Xác
nhận rằng phép thi đời xưa nghiêm mật không khỏi khiến
cho một số người hoài nghi. Nếu đã " nghiêm " sao lại có
những vụ bán văn trong trường thi như kiểu Vân Hạc, Đốc
Cung trong Lều Chõng của Ngô Tất Tố ? Quan trường mà
nghiêm minh sao còn xẩy ra những vụ án chấn động giới sĩ
phu như vụ Lê Quý Kiệt đổi quyển thi với Đinh Thì Trung
?
Sự thật, gian lận
thời nào cũng có, song Khoa cử ba năm mới tổ chức một lần,
tỉ lệ số người đỗ mỗi khoa lại rất ít, người đỗ
danh vọng cao, quyền uy nhiều cho nên người học trò đi thi
rất dễ bị cám dỗ, miễn sao chóng được thi đỗ để ra
làm quan. Song vì một số người gian lận mà chê Khoa cử tổ
chức thiếu nghiêm mật e không đúng. Quả thật cha ông ta
đã nghĩ hết cách để phòng ngừa, thiết tưởng đời nay
chưa chắc đã bằng : không những Thí sinh bị khám xét, canh
phòng cẩn mật, mà cả đến quan trường cũng bị giám thị
gắt gao. Luật lệ cũ đã ấn định từng chi tiết một.
Không phải người
học trò nào cũng có quyền thi Hương. Muốn thi Hương phải
qua một kỳ thi Hạch, có đỗ mới được dự thi. Thi Hạch
được tổ chức mỗi năm một lần, những người đỗ gọi
là Khoá sinh, người đỗ hạng nhất gọi là Đầu xứ.
Ai đã đỗ Tú tài
trong một khoa thi Hương trước thì được miễn Hạch.
Mấy tháng trước
kỳ thi Hương, Thí sinh phải nộp quyển cho quan Đốc học
tỉnh nhà, coi như thế là ghi tên đi thi.
Khoa cử thời nhà
Nguyễn lúc đầu tổ chức còn lạo thảo. Mãi sau mới có
định lệ kể từ khoa 1829 học trò ứng thi phải khai đủ
tên họ, lý lịch ông cha ba đời trên mặt quyển. Lời khai
phải được lý trưởng chứng nhận. Những người có ông
cha ba đời làm nghề xướng ca, hay can án trộm cắp, hoặc
làm giặc ( làm quan với nhà Tây Sơn hay cả với nhà Lê cũng
bị coi là làm giặc ) đều không được đi thi, cho nên nhiều
người muốn đi thi đành phải khai man. Thời nhà Lê có khi
lýù trưởng còn phải ra tận trường thi để nhận diện
Thí sinh, tránh những vụ nhờ người đi thi hộ. Khoa cuối
triều Nguyễn, Thí sinh phải dán ảnh (1).
Khoa 1831, tại trường
Thừa Thiên, Lê Đức Quang, Phạm Huy ông cha làm quan nhà Nguyễn
mà biên lầm là làm quan với nhà Lê đều bị xoá tên trên
bảng Cử nhân(2).
Nhiều người ở
xa đến kỳ thi không kịp về nguyên quán để thi cũng phải
khai gian nên năm 1832 lại có đạo dụ cấm không được đổi
tên họ quê quán để đi thi, kẻ phạm tội dẫu đỗ đến
Tiến sĩ cũng bị truất (3).
Năm 1841, trường
Gia Định, Phạm Duy Hàn mạo nhận quán ở Bình Thuận, bị
xoá tên trong sổ Cử nhân, đuổi về quê quán ở Nam Định,
suốt đời không được đi thi nữa (4).
Lệ năm 1831 định
rằng quyển thi không được có vết tích (e làm dấu hiệu
thông đồng với khảo quan). Họ tên, quê quán phải được
duyệt xét cho tường tận, đích xác rồi quan Trấn (Tổng
đốc) mới đóng ấn triện vào, sau đó Học quan (Đốc học)
mới chuyển quyển thi vào trường. Cả hai quan Trấn và Đốc
học cùng ký tên vào bản danh sách những người ứng thi trước
khi gửi vào kinh. Triều đình theo đó mà ấn định số khảo
quan nhiều hay ít (5).
Từ nửa đêm hôm
trước các quan mặc áo đại triều lên ghế tréo trước cổng
các vi để chứng kiến lễ điểm danh và coi bọn lính Thể
sát khám xét không cho Thí sinh mang sách hoặc bài vở làm sẵn
vào trường.
Ngay từ khoa thi
Hương đầu tiên của nhà Nguyễn (1807) đã có lêänh cấm
Thí sinh không được mang sách vào trường, không được dời
khỏi lều khác hỏi chữ. Mược người làm bài, hay tự mình
làm bài thay đều bị tội đồ
(6).
Trước năm 1826
người đi thi phạm tội này chỉ bị đóng gông, đánh trượng
rồi đuổi ra, thi Hội cũng chỉ bị đuổi ra thôi (7).
Từ 1831 mới định lệ ai phạm tội bị gông một tháng, mãn
hạn đánh 100 trượng rồi tha. Những người đỗ Cử nhân,
Tú tài, Giám sinh đều bị xoá tên trong sổ, trở thành bạch
đinh, lại vĩnh viễn không được làm ở các nha môn. Nếu
chỉ lỡ mang giấy có chữ vào trường, không phải văn bài
làm sẵn hay kinh sách thì bị đánh 40 roi rồi cho vào thi (8).
Khoa 1897, Phan Bội
Châu cũng bị can án " Hoài hiệp văn tư, chung thân bất đắc
ứng thí " (mang giấy có chữ vào trường, suốt đời bị
cấm không được đi thi) sau phải vào Huế xin phá án nên
năm 1900 cụ Phan mới đỗ Thủ khoa trường Nghệ. Lý do vụ
này khôâng được rõ rệt vì mỗi người nói một cách (9)
còn chính cụ Phan chỉ nhìn nhận có bị can án nhưng không
cho biết vì sao.
Biển "Phụng chỉ" ở bên trái, chữ "phụng" trỏ vào ông Phó Chủ-khảo nên được viết nhỏ đi một nửa và lệch về phía hữu, chữ "chỉ" trỏ vào sắc lệnh của vua, được đài lên cao một hàng, viết to và ngay-ngắn chính giữa. |
- tránh gian lận
- tỏ lòng tôn kính
đối với vua và quan trường
Phạm tội nhẹ
thì chỉ bị đánh hỏng, tội nặng tên phải nêu ra bảng
con, tức là một cái bảng xấu xí bằng phên tre, trét vôi
trắng, dài độ 3 thước, ngang độ ba gang, trên ghi tên những
người can tội nặng như phạm huý, bất túc v.v...(10).
Nhiều người có
tài chỉ vì phạm trường quy không bao giờ đem được tài
ra ứng dụng với đời thật là đáng tiếc. Vậy trường
quy đích thực là những luật lệ gì ? Xin chỉ nêu ra đây
những luật lệ thường được nhắc tới :
& Phạm huý.
Trước ngày thi có bảng yết ở cửa các vi những chữ
huý mà ai cũng phải tránh, kể cả khảo quan. " Tuyệt bút
" là cấm ngặt không được dùng, lúc đọc phải tránh âm,
lúc viết phải sửa đổi hay dùng những chữ cận âm, cận
nghĩa thay thế. Những chữ huý lại chia làm hai loại : trọng
và khinh.
* Trọng huý là
tên các vua nhà Nguyễn như :
Miên, Hồng, Đởm,
Thì, Ưng v.v...
Nếu :
- gặp chữ " Nhậm
" thay bằng chữ " Dụng " (cận nghĩa)
- gặp chữ " Thì
" thay bằng chữ " Thìn " (cận âm).
Ngô Thì Nhậm có
thể biến thành Ngô Thìn Dụng (11) v.v...
* Khinh huý là
khi viết bài gặp tên mẹ, tên bà của vua thì phải bớt đi
một nét (tĩnh hoạch) hoặc thêm một nét, hoặc bỏ trống
một bên. Nếu phạm tội thi Hương bị đánh 80 trượng, thi
Hội bị đánh 90 trượng, thi Đình bị đánh 100 trượng. Người
nào không có phẩm trật chỉ bị hỏng tuột, người đã làm
quan bị giáng bốn cấp, đổi đi nơi khác(12).
Khoa 1847, Đặng
Huy Trước đỗ trúng cách, chỉ vì bài văn sách có câu "
gia miêu chi hại " (làm hại luá tốt) mà bị hỏng tuột
Cử nhân. Nguyên do " Gia Miêu " là tên làng, quê của vua nhà
Nguyễn (huyện Tống Sơn, Thanh Hoá), họ Đặng phạm tội thiếu
kính cẩn (13).
Vì phạm huý làm
hỏng oan nhiều người nên ngay từ thời Hậu Lê, Lê Quý Đôn
đã chủ trương bỏ lệ này và được chúa Trịnh ưng chuẩn.
Khoa thi Hội 1772, Lê Quý Đôn làm khảo sát đã chọn đầu
bài thi mà không kiêng tên vua Lê, chúa Trịnh :
Kỳ 3 : Dĩ quân
đức nhật tân
(lấy đức vua ngày một mới).
Kỳ 4 : Đồ giang
dư lương (cầu nhỏ cho người đi bộ, cầu to cho xe đi)
(14).
Tiếc rằng chủ
trương cải cách của Lê Quý Đôn không được nhà Nguyễn
noi theo.
& Khiếm
trang là
bên chữ " vua " không được viết thêm những chữ " hôn ",
" sát ", " hung " để có thể hiểu lầm vua u mê, hung dữ, hay
bị giết v.v...(15).
& Khiếm
tỵ là không được viết tên các cung vua, cung hoàng
hậu v.v... Trong Lều Chõng,
Đốc Cung bị nêu tên lên
bảng con vì đã viết " tam bách niên xã tắc chi trường, ninh
phi lại ư thử tai " (xã tắc nhà Đường lâu dài đến 300
năm há chẳng nhờ điều đó hay sao ?). Tuy chữ " trường "
ở cuối câu đầu, " ninh " ở đầu câu sau những vẫn bị
coi là phạm tội vì đứng sát cạnh nhau và " Truờng Ninh "
là tên một cung trong nội.
& Khiếm
đài.
Để tỏ lòng cung kính, viết bài gặp chữ " Trời
" phải đài lên cao ba tầng, tức là trên hàng viết ba chữ,
đó là đài lên cao tột bậc. Gặp chữ trỏ vào bản thân
vua phải đài lên cao hai tầng, gặp chữ trỏ vào đức tính
hay công việc của vua phải đài lên cao một hàng(17).
Thí dụ :
" Thiên địa giao
miêu ", chữ " Thiên " phải đài lên tột bậc (hàng du cách).
" Hoàng thân ", "
long nhan ", phải đài lên cao trên hàng viết hai chữ (đệ
nhị cách).
& Khiếm
cung. Trongbài làm, khi xưng với vua hay quan phải viết
nhỏ lại và lệch sang một bên. Ví dụ :
" Đối thần văn
", xưng với vua, chữ " thần " phải viết nhỏ đi một nửa
và lệch sang bên hữu.
" Đối sĩ văn ",
xưng với quan trường, cũng viết chữ " sĩ " nhỏ và lệch
đi.
Trong chiếc ảnh
của Salles chụp cảnh lễ xướng danh khoa Đinh Dậu (1897) ta
thấy phía trái, ông Phó Chủ Khảo ngồi bên cái biển " Phụng
chỉ ". Chữ " phụng " được viết lệch sang bên phải vì
trỏ vào quan Phó Chủ Khảo, còn chữ " chỉ " được viết
to ngay ngắn chính giữa vì trỏ vào vua.
& Cấm tì
ố.
Quyển thi phải giữ sạch sẽ không được có vết
mực hay hoen ố, nếu không sẽ bị đánh hỏng. Công dụng
của cái ổng quyển mà các Thí sinh trân trọng đeo trước
ngực là để che chở cho quyển văn khỏi bị mồ hôi hay nước
mưa làm hoen ố.
& " Bất
túc ", " bất cập " là viết không đủ quyển, không
thành bài. " Duệ bạch " là chỉ viết được vài dòng. Tội
này nặng vì chứng
tỏ Thí sinh không đủ sức đi thi mà khảo
quan duyệt hạnh không kỹ hoặc cố tình nâng đỡ. Trường
hợp này cả khảo quan lẫn thầy học cùng bị phạt.
Khoa 1856, Nguyễn
Hữu Kiêu, ấm sinh ở Quốc Tử Giám, trước thi Hương viết
không đủ quyển, quan ở bộ Lại cho là quan Giám sát hạch
không tinh, xin theo lệ Đốc học các tỉnh, mỗi tên học sinh
có vết xấu, phạt bổng 9 tháng lương. Vua y(18).
Năm 1835, vua hỏi
Phan Huy Thực : " Nghe nói đời Hậu Lê, đầu bài thi Đình
rất nhiều, có người làm không xuể, nhúng ướt quyển là
tại sao ? " Đáp : " Phép thi thời cựu Lê cốt lấy nhớ nhiều,
làm không đủ bài e nhơ đến danh tiến sĩ nên nhúng ướt
quyển thi " (để chỉ mắc tội tì ố).
& Thiệp
tích. Chung quanh hai dấu " Giáp phùng " và " Nhật trung
" không được " đồ, di, câu, cải " (tẩy, xoá, móc, sửa)
quá mười chữ. Cũng không được xoá mù tịt, sẽ phạm tội
" đồ bất thành tự ". Muốn xoá phải để ba chấm vào mặt
chữ cho quan trường nhận rõ nguyên hình (19).
" Giáp phùng " là
con dấu đóng giữa trang 2 và 3, trước khi phát quyển cho học
trò, để tránh chuyện mang bài làm sẵn vào đánh tráo. Khi
làm bài đến chỗ có dấu " giáp phùng " phải viết đè lên
trên.
" Nhật trung " là
con dấu lấy ở trường thi, sau khi đã bắt đầu viết được
độ hai dòng rưỡi thì lên nhà Thập đạo xin dấu chứng
thực bài viết trong trường. Chung quanh dấu phải để trống,
không được viết.
& Cánh quyển.
Nếu lỡ viết lầm nhiều quá hoặc quyển bị tì ố,
được phép thay quyển mới, nhưng phải lên nhà Thập đạo
xin lại hai dấu " giáp phùng " và " nhật trung ".
& Ngoại
hàm. Khoảng 5, 6 giờ chiều thì đánh trống thu quyển.
Theo Ngô Tất Tố, phép đánh trống cũng phải theo lệ luật
: bày 17 đồng tiền Gia Long lên mặt bàn, nhặt lên từng đồng
xong thì đánh một tiếng trống. Lại bày tiền xuống, nhưng
mỗi lần sau bớt đi một đồng. Đánh đủ ba hồi chín tiếng
thì khoá hòm đựng quyển. Những quyển nộp sau khi hòm đã
khoá gọi là " ngoại hàm ", không được chấm nhưng vẫn được
đọc kỹ xem có phạm trường quy hay không. " Ngoại hàm " là
tội nặng, cũng bị nêu tên lên bảng con.
Khi viết xong bài,
phải đếm những chữ xoá, móc v.v... và ghi vào cuối quyển
với mấy chữ " cộng quyển nội " rồi mới đem nộp quyển
ở nhà Thập đao
(20).
Khảo quan có hai
hạng : Giám khảo và Giám sát.
Khoa thi Hương đầu
tiên của nhà Nguyễn được tổ chức vào năm 1807, ấn định
cách chọn khảo quan như sau :
Nội trường
gồm
có :
- từ 6 đến 14
ông Sơ khảo, hàng bát tới lục phẩm ;
- từ 4 đến 6 ông
Phúc khảo, hàng lục tới tứ phẩm ;
- 2 ông Giám khảo,
hàng tứ hay tam phẩm ;
Ngoại trường
gồm :
- 1 Đề điệu (Chủ
khảo) hàng nhị phẩm ;
- 1 Giám thí (Phó
Chủ khảo) hàng tứ tới nhị phẩm ;
- 2 Phân khảo, hàng
ngũ phẩm.
B.
Ban Giám sát có
nhiệm vụ giám thị cả quan trường lẫn Thí sinh, thấy điều
gì trái phải đàn hặc, nếu không thì chính mình sẽ bị
trừng phạt. Ban này chia làm hai :
Bên trong trường
thi có :
- 2 Giám sát hàng
Ngự sử, Chưởng ấn (một coi nội trường, một coi ngoại
trường)
- 8 viên đội Thể
sát, chức xuất đội
- 4 viên Mật sát.
Bên ngoài trường
có
600 biền binh và voi ngựa tuần hành.
C.
Ngoài ra còn hai quan Đề tuyến
Nội và Ngoại trường phụ trách việc rọc phách,
kháp phách, kê khai danh sách những người thi, người đỗ,
yết bảng v.v...
- và khoảng 40 Lại
phòng (thư ký) giúp việc ghi chép, yết bảng.
Độ vài tuần trước
kỳ thi, triều đình dựa theo bản danh sách Thí sinh mà định
số Khảo quan. Từ Phân khảo trở lên chọn các quan Kinh (làm
việc tại triều) toàn những người đỗ đạt. Riêng hai ông
Đề tuyển lại chọn người ít chữ để không thể sửa
bài hộ, vì hai ông này là những người độc nhất biết
tên người viết bài thi, khi kháp phách.
Ban Giám khảo được
triều đình cử ra rồi đệ lên cho vua chuẩn. Sau đó các
ông Chánh, Phó Chủ khảo, làm lễ bái mạng rồi ra bộ Lễ
lĩnh cờ " Khâm sai " (Chủ khảo) và biển " Phụng Chỉ " (Phó
Chủ khảo). Liền đấy hai quan Giám sát theo chân hai ông Chánh,
Phó Chủ khảo về nhà, có Thị vệ canh cổng không cho tiếp
xúc với ai nữa để phòng ngừa những chuyện hối lộ.
Ngay từ năm 1448,
Lê Khắc Phục, làm Đề điệu ở Quốc Tử Giám muốn ngăn
ngừa những chuyện tư túi, đã xin bắt các khảo quan phải
uống máu ăn thề. Lệ khảo quan phải thề bắt đầu từ
đấy(21).
Các ông Sơ khảo,
Phúc khảo kén người địa phương, nhưng người ở tỉnh
này phải đổi đi chấm thi ở tỉnh khác. Nếu có con em đi
thi cùng tỉnh thì phải làm giấy " hồi tị ", tức là xin
cáo không đi chấm trường, nếu không sẽ bị nghiêm trừng.
Các Lại phòng,
Thể sát do quan địa phương cử, cũng chọn những người
không đỗ đạt nhưng thanh liêm.
Độ một tuần
trước ngày thi, các quan ở Kinh ra đến nơi, lập tức đến
ra mắt quan Tổng đốc địa phương, rồi làm lễ bái vọng
ở Hành cung và lễ tiến trường (các quan ở ngay Kinh thì
làm lễ bái mạng).
Ngày tiến trường,
cờ quạt cắm suốt từ cổng thành ra đến trường thi. Đám
rước đi đầu có cờ quạt, chiêng trống, rồi đến cờ
" Khâm sai ", biển " Phụng chỉ " theo sau là võng lọng các
quan Chánh, Phó Chủ khảo, rồi theo thứ tự phẩm trật, đến
các ông Sơ khảo thì đi bộ, che một lọng, sau đến các Lại
phòng xếp hàng đôi, có 8 viên đội Thể sát và một toán
lính nai nịt gươm giáo đi đoạn hậu. Đến trường, các
quan hàng tỉnh trở về, các khảo quan tiến vào trường. Cổng
trường khoá lại, có lính canh gác ngày đêm trong suốt thời
gian chấm thi dài độ 5 tuần.
Lệ năm 1807 cấm
các quan trường không được mang giấy tờ có chữ và mực
đen vào trường (sợ sửa bài hộ học trò). Nội, ngoại trường
nếu không có việc không được gặp nhau. Cần dùng thức
gì phải trình Giám sát Ngự sử ngoại trường, người độc
nhất có quyền giao dịch với quan Tổng đốc bên ngoài nhờ
chu biện.
Năm 1876, Phúc khảo
Đặng Huy Hoán vì mang hộp mực đen vào trường mà bị phạt
100 trượng và bị cách chức về quê. Giám sát, Giám khảo
tâu hạch đều được thưởng(22).
Trên nguyên tắc,
các quan trường cũng không được mang theo đầy tớ, mọi
phục dịch đã có lính cáng đáng. Song ta vẫn nghe những giai
thoại kể chuyện quan trường đem ả đào cải nam trang làm
người hầu vào trường thi cho đỡ buồn những khi không chấm
bài như trường hợp Nguyễn Công Trứ, Chủ khảo trường
Hà Nội khoa 1840(23).
Đại để trường
thi chia làm hai phần, phần ngoài dành cho Thí sinh, phần trong
cho quan trường.
Phần ngoài lại
chia ra làm 4 hay 8 vi, " vi " là nơi dành cho sĩ tử cắm lều.
Chính giữa chỗ gặp nhau của hai con đường hình chữ thập,
chia phần ngoài ra làm 4, có xây một ngôi nhà gọi là nhà
Thập đạo. Đấy là chỗ quan trường họp để ra đầu bài
và là chỗ Thí sinh đến xin dấu Nhật trung và nộp quyển.
Phần trong cũng
chia ra làm hai, trong cùng là nội trường dành cho các ông Sơ
khảo, Phúc khảo và Giám khảo làm việc. Ngoại trường tiếp
giáp với khu Thí sinh là chỗ ở và làm việc của các ông
Chánh, Phó Chủ khảo và Phân khảo.
Giữa nội và ngoại
trường lại có một khu nhỏ xây kín mít chỉ chừa có một
lối đi ra ngoại trường. Đấy là khu dành cho các ông Đề
tuyển, những khảo quan khác không được bén mảng đến nơi
này.
Mỗi khi có chuyện
bất đồng ý kiến, các quan nội trường thảo luận tại
Giám viện xây chính giữa nội trường ; các quan ngoại trường
thảo luận tại Thí viện, chính giữa ngoại trường.
Các Lại phòng,
Thể sát cũng đều bị giam lỏng như các quan trường trong
suốt thời kỳ 5 tuần.
Trường Nam Định
có tới 7 chòi canh. Trước mỗi cổng ngăn cách các khu nội,
ngoại và khu Đề tuyển đều có lính canh. Hôm thi, ngoài trường
có biền binh cưỡi voi ngựa đi tuần rầm rập suốt ngày.
Quyển
thi đóng dấu ấn triện của quan Tổng đốc rồi được gửi
vào trường. Các ông Đề tuyển đóng dấu tên Thí trường
vào trang đầu và dấu Giáp phùng vào giữa trang 2 và 3, sau
đó trộn đều, chia làm 4 hay 8 phần cho 4 hay 8 vi. Lại phòng
ghi tên Thí sinh mỗi vi vào sổ rồi làm bảng yết danh ở
cửa vi.
Người cùng một
nhà không được xếp cùng một vi.
Quyển được giao
cho ngoại trường để phát cho học trò hôm thi.
Trước hôm thi một
ngày, treo bảng yết danh và trường quy từ sáng sớm ở mỗi
cửa vi.
Khoảng nửa đêm,
các khảo quan bận triều phục lên ghế tréo trước cổng
vi chứng kiến lễ điểm danh và coi lính khám xét học trò
trước khi phát quyển cho vào trường. Các ông Giám sát cũng
lên chòi canh.
Học trò viết bài
được chừng hơn hai dòng phải đến nhà Thập đạo xin dấu
Nhật trung (vì lúc ấy vào khoảng giữa trưa). Bài làm xong
cũng nộp ở nhà Thập đạo, có lính đóng dấu vào cuối
quyển chứng nhận trước mặt các ông Đề tuyển, rồi bỏ
vào hòm đựng quyển. Những quyển nộp sau khi khoá hòm gọi
là " ngoại hàm ".
Quyển được giao
cho Đề tuyển rọc phách rồi đưa vào nội trường. Giám
khảo phải khám xét dấu niêm phong trước khi mở hòm phân
phát cho các ông Sơ khảo chấm trước tiên bằng son ta (mầu
gạch), xong đến các ông Phúc khảo chấm lại bằng mực xanh,
cuối cùng đến Giám khảo duyệt lại lần nữa bằng mầu
hồng đơn. Những người chấm thi phải đề rõ tên họ, chức
tước, số điểm rồi ký tên lên mặt quyển.
Nội trường chấm
xong chuyển qua Đề tuyển đưa ra ngoại trường. Các ông Chánh,
Phó Chủ khảo chấm lại những bài được nội trường lấy
đỗ. Phân khảo đọc những quyển bị đánh hỏng xem ai đáng
vớt thì trình lên Chủ khảo. Ngoại trường chấm bằng son
tầu mầu đỏ tươi.
Chữ đẹp có thể
được tăng điểm, chữ xấu có thể bị đánh hỏng như trường
hợp Nguyễn Văn Siêu (1796-1872) quê làng Kim Lũ, huyện Thọ
xương, Hà Nội, thi Hương khoá 1825 đáng đỗ đầu, bị xếp
xuống thứ hai, thi Hội khoá 1838 đỗ Tiến sĩ bị xếp xuống
Phó bảng chỉ vì chữ " như gà bới ", xấu đến nỗi vua
Tự Đức đã phải trêu :
Thần đâu mà
chữ xấu như ma,
Lem lọ cho người ngó chẳng ra.
Nếu phải hoạ buà trừ quỷ tặc,
Khôn thiêng thì hãy hộ hoàng gia.(24)
Lem lọ cho người ngó chẳng ra.
Nếu phải hoạ buà trừ quỷ tặc,
Khôn thiêng thì hãy hộ hoàng gia.(24)
Khi chấm xong, xếp
đặt cao thấp rồi mới gửi cho Đề tuyển kháp phách, lập
danh sách những người trúng cử, đem yết.
Sau mỗi kỳ thi,
Chủ khảo và Giám sát mỗi người phải làm một bản phúc
trình đệ về kinh, nếu không sẽ bị phạt. Tất cả các
quyển thi, đỗ hay hỏng, kể cả ngoại hàm dều được gửi
về kinh duyệt lại. Triều đình có thể lấy thêm người
này, đánh hỏng người kia, hay thay đổi thứ bực như trường
hợp Cao Bá Quát đỗ Á nguyên (thứ nhì) trường Hà Nội 1831,
bị bộ Lễ xếp xuống cuối bảng.
Mặc dầu luật
lệ phòng ngừa rất nghiêm, nhưng chuyện gian lận vẫn không
thể nào tránh khỏi. Cụ Hà Ngại, một người đã từng đi
thi trường Thừa Thiên, viết trong Hồi Ký
(chưa in) :
" Đến Huế, tôi nhờ một người bạn thân làm bài cho anh
bạn (dốt) với giá 5 đồng, không phải để mong thi đỗ
vì giá làm bài đỗ đến những 50 đồng (1 con gà trị giá
4 đồng). Còn phần tôi, khi ở trường thi thấy có thì giờ,
làm một đoạn văn bán được 5 đồng ".
Đấy là thời nhà
Nguyễn. Thời nhà Lê xem ra có khi còn tệ hơn với những "
Sinh đồ ba quan ", đến nỗi triều đình phải bắt thi lại
ít nhất hai lần trên bãi sông Hồng. Nguyên do vì năm 1750,
kho quỹ thiếu hụt, chúa Trịnh nghe theo kế hoạch làm tiền
của Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc, không theo lệ thi Hạch
cũ mà cho phép học sinh 10 tuổi trở lên hễ ai nộp ba quan
tiền gọi là " tiền thông kinh " (thuộc kinh sách) đều được
đi thi. Những người không có học nhưng muốn có một chút
danh không ngại bỏ tiền thuê người thi hộ, có những đứa
trẻ cũng đổ tam trường, do đó người ta mới gọi giễu
là " Sinh đồ ba quan "(25).
Kể ra chuyện gian
lận thì thời nào cũng có, xưa hay nay, Đông hay Tây cũng vậy
mà thôi. Nhưng vì Khoa cử gian lận có thể đưa đến những
hậu quả to lớn : Thí sinh suốt đời bị cấm không được
đi thi nữa, khảo quan có thể bị kết án tử hình cho nên
sử sách của ta ghi chép rất kỹ. Vũ Trung Tuỳ Bút chép
vụ Ngô Thì Sĩ, Phạm Vĩ Khiêm bị quan trường thù ghét đánh
hỏng oan, vụ Tao Sơn, Lương Nghị tư túi(26)v.v...
* Đại Nam Thực
Lục
cũng chép năm 1834, trường Nghệ, có Nguyễn Văn Giao
hạng liệt, Nguyễn Thái Đễ hạng Tú tài nhưng có tiếng
là danh sĩ. Chủ khảo Nguyễn Tú lấy thêm vào hàng Cử nhân,
đổi mặt quyển, phê lại. Bộ Lễ phát hiện tâu lên. Vua
ghét làm rối loạn quy luật trường thi sai biền binh truyền
chỉ cách chức, bắt Tú và Ngạn xiềng lại giải về kinh.
Tú bị tội trảm giam hậu (giam lại đợi ngày hành quyết)
Ngạn là tòng phạm chỉ bị xử tội lưu. Giám khảo Nguyễn
Duy Hựu, Giám sát Trương Tăng Diễn phải tội đồ, những
người khác bị giáng chức, Nguyễn Văn Giao và Nguyễn Thái
Đễ nghe quan trường viết lại quyển, phải 100 trượng, cho
về làm dân, suốt đời không được thi nữa(27).
* Sách Cương
Mục
(28) cũng chép khoa 1696, trường Thanh Hoá có
Ngô Sách Tuân làm Giám thí. Trước Tuân có tố cáo Tham tụng
Lê Hi tư túi, gian lận, gây mối hiềm khích. Nay thấy con Lê
Hi đi thi hỏng, muốn xoá bỏ cựu hiềm, lấy lòng Lê Hi, đưa
quyển cho Khảo quan lấy đỗ. Đề điệu Ngô Hải giấu hộ
nhưng Tham chính Phan Tự Cường phát giác. Ngô Sách Tuân phải
xử giảo, Sơ khảo, Phúc khảo bị phạt, Tự Cường được
thăng lên Thiêm đô ngự sử.
* Nổi tiếng hơn
nữa là vụ án Lê Quý Kiệt / Đinh Thì Trung, Khoa Thi Hội 1775,
Lê Quý Đôn điều đình với học trò giỏi của mình là Đinh
Thì Trung đổi quyển cho con mình là Lê Quý Kiệt. Kết quả
Kiệt đậu Thủ khoa. Khoa ấy vua Lê, chúa Trịnh đánh cuộc,
vua Lê cho Thủ khoa sẽ về tay Kiệt vì Kiệt là con Lê Quý
Đôn, tất học giỏi ; Chúa Trịnh đã biết học lực Thì
Trung nên đánh cuộc Trung sẽ đỗ dầu và định bụng hễ
đỗ là sẽ trọng dụng ngay. Chúa Trịnh thua cuộc, không chịu,
duyệt lại văn bài, khám phá ra vụ đổi quyển. Thì Trung
cáo tố Lê Quý Đôn làm chủ sự. Vì Lê Quý Đôn làm quan
to, Trịnh Sâm bỏ đi không phạt và Lê Quý Kiệt chỉ bị
giam rồi giáng xuống làm dân thường, Thì Trung bị đầy đi
An Quảng. Người đương thời làm câu đối giễu :
Quý Kiệt hoàn
dân, tăng Duyên Hà chi đinh xuất
Thì Trung phát
phối, chấn An Quảng chi văn phong(29).
* Một vụ án nổi
danh không kém là vụ có dính liếu đến Cao Bá Quát. Năm 1841,
Cao làm Sơ khảo trường Thừa Thiên, cùng Phan Nhạ lấy muội
đèn thay mực sửa bài hộ cho 24 quyển phạm trường quy, vớt
được 5 người.
Nguyễn Văn Siêu
làm Phân khảo lấy đỗ Trương Đăng Trình, cháu Trương Đăng
Quế, đã bị đánh hỏng kỳ hai ở nội trường.
Chủ khảo Bùi Quỹ
thấy Quát viết đẹp, gọi ra ngoại trường viết bảng. Siêu
giữ Quát ngủ một đêm ở ngoại trường.
Việc bị Giám sát
đàn hặc. Án xử :
Quát, Nhạ bị tội
tử hình. Siêu phạt trượng và tội đồ. Chủ khảo bị cách
chức. Giám khảo bị giáng chức. Vua Thiệu Trị cho là Quát
không phải gian lận, chỉ muốn cứu vớt những Thí sinh có
tài mà lỡ phạm trường quy, lại thương Quát là người giỏi,
tha án xử trảm, giảm xuống " bảo giam hậu " (giam lại đợi
lệnh rồi xử giảo), chết được toàn thây, kể như nhẹ
hơn bị chặt đầu), sau lại đổi ra " xuất dương hiệu lực
" theo một phái đoàn đi Tân Gia Ba lấy công chuộc tội. Siêu
được tha tội đồ (đi đầy).
5 người đỗ phải
thi lại đủ cả ba kỳ, quyển đều khá, lại trả về bảng
Cử nhân. Quyển của Trương Đăng Trinh văn khá thông cũng
cho đỗ luôn
(30).
* * |
Xem thế đủ thấy
sự canh phòng và trừng phạt thời xưa nghiêm nhặt là chừng
nào.
Ngày nay nói đến
Khoa cử nhiều người lập tức liên tưởng đến những ông
Đồ ngâm thơ vịnh nguyệt, những ông quan tham lam đục khoét
của dân, những vụ đi thi gian lận, những người bị đánh
hỏng oan vì phạm trường quy hay bị quan trường thù ghét
v.v...Chuyện tuy có thật, nhưng Khoa cử không phải chỉ có
thế mà thôi.
Khoa cử dùng đạo
Nho để kén người ra làm quan, giúp vua trị nước. Người
quân tử của đạo Nho trị dân bằng đức hơn là bằng quyền
uy hay luật pháp, phải thương yêu dân như con nên ta mới gọi
những ông quan là " cha mẹ dân ". Người quân tử của đạo
Nho phải là người kiêm cả tài lẫn đức chứ không phải
trỏ riêng vào người nắm quyền chính lúc đầu, thời nhà
Chu. Theo đạo Nho, những người có tài mà vô hạnh đều không
được dùng. Tuổi trẻ đỗ cao thường sinh thói kiêu ngạo,
coi mình là nhất, khinh rẻ người khác, không còn là người
hữu ích cho xã hội nên người xưa coi đấy là cái họa chứ
không phải cái phúc. Lê Quý Đôn nổi tiếng thần đồng,
17 tuổi thi Hương đỗ thủ khoa, song thi Hội ba kỳ liền đều
hỏng vì giọng văn kiêu căng, sau phải thụ giáo quan Ngự
sử họ Vũ để " tày " bớt cái kiêu căng của tuổi trẻ
mới đỗ Bảng Nhãn(31).
Nho giáo dạy người
quân tử phải " tu thân " trước rồi mới bàn đến chuyện
" tề gia, trị quốc " v.v... chứ không dạy người học trò
tìm cách chóng ra làm quan để " vinh thân phì gia ". Người
học đạo không đến nơi, thiếu đức độ, đi thi thì gian
lận, ra làm quan thì đục khoét của dân hẳn không phải lỗi
ở đạo mà cũng không phải phép thi thiếu nghiêm cẩn ?
Nguyễn
Tuân, Chuyện Nghề,
tr. 176.
Đại Nam Thực
Lục
XX, tr. 82-3.
Cao Xuân Dục, Quốc
Triều Đăng Khoa Lục, tr. 64-5.
Đại Nam Thực
Lục
XI, tr. 231.
Đại Nam Thực
Lục
XXIII , tr. 372-3.
Đại Nam Thực
Lục
X, tr. 293-5.
Đại Nam Thực
Lục
III, tr. 339-41.
Đại Nam Thực
Lục
VIII, tr. 28-9.
Đại Nam Thực
Lục
X, tr. 293-5.
Ông già Bến
Ngự, tr. 64 : Theo Tôn Quang Phiệt thì có người bạn, Cử
nhân Trần Văn Lương, thấy cụ Phan say rượu, sợ ra thi không
nhớ kinh điển nên lén bỏ vào tráp bạn mấy quyển sách.
Thuyết này hơi vô lý vì họ Trần đã đổ Cử nhân hẳn
phải rõ lệ luật trường thi, và đã là bạn thân thì phải
biết rõ tài học và chí hướng của bạn : Phan Bội Châu
đỗ Đầu xứ, lại rất khinh rẻ Khoa cử, đi thi chỉ vì
nhận thấy không có học vị thì nói chẳng ai nghe, đời nào
lại chịu giở sách ra chép trong trường thi ? Huống hồ từ
nửa đêm học trò đã phải có mặt ở cổng trường, thế
mà họ Phan đã say sưa rồi thì vào trường còn làm trò trống
gì được ? Tôi không đọc thấy chỗ nào nói cụ Phan nghiện
rượu.
Tr. 152 : Thuyết
của Lê Thước có lý hơn : Trước khi thi, Phan Bội Châu đánh
nhau với bọn lính Thể sát nên bị họ thù ghét, nhét giấy
có chữ vào lều rồi vu oan cho.
Ngô Tất Tố, Lếu
Chõng, tr. 169.
Bùi Dương Lịch,
Lê Quý Dật Sử, tr. 7.
ĐNTL XXXIV,
tr. 77-8.
Cao Xuân Dục, sđd,
tr. 97.
Bùi Hạnh Cẩn,
Lê Quý Đôn, tr. 185
Ngô Tất Tố, sđd,
tr. 175.
Ngô Tất Tố, sđd,
tr. 171.
Ngô Tất Tố, sđd,
tr. 149.
ĐNTL XXIII,
tr. 268.
ĐNTL XI, tr.
258.
Ngô Tất Tố, sđd,
tr. 146.
Ngô Tất Tố, tr.
91.
ĐNTL XI, tr.
258.
Ngô Sĩ Liên, Sử
Ký Toàn Thư,
III,tr. 147.
ĐNTL XXXIII,
tr. 312.
Giai thoại làng
Nho toàn tập, tr. 265.
ĐNTL XXXIII,
tr. 199-200 chép Nguyễn Công Trứ làm Chủ khảo trường Hà,
khoa 1840, nhưng không nhắc đến vụ đem ả đào vào trường
thi, còn khoa 1825 có Đốc học Hồ Trọng Điển cho học trò
thi ăn mặc giả làm người hầu đi lẫn vào.
Công dư tiệp
ký
III tr. 37, lại chép Nguyễn Thọ Xuân (đỗ Tiến sĩ
năm 1831) khi làm Đề điệu trường Nghệ An cho hai thị nữ
mặc giả lính hầu đem vào trường. Việc phát giác nhưng
chúa Trịnh không nở bắt tội nên ỉm đi hộ.
Vũ Ngọc Khánh,
Đỗ Thị Hảo, Giai thoại Thăng Long, tr. 83-4.
Phó bảng là
những người thi Hội không đỗ Tiến sĩ nhưng được điểm
cao, khác với Bảng nhãn là người đỗ Tiến sĩ thứ nhì
của hạng nhất (đệ nhất giáp, đệ nhị danh) chỉ sau có
Trạng nguyên mà thôi.
Sinh đồ,
sau gọi là Tú tài, là những người thi Hương đỗ được
vào tới trường ba (tam trường) nhưng không đỗ cử nhân
mà chỉ ở bảng dự khuyết.
Hương cống,
sau gọi là cử nhân, là những người đỗ cả bốn trường.
Phạm Đình Hổ,
Vũ Trung Tuỳ Bút, tr. 90-7.
ĐNTL XV, tr.
239. 1841 Nguyễn Văn Giao và Nguyễn Thái Đễ xin được thi
lại, nhưng Thượng Thư bộ Lễ Phan Huy Thực chê văn dở không
cho, sau hai người này cũng đỗ Tiến sĩ.
Cương Mục
XVI, tr. 66-7.
Bùi Dương Lịch,
sđd, tr. 36 chép khoa 1778.
Quý Kiệt hoàn dân,
tăng sổ đinh của làng Duyên Hà (quê của Kiệt) lên
Thì Trung bị đày
ra Yên Quảng khiến cho văn phong ở đó dấy lên.
An Quảng = Quảng
Ninh. Trong Vân Đài Loại Ngữ, tr. 20, lại chép là " Đông
Hải " chứ không phải An Quảng.
Cương Mục XIX,
tr. 47.
Giai thoại làng
Nho toàn tập,
tr. 130.
ĐNTL XXIII,
tr. 244-7.
Cao Bá Quát, tr.
22-7.
31. Trần Thị Băng
Thanh,
Ngô Thì Sĩ, tr. 212.
Bùi Dương Lịch,
Lê Quý Dật Sử, Hà Nội : KHXH, 1967.
Dịch giả : Phạm
Văn Thắm.
Bùi Hạnh Cẩn,
Lê Quý Đôn, Hà Nội, 1985.
Cao Xuân Dục, Quốc
Triều Đăng Khoa Lục, Saigon : Bộ Quốc gia Giáo dục, 1962,
Dịch giả : Lê Mạnh Liêu.
Diên Hương, Tự
Điển Thành Ngữ, Điển Tích. Houston, Texas : Zieleks tái
bản 1981.
Đại Nam Thực
Lục Chính Biên,
Hà Nội : Viện Sử Học, 1962-78.
Khâm Định Việt
Sử Thông Giám Cương Mục, Hà Nội : Văn Sử Địa, 1957.
Lãng Nhân, Giai
thoại làng Nho toàn tập, Saigon : Nam chi tùng thư, 1966.
Ngô Sĩ Liên, Đại
Việt Sử Ký Toàn Thư, Hà Nội : KHXH, 1968.
Ngô Tất Tố, Lều
Chõng, Hà Nội : Văn Học tái bản, 1963.
Nguyễn Tuân, Chuyện
Nghề,
Hà Nội : Tác Phẩm Mới, 1986.
Ông già Bến
Ngự,
Hồi ký (của nhiều người), Huế : Thuận Hoá, 1987.
Phan Huy Chú, Lịch
Triều Hiến Chương, Khoa Mục Chí, Hà Nội : Sử Học 1961.
Dịch giả : Đỗ Mộng Khương, Trịnh Đình Rư, Cao Huy Giu.
Phạm Đình Hổ,
Vũ Trung Tuỳ Bút, Hà Nội : Văn Học, 1972, Paris : Đông
Nam Á tái bản, 1985. Dịch giả : Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến.
Susse, Robert de la,
" Les concours littéraires en Annam ". Extrait de la Revue Indochinoise,
N° 2, Fév. 1913, Hanoi-Haiphong, Imprimerie d�Extrême-Orient.
Thơ văn Cao Bá
Quát,
Hà Nội : Văn Học, 1984.
Trần Thị Băng
Thanh, Ngô Thì Sĩ, Hà Nội, 1987.
TrầnVăn Giáp, "
Lược khảo về Khoa cử Việt Nam ", Khai Trí Tiến Đức
tập san, số 2 & 3 Jan.-Juin 1941.
Vũ Ngọc Khánh,
Đỗ Thị Hảo, Giai thoại Thăng Long, Hà Nội, 1987.
Vũ Phương Đề,
Công
dư tiệp ký, Saigon : Bộ Quốc gia Giáo dục, 1962. Dịch
giả : Nguyễn Đình Diệm.
http://chimviet.free.fr/vanhoc/chquynh/loixua1/loixua02.htm#phepthinghiemmat
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét