu sắp tịch, Sư hỏi: "Người ta tới giờ phút đây, làm sao lại chết theo lối thế tục?".
Chiếu đáp:  "Ngươi nhớ được mấy người, mà không chết theo lối thế tục?". Sư thưa:   "Chỉ có Đạt Ma (40a1), một người."
Chiếu hỏi:   "Ngài có cái gì lạ lùng đâu?" Sư thưa:        "Một mình thong dong về Tây". Chiếu hỏi:    "Thế Hùng nhĩ là cái gì?"1
1 Huyền Tráng (604-664) một dịch giả nổi tiếng của Phật giáo Trung Quốc, và người đã có công thiết lập trường phái Duy thức của Trung quốc với người học trò của mình là Khuy Cơ. Về cuộc đời, Xem Đại từ ân tự tam tạng pháp sư truyện, 10 quyển, ĐTK 2053, về câu nói dẫn ở đây, chúng tôi hiện chưa tìm thấy xuất xứ của nó, nhưng về nội dung thì đương nhiên là nằm trong quỹ đạo của tư tưởng Duy thức của Huyền Tráng.
2 Hoàng triều đây chỉ triều Trần, bởi Thiền uyển tập anh viết dưới thời ấy.
3 Tức làng Thời trung huyện Thanh oai, tỉnh Hà đông ngày nay. Về bàn cãi, xem chú thích (3) truyện Ngộ Ấn
4 Đại Việt sử lược 3 hai lần nhắc đến địa doanh Ngoại trại. Một ở tờ 29b7 nói: "Năm Kiến gia thứ 6 (1216) tháng năm Mậu thìn (nguyên bản viết ngọ) vua đi chơi Ngoại trại". Một ở tờ 32b3-4 viết: "Năm Kiến Gia thứ 14 (1224) mùa đông tháng 12, núi Phật tích ở Ngoại trại nứt dài 30 trượng".
Về việc đầu, ta biết Lý Huệ Tôn theo Đại Việt sử lược đã cho thị triều ở Thảo điện vào tháng giêng. Tháng ba, sai người đi bắt bọn cướp ở xóm Cơ Xá, bị Đỗ Ất chống lại. Tháng năm, bị Đỗ Nhuế tấn công. Ngày Mậu thìn tháng đó, Lý Huệ Tôn mới đi Ngoại trại, "nhân đó sai người đi xin quân ở Tự Khánh để đánh Nhuế". Hôm sau tức ngày Kỷ tị, đày Nhuế làm khoa giáp. Sáu   ngày sau tức ngày Giáp Tuất (nguyên bản viết thìn, nhưng nghi sai) Huệ Tôn cùng vợ đi về Thuận lưu (Nam định). Mà Thảo điện của Huệ Tôn nguyên là ở tại xóm Chi tác của cầu Tây dương. Như vậy cứ hành trình vừa kể của Huệ Tôn, Ngoại trại chắc phải là một tên đất tại vùng Sơn tây.
Kết luận này càng tỏ ra đúng đắn, khi ta bàn đến sự việc thứ hai, đây là chuyện núi Phật tích ở Ngoại trại nứt. Núi Phật tích này đương nhiên không phải là núi Lạn kha ở xã Phật tích, huyện Tiên du, tỉnh Bắc ninh. Nó phải là núi Phật tích mà An nam chí lược 1 tờ 22 nói: "vì trên đá có dấu chân, nên có tên đó". Và núi đó theo Đại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn tây, mục Sơn  xuyên, không gì hơn là Sài sơn hay núi Thầy, hiện ở hai xã Thụy khê và Thiên phúc, huyện Quốc oai tỉnh Hà tây ngày nay. Đất Ngoại trại của Thần Nghi như vậy phải rơi vào vùng huyện Quốc oai này, nếu không phải là giới hạn vào hai xã Thụy Khê và Thiên phúc, nơi đấy hiện đang có núi Phật tích. Toàn thư B10 tờ 22a3 cũng kê Ngoại trại như một trận địa giao tranh giữa quân ta và bọn xâm lược Minh vào hôm 6-11-1426, và nó chắc nằm sát Cổ sở, tức làng Yên sở, huyện Hoài đức, tỉnh Hà đông ngày nay. Có người không hiểu Ngoại trại ở đây của Toàn thư là một địa danh, bèn dịch thành "doanh trại ngoại vi".
Sư thưa:      "Là chỗ chôn quan tài của chiếc giày". Chiếu nói:         "Gạt kiếm lời là Thần Nghi"
Sư thưa:      "Chớ bảo Tống Vân truyền nhảm, đến khi Trang Đế quật mồ thì sao?"2. Chiếu quát lớn: "Đó là chuyện chó sủa suông"3
Sư thưa:      "Hoà thượng cũng theo thế tục sao?" Chiếu nói:  "Theo thế tục".
Sư thưa:      "Vì sao như thế?"
Chiếu nói:   "Để cho giống với mọi người".
Sư hốt nhiên tỉnh ngộ, liền sụp lạy thưa: "Con đã hiểu lầm rồi". Chiếu liền hét.
Sư lại thưa: "Con hầu Hoà thượng đã nhiều năm, mà không biết người truyền đạo này đầu tiên là ai, cúi xin chỉ dạy thứ lớp truyền pháp, khiến cho người học biết được nguồn gốc".
Chiếu khen Sư có lòng tha thiết thành khẩn, bèn đem Chiếu đối bản4 của Thông Biện ra và ghi lại những điều về tôn phái, để làm đồ biểu phân Tôn tự pháp, đưa cho Sư xem.
Sư xem xong, liền hỏi: "Sao không thấy nói đến hai phái Nguyễn Đại Điên và Nguyễn Bát Nhã?"5 (40b1) Chiếu nói: "Ắt Thông Biện có một ức ý nào đó".
Ngày 18 tháng 2 năm Bính tý Kiến Gia thứ 6 (1216), Sư đem Nam tôn tự pháp đồ và Chiếu đối bản do Thường Chiếu trao6 mà dặn lại đệ tử là Ẩn Không rằng: "Ngày nay tuy loạn lạc, nhưng ngươi khéo giữ gìn chúng, cẩn thận chớ để cho binh hỏa thiêu hủy, thì Tổ phong ta mới không bị suy sụp vậy".
Nói xong Sư vĩnh viễn ra đi, *{Ẩn Không trước ở tại huyện Na ngạn7 của Lạng châu, nên thời bấy giờ gọi là Na Ngạn Đại sư}
1 Bồ Đề Đạt Ma chết chôn trên núi Hùng nhĩ, tháp được dựng tại chùa Định lâm. Xem Truyền đăng lục 3.
2 Nhà Bắc Ngụy, Hiếu Trang Đế, năm Vĩnh An thứ 3 (530), Tống Vân đi sứ Tây vực, gặp Đạt Ma tại Thông lĩnh. Trang Đế nghe sự lạ bèn quật mồ, chỉ thấy còn lưu lại một chiếc dép. Do đó có thiền thoại "chích lý tây quy". Xem Truyền đăng lục 3 tờ 220a-b.
3 Tục ngữ thường được dùng trong thiền: nhất khuyển phê hư hoặc cũng nói là nhất nhân tác hư vạn nhân truyền thật. Xem truyện Diên Chiểu trong Truyền đăng lục 13 tờ 303a28-29, truyện Chân giác 18 tờ 82 352b2 và truyện Thủ Trừng quyển 20 tờ 368a21-
23.     Nguyên xuất xứ nó là trong Thiên Hiền nạn của Tiềm phu luận: "Nhất khuyết phệ hình, bách khuyến phệ thanh..." Xem Tiềm phu luận 1 tờ 23a5.
4 Về Chiếu đối bản, xem chú thích (3) truyện Biện tài.
5 Nguyễn Đại Điên (? - 1110) chắc chắn là sư Đại Điên đánh chết cha của Đạo Hạnh, để rồi bị Hạnh đánh chết lại trong truyện Đạo Hạnh. Xem chú thích (8) truyện Đạo Hạnh.
Còn Nguyễn Bát Nhã tức Thiền sư Bát Nhã chùa Từ quang phúc thánh ở làng Dịch vương, Trương Canh, tức huyện Hoài
đức, tỉnh Hà tây ngày nay. Sư là đệ tử của Thảo Đường. Xem Thiền uyển tập anh tờ 71b6.
6 Nguyên văn: Sư dĩ chiếu sở thọ đồ bản. Hai chữ đồ bản trong đó, chúng tôi hiểu là Nam tôn tự pháp đồ và Chiếu đối bản.
7 Tức huyện Lục ngạn, tỉnh Bắc giang ngày nay. Đại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, mục Phần dã, viết: "Huyện Lục ngạn, đời Trần hồi trước gọi là Na ngạn. Thuở đầu, thời thuộc Minh chia làm hai huyện Na ngạn và Lục ngạn (đúng ra là Lục na), sau gồm vào Lục ngạn. Triều ta nhân theo".
Về Aăn Không, nay ta không biết một tí gì hết ngoài những điều đã ghi ở đây.

Thế Hệ Thứ Mười Bốn (Gồm 5 người, 3 người khuyết lục)

37. THIỀN SƯ Tức Lự (Một tên là Tĩnh Lự)
Chùa Thông thánh, làng Chu Minh1, phủ Thiên đức, người làng Chu minh. Lúc nhỏ thông minh, đọc khắp sách đời. Một hôm Sư bỏ sở học của mình đến thờ cư sĩ Thông Thiền làm thầy, học hỏi chỗ huyền yếu. Thường vào ngày giải hạ, Sư đặt bẫy bắt được con chim Mãi quỷ2 đem vào dâng thầy.
Thiền kinh ngạc hỏi: "Ngươi đã làm thầy tu, sao lại phạm sát? Quả báo ngày sau thời sao?".
Sư thưa: "Chính khi ấy con chẳng thấy có con vật đó, cũng chẳng thấy có thân con và cũng chẳng biết có quả báo sát sinh, cho nên mới làm như thế".
(41a1) Thiền biết Sư là pháp khí, bèn cho vào hàng nhập thất, mật truyền tâm ấn rằng: "Ông nếu dùng đến chỗ đất ấy, thì dù có tạo tội ngũ nghịch, thất già cũng được thành Phật"3
Có vị Tăng bên cạnh trộm nghe lời này, bèn kêu to lên rằng: "Khổ thay ! Dẫu có việc như thế tôi cũng không thể tin được !".
Thiền lên tiếng quát: "Đồ giặc ! Đồ giặc ! Đâu để cho loài phi nhân4 được sự tiện lợi của nó?"
Sư nghe câu nói ấy liền giác ngộ. Sau Sư trở về chùa mình, nghiên giảng tôn chỉ Thiền để dạy học trò. Cư sĩ Ứng Thuận là kẻ kế thừa Sư vậy.

38. THIỀN SƯ Huyền Quang (? - 1221)
Núi Yên Tử5, người Kinh sư, họ Lê, tên Thuần. Là người có tiếng nói dịu dàng, dung mạo đẹp đẽ, mồ côi từ bé trải nhiều gian khổ.
Năm vừa 11 tuổi, Thường Chiếu chùa Lục tổ thấy đem về nuôi, cho làm đệ tử. Sư học vấn thông tuệ, mỗi ngày học hàng vạn chữ, không đầy 10 năm, gồm thông Tam học. Nhưng tôn chỉ môn thiền Sư chưa kịp suy cứu thì Thường Chiếu đã qui tịch. Về sau, cùng người biện luận (41b1) tâm yếu tất bị bắt bẻ. Sư thường tự trách mình rằng: "Ta đây ví như con nhà giàu, lúc cha mẹ còn sống, ăn chơi lêu lổng,
1 Tức khoảng địa phận quanh làng Phù cầm, huyện Từ sơn, tỉnh Hà bắc hiện nay. Về bàn cãi xem chú thích (3) truyện Định Hương.
2 Mãi quỷ, một tên khác của chim đỗ nguyên hay chim cuốc.
3 Tội ngũ nghịch tức năm tội trọng, đấy là giết cha, giết mẹ, giết A la hán, gây đỗ máu nơi thân Phật, phá hoại sự hòa hợp của chúng tăng.
Tội thất già tức bảy trọng tội không cho phép của một người được thọ giới Bồ tát, đấy là: "Gây đổ máu nơi thân Phật, giết cha, giết mẹ, giết Hòa thượng, giết A xà lê, phá yết ma chuyển pháp luân, giết thánh nhân". Xem Phạm võng kinh quyển hạ tờ 1008.
4 Phi nhân: tức loài quỷ thần thông không phải là loài người.
5 Bắc thành địa dư chí lục 2 viết: "Núi Yên tử ở tại xã Nam mẫu huyện Đông triều, một tên là Tượng sơn. Long mạch chi tả bổ xuống làm tổ các núi ở Hải dương. Cứ Đồ kinh thì núi ở hương Cấn. Mạch Quyết nói: "Nó nở như sen, nó bay như diều, hai cái không đều, sinh nhiều ngỗ nghịch". Hải nhạc danh sơn đồ đời Tống cho núi này là một trong bốn đất phúc. Xưa, An Kỳ Sinh đời Hán tu luyện ở đấy. Trên núi (Tiên) có chùa gọi Hoa yên, gọi Tử tiêu, lại có khe tên Giải oan, tên Long hàm, khéo léo thanh vắng, thật là một bồng đảo của thiên nhiên...". Xem thêm Đại nam nhất thống chí, tỉnh Hải dương, mục sơn xuyên. đến khi cha mẹ chết thì mờ mịt ngu muội, không biết châu báu trong nhà nằm ở đâu, đến nỗi cuối cùng thành nghèo thiếu".1
Từ đó, Sư dạo khắp tòng lâm, tham học các hàng tri thức, gặp Trí Thông chùa Thánh quả dạy cho một câu, Sư chợt rõ tâm địa của mình, bèn ở lại đấy hầu hạ Thông. Sau vì nhân sự cúng dường của công chúa Hoa Dương2 mà tiếng đời phỉ báng nổi lên như ong. Sư nghe được, nói: "Phàm được người thế tục ngưỡng mộ tất không tránh khỏi bị hủy nhục. Nay ta là như thế sao? Vả, con đường Bồ tát thì rộng lớn, còn pháp Phật thì vô lượng, kẻ sĩ giữ đạo trung dung còn nhiều khi phải buồn tẻ khóc thầm3. Nếu như không dõng mãnh tự xét, dùng sự nhẫn nhục làm giáp trụ, lấy việc tinh tấn làm khí giới, thì làm sao tránh được ma quân, phá được phiền não, cầu được giác ngộ vô thượng?"
Rồi Sư vào thẳng trong núi Uyên trừng, phủ Nghệ an, theo Thiền sư Pháp Giới thọ giới Cụ túc. Một hôm, Sư thấy thị giả dâng cơm, sẩy tay làm đổ xuống đất. Sợ quá, thị giả lấy tay hốt cơm lộn đất (42a1), Sư tự hối nói: "Ta sống vô ích cho người, chỉ nhọc cho họ cúng cấp để đến nỗi như thế kia".
Từ đấy bèn mặc áo lá, thôi nhận lương, trải hơn 10 năm. Lúc sắp tìm chỗ riêng để an dưỡng tuổi già, Sư bèn vào sâu trong núi ấy, kết cỏ làm am mà ở. Mỗi khi xuống núi kinh hành, Sư tất dùng gậy quảy một đẫy vải4. Đến ngồi nằm nơi nào, thú rừng trông thấy không con nào là không thuần phục.
Lý Huệ Tôn khâm phục đời sống cao thượng của Sư, đã nhiều lần lần sắp lễ đi đón. Sư lánh mặt, sai thị giả bảo lại với sứ giả rằng: "Bần đạo sinh trên đất vua, ăn lộc vua, ở trong núi thờ Phật trải đã nhiều năm, mà công đức chưa thành, rất lấy làm thẹn. Nay nếu về thăm vua thì không những không có ích gì cho việc trị an, mà lại bị chúng sinh bài báng. Huống chi bây giờ Phật pháp đang thịnh hành, Sư trưởng trong đạo đã nhóm cấm túc ở gác điện Vũ nghi5 thì sao phải chiếu cố một ông thầy tu thô hèn gởi mình trong núi đến thế?". Từ đó, Sư quyết không xuống núi nữa.
Có vị Tăng hỏi: "Hoà thượng ở trong núi bấy lâu làm được những việc gì" (42b1) Sư đáp: "Dùng đức Hứa Do6 ấy
Sao biết đời mấy xuân Vô vi sống đồng rộng
Tự tại người thênh thang"
Mùa xuân năm Tân tỵ Kiến Gia thứ 11 (1221), khi sắp thị tịch, Sư ngồi trên một tảng đá nói kệ: Pháp huyễn đều là huyễn,
Tu huyễn cũng là huyễn,
1 Chuyện người cùng tử trong kinh Pháp hoa, sau một thời gian trôi giạt gặp bất ngờ cha mình trong cảnh giàu sang tột bực, nhưng không nhận ra đó là cha, mà chỉ bằng lòng nhận thân phận nô dịch. Xem Diệu pháp liên hoan kinh tờ 16b25.
2 Đại Việt sử lược 3 tờ 10a11: "Trinh Phù năm thứ 5 (1180) mùa đông cho thủ lãnh châu Vị long Hà Công Phụ cưới công chúa Hoa Dương". Công chúa Hoa Dương như vậy là con của Lý Anh Tôn.
3 Nguyên văn: Khấp kỳ. Từ lấy ra ở thiên Nghi tợ của Lã thị xuân thu 22 tờ 21b12-13 về việc "Mặc tử thấy đường rẽ mà khóc". Thiên Thuyết lâm của Hoài nam tử 17 tờ 13b13-14 giải rõ hơn: "Dương tử thấy đường rẽ mà khóc vì nó có thể đi về nam hay bắc".
4 Bố Đại hòa thượng (...) thường dùng một cây gậy quảy một túi vải trên vai, viên tịch đời Lương, niên hiệu Trinh Minh thứ hai (916). Xem Truyền đăng lục 27 tờ 434a19.
5 Các sư tăng có lệ cấm túc, giới hạn trong một khu vực, trong một thời gian không ra khỏi giới hạn đó. Cuộc cấm túc này có lẽ xảy ra vào năm 1212, mà Đại Việt sử lược 3 tờ 24a10 ghi lại việc Lý Huệ Tôn cùng thái hậu đến trước Phật thệ rằng: "Trẫm đem sức mọn mà trộm nối ngôi quí, đến nỗi phải gặp loạn ly, sắp đổ sự nghiệp trước, thậm chí cung giá phải dời đổi nhiều lần. Nay muốn lãnh ngôi trời để nhường cho người hiền đức" nói xong, vua lấy dao muốn cắt tóc thì (Trần) Tự Khánh đốt sạch cung điện như Đại Việt sử lược 3 tờ 26b4 ghi. Điện Vũ nghi không thấy tên trong sử.
6 Hứa Do là tên nhà cao sĩ đời thượng cổ Trung quốc, trước ở ẩn tại Bãi trạch, vua Nghiêu đem thiên hạ nhường cho, bèn không nhận, rồi trốn đến dưới núi Cơ ở Dĩnh thuỷ cày ruộng. Vua Nghiêu lại mời làm Cửu chân trưởng. Hứa Do không muốn nghe, bèn đến bên sông Dĩnh lấy nước rửa lỗ tai mình.
Chẳng là hai huyễn ấy Tức trừ được mọi huyễn".
Nói xong, Sư an nhiên mà tịch. Môn đồ Đại Viên sắm đủ lễ an táng Sư trong hang núi. {Lại Tự ngu tập1 nói Sư mất, không biết ở đâu}

1 Tự ngu tập này nghi có thể là tác phẩm của Ngu Ông, một trong những đệ tử của Tiêu Diêu.

Thế Hệ Thứ Mười Lăm (Có 7 người, ở đây chỉ có 1 người)

39. CƯ SĨ Ứng Vương1.
Người phường Hoa thị2, kinh đô Thăng long, họ Đỗ, tên Văn, tính tình giản dị, khoáng đạt, không bôn chôn theo việc đời. Ban đầu làm quan dưới triều Chiêu Lăng ta3, chức đến Trung phẩm phụng ngự. Những khi rảnh việc quan, ông dốc chí học Thiền, tay không rời sách, tìm hết ý tổ, hiểu rõ Tâm tông. Ở cửa trường của Tức Lự chùa Thông thánh, ông thấu hết bí quyết của Lự. Do đó, Sư gió thiền không nghẽn, mắt đạo càng cao.
(43a1) Khi được truyền tâm ấn rồi, ông là người tai mắt của tòng lâm, như những vị quốc sư Nhất Tôn, Thiền sư Tiêu Diêu4, Giới Minh và Giới Viên ấy vậy.

1 Truyện của Tức Lự nói: "Ứng Thuận cư sĩ, ấy là pháp tự của Lự". Nhưng không hiểu sao đây gọi Ứng Vương, hoặc chữ Vương là một khắc sai của chữ Thuận. Hoặc là cách gọi để tỏ lòng tôn kính như trường hợp Thông Sư.
2 Phường Hoa thị này không biết thuộc phường nào của thủ đô Hà nội.
3 Tức triều Trần Thái Tôn (1225-1257). Khi Thái Tôn mất vào năm 1277 và đem táng vào lăng thì lăng của Thái Tôn gọi là Chiêu lăng. Xem Toàn thư B5 tờ 36a5
4 Cứ Lược dẫn thiền phái đồ trong Thượng sĩ ngữ lục tờ 7b thì Tiêu Diêu là đệ tử của Ứng Thuận và là thầy của Tuệ Trung. Ngoài Tiêu Diêu ra, nó còn cho biết Quốc Nhất, Đạo Sư, Quế Thâm và Chân Giám là những đệ tử khác của Thuận. Và ngoài Tuệ Trung ra, thì Thạch Đậu Vị Hải, Đạo Tiềm, Thân Tán, Lại Tản, Thạch Lâu, Thôn Tăng, Thủ Nhân, Ngu Ông và Vô Sở là đệ tử của Tiêu Diêu.
Thượng sĩ hành trạng trong Thượng sĩ ngữ lục tờ 38a8-b1 nói: "(Tuệ Trung) lúc còn để chỏm, rất chuộng cửa Không, đến học Thiền sư Tiêu Diêu ở Phước Đường, hiểu được yếu chỉ, dốc lòng thờ làm thầy". Còn bài tựa do Huệ Nguyên viết năm 1763 trong Thượng sĩ ngữ lục tờ 3b1-3 nói: "Thượng tổ Tiêu Diêu... vừa đến nước ta, đã thoát thế vô y, cầm câu không lưỡi mà vào kinh thành". Như thế Diêu chưa hẳn là người nước ta. Lời tựa đây cũng nói Thượng sĩ ngữ lục là một tác phẩm của Tiêu Diêu.
Tuy nhiên, chúng tôi nghĩ Tiêu Diêu chắc quê quán Phước đường tại vùng Thanh từ ngày nay.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét