Mẹ nghề Y nhiều đêm trực vắng nhà
Tròn một tuổi gửi con về quê ngoại
Quê ngoại con là quê Mẹ đấy
Sao bây giờ Mẹ Thấy xa xôi
Một con đường mờ mịt mưa rơi
Một con đường gió chiều nào cũng ngược
Một bến phà người chờ 2 đầu nước
Chiếc cầu phao sóng nổi bồng bềnh
Con đi rồi mẹ thức với mênh mông
Quờ cánh tay thấy giường chiếu rộng
Võng cởi rồi, còn dây buộc võng
Tiếng ầu ơ vương vấn ở 2 đầu
Con xa tuần, Mẹ tưởng tháng lâu
Con xa tháng ngỡ năm dài đằng đẵng
Ôi mái tóc vàng như tơ nắng
Môi thơ ngây tập gọi ơi Bà
Nửa năm trời con mới thấy mặt Cha
Cha trở về và Cha đi vội lắm
Đừng trách con ơi, Cha là người lính
Là lính mấy khi đc ở gần nhà
Mẹ đưa con về ở với Bà
Niềm thương ấy Mẹ chia đều 2 ngả
Nửa theo Cha bay về miền đất lạ
Nửa hoà vào con sóng vỗ lời ru
Nỗi lòng Cha cũng 2 nửa phân chia
Nửa nhớ con, nửa thương về cho Mẹ
Chỉ có con còn thơ dại quá
Có bao giờ con biết nhớ Cha đâu
Nỗi nhớ ấy con dồn về nơi Mẹ
Cha đi suốt một thời trai trẻ
Vẫn nguyên lành trọng Mẹ buổi chia tay
Vẫn nguyên lành trong nỗi nhớ con nay
Dáng Cha đi trong điệp trùng đội ngũ
Đừng trách Mẹ những đêm dài ít ngủ
Nhớ thương là hạnh phúc của ngày xa
Sưu tầm Facebook Loi Tran
Hình ảnh chỉ mang tính chất minh họa
Trang
▼
Thứ Sáu, 30 tháng 3, 2018
Thứ Tư, 28 tháng 3, 2018
KIẾP SAU LẤY VỢ HUẾ
Kiếp sau lấy vợ Huế
Để tôi được cưng chìu
Đêm nằm nghe thỏ thẻ:
“ Anh nì! Chừ mình yêu…”
Sáng ra lời trong veo
Tiếng người như chim hót :
“ Anh ơi! Em ốt dột
- Hun chi lạ…rứa tề! “
Thương ơi! Mái tóc thề
Dài lên tới Bến Ngự
Tóc cột đời lữ thứ
Trăm năm không cho về
Kiếp sau lấy vợ Huế
Già chát vẫn kêu anh
Gần chôn cũng xưng em
Tình nào hơn như thế ?
Bờ môi ngọt… thương nhớ
Con mắt là sao sa
Dẫu khi đã đàn bà
Cũng lừng hương thiếu nữ!
Dẫu khi tôi mệt lữ
Em vẫn tìm lá xông
Bão giông em không sợ
Ăm ắp nghĩa vợ chồng..
(sưu tầm FC Đỗ Trung Tây)
Để tôi được cưng chìu
Đêm nằm nghe thỏ thẻ:
“ Anh nì! Chừ mình yêu…”
Sáng ra lời trong veo
Tiếng người như chim hót :
“ Anh ơi! Em ốt dột
- Hun chi lạ…rứa tề! “
Thương ơi! Mái tóc thề
Dài lên tới Bến Ngự
Tóc cột đời lữ thứ
Trăm năm không cho về
Kiếp sau lấy vợ Huế
Già chát vẫn kêu anh
Gần chôn cũng xưng em
Tình nào hơn như thế ?
Bờ môi ngọt… thương nhớ
Con mắt là sao sa
Dẫu khi đã đàn bà
Cũng lừng hương thiếu nữ!
Dẫu khi tôi mệt lữ
Em vẫn tìm lá xông
Bão giông em không sợ
Ăm ắp nghĩa vợ chồng..
(sưu tầm FC Đỗ Trung Tây)
Thứ Hai, 26 tháng 3, 2018
Phương pháp Ấn độ: chỉ bấm ngón tay có thể giúp giảm cân và chữa nhiều bệnh khác
Vốn là cách thủ ấn trong Yoga thiền của Ấn Độ, những động tác
với ngón tay đơn giản có tác dụng bất ngờ về cả tinh thần lẫn sức khỏe.
Bạn có thể tập ở nhà, nơi làm việc hay bất cứ nơi nào để tăng cường sức
khỏe cũng như cảm thấy vui vẻ, hạnh phúc.
Phương pháp thủ ấn hay còn gọi là Mudra xuất phát từ Ấn Độ gồm những
động tác tay có thể giúp kích thích tâm trí và tất cả các cơ quan khác
trên cơ thể, mang lại lợi ích bất ngờ với sức khỏe.
Trong yoga thiền, có rất nhiều cách thủ ấn và mỗi cách mang đến một tác dụng, lợi ích riêng.
Dưới đây là 8 cách thủ ấn đơn giản, hữu ích mọi người có thể thực hiện bất cứ đâu để chữa bệnh và tăng cường sức khỏe:
1. Gyan mudra
Ảnh: punjabkesari.in
Ngón tay cái và ngón trỏ chạm vào nhau, 3 ngón còn lại để thẳng hoặc
thả tự do. Tư thế tượng trưng cho sự khôn ngoan, sẽ làm tăng nhiệt tình
và sáng tạo của bạn. Nó cũng tốt cho khả năng ghi nhớ.
Người ta tin rằng động tác này sẽ giúp tăng sức mạnh của sự tập
trung, trí nhớ và còn giúp não bộ nhạy bén hơn. Ngoài ra, Gyan Mudra còn
chữa chứng mất ngủ và nếu thực hiện thường xuyên sẽ giúp giảm tình
trạng rối loạn tâm lí, tinh thần như giận dữ, buồn bã, lo lắng, căng
thẳng…
2. Vaayu mudra
Ảnh: punjabkesari.in
Động tác này gần giống động tác đầu tiên, nhưng thay vì hai đầu ngón
tay trỏ và ngón tay cái chạm vào nhau, thì bạn phải giấu ngón trỏ bên
dưới ngón cái.
Gập ngón trỏ xuống, dùng ngón cái giữ trên đốt thứ 2 của ngón trỏ,
giữ căng các ngón còn lại. Tư thế này giúp điềm tĩnh, tăng cường việc
vận chuyển oxy đi khắp cơ thể, do đó tạo ra cảm giác bình yên và hòa
hợp. Đây là động tác tuyệt vời để giảm hiếu động thái quá hay trạng thái
hung hăng.
Với bài tập này, bạn có thể tập trong tư thế đứng, ngồi hoặc nằm.
3. Aakash mudra
Ảnh: punjabkesari.in
Gập ngón tay giữa, dùng ngón trỏ đè lên, các ngón còn lại duỗi thẳng.
Động tác này giúp giảm bớt nỗi sợ hãi, buồn phiền, tức giận, giảm căng
thẳng, mệt mỏi. Quan trọng, động tác này giúp kiểm soát lượng
cholesterol trong cơ thể.
4. Shudya mudra
Ảnh: punjabkesari.in
Dùng ngón cái nhấn đốt thứ 2 của ngón giữa. Đây là động tác tuyệt vời
để thoát khỏi mọi cơn đau. Hơn nữa, nó giúp thư giãn toàn bộ cơ thể và
rất hữu ích với những trường hợp bị chóng mặt, hay gặp vấn đề về tai,
hoặc đau một bộ phận cơ thể nhất định.
5. Prithvi mudra
Ngón tay cái chạm vào ngón tay áp út, duỗi thẳng các ngón tay còn
lại. Động tác này liên quan tới sự phát triển của mô, cơ bắp do đó hỗ
trợ chữa bệnh, giảm tình trạng viêm cơ bắp và tắc nghẽn quá trình trao
đổi chất. Chúng giúp lưu thông máu, tăng cường khả năng kiên nhẫn.
Ngoài ra, động tác Prithvi Mudra còn giúp tăng tính kiên nhẫn, sức
chịu đựng, tập trung, giảm thiểu tình trạng kiệt sức, trì trệ tinh thần,
làn da đẹp mịn màng, tươi trẻ.
6. Surya mudra
Ảnh: punjabkesari.in
Đặt ngón tay đeo nhẫn áp sát lòng bàn tay, đè ngón cái lên, các ngón
còn lại duỗi thẳng. Động tác thủ ấn này giúp giảm cân, đồng thời giảm
cholesterol, tăng khả năng tiêu hóa và giảm tình trạng căng thẳng, lo
lắng. Để thực hiện được động tác này rất đơn giản, bạn chỉ việc gập ngón
áp út lại rồi dùng ngón tay cái nhấn vào đốt thứ hai của ngón áp út.
7. Varud mudra
Ảnh: punjabkesari.in
Chạm đầu ngón cái vào ngón út, các ngón khác giữ thẳng. Hãy thực hành
tư thế này nếu bạn bị viêm khớp, mất nước hoặc rối loạn hormone.
Bên cạnh đó, động tác này giúp cân bằng nước trong cơ thể, vì thế có thể cải thiện các vấn đề về da rất tốt.
8. Jal shaamak mudra
Ảnh: punjabkesari.in
Đặt ngón út áp sát lòng bàn tay, đè ngón cái lên trên, các ngón khác
duỗi thẳng. Ngược lại với thủ ấn Varud mudra, động tác Jal shaamak mudra
giúp hạn chế tích nước trong cơ thể, vì vậy sẽ rất hữu ích cho người có
tuyến mồ hôi hoạt động mạnh, hoặc hay chảy nước mắt, nước mũi.
Động tác này không đòi hỏi kỹ thuật cũng như sự khéo léo, chỉ cần bạn
kiên trì thì dù ở nhà, nơi làm việc hay bất cứ đâu cũng có thể thực
hiện để bảo vệ sức khỏe.
Chủ Nhật, 25 tháng 3, 2018
GIỖ CỤ MẠC ĐĨNH CHI
Năm nào ngày 10/2 âm lịch, cũng về cúng giỗ Cụ. Năm nay ở xa không về được, tưởng nhớ Cụ, xem lại bài viết về CỤ và chia sẽ cùng bà con.
MẠC ĐĨNH CHI (chữ Hán: 莫挺之 ), sinh ngày 06 tháng 7 năm Nhâm Thân, tức năm 1272; cha làm nghề dạy học, gọi là Lũng Động Tiên sinh, mẹ là Trần Thị, ngụ tại hương Lũng Động, huyện Chí Linh, xứ Hải Dương (nay là thôn Long Động, xã Nam Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương) [1].
Cụ Tổ 05 đời của Mạc Đĩnh Chi ở Long Động là Mạc Hiển Tích đã nổi tiếng từ thời vua Lý Nhân Tông, đỗ Đệ nhất Giáp Tiến sĩ khoa Bính Dần (1086), làm quan đến Thượng thư; em Cụ là Mạc Kiến Quan cũng đỗ Tiến sĩ, hai anh em làm quan đồng triều.
Mạc Đĩnh Chi mồ côi cha từ nhỏ, mẹ tần tảo nuôi con trong cảnh nghèo khó. May có các môn sinh của cha giúp đỡ, nên mẹ con no đủ, có điều kiện học hành. Mạc Đĩnh Chi thuở ấu thơ hay đau yếu, người nhỏ bé, còi cọc, nhưng chăm chỉ, thông minh, nổi tiếng cả vùng. Bấy giờ Chiêu Quốc công Hoàng Tử nhà Trần mở trường dạy học ở làng bên, nhận Mạc Đĩnh Chi vào học, nhờ đó Ngài càng có cơ hội phát triển tài năng. Năm Giáp Thìn (1293), Mạc Đĩnh Chi đi thi đậu Hội Nguyên, khi vào Đình đối, vua Trần Anh Tông thấy Mạc Đĩnh Chi nhỏ bé, dị tướng, không muốn cho đỗ Trạng nguyên. Mạc Đĩnh Chi bèn làm bài “Ngọc tỉnh liên phú”, tự ví mình như cây Sen trong Giếng ngọc, dâng lên nhà vua. Vua xem xong, biết đây là người thông minh, bản lĩnh, liền cho đậu Trạng nguyên, ban Cờ, Biển vinh quy bái tổ. Năm ấy Ngài 21 tuổi… Sau lễ bái Tổ, bái môn Mạc Đĩnh Chi được Chiêu Quốc công mở tiệc đón mừng và cho Trạng kết duyên cùng Lý Quận chúa, con gái nuôi của Quốc công…
Hơn một tháng sau, có Thánh chỉ triệu Trạng lai kinh cung chức. Trạng bái từ ông bà Chiêu Quốc công, đưa mẹ và vợ vô Kinh. Vua Anh Tông vời vào bệ kiến, hỏi chuyện trị quốc, an dân, bang giao, Trạng đều luận rõ mọi điều, vua rất hài lòng, bổ dụng vào Viện Hàn Lâm; sau này Ngài được phong chức Hàn lâm Đại học sĩ.
Ngài nổi tiếng là vị quan thanh liêm, chính trực. Giữa năm vỡ đê, lũ lụt mất mùa, vua định xây am Ngọc Vân, Ngài cương quyết khuyên can không xây Am, mà đem tiền của đắp đê, cứu dân… Vua tức giận liền điều Ngài làm quan trông coi đê điều, đi chống lụt. Ngài không từ nan, đi khắp các địa phương nghiệm trị các quan lơ là việc dân, việc nước, khôi phục đê điều, an dân, khuyến nông… Vua nghĩ lại, càng nể trọng Ngài, vời về kinh thăng chức…
Năm 1314, vua Anh Tông mất, vua Minh Tông lên ngôi. Nghe đồn Mạc Đĩnh Chi nổi tiếng thanh liêm; vua muốn thử xem sao, liền sai quan bí mật bỏ tiền vàng vào nhà Ngài. Hôm sau Mạc Đĩnh Chi đem nguyên số tiền, vàng lạ vào tâu vua và nộp cho ngân khố. Vua càng tin tưởng, thăng Ngài lên chức Nhập nội Hành khiển, sau đó lên chức Đại liêu ban Tả bộc xạ (Tể tướng), đứng đầu triều, cai quản nội trị.
Về ngoại giao, năm 1308 vua Trần Anh Tông cử Mạc Đĩnh Chi đi sứ nhà Nguyên, mừng vua Nguyên Vũ Tông mới lên ngôi. Đó là lúc 30 năm sau cuộc xâm lược lần thứ 3 đại bại của quân Nguyên, “Thiên triều” vẫn chưa nguôi hận. Mạc Đĩnh Chi mới 36 tuổi, đi sứ lúc này phải ứng phó với rất nhiều cạm bẫy gian nguy. Cả chính sử và dã sử đã ghi lại nhiều câu chuyện Mạc Đĩnh Chi xuất sắc vượt qua mọi thử thách, khiến vua quan nhà Nguyên nể phục, phong Ngài là “Lưỡng quốc Trạng nguyên”.
Sứ thần Cao Ly chứng kiến cách ứng xử tài giỏi của Mạc Đĩnh Chi, rất kính phục, quý mến, liền mời Trạng sang thăm quý quốc và gả cháu gái cho Ngài làm thiếp. Ngài ở đó chơi 6 tháng.
Năm 1324 Mạc Đĩnh Chi lại được vua Minh Tông cử đi sứ lần thứ 2 sang Trung quốc. Sau khi hoàn thành sứ mệnh vua giao, Ngài lại qua Cao Ly thăm vợ con. Trong Hợp biên Thế phả họ Mạc cho biết Ngài có 2 người con trai ở Đại Việt và 2 người con trai ở Cao Ly.
Mạc Đĩnh Chi làm quan đầu triều qua 3 đời vua: Trần Anh Tông (1293 – 1314), Trần Minh Tông (1314 – 1329), Trần Hiến Tông (1329 – 1341). Sự nghiệp phò vua, giúp nước, nội trị, ngoại giao, coi sóc đê điều, khuyến học, khuyến nông, phát triển văn hóa, chăm lo an dân suốt 45 năm quả là không nhỏ.
Năm 1339, ở tuổi 67, Ngài dâng sớ xin nghỉ, vua giữ không được, nhưng muốn Ngài về nghỉ, vẫn ở Kinh đô để được gần gũi. Nhưng Ngài một mực về quê Lũng Động, ở nếp nhà tranh cũ, mở trường dạy học, sống thanh đạm, gần gũi với dân làng…Thời kỳ 8 năm ở quê hương, Ngài viết nhiều thơ phú, nhưng rất tiếc không còn lưu lại được bao nhiêu.
Năm 1347, Ngài lâm bệnh, mất tại quê nhà, thọ 75 tuổi. Vua Trần Dụ Tông (1341 – 1369) vô cùng thương tiếc, sai các quan về dự tế, phong Ngài làm Phúc Thần, cấp 500 quan tiền cho dân sở tại dựng đền thờ; từ đó đến nay, dân vẫn gọi là Đền Quan Trạng. Ngài cũng được sắc phong là Thành Hoàng.
Năm 1527, cháu 7 đời của Ngài là Mạc Đăng Dung lên ngôi hoàng đế, truy tôn Thủy tổ Trạng nguyên Mạc Hiển Tích là Hồng Phúc Đại Vương; truy tôn Ngài là Kiến Thủy Khâm Minh Văn Hoàng đế và xây điện Sùng Đức tại nền nhà cũ của Ngài để thờ Tổ tiên. (Rất tiếc Điện Sùng Đức, Đền và Lăng Cụ cũng như các văn bản giấy hay bia ký của Cụ đã bị nhà Lê- Trịnh đốt, phá hết vào năm 1593. Sau này Nhà nước phục dựng lại Đền và Lăng Cụ).
Ngày nay, khắp cả nước, dường như tỉnh nào cũng có đường phố Mạc Đĩnh Chi, có các trường học mang tên Mạc Đĩnh Chi.
Hàng năm, cứ vào ngày Giỗ Ngài, mồng 10 tháng 2 âm lịch, nhân dân địa phương, con cháu họ Mạc khắp nơi và khách thập phương lại về Long Động dâng hương, tưởng nhớ vị Lưỡng quốc Trạng nguyên tài năng kiệt xuất, đạo đức thanh cao, làm vẻ vang cho quê hương, đất nước.
Ngày 30/11/2016
[1] Nhiều nguồn tài liệu khác nhau, nên lấy theo Hợp biên Thế phả họ Mạc, NXB Dân tộc (2001)
MẠC VĂN TRANG
Thứ Tư, 21 tháng 3, 2018
Cách chữa 46 loại bệnh tật bằng mẹo rất hay
1. Bụi hoặc muỗi bay vào mắt, mắt bị cay xè:
Chớ có dụi mắt mà tổn thương đến giác mạc. Chỉ cần thè lưỡi liếm mép
vài cái, nước mắt sẽ ứa ra “lùa vật lạ” ra khỏi mắt! Nên nhớ một điều:
nếu bị mắt phải thì liếm mép bên trái và ngược lại.
02. Mắt nhắm không khít:
Một mắt nhắm không khít (do bị liệt dây thần kinh số 7 chẳng hạn), hơ
ngải cứu bên mắt đối xứng. Ngày hơ nhiều lần, mỗi lần hơ độ vài phút,
mắt sẽ dần dần nhắm khít.
03. Mũi nghẹt cứng:
Dù mũi bị nghẹt (tắc hoặc tịt) đến mức nào và đã bao lâu rồi, chỉ cần
hơ ngải cứu vào đồ hình mũi trên trán – từ giữa trán (huyệt 103) đến
đầu đôi lông mày (huyệt 26), độ một phút thôi, mũi sẽ thông thoáng ngay.
Thật là một phép lạ đến khó tin.
04. Bả vai đau nhức, không giơ lên cao được:
Dùng đầu ngón tay trỏ gõ vài chục cái vào đầu mày (huyện 65) cùng bên đau. Vai hết đau và tay lại giơ lên cao được ngay.
05. Bong gân, trật khớp cổ tay:
Hãy bình tĩnh dùng ngón tay trỏ gõ mạnh độ vài chục cái vào sát đuôi
mày cùng bên đau, cổ tay sẽ trở lại bình thường (muốn tìm điểm chính xác
cần gõ, hãy lấy ngón tay miết nhẹ vào đuôi mày, thấy chỗ nào hơi lõm
xuống, đấy là điểm chính xác – huyệt 100 – phản chiếu đúng cổ tay).
06. Bong gân, trật khớp vùng mắt cá chân:
Mắt cá chân bên nào bị trật khớp, hơ vùng mắt cá tay cùng bên. Mắt cá
chân bị đau dù đã lâu ngày cũng lành trong vài phút. Các vận động viên
quốc gia, các cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp hãy nhớ lấy mẹo này để tự
cứu mình và giúp người.
07. Bắp chân bị vọp bẻ (chuột rút):
Dùng cườm tay day mạnh vào bắp tay độ vài chục cái, vọp bẻ hết liền. Nhớ vọp bẻ chân bên nào thì day mạnh bắp tay bên đó.
08. Gai gót chân:
Nhớ hơ đúng điểm tương ứng bên gót chân đối xứng, chỉ vài phút thôi, gót chân hết đau liền. Hết sức cẩn thận kẻo bị phỏng.
09. Đầu gối đau nhức:
Hơ vùng khuỷu tay (cùi chỏ) cùng bên, chỉ độ vài phút đầu gối (khuỷu chân) hết đau liền.
10. Bị táo bón lâu ngày:
Dùng hai ngón tay (ngón trỏ và ngón giữa) lăn quanh miệng độ vài ba phút – khoảng độ 200 vòng, táo bón sẽ được giải quyết.
Cách lăn như sau: lăn từ mép phải vòng lên môi trên sang mép trái.
Lăn tiếp vào phía dưới và giữa môi dưới rồi kéo thẳng xuống ụ cằm (hình
thành một dấu hỏi lớn chiếm 3/4 quanh miệng). Nhớ lăn từ phải qua trái
mới nhuận tràng, hết táo bón. Ngược lại lăn từ trái qua phải, sẽ càng
táo bón hơn đấy!
11. Nhức đầu
a. Bất cứ nhức ở bộ phận nào trên đầu, mới nhức hay đã lâu, nặng hay
nhẹ, chỉ cần hơ mu bàn tay trái (đã nắm lại) trên điếu ngải độ vài phút,
nhức đầu như búa bổ cũng hết ngay. Nào! Thử làm xem.
b. Nếu nhức nửa đầu bên phải, hơ nửa mu bàn tay phía bên phải.
c. Nếu nhức nửa đầu bên trái, hơ nửa mu bàn tay phía bên trái.
d. Nếu nhức sau gáy, hơ phía cổ tay trên.
e. Nếu nhức đỉnh đầu, hơ ụ xương gồ cao nhất của ngón tay giữa.
f. Nếu nhức thái dương, chỉ cần hơ thái dương đối xứng 1 phút là hết ngay.
g. Nếu nhức cả hai bên thì hơ đi hơ lại.
h. Nếu nhức trán, hơ hết các đốt cuối của 4 ngón tay đã nắm lại.
i. Nếu chỉ nhức nửa trán bên phải, hơ 2 ngón tay bên phải.
k. Nếu chỉ nhức nửa trán bên trái, hơ 2 ngón tay bên trái.
l. Nếu chỉ nhức giữa trán, chỉ cần hơ 2 ngón giữa độ 1 phút là hết ngay.
k. Nếu nhức quanh đầu, hơ quanh mu bàn tay.
b. Nếu nhức nửa đầu bên phải, hơ nửa mu bàn tay phía bên phải.
c. Nếu nhức nửa đầu bên trái, hơ nửa mu bàn tay phía bên trái.
d. Nếu nhức sau gáy, hơ phía cổ tay trên.
e. Nếu nhức đỉnh đầu, hơ ụ xương gồ cao nhất của ngón tay giữa.
f. Nếu nhức thái dương, chỉ cần hơ thái dương đối xứng 1 phút là hết ngay.
g. Nếu nhức cả hai bên thì hơ đi hơ lại.
h. Nếu nhức trán, hơ hết các đốt cuối của 4 ngón tay đã nắm lại.
i. Nếu chỉ nhức nửa trán bên phải, hơ 2 ngón tay bên phải.
k. Nếu chỉ nhức nửa trán bên trái, hơ 2 ngón tay bên trái.
l. Nếu chỉ nhức giữa trán, chỉ cần hơ 2 ngón giữa độ 1 phút là hết ngay.
k. Nếu nhức quanh đầu, hơ quanh mu bàn tay.
12. Mất ngủ
Bất kể mất ngủ vì nguyên nhân gì, xin nhớ không nên dùng thuốc ngủ
vừa tiền mất vừa tật mang. Bí quyết đơn giản để có giấc ngủ ngon là:
trước khi ngủ, hãy xoa đôi bàn chân cho ấm. Chân ấm là bụng ấm, thân ấm.
Đó là điều kiện đầu tiên để ngủ ngon. Sau đó, dùng đầu ngón tay giữa
bên trái gõ vào huyệt An thần (tức Ấn đường của Đông y hoặc huyệt 26 của
Diện Chẩn – đầu đôi lông mày) độ vài phút sẽ làm nhịp tim ổn định và
tinh thần được thư thái. Tay trái phản chiếu tim, Đầu ngón tay giữa phản
chiếu cái đầu. Tâm và Thân an lạc – đó là những điều kiện cần thiết để
ngủ ngon.
13. Sình bụng (do ăn không tiêu)
Nếu ở nhà, hãy lấy ngải cứu hơ vào rốn và quanh vùng rốn độ vài phút,
bụng sẽ xẹp dần. Nếu đang ở bữa tiệc đông khách, hãy lặng lẽ đi ra
ngoài đến chỗ vắng người, lăn bờ môi trên một lúc: trung tiện bùng phát,
bụng hết sình ngay!
14. Bí tiểu
Người lớn hoặc các cháu nhỏ có lúc bí tiểu, hãy bình tĩnh vuốt cằm độ
vài phút, “cơn bí” hết liền! Cách vuốt như sau: ngón tay cái giữ chân
cằm, ngón tay trỏ vuốt ụ cằm từ trên xuống dưới nhiều lần. Bàng quang sẽ
được tháo nút, nước tiểu tự do chảy (theo Diện Chẩn, ụ cằm phản chiếu
bàng quang – huyệt 87). Các cụ già hay đi tiểu đêm, các cháu nhỏ hay đái
dầm, trước khi ngủ độ 15 phút hãy tự vuốt cằm đi, các “tật” trên sẽ tự
biến rất nhanh!
15. Nấc cụt
Đây là bệnh thông thường nhưng lại gây nhiều khó chịu, làm cho người
bệnh mất ăn, mất ngủ. Ăn sao được khi vừa nâng bát cơm lên đã bị cơn nấc
trào ngược rồi; ngủ sao được khi vừa nằm xuống, cơn nấc đã rộ lên âm
vang khắp nhà! Có người phải nằm bệnh viện nhiều ngày mà vẫn không dứt
căn. Chỉ cần làm một trong các hướng dẫn dưới đây, nấc cụt sẽ phải “đầu
hàng”:
a- Dùng đầu ngón tay trỏ gõ mạnh vào đầu sống mũi nằm giữa cặp lông
mày (huyệt 26 và 312) độ 15 cái. Nấc cụt biến mất đến khó tin (huyệt 26
là an thần và huyệt 312 thông nghẽn nghẹt).
b- Dùng đầu ngón tay trỏ vuốt mạnh từ đầu cánh mũi bên trái xuôi xuống chân cánh mũi độ 10-15 cái. Nấc cụt chịu phép phải nằm im, không dám ló mặt ra!
c- Dùng 4 đầu ngón tay (từ ngón trỏ đến ngón út co sát lại với nhau thành một đường thẳng) vạch dọc giữa đầu (từ trán ngược lên đỉnh đầu) độ 15 cái là hết nấc cụt! Xin hãy thử làm xem!
b- Dùng đầu ngón tay trỏ vuốt mạnh từ đầu cánh mũi bên trái xuôi xuống chân cánh mũi độ 10-15 cái. Nấc cụt chịu phép phải nằm im, không dám ló mặt ra!
c- Dùng 4 đầu ngón tay (từ ngón trỏ đến ngón út co sát lại với nhau thành một đường thẳng) vạch dọc giữa đầu (từ trán ngược lên đỉnh đầu) độ 15 cái là hết nấc cụt! Xin hãy thử làm xem!
16. Đau bụng
Có thể khỏi nhanh bằng một trong những cách chữa đơn giản sau:
a- Hơ (bằng điếu ngải) hai lòng bàn tay độ 10 phút.
b- Hơ hai lòng bàn chân độ 10 phút.
c- Hơ rốn và lấy tay lăn quanh miệng.
a- Hơ (bằng điếu ngải) hai lòng bàn tay độ 10 phút.
b- Hơ hai lòng bàn chân độ 10 phút.
c- Hơ rốn và lấy tay lăn quanh miệng.
17. Đau tử cung:
a- Gạch rãnh nhân trung từ đầu rãnh (sát mũi) đến cuối rãnh (sát bờ môi trên) nhiều lần.
b- Gạch hai bờ nhân trung và bờ môi trên nhiều lần.
b- Gạch hai bờ nhân trung và bờ môi trên nhiều lần.
18. Đau đầu dương vật:
Chỉ cần hơ đầu mũi độ 1 phút, đầu dương vật sẽ hết đau.
19. Đau khớp háng:
Gạch và hơ đường viền cánh mũi một lúc, khớp háng hết đau. Nhớ đau khớp háng bên nào thì gạch đường viền cánh mũi cùng bên.
20. Đau gót chân:
Hơ và gõ gót chân đối xứng độ vài phút, gót chân đang đau hết ngay.
21. Đau bụng kinh:
Hãy vuốt môi trên vài phút, đau bụng kinh hết liền.
Hãy vuốt môi trên vài phút, đau bụng kinh hết liền.
22. Ho ngứa cổ:
a- Chà xát hai cổ tay vào nhau nhiều lần. Nhớ hai bàn tay phải nắm lại đã trước khi cọ xát vào nhau.
b- Hơ cổ tay trong của bàn tay trái đã nắm lại vài phút, ho và ngứa cổ hết rất nhanh. Xin chú ý, bàn tay trái nắm lại, lật úp xuống: mu bàn tay phản chiếu đầu não, cổ tay phản chiếu cổ gáy. Bàn tay trái nắm lại, lật ngửa ra: lòng bàn tay phả chiếu trái tim, cổ tay phản chiếu cổ họng.
b- Hơ cổ tay trong của bàn tay trái đã nắm lại vài phút, ho và ngứa cổ hết rất nhanh. Xin chú ý, bàn tay trái nắm lại, lật úp xuống: mu bàn tay phản chiếu đầu não, cổ tay phản chiếu cổ gáy. Bàn tay trái nắm lại, lật ngửa ra: lòng bàn tay phả chiếu trái tim, cổ tay phản chiếu cổ họng.
23. Huyết áo cao:
Hãy lấy đầu ngón tay út bấm vào huyệt (huyệt 15) nằm sâu sau loa tai bên trái nhiều lần (độ 1 phút), huyết áp sẽ hạ liền.
24. Huyết áp thấp:
Vẫn dùng đầu ngón tay út bấm sâu vào huyệt (huyệt 19) đầu nhân trung sát với mũi nhiều lần, huyết áp sẽ được nâng lên liền.
25. Huyết trắng:
Dùng hai đầu ngón tay – ngón trỏ và ngón giữa – để nằm ngang chà xát hai bờ môi một lúc.
26. Bế kinh:
Dùng lăn đôi lớn lăn xuôi từ rốn xuống háng cho đến khi bụng nóng
lên. Ngày lăn nhiều lần; độ 3-5 ngày, kinh nguyệt sẽ trở lại bình
thường.
27. Lẹo mắt (lên chắp)
Chỉ cần bấm vào chân mụn lẹo vài lần, mụn lẹo sẽ tiêu rất nhanh. Nhớ phát hiện càng sớm, chữa càng khỏi nhanh.
28. Liệt mặt (Thần kinh số 7 ngoại biên)
Chỉ cần nhìn qua bên mặt bị liệt đã thấy hai triệu chứng rõ rệt: mắt
nhắm không khít và một bên mép bị méo xệch xuống. Cách chữa hết sức đơn
giản đến mức khỏi rồi mà vẫn tưởng như nằm mơ. Nhanh độ 3 ngày, chậm độ 7
ngày là khỏi.
a. Lấy điếu ngải cứu đốt hơ bên mắt lành độ vài phút, mắt có bệnh cứ từ từ nhắm lại. Mỗi ngày hơ vài lần, mắt nhắm lại dần dần.
b. Lấy tay hoặc lăn đôi nhỏ (trong bộ dụng cụ lăn, day huyệt) lăn chéo từ mép bị méo lên phía đỉnh tai. Ngày lăn nhiều lần, mỗi lần lăn độ vài phút. Chẳng bao lâu mép sẽ được kéo lên cân bằng với mép lành.
a. Lấy điếu ngải cứu đốt hơ bên mắt lành độ vài phút, mắt có bệnh cứ từ từ nhắm lại. Mỗi ngày hơ vài lần, mắt nhắm lại dần dần.
b. Lấy tay hoặc lăn đôi nhỏ (trong bộ dụng cụ lăn, day huyệt) lăn chéo từ mép bị méo lên phía đỉnh tai. Ngày lăn nhiều lần, mỗi lần lăn độ vài phút. Chẳng bao lâu mép sẽ được kéo lên cân bằng với mép lành.
29. Mắt không di động được
Chỉ cần gõ vài chục lần vào huyệt nằm ở phía trước và dưới bình tai,
mắt sẽ chuyển động bình thường. Huyệt này nằm ở ngay chỗ lõm sát bình
tai, khi há miệng là sờ thấy ngay. Đây là huyệt số 0 của diện chẩn và
đồng thời cũng là huyệt Thính hội của Đông y.
30. Đắng miệng
Dùng ngón tay trỏ gõ mạnh vào huyệt lõm kề sát bên dưới môi dưới (huyệt 235) độ vài chục cái, miệng hết đắng liền!
31. Hàm mặt đau cứng (Thần kinh số 5)
Lấy điếu ngải cứu hơ mặt ngoài ngón tay cái (cùng bên đau) từ ngón
đến giáp cổ tay. Nhớ khi hơ bàn tay phải xòe ngửa ra. Chỉ cần hơ độ vài
phút, hàm mặt đau cứng sẽ mềm dần và trở lại bình thường.
32. Hắt hơi liên tục
Sẽ hết ngay trong 1 phút nếu biết lấy ngải cứu hơ dọc từ giữa trán (huyệt 103) thẳng xuống đến giữa đôi lông mày (huyệt 26).
33. Ho khan lâu ngày
Lấy ngải cứu hơ hai bên sườn mũi, hai bên mang tai (từ đỉnh tai xuống
đến dái tai), cổ tay trong (của bàn tay trái đã nắm lại) và trực tiếp
cổ họng.
34. Hóc (hạt trái cây, xương)
Bấm hoặc gõ vào huyệt sát đầu nhân trung (huyệt 19) nhiều lần.
35. Các khớp ngón tay khó co duỗi
Lấy ngải cứu hơ đầu xương các đốt ngón tay rồi lăn, vê các đốt đó nhiều lần.
36. Mắt quầng thâm
Lấy ngải cứu hơ trực tiếp vào mắt, quầng thâm sẽ tan dần.
37. Buồn ngủ nhíu mắt lại
Vò hai tai một lúc là tỉnh ngủ liền.
38. Nhảy mũi
Lấy ngón tay trỏ cào từ cửa lỗ mũi xuống đến môi vài chục cái là hết nhảy mũi!
40. Quai bị
Bấm huyệt ngay sát dái tai bên sưng (huyệt 14) rồi hơ dái tai đối xứng độ vài phút. Ngày làm nhiều lần, quai bị tiêu rất nhanh.
41. Nhức răng
Hơ ngải cứu quanh vùng má bên đau độ 1 phút, răng hết nhức liền.
42. Mắt đỏ
Gạch đầu gan bàn tay dưới 3 ngón tay giữa độ vài phút, mắt đỏ hết rất nhanh. Nhớ mắt đỏ bên nào, gạch bàn tay cùng bên.
43. Mắt nhức
44. Mắt nháy (giật)
Dùng đầu ngón tay trỏ cào vào phần dưới (huyệt 179) của đầu lông mày bên mắt bị nháy một lúc, mắt sẽ hết giật.
45. Tê lưỡi, cứng lưỡi
a- Hơ ngải cứu xong rồi vê ngón tay cái bàn tay trái một lúc, lưỡi hết tê.
b- Gõ vào huyệt sát trên dái tai độ 1 phút, hết cứng lưỡi.
b- Gõ vào huyệt sát trên dái tai độ 1 phút, hết cứng lưỡi.
46. Khản tiếng
a- Chà xát vùng gáy cho nóng lên độ vài phút là hết.
b- Dùng ngón tay trỏ gõ mạnh vào vùng trước dái tai nhiều lần trong ngày
b- Dùng ngón tay trỏ gõ mạnh vào vùng trước dái tai nhiều lần trong ngày
Chủ Nhật, 18 tháng 3, 2018
SƠ LƯỢC LỊCH SỬ - VĂN HÓA ĐỊA PHƯƠNG HUYỆN VĨNH LỘC
BÀI 1: KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ, VĂN HÓA -XÃ HỘI
1. Đặc điểm tự nhiên
1.1. Vị trí địa lý
Huyện
Vĩnh Lộc nằm trong vùng đồng bằng sông Mã. Trung tâm huyện lỵ cách
thành phố Thanh Hóa 45 km về phía Tây Bắc theo quốc lộ 45.
Phía Bắc giáp huyện Cẩm Thủy và Thạch Thành
Phía Nam giáp huyện Yên Định
Phía Tây giáp huyện Cẩm Thủy và Yên Định
Phía Đông giáp huyện Hà Trung
Diện tích tự nhiên là 11.408 ha, dân số 83.981 người (tháng 12/2014), có hai dân tộc: Kinh và Mường.
1.2. Đơn vị hành chính
Toàn
huyện có 15 xã (gồm: Vĩnh Quang, Vĩnh Yên, Vĩnh Tiến, Vĩnh Long, Vĩnh
Thành, Vĩnh Phúc, Vĩnh Hưng, Vĩnh Ninh, Vĩnh Khang, Vĩnh Hòa, Vĩnh Hùng,
Vĩnh Tân,Vĩnh Minh, Vĩnh Thịnh, Vĩnh An) và thị trấn Vĩnh Lộc.
1.3. Tài nguyên
- Tổng diện tích đất đang quản lý và sử dụng là 15.772,04 ha. Trong đó:
+
Đất nông nghiệp: 11320,43 ha chiếm 71,78%, đất phi nông nghiệp: 3664,4
ha chiếm 23,23%, đất chưa sử dụng 787,21 ha chiếm 4,99%.
+ Toàn huyện có 4000,025 ha đất đồi núi (chiếm 25,4% diện tích tự nhiên); rừng của huyện chủ yếu là rừng trồng.
Vĩnh Lộc có các khoáng sản gồm: Than bùn, Sét để sản xuất gạch, ngói, Đá, Cát , Sỏi, Đất sét và một số loại khoáng sản khác.
1.4. Về sông ngòi
Huyện Vĩnh Lộc có 2 con sông cung cấp nước cho sản xuất và sinh hoạt gồm: Sông Mã và sông Bưởi.
Sông
Mã phát nguồn từ Điện Biên Phủ, chảy qua các tỉnh Sơn La, Sầm Nưa (Lào)
vào Thanh Hóa ở Quan Hóa, qua Hồi Xuân, Bá Thước, chảy qua địa phận
huyện Cẩm Thuỷ vào đồng bằng huyện Vĩnh Lộc với chiều dài 28,1 km.
Sông
Bưởi (còn có tên là sông Bảo, Bái Giang) phát nguồn từ vùng Mai Châu
(Hoà Bình) chảy theo hướng Tây Bắc- Đông Nam qua những vùng đá vôi rộng
lớn của Hòa Bình, Thanh Hóa rồi nhập vào dòng Sông Mã trên địa phận
huyện Vĩnh Lộc tại xã Vĩnh Khang.
2. Điều kiện kinh tế- xã hội
2.1. Giao thông, thủy lợi
Vĩnh
Lộc có hai tuyến Quốc lộ chạy qua: Quốc lộ 217 chạy từ Quốc lộ 1A (đoạn
Đò Lèn) đi Na Mèo, có 33 km chạy qua Vĩnh Lộc; Quốc lộ 45 từ thành phố
Thanh Hoá đi Thạch Thành - Rịa (Ninh Bình), có 12,5 km chạy qua Vĩnh
Lộc. Đường thủy có Sông Mã, sông Bưởi.
Huyện
Vĩnh Lộc có hệ thống thủy lợi tương đối hoàn chỉnh đủ bơm nước cho đồng
ruộng, bao gồm các trạm bơm chính: Trạm bơm Yên Tôn (Vĩnh Yên), trạm
bơm Vĩnh Hùng, Vĩnh Ninh, Vĩnh Khang và hệ thống kênh mương nội đồng
thuận lợi cho phát triển nông nghiệp.
2.2. Kinh tế
Việc phát triển kinh tế trên địa bàn huyện chủ yếu dựa vào phát triển nông nghiệp. Năm 2015 tỷ trọng cơ cấu kinh tế:
Nông-lâm-thủy sản chiếm 37,5%; Công nghiệp-xây dựng chiếm 26,95%; dịch
vụ chiếm 35,75%. Bình quân thu nhập tính theo đầu người đạt 25,7 triệu
đồng/người/năm.
2.3. Văn hóa - Xã hội
Vĩnh
Lộc là huyện có nền văn hóa phong phú lâu đời với nhiều di sản văn hóa
vật thể (đình, chùa, đền, danh lam- thắng cảnh) và phi vật thể (các
phong tục tập quán, các lễ hội, nghệ thuật trình diễn dân gian: tuồng,
chèo, ca công…), có các tôn giáo: Phật giáo và Công giáo. Đồng bào
lương- giáo sống đan xen, hòa đồng, nhân dân có truyền thống yêu nước.
Là nơi đã sinh ra nhiều danh tướng có vai trò quan trọng trong lịch sử
dân tộc, nhiều người con ưu tú, có nhiều cống hiến cho đất nước trong
lịch sử dân tộc cũng như trong thời hiện đại.
Tính
đến tháng 6/2016, toàn huyện có 65 di tích, danh thắng được xếp hạng
gồm: di sản văn hóa Thế giới Thành Nhà Hồ; 14 di tích cấp Quốc gia, 50
di tích cấp tỉnh, hàng trăm di tích chưa được xếp hạng.
Về giáo dục: Huyện
có 3 trường THPT và 1 Trung tâm giáo dục nghề nghiệp – giáo dục thường
xuyên; 16 trường THCS, 17 trường tiểu học và 16 trường mầm non.
Về
văn hóa: Huyện có 1 sân vận động trung tâm có diện tích 1,2 ha và nhà
thi đấu trung tâm,146 sân vận động ở các xã. Phong trào xây dựng đời
sống văn hóa được cán bộ, đảng viên và nhân dân trong huyện hưởng ứng
tích cực. Hệ thống truyền thanh phủ sóng FM được phổ biến rộng.
Về y tế: Huyện có 1 Bệnh viện đa khoa, 1 Trung tâm y tế huyện và 16 Trạm y tế xã đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh cho nhân dân.
Trong
những năm qua, được sự quan tâm của các cấp ủy Đảng, Chính quyền và sự
đồng thuận của nhân dân trên địa bàn huyện đã và đang là điều kiện
thuận lợi để huyện Vĩnh Lộc sớm xây dựng thành công huyện Nông thôn mới
của tỉnh Thanh Hóa.
BÀI 2: CON NGƯỜI VÀ TRUYỀN THỐNG LỊCH SỬ
I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH CÁC CỘNG ĐỒNG DÂN CƯ VĨNH LỘC, PHONG TỤC, TẬP QUÁN, LỄ HỘI CỦA HUYỆN VĨNH LỘC
1. Quá trình hình thành cộng đồng dân cư Vĩnh Lộc
Theo
kết quả khảo cổ học Di chỉ Đa Bút thì cách đây khoảng 7.000 năm, những
người Nguyên thủy, chủ nhân của của văn hóa Hòa Bình- Bắc Sơn rời hang
động, mái đá ở vùng núi cao xuống vùng thấp dọc triền sông Mã. Điểm dừng
chân trong quá trình chinh phục vùng đồng bằng giàu sản vật này chính
là địa bàn Vĩnh Lộc ngày nay. Họ là chủ nhân của nền văn hóa Đa Bút. Họ
sinh sống chủ yếu dựa vào tự nhiên.
Đến
thập niên đầu công nguyên, khi cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng thất bại,
quân Mã Viện đàn áp dã man những người tham gia khởi nghĩa, do đó đã
xuất hiện những dòng người di cư từ Giao Chỉ vào Cửu Chân. Vì Vĩnh Lộc
nằm trên con đường huyết mạch từ Giao Chỉ vào Cửu Chân nên trong dòng
người di cư có rất nhiều người đã dừng chân tại Vĩnh Lộc sinh sống, lánh
nạn.
Năm
1397 khi xây thành An Tôn, Hồ Quý Ly đã cho xây dựng chợ Kinh Đô, xây
dựng các đường phố, nhiều dòng họ, các thợ thủ công, dân buôn bán đã tụ
tập về đây sinh sống. Sau khi triều Hồ thất thế, nhiều quan lại đã ở lại
Vĩnh Lộc sinh cơ lập nghiệp.
Trên địa bàn huyện Vĩnh Lộc có hai tôn giáo là: Đạo phật (đạo phật có ở
hầu hết các làng trong huyện) và đạo Thiên Chúa Giáo (có ở ba xứ: Kẻ
Bền, Nhân Lộ, Đồng Mực).
- Phong tục tập quán, lễ hội truyền thống
Từ
xa xưa nhân dân Vĩnh Lộc lấy nghề nông là nghề chính. Nghề thủ công của
Vĩnh Lộc có các nghề: nuôi tằm dệt vải, kéo mật, nấu Chè lam Phủ Quảng,
đục đá.
Vĩnh Lộc có đời sống văn hóa tinh thần rất phong phú. Toàn huyện hiện
nay có 131 thôn, khu phố. Trong quá trình hình thành cộng đồng dân cư ở
Vĩnh Lộc cũng xuất hiện nhiều phong tục, tập quán như tục kết chạ (Vĩnh
Quang), hát ghẹo (hát đúm, hát đối đáp các làng xã dọc triền sông Mã,
sông Bưởi).
Trên địa bàn huyện có 05 lễ hội và lễ kỷ niệm truyền thống:
- Lễ hội chùa Thông xã Vĩnh Ninh ngày 9/1 âm lịch hàng năm.
- Lễ hội Kỳ phúc Nghè Cẩm Hoàng xã Vĩnh Quang ngày 6/02 âm lịch hàng năm.
- Lễ kỷ niệm ngày mất Đức Minh Khang Thái Vương Trịnh Kiểm xã Vĩnh Hùng ngày 18/02 âm lịch hàng năm.
- Lễ hội “Rước nước” cổ truyền chùa Báo Ân xã Vĩnh Hùng ngày 28/02 âm lịch hàng năm.
-
Lễ kỷ niệm ngày mất Thượng tướng quân Trần Khát Chân tại di tích đền
Trần Khát Chân xã Vĩnh Thành, di tích đền Trần Khát Chân xã Vĩnh Thịnh,
đền Tam tổng xã Vĩnh Tiến ngày 24,25/4 âm lịch hàng năm.
Ngoài
ra trên địa bàn huyện còn có lễ tế Thành Hoàng làng vào rằm tháng
giêng, lễ tế dòng họ vào ngày rằm tháng giêng, lễ hội mùa xuân tại các
chùa trên địa bàn huyện kéo dài hết quý I hàng năm.
Các lễ hội mang bản sắc văn hóa nghệ thuật và tâm linh, đồng thời cũng thể hiện tinh thần thượng võ trong nhân dân.
II. NHỮNG NGƯỜI CON ƯU TÚ CỦA VĨNH LỘC TRONG TIẾN TRÌNH LỊCH SỬ
1. Những nhà khoa bảng
Vĩnh
Lộc là một vùng đất có truyền thống hiếu học và rất coi trọng nhân tài.
Ngay từ đầu thế kỷ XIV, đã có Phạm Bân- một thầy thuốc nổi tiếng. Ông
là người ham học tập, nghiên cứu y học và học thuật để có các bài thuốc
đắc dụng chữa bệnh cho mọi người. Ông đã được vua Trần Anh Tông mời vào
cung giữ chức Thái y chuyên lo chăm sóc chữa bệnh cho nhà vua.
Thời
Lê Sơ (1428- 1527), Vĩnh Lộc có 8 người trong số 49 người đỗ tiến sĩ lộ
Thanh Hóa, trong đó nổi bật là Bảng nhãn Lê Hưng Hiếu (người làng Hà
Lương, xã Vĩnh Thành, đỗ tiến sỹ năm 1481). Lê Hưng Hiếu là hội viên Hội
Tao đàn - một tổ chức văn học tiêu biểu nhất vào cuối thế kỷ XV do Lê
Thánh Tông sáng lập và trực tiếp làm Chính nguyên súy. Lê Hưng Hiếu đã
từng giữ chức Thượng Thư kiêm Đông các đại học sỹ. Năm 1482 ông làm Cấp
sự trung hộ khoa. Năm 1491, ông được thăng làm Hàn lâm viện Thị Giảng,
Tham trưởng Hàn lâm viện sự. Năm 1495 ông giữ chức Hàn lâm viện thị tộc,
Tham trưởng viện sự. Khi vua Lê Thánh Tông mất ông cùng Thân Nhân Trung
và Đàm Văn Lễ vâng mệnh vua soạn văn bia Chiêu Lăng (bia ca ngợi sự
nghiệp trị nước của vua Lê Thánh Tông).
Sau
thời Lê Sơ (1527- 1788),Vĩnh Lộc còn có 8 người đỗ đạt cao, trong đó có
trạng nguyên Trịnh Tuệ (còn gọi là Trịnh Huệ), người làng Sóc Sơn,
huyện Vĩnh Phúc (nay là xã Vĩnh Hùng). Ông là cháu 4 đời của Trịnh Tùng,
đỗ trạng nguyên năm 1736 đời vua Lê Ý Tông. Ông đã từng giữ chức Thượng
Thư, Tham tụng, Tế tửu Quốc tử giám thời Lê Trung Hưng.
Đến thời Nguyễn (1802- 1945) Vĩnh Lộc có 43 người đỗ Cử nhân.
Từ
sau cách mạng tháng 8 đến nay Vĩnh Lộc có nhiều người con đỗ đạt cao
trên các lĩnh vực hiện đang công tác trên khắp mọi miền của Tổ quốc.
2. Những nhân vật lịch sử tiêu biểu gắn liền với quá trình dựng nước và giữ nước
-
Hồ Quý Ly tự là Lý Nguyên, sinh (1336- 1407) tại làng Đại Lại, Tổng Ngọ
Xá huyện Vĩnh Lộc (Sau này Đại Lại thuộc xã Hà Đông, huyện Hà Trung).
Là vị vua đầu tiên của nhà Hồ. Hồ Quý Ly là hậu duệ đời thứ 4 của Hồ
Liêm. Ông là người cho xây dựng Thành Nhà Hồ và lập nên triều Hồ. Ông có
rất nhiều cải cách quan trọng (về kinh tế, giáo dục, quân sự, chính
trị…) và là người đầu tiên cải cách tiền đồng sang tiền giấy.
-
Hồ Nguyên Trừng (Thế kỷ XIV- XV) là con trai trưởng của Hồ Quý Ly. Ông
là người có nhìn nhận đúng về vai trò sức mạnh của lòng dân trong đạo
trị nước. Là người có trí thông minh phi thường, Hồ Nguyên Trừng đã phát
minh ra phương pháp đúc súng mới là súng “thần cơ”.
-
Hồ Hán Thương (? – 1407) là con trai thứ của Hồ Quý Ly và Công chúa Huy
Ninh (con gái vua Trần Nghệ Tông). Năm 1401, Hồ Hán Thương được Hồ Quý
Ly chính thức thức truyền ngôi báu, trở thành vị vua thứ hai của nhà Hồ.
Cùng với Thượng Hoàng Hồ Quý Ly, ông tiếp tục thực hiện cải cách trên
nhiều phương diện: lập lại thuế ruộng đất, quy định cách thức thi Hương,
thi Hội...Trong thời gian làm vua Hồ Hán Thương đã hai lần mang quân đi
đánh Chiêm Thành mở rộng lãnh thổ Đại Ngu về phía Nam đến Bắc Quảng
Ngãi.
-
Trần Khát Chân (sinh năm 1370) là dòng dõi của Lê Hoàn-Trần Bình Trọng,
ba đời làm Thượng tướng quân. Trần Khát Chân quê làng Hà Lãng (nay là
làng Hà Lương, xã Vĩnh Thành). Là người bắn chết vua Chiêm Thành là Chế
Bồng Nga trên sông Triều Giang Khẩu. Khi ông mất nhân dân suy tôn làm
Thánh Lưỡng. Ông mất năm 1399, để tưởng nhớ công lao của ông trên toàn
tỉnh Thanh Hóa có 72 nơi thờ. Tại huyện Vĩnh Lộc có 03 nơi thờ: tại xã
Vĩnh Thành, Vĩnh Tiến, Vĩnh Thịnh. Nơi thờ chính đặt tại Đền Đún thuộc
thôn 8, xã Vĩnh Thành.
-
Trịnh Khả người làng Kim Bôi (nay là làng Giang Đông, xã Vĩnh Hòa), là
một tướng tài, được Lê Lợi giao chỉ huy nghĩa quân đánh thắng nhiều trận
quan trọng được phong chức Thượng tướng quân. Năm 1443, ông tiếp tục
chỉ huy đánh quân Chiêm Thành xâm lược ở phía Nam nên được phong chức
Thái úy Bình chương quân quốc sự. Ông được liệt vào bậc khai quốc công
thần nhà Lê, nhưng sau đó bị vu oan kết bè đảng nên bị giết hại. Về sau
khi Lê Thánh Tông lên ngôi ông mới được minh oan.
-
Trịnh Kiểm người làng Sóc Sơn (xã Vĩnh Hùng ngày nay). Ông là một tướng
tài giúp vua Lê dẹp Mạc thành công nên được phong chức Đại tướng quân,
Lưỡng Quốc công và Thượng tướng Thái Quốc công. Ông phụ giúp 3 triều vua
là: Trang Tông, Trung Tông và Anh Tông. Trịnh Kiểm đã có công tạo ra
hình thái Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam Vua Lê- Chúa Trịnh và ổn định
chính trị, mở rộng bờ cõi, tổ chức thi cử kén chọn nhân tài, phát triển
kinh tế nông nghiệp, mở rộng giao lưu buôn bán. Tạo nên 12 đời Chúa giúp
vua điều hành đất nước tạo nên thời Lê Trung Hưng (1533- 1788 ). Các
Chúa Trịnh sau Trịnh Kiểm là:
+ Trịnh Tùng (1550- 1623)
+ Trịnh Tráng (1577- 1657)
+ Trịnh Tạc (1606- 1682)
+ Trịnh Căn (1633 – 1709)
+ Trịnh Cương (1686- 1729)
+ Trịnh Giang (1711-1762).
+ Trịnh Doanh (1720- 1767)
+ Trịnh Sâm (1739- 1782)
+ Trịnh Cán (1777- 1782)
+ Trịnh Khải (1763- 1786)
+ Trịnh Bồng (Thế kỷ XVIII)
- Phạm
Đốc người làng Thổ Sơn (nay là Thổ Phụ, xã Vĩnh Tiến) sinh năm 1514. Từ
nhỏ ông đã rất thông minh có tài đối đáp được Trịnh Kiểm yêu mến và tin
dùng. Ông trở thành danh tướng thời Lê Trung Hưng cùng Trịnh Kiểm phù
Lê - diệt Mạc. Năm thứ 8 (1556) thời vua Lê Trung Tông đã được phong
chức Thượng thư Bộ binh chưởng bộ sự. Cũng trong năm đó khi lập Anh Tông
Hoàng đế lên ngôi, ông đã có nhiều công lập nền chính sự mới, được gia
tăng Thái Phó, tước Đức quận công. Ông mất năm 1559 thọ 45 tuổi, được
truy phong là Thái Úy Tước đức Quốc Công.
-
Hoàng Đình Ái (1527) là người Biện Thượng (xã Vĩnh Hùng ngày nay), ông
là một danh tướng thời Lê Trung Hưng, làm quan trải 4 đời vua: Trung
Tông, Anh Tông, Thế Tông và Kinh Tông. Ông là người có học thức, thông
tường binh pháp, cầm quân nghiêm chỉnh. Được phong đến chức Thái Tể (Tể
tướng). Ông mất ngày 15 tháng 12 niên hiệu Hoàng Định thứ 8 (1607) hưởng
thọ 80 tuổi.
-
Lê Văn Điếm (1850) người Bản Thủy (nay là xã Vĩnh Thịnh). Lê Văn Điếm
có sức khỏe phi thường và võ nghệ cao cường. Triều đình nhà Nguyễn tổ
chức kỳ thi võ ông đã trúng cử và được trọng dụng. Thời kỳ giặc Pháp
đánh chiếm Bắc Kỳ lần thứ hai, ông được đề bạt chức Đề đốc hộ thành Nam
Định. Ông mất năm 1883.
- Tống Duy Tân quê ở làng Đông Biện (nay là làng Bồng Trung, xã Vĩnh
Tân). Ông đỗ Tiến sĩ năm 1875. Hưởng ứng phong trào Cần Vương chống
Pháp, ông từ quan về quê vận động nhân dân xây dựng lực lượng chống
Pháp. Cuộc khởi nghĩa kéo dài 6 năm (1886- 1892), sau thất bại ông bị
thực dân Pháp bắt và sát hại.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ Vĩnh Lộc có nhiều người con đã anh dũng hy sinh vì độc lập tự do của dân tộc.
Những người con được phong tặng anh hùng là:
+ Anh hùng, liệt sỹ Mai Xuân Điểm quê xã Vĩnh Tân là anh hùng lao động trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ.
+ Anh hùng Lê Hữu Hãnh quê xã Vĩnh Tân là anh hùng lực lượng vũ trang trong kháng chiến chống Mỹ.
+ Anh hùng Vũ Ngọc Đỉnh quê xã Vĩnh Yên là anh hùng lực lượng vũ trang trong kháng chiến chống Mỹ
Những người con được phong hàm cấp tướng là:
+ Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh quê xã Vĩnh Tiến.
+ Thiếu tướng Trịnh Chương quê xã Vĩnh Hưng.
+ Thiếu tướng Nguyễn Đăng Nghị quê xã Vĩnh Thịnh.
+ Thiếu tướng Hoàng Thị Thủy quê xã Vĩnh Thịnh.
Vĩnh
Lộc là vùng đất cổ giàu truyền thống văn hóa và lịch sử. Con người Vĩnh
Lộc cần cù, chịu khó, giàu tình yêu quê hương đất nước. Truyền thống đó
đã sản sinh ra những người con ưu tú, có nhiều đóng góp cho lịch sử
dựng nước và giữ nước của dân tộc.
BÀI 3: VĨNH LỘC- ĐỊA DANH TỪ THỜI TIỀN SỬ ĐẾN THẾ KỶ XX
Vĩnh
Lộc nằm trong vùng bằng sông Mã, tỉnh Thanh Hóa. Thời Bắc thuộc, Vĩnh
Lộc thuộc huyện Tư Phố, quận Cửu Chân, lộ Thanh Hóa. Thời Lý - Trần
(1010- 1400) gọi là huyện Vĩnh Ninh, thời Lê, niên hiệu Hồng Đức (1470-
1497) đổi thành huyện Vĩnh Phúc, thời Tây Sơn (1788- 1802) được đổi tên
là huyện Vĩnh Lộc và được giữ nguyên cho đến ngày nay.
Theo
sách “Vĩnh Lộc huyện chí” của tác giả Lưu Công Đạo: Vĩnh Lộc có 7 tổng,
44 xã, dân số toàn huyện đầu thế kỷ XIX (1815) có 2.392 người.
I. Về địa danh
1.
Tổng Bỉnh Bút (còn gọi là tổng Bỉnh Lỗi) gồm các xã: Bỉnh Bút, Phú Lâm,
Giang Biểu, Cổ Điệp, Vân Vận, Nhật Chiêu, trang Đông Môn và trang
Giang Biểu.
2.
Tổng Cao Mật gồm các xã: Cao Mật, Hà Lương, Thổ Sơn, Phú Sơn, Phương
Nhai, Hoa Nhai, Tây Giai, Mỹ Tuyền (nay là làng Mỹ Xuyên), An Tôn
Thượng, An Tôn Hạ, Nhân Lộ, Phụng Công.
3. Tổng Nam Cai gồm các xã: Nam Cai, Hữu Chấp, Thiên Vực, Bất Một, Kỳ Ngãi, Thọ Xương.
4. Tổng Sóc Sơn gồm các xã: Sóc Sơn, An Việt, Ngân Bôi, Kim Bôi, Cù Đông và thôn Phúc Tường (nay là Phúc Tự).
5.
Tổng Biện Thượng gồm các xã Biện Thượng, Đông Biện, Bản Thủy, thôn
Biện Hạ, thôn Đa Bút, thôn Thọ Lộc, thôn Kim Sơn. (Hai thôn Thọ Lộc, Kim
Sơn sau này cắt về huyện Hà Trung). Vào cuối thế kỷ thứ XIX, tổng Biện
Thượng đổi thành tổng Bồng Thượng (là làng của những người có nghề đánh
cá trên sông)
6. Tổng Hoàng Xá gồm các xã: Hoàng Xá, Tiên Kiều (nay là Tiên Hòa), Vĩnh Lộc, Kim Tử, Quan Bốn (nay là xã Tứ Mỹ, Hà Trung).
7.
Tổng Ngọ Xá gồm các xã: Ngọ Xá, Kim Âu, Thái Đường và thôn Nhuệ, thôn
Đông. Hai tổng Ngọ Xá, Hoàng Xá sau này đều chuyển về huyện Hà Trung.
II. Về cơ cấu hành chính
Được
thành lập theo 6 cấp gồm Trung ương, tỉnh, phủ, huyện, tổng và xã.
Người đứng đầu bộ máy đó lần lượt là: Vua, Tỉnh trưởng (Quan đầu tỉnh),
Tri phủ, Tri huyện, Cai tổng và Lý trưởng.
Từ
thế kỷ XV, huyện Vĩnh Ninh là một trong 8 huyện thuộc phủ Thiệu Thiên,
đến năm 1815 đổi thành phủ Thiệu Hóa. Từ năm Minh Mệnh thứ 16 (năm
1835), Vĩnh Lộc được chuyển về phủ Quảng Hóa. Phủ Quảng Hóa thời bấy giờ
có 4 huyện gồm Vĩnh Lộc, Cẩm Thủy, Thạch Thành và Quảng Địa (sau này
Quảng Địa sát nhập với Thạch Thành lấy tên là huyện Thạch Thành). Đến
thời Tự Đức (1847- 1883) Phủ Quảng Hóa có thêm huyện Yên Định.
Địa
bàn Vĩnh Lộc có thời kỳ là Phủ lỵ của Phủ Quảng Hóa, đó là thôn Nhân Lộ
thuộc xã Vĩnh Thành và thôn Bông xã Kim Sơn (nay là xã Vĩnh An). Sau
cách mạng tháng 8 năm 1945, chính quyền Cách mạng mới bỏ đơn vị hành
chính cũ (là phủ và tổng), lập đơn vị hành chính mới là tỉnh, huyện, xã.
Khi thành lập huyện Vĩnh Lộc chỉ có 15 xã cụ thể như sau :
1. Tổng Bỉnh Bút được lập thành 3 xã: Đồng Xuân, Đỉnh Tân, Đông Phú.
2. Tổng Cao Mật được lập thành 4 xã: Đại Đồng, Lưu Phương, Tiến Mỹ và An Hòa.
3. Tổng Nam Cai được lập thành 2 xã: Quốc Tuấn và Hạnh Phúc.
4. Tổng Sóc Sơn được lập thành 2 xã: Cộng Hòa và Vĩnh Hòa.
5. Tổng Biện Thượng (sau đổi thành Bồng Thượng) được lập thành 4 xã: Hùng Lĩnh, Duy Tân, Thủy Lộc và Ngọc Sơn.
Từ
giữa năm 1946 đến năm 1954, các xã trong huyện có sự sáp nhập chia tách
và đặt tên bắt đầu từ chữ “Vĩnh” với 14 xã có tên gọi như hiện nay. Năm
1956 huyện Vĩnh Lộc chuyển làng Thọ Lộc về huyện Hà Trung và tiếp nhận
về huyện 5 làng mới của huyện Thạch Thành là: Cẩm Bào, Xuân Áng, Yên
Phong, Đồng Mực và làng Mỹ Chí. Tháng 10- 1964, theo chủ trương của
tỉnh, xã Cẩm Minh huyện Cẩm Thủy chuyển về Vĩnh Lộc và đổi tên thành xã
Vĩnh Quang.
Ngày
5-7-1977, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 177-CP về việc hợp nhất
và điều chỉnh địa giới một số huyện của tỉnh Thanh Hóa. Ngày 26-8-1977,
hai huyện Vĩnh Lộc và Thạch Thành đã chính thức hợp nhất thành huyện
Vĩnh Thạch.
Ngày
30/8/1982 Hội đồng Bộ trưởng có Quyết định số 149-CP, tách Vĩnh Thạch
thành 2 huyện Vĩnh Lộc và Thạch Thành. Ngày 15/9/1982 Ban thường vụ Tỉnh
ủy Thanh Hóa ra quyết định số 913-QĐ/TU thành lập Đảng bộ huyệnVĩnh
Lộc.
Ngày
28 tháng 01 năm 1992, Ban tổ chức cán bộ Chính phủ ra quyết định cho
Vĩnh Lộc thành lập thị trấn Vĩnh Lộc trên cơ sở chuyển một phần diện
tích, đất đai, dân số của ba xã Vĩnh Thành, Vĩnh Phúc và Vĩnh Tiến. Như
vậy cho đến thời điểm này huyện Vĩnh Lộc có 16 đơn vị hành chính gồm 15
xã và một thị trấn.
Vĩnh
Lộc là vùng đất cổ, từ thời tiền sử đã có con người tụ cư đến đây sinh
sống. Trong thời đại đồ đá mới với các di tích khảo cổ học như di chỉ Đa
Bút xã Vĩnh Tân, di chỉ Bản Thủy xã Vĩnh Thịnh, di chỉ làng Còng xã
Vĩnh Hưng, di chỉ làng Núi Sen xã Vĩnh An…đã tạo cho vùng đất này có bề
dày truyền thống lịch sử- văn hóa, giàu truyền thống hiếu học và tinh
thần thượng võ…
BÀI 4: PHONG TRÀO CÁCH MẠNG HUYỆN VĨNH LỘC TỪ ĐẦU THẾ KỶ XX ĐẾN CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945
- Phong trào cách mạng huyện Vĩnh Lộc từ đầu thế kỷ XX đến 1930
Ngay
từ những năm đầu thế kỷ XIX, huyện Vĩnh Lộc đã xuất hiện nhiều tấm
gương có tinh thần yêu nước dũng cảm như: Lê Văn Điếm, Tống Duy Tân...
Đến đầu thế kỷ XX, Ngô Hải Hoằng quê làng Nhân Lộ, xã Vĩnh Thành đã gia
nhập Việt Nam Quốc dân Đảng.
Từ
cuối năm 1926, ở Thanh Hoá có 2 tổ chức cách mạng hoạt động: “Hội Việt
Nam cách mạng thanh niên” và “Đảng Tân Việt”. Nhiều thanh niên ở Vĩnh
Lộc có học thức và nhiệt huyết cách mạng đã hăng hái gia nhập hai tổ
chức cách mạng trên, tiêu biểu là Trịnh Huy Quang, Lê Văn Thiệp, Nguyễn
Đan Quế…. Đến tháng 6/1928, tỉnh bộ Hội Việt Nam cách mạng thanh niên
Thanh Hoá quyết định thành lập Tiểu tổ Hội Việt Nam cách mạng thanh niên
ở Vĩnh Lộc và cử đồng chí Trịnh Huy Quang làm Bí thư tiểu tổ.
Cuối
năm 1928, chi bộ Đảng Tân Việt được thành lập tại Sóc Sơn do Nguyễn Đan
Quế (là Đốc giáo trường Pháp - Việt Quảng Hoá) làm Bí thư, chọn Sóc Sơn
làm địa điểm liên lạc, là nơi tổ chức các lớp huấn luyện cán bộ cơ sở,
đồng thời cũng là nơi đặt cơ quan ấn loát của Tỉnh bộ Tân Việt.
Ngày
03/02/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã có tác động sâu sắc, toàn
diện và trực tiếp đến phong trào cách mạng ở Thanh Hoá. Ngày 29/7/1930,
Hội nghị thành lập Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa được tổ chức tại làng Yên
Trường (Thọ Lập, Thọ Xuân).
- Phong trào cách mạng huyện Vĩnh Lộc từ 1930 đến 1945
Ngày
16-4-1934, Tỉnh ủy Thanh Hóa quyết định thành lập Chi bộ Đảng Cộng sản
Vĩnh Lộc và Thạch Thành tại chùa Xuân Áng xã Vĩnh Long. Đồng chí Lê Văn
Tân được cử làm Bí thư chi bộ.
Sau
khi được thành lập, chi bộ Đảng đã nhanh chóng ổn định tổ chức, phát
triển đảng viên mới, kiện toàn và mở rộng các cơ sở cách mạng, từng bước
đưa phong trào trong huyện hòa nhập với phong trào chung của tỉnh và cả
nước. Hưởng ứng phong trào “Đông Dương đại hội” do Tỉnh ủy Thanh Hóa
phát động, nhân dân các làng nổi lên đấu tranh chống thuế thân như nhân
dân làng Mỹ Xuyên, nhân dân làng Cù Đông đấu tranh chống bắt phu làm
đường.
Cuối
năm 1934, đầu năm 1935, thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy về việc thành
lập các hội ái hữu, các làng Cẩm Bào, Xuân Áng, Đông Môn, Yên Tôn Hạ,
Thọ Đồn, Mỹ Xuyên, Hữu Chấp, Quang Biểu mở đầu phong trào ái hữu trong
toàn huyện. Phong trào ở các làng này đã giành được những thắng lợi quan
trọng. Đã bãi bỏ được nhiều tục lệ lạc hậu, quần chúng ngày càng được
giác ngộ và đấu tranh trực diện với bọn quan lại cường hào.
Năm
1937, hưởng ứng phong trào “Đông Dương đại hội” do Tỉnh ủy phát động,
nông dân khắp nơi đấu tranh đòi chia lại công điền, đòi giảm tô, giảm
thuế, chống sưu cao thuế nặng, chống phù thu lạm bổ, đòi cải cách hương
thôn, chống hủ tục phong kiến lạc hậu: Hội Tương tế ái hữu làng Cẩm Bào
buộc hương lý phải bãi bỏ các tục lệ: ma chay quá tốn kém, lệ xôi cân,
gà luộc, cưới cheo, khao vọng; tháng 6- 1937, nhân dân làng Mỹ Xuyên đấu
tranh chống thuế thân; Cuộc đấu tranh đưa người vào nghị trường cũng
diễn ra sôi nổi. Tháng 7-1938, Ủy ban vận động cách mạng huyện Vĩnh Lộc
được thành lập gồm 10 người do đồng chí Lê Văn Thiệp làm Trưởng ban. Sau
khi thành lập, Ủy ban cách mạng đã vận động nhân dân đứng lên đấu
tranh, tiêu biểu là các phong trào: đấu tranh chống tăng 25% thuế thân
và thuế ruộng đất (nhân dân làng Bái Thôn xã Vĩnh Hưng đấu tranh đòi
khất thuế).
Tháng
3-1938, nhân dân làng Cù Đông đấu tranh chống bắt phu làm đường. Các
cuộc đấu tranh chống phù thu lạm bổ diễn ra mạnh mẽ trên địa bàn toàn
huyện. Tiêu biểu là các xã Vĩnh Long, Vĩnh Ninh, Vĩnh Khang, Vĩnh Yên...
Nhân dân làng Đông Môn đấu tranh đòi Lý trưởng không được phù thu khoản
tiền 50 đồng mà y đã bổ vào đầu dân.
Tháng
7-1938, Ủy ban vận động cách mạng huyện Vĩnh Lộc được thành lập (Ủy ban
được thành lập tại nhà ông Nguyễn Thành Khải, thường gọi là ông Lý Kim
(ở làng Phương Giai, xã Vĩnh Tiến). Uỷ ban gồm 10 người: Đồng chí Lê Văn
Thiệp làm Trưởng ban, đồng chí Đặng Văn Hỷ phụ trách công tác thanh
niên. Ủy ban vận động cách mạng huyện ra đời tạo nên sức mạnh mới thúc
đẩy sự phát triển của các tổ chức quần chúng cách mạng và phong trào đấu
tranh chung của nhân dân trong huyện.
Năm
1939, thực dân Pháp bắt đầu khủng bố phong trào dân chủ. Dưới sự lãnh
đạo của Ủy ban vận động cách mạng huyện các phong trào đấu tranh diễn ra
sôi nổi: phong trào đấu tranh chống tăng 25% thuế thân và thuế ruộng
đất ở Vĩnh Lộc diễn ra quyết liệt. Tháng 4-1939, dân làng Nham Thôn đấu
tranh chống lại Lý trưởng chiếm của dân làng hơn 10 mẫu ruộng công và ao
hồ để bóc lột địa tô và sức lao động của dân nghèo. Tại Thọ Đồn (Vĩnh
Yên), tháng 4-1939, một cuộc mít tinh lớn chống lại việc cưỡng bức thanh
niên đi lính cho Pháp. Tháng 5-1939, nhân dân làng Bái Thôn (Vĩnh Hưng)
đấu tranh đòi khất thuế.
Từ
cuối năm 1940, phong trào cách mạng ở Vĩnh Lộc dần được củng cố và có
bước phát triển mới, tạo tiền đề cho cách mạng sau này. Tháng 4-1941,
hàng trăm quần chúng thuộc các làng Cẩm Bào, Xuân Áng, Đông Môn, Cổ Tế
và các làng xung quanh đã tập trung tại Đồi Mỏ tham gia cuộc mít tinh
chống thuế, khất thuế.
Tháng
7 năm 1941, Tỉnh ủy chỉ đạo thành lập Ban chấp hành Huyện ủy Phản đế
cứu quốc liên huyện Vĩnh Lộc - Thạch Thành nhằm tăng cường phát triển
lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang tiến tới thành lập chiến khu
Ngọc Trạo. Vĩnh Lộc có nhiều người tham gia và đã chiến đấu dũng cảm như
liệt sỹ Phạm Văn Hinh (Quê Vĩnh Long), Phạm Ngọc Oanh (quê Vĩnh Hòa).
Cuối
năm 1944, đầu năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy và Tỉnh bộ Việt
Minh, lực lượng cách mạng ở Vĩnh Lộc đã tổ chức đấu tranh vạch trần bộ
mặt bán nước hại dân của bọn Đại Việt, đồng thời tăng cường giác ngộ
quần chúng, đưa thanh niên ra khỏi con đường lầm lạc.
Ở
tổng Cổ Tế, đêm 25-7-1945, bọn thủ lĩnh Đại Việt tổ chức diễn kịch để
phô trương thanh thế. Mặt trận Việt Minh tổng Cổ Tế kết hợp với Mặt trận
Việt Minh Vĩnh Lộc huy động lực lượng toàn tổng, tổ chức cuộc vũ trang
tuyên truyền.
Thực
hiện chỉ thị “Kíp sửa soạn khởi nghĩa” và “Sắm vũ khí đuổi thù chung”
của Trung ương và Tỉnh ủy, Huyện ủy Việt Minh Vĩnh Lộc mở cuộc vận động
quyên tiền, sắt, thép để rèn, sắm vũ khí. Công tác chuẩn bị lực lượng
được xúc tiến khẩn trương về mọi mặt, nhất là xây dựng lực lượng vũ
trang. Tổ chức Đảng và Huyện ủy Việt Minh Vĩnh Lộc đặc biệt quan tâm tổ
chức và xây dựng lực lượng tự vệ. Đến giữa năm 1945, lực lượng tự vệ
phát triển đến từng thôn, làng. Các đội tự vệ thường xuyên luyện tập
quân sự.
Đầu
tháng 8-1945, “Ủy ban khởi nghĩa huyện” được thành lập do đồng chí Đặng
Văn Hỷ làm Chủ tịch. Đến 9 giờ sáng ngày 19-8-1945, cuộc khởi nghĩa
giành chính quyền ở Vĩnh Lộc hoàn toàn thắng lợi.
Những thành quả đạt được thời kỳ này là cơ sở quan trọng để Đảng bộ và
nhân dân Vĩnh Lộc vững tin bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp.
BÀI 5: PHONG TRÀO CÁCH MẠNG HUYỆN VĨNH LỘC TỪ SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 ĐẾN 1975
1. Huyện Vĩnh Lộc trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 – 1954)
Sau
cách mạng tháng Tám cùng với cả nước, cả tỉnh nhân dân huyện Vĩnh Lộc
bước vào xây dựng quê hương, đất nước trong điều kiện hết sức khó khăn:
Tình
hình chính trị: hành động phá hoại của bọn đế quốc phản động, quân
Trung Hoa dân quốc đóng quân trên địa bàn huyện, bọn phản động trong
nước…
Về
kinh tế: Nền tài chính của huyện sau cách mạng hầu như trống rỗng, gần
90% dân số toàn huyện thiếu đói, 50% đất đai bị bỏ hoang.
Về văn hóa - xã hội: trên 90% nhân dân bị mù chữ, nhiều hủ tục lạc hậu và tệ nạn của chế độ cũ còn rất nặng nề.
Thực hiện Chỉ thị: “Kháng chiến, kiến quốc” của Ban chấp hành Trung
ương Đảng, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa, Huyện ủy Vĩnh
Lộc đã tích cực động viên nhân dân hăng hái tham gia khôi phục sản xuất
nông nghiệp, chống nạn đói, chống nạn mù chữ, xây dựng đời sống mới.
Tháng 5-1946, Tỉnh ủy có quyết định công nhận Chi bộ Huyện ủy Vĩnh Lộc và phân công đồng chí Đặng Văn Hỷ làm Bí thư.
Ngày 6-1-1946, cùng với cử tri cả nước, trên 90% cử tri của huyện Vĩnh Lộc tham gia cuộc bầu cử Quốc hội đầu tiên.
Về quân sự: Cuối
tháng 4 năm 1946, theo Nghị định số 121 ngày 11/4/1946 của Bộ Nội vụ,
Ban Trinh sát Việt Minh được chuyển thành Ban Công an huyện đặt dưới sự
chỉ đạo của Uỷ ban hành chính huyện. Ban Công an huyện Vĩnh Lộc do đồng
chí Tạ Trọng Quán (quê Hà Trung) là Huyện đội trưởng dân quân kiêm
Trưởng Ban Công an huyện.
Ngày 2 tháng 3 năm 1947, Huyện đội dân quân Vĩnh Lộc được thành lập.
Ngày
4-5-1947, trung đội du kích tập trung đầu tiên của huyện Vĩnh Lộc được
thành lập. Ngày 20-11-1949, do yêu cầu phát triển của lực lượng vũ trang
ba thứ quân, đại đội huyện Vĩnh Lộc chính thức được thành lập có phiên
hiệu là Đại đội 214.
Tháng 12 năm 1947, dưới sự chỉ đạo của Tỉnh uỷ, Chi bộ Huyện uỷ Vĩnh
Lộc đã triệu tập đảng viên trong huyện tổ chức Đại hội và tuyên bố thành
lập Đảng bộ huyện Vĩnh Lộc tại trại sản xuất của dân quân thuộc làng Cổ
Điệp (Vĩnh Phúc). Đồng chí Ngô Văn Khoan được bầu làm Bí thư.
Tháng
12-1948, Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ II được tiến hành tại thôn Phù
Lưu xã Vĩnh Yên. Đại hội bầu đồng chí Trịnh Đình Đản làm Bí thư.
Tháng 12-1949, Đảng bộ huyện tiến hành Đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ III. Đại hội đã bầu đồng chí Triệu Văn Cự làm Bí thư.
Cuối
năm 1949, Đảng bộ Thanh Hóa tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ ba ở thôn
Yên Lạc (xã Vĩnh Ninh). Được tỉnh giao nhiệm vụ bảo vệ an toàn cho Đại
hội, Huyện ủy Vĩnh Lộc đã chỉ đạo địa phương đào hơn 400m hào giao
thông, làm 100 hầm trú ẩn và giáo dục nhân dân nâng cao cảnh giác, bí
mật bảo vệ an toàn cho các đại biểu trong suốt thời gian diễn ra Đại
hội.
Năm
1949, Chính phủ phát hành công phiếu kháng chiến, nhân dân trong huyện
đã hưởng ứng mua được 5.200 phiếu (bằng 3.106.400 đồng) và tổ chức đợt
“Bán lúa Cụ Hồ khao quân” được 219 tấn thóc. Các tổ chức quần chúng như:
Hội Mẹ chiến sĩ, hội Phụ nữ, hội Phụ lão được thành lập ở hầu khắp các
thôn xã. Nhiều địa phương tiếp tục cuộc vận động hưởng ứng tuần lễ “Bán
lúa khao quân”, “Hũ gạo tiết kiệm”... kết quả đã thu mua được 32 tấn
lương thực.
Tháng 12-1951, Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ IV được tiến hành. Đại hội
nhấn mạnh: phải tập trung đẩy mạnh hơn nữa công tác chính trị tư tưởng
trong nhân dân, tăng nhanh năng lực sản xuất, thực hiện tốt chính sách
thuế nông nghiệp, chính sách dân công phục vụ kháng chiến. Đại hội đã
bầu đồng chí Ngô Văn Khoan làm Bí thư. Với sự chỉ đạo của Huyện ủy cuộc
vận động thực hiện thuế nông nghiệp thu được kết quả lớn: vụ chiêm năm
1952 và vụ mùa 1953, toàn huyện tham gia nộp thuế nông nghiệp ở mức cao
và tích cực tham gia cuộc vận động “Lúa Cụ Hồ khao quân”, huyện Vĩnh Lộc
thu được 219 tấn “thóc công lương” và 92.132 đồng.
Tháng 9 năm 1952, Công an nhân dân huyện Vĩnh Lộc chính thức ra đời.
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Vĩnh Lộc đã dùng 300 xe đạp thồ kết hợp
với hàng trăm dân công gồng gánh vận chuyển 1.176 tấn lương thực, 15
tấn muối, 60 tấn đậu xanh phục vụ chiến dịch. Các đoàn xe đạp thồ của
hai xã Vĩnh Thành, Vĩnh Tân nổi tiếng về tinh thần phục vụ quên mình và
năng suất phục vụ chiến dịch. Những kiện tướng dân công tiêu biểu như
ông Chí xã Vĩnh Thành dùng xe đạp thồ tới 320 kg, ông Tới ở Vĩnh Hòa đã
gánh bộ trên vai tới 100 kg băng rừng, vượt suối, trèo qua hàng trăm con
dốc lên mặt trận…Nhiều dân công huyện Vĩnh Lộc được cấp trên tặng
thưởng huân, huy chương các loại. Tiêu biểu là ông Lê Văn Tính ở làng
Kim Sơn (Vĩnh An). Tổng kết dân công phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ,
ông được bầu là 1 trong 5 chiến sĩ dân công xuất sắc nhất của tỉnh Thanh
Hoá. Bên cạnh đó, các hội Mẹ chiến sĩ, hội Phụ nữ và Mặt trận cùng các
đoàn thể quần chúng khác hăng hái tình nguyện tham gia chăm sóc thương
binh, bệnh binh, may vá quần áo cho bộ đội.
Ngày 7-5-1954, chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng, Đảng bộ và nhân dân
huyện Vĩnh Lộc vô cùng tự hào vì đã góp phần vào thắng lợi chung của
toàn dân tộc.
2.
Huyện Vĩnh Lộc vừa sản xuất, vừa chiến đấu, góp phần cùng cả nước kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước giành thắng lợi (1954 – 1975)
Chiến
thắng lịch sử Điện Biên Phủ (1954) thắng lợi, miền Bắc giải phóng tiến
lên xây dựng chủ nghĩa xã hội và trở thành hậu phương của cả nước, miền
Nam tiếp tục công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Ngay
từ ngày đầu hòa bình lập lại, Đảng bộ và các cấp chính quyền trong
huyện đã phát động các phong trào thi đua: sản xuất tiết kiệm, khắc phục
nạn đói và dịch bệnh, phong trào khai hoang, phục hóa, phong trào đi
dân công tu sửa đường sá và các công trình thủy lợi của địa phương,
phong trào đổi công.
Sau 3 năm (1955-1957) bước vào thời kỳ cách mạng mới, với tinh thần
phấn đấu cao, Đảng bộ và nhân dân Vĩnh Lộc đã đạt được những thành tựu
đáng kể trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Cụ
thể như sau:
Về kinh tế: Năng suất lúa và hoa mầu đều đạt và vượt chỉ tiêu trên
giao. Nạn đói được thu hẹp và đẩy lùi, đời sống nhân dân bước đầu được
ổn định. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện cải cách ruộng đất, ở Vĩnh
Lộc đã mắc phải một số sai lầm nhưng được tiến hành sửa chữa kịp thời.
Đến tháng 7-1957, công tác sửa sai ở Vĩnh Lộc cơ bản hoàn thành.
Vì Miền Nam ruột thịt huyện Vĩnh Lộc đã đón và nhận nuôi dưỡng 225 cụ già Miền Nam ra tập kết tại hai khu điều dưỡng thuộc xã Vĩnh Hòa và Vĩnh Phúc trong thời gian 7 năm.
Về
giáo dục: Công tác giáo dục được quan tâm. Giai đoạn 1955-1959, toàn
huyện có 14 trường cấp I (mỗi xã 1 trường); có 3 trường cấp II. Với tinh
thần “Mỗi người biết chữ là một giáo viên Bình dân học vụ”, xã Vĩnh
Khang đã trở thành xã dẫn đầu cả nước về phong trào bình dân học vụ,
thanh toán nạn mù chữ.
Ngày 21 tháng 12 năm 1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen ngợi đồng
bào xã Vĩnh Khang. Năm 1957, xã Vĩnh Khang được Chính phủ tặng thưởng
Huân chương Lao động hạng II. Đến tháng 4 năm 1958, huyện Vĩnh Lộc đã
hoàn thành xoá nạn mù chữ cho toàn dân từ 16 tuổi đến 45 tuổi, là đơn vị
dẫn đầu toàn Miền Bắc. Ngày 17 tháng 6 năm 1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh
ký tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Nhất cho đồng bào và cán bộ
huyện Vĩnh Lộc về thành tích: Đã xoá xong nạn mù chữ trước thời hạn quy
định và sớm nhất trong các huyện toàn Miền Bắc.
Công tác y tế được coi trọng. Hoạt động của mạng lưới y tế trong huyện đã kịp thời dập tắt các loại dịch bệnh mới phát sinh.
Hệ thống tổ chức Đảng, chính quyền và các đoàn thể từ huyện tới cơ sở đều được củng cố. Trật tự trị an được giữ vững.
Thắng lợi của công cuộc khôi phục kinh tế và phát triển văn hóa trong
những năm 1954 - 1957 đã làm cho bộ mặt xã hội ở Vĩnh Lộc có những biến
đổi quan trọng. Nền kinh tế có nhiều thành phần, kinh tế tập thể, kinh
tế cá thể, tiểu thương…
Năm
1958- năm mở đầu của kế hoạch 3 năm cải tạo xã hội chủ nghĩa và bước
đầu xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội. Thực hiện chủ trương
của Tỉnh ủy: “Tích cực củng cố phong trào đổi công, trên cơ sở đổi công
được củng cố, phát triển dần hợp tác xã cấp thấp một cách vững chắc”.
Huyện ủy chủ trương khôi phục, phát triển tổ đổi công từ thấp đến cao,
rộng khắp đến từng thôn, xóm, tiến hành xây dựng hợp tác xã nông nghiệp.
Hợp tác xã xóm 4 Vĩnh Khang được chọn để xây dựng thí điểm. Đến cuối
năm 1958, toàn huyện xây dựng được 37 hợp tác xã nông nghiệp. Bên cạnh
đó các hợp tác xã mua bán, tín dụng cũng được tổ chức, kịp thời phục vụ
sản xuất và đời sống.
Đầu
năm 1959 Đại hội đại biểu Đảng bộ Vĩnh Lộc lần thứ V được tổ chức. Đại
hội thông qua Nghị quyết phấn đấu hoàn thành kế hoạch cải tạo xã hội chủ
nghĩa ở Vĩnh Lộc trước năm 1960. Đại hội bầu đồng chí Ngô Văn Khoan làm
Bí thư.
Tháng
9-1960, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng thông qua đường
lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Miền Bắc. Đại hội quyết định
những mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1964)
nhằm từng bước xây dựng cơ sở - vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã
hội.
Năm
1961, Đại hội đại biểu huyện Đảng bộ lần thứ VI được tiến hành. Đại hội
bầu Ban Chấp hành mới gồm 13 đồng chí. Đồng chí Trịnh Văn Viết được bầu
làm Bí thư Huyện ủy. Đại hội xác định: Tập trung lực lượng, tận dụng
mọi nhân tố mới của phong trào đưa nông nghiệp của huyện tiến lên với
một tốc độ mới, làm tốt công tác an ninh - quốc phòng, hết lòng hết sức
chi viện cho cách mạng Miền Nam, đẩy mạnh sự nghiệp văn hóa giáo dục,
chú trọng công tác xây dựng Đảng, nâng cao sức chiến đấu của các tổ chức
cơ sở Đảng, nhất là vùng công giáo.
Trong
năm 1962, Đảng bộ huyện tập trung sức xây dựng cơ sở vật chất, trước
tiên dồn sức hoàn chỉnh hệ thống trạm bơm Yên Tôn. Các trạm bơm Vĩnh
Hùng, Vĩnh Hòa và một số hồ, đập chứa nước cũng được khởi công xây dựng
hoặc nâng cấp góp phần đẩy mạnh công tác vỡ hoang, tăng vụ, mở rộng diện
tích trồng trọt. Hệ thống đường giao thông nông thôn, trường học, trạm
xá, nhà kho, sân phơi được xây dựng ở hầu khắp các hợp tác xã. Các công
trình của huyện như trụ sở Ủy ban, Huyện ủy, công ty thương nghiệp, hợp
tác xã mua bán cũng được xây dựng và sớm đưa vào sử dụng, phục vụ nhân
dân. Bên cạnh đó việc điều chỉnh mật độ dân cư thông qua việc di chuyển
nhân dân đi khai hoang phục hóa cũng được quan tâm thực hiện. Tiêu biểu
là 42 hộ ở làng Bồng Trung, xã Vĩnh Tân đi phát triển vùng kinh tế mới
của huyện tại xóm Phúc Thọ, xã Vĩnh Phúc.
Tháng
7-1963, Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ VII. Đại hội nhấn mạnh: Tăng
cường tập trung chỉ đạo phát triển sản xuất nông nghiệp toàn diện lấy
sản xuất nông nghiệp làm trọng tâm. Đại hội bầu đồng chí Trần Văn Dọc
làm Bí thư. Huyện ủy đã phát động trong toàn Đảng bộ phong trào thi đua
giành năng suất cao, chăn nuôi giỏi, trồng cây công nghiệp năng suất
cao. Tổng sản lượng lương thực năm 1964 so với năm 1963 tăng 2.685 tấn.
Tổng sản lượng cây công nghiệp cũng tăng hơn, năm 1963 có 1.172 con
trâu, 8.117 con bò và 10.495 con lợn. Các loại gia súc như: gà, vịt,
ngan… phát triển, có 57 trong tổng số 84 hợp tác xã nông nghiệp tiến
hành cải tiến quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật đạt tỷ lệ 67%.
Thời
kỳ 1961-1965, toàn huyện có 16 trường cấp I, cấp II có 11 trường.
Trường cấp III Vĩnh Lộc được thành lập năm học 1961. Công tác y tế có
nhiều tiến bộ trong việc bảo đảm sức khỏe cho nhân dân. Công tác xây
dựng lực lượng củng cố quốc phòng bảo vệ trật tự trị an được tăng cường.
Các tổ chức thanh niên, phụ nữ, nông dân, mặt trận đã có những đóng góp
tích cực vào việc động viên quần chúng thực hiện kế hoạch Nhà nước và
tham gia quản lý kinh tế.
Năm
1964, Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ VIII được tiến hành. Đại hội bầu
Ban Chấp hành mới gồm 15 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Văn Mạo được bầu làm
Bí thư Huyện ủy. Đại hội đề ra nhiệm vụ trong thời gian tới là: ra sức
củng cố, tăng cường lực lượng hợp tác xã, tích cực xây dựng cơ sở vật
chất - kỹ thuật, nâng cao năng lực quản lý kinh tế, trên cơ sở đó tập
trung đẩy mạnh sản xuất mà trọng tâm là nông nghiệp. Phát triển mạnh
giao thông kết hợp với thủy lợi. Tăng cường công tác thương nghiệp phục
vụ sản xuất. Đẩy mạnh sự nghiệp văn hóa, giáo dục, nhất là phát triển
mạnh bổ túc văn hóa, bảo vệ sức khỏe, nâng cao giác ngộ xã hội chủ
nghĩa, tăng cường đoàn kết nhất trí trong nhân dân, nâng cao cảnh giác
cách mạng, tinh thần sẵn sàng chiến đấu.
Tháng
6 năm 1967 Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ IX. Đại hội đã bầu đồng chí
Nguyễn Văn Mạo làm Bí thư. Đại hội khẳng định cần tăng cường công tác tư
tưởng, tổ chức, trọng tâm là công tác xây dựng cơ sở Đảng. Mục tiêu
phấn đấu của công tác xây dựng Đảng trong năm 1967 là: đưa 60% chi bộ,
Đảng bộ, 70% đảng viên khối nông thôn và 70% chi bộ, 80% đảng viên khối
cơ quan đạt yêu cầu “4 tốt”, phải kết nạp được 500 đảng viên trong đó
60% là nữ, giải quyết hết chi bộ yếu kém.
Tháng 5 năm 1969 Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ X. Đại hội đã đề ra
nhiệm vụ: Bảo đảm đầy đủ và kịp thời mọi yêu cầu của tiền tuyến; tăng
cường lực lượng vũ trang; đẩy mạnh phát triển nông nghiệp; cải thiện và
nâng cao đời sống vật chất. Đại hội đã bầu đồng chí Lê Văn Khôn làm Bí
thư.
Tháng
11 năm 1970 Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XI. Đại hội nhấn mạnh: Quyết
tâm hoàn thành nhiệm vụ chi viện về người và của cho tiền tuyến. Ra sức
xây dựng hậu phương, phát triển kinh tế toàn diện. Đại hội đã bầu đồng
chí Lê Văn Khôn làm Bí thư.
Tháng
4 năm 1972, Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XII. Đại hội đề ra nhiệm vụ:
Trong trồng trọt gồm hai cây chính là lúa và thuốc lá; trong chăn nuôi
gồm hai con chính là lợn và bò sinh sản; Tiếp tục hoàn thành nhiệm vụ
chiến đấu và chi viện cho Miền Nam ruột thịt. Đại hội đã bầu đồng chí
Trịnh Phỏng làm Bí thư.
Tháng
5 năm 1974, Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XIII. Đại hội đã bầu đồng chí
Trịnh Phỏng làm Bí thứ. Đại hội đề ra phương hướng nhiệm vụ trong 2 năm
1975- 1976 là: Hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước giao
về lương thực, thực phẩm, sản phẩm hàng hóa từ cây công nghiệp, hoàn
thành nghĩa vụ đối với Nhà nước về nông sản phẩm, lao động và nhiệm vụ
chi viện tiền tuyến. Ổn định bền vững đời sống nhân dân. Phấn đấu đạt
20.000 tấn thóc, 750 tấn thuốc lá, 20.000 đến 28.000 con lợn, 1.600 đến
1.800 bò nuôi sinh sản; Ra sức xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, phấn
đấu hoàn thành các công trình thủy lợi trọng yếu, đảm bảo sản xuất đủ
các giống cây con chủ yếu và có chất lượng tốt. Tăng cường củng cố và
hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; Xây dựng Đảng vững mạnh về
tư tưởng, trong sạch về tổ chức, mạnh mẽ về hành động đáp ứng yêu cầu
lãnh đạo hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ. Tăng cường vai trò và hiệu
lực của tổ chức chính quyền. Phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ tập thể của
nhân dân lao động và các đoàn thể quần chúng.
Giai đoạn 1954- 1975, cùng với cả nước, cả tỉnh, Đảng bộ và nhân dân
huyện Vĩnh Lộc đã lao động sáng tạo, vượt qua mọi khó khăn hoàn thành
nhiệm vụ phát triển sản xuất, chi viện cho các chiến trường Miền Nam góp
phần thống nhất đất nước.
BÀI 6: VĨNH LỘC TRONG CÔNG CUỘC XÂY DỰNG
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ THỰC HIỆN CUỘC ĐỔI MỚI
(1976 – 2015)
1. Giai đoạn 1976- 1985
Sau
ngày Miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước. Đảng bộ và
nhân dân huyện Vĩnh Lộc tập trung vào 2 mục tiêu chính là khôi phục,
phát triển kinh tế địa phương (chủ yếu là đẩy mạnh sản xuất lương thực,
thực phẩm, cây công nghiệp) và làm tốt công tác hậu phương quân đội.
Thực
hiện chỉ đạo của Tỉnh ủy, Đại hội Đảng bộ huyện Vĩnh Lộc lần thứ XIV
được tiến hành qua 2 vòng. Vòng 1 vào tháng 6, vòng 2 vào tháng 10 năm
1976. Đại hội bầu đồng chí Lê Văn Khôn làm Bí thư, đồng chí Cao Ngọc
Khối được bầu làm Phó bí thư phụ trách Chính quyền.
Ngày
5-7-1977, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 177-CP về việc hợp nhất
và điều chỉnh địa giới một số huyện của tỉnh Thanh Hóa. Trong đó có việc
hợp nhất huyện Vĩnh Lộc với huyện Thạch Thành thành huyện mới là Vĩnh
Thạch. Ngày 26-8-1977, hai huyện Vĩnh Lộc và Thạch Thành đã chính thức
hợp nhất thành huyện Vĩnh Thạch. Ban thường vụ Tỉnh ủy Thanh Hóa đã chỉ
định đồng chí Lê Văn Khôn- Bí thư Huyện ủy Vĩnh Lộc làm Bí thư; đồng chí
Phạm Minh Quý- Bí thư Huyện ủy Thạch Thành làm Phó bí thư phụ trách
Chính quyền. Sau hợp nhất, Đảng
bộ huyện Vĩnh Thạch bắt tay ngay vào việc lãnh đạo nhân dân xây dựng
huyện Vĩnh Thạch thành một huyện có cơ cấu kinh tế nông - lâm - công
nghiệp, vững về chính trị, giàu về kinh tế, mạnh về quốc phòng và an
ninh, đảm bảo cho nhân dân các dân tộc trong huyện có cuộc sống ấm no
hạnh phúc. Phong trào thi đua lao động sau ngày hợp nhất huyện tập trung
mạnh mẽ nhất là mặt trận khai hoang tăng diện tích và làm vụ đông. Từ
năm 1977, vụ đông từng bước trở thành một vụ sản xuất chính.
Từ
ngày 27 đến ngày 31-3-1978, Đại hội Đảng bộ huyện Vĩnh Thạch lần thứ
nhất được tiến hành tại hội trường lớn thuộc khu vực Núi Chè (xã Vĩnh
Thành). Nghị quyết Đại hội đề ra phương hướng nhiệm vụ 3 năm 1978-1980
của huyện là tiếp tục đẩy mạnh tổ chức lại sản xuất, tổ chức lại lực
lượng lao động. Đại hội đã bầu Ban chấp hành Đảng bộ gồm 33 đồng chí.
Ngày 14/4/1978, tại Hội nghị, khóa I bầu đồng chí Lê Văn Khôn làm Bí
thư, đồng chí Phạm Minh Quý làm Phó bí thư phụ trách Chính quyền.
Chiến
tranh biên giới 1978-1979 diễn ra ác liệt, ngày 17/02/1979, đáp lời kêu
gọi tổng động viên của Chủ tịch nước, 345 cán bộ chiến sĩ đã phục viên
của huyện cùng với các thế hệ thanh niên trẻ hăng hái lên đường nhập ngũ
bảo vệ Tổ quốc.
Từ
ngày 26 đến ngày 31 tháng 7 năm 1979, Đảng bộ huyện Vĩnh Thạch tổ chức
Đại hội Đại biểu lần thứ hai tại Nông trường Thạch Thành. Đại hội đã xác
định: cần tập trung cao độ sức lực của huyện vào khâu cải tiến quản lý,
nhanh chóng hình thành các vùng chuyên canh. Đại hội đã bầu Ban chấp
hành Đảng bộ huyện gồm 32 đồng chí. Đại hội bầu đồng chí Lưu Đình Tiệp
làm Bí thư; đồng chí Mai Xuân Minh làm Phó bí thư phụ trách Chính quyền.
Bước
sang năm 1980, năm cuối cùng của kế hoạch 5 năm lần thứ hai, Đảng bộ,
các cấp chính quyền Vĩnh Thạch đã có nhiều cố gắng trong lãnh đạo, chỉ
đạo việc thực hiện những chính sách mới của Đảng và Nhà nước nhưng do
thiên tai bão lụt nên vụ mùa diện tích mất trắng đến 50%, năng suất lúa
bình quân cả năm chỉ đạt 43% kế hoạch. Để khắc phục những yếu kém trong
năng suất lao động, Huyện ủy chủ trương mở rộng hình thức khoán sản phẩm
cho nhóm và người lao động một cách tích cực, toàn diện ở các hợp tác
xã nông nghiệp, nông - lâm nghiệp, bao gồm cả cây lúa, màu, cây công
nghiệp, cây thực phẩm và các ngành sản xuất khác như chăn nuôi, nghề
rừng, thủ công nghiệp, do đó trong vụ đông xuân 1981 là vụ được mùa toàn
diện cả lúa và hoa màu trong phạm vi toàn huyện.
Ngày
30-8-1982, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ra Quyết định số 149
chia huyện Vĩnh Thạch thành 2 huyện Vĩnh Lộc và Thạch Thành. Ngày
15/9/1982, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Thanh Hóa ban hành quyết định số 913-
QĐ/TU thành lập Đảng bộ Vĩnh Lộc và chỉ định Huyện ủy lâm thời gồm 12
đồng chí. Đồng chí Nguyễn Văn Mạo được chỉ định làm Bí thư. Ban Chấp
hành Đảng bộ Vĩnh Lộc lâm thời đã khẩn trương ổn định bộ máy tổ chức từ
huyện đến cơ sở và di chuyển trụ sở mới của huyện về xã Vĩnh Thành.
Từ
ngày 21 đến ngày 24 tháng 01 năm 1983, Đại hội Đảng bộ tiến hành Đại
hội lần thứ XVII. Đại hội xác định cơ cấu kinh tế của huyện là “nông-
công- lâm nghiệp”; tập trung khai thác và phát triển các thế mạnh của
địa phương. Đại hội đã bầu Ban chấp hành gồm 23 đồng chí, bầu đồng chí
Nguyễn Văn Mạo làm Bí thư. Huyện ủy Vĩnh Lộc ra Nghị quyết số 05 về việc
sửa chữa những khuyết điểm trong việc lãnh đạo thực hiện Chỉ thị 100
của Ban Bí thư. Huyện ủy chủ trương tổ chức quản lý và thực hiện tốt các
khâu: giải phóng đất, giống, phân bón, nước tưới, phòng trừ sâu bệnh và
thu nạp sản phẩm khoán. Trước mắt tập trung vào việc điều chỉnh diện
tích giao khoán, sản lượng khoán, chế độ hưởng thụ của cán bộ hợp tác xã
và áp dụng khoán đến sản phẩm cuối cùng trong các ngành nghề, chăn
nuôi. Nhờ sản xuất nông nghiệp phát triển, năm 1985, Vĩnh Lộc đã cơ bản
tự bảo đảm đủ lương thực và thực phẩm cho nhân dân.
2. Giai đoạn 1986- 1996
Đầu năm 1986, đường 217 từ Vĩnh Lộc đi Hà Lĩnh được xây dựng.
Từ
ngày 6 đến ngày 10-10-1986, Đảng bộ Vĩnh Lộc tổ chức Đại hội lần thứ
XVIII. Đại hội đề ra nhiệm vụ: Tập trung sức phát triển toàn diện, coi
nông nghiệp thực sự là mặt trận hàng đầu, từ sản xuất lương thực, thuốc
lá và xuất khẩu mà đi lên, đẩy mạnh sản xuất tiểu thủ công nghiệp mà
trọng tâm là sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến nông sản hàng xuất
khẩu. Đại hội đã bầu Ban chấp hành Đảng bộ huyện gồm 33 đồng chí, bầu
đồng chí Trịnh Thái Đàn làm Bí thư. Đồng chí Trịnh Văn Trang làm Phó Bí thư phụ trách Chính quyền.
Từ
ngày 05 đến ngày 07 tháng 01 năm 1989, diễn ra Đại hội Đại hội Đảng bộ
lần thứ XIX. Đại hội chỉ rõ: Nhiệm vụ trọng tâm cấp bách: Tập trung cao
độ cho 3 chương trình kinh tế (lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và
hàng xuất khẩu) nhằm ổn định tình hình kinh tế- xã hội, hình thành cơ
cấu kinh tế nông- lâm- tiểu thủ công nghiệp. Đại hội đã bầu Ban chấp
hành Đảng bộ gồm 29 đồng chí, bầu đồng chí Trịnh Thái Đàn làm Bí thư. Đồng chí Trần Minh Báo Phó Bí thư phụ trách Chính quyền.
Năm
1991, Đảng bộ Vĩnh Lộc tiến hành Đại hội lần thứ XX (vòng 1 từ ngày 8
đến ngày 10/4/1991; vòng 2 từ ngày 29 đến ngày 31-10-1991). Đại hội nhất
trí thông qua phương hướng, nhiệm vụ tổng quát 5 năm (1991 - 1995) là:
Tập trung phát triển kinh tế, khai thác tiềm năng nông - lâm - tiểu thủ
công nghiệp và dịch vụ, từng bước hình thành sản xuất hàng hóa nhằm ổn
định tình hình kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân. Đại hội bầu ban
chấp hành gồm 33 đồng chí, bầu đồng chí Trịnh Thái Đàn làm Bí thư. Đồng chí Trần Minh Báo được bầu lại làm Phó Bí thư phụ trách Chính quyền.
3. Giai đoạn 1996- 2015
Từ ngày 13 đến ngày 15/3/1996, Đảng bộ huyện Vĩnh Lộc tiến hành Đại hội lần thứ XXI. Đại
hội nhất trí trông qua phương hướng, nhiệm vụ tổng quát 5 năm (1991 -
1995) là: Tập trung phát triển kinh tế, khai thác tiềm năng nông - lâm -
tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, từng bước hình thành sản xuất hàng hóa
nhằm ổn định tình hình kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân. Đại hội bầu Ban chấp hành gồm 33 đồng chí, bầu đồng chí Vũ Ngọc Sắt làm Bí thư. Đồng chí Trần Minh Báo được bầu lại làm Phó Bí thư phụ trách Chính quyền.
Từ ngày 9 đến ngày 11-11-2000, Đảng bộ huyện Vĩnh Lộc tiến hành Đại hội lần thứ XXII. Đại
hội đề ra phương hướng, nhiệm vụ tổng quát trong 5 năm đầu của thế kỷ
XXI (2001 - 2005) là: “Tập trung mọi lực lượng và khả năng, tranh thủ
thời cơ vượt mọi khó khăn thử thách đẩy mạnh sản xuất. Phát triển kinh
tế với tốc độ cao và bền vững, chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế, cơ cấu
lao động theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng sức cạnh tranh
và hiệu quả phát triển kinh tế. Giải quyết tốt các vấn đề xã hội, giảm
mạnh hộ nghèo, nâng cao mức sống của nhân dân. Phát huy nhân tố con
người, giáo dục - đào tạo và ứng dụng khoa học công nghệ. Tiếp tục tăng
cường kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, tạo tiền đề cho giai đoạn tiếp
theo, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, củng cố và
phát triển nền quốc phòng toàn dân. Xây dựng hệ thống chính trị trong
sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu của cách mạng trong giai đoạn mới”.
Đại hội bầu Ban chấp hành Đảng bộ gồm 33 đồng chí, bầu đồng chí Vũ Ngọc
Sắt làm Bí thư, đồng chí Phạm Ngọc Vị được bầu làm Phó bí thư phụ trách
Chính quyền.
Ngày
25 tháng 4 năm 2004, cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân 3 cấp
(nhiệm kỳ 2004 - 2009) trên địa bàn huyện thành công tốt đẹp. Toàn huyện
cử tri đi bầu đạt 99,9%.
Từ
ngày 10 đến ngày 12 tháng 10 năm 2005, Đảng bộ huyện Vĩnh Lộc đã tiến
hành Đại hội lần thứ XXIII (nhiệm kỳ 2005 - 2010). Đại hội đề ra phương
hướng chung là: “Tập trung mọi lực lượng, khả năng, tranh thủ thời cơ,
vượt qua khó khăn thử thách đẩy mạnh sản xuất, phát triển kinh tế với
tốc độ cao và bền vững. Phấn đấu đạt mức tăng trưởng cao hơn mức bình
quân của tỉnh. Phát huy nội lực, khai thác các nguồn lực bên ngoài nhằm
chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại
hóa. Đại hội đề ra một số mục tiêu cụ thể để Đảng bộ và nhân dân trong
huyện phấn đấu đó là: Tốc độ tăng trưởng GDP đến năm 2010 đạt 13,5% trở
lên. GDP bình quân đầu người 12 triệu đồng/năm trở lên. Cơ cấu nông
nghiệp 41%, công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp 26%, thương mại - dịch vụ
33%. Tổng sản lượng lương thực từ 60.000 tấn/năm trở lên. Tổng giá trị
xuất khẩu đến năm 2010 đạt 1,5 triệu USD trở lên. Đại hội bầu Ban chấp
hành gồm 37 đồng chí, bầu đồng chí Đỗ Văn Vơn làm Bí thư, đồng chí Vũ
Ngọc Ninh làm Phó bí thư phụ trách Chính quyền, đồng chí Nguyễn Văn Tuấn
làm Phó bí thư Thường trực.
Từ
ngày 22 đến ngày 23/7/2010, Đảng bộ huyện Vĩnh Lộc tiến hành Đại hội
lần thứ XXIV (nhiệm kỳ 2010- 2015). Đại hội xác định 3 chương trình
trọng tâm là: Chương trình phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn
mới. Chương trình phát triển cụm công nghiệp, ngành nghề tiểu thủ công
nghiệp. Chương trình phát triển nguồn nhân lực. Đại hội bầu ban chấp
hành Đảng bộ gồm 37 đồng chí, bầu đồng chí Nguyễn Văn Tuấn làm Bí thư,
đồng chí Lê Quang Tuấn làm Phó bí thư phụ trách Chính quyền, đồng chí Vũ
Văn Lộc làm Phó bí thư thường trực.
Từ
ngày 03 đến ngày 05/8/2015, Đảng bộ huyện Vĩnh Lộc tiến hành Đại hội
lần thứ XXV (nhiệm kỳ 2015- 2020). Đại hội xác định 3 chương trình trọng
tâm là: Chương trình phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.
Chương trình phát triển nguồn nhân lực. Chương trình phát triển du lịch.
Đại hội bầu 38 đồng chí vào Ban chấp hành Đảng bộ, bầu đồng chí Lê
Quang Tuấn làm Bí thư, đồng chí Vũ Thị Hương làm Phó bí thư phụ trách
Chính quyền, đồng chí Vũ Văn Lộc làm Phó bí thư thường trực.
Sau
gần 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới (1976- 2015) Đảng bộ và nhân dân
huyện Vĩnh Lộc đã giành được những thành tựu to lớn và khá toàn diện:
Chính trị ổn định, kinh tế- xã hội có nhiều sự chuyển biến tích cực, cơ
cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ
trọng công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ, thương mại. Cơ
cấu kinh tế trong GDP năm 2015 đạt: Nông-lâm-thủy sản chiếm 37,5%; Công
nghiệp-xây dựng chiếm 26,95% ; dịch vụ chiếm 35,75% . GDP bình quân đầu
người đạt 25,7 triệu đồng người/năm.
Đây thực sự là bước đà lớn tạo ra những tiền đề thuận lợi cho Vĩnh Lộc
vươn lên xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp, văn minh.
BÀI 7: DI TÍCH VÀ LỄ HỘI TIÊU BIỂU TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN VĨNH LỘC
Trên
địa bàn huyện Vĩnh Lộc có 66 di tích đã được xếp hạng gồm: Di sản văn
hóa thế giới Thành Nhà Hồ, 14 di tích, danh thắng cấp quốc gia, 51di
tích, danh thắng cấp tỉnh, Song song với quá trình hình thành và phát
triển vùng đất là hệ thống các phong tục, tập quán, lễ nghi, lễ hội
truyền thống.
1. Di tích
1. 1. Di tích lịch sử Cách mạng
- Chùa Xuân Áng, xã Vĩnh Long
Chùa
Xuân Áng thuộc làng Xuân Áng, xã Vĩnh Long huyện Vĩnh Lộc. Chùa cách
Thành Nhà Hồ 3km về phía Bắc. Chùa Xuân Áng là nơi thành lập Chi bộ Đảng
đầu tiên tại huyện Vĩnh Lộc vào 16 tháng 4 năm 1934. Vào tháng 10 năm
1941 Chùa cũng là nơi trú quân của đoàn du kích Ngọc Trạo. Chùa Xuân Áng
đã được xếp hạng là di tích cách mạng cấp tỉnh năm 1995.
- Đình làng Cẩm Bào xã Vĩnh Long
Đình Cẩm Bào thuộc địa phận thôn Cẩm Bào, xã Vĩnh Long, nằm phía Bắc Thành Nhà Hồ.
Trong
thời kỳ thành lập Chiến khu và đội du kích Ngọc Trạo ở huyện Thạch
Thành (1941), đình Cẩm Bào là nơi tổ chức các cuộc họp bí mật của Ban
lãnh đạo Chiến khu, là địa điểm tập kết các chiến sĩ du kích trước khi
lên chiến khu Ngọc Trạo; là nơi trung chuyển lương thực, thực phẩm từ
các nơi gửi lên Chiến khu. Đình Cẩm Bào là trụ sở của đội tự vệ Việt
Minh, Ủy ban dân tộc giải phóng, là nơi tổ chức các lớp học buổi tối cho
nhân dân nhằm tránh sự theo dõi của kẻ thù.
Đình Cẩm Bào được xếp hạng di tích lịch sử Cách mạng cấp tỉnh năm 1992.
- Nghè Yên Lạc, xã Vĩnh Ninh
Nghè
Yên Lạc thuộc thôn Yên Lạc xã Vĩnh Ninh. Nghè Yên Lạc từng là nơi diễn
ra Đại hội tỉnh Đảng bộ Thanh Hóa lần thứ II (tháng 4 năm 1949), là nơi
tập kết lương thực, thực phẩm phục vụ trong kháng chiến chống thực dân
Pháp. Nghè Yên Lạc đã được công nhận là di tích Cách mạng cấp tỉnh năm
2011.
1. 2. Di tích lịch sử văn hóa
- Thành nhà Hồ
Thành
nhà Hồ còn được gọi là thành Tây Đô, thành Tây Giai, thành An Tôn.
Thành có 4 cổng và 4 bức tường thành tương ứng với 4 hướng: Đông, Tây,
Nam, Bắc. Thành Nhà Hồ nằm trên địa phận của hai xã Vĩnh Tiến và Vĩnh
Long. Ngày 27 tháng 6 năm 2011, Thành Nhà Hồ được Tổ chức Giáo dục, Khoa
học và Văn hóa liên hiệp quốc (UNESCO) công nhận là Di sản văn hóa Thế
giới.
Thành
Nhà Hồ do Hồ Qúy Ly cho khởi công xây dựng vào năm 1397, Thành được xây
dựng trong vòng ba tháng. Đây là một công trình xây dựng bằng đá đồ sộ
tiêu biểu ở Đông Nam Á.
Thành
được xây bằng các khối đá tảng xếp chồng lên nhau. Đá xây thành được
khai thác ở núi An Tôn, núi Đốn Sơn, núi Hắc Khuyển. Các phiến đá được
đục, đẽo phẳng, ghè vuông vức, chồng khít lên nhau, không cần chất kết
dính, mà nhờ trọng lực của tảng đá và lực hút của trái đất làm cho các
khối liên kết với nhau vững chắc.
Thành
Nhà Hồ được xây dựng gồm vòng thành bao bọc lẫn nhau: Vòng thành trong
cùng bao bọc bảo vệ nơi làm việc, ăn nghỉ của Hoàng đế, Hoàng gia và
triều đình, là nơi quan trọng nhất và được gọi là Hoàng thành. Ở Thành
Nhà Hồ vòng thành đá hình vuông hiện còn chính là Hoàng Thành. Thành Nhà
Hồ mở 4 cửa, trong đó hướng chính là hướng Nam.
Vòng thành bên ngoài có Hào thành và La thành.
-
Hào thành: Hào thành bao quanh toàn bộ tòa thành đá và là bộ phận khăng
khít của Thành nội. Hào thành nằm giữa thành nội và La thành. Hào nước
phía Đông và phía tây cách chân thành khoảng 100m - 120m, phía bắc cách
chân thành khoảng 70m. Mặt hào nước chỗ hẹp nhất còn hơn 10m, chỗ rộng
nhất còn hơn 20m. Hào thành không chỉ có chức năng phòng vệ mà còn có
chức năng giao thông đường thủy và tiêu thoát nước cho toàn bộ kinh
thành.
Hiện
nay đoạn hào nước thuộc khu vực làng Đông Môn còn khá rõ nét. Hào nước
chạy uốn lượn bao quanh Thành, phía trước đình Đông Môn.Trên bờ của Hào
Thành có nhiều rặng tre gai, cho thấy sự tinh thông trong xây dựng tuyến
phòng thủ quân sự của triều Hồ, sự tài tình của Hồ Qúy Ly (kết hợp giữa
hào tre và hào nước).
-
La thành: Bao quanh toàn bộ thành đá và hào thành là La thành. La thành
có chức năng bảo vệ toàn bộ các kiến trúc và cư dân trong kinh thành.
Theo sử sách ghi lại thì La Thành được xây dựng vào tháng 9 năm 1399
(sau hai năm xây dựng thành nội). La thành hiện còn là tòa thành đất cao
khoảng 6m, mặt cắt dạng hình thang với bề mặt rộng 9,20m, chân thành
rộng 37m, mặt ngoài dốc đứng phía trong thoai thoải kiểu bậc thang, mỗi
bậc cao 1,5m một số vị trí có trộn thêm sạn, sỏi gia cố. Trên thực địa
La thành có dấu vết từ núi Đốn sơn (xã Vĩnh Thành) đến núi Hắc khuyển
(xã Vĩnh Long), các núi Xuân đài, Trác phòng, Tiến sỹ (xã Vĩnh Ninh),
núi Kim ngọ (xã Vĩnh Tiến), núi Ngưu ngọa, núi Voi (xã Vĩnh Quang).
Trong đó có những đoạn là đê của sông Bưởi và sông Mã.
La
Thành ngoài nhiệm vụ phòng thủ quân sự còn có chức năng là đê phòng lũ
cho toàn bộ kinh thành. Đây là nét sáng tạo độc đáo trong kiến trúc xây
dựng thành lũy trong lịch sử phong kiến của dân tộc Việt Nam.
- Nghè Vẹt, xã Vĩnh Hùng
Di
tích Nghè Vẹt thuộc xã Vĩnh Hùng cách Phủ Trịnh khoảng 500m, là công
trình kiến trúc gỗ. Trước đây Nghè thờ Thành hoàng làng, sau này bài vị
của các chúa Trịnh cũng được đưa về đây để thờ.
Di
tích Nghè Vẹt gắn liến với sự tích: Khi mẹ của Trịnh Kiểm mất, xác của
bà trôi trên dòng sông Mã, có một đàn chim vẹt bay phía trên giống như
một đám mây lớn che xác của bà. Khi xác dạt vào bờ sông, có một người họ
Mai làng Đông Biện vớt lên bờ, về nhà lấy dụng cụ ra chôn cất. Nhưng
khi ra tới nơi thì mối đã đùn nổi lên một gò đất lớn chạy từ giữa sông
vào bờ, thành ngôi mộ thiên táng kỳ lạ ôm giữ thi hài bà. Lạ hơn, phía
trên ngôi mộ có một đàn vẹt đông đảo bay kín như một đám mây. Đàn vẹt ở
đó rất lâu rồi bay đi, nên nhân dân trong vùng mới phát hiện ra mộ của
bà. Chính vì vậy Trịnh Kiểm cho đặt tên là Nghè Vẹt.
Di tích Nghè Vẹt được xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia năm 1995.
- Di tích Phủ Trịnh, xã Vĩnh Hùng
Phủ
Trịnh thuộc địa phận xóm Thẳng, làng Bồng Thượng, xã Vĩnh Hùng, huyện
Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa, là khu hành dinh của nhà Trịnh. Phủ Trịnh trước kia được xây dựng trên một khoảng đất rộng khoảng 10ha, gồm các khu vực như Từ phủ, khu Nội phủ, vườn, hồ …
Năm
1802, khi vua Gia Long lên ngôi, ông đã cho trùng tu di tích Phủ Trịnh.
Phủ Trịnh được trùng tu lại nhiều lần (lần trùng tu gần đây nhất là vào
năm 2003). Di tích phủ Trịnh được xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc
gia năm 1995.
Phủ
Trịnh ngày nay còn lại một dãy nhà gỗ bảy gian lợp bằng ngói chính là
dãy nhà ăn xưa (gọi là Trù túc), hiện nay được sử dụng làm nơi thờ các
chúa Trịnh, ông nội của Trịnh Kiểm, các nhân vật có công với nhà Trịnh.
Di tích Phủ Trịnh được xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia năm 1995.
- Đền thờ Quốc Công Hoàng Đình Ái, xã Vĩnh Hùng
Di
tích đền thờ Quốc công Hoàng Đình Ái hay còn gọi là di tích nhà thờ
Hoàng Đình Ái thuộc xóm Đông, xã Vĩnh Hùng, huyện Vĩnh Lộc.
Thái
Tể Vinh Quốc Công Hoàng Đình Ái sinh ngày 23 tháng Chạp năm Bính Tuất
(1526). Từ nhỏ Hoàng Đình Ái đã theo nghiệp võ, lớn lên ông đầu quân
giúp nhà Lê Trung Hưng và trở thành danh tướng tài ba lỗi lạc. Danh
tướng Hoàng Đình Ái là một trong các công thần có công lớn nhất trong
việc giúp nhà Lê Trung Hưng. Năm Gia Long thứ 1 (1802) ông được liệt vào
hàng công thần trung hưng bậc nhất; năm Minh Mệnh thứ 4 (1824) cho phép
thờ phụng ông tại miếu Lịch Đại Đế Vương (ở Kinh Thành Huế).
Đền thờ Hoàng Đình Ái được xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia năm 1995.
- Di tích lịch sử văn hóa chùa Báo Ân
Chùa
Báo Ân lúc đầu chỉ là Am, với tên gọi là “Am Lộc Sơn tự”, đến thời Hậu
Lê (trước thế kỷ XVI) mới xây dựng thành chùa. Sau này, chúa Trịnh đã
đổi tên từ “Am Lộc Sơn tự” thành “Báo Ân tự”, nhân dân trong vùng thường
gọi là chùa Báo.
Chùa
nằm tọa lạc phía Tây Nam núi Báo Sơn, tựa lưng vào núi, quay mặt về
hướng sông Mã (bên kia bờ sông là địa phận huyện Yên Định). Thời kì
phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỉ XIX, chùa Báo Ân còn là nơi
thường trú và thường xuyên lui tới của các lãnh tụ và nghĩa quân Hùng
Lĩnh dưới sự lãnh đạo của ông nghè Tống Duy Tân. Thời kỳ trước cách mạng
tháng Tám năm 1945, chùa Báo Ân là nơi liên lạc và ẩn náu của các chiến
sĩ cộng sản. Trong kháng chiến chống Pháp, chùa là nơi nuôi dưỡng, chăm
sóc và cứu chữa thương bệnh binh.
Chùa Báo Ân được xếp hạng di tích lịch sử Văn hóa nghệ thuật cấp tỉnh năm 2000.
- Đình Bồng Trung, xã Vĩnh Tân
Đình
làng Bồng Trung thuộc địa phận xã Vĩnh Tân, huyện Vĩnh Lộc tỉnh Thanh
Hóa. Tên gọi Bồng Trung là tên gọi của đình gắn với tên của làng. Đình
Bồng Trung nằm quay mặt ra hướng Nam, phía trước là con đê sông Mã, phía
sau và hai bên tả hữu đều là làng xóm. Đình nằm ở trung tâm xã Vĩnh Tân
và là trung tâm của “ Phố Bồng” xưa.
Kiến
trúc đình làng Bồng Trung là kiến trúc tiêu biểu của đình làng thời
Nguyễn, cấu trúc đình gồm 5 gian, 16 cột cái, 10 cột quân (làm bằng gỗ
lim). Vì kèo được trang trí hổ phù và lá cúc cách điệu. Trước đây đình
có 4 cửa ra vào, ở kẻ bảy tất cả đều trang trí bằng hình rồng, mái lợp
bằng loại ngói mũi hài to thời Nguyễn (nay đã bị thay thế nhiều phần).
Đình
Bồng Trung là nơi tế cờ khởi nghĩa Hùng Lĩnh, nơi diễn ra hội nghị văn
thân toàn tỉnh, đồng thời gắn liền cuộc đời và sự nghiệp của các nhà
yêu nước Tống Duy Tân, Đề đốc Lê Điếm… Đình Bồng Trung đã được xếp hạng
di tích lịch sử cấp tỉnh năm 1993.
1.3. Di tích kiến trúc nghệ thuật tiêu biểu
- Cụm di tích chùa Hoa Long - đền Trần Khát Chân, xã Vĩnh Thịnh
Cụm
di tích thuộc địa phận làng Trung, xã Vĩnh Thịnh, huyện Vĩnh Lộc tỉnh
Thanh Hóa, cách Thành phố Thanh Hoá khoảng 43km, cách Thành Nhà Hồ 16
km, cách Phủ Trịnh, Nghè Vẹt 2km về phía Đông Bắc.
Chùa
Hoa Long tên chữ là Hoa Long Tự, ngoài tên gọi chính ra chùa còn được
nhân dân gọi với nhiều tên gọi khác nhau như: Chùa Rồng Hoa, chùa Bản
Thủy, chùa làng Trung… để phân biệt với các chùa khác. Chùa được xây
dựng từ thời nhà Trần, mang đậm kiến trúc thời Lê - Trần (kiến trúc bằng
gỗ, lợp ngói mũi hài, bốn mái uốn cong).
Đền
thờ Trần Khát Chân là công trình kiến trúc nghệ thuật thời Lê - Nguyễn
còn tương đối nguyên vẹn ở Thanh Hóa với đường nét chạm trỗ gỗ hoa văn, ở
các mảng cấu trúc gỗ đường nét chạm thủng, chạm bong tinh xảo, hệ thống
cột, mái thấp phù hợp theo kiến trúc thời Lê Trung.
Hiện
nay, trong di tích còn lưu giữ khá nhiều hiện vật bằng gỗ, sứ, các tập
văn bản chữ Hán, câu đối, các đạo sắc phong và bức đại tự có giá trị.
Chùa
Hoa Long - đền thờ Trần Khát Chân là quần thể di tích kiến trúc nghệ
thuật độc đáo có giá trị được Bộ văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng
di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia năm 2004. Năm 2014 được sự
đồng ý của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cụm di tích được trùng tu tôn
tạo khang trang.
- Đình Đông Môn, xã Vĩnh Long
Đình
Đông Môn thuộc địa phận làng Đông Môn xã Vĩnh Long. Đình Đông Môn thuộc
loại hình di tích lịch sử văn hoá kiến trúc nghệ thuật điêu khắc gỗ độc
đáo còn lại khá nguyên vẹn của thế kỷ XVIII, là 1 trong 3 ngôi đình có
kiến trúc nghệ thuật gỗ cổ còn lưu giữ lại khá nguyên vẹn trên đất Vĩnh
Lộc và xứ Thanh.
Đình
Đông Môn được công nhận là di tích lịch sử văn hoá kiến trúc nghệ thuật
cấp tỉnh năm 1995. Năm 2009 đã được trùng tu, tôn tạo lại.
- Nhóm tượng điêu khắc đá Đa Bút, xã Vĩnh Tân
Quần
thể di tích nhóm tượng điêu khắc đá Đa Bút gồm khu lăng Thái phi Nguyễn
Thị Ngọc Diệm vợ của chúa Trịnh Doanh và khu rồng đá. Quần thể di tích
này nằm dưới chân núi Mông Cù, thuộc làng Đa Bút, xã Vĩnh Tân, huyện
Vĩnh Lộc, là công trình có kiến trúc nghệ thuật điêu khắc đá thế kỷ XVII
với quy mô khá lớn. Nơi đây xưa kia là khu hành dinh của nhà Trịnh.
Tại
khu lăng bà Nguyễn Thị Ngọc Diệm (mẹ chúa Trịnh Sâm), trước sân có 12
pho tượng đá xếp thành hai hàng, mỗi bên 6 pho đối diện nhau trong tư
thế đứng canh gác. Phía đầu 2 hàng tượng có hai phỗng đá hình dáng được
tạo tác trong tư thế chầu đợi lệnh,
Khu vực rồng đá, tại đây còn 3 đôi rồng đá được bố trí theo thứ bậc cao thấp (theo kiểu tam cấp).
Nhóm tượng điêu khắc đá Đa Bút đã được xếp hạng di tích lịch sử cấp tỉnh năm 1993.
2. Các Lễ hội tiêu biểu trên địa bàn huyện
2.1. Lễ hội chùa Thông
Chùa
Thông hay còn được gọi là chùa Du Anh nằm dưới chân dãy núi Xuân Đài
thuộc địa phận xã Vĩnh Ninh, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa.
Theo
truyền thuyết, ngày mùng 9 tháng Giêng âm lịch là ngày Ngọc Hoàng giáng
thế. Ngày Mậu Ngọ mùng 9 tháng giêng năm Hồng Đức thứ 7 (1476) vua Lê
Thánh Tông về thăm động Hồ Công có làm bài thơ khắc trên vách động Hồ
Công. Vì vậy nhân dân đã lấy ngày này để tổ chức lễ hội truyền thống với
mục đích cầu cho mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an.
2.2. Lễ hội Kỳ Phúc, nghè Cẩm Hoàng, xã Vĩnh Quang.
Hàng
năm vào ngày 06 tháng 2 âm lịch, tại Nghè Cẩm Hoàng xã Vĩnh Quang diễn
ra lễ hội Kỳ phúc (cầu phúc). Đây là một lễ hội dân gian đặc sắc mang
đậm phong cách truyền thống của người dân Cẩm Hoàng. Lễ hội Kỳ Phúc cầu
mong một năm mưa thuận, gió hòa, vạn vật tươi tốt, nhân dân thái bình.
Trong nghi lễ tế thần, người dân sử dụng 10 làn điệu hát múa chèo chải.
Nghi lễ này vẫn được lưu truyền cho đến ngày nay.
2.3. Lễ kỷ niệm ngày mất Minh Khang Thái Vương Trịnh Kiểm, xã Vĩnh Hùng
Đức
Minh Khang Thái Vương Trịnh Kiểm sinh ngày 24 tháng 8 năm Quý Hợi
(1503), niên hiệu Cảnh Thống thứ 6 đời vua Lê Trang Tông, tại làng Biện
Thượng (nay là làng Bồng Thượng xã Vĩnh Hùng, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh
Hóa). Ông có nhiều cống hiến đối với sự phát triển của lịch sử Việt Nam
dưới thời Lê Trung Hưng: tạo dựng hình thái nhà nước phong kiến mới ở
Việt Nam (vào thế kỷ 16 và 17); giữ gìn và phát huy nền văn hóa dân tộc.
Ngày
18/2 năm Canh ngọ (1570), Đức Minh Khang Thái Vương Trịnh Kiểm tạ thế ở
tuổi 68. Minh Khang Thái Vương là người mở đầu cho 12 đời chúa Trịnh
với hơn 200 năm có mặt trên chính trường Đại Việt.
Hàng
năm, vào ngày 18 tháng 02 âm lịch. Lễ kỷ niệm ngày mất của Minh Khang
Thái Vương Trịnh Kiểm được tổ chức tại di tích Phủ Trịnh, xã Vĩnh Hùng.
2.4. Lễ hội “Rước nước” chùa Báo Ân, xã Vĩnh Hùng
Lễ
hội “ Rước nước” và “Rước bóng” ở chùa - phủ Báo Ân xã Vĩnh Hùng (xưa
là làng Bồng Thượng) với nhiều lễ nghi Phật giáo diễn ra trong 3 ngày
(27,28, 29 tháng 2 (âm lịch) hàng năm) thu hút nhiều du khách thập
phương đến tham quan và dự lễ. Nghi lễ “Rước nước” là nội dung chính
trong lễ hội. Ý nghĩa truyền thống của lễ hội là lấy nước giữa dòng về
tắm cho Phật, cho Mẫu và cho Tứ nhuận Quần sinh (muôn loài).
Lễ hội “Rước nước” ở chùa Báo Ân làng Bồng Thượng xã Vĩnh Hùng là lễ hội mang đậm truyền thống văn hóa, lịch sử, thể hiện
quan niệm của nhà Phật: “Nước là sự sống, là mạch nguồn của mọi vật.
Cho nên nước tượng trưng cho người mẹ”. Truyền thống “Uống nước nhớ
nguồn” xuất phát trên quan điểm đó, hướng mọi người luôn nhớ tới cội
nguồn của mình. Nước còn là tên gọi của quê hương, của đất nước, của dân
tộc. Lễ hội “Rước nước” nói lên tinh thần phải luôn tôn trọng, yêu mến
quê hương đất nước của mình.
2.5. Lễ kỉ niệm ngày mất của Thượng tướng quân Trần Khát Chân, xã Vĩnh Thành
Trần
Khát Chân là người làng Hà Lãng (nay là làng Hà Lương), xã Vĩnh Thành,
ba đời làm Thượng tướng quân. Ông là dòng dõi danh tướng Trần Bình
Trọng. Trần Khát Chân sinh năm Bính Tuất (1366), Ông là người có công
cứu dân tộc khỏi họa xâm lăng do giết được vua Chiêm Thành. Hàng
năm, lễ kỷ niệm ngày mất Trần Khát Chân diễn ra vào ngày 24 tháng 4 âm
lịch. Trong lễ kỷ niệm nhân dân đã sử dụng 10 điệu múa hát chèo cạn và
các nghi thức, nghi lễ trang trọng, uy nghiêm tôn kính một người anh
hùng của dân tộc.
BÀI 8: MỘT SỐ MÓN ĂN TIÊU BIỂU CHO VĂN HÓA ẨM THỰC HUYỆN VĨNH LỘC
1. Chè lam Phủ Quảng
Chè
Lam là món đặc sản của làng nghề truyền thống thuộc xã Vĩnh Thành và
thị trấn Vĩnh Lộc. Trước đây, món ăn này thường được làm vào các dịp lễ
tết để cúng tổ tiên và mừng đầu xuân năm mới. Ngày nay, Chè lam được sử
dụng như một món quà biếu, món ăn thường xuyên quanh năm.
Tên
gọi của món Chè Lam này được lấy theo tên phủ Quảng Hóa (gọi tắt là phủ
Quảng). Phủ Quảng Hóa được thành lập năm Minh Mệnh thứ 16 (1835) trên
cơ sở chia tách từ phủ Thiệu Hóa, gồm các huyện Vĩnh Lộc, Thạch Thành,
Cẩm Thủy, Quảng Tế. Sau cách mạng tháng Tám (1945), phủ được chia thành
các huyện tương ứng trực thuộc tỉnh Thanh Hóa, địa danh Quảng Hóa không
còn tồn tại nữa.
Nguyên liệu:
Nguyên liệu để chế biến Chè Lam gồm có gạo nếp, lạc, gừng, mật mía.
Gạo
nếp được sử dụng là nếp cái hoa vàng. Mật mía thường chọn mật từ mía
Kim Tân vị ngọt, đặc sánh. Các nguyên liệu khác cũng được chọn kỹ.
Cách chế biến:
Gạo
nếp sau khi được xay giã đến mức độ vừa phải (không quá trắng) thì được
xay nhuyễn. Trước đây, việc xay gạo được tiến hành bằng cối đá, xay
nhiều vòng quay mới được một vài giọt bột rơi xuống. Bột gạo xay được
lắng đi phần nước trong, sau đó cho vào tấm vải thô, đặt trên thúng tro
rơm nếp cho ráo hết nước, bẻ thành từng miếng nhỏ như miếng cau đem phơi
nắng đến khi trắng, giòn. Những miếng bột này được ủ trong túi nilon,
đựng trong chum sành, khi nào làm mới sử dụng.
Cùng
với gạo nếp xay, một lượng nhỏ gạo nếp được đem rang chín đến khi có
màu vàng, mùi thơm dịu. Gạo thường được rang cùng với cát trong chảo
gang to, trong khi rang phải giữ lửa đều và luôn tay đảo đều. Gạo rang
xong đem trải ra nia cho nguội và xay thành bột khô.
Lạc nhân sau khi rang thì được giã vỡ đôi hoặc vỡ ba. Gừng được đem đồ rồi cắt lát thật nhỏ.
Mật
mía được cho vào chảo thắng (đun cô đặc) đến khi nào mật sôi kỹ, giảm
lửa, để mật sôi lăn tăn, đến độ cô nhất định. Sau đó, toàn bộ bột gạo,
gạo rang, lạc, gừng được đổ nhanh vào chảo mật, quấy nhanh và đều tay.
Hỗn hợp sau khi trộn kỹ thì được đổ lên mặt bàn hoặc mâm sạch và phẳng,
có trải sẵn một lớp bột chống dính (là bột gạo nếp rang nghiền nhỏ). Chè
Lam lúc này được lăn đều rồi vo thành từng cục to như trái bưởi sau đó
đưa cối để giã tiếp. Sau khi được giã kỹ, chè Lam được đưa lên bàn lăn
thành bánh tròn như bắp tay rồi để nguội tự nhiên. Sau đó, những bánh
chè này được cho vào khuôn, rồi dùng con lăn bằng sắt lăn kín mặt khuôn
và dùng dao hớt tạo mặt phẳng.
Thành phẩm:
Miếng
chè Lam phủ Quảng thường có độ dày 1,5 cm, cạnh vuông 5 cm. Khi chè lam
đã nguội thường dùng túi nilon để gói đóng thành sản phẩm.
Chè
Lam phủ Quảng có độ giòn thơm của gạo nếp, vị bùi của lạc, vị cay dịu
của gừng, vị ngọt đậm của mật mía. Miếng chè Lam có màu nâu nhạt, có hoa
trắng do lạc tạo nên.
Hiện
nay, nghề thủ công truyền thống chè Lam Phủ Quảng vẫn được duy trì tại
làng Cao Mật, xã Vĩnh Thành và một số hộ tại thị trấn Vĩnh Lộc.
2. Sâm Báo Vĩnh Hùng
Nói
về Sâm Báo ở xã Vĩnh Hùng huyện Vĩnh Lộc, sách “Thanh Hóa Vĩnh Lộc
huyện chí” của Lưu Công Đạo có viết: “Là sản vật hiếm ở các núi Biện
Thượng, Hùng Lĩnh tục gọi là Báo Sâm, mùi vị ngọt, hơi chua, tính hơi
hàn, tẩm nước gừng đem đồ với gạo nếp, xắt thành từng miếng nhỏ, thời
tiết càng nóng uống càng tốt.
Sâm
ở núi Báo (nên gọi là Sâm Báo) thuộc làng Bồng Thượng xã Vĩnh Hùng
huyện Vĩnh Lộc có từ xa xưa. Hàng năm, mỗi độ xuân về, bà con xã Vĩnh
Hùng rủ nhau lên núi tìm Sâm và đào Sâm. Sâm mọc riêng lẻ từng cây. Sâm
đào được đem về rửa sạch, đưa lên Giếng Sôi ngâm độ 30 phút mới mang đi
sao tẩm.
Giếng Sôi ở tận khe Chân Chó cách làng 7 km. Ở đây, dưới chân núi có một giếng cạn rộng chừng 5- 6m2, quanh năm không bao giờ hết nước. Nước nóng chừng 300c, luôn nổi bóng sủi tăm, từ lòng khe núi đổ ra vì thế dân trong vùng gọi là Giếng Sôi (nghĩa là nước như sôi vậy).
Ngâm
nước Giếng Sôi đem về tiếp tục ngâm nước gạo nếp, đồ với gạo nếp đến
khi nào sôi chín là được. Sâm đồ được thái lát mỏng đem phơi, sau đó
tẩm nước gừng, sao qua bếp lửa, khi sao tẩm có tra thêm chút mật ong; bỏ
vào lọ hoặc giấy gói kín, khi dùng pha nước uống như uống nước chè;
thơm ngon, mát bổ. Ngoài ra có thể đem ngâm rượu uống làm cho con người
khoan khoái, khỏe mạnh.
Sâm
có rải rác trên núi Báo, núi Gạch Xây, núi Sóc Sơn, núi Dựng, núi Voi,
núi Rùa…nhưng chỉ có Sâm ở núi Báo là tốt hơn cả, có lẽ là do chất đất
và tinh túy của đất trời tạo cho Sâm Báo có giá trị thần dược như vậy.
Chẳng những thế mà trong triều đại phong kiến đã nói về Sâm báo là: “ĐẠI
VIỆT ĐỆ NHẤT DANH SÂM”.
3. Dê núi Vĩnh An
Dê núi Vĩnh An là tên gọi thông dụng của các món đặc sản ẩm thực được chế biến từ thịt dê sống ở miền núi đá vôi Vĩnh An như tái dê, lẩu dê, dê xào, dê nướng, dê hấp, dê hầm...
Tái dê: Thịt dê nhúng vào nước sôi cho chín tái, sau đó thái nhỏ, mỏng đều. Lấy vừng đã rang giã dập, sả thái nhỏ, lá chanh, gừng, ớt tươi thái nhỏ, nước chanh, gia vị cùng thịt dê tái đã thái, tất cả trộn đều là thành tái dê. Ăn tái dê phải kèm theo lá sung, chuối xanh, khế, lá mơ và
không thể thiếu tương gừng để chấm. Thông thường có ba loại tái dê: Tái
nhúng là cách thịt dê thái mỏng thành lát rồi nhúng vào nước đang sôi,
ăn theo cách này thì thịt dê được dai hơn; Tái lăn là cách thịt dê thái
mỏng rồi lăn qua chảo mỡ nóng. Loại này khi ăn có vị thơm và bùi béo;
Tái vừng là thịt dê được thái mỏng lăn qua chảo mỡ nóng như cách làm
trên, sau đó đưa ra bóp trộn kỹ với vừng hoặc lạc rang dập nhỏ cùng một
số gia vị khác. Khi ăn cả ba món đều phải dùng tới nước chấm. Nước chấm
phổ biến nhất là Tương bần. Ngoài ra, khi thưởng thức món tái dê, thực
khách có thể ăn kèm một số gia vị như ớt, tỏi, sả, rau thơm... tùy theo
khẩu vị từng người. Thông thường tại các nhà hàng, người ta gói tái dê
trong lá sung hoặc bánh đa tráng mỏng, chấm tương bần, nên ăn vừa có vị
bùi, vị chát, vừa thơm ngọt.
Các món ăn khác từ thịt dê:
dê nướng, lườn dê xào lăn, dê tái chanh, dê hấp sả, dê xào sa tế, dê
xào thập cẩm, ngọc dương xào xả ớt, dê bóp thấu, dê hấp cách thuỷ, chân
móng dê hầm thuốc bắc…
Ngoài
một số đặc sản kể trên, Vĩnh Lộc còn có nhiều đặc sản đã đi vào thơ ca
như: Khoai bông chợ Bồng, Ổi Đa Bút, Táo Phương Giai, Cà Giáng, Dưa Don
Vĩnh Yên…
Ai về nhớ Táo Phương Giai
Nhớ Ổi Đa Bút, nhớ Khoai chợ Bồng
Chịu trách nhiệm xuất bản
Vũ Thị Hương
TVHU – PBT – Chủ tịch Ủy ban Nhân dân huyện
Trưởng ban biên tập
Nguyễn Văn Tâm
HUV – Phó chủ tịch Ủy ban Nhân dân huyện
Nguồn
bài đăng
Ông Trịnh Văn Chẩn sinh năm 1938-Hiệu trưởng trường Tiểu học Phước Tân-Nha Trang-Khánh hòa, nguyên quán: Làng Phù Lưu, xã Vĩnh Yên, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa
Ông Trịnh Văn Chẩn sinh năm 1938-Hiệu trưởng trường Tiểu học Phước Tân-Nha Trang-Khánh hòa, nguyên quán: Làng Phù Lưu, xã Vĩnh Yên, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa