GIỚI THIỆU
Nguyễn Trãi biên soạn - Lê Thái Tổ đề tựa
Lam Sơn Thực Lục
Thế Kỷ 15
(1431)
Tựa sách:
|
Lam Sơn Thực
Lục
|
Năm
|
Soạn giả:
|
Nguyễn Trãi
(biên soạn), Lê Lợi (đề tựa)
|
1731
|
Dịch giả:
|
Bảo Thần
|
1944
|
Nhà xuất bản:
|
Tân Việt (in
lần thứ 3)
|
1956
|
Chuyển sang ấn
bản điện tử bởi:
|
Công Đệ, Tuyết
Mai, Doãn Vượng, Lê Bắc
|
2001
|
Điều hợp:
|
Lê Bắc -
bacle@hotmail.com
|
2001
|
Lam-sơn Thực Lục
Tựa
(Khi sửa lại bộ
Lam-sơn thực lục)
Vua Thái-tổ Cao-Hoàng-đế của ta, ứng Trời, thuận người, nhân thời mở
vận, khởi nghĩa ở núi Lam, quét nhanh lũ giặc Minh. Kịp khi Kiền-khôn đã trở
lại như cũ, Vũ-trụ đã thay-đổi sang mới, khi ấy mới làm sách "Thực
lục". Trong đó: nào ý trời xui-khiến, nào việc người chăm-nom; nào vì
nghĩa cất quân; nào ra nguy vào hiểm; nào khi lấy ít địch nhiều; nào khi lấy
thực đánh hư; nào khi làm giấy tờ phản-gián để quấy-rối tình giặc; nào khi lấy
lời-lẽ phủ-dụ để yên-ủi lòng dân. Rồi ra, trăm trận đánh,
trăm trận thắng, để có được thiên-hạ.
Cùng với: bài đại-cáo khi bình giặc Ngô, đều là những lời trung, nghĩa, trí,
dũng; lẽ phải-chăng dạy lại con-cháu, đều là những đạo tu, tề, trị, bình, ...
Xét ra những việc mà chính mình Nhà Vua đã làm, không việc gì là không chép đủ.
Bộ sách này, cốt ý bày-tỏ sự khó-khăn về việc gây-dựng nghiệp đế, bảo cho con-cháu
được biết, để làm của báu gia-truyền mãi mãi; há những chỉ là khoe-khoang tài
võ như thần, tài văn như thánh mà thôi đâu! Phiền nỗi thế-đạo giữa chừng
sa-sút, mà bộ sách này cơ-hồ bị ngọn lửa tàn-ác đốt cháy, trong hồi lấn ngôi,
cướp nước. Thế nhưng công-đức ở trong Trời Đất nào phải không còn; lẽ phải ở
trong lòng người có mất sao được? Tới đức Hoàng-đế Bệ-hạ ngày nay, sớm chịu
mệnh trời, nối giữ nghiệp báu; đức, nghĩa, ngày một tiến; sức học ngày một cao;
thực là nhờ chúa Công-đức Nhân-Uy-Minh-Thánh Tây-Vương, lĩnh chức
Đại-nguyên-soái, Chưởng-quốc-Chính, Thái-sư, Thượng-phụ, có công nuôi-nấng,
đúc-hun, giúp-đỡ, gầydựng; ghi nhớ ơn đức của Tiên-vương, sửa-sang giềng-mối
của lễ-nhạc, để làm cỗi-gốc cho việc nươngtựa, phù-trì; chuyên ủy cho chúa Định
Nam-Vương lĩnh chức Nguyên-soái Điển-quốc-chính, duy trì danhgiáo, gây nên
thái-bình. Cùng các quan quân-thần, huân-thần, giảng cầu đạo trị nước. Dỡ coi
sách-vở, nhìn vào tục cũ, thấy đấng Tiên-tổ dựng nghiệp thật là khó-khăn; được
nước thật là chính-đáng; từ khi nước Việt ta lập thành nước đến giờ, chưa từng
có việc như thế. Nếu chỉ coi xem qua-loa, mà không kén lựa những điều cốt-yếu,
thì sao có rõ-rệt được nền công-đức trăm đời không thể dời-đổi, mà khiến cho
muôn thủa còn như trông thấy trước mắt được? Bèn nhân những ngày rỗi, thường
vời quan Tể-tướng cùng các nho-thần bàn đến việc kinh-doanh nghiệp lớn của các
bậc đế-vương tự đời xưa. Cho là bản sách cũ tuy có sao chép lại, thỉnh-thoảng
còn có chỗ lẫn sót, chưa dễ hiểu cho hết. Vậy nay muốn soạn lại cho thật
kỹ-lưỡng, thuần-túy, dùng để khắc vào bản gỗ, ngõ hầu công-nghiệp của bậc
Tiên-đế lại sáng tỏ với đời! Bèn sắc chúng tôi, tham-khảo với bản chép cũ của
các nhà mà sửa-sang lại; lầm thì chữa; sót thì bù; để đọc coi cho tiện,
truyền-bá cho rộng.
Chúng tôi vâng lĩnh lời vàng, đâu dám không gia công tìm-tòi, chắp-vá,
sắp lại thành sách, kính chép dâng lên, để đợi trí sáng-suốt coi tới. Được cho
tên là bộ "Lam-sơn thực-lục sửa lại". Lập tức sai thợ mộc khắc bản,
để lại lâu-dài. Khiến cho trong thiên-hạ, ai ai cũng biết đến đức Tiên-đế; công
lấy lại nước ở tay giặc Ngô, còn trội hơn là việc trừ quân tàn-bạo của Hán Cao;
ơn cứu được dân khỏi vòng nước lửa, nào có kém gì việc chữa nạn lụt-lội của Hạ
Vũ. Ơn-đức ngài chót-vót như núi Kiền, núi Thái; công-nghiệp ngài rực-rỡ như
mặt trăng, mặt trời. Than ôi! Người chép bộ sách này, nào phải như kẻ viết
Lĩnh-nam trích quái, bày ra những chuyện hoang-đường; như kẻ viết Việt Điện
u-linh góp lại những lời quái-gở! Chỉ là ghi lại những việc thực, để cho ngôi
nước được chính, nghiệp vua được rõ mà thôi! Rồi đây sẽ thấy huân-nghiệp của
Tổ-tông chói-lọi ở trên tờ ngọc; công-lao của Tổ-tông sáng ngời để giữa sách
vàng! Công ấy, đức ấy, thường rực-rỡ với nghìn, muôn đời vậy. Bèn viết để làm
lời tựa. Khi ấy là ngày tốt-lành, tháng cuối Xuân, năm đầu niên-hiệu Vĩnh-trị.
Đặc-tiến Kim-Tử Vinh-Lộc Đại-phu, Tham-tụng, Công-bộ Thượng-thư, kiêm Đông-các
Đại-học-sĩ, coi việc chép Quốc-sử, Duệ-quận-công, Thượng-trụ quốc, tôi là Hồ Sĩ
Dương. Gia-Tĩnh đại-phu, Bồi-tụng, Lại-bộ Tả-thị-lang, vào hầu việc Giảng Sách.
Sử-quán Đô-tổng-tài, tôi là Đặng công Chất. Quang-Tiến Thận-lộc đại-phu,
Bồi-tụng, Lại-bộ Hữu thị-lang vào hầu việc Giảng Sách, Sử-quán Tổng-tài,
Lại-An-nam, tôi là Đào Công Chính. Triều-Liệt Đại-phu, Tham-Chính trong ty Tân-trị
Thừa-chính ở các xứ Sơn-nam... Sử-quán Toản tu, tôi là Thiều sĩ Lâm.
Mậu Lâm-lang, Bồi-tụng, Đông-các Hiệu-thư, Sử-quán Phó Toản-Tu, tôi là
Nguyễn công Vọng. Mậu Lâm-lang, Hiến-sát-sứ ở ty Hiến-sát-sứ, coi các xứ
Nghệ-an... Sử-quán Phó Toản-tu, tôi là Lê hùng Xưng.
Nội-sai Thái-giám trong Thị-Nội giám, Tư-Lễ giám, Lĩnh-Xuyên hầu, tôi là
Phạm thế Vinh; Nội-sai Hữu-đề-điểm trong Tư-Lễ giám, Khoan-Thái-bà, tôi là Phạm
đình Liêu. Cùng vâng sắc coi việc sửa sách. Trị trung trong sở Thủ-hợp Thị-Nội
Thư-tả tôi là Ngô thục Đức. Chính tự trong sở Thủ-hợp Thị-Nội Thư-tả tôi là Hàn
Tung. Huyện-thừa trong sở Thị-Nội Nhưng Thư-tả tôi là Nguyễn Luân. Tự-thừa
trong sở Thị-Nội Nhưng Thư-tả tôi là Nguyễn đăng Doanh. Huyện-thừa trong sở
Thị-Nội Nhưng Thư-tả tôi là Lê tiến Nhân. Sứ coi sở Thị-Nội Nhưng Thư-tả tôi là
Lê duy Lương; Huyện-thừa trong sở Thị-Nội Nhưng Thư-tả tôi là Nguyễn đăng Khoa.
Cùng vâng sắc viết: Thợ mộc, người các xã Hồng-lục, Liễu-chàng vâng sắc khắc
bản in.
Lam-sơn Thực Lục
Tựa của Vua Lê Thái-Tổ
Dịch âm
Trẫm duy: Vật bản hồ Thiên, nhân bản hồ Tổ. Thúy như mộc, thủy, tất hữu
căn, nguyên. Thị dĩ tự cổ Đế-vương chi hưng, nhược Thương chi thủy ư Hữu Nhung;
Chu chi thủy ư Hữu Thai...
Cái kỳ bản thịnh tắc diệp mậu; nguyên thâm tắc lưu trường. Phi Tiên-thế chi
nhân ân chi sở bồi giả hậu, khánh trạch chi sở chung giả hồng, an-năng nhược
thị tai?
Trẫm tao thị đa ạn, khai sáng vưu nan! Hạnh nhi Thiên dữ, Nhân quy,
công-nghiệp hữu thành giả, thực do Tổ-tông tích đức lũy nhân chi sở trí dã!
Trẫm niệm chi phất dĩ, nãi bút vu thư, mục viết "Lam-sơn thực lục",
sở dĩ trong kỳ bản thủy chi nghĩa. Diệc dĩ tự Trẫm gian-nan chi nghiệp, dĩ thùy
thị Tử-tôn vân.
Thì
Thuận-thiên tứ niên, trọng Đông-nguyệt, cốc nhật. Lam-sơn động-chủ, tự.
Dịch nghĩa
Trẫm nghĩ: Vật gốc từ Trời, người gốc từ Tổ. Ví như cây và nước, tất có
gốc, nguồn. Bởi vậy, từ xưa các dòng Đế-vương nổi lên, như nhà Thương, bắt đầu
từ Hữu Nhung; nhà Chu, bắt đầu từ Hữu Thai... Vì rằng: gốc thịnh thì là
tốt, nguồn sâu thì dòng dài. Nếu không phải nhờ ở nhân-ân bồi-đắp được dày-dặn,
phúc-đức chung-đúc được lớn-lao của các Đời-Trước, thì đâu có được như thế!
Trẫm gặp đời nhiều hoạn-nạn, mở nước, dựng nền, càng thấy khó-khăn! May mà Trời
cho, Dân theo, gây nên được công-nghiệpp, ấy thực là nhờ ở các bậc Tổ-tông
tích-lũy mãi nhân-đức, mà đi tới cả! Trẫm nghĩ về chuyện đó mãi bèn chép vào
sách, gọi là "Lam-sơn thực lục" (Sách ghi chuyện thực núi Lam) cốt là
để trọng nghĩa đầu gốc. Và cũng để kể rõ sự-nghiệp gian-nan của Trẫm,
truyền-bảo lại cho con-cháu vậy.
Khi ấy là:
Ngày tốt, tháng giữa
Đông, năm thứ-tư hiệu Thuận-thiên.
Chúa động Lam-sơn đề
tựa.
CUỐN THỨ NHẤT
Lam Sơn Thực Lục
Cuốn thứ nhất
Đức Tằng-tổ nhà vua, họ Lê, tên húy là
Hối người thôn Như-áng, huyện Lương-giang (tức là huyện Ngụy-nguyên ngày nay)
phủ Thanh-hóa. Tính trời chất-phác, ngay-thẳng, giữ mình như kẻ ngu; thấy rõ
việc từ lúc chưa xảy ra; biết sâu mà lo xa. Lấy bà là Nguyễn-thị Ngọc Duyên, (người
trại Quầnđội huyện Lôi-dương); làm nghề ông thày. Có một hôm Ngài đi chơi, thấy
các loài chim liệng quanh ở dưới ngọn Lam-sơn, như vẻ đông người hội-họp, liền
nói rằng: "Chỗ này tốt đây!". Nhân dời nhà tới ở đấy. Thế rồi dọn
gai-góc, mở ruộng-nương, chính mình siêng-năng việc cày-cấy. Qua ba năm mà gây
nên sản-nghiệp. Con-cháu ngày một đông; tôi-tớ ngày một nhiều. Việc dựng nước,
mở đất, thực gây nền từ đấy. Từ đó, đời đời làm chúa một miền.
Đức Hoàng-tổ húy là Đinh, nối được
nghiệp nhà, để kế chí người trước. Hiền-hòa để trị dân; khoan-nhân mà thương
người. Gần, xa đều đem lòng phục, càng ngày càng mến, theo dần. Bèn có đến hơn
nghìn người dân.Bà là Nguyễn thị Khoác, giữ nhà bằng cách siêng-năng, tần-tiện,
tính-nết rất hiền. Trong chốn buồng the, giúp-đỡ ông được nhiều việc lắm. Sinh
hai con: trưởng là Tòng, thứ là Khoáng. Khoáng tức là đức Hoàng-Khảo sinh ra
Nhà-vua. Tính ngài hoà-nhã, hiền-lành, vui-vẻ, thích làm việc thiện. Chiều-đãi
khách-khứa, yêu-thương nhân dân. Phàm kẻ đói-khó, túng-thiếu, ốm-đau, chếtchóc,
tất là Ngài có chu-cấp giúp-đỡ. Những dân ở hạt láng-giềng, coi cũng như người
một nhà. Vì thế mọi người không ai là không cảm Ngài về ơn-đức mà phục Ngài về
nghĩa-khí. Bà là Trịnh-thị Ngọc Thương, lại chăm-chỉ về đạo đàn-bà: thờ cha, mẹ
hết lòng hiếu-kính; đãi họ hàng có ơn; dạy con, cháu, lấy lễ. Buồng the
hòa-thuận, đạo nhà ngày một thịnh thêm. Sinh ba con trai: trưởng là Học, thứ là
Trừ, út tức là Nhà-vua. Học nối nghiệp ông cha truyền lại, chẳng may ngắn số.
Nhà vua kế nghiệp cha, anh, không dám để sa-sút; suy-nghĩ sâu-sắc, sao cho nối
chí, noi việc, trọn được đạo thường! Nguyên xưa lúc Nhà-vua chưa sinh, ở xứ
Du-sơn trong làng, dưới cây rừng quế, thuộc thôn sau Như-áng, thường có con hổ
đen, thân nhau với người, chưa hề làm hại ai! Đến giờ Tý ngày mồng sáu tháng
Tám năm Ất-sửu sinh ra Nhà-vua từ đó không thấy con hổ đâu! Người ta cho là
chuyện lạ. Lúc sinh Nhà-vua có ánh-sáng đỏ đầy nhà, mùi hương đầy xóm. Lúc nhỏ,
tinh-thần và vẻ người coi rất mạnh-mẽ, nghiêm-trang; mắt sáng; miệng rộng; mũi
cao; mặt vuông; vai trái có bảy nốt-ruồi; đi như rồng; bước như hổ, tóc, lông
đầy người, tiếng vang như chuông; ngồi như hùm ngồi! Kẻ thức-giả biết là bậc
người cực sang! Kịp khi lớn, thông-minh, khôn, khỏe, vượt hẳn bọn tầm-thường;
làm Phụ-đạo làng Khả-lam.
Khi ấy Nhà-vua sai người nhà cày ruộng ở
xứ Phật-hoàng động Chiêu-nghi. Chợt thấy một nhà sư già, mặc áo trắng, từ thôn
Đức-tề đi ra, thở dài mà rằng:
- Quý-hoá thay phiến đất này!
Không có ai đáng dặn!
Người nhà thấy thế, chạy về thưa rõ với
Nhà-vua, Nhà-vua liền đuổi theo tìm hỏi chuyện đó.
Có người báo rằng:
- Sư-già đã đi xa rồi.
Nhà-vua vội đi theo đến trại Quần-đội,
huyện Cổ lôi, (tức huyện Lôi-dương ngày nay) thấy một cái thẻ tre, đề chữ rằng:
Thiên đức thụ mệnh.
Tuế trung tứ thập.
Số chi dĩ định,
Tích tai vị cập.
Nghĩa là:
"Đức trời chịu mệnh,
"Tuổi giữa bốn mươi!
"Số kia đã định,
"Chưa tới ... tiếc
thay!"
Nhà-vua thấy chữ đề mừng lắm, lại vội vàng
đi theo. Khi ấy có rồng vàng che cho nhà vua! Bỗng nhà sư bảo nhà vua rằng:
- Tôi từ bên Lào xuống đây, họ
Trịnh, tên là sư núi Đá-trắng. Hôm thấy ông khí tượng khác thường tất có thể
làm nên việc lớn!
Nhà-vua quỳ xuống thưa rằng:
- Mạch đất ở miền đệ-tử tôi sang-hèn ra
thế nào xin thầy bảo rõ cho?
Nhà sư nói:
- Xứ Phật-hoàng thuộc động Chiêu-nghi, có
một khu đất chừng nửa sào, hình như quả quốc-ấn. Phía tả có núi Thái-thất, núi
Chí-linh (ở miền Lảo-mang); bên trong có đồi đất Bạn-tiên. Lấy thiên sơn làm án
(ở xã An-khoái). Phía trước có nước Long-sơn, bên trong có nước Long-hồ là chỗ
xoáy trôn ốc (ở thôn Như-ứng). Phía hữu nước vòng quanh tay Hổ. Bên ngoài núi
xâu chuỗi hạt trai. Con-trai sang không thể nói được. Nhưng con-gái phiền có
chuyện thất tiết. Tôi sợ con-cháu ông về sau, có thế phân cư. Ngôi vua có lúc
Trung-hưng. Mệnh trời có thể biết vậy. Nếu thầy giỏi biết láng lại, thì trung
hưng được năm trăm năm. Nhà sư nói rồi, Nhà-vua liền đem đức Hoàng-khảo táng
vào chỗ ấy. Tới giờ Dần, về đến thôn Hạ Dao-xá nhà sư bèn hóa bay lên trời!
Nhân lập chỗ ấy làm điện Du-tiên. Còn động Chiêu-nghi thì làm am nhỏ (tức là
nơi một Phật-hoàng). Đó là gốc của sự phát-tích vậy.
Khi ấy Nhà-vua cùng người ở trại Mục-sơn
là Lê-Thận cùng làm bạn keo sơn. Thận thường làm nghề quăng chài. Ở xứ vực
Ma-viện, đêm thấy đáy nước sáng như bó đuốc soi. Quăng chài suốt đêm, cá chẳng
được gì cả. Chỉ được một mảnh sắt dài hơn một thước, đem về để vào chỗ tối. Một
hôm Thận cúng giỗ (ngày chết của cha mẹ) Nhàvua tới chơi nhà. Thấy chỗ tối có
ánh-sáng, nhận ra mảnh sắt, Nhà-vua bèn hỏi?
- Sắt nào đây?
Thận nói:
- Đêm trước quăng chài bắt được.
Nhà-vua nhân xin lấy. Thận liền cho ngay.
Nhà-vua đem về đánh sạch rỉ, mài cho
sáng, thấy nó có chữ "Thuận-thiên", cùng chữ "Lợi". Lại một
hôm, Nhà-vua ra ngoài cửa, thấy một cái chuôi gươm đã mài-dũa thành hình, Nhà-vua
lạy trời khấn rằng:
- Nếu quả là gươm trời cho, thì xin chuôi
và lưỡi liền nhau! Bèn lấy mảnh sắt lắp vào trong chuôi, bèn thành ra chuôi
gươm. Tới hôm sau, lúc đêm, trời
gió-mưa, sớm ngày mai, Hoàng-hậu ra trông vười cải, bỗng thấy bốn vết chân của
người lớn, rất rộng, rất to. Hoàng-hậu cả kinh, vào gọi Nhàvua ra vườn, được
quả ấn báu, lại có chữ Thuận-thiên (sau lấy chữ này làm niên-hiệu) cùng chữ
Lợi. Nhà-vua thầm biết ấy là của trời cho, lòng lấy làm mừng, giấu-giếm không
nói ra.
Khi ấy Hồ Quý Ly
cướp nhà Trần, lấn ngôi vua, đổi hiệu nước là "Đại Ngu". Lại làm
nhiều điều lầm-lỡ về chính-trị, mấy lần để thiếu các đồ cống. Năm Giáp-ngọ
(1414), thứ mười-hai hiệu Vĩnh-lạc (niên-hiệu của vua Thành-tổ nhà Minh), vua
Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh, Trần Trí, Sơn Thọ, Mã Kỳ, Lý Bân, Phương
Chính qua cửa ải lấn chiếm nước ta.
Nhà-vua tuy gặp đời rối-loạn, mà chí giữ
càng bền; lẩn dấu ở núi rừng làm nghề cày cấy; tự mình vui với Kinh, Sử, nhất
là càng chuyên tâm về các sách Thao Lược; hậu-đãi các tân khách; chiêu-nạp kẻ
trốn, kẻ làm phản; ngầm nuôi ác kẻ mưu-trí; bỏ của, phát thóc để giúp cho kẻ
côi-cút, nghèo-nàn; hậu lễ, nhún lời, để thu bọn anh-hùng hào-kiệt; đều đợc
lòng vui-vẻ của họ.
Khi ấy có người thôn Hào-lương ở cùng huyện,
tên là Đỗ Phú, tranh-dành với Nhà-vua, đem kiện với tướng giặc Minh. Viên quan
khám-ét, cho lý của Nhà-vua là phải, xử cho được kiện. Đỗ Phú nhân lấy việc đó
làm thù, bèn đem của đút cho giặc Minh. Giặc Minh bức Nhà-vua. Nhà-vua cùng Lê
Liễu chạy đến bên sông Khả-lam, bỗng thấy một người con-gái nằm chết, mình còn
mặc chiếc áo trắng, cùng đeo thoa vàng, xuyến vàng. Nhà-vua cùng Liễu ngửa mặt
lên trời khấn rằng:
- Tôi bị giặc Minh bức-bách, xin phù-hộ
cho tôi thoát nạn này, ngày sau được Thiên-hạ, xin lập làm miếu thờ, hễ có
cỗ-bàn, cúng nàng trước hết!
Đắp mả chưa xong thì giặc xua chó ngao
đến. Nhà-vua cùng Liễu chạy vào bộng cây đa! Giặc lấy mũi giáo nhọn đâm vào,
trúng vào vế bên tả của Liễu, Liễu bốc cát cầm vuốt vào lưỡi giáo, cho khỏi có
vết máu. Tự-nhiên bỗng thấy con cáo trắng chạy ra! Chó ngao liền đuổi cáo. Giặc
không ngờ bèn kéo đi. Nhà-vua mới được thoát (đến khi bìnhđịnh thiên-hạ rồi,
phong vị thần Áo-trắng làm Hoằng-hựu Đại-vương; phong cho cây đa làm Hộ-quốc
Đại-vương; tới nay dấu-tích ấy hãy còn). Từ đó tướng giặc ngày càng kiêu-kỳ,
thế giặc ngày càng rông-rỡ! Giam, giết kẻ trung-lương; hành-hại bọn côi-cút.
Trong nước than-phiền, nhân-dân không sao sống nổi! Chính-lệnh ngặt-nghèo,
hình-phạt tàn-ác, không cái gì là chúng không làm. Cấm muối, mắm, để cho dân
thiếu ăn; năng sưu-thuế để cho dân hết của! Lặn bể tìm nọc, khoét núi lấy vàng.
Ngà voi, sừng tê, gỗ thơm, lông trả, ... Phàm ta có bao nhiêu sản-vật, chúng
tất hết sức lùng tìm, không cái gì là bỏ sót, để cho đầy ham muốn, túi tham.
Phàm ta có bao nhiêu nhân-dân, chúng tất kiếm phương lừa-dối, đem dời đi nơi
xa, để cho hả lòng lang, dạ thú! Lại đắp hơn mười tòa thành, chia quân đóng
giữ, để trấn-áp lòng người. Khiến cho những trang mưu-trí của ta, cất tay, động
chân không được! Lại khéo định ra danh-mục, bắt hiếp phải làm quan, giả-vờ cho
vào chầu, để ở luôn đất Bắc! Chỉ có Nhà-vua bền giữ lòng xưa, không bị
quan-tước dỗ-dành; không chịu oai-thế hà-hiếp. Tuy giặc có khéo-léo, khôn-ngoan
nhiều ách, mà tráng-chí của Nhà-vua, trước sau vẫn chẳng chịu chùng! Thế nhưng
trong khi thế giặc còn mạnh, chưa dễ đánh được nào. Nhà-vua thường hậu lễ, nhún
lời, đem nhiều vàng, bạc, của báu, đút lót cho các tướng giặc là bọn Trương
Phụ, Trần Trí, Sơn Thọ, Mã Kỳ; mong thư bớt tấm lòng hãm-hại Nhà-vua; để
Nhà-vua được đợi thời, lừa dịp.
Đảng của giặc là Lương Nhữ Hốt bàn với
bọn giặc, nói rằng: - Chúa Lam-sơn chiêu vong, nạp bạn, đãi quân-lính rất hậu,
chí nó chẳng nhỏ. "Nếu thuồngluồng gặp được mây-mưa, thì tất không phải là
vật ở trong ao đâu!". Nên sớm trừ đi, đừng để sau sinh vạ!
Năm Mậu-tuất (1418) khi ấy Nhà-vua ba
mươi ba tuổi, khởi quân-nghĩa ở Lam-sơn. Ngày mồngchín tháng giêng, bị giặc vây
bức, bèn lui về đóng ở Lạc-thủy, đặt quân phục để đợi. Ngày mười-ba, giặc kéo
quân đến đông. Nhà-vua tung cả quân phục ra, xông đánh quân giặc. Cháu Nhà-vua
là Lê Thạch, cùng bọn Đinh Bồ, Lê Ngân, Lê Lý, đánh hãm vào trận giặc trước,
chém được hơn ba nghìn đầu. Quânlương, khí-giới, cũng bắt được kể nghìn!
Ngày mười-sáu, có tên bầy-tôi làm phản,
tên là Ái (người trại Nguyệt-ấn), cùng với Đỗ Phú dẫn quân Minh đào lấy tiểu
đựng hài-cốt ở xứ Phật-hoàng, treo ở sau thuyền, hẹn Nhà-vua phải ra hàng.
Nhà-vua sai Trịnh Khả, Lê Bí (người thôn Hắc-lương), hai người, đội cỏ, bơi
xuồng đến bến thôn Thượngrao- xá, rình giặc ngủ say, lên thuyền ăn trộm được
tiểu xương đem về trình Nhà-vua. Nhà-vua mừng rỡ, trọng thưởng hai người, rồi
rước về xứ Phật-hoàng, lại táng y theo chỗ cũ.
Hôm sau bị tên Ái dẫn lối, đem giặc Ngô
đánh úp quân Nhà-vua, bắt được vợ, con, cùng người nhà của Nhà-vua rất nhiều!
Quân của Nhà-vua không còn lòng hăng-hái muốn đánh, thật là cùng-khốn
ngặt-nghèo! May nhờ có các bậc trung-thần là bọn Lê Lễ, Lê Vấn, Lê Bí, Lê Xí,
Lê Đạp, theo Nhà-vua lẩnlút vào trong núi Chí-linh. Tuyệt lương hai tháng trời!
Đợi khi giặc đem quân lui, mới lại về đắp lũy ở quê cũ là Lam-sơn. Nhà-vua thu
lại tàn quân, chỉ chừng hơn trăm người! Lại đem quân Mường ở Lam-sơn, trai,
gái, khiêng gánh lương-thực. Ra vào nơi hiểm-hóc; phủ-dụ các quân-lính;
ước-thúc lại cơ đội, sửasang lại khí-giới. Quân lính cảm-khích, thề không cùng
sống với quân giặc! Nhà-vua biết quân-lính ấy có thể dùng được, bèn sai bọn binh lanh-lẹ ra
khiêu chiến trước. Giặc cậy mạnh, vào cả đất hiểm để bức Nhà-vua. Nhà-vua đặt
quân phục ở xứ Vấn-mang, dùng tên thuốc bắn hai bên, giặc mới tan chạy. Nhàvua
lại tiến quân đến xứ Ninh-mang, ngày đêm xông đánh, quân giặc lại bị thiệt-hại.
Giặc lui giữ xã Bả-lạc-thượng. Nhà-vua lại tiến quân tới trại Hà-đả, hằng ngày
khiêu-chiến. Giặc ở vững trong trại không ra.
Hôm sau, giặc lại giao-chiến với Nhà-vua ở
xứ Mỹ-mỹ. Bắt được tướng chỉ-huy của giặc là Nguyễn Sao, và chém được hơn nghìn
đầu. Khi ấy quân ta chỉ mới được nhỏ, mà thế giặc đương mạnh, Nhà-vua bèn vời
các tướng mà bảo rằng:
- Ai có thể thay mặc áo vàng của Trẫm,
lĩnh năm trăm quân, hai thớt voi, đánh vào thành Tâyđô.
Thấy giặc ra đối-địch, thì tự xưng tên:
"Ta là chúa Lam-sơn đây!". Để cho giặc bắt? Cho ta được náu mình,
nghỉ binh, thu-họp cả quân-sĩ, để mưu tính việc về sau! Các tướng đều không dám
nhận lời. Chỉ có Lê Lai thưa rằng:
- Tôi bằng lòng xin thay mặc áo Nhà-vua.
Ngày sau Bệ-Hạ gây nên Đế-nghiệp, có được thiên-hạ, thương đến công tôi, cho
con-cháu muôn đời được chịu ơn nước. Đó là điều tôi mong mỏi! Nhà-vua lạy Trời
mà khấn rằng:
- Lê Lai có công thay đổi áo. Sau này
trẫm cùng con-cháu, và các tướng-tá, hay con-cháu các công-thần, nếu không
thương đến công ấy, thì xin đền-đài hóa ra rừng núi; ấn-vàng hóa ra đồng sắt;
gươm thần hóa ra đao-binh!
Nhà-vua khấn xong, Lê Lai liền đem quân
đến cửa trại giặc khiêu-chiến.
Giặc cậy quân mạnh xông đánh. Lê Lai cưỡi
ngựa, phi vào giữa trận giặc, nói rằng:
- Ta đây là chúa Lam-sơn!
Giặc bèn xúm lại vây, bắt lấy đem về trong
thành, xử bằng hình-phạt cực ác, ra hẳn ngoài những tội thường làm!
Năm Kỷ-hợi, (1419), Nhà-vua ở Lam-sơn,
cùng các tướng tá, tu-tạo thành-lũy, chữa-sửa khí-giới, phủ-dụ và chu-cấp các
quân-sĩ, nuôi oai chứa mạnh, chưa rỗi đến việc chiến đấu.
Năm Canh-tý, (1420) năm ấy giặc Minh lại
đem thật đông quân đến. Nhà-vua liệu giờ Mùi chúng tất đến bến Bổng. Nhà-vua
đặt trước quân phục để đợi. Giờ Mùi, quả-nhiên quân giặc tới đông, quân phục
bốn mặt nổi dậy. Bọn giặc vỡ to. Quân ta chém đầu không biết bao nhiêu mà kể,
bắt được hơn trăm con ngựa. Các khí-giới của giặc, nhất thời bị đốt hết.
Cùng năm ấy, giặc nước ta tên là Cầm Lạn, dẫn
đường cho các tướng Minh là bọn Lý Bân, Phương Chính, đem hơn mười vạn quân, từ
địa-phương của Cầm Lạn, tiến thẳng vào Thôi-mang, để đánh Nhà-vua. Nhà-vua
trước hết sai bọn Lê Triệu, Lê Lý, Lê Vấn, đem vài trăm người, mai-phục ở xứ
Bồ-mộng để đợi. Giặc đến, quân phục đều nổi dậy. Quân giặc vỡ to. Quân ta chém
được hơn ba trăm đầu. Giặc cậy quân còn mạnh, tiến sát đến dinh Nhà-vua.
Nhà-vua trước hết chia quân ra mai-phục ở
những chỗ hiểm-yếu.
Ngày mai giặc đến, Nhà-vua tung quân ra
đánh, cả phá ở xứ Bồ-thi-lang, chém hơn nghìn đầu. Bọn Lý Bân, Phương Chính,
chỉ chạy thoát được thân! Quân ta thừa thắng xô đuổi, luôn sáu ngày đêm mới trở
về. Nhà-vua lại tiến quân đóng ở trại Ba-lẫm thuộc Lỗi-giang, trêu giặc ra
đánh. Giặc không dám ra! Tướng giặc là bọn Tạ Phượng, Hoàng Thành, lui đóng đồn
ở Nga-lạc. Rồi về giữ Quan-du và thành Tây-đô, đóng bền ở trong trại không chịu
ra! Nhà-vua ngày đêm tìm nhiều cách xông đánh để quấy rối và làm mệt quân giặc.
Lại chia quân sai bọn Lê Hào, Lê Sát, tiến đánh trại Quan-du, cả phá được giặc,
chém hơn nghìn đầu, bắt được khí-giới của giặc rất nhiều. Từ đó thế giặc ngày
một suy. Nhà-vua bèn chiêu phủ nhân-dân ở các miền trong nước, không đâu là
không hưởng ứng. Cùng nhau góp sức, tiến đánh các đồn, đốt phá các dinh, trại.
Năm Tân-sửu (1421), ngày hai-mươi tháng mười một, tướng giặc là bọn Trần Trí,
đem quân giặc cùng đảng giặc người bản-thổ, tất cả hơn mười vạn, lại tiến đến
sát đánh Nhà-vua ở ải Kinh-lộng, trại Ba-lẫm. Nhà-vua hội các tướng bàn rằng:
- Nó đông, ta ít: nó mỏi-mệt, ta nhàn-hạ.
Binh-pháp dạy rằng: "Được, thua quan-hệ ở tướng, chứ không do ở ít hay
nhiều". Quân nó dù đông, nhưng ta đem quân nhàn-hạ để đón quân mỏi-mệt,
thì quyết là phá được!
Bèn đêm chia quân ra đánh úp trại giặc. Thúc
trống, hò reo, cùng tiến sát đánh vào trại giặc, chém được hơn nghìn đầu.
Quân-lương, khí-giới, bắt được rất nhiều! Sau giặc biết ta ít quân, hơi có ý
coi thường ta. Lại mở đường núi tiến vào. Nhà-vua ngầm phục quân ở ải Úng là
nơi hiểm-trở để đợi chúng. Giờ ngọ, quân giặc từ đường núi kéo ra, Nhà-vua tung
quân đánh giáp hai bên, quân giặc quả-nhiên thua lớn. Nguyên xưa Nhà-vua
giao-hảo với Ai-lao không hề có điều gì xích-mích. Nhưng bị tên Lộ văn Luật,
làm quan với giặc, trốn sang nước ấy, du-thuyết để làm kế phản-gián. Vì thế
nước Lào hiềm-khích với Nhà-vua. Khi ấy Nhà-vua cầm cự với giặc Ngô, được thua
chưa quyết. Kịp khi giặc thua chạy, Ai-lao liền đem vài vạn quân, một trăm thớt
voi, thình lình đến trại ta, giả-vờ sang giúp ta; nói phao lên rằng cùng ta góp
sức đánh giặc. Nhà-vua thật bụng tin người, không ngờ-vực gì khác. Nào dè nó
mặt người dạ thú, nghe mưu-gian của Lộ văn Luật, đêm đánh úp trại ta. Nhà-vua
thân ra đốc chiến, tự giờ Tý đến giờ Mão. Quân-lính đua sức tranh nhau tiến
trước, cả phá được chúng, chém hơn vạn đầu; bắt được voi mười bốn thớt; quân lương, khí-giới, lấy vạn
mà kể! Thừa thắng đuổi theo, đi luôn bốn ngày đêm, tới thẳng nơi sào-huyệt của
chúng. Viên tù-trưởng của chúng tên là Bồ Sát vờ xin giảng-hòa, nhưng thực thì
muốn cố-gắng giằng-giai, để đợi viện-binh. Nhà-vua đoán biết mưu gian không
cho. Nhưng các tướng cố nài, cho là quân-lính mỏi-mệt lâu ngày, hãy nên tạm
nghỉ ngơi. Chỉ có con người anh con bác của Nhà vua là Lê Thạch, một mình hăng
hái xông đánh, không đoái-hoài chi cả, lỡ dẫm phải chông mà mất!
Thạch sức khỏe hơn người, tính trời
nhân-ái. Lại rất ham học và khéo nuôi dạy quân-lính. Nhàvua rất đem lòng yêu.
Vả chăng người bác xưa từng nuôi
Nhà-vua làm con, nên Nhà-vua yêu Thạch còn hơn con mình. Cất riêng làm tướng
Tiên-phong. Đánh đâu được đấy! Chỉ đáng tiếc là "có khỏe nhưng ít có
mưu" mà thôi!
Năm Nhâm-dần (1422) ngày hai-mươi-bốn
tháng chạp, giặc Ngô lại cùng Ai-lao hẹn nhau, bên trước mặt, bên sau lưng,
chẹt đánh Nhà-vua ở trại Da-quan. Quân ta đánh luôn, nhiều người bị thơng, hơi
có thiệt hại. Bèn ngầm rút về trại Khối, yên-ủi lính-tráng, sửa-chữa khí-giới,
để đợi quân giặc. Vừa được bảy ngày quả-nhiên giặc kéo đến. Nhà-vua bảo các
tướng-sĩ rằng:
- Giặc tới vây ta bốn mặt, muốn chạy
thì chạy đi đâu! Đây tức là nơi mà binh-pháp gọi là "đất chết". Đánh
mau thì còn! Không đánh mau thì mất! Nói rồi sa nước mắt. Các tướng-sĩ đều
cảm-khích thi nhau liều chết đánh giặc. Bọn Lê Lĩnh, Lê Vấn, Lê Hào, Lê Triện,
chính mình xông vào trận trước, bắt được tướng giặc là Phùng Quý. Quân giặc
thua lớn. Mã Kỳ, Trần Trí chỉ chạy thoát được thân! Ta chém được hơn nghìn đầu,
bắt được hơn trăm ngựa.
Thế rồi Nhà-vua lại thu quân về núi
Chí-linh. Quân-lính thiếu-lương ăn đến hơn hai tháng, chỉ đào củ, đẵn măng, hái
rau để ăn mà thôi! Nhà-vua giết bốn thớt voi, cùng ngựa của mình cưỡi, để cho
quân-lính ăn. Nhưng thường thường vẫn có kẻ trốn đi! Nhà-vua liền ra lệnh
bó-buộc thật ngặt; bắt được viên tướng trốn đi tên là Khanh, liền chém đầu đem
rao. Các tướng lại nghiêm-trang như cũ. Khi ấy gặp luôn những việc gian-nan,
quân-sĩ mỏi-mệt, muốn được nghỉ-ngơi, đều khuyên Nhàvua nên hòa với giặc.
Nhà-vua cực chẳng-đã, bèn giả-vờ hòa-hảo, cho sứ đi lại với tướng giặc là bọn
Sơn Thọ, Mã Kỳ.
Mà giặc bị ta đánh thua luôn, ý cũng muốn
lấy mưu dụ Nhà-vua. Nhà-vua cũng nhân nó muốn dụ mình, định hãy cho quân-sĩ
nghỉ-ngơi, đặng đợi thời mà làm việc.
Năm Quý-Mão (1423), tháng tư, ngày mồng
mười, Nhà-vua lại đem quân về Lam-sơn. Giặc biết ý Nhà-vua: bề ngoài giả-vờ
hòa-thân mà bên trong có bụng muốn đánh-úp; từ đó tuyệt đường đi lại, hai bên
không có tin-tức, sai sứ sang nhau nữa. Binh-tình bên giặc nôn-nao, ngày đêm
sợ-hãi. Nhà-vua dò biết chuyện ấy. Khi ấy có cháu ngoại của họ Trần, tên là Cầm
Quý, lánh họ Hồ, trốn vào rừng núi, xưng láo là dòng dõi vua Trần. Nhà-vua bèn
đón về dựng làm vua, lấy hiệu là Thiên-khánh. Nhà-vua đánh-chọi với giặc,
cay-đắng, khó-khăn. Đến khi Thiên-hạ sắp yên, chỉ có Đông-kinh là chưa hàng,
bấy giờ Thiênkhánh ở thành Cổ-lộng. Nhà-vua ủy cho con trai của Tư-quận-công Lê
Lãng là Lê-Ngang, giữa thành và túc-trực.
Thiên-khánh thấy Nhà-vua dẹp yên giặc
Ngô, rất là sợ-hãi, bèn trốn vào Nghệ-an. Lê Ngang đuổi theo bắt được đem về.
Nhà-vua hỏi rằng: - Đã được lập lên làm vua,
cớ sao lại sinh lòng kia khác mà đi trốn?
Thưa rằng:
- Quả-nhân không có công gì! Tướng-quân thì
công trùm cả thiên-hạ! Ai là người trồng được cây để cho kẻ khác ăn sẵn quả?
Nên sợ chết mà trốn, chứ không có ý gì khác! Nay xin cho được toàn thân mà
chết!
Nhà-vua thấy nói thế còn chưa nỡ!
Các quan nói:
- "Trời không hai mặt trời! Nước
không hai vua!".
Bèn cho hắn được tự thắt cổ.
Năm Giáp-thìn (1424) ngày hai-mươi tháng
chín, Nhà-vua chia quân đánh úp thành Đa-căng, phá được thành. Quân giặc bị
chém đầu và chết đuối có hơn nghìn người. Viên Tham-chính của giặc là Lương Nhữ
Hốt chỉ chạy thoát được thân. Ta bắt được lương-thực, khí-giới không biết bao
nhiêu mà kể. Trại, lũy của giặc, bị đốt cháy hết! Chốc lát, tướng giặc là Hoa
Ánh lại đem quân đến cứu. Nhà-vua thừa thắng đánh tràn, giặc lại thua to, chạy
vào thành Tây-đô. Phàm vợ, con của giặc bị bắt, không nỡ giết hại một người
nào, đều thả về tất cả.
Rồi đó kén-lựa trai tráng, sắm-sửa
khí-giới, chỉnh-tề voi, ngựa, tiến thẳng vào Châu Trà-long, (tức phủ Trà-lân
ngày nay) thuộc thành Nghệ-an. Gần tới xứ Bồ-lạp, thình-lình gặp tướng giặc là
Sư Hựu, cùng bọn làm quan với giặc là Cầm Bành Cầm Lạn, lĩnh hơn năm nghìn
người, đón chẹn lối trớc mặt. Lại có bọn tướng-giặc là lũ Trần Trí, Phương
Chính, Sái Phúc, Lý An, đem quân tiến sát phía sau. Quân ta trước bụng, sau
lưng, đều bị có giặc. Mặt trời lại sắp chiều. Nhà-vua bèn dàn quân, dàn voi để
đợi. Trong chốc lát, quân giặc quả tới nơi. Nhà-vua tung quân-phục ra xông
đánh. Quân của bọn Phương Chính vỡ to. Ta chém hơn nghìn đầu, và bắt được hơn
trăm ngựa.
Ngày mai, Nhà-vua lại đem voi và quân-lính
xông thẳng vào trại của bọn Sư Hựu. Quân giặc lại thua to. Ta chém hơn nghìn
đầu. Quân-lương, khí-giới, đốt cháy không còn sót. Khi ấy bọn Cầm Bành là
trùm-trưởng của giặc, đóng giữ đất ấy, không chịu hàng-phục. Nhà-vua chiêu-dụ
nhân-dân trong miền, khiến trở lại nghiệp xưa. Ai nấy đều mừng được yên thân,
đem lòng cảm-khích, hăng-hái giúp nhà-vua hết sức vây Cầm Bành. Hơn hai tháng,
Cầm Bành giữ bền ở trong núi, để đợi quân cứu-viện của giặc. Nhưng giặc
hất-hải, ngờ-sợ, vẫn không dám tiến. Quân của Bành oán mà làm phản, kế nhau đến
hàng. Bành tự xét mưu-chước đã cùn, viện-binh đã tuyệt, liền mở cửa trại ra
hàng.
Nhà-vua ra lệnh với trong quân rằng:
-
Tướng giặc đã hàng, mảy-may cũng không được xâm-phạm. Bất cứ tội to, tội nhỏ,
đều xá cho hết!
Về sau Cầm Bành lại sinh lòng khác, đêm
trộm quân trốn đi. Nhà-vua sai người đón đường bắt được liền xử chém! Thế là
dẹp được châu Trà-long. Nhà-vua bèn ủy-lạo các tù-trưởng, phủ-dụ các nhân dân.
Ai nấy đều cám ơn đội đức, xin ra sức lập công. Bèn biên-soát các tay trẻ khỏe,
thu vào trong quân ngũ, được hơn năm nghìn người. Khoảng niên-hiệu Hồng-hy bên
nước Minh, giặc lại cùng với các Nội-quan (quan Hoạn được cắt đi giám-quân) là
lũ Sơn Thọ đem lời quỷ-quyệt, để dỗ-dành Nhà-vua. Nhà-vua đã biết trước ý ấy,
liền nói:
- Giặc sai lừa ta, ta phải nhân
khoé của bên địch mà dùng nó! Bèn cho sứ đi lại, dò xét tình-hình quân giặc, để
mưu đánh úp thành Nghệ-an. Giặc biết mưu ấy, bèn không đi lại nữa. Thế là
Nhà-vua liền chỉnh-đốn thật nhiều ngựa, voi, quân-lính, tiến cả về mặt thủy,
lẫn mặt bộ, đánh úp thành Nghệ-an. Quân sắp đi, xẩy có tin báo: giặc đã đem khá
nhiều voi, ngựa, thuyền-bè; mặt thủy, mặt bộ đều tới.
Nhà-vua hội các tướng bàn rằng:
- Quân địch đông, quân ta ít, đem
ít đánh đông chỉ ở những đất hiểm là có thể lập được công.
Vả chăng binh-pháp nói: "Nhử người
tới, chứ không để người dữ tới".
Bên chia hơn nghìn quân, sai bọn Lê Liệt
theo đường tắt giữ huyện Đỗ-gia, cướp thế tranh tiên của giặc. Còn Nhà-vua thì
chính mình cầm đại-quân, đóng giữ vào nơi hiểm-trở để đợi.
Chừng ba, bốn ngày, giặc đem hết cả quân,
mặt thủy, mặt bộ đều tới ải Khá-lưu, đắp lũy, đóng trại, ở miệt dưới. Nhà-vua ở
miệt trên, dương cờ, đánh trống, đêm thì đốt lửa. Lại ngầm sai quân tinhnhuệ và
bốn thớt voi, qua sông phục nơi hiểm-yếu. Trời sắp sáng, giặc bèn dẫn quân,
trên cạn, dưới sông đều tiến, để đánh dinh-trại của Nhà-vua. Nhà-vua giả vờ
lui, nhử giặc vào chỗ có quân phục. Giặc không ngờ, đem hết quân vào sâu. Quân
phục bốn mặt nổi lên, xông đánh, cả phá được trận giặc. Giặc bị chém đầu và
chết đuối lấy vạn mà kể.
Thế rồi giặc tựa núi, đắp lũy để ở, không
lại ra đánh nữa. Khi ấy lương giặc khá nhiều, mà quân ta không đủ ăn lấy mười
ngày. Nhà-vua liền bảo các tướng-sĩ rằng:
- Quân giặc nhiều lương, đắp lũy
để làm kế lâu dài. Quân ta ít lương không thể giữ giằng-giai được với nó.
Bèn
đốt hết dinh, trại, nhà-cửa, vờ trốn lên miệt trên. Và đi ngầm đường tắt, đợi
giặc đến thì đánh. Giặc cho là ta đã chạy, bèn đem quân lên đóng vào dinh-trại
cũ của ta, lên núi đắp lũy. Hôm sau Nhà-vua thân đem quân lanh-lẹ ra trêu đánh.
Giặc kéo ra ngoài lũy giao chiến. Nhà-vua đêm kén quân tinh-nhuệ, phục ở chỗ
hiểm. Giặc lại không ngờ, đem hết cả quân ra, Nhà-vua liền tung quân xông phá
trận giặc. Bọn Lê Sát, Lê Vấn, Lê Bí, Lê Lễ, Lê nhân Chú, Lê Ngân, Lê Chiến, Lê
tông Kiều, Lê Khôi, Lê Bôi, Lê văn An, đều thi nhau hãm trận. Giặc vỡ to thua
chạy, bị chém đầu không thể đếm xiết. Thuyền giặc trôi nghiêng, thây chết đuối
tắc cả dòng sông. Khí-giới vất đầy ra giữa núi. Bắt sống được tướng giặc là Chu
Kiệt, chém được Tiên-phong của giặc là Hoàng Thành. Trói được quân giặc hơn
nghìn người. Thừa thắng đuổi dài, ba ngày đêm, thẳng tới thành Nghệ-an. Giặc
vào trong thành, đắp thêm lũy, cố giữ.
Hết cuốn thứ nhất
CUỐN THỨ HAI
Lam Sơn Thực Lục
Cuốn thứ hai
Năm Ất-tỵ (1425), ngày hai mươi-lăm tháng giêng, Nhà-vua tới Nghệ-an, ra
lệnh cho các tướng rằng:
- Dân ta khổ với quân
nghịch-tặc đã lâu. Phàm đến châu, huyện nào, tơ hào không được xâmphạm.
Nhân-dân không ai không mừng-rỡ, thi nhau đem trâu, rượu, đón khao, để giúp vào
việc dùng trong quân. Nhà-vua bèn đem chia cho các tướng cùng lính-tráng. Ai
nấy đều nhảy-nhót, xin đem sức liều chết. Thế rồi Nhà-vua tiến vào Nghệ-an.
Trong khoảng một tuần, quân-lính họp đủ, cùng nhau góp sức.Tới thành cửa sông
Hưng-nguyên, chỗ ấy có đền thờ thần, (tục gọi là thần Quả). Nhà-vua đêm chiêm
bao thấy thần-nhân nói với Nhà-vua rằng: "Xin một người vợ lẻ của
Tướng-quân sẽ xin phù-hộ Tướng-quân, đánh được giặc Ngô, để gây nên nghiệp
Đế".
Ngày mai Nhà-vua vời các vợ lẻ đến hỏi rằng:
- Ai chịu làm vợ lẻ cho Thần? Ta được
Thiên-hạ sẽ truyền cho con làm Thiên-tử!
Khi ấy mẹ vua Thái-tông húy là Trần thị Ngọc Trần, quỳ xuống nói với
Nhà-vua rằng:
- Túc hạ giữ đúng lời giao-ước,
thiếp xin chịu nhận việc ấy. Ngày sau chớ phụ con thiếp.
Nhà-vua giao-ước với các quan văn, võ, y như lời ấy. Ngày 24 tháng ba,
Nhà-vua giao Ngọc Trần cho thần Phổ Hộ bắt lấy, chết ngay trước mắt! Đến khi
bình giặc Ngô, Nhà-vua lên ngôi, nói rằng: "Ta là chúa Bách Thần!".
Sai người động Nhân-trầm là Lê Cố đem hài-cốt về đến xã Thịnh-mỹ. Chiều đến
chưa kịp qua sông, ngủ ở nơi chợ! Một đêm mối đùn thành đống đất, lấp lên huyệt
thành mộ. Sứ-giả thấy điềm lạ về tâu.
Nhà-vua nói:
- Thần-nhân đã y lời hẹn!
Liền truyền ở lại nơi ấy, lập điện Hiển-nhân để phụng thờ. Ấy là đức
Cung-từ Hoàng Thái Hậu. Nhà-vua vây thành Nghệ-an. Giặc giữ bền trong trại,
không dám ra nữa. Thế là ất toàn hạt Nghệ-an là của ta có hết! Nhà-vua
huấn-luyện tướng-sĩ, sửa-sang khí-giới chưa đầy mười ngày, chiến-cụ đã đầy đủ.
Ngày rằm tháng tư năm ấy, tướng giặc là Lý An lại đem quân thủy từ Đông-đô tới
cứu-viện. Nhàvua đoán thế giặc đã cùn-quẫn, hằng ngày đợi viện binh tới, tất
nhiên là mở cửa trại ra đánh. Bèn phục quân ở bờ sông, đợi quân giặc nửa sang
sông thì đổ ra đánh. Đến ngày hai-mươi-bảy, quân giặc quả-nhiên đại-đội kéo ra,
đánh trại Lê Thiệt. Quân phục của Nhà-vua đổ ra đánh cho vỡ to! Chém hơn nghìn
đầu. Quân chết đuối rất nhiều. Từ đó giặc càng sợ-hãi, lại đắp thêm lũy, họp
sức chống giữ.
Nhà-vua nói:
- Quân giặc đến hết cả để cứu
Nghệ-an. Các nơi tất là trống rỗng.
Nhà-vua bèn kén hai nghìn tinh-binh, hai thớt voi, sai cháu ngoại là bọn
Lê Lễ, Lê Sát, Lê Bị, Lê Triện, Lê nhân Trú, đi suốt ngày đêm, đánh úp thành
Tây-đô (Thanh-hóa). Giặc đóng cửa thành chống giữ. Quân ta đánh cho vỡ, bắt
được đảng giặc rất nhiều, chém hơn năm trăm đầu. Phàm những dân ở gần thành
giặc, tơ-hào không xâm-phạm. Từ đó dân cả một lộ Thanh-hóa, cùng thân-thuộc,
bạn cũ của Nhà-vua, đều tranh nhau tới cửa trại quân, xin liều mình ra sức, để
mưu việc báo đền.
Chưa đầy ba ngày, bộ ngũ đã sắp xong cả, bèn vây thành Tây-đô. Lê Lễ, Lê
Triện vỗ về, yên-ủi nhân-dân, dạy-dỗ, luyện-tập quân-sĩ, để tính việc tiến
đánh. Khi ấy thành giặc ở mấy nơi Thuận-hóa, Tân-bình, cùng với Nghệ-an,
Đông-đô, tin tức cắt đứt đã lâu. Nhà-vua bảo các tướng rằng:
- Các bậc tướng giỏi đời xưa,
bỏ chỗ vững, đánh chỗ núng; lánh chỗ thực, công chỗ hư. Như vậy thì dùng sức có
nửa mà được công gấp đôi. Bèn sai bọn Lê Nỗ, Lê Bồ lĩnh hơn nghìn binh, một
thớt voi, ra đánh các thành Tân-bình, Thuậnhóa, và chiêu-mộ nhân-dân. Đến Bá
chính gặp giặc, bèn dẫn quân vào chỗ hiểm mai-phục. Khi giặc đến sát quân ta,
Lê Nỗ đem một thớt voi, cùng các quân khoẻ-mạnh, xông đánh trận giặc. Giặc bị
chém đầu và chết đuối hơn nghìn người. Nhà-vua sai bọn Lê Triện, Lê Bôi, Lê văn
An, đem bảy chục chiếc thuyền, vượt bể quấy thẳng vào sào-huyệt của quân giặc.
Kịp khi được tin quân nỗ, bèn thừa thắng cả phá được các nơi. Tân-bình, Thuận-hóa,
hết thảy thuộc về ta cả. Vả chăng Tân-bình, Thuận-hóa, là nơi tâm-phúc của ta.
Đã được đất ấy rồi, tất không còn mối lo nội-cố. Khi ấy quân giặc tuy chưa diệt
hết, nhưng quân ta thanh-thế ngày càng to, lòng người ngày càngvững. Nhà-vua
liệu chừng tinh-binh của giặc ở hết cả Nghệ-an, còn các thành Đông-đô, đều đã
trống rỗng, yếu-đuối hết thảy, bèn thêm voi, ngựa, quân-lính, sai bọn Lê Triện,
Lê Khả, Lê Bí, lĩnh hơn hai nghìn người, ra các lộ Thiên-quan, Quốc-oai,
Gia-hưng, Lâm-thao, Tam-đái, Tuyên-quang, cướp lấy đất cát, thu-phục nhân-dân,
để tuyệt lối quân cứu-viện ở Vân-nam sang. Lại sai bọn Lê Bị, Lê nhân Chú, lĩnh
hơn hai nghìn binh, ra các phủ Thiên-quan, Thiên-trường, Kiến-hưng, Kiến-xương,
để chẹn đứt đường về của Phương Chính, Lý An. Đã chiếm được các đất ấy rồi, bèn
chia quân đóng giữ. Lại sai Lê Bị, Lê nhân Chú, lĩnh hơn ba nghìn quân
Thanh-hóa, cùng hai thớt voi, ra các lộ Khoái-châu, Thượng-hồng, Hạ-hồng,
Bắc-giang, Lạng-sơn, để ngăn đứt quân cứu viện ở Ôn-khâu. Lại kén hai ngàn
tinh-quân, sai quan Tư-không là Lê Lễ, Lê Xý, đem quân tiến đánh Đông-đô, để
phô trương thanh-thế. Quân ta tiến đến đâu, mảy may không hề xâm phạm. Vì thế
các Lộ ở Đông-kinh, cùng các nơi phiên trấn, không ai là không vui mừng, tranh
nhau đem trâu, rượu, lương-thực để khao các tướng-sĩ. Khi ấy bọn Lê Triện, Lê
Khả, Lê Bí, thường đem quân đi lại, tiến sát thành giặc. Nhưng người ta còn sợ
giặc, chưa quy-phục hết.
Năm Bính-ngọ (1426), ngày hai-mươi tháng tám, giặc cậy thế khỏe, cất
quân đến đánh. Bọn Triện, Bí đặt quân phục, đánh riết ở Ninh-kiều, cả phá được
quân giặc, thừa thắng đuổi theo đến thôn Nhân-mục (tức làng Mọc thuộc tỉnh
Hà-đông ngày nay). Trong khoảng vài chục dặm, xác chết chồng lên nhau! Từ đó
giặc không dám ra nữa. Giặc tự liệu thế ngày cùn-quẫn, viện binh lại không đến,
bèn đưa "ống thiếc" (?) cáo cấp với Nghệ-an.
Ngày hai-mươi-sáu tháng chín, bọn Phương Chính, Lý An, bỏ thành Nghệ-an
mà về, chỉ để lại Sài Phúc, đóng cửa trại cố chết chống giữ.
Bọn An, Chính lật đật không lên được trên bờ, tự cưỡi thuyền xuống bể,
đêm trốn. Bên ta trước đã chia quân thủy phục ngầm ở nơi hiểm-yếu, để đón nẽo
đường về. Nhưng lúc ấy quân ta thuyền binh còn ít, cho nên bọn An, Chính được
thoát thân mà trốn. Nhà-vua tự liệu thế giặc ngày một yếu, quân ta ngày một
mạnh, thời đến chẳng làm, sợ bỏ mất cơ hội. Bèn lựa bọn Lê Lễ, Lê văn An, Lê
Ngân, Lê Sát, Lê Bôi, Lê Lĩnh, Lê Thận, Lê văn Linh, Bùi quốc Hưng, vây thành
Nghệ-an.
Còn Nhà-vua thì thân đem đại-quân, ngày
đêm đi gấp đường, thủy, bộ cùng tiến, theo chân bọn An, Chính. Khi tới thành
Tây-đô, đóng dinh, úy-lạo các tướng-sĩ, ban thưởng cho phụ lão trong làng, cùng
các người thân-thích quen thuộc. Khi ấy nhân-dân các quận huyện, nghe Nhà-vua
đã tới Thanhhóa, đều hăng-hái đem mình đến cửa dinh, xin ra sức xông-pha, để
mong lập chút công tấc, thước. Tháng mười năm ấy, nước Minh lại sai bọn
Tổng-binh là Thành-sơn-hầu Vương Thông, Thamchính là Mã Ánh, đem năm vạn quân,
năm nghìn ngựa, chia đươờng cùng sang cứu các thành Đông-đô. Mà một vạn quân
giặc ở Vân-nam thì sang trước, thẳng tới sông Tam-kỳ, thuận dòng mà xuống. Bọn
Lê Khả nghe tin giặc tới, từ Ninh-kiều gấp đường mà tiến, gặp giặc ở cầu Luội
(?) đón đánh cho quân giặc thua to, bị chém hơn nghìn đầu, và chết đuối rất
đông. Còn tàn quân đem nhau chạy vào thành Tam giang. Sau đó tướng giặc là
Vương Thông, lại từ Ôn-khâu tiếp đến. Mới trong năm ngày, đem đại quân hợp với
hơn mười vạn quân của hai Nội-quan Trấn thủ là Sơn Thọ, Mã Kỳ cùng lũ Phương
Chính, Lý Lượng. Trần Hiệp, mặt thủy, mặt bộ đều tiến, đánh Lê Triện, Lê Bí, ở
các trại Cỗ-sở, Độ-ngoại. Chúng đóng trại chạy dài đến mười dặm, mũ, giáp lòa
trời! cờ tàn rợp nội! Tự cho là đánh một trận có thể quét sạch quân ta!
Bọn Lê Triện liệu chống không nổi, bèn cáo cấp với Lê Lễ, Lê Hối, Lê
Chiếu, Lê Xí. Lê Lễ khi ấy đã phục quân ở Thanh-đàm để đợi giặc. Nghe tin báo
của Triện tới nơi, bèm đêm đem hơn ba nghìn quân tinh-nhuệ, và hai thớt voi,
đến cứu bọn Triện. Cùng nhau góp sức xông đánh ở mấy nơi Tố-động, Ninh-kiều, cả
phá quân giặc chém Trần Hiệp, Lý Lượng và hơn năm vạn đầu giặc. Quân giặc chết
đuối rất đông, bị bắt sống hơn trăm người. Khí-giới, lừa ngựa, bạc, vàng, vải
lụa, cùng các xe lương-thảo bỏ lại rất nhiều không thể đếm xiết. Tướng giặc là
bọn Vương Thông, Mã Ánh, Mã Kỳ, Sơn Thọ, chỉ chạy thoát được thân, vào thành
Đông-đô cố giữ để đợi chết!
Bọn Khả, Lễ, Bí, Xí, thừa thắng tiến thẳng sát thành bổ vây. Khi ấy
Nhà-vua đương đóng dinh ở Thanh-hóa, hội-họp các quân ở Hải-tây (?). Kịp khi
được thư báo tin thắng trận của Lê Lễ, bèn chính mình cầm đại quân, và hai mươi
thớt voi, chia hai đường thủy bộ ngày đêm cố sức tiến.
Tháng mười-một năm ấy, đến cầu sông Luống. Sai bọn Lê Bị lĩnh thủy-quân
từ sông nhỏ thẳng tiến lên miệt thượng nguồn. Còn Nhà-vua thì thân đem đại
quân, hội-đồng với bọn Lê Lễ, vây thành Đông-đô. Cả mặt thủy, mặt bộ giáp đánh,
đêm phá được trại ngoài của giặc, gỡ được hết những người nước ta bị giặc bắt
hiếp, cùng cướp được thuyền giặc và khí-giới rất nhiều. Giặc biết các quân-dân
ở phụ thành đều theo về với ta. Xem thế càng ngày càng quẫn, bèn lại đắp thêm
tường lũy, cố chết giữ để đợi quân cứu viện. Nhà-vua tới Đông-đô trong ba ngày
đầu, nhân-dân ở kẻ chợ cùng các phủ, huyện, châu và các tù-trưởng ở biên-trấn,
đều tấp-nập đến cửa trại quân, xin ra sức liều chết, để đánh thành giặc ở các
nơi. Nhà-vua đem lòng son để phủ-dụ, yên-ủi. Bảo cho biết rõ lẽ thuận, nghịch,
lui, tới. Phàm sĩ thứ tới cửa trại quân, Nhà-vua đều nhún mình, hậu lễ tiếp
đãi. Và đều tùy tài cao thấp, cắt-đặt làm các chức. Đem tước thưởng mà cổ-lệ
họ, khiến ai nấy đều tự cố gắng; lấy hình-phạt mà bó-buộc họ, khiến ai nấy đều
tự e dè. Vì thế người ta thảy đều nô-nức, thề hết sức liều chết. Nên đến đâu
cũng được thành công. Nhà-vua bèn chính mình dốc các tướng-sĩ đánh thành
Đông-đô. Mà giặc thì đánh trận nào thua trận nấy, khí đã nhụt, lòng đã nản, kế
đã cùn, viện-binh đã tuyệt! Giặc bèn cho sứ sang giảng hòa, xin cho được đem
toàn quân về nước. Nhà-vua xét ý họ đến nói, cũng hợp với lòng Nhà-vua. Vả
chăng binhpháp dạy rằng: "Không đánh mà khuất được quân của người, ấy là
mưu hay nhất trong các mưu hay!".Bèn hứa cho, và giao-hẹn với chúng, cần
nhất phải đưa thư lấy các quân đóng giữ ở các nơi về. Nhất thời quân giặc phải
họp cả ở Đông-đô, cùng nhau về nước Nhà-vua cũng sắp ngay ngựa, voi, binh-lính,
đi lại và giao-thông mua bán với giặc. Giặc quả y lời hẹn, thân tự tư giấy, lấy
các quân giặc ở Diễn-châu, Nghệ-an, Tân-bình, Thuậnhóa, họp đủ ở trại Bồ-đề,
hẹn ngày về nước, trả lại địa-phương cho ta. Không ngờ những kẻ làm quan với
giặc là lũ Nhữ Linh, Nhữ Hốt, nghiệp dĩ bán nước để lấy chức trọng, quyền cao
của giặc, thật là ác sâu tội nặng! Sợ sau khi giặc về, tất không có lý nào sống
được, bèn ngầm bày mưu phản gián. Nói rằng: "Xưa kia Ô Mã Nhi thua ở sông
Bạch-đằng, đem quân ra đầu hàng, rồi bị ông quận Vạn-kiếp (tức Hưng đạo Vương)
dùng mưu đánh lừa. Lấy tàu lớn chở cho về nước. Lại sai bọn người tài lặn, sung
làm phu chở tàu. Khi ra ngoài bể, đêm rình cho ngủ kỹ bèn lặn xuống nước đụt
đáy tàu ra cho chết đuối hết, không một người nào được về!". Giặc nghe mưu
ấy, bèn sinh lòng ngờ. Mới lại đắp thêm lũy, đào thêm hào, làm kế sống tạm bợ!
Bề ngoài nói giảng hòa, bên trong tính mưu khác.
Nhà-vua sợ nó tráo-trở, bèn ở bốn bên cửa thành, ngầm đặt quân phục.
Rình giặc ra vào, bắt hơn ba nghìn quân thám-thính của giặc, cùng năm-trăm con
ngựa. Từ đó giặc không dám ra nữa. Việc cho sứ đi lại bèn cắt đứt. Khi ấy quân
ta có hơn năm vạn tinh binh, cùng lòng góp sức. Mà quân giặc thua hoài, ngồi để
chờ chết! Trong khoảng chỉ, vạch, bắt, tha, quyền ở cả ta. Nhà-vua bèn sai các
tướng chia quân ra đánh các thành. Quốc Hưng lĩnh quân đánh hai thành Điêu-kê,
Thị-kiều (Đáp-cầu), chúng đều ra đầu cả. Bọn Khả, Đại đánh thành Tam-giang, hơn
một tháng thì thành ấy hàng. Bọn Lê Triện, Lê Sát, Lê Lý, Lê Thụ, Lê Lãnh. Lê Hốt
đánh thành Xương-giang. Bọn LêLự, Lê Bôi đánh thành Ôn-khâu. Trong khoảng quay
gót mấy thành đều vỡ. Chỉ có bốn thành Đông-đô, Cổ-lộng, Tây-đô, Chí-linh, là
chưa hạ mà thôi.
Lúc trước Nhà-vua đóng dinh ở thành Phù-liệt, hơi xa với giặc. Sau bèn dời
về dinh Bồ-đề ở bên Bắc sông, đối diện với thành Đông-đô, để đón đường về của
chúng. Ngày đêm luyện-tập các tướng; kén thêm quân-sĩ; sắp đồ dùng đánh thành;
chứa oai nuôi sức; tập nghề võ; giữ hiệu-lệnh phân minh. Chia sai các tướng
chẹn giữ các đường quan-ải, dứt quân cứu-viện của giặc. Khi ấy các tướng-sĩ
phần nhiều dâng thư khuyên Nhà-vua đánh các nơi thành Đông-đô.
Nhà-vua nói:
- Đánh thành là hạ sách! Ta
đánh vào thành vững, hàng tháng, hàng năm không hạ nổi. Quân ta sức mệt, khí
nản. Nếu viện-binh của giặc lại đến thì trước mặt, sau lưng đều bị giặc đánh,
đó là thế nguy! Không bằng nuôi oai chứa sức, để đợi ít ngày. Viện-binh dứt thì
thành tất phải hàng. Làm một được hai, đó mới là kế vạn-toàn vậy. Năm Đinh-vị,
ngày mồng-mười tháng sáu, tướng giặc là Trần viễn Hầu đem năm vạn quân, một
nghìn ngựa, từ Quảng-tây sang, cứu-viện các thành. Đến ải Pha-lủy (Nam-quan),
tướng giữ ải của ta là bọn Lê Lựu, Lê Bôi, đánh cho thua to, chém hơn ba nghìn
đầu, bắt được hơn năm trăm ngựa, cả phá
đước giặc mà về. Nước Minh cậy mình mạnh
lớn, không trông gương bánh xe đổ trước, lại cho đem hơn hai mươi vạn quân, ba
vạn con ngựa, sai bọn Tổng-quản là An-viễn-hầu Liễu Thăng, cùng Kiềm-quốc-công
là Mộc Thạnh, Bảo-định-bá là Lương Minh, Đô-đốc là Thôi Tụ, Thượng-thư là Lý
Khánh, Hoàng Phúc, đi chia làm hai đường. Bọn Liễu Thăng từ Ôn-khâu tiến sang,
bọn Mộc Thạnh từ Vân-nam đi lại. Ngày mười-tám tháng chín, đều đến cả đầu
biên-giới.
Nhà-vua triệu các tướng bàn rằng:
- Giặc vốn khinh ta, cho người
nước ta tính nhút-nhát, lâu nay vẫn sợ oai giặc. Nghe tin đại-quân đến, tất là
khiếp sợ. Huống chi lấy mạnh lấn yếu, lấy nhiều thắng ít, là sự chi thường.
Giặc nào phải không biết luận đến; thế thua được của đấy, đây; cơ tuần-hoàn của
thời-vận. Vả chăng quân đi cứu-cấp,cần nhất phải cho mau-chóng. Quân giặc tất
nhiên cố sức đi gấp đường. Tức như lời binh-pháp đã dạy: "Xô tới chỗ lợi
mà ngày đi năm mươi dặm, tất quệ bậc thượng tướng". Nay Liễu Thăng sang
đây đường- sá xa xôi. Đem ba nghìn gái đẹp (?), khua chiêng, dóng trống, hẹn
cùng đi bằng ngày; long quân khổ vì mệt-nhọc. Ta lấy thong-thả mà đợi quân
mệt-nhọc, không có lẽ nào là không thắng!
Bèn sai bọn Lê nhân Chú, Lê Sát, Lê Thụ, Lê Lãnh, Lê Liệt, đem một vạn
tinh binh, năm thớt voi, ngầm phục ở ải Chi-lăng để đợi. Nguyên trước Lê Lựu
giữ ải Pha-lũy, thấy giặc đến lui giữ ải Truy. Giặc lại tiến đánh ải Truy. Bọn
Lê Sát, Lê nhân Chú giữ Chi-lăng, giặc lại tiến bức Chi-lăng. Bọn Lê Sát, Lê
nhân Chú sai Lựu ra đánh, rồi giả vờ thua mà chạy. Quả-nhiên quân giặc mừng rỡ,
Liễu Thăng thân đem đại-quân tiến vào chỗ phục. Bọn Chú, Sát tung hết quân phục
ra, bốn mặt đều vây, xông đánh quân giặc, cả phá được chúng chém bọn Liễu
Thăng, Lý Khánh, cùng hơn một vạn quân giặc. Chiến-cụ của giặc, nhất thời bị
đốt hết.
Nhà-vua lại sai bọn Lê Lý, Lê văn An, đem quân đến tiếp. Tỳ-tường của
giặc là bọn Thôi Tụ, Hoàng-Phúc, thu nhặt đám quân tàn, lại gượng tiến đến ải
núi Mã-yên. Bọn Sát, Chú, Lý, đem các tướng tung hết quân ra đánh. Giặc lại
thua to. Ta chém được hơn hai nghìn đầu; bắt được lừa, ngựa, trâu, bò,
quân-lương, khí-giới, không biết bao nhiêu mà kể! Quân giặc cho là thành
Xương-giang chưa vỡ, tự lấy làm chắc. Kịp khi tới Xương-giang, thấy thành đã bị
hãm rồi, tưng-hửng thất-vọng, càng hoảng-hốt cả sợ. Liền ngày đêm đắp lũy tự
giữ lấy pháo hiệu làm tin, để thông tin với các thành ở Đông-đô, nghe tiếng
pháo thì đến tiếp-ứng. Thế nhưng các thành ở Đông-đô, tự cứu mình không rồi,
biết đâu đến chuyện khác!
Nhà-vua liền sai các tướng, mặt thủy, mặt bộ đều tiến, vây đánh quân
giặc. Lại chia quân ra, chặn giữ các ải Mã-yên, Chi-lăng; Pha-lũy, Bàng-quan.
Bọn Thôi Tụ, Hoàng Phúc muốn tiến không được; muốn lui không xong, bèn giả vờ
xin hòa. Nhàvua
nhất định từ chối không cho. Sai bọn Lê
Hối, Lê Vấn, Lê Khôi, lĩnh ba nghìn quân, bốn thớt voi, cùng bọn Lý, Sát, Nhân
Chú, Văn An đánh phá quân giặc. Giặc toàn quân bị hãm mất. Ta chém năm vạn đầu,
bắt sống được Thôi Tụ, Hoàng Phúc cùng hơn ba vạn quân giặc. Giáo, mác, lừa,
ngựa, vàng, bạc, lụa là, gấm, đoạn, từng hòm, từng đống, chứa chất như núi,
không thể kể xiết! Còn bọn Kiềm-quốc-công là Mộc-Thạnh, Bảo-định-hà là Lương
Minh, từ Vân-nam sang năm vạn quân, đóng đồn ở chợ Lê-hoa, cầm cự với bọn Lê
Khải, Lê Trung, Lê Đại. Nhà-vua liệu chừng Mộc Thạnh tuổi già, trải việc đã
nhiều, lại vốn nghe tiếng quân ta, tất ngồi nhìn sự thắng bại của quân Liễu
Thăng, không dám tiến liều! Liều viết thư kín bảo bọn Sát, Khả, Đại, chỉ nên
đặt quân phục để chờ, hãy chớ đánh nhau với giặc.
Kịp khi quân Liễu Thăng đã thua, Nhà-vua bèn lấy một viên Chỉ-huy, ba
viên Thiên-hộ trong đám quân bắt được, cùng là bằng sắc, ấn-tín của Liễu Thăng;
đưa sang trại quân Mộc Thạnh! Bên Mộc Thạnh trông thấy cả kinh, bèn chạy trốn,
vỡ lỡ, giầy, xéo lên nhau! Bọn Khả, Trung, Đại thừa thắng tung quân đuổi đánh,
chém hơn vạn đầu, bắt được năm nghìn con ngựa; cùng là khí-giới, vàng bạc, của
báu, lụa là, không thể đếm xiết.
Khi ấy các thành giặc ở Đông-đô cùng các nơi khác, nghe tin hai lộ cứu
binh đều đã thua vỡ, nhưng lòng còn nghi-hoặc, có điều chưa tin hết, nên vẫn
còn đóng cửa thành chống giữ.
Nhà-vua bèn đem các tướng giặc bắt được là bọn Thôi Tụ, Hoàng Phúc cùng
hơn ba vạn quân, hai vạn ngựa, và các thứ gươm, giáo, chiêng, trống, cờ tàn, sổ
sách, quả ấn Song-hổ-phù của giặc, để rao bảo các thành! Quân giặc mới khiếp
sợ, đều cởi áo-giáp xin hàng. Ngày mười-sáu tháng chạp, tướng giặc là Vương
Thông, Mã Ánh, Lý An, Trần Trí, Nội-quan là Mã Kỳ, Sơn Thọ, Phương Chính, Đặc
Khiêm, cùng các viên chỉ-huy giữ thành Tây-đô là Hà Trung, giữ thành Chí-linh
là Cao Tường, bèn đem tất cả các hạng ngụy quan (người nước ta làm quan với
giặc) lớn, nhỏ, và những nhân-dân nước ta bị bắt hiếp vào trong thành, đưa trả
về đủ số. Chỉ xin được cho đem quân về Tàu.
Các tướng sĩ cùng nhân-dân nước ta, không kể già, trẻ, trai, gái, bấy
lâu khổ vì mọi sự tàn-ác của giặc: giết hại cha, mẹ, bà con họ, bèn đem nhau cố
xin Nhà-vua giết cho hết bọn chúng để bỏ giận cho Trời, Đất, Thần, Dân; để hả
lòng các trung-thần, nghĩa-sĩ; để yên-ủi các hồn vô tội chịu oan khuất; để gột
rửa nỗi nhụt vô cùng cho Nước-Nhà!
Nhà-vua với các tướng cùng người trong nước mà bảo họ rằng:
- Một lòng báo oán là thường
tình của con người ta. Nhưng không thích giết người là bản-tâm của bậc
nhân-giả. Vả chăng người ta đã ra hàng mà ta lại giết đi thì không còn gì không
lành hơn nữa! Dữ kỳ hả cái giận trong một sớm, mà chịu mang tiếng giết kẻ đầu
hàng với muôn đời, thì sao bằng để sống hàng ức, vạn mạng người, mà dứt mối
chiến-tranh về sau trong hai nước? Sử xanh chép lại, nghìn thủa còn thơm! Như
thế lại không tốt đẹp hay sao?
Bèn không nghe lời họ. Rồi sai các tướng giải vây lui ra. Lại đưa cho
hơn năm-trăm chiếc thuyền, chi cấp cho đủ lương-thảo. Và đem các tướng giặc bắt
được là bọn Thôi-Tụ, Hoàng Phúc; quân mới sanag hơn hai vạn; quả ấn Song-hổ-phù
của Liễu Thăng; cùng quân giặc trấn thủ ở các thành, trai, gái, lớn nhỏ, hơn ba
mươi vạn; giao cả cho tướng giặc là bọn Vương Thông; bằng lòng cho hoặc thủy,
hoặc bộ, tùy tiện muốn về đường nào thì về. Lại sai sứ dâng biểu xin lỗi.
Khi bọn Vương Thông về tới Long-châu, vua Minh đã biết trước quân Minh
cùn-quẫn, việc đã đến thế, không còn làm thế nào được. Bèn sai sứ-thần đem
sắc-thư, truyền cho các tướng đem quân về Tàu, trả lại đất cho An-nam. Còn việc
vào chầu dâng cống, lại theo lệ cũ đời Hồng-vũ, thông sứ đi lại. Từ đó giáo,
mác dẹp tan; đất đai lấy lại; trong nước thái-bình, nhân-dân yên nghiệp như cũ.
Nhà-vua từ khi khởi nghĩa, đến lúc bình được giặc, lấy lại được nước,
bao nhiêu giấy tờ đi lại ở trong quân, đều sai văn-thần Nguyễn Trãi làm ra.
Hết cuốn thứ hai
CUỐN THỨ BA
Lam Sơn Thực Lục
Cuốn thứ ba
Năm Mậu-thân (1428), tháng ba, Nhà-vua hội hết cả các tướng cùng các
quan văn, võ, định phong, hành thưởng. Cứ theo công cao, thấp, mà sắp đặt phẩm
cấp. Lại chia trong nước làm mười lăm đạo. Mỗi đạo đặt quân coi giữ. Mỗi quân
đặt một viên tổng-quản; lớn, nhỏ ràng-buộc nhau; trong ngoài gìn-giữ nhau. Các
đạo lại đặt ra chức Hành-khiển, chia giữ sổ-sách quân và dân. Sai sứ đi các
nơi, tế các thần kỳ của Núi, Sông, Đền, Miếu; lễ tạ các lăng-tẩm các triều vua
trước. Truy-tôn các Tổ-tông và dâng thêm thụy hiệu.
Ngày mười bốn tháng tư, Nhà-vua lên ngôi Hoàng-đế, lấy niên hiệu là
Thuận-thiên. Bèn sai Nguyễn-Trãi làm bài "Bình Ngô Đại Cáo". Lời
rằng:
Bình Ngô Đại Cáo
Dịch âm
Đại Thiên hành Hóa, Hoàng-thượng nhược
viết:
Nhân, nghĩa chi cử, vụ tại an dân.
Điếu phạt chi sư, mạc tiên khứ bạo,
Duy ngã Đại Việt chi quốc,
Thực vi Văn-hiến chi bang.
Sơn, xuyên chi phong vực ký thù.
Năm Bắc chi phong tục diệc dị.
Việt Triệu, Đinh, Lý, Trần chi triệu tạo
ngã quốc;
Dữ Hán, Đường, Tống, Nguyên nhi các đế
nhất phương.
Tuy cường, nhược thời hoặc bất đồng,
Nhi hào-kiệt thế vị thường phạp.
Cố Lưu Cung tham công nhi thủ bại.
Triệu Tiết hiếu đại nhi xúc vong;
Toa Đô kỳ cầm ư Hàm-tử quan;
Mã Nhi hựu ế ư Bạch-đằng hải.
Kê chư vãng-cổ,
Quyết hữu Minh-trưng.
Khoảnh nhân Hồ chính chi phiền-hà,
Trí sử nhân-tâm chi cán-bạn.
Cuồng Minh tứ khích, nhân dĩ độc ngã dân;
Ngụy-đảng hoài gian, cánh dĩ mãi ngã
quốc!
Phiến thương-sinh ư ngược diệm;
Hãm xích-tử ư họa khanh!
Khi thiên, võng dân, quỷ kế cái thiên-vạn
trạng!
Liên binh, kết hấn, nẫm ác đãi nhị
thập-niên!
Bại nghĩa, thương nhân, Kiền-khôn cơ-hồ
dục tức!
Trọng khoa, hậu liễm, sơn trạch mỹ-hữu
nghiết-đi!
Khai Kim trường tắc mạo lam chướng nhi
phủ sơn đào sa!
Thái minh châu tắc xúc giao long nhi cắng
yêu xám hải!
Nhiễu dân thiết huyền lộc chi hạm tịnh!
Điễn vật chức thúy cầm chi võng-la!
Côn-trùng, thảo-mộc, hàm bất đắc dĩ an kỳ
sở;
Tuấn sinh-linh chi huyết, dĩ nhuật
kiệt-hiệt chi vẩn nha?
Cực thổ, mộc chi công, dĩ sùng công, tư
chi giải vũ!
Chân lý chi chinh, dao trụng khốn!
Lư-diêm chi trữ, trục giai không!
Quyết Đông-hải chi ba, bất túc dĩ trạc kỳ
ô!
Khánh Nam-sơn chi trúc, bất túc dĩ thư kỳ
ác!
Thần, nhân chi sở cộng phẫn!
Thiên địa chi sở bất dong!
Dư, phấn tích Lam-sơn,
Thê thân hoang-dã;
Niệm quốc thù khởi khả cộng đái.
Thệ nghịch-tặc nan dữ câu sinh!
Thống tâm, tật thủ giả, thùy thập dư
niên!
Ngọa tần, thường đỏm giả, cái phi nhất
nhật!
Phát phẫm vong thực, mỗi nghiên đàm
Thao-lược chi thư;
Tức cổ, nghiệm kim, tế suy cứu hưng, vong
chi lý.
Đồ hồi chi chi,
Mụ-my bất vong!
Đương nghĩa binh sơ khởi chi thì,
Chính tặc thế phương trương chi nhật.
Nại dĩ: nhân-tài thu diệp!
Tuấn-kiệt thần tinh?
Bôn, tấu tiên, hậu giả ký phạp kỳ nhân!
Mưu-mô duy-ác giả hựu quả kỳ trợ!
Đặc-dĩ cứu dân chi niệm, mỗi uất uất nhi
dục Đông!
Cố ư đãi hiền chi xa, thường cấp cấp nhi
hư Tả!
Nhiên kỳ: đắc nhân chi hiệu, mang nhược
vọng dương!
Do kỷ chi tâm, thâm ư chửng nịch!
Phẫn hung-đồ chi vị diệt;
Niệm quốc bộ chi do chuân;
Linh-sơn chi thực tận kiêm tuần!
Côi-huyện chi chúng vô nhất lữ!
Cái thiên dục khốn ngã dĩ giáng quyết
nhiệm.
Cố dư ích lệ chi dĩ tế vu gian!
Yết can vi kỳ, manh lệ chi đồ tứ tập!
Đầu giao hưởng sĩ, phụ-tử chi binh nhất
tâm!
Dĩ nhược chế cường, hoặc công nhân chi
bất bị.
Dĩ quả địch chúng, thường thiết phục dĩ
xuất kỳ!
Tốt năng dĩ đại nghĩa nhi diệt hung-tàn;
Dĩ chí nhân nhi địch cường-bạo.
Bồ-đằng chi đình khu điện xiết!
Trà-lân chi trúc phá, hôi phi!
Sĩ khi dĩ chi ích tăng!
Quân thanh dĩ chi đại chấn!
Trần Trí, Sơn Thọ chi đồ, văn phong nhi
trĩ phách!
Lý An, Phương Chính chi bối, giả tức dĩ
thâu sinh!
Thừa thắng trường khu, Tây-kinh ký vi ngã
hữu.
Tuyển phong tiến thủ, Đông-đô tận phục
cựu cương.
Ninh-kiều chi huyết thành xuyên, lưu tính
vạn lý!
Tốt-động chi thi mãn dã, di xú thiên
niên!
Trần Hiệp tặc chi phúc tâm, ký cưu kỳ
thủ!
Lý Lương tặc chi gian tố, hựu bộc quyết
thi!
Vương Thông lý loạn nhi phần giả ích
phần!
Mã Ánh cứu đấu nhi nộ giả ích nộ!
Bỉ trí cùng nhi lực tận, thúc thủ đãi
vong!
Ngã mưu phạt nhi tâm công, bất chiến tự
khuất!
Vị bỉ bất địch tâm nhi cải lự.
Khởi ý phục tác nghiệt dĩ tốc cô!
Chấp nhất kỷ chi kiến nhi giá họa ư tha
nhân;
Tham nhất thi chi công, nhi di tiếu ư
thiên hạ!
Toại sử Tuyên-đức chi giảo đồng, độc binh
vô yếm!
Viên mạnh Thạch, Thăng chi nọa tướng, dĩ
du cứu phần!
Đinh-vị cửu nguyệt, Liễu Thăng tự dẫn
binh, do Ôn-khâu nhi tiến.
Bản niên thập nguyệt, Mộc Thạnh diệc phân
đạo tự Vân-nam nhi lai.
Dư tiền ký tuyển phục tốt tắc hiểm, dĩ
tồi kỳ phong;
Hậu hựu diệu kỳ binh tiệt lộ, dĩ đoạn kỳ
thực.
Thập-bát nhật, Liễu Thăng kỳ vi ngã sở
công, kế trụy ư Chi-lăng chi dã!
Nhị-thập nhật, Liễu Thăng hựu vi ngã sở
bại thân tử ư Mã-yên chi sơn!
Nhị-thập-ngũ nhật, Bảo-định-bá Lương Minh
trận hãm nhi táng khu!
Nhị-thập-bát nhật, Thượng-thư tào Lý
Khánh, kế cùng nhi vẫn cảnh!
Ngã ký nghinh nhận nhi giải!
Bỉ tức đảo qua tương công!
Ký nhi tứ diện thiêm bình dĩ bao vi;
Ký dĩ thập-nguyệt trung tuần nhị điễu
diệt.
Viên manh tỳ-hưu chi sĩ;
Thân sử trảo-nha chi thần;
Am-tượng nhi hà thủy cản!
Ma đao nhi sơn thạch khuyết!
Nhất cổ nhi kình khoa, ngạc đoạn!
Tái cổ nhi điểu tán, huân kinh!
Quyết hội nghĩ ư băng-đê!
Chấn cương-phong ư khô-diệp!
Đô-đốc Thôi Tụ tất hành nhi tống khoản!
Thượng-thư Hoàng Phúc diện phọc nhi tựu
cầm!
Cương-thi tắc ư Lạng-sơn, Lạng-giang chi
đồ!
Tiên huyết xích ư Xương- giang, Bình-than
chi thủy!
Phong vân vị chi biến sắc!
Nhật, nguyệt thảm dĩ vô quang!
Kỳ Vân-nam binh vi ngã quân sở ách ư
Lê-quan, tự đồng nghi, khư-át nhi tiên dĩ quá đởm!
Ký Mộc Thạnh đẳng vi ngã quân sở bại ư
Cần-trạm, toại lạn tạ, bôn hội nhi cận đắc thoát thân!
Lãnh-câu chi huyết chử lưu, giang thủy vị
chi ô yết!
Đan-xá chi thi sơn tích, dã thảo vị chi
ân hồng!
Lưỡng lộ cứu binh, ký bất toàn chủng nhi
câu bại!
Các thành cùng khấu, suất tương giải pháp
dĩ xuất hàng!
Tặc thủ thành cầm, bỉ ký trạo khốn thú
khất liên chi vĩ!
Thần-vũ bất sát, dư tiệc thể Thượng-đế
hiếu sinh chi tâm!
Tham-tướng Phương Chính, Nội-quan Mã Kỳ
đẳng, tiên cấp thuyền ngũ bách dư sưu, ký độ hải nhi do thả hồn phi phách táng!
Tổng-binh Vương Thông, Tham-chính Mã Ánh
đẳng, hựu cấp mã sổ thiên dư thất, dĩ hoàn quốc nhi ích tự cổ lật, tâm kinh!
Bỉ ký úy tử, tham sinh, nhi tu hiếu hữu
thành.
Dư dĩ toàn quân vi thượng, nhi dữ dăn đắc
tức.
Phi duy kế mưu chi cực kỳ thâm-viễn;
Ức diệc cổ kim chi sở vị kiến-văn!
Xã-tắc dĩ chi điện-an.
Sơn xuyên dĩ chi cải quán.
Kiền-khôn ký bĩ nhi phục thái.
Nhật, Nguyệt, ký hối nhi phục minh.
Vu dĩ khai vạn thế thái-bình chi cơ!
Vu dĩ tuyết thiên-cổ vô cùng chi sỉ!
Cái do Thiên, Địa, Tổ, Tông chi linh hữu
dĩ âm tướng, mặc-hựu nhi trí nhiên dã;
Ô-hô!
Nhất nhung đại định, bất thành vô cạnh
chi công!
Từ hải vĩnh thành, đảm bá duy-tân chi
cáo!
Bá cáo Thiên-hạ.
Hàm sử văn, tri!
Dịch nghĩa :
Thay Trời giáo-hóa, Hoàng-thượng truyền
rằng:
Làm việc trọng nhân vì nghĩa, cốt là yêu
đám lương-dân.
Cất quân hỏi tội, cứu đời, trước phải trừ
loài tàn-bạo!
Thử xét nước nhà: Đại Việt.
Vốn là xứ-sở văn-minh.
Cõi bờ của sông, núi đã chia.
Phong-tục của Bắc, Nam
cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần, đã dựng thành
một nước;
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, đều làm
chúa một phương.
Dù mạnh yếu có lúc không đều;
Nhưng hào-kiệt chưa đời nào thiếu!
Cho nên: Triệu Tiết thích lớn mà mau mất!
Lưu Cung tham công mà hóa thua!
Mã Nhi đã chết ở bể Bạch-đằng!
Toa Đô lại tù ở ải Hàm-tử!
Xét về đời trước,
Gương đã rõ ràng!
Gần đây vì họ Hồ phép ngặt, lệnh phiền;
Đến nỗi khiến dân nước lòng lìa, dạ oán.
Giặc Minh dòm-dỏ, bèn mượn thế tàn dân!
Lũ nịnh gian-tham, nỡ cam lòng bán nước!
Đẩy con đỏ xuống hang tối!
Thui dân đen bằng lửa nồng!
Dối trời, lừa người, mẹo bày ra có nghìn
muôn cách!
Tràn quân, gây chuyện, ác chứa lại ngót
hai mươi năm!
Trái nghĩa, hại nhân, lẽ Trời Đất tưởng
chừng tắt hẳn!
Thu nhiều, lấy nặng, lợi núi, chầm, vét
chẳng sót đâu!
Kẻ khai mỏ vàng thì đào non, đãi cát, mà
nước độc dám nài.
Người lấy ngọc trai thì lặn biển dấn thân
mà rồng thiêng chẳng quản.
Giết-hại vật thì dệt ra lưới bắt chim
trả!
Quấy rối dân thì đặt ra bẫy bắt hươu đen!
Bọn long-đong côi-cút, đều không tìm được
chỗ nương thân!
Dù sâu, bọ, cỏ, cây, cũng không biết có
ngày vui sống!
Béo nanh, miệng, bao phường kiệt-kiệt,
rút-bòn máu-mủ sinh-linh!
Đẹp đền-đài khắp ngã công, tư, hoài-phí
công trình xây-dựng.
Nơi châu-quận, thuế-sưu nặng lắm!
Miền nhà quê khung-cửi sạch không!
Tháo biển Đông cho cạn sông, không đủ để
gột hết dơ!
Chặt núi Nam cho trụi tre, không đủ để chép
hết tội!
Thần, Dân đều phải căm giận!
Trời, Đất, lẽ nào cớ đúng!
Ta, cất bước núi Lam:
Nương thân nội cỏ.
Nghĩ thù nước, Trời không chung đội!
Thề giặc ngoài, thế chẳng sống đôi!
Vò đầu, nát ruột, kể đã hơn mười năm!
Nếm mật, nằm chông, nào phải mới một sớm!
Quên bữa chỉ vì lòng tức-bực, sách
lược-thao thường vẫn đọc, bàn.
Theo xưa mà nghiệm việc đời nay, lẽ
hưng-phế kỹ-càng suy-xét.
Tấm lòng khôi-phục.
Thức, ngủ không quên!
Quân nghĩa ta mới nổi lúc đầu,
Thế giặc nó chính đương còn mạnh.
Khốn nổi: tuấn-kiệt như sao buổi sớm!
Nhân-tài như lá mùa thu!
Bên mình thua, chạy, đã thiếu tay sai;
Trong trướng tính-toan lại ít người giúp.
Nhưng sốt ruột cứu bầy dân-chúng, thường
bồn-chồn muốn đánh sang Đông;
Nên sắp xe đợi bậc hiền-tài, vẫn
thành-kính bỏ không phía Tả.
Thế nhưng: mờ-mịt như trông ra bể, người
có thấy ai!
Vội vàng hơn vớt đắm đò, ta nào nản dạ!
Giận lũ giặc chưa đến ngày tuyệt diệt!
Thương nước-nhà còn đương bước long-đong!
Cơm Linh-sơn chịu thiếu hàng tuần!
Quân Côi-huyện không còn thành đội!
Chắc trời muốn thử người để giao cho
công-việc;
Nên Ta càng gắng chí, để vượt khỏi
gian-nan!
Vỉ bẻ làm cờ, dân cầy-cuốc nổi theo tứ
phía!
Rượu hòa thêm nước, quân cha-con vốn dốc
một lòng!
Đánh người hoặc nhân lúc hở cơ, yếu đè
được mạnh!
Bày kế thường đặt quân mai phục, ít địch
nổi nhiều.
Rút lại: lấy đại-nghĩa mà diệt lũ
hung-tàn;
Lấy chí-nhân mà thay được phường
cường-bạo.
Quân Đồ-bằng sấm vang, chớp nhoáng!
Giặc Trà-lạn nứa chẻ, tro bay!
Hăng-hái vì thế tăng thêm;
Tiếng-tăm từ đó lừng-lẫy!
Lũ Trần Trí, Sơn Thọ, vía tan theo gió!
Bọn Lý An, Phương Chính, sống tạm từng
hơi!
Thừa thắng đuổi dà, chiếm-cứ được thành
Tây-kinh trước.
Kén tài tiến đánh, thu phục hết đất
Đông-đô xưa!
Ninh-kiều máu chảy thành sông, tanh lây
muôn dặm!
Tốt-động thây nằm đầy nội, để thối nghìn
thu!
Lý Lương là sâu mọt dân, ta đã đem phanh
xác!
Trần Hiệp là tay chân quân giặc, cũng bị
bêu đầu!
Vương Thông dẹp loạn mà nơi cháy lại cháy
thêm.
Mã Ánh gỡ đòn mà kẻ giận càng giận dữ!
Trí đã cùn, sức đã kiệt, chúng bó tay đợi
chết biết sao!
Phá bằng mưu, công bằng lòng, ta không
đánh mà được là thế.
Tưởng chúng tất biết nghĩ và đổi bụng-dạ.
Nào ngờ còn gây chuyện để thêm tội-tình.
Gieo tai-vạ cho kẻ khác, chỉ chấp theo
ý-kiến riêng mình.
Làm trò cười cho người đời, bởi tham được
thành công chốc lát.
Xui-khiến thằng nhãi ranh Tuyên đức,
không chán dụng binh!
Bèn sai phường tướng khổ Thạnh, Thăng,
đem dầu chữa cháy!
Tháng chín Đinh-mùi Liễu Thăng tự dẫn
quân do Ôn-khâu tiến đánh.
Tháng mười năm ấy, Mộc Thạnh cũng chia
ngả từ Vân-nam kéo sang.
Ta: Trước đã kén quân phục nấp nơi
hiểm-yếu, đánh cho tan đội tiên-phong.
Sau lại cho kỳ-binh chẹn lối đi về, cắt
cho đứt đường lương-thực.
Ngày mười-tám, mắc mưu ở ải Chi-lăng,
Liễu Thăng đã bị ta đánh bại!
Ngày hai-mươi, thua trận ở núi Yên-ngựa,
Liễu Thăng lại bị ta chém đầu!
Ngay hai mươi lăm, Bảo-định-bá là Lương
Minh, trận vỡ phải liều mình.
Ngày hai mươi tám, Thượng thư Tào là Lý
Khánh kế cùn tự đâm cổ!
Ta đã tiến đâu được đấy!
Nó liền giở giáo đánh nhau,
Kế đó thêm quân bốn mặt để bao vây!
Hẹn đến trung tuần tháng mười là diệt
hết!
Bèn sai các tướng nanh-vuốt,
Đem theo những lính hùm-beo,
Voi uống mà cạn nước sông!
Dao mà đủ lở đá núi!
Một trận mà băm kình, chém ngạc!
Hai trận mà xẩy nghé, tan đàn!
Tưới tổ kiến bằng thế nước tràn!
Rung lá khô bằng làn gió mạnh.
Đô-đốc Thôi Tụ quỳ gối mà đưa lễ;
Thượng-thư Hoàng Phúc, trơ mặt mà nộp
mình!
Xác chết đầy cả đường Lạng-sơn,
Lạng-giang!
Máu chảy đỏ cả nước Bình-than,
Xương-thủy!
Muôn dặm gió, mây, đổi màu ảm-đạm!
Hai vầng nhật, nguyệt, ánh-sáng lu mờ!
Quân Vân-nam bị ta chẹn lối ở Lê-quan, tự
ngờ sợ, bàng-hoàng, mà vỡ cả mật!
Bọn Mộc Thạnh bị ta đánh bại ở Cần-trạm,
tự giầy xéo, tan vỡ, chỉ thoát được thân!
Lãnh-câu máu chảy trôi chầy, nước sông
khóc thảm!
Đan-xá thây chồng bằng núi, cỏ nội đẫm
hồng!
Quân cứu hai đường, chưa kịp quanh chân
đã vỡ!
Giặc tàn các ngả, cùng nhau cởi giáp xin
hàng!
Tướng giặc bị tù, thú sa bẫy đã vẫy đuôi
xin mạng!
Oai thần không giết, Trời chí công nên mở
lượng hiếu sinh!
Bọn Tham-tướng Phương Chính, Nội-quan Mã
Kỳ, cấp trước cho hơn năm trăm thuyền, vượt bể rồi mà vẫn hồn xiêu, vía lạc.
Bọn Tổng-binh Vương Thông, Tham-chính Mã
Ánh, về nước rồi mà còn lòng khiếp người run!
Nó đã tham sống, sợ chết, mà thực bụng
giảng hòa.
Ta lấy toàn quân là hơn, để cho dân nghỉ
sức.
Chẳng những mưu-kế thực sâu-xa tột bực!
Mà cũng xưa nay chưa nghe thấy bao giờ!
Non sông rày đã khác xưa!
Xã-tắc từ đây yên vững!
Ánh Ác, Thỏ tối rồi lại sáng!
Lẽ Kiền-khôn cùng mãi phải thông!
Để gây-dựng nền thái-bình cho muôn đời!
Để gội-rửa nhục vô-cùng cho cả nước!
Cũng là nhờ Trời, Đất, Tổ-tông
linh-thiêng, đã ngấm-ngầm phù-hộ mà được như thế này!
Than ôi! Mảng giáp dẹp yên hết cả, gây
được nên công-nghiệp phi thường.
Bốn phương phẳng-lặng từ nay, bảo cho
biết cuộc đời đổi mới.
Bá cáo thiên-hạ,
Đâu đấy đều hay!
Trích-lục Bản dịch của cụ Bùi Kỷ
Tượng mảng:
Việc nhân-nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu-phạt chỉ vì khử bạo,
Như nước Việt ta từ trước,
Vốn xưng văn-hiến đã lâu,
Sơn-hà cương-vực đã chia,
Phong-tục bắc nam cũng khác.
Từ Đinh, Lê, Lý, Trần, gây nền độc-lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, hùng-cứ
một phương,
Dẫu cường nhược có lúc khác nhau,
Song hào-kiệt đời nào cũng có.
Vậy nên
Lưu Cung sợ uy mất vía,
Triệu Tiết nghe tiếng giật mình,
Cửa Hàm-tử giết tươi Toa Đô,
Sông Bạch-đằng bắt sống Ô Mã,
Xét xem cổ-tích,
Đã có minh-trưng,
Vừa rồi
Vì họ Hồ chính-sự phiền-hà,
Để trong nước nhân-dân oán bạn,
Quân cường Minh đã thừa-cơ tứ ngược,
Bọn gian-tà còn bán nước cầu vinh,
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung-tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai-vạ.
Chước dối đủ muôn nghìn khoé,
Ác chứa ngót hai mươi năm.
Bại nhân-nghĩa nát cả càn-khôn,
Nặng khóa-liễm vét không sơn-trạch
Nào lên rừng đào mỏ, nào xuống bể mò
châu,
Nào hố bẫy hươu đen, nào lưới dò chim
trả,
Tàn-hại cả côn-trùng thảo-mộc,
Nheo-nhóc thay! quan quả diên liên
Kẻ há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy!
no-nê chưa chán,
Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào
phục-dịch cho vừa,
Nặng-nề về những nỗi phu-phen,
Bắt-bớ mất cả nghề canh-cửi.
Độc-ác thay! trúc rừng không ghi hết tội,
Dơ-bẩn thay! nước bể khôn rửa sạch mùi,
Lẽ nào trời đất tha cho,
Ai bảo thần-nhân nhịn được.
Ta đây:
Núi Lam-sơn dấy nghĩa,
Chốn hoang-dã nương mình,
Ngắm non sông căm nổi thế thù,
Thề sống chết cùng quân nghịch-tặc,
Đau lòng nhức óc, chốc là mười mấy nắng
mưa,
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối,
Quên ăn vì giận, sách lược-thao suy-xét
đã tinh,
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng-phế đắn-đo
càng kỹ.
Những trằn-trọc trong cơn mộng-mị,
Chỉ băn-khoăn một nỗi đồ hồi.
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đang thịnh.
Lại ngặt vì:
Tuấn-kiệt như sao buổi sớm,
Nhân-tài như lá mùa thu,
Việc bôn-tẩu thiếu kẻ đỡ-đần,
Nơi duy ác hiếm người bàn-bạc.
Đôi phen vùng-vẫy, vẫn đăm-đăm con mắt
dục đông
Mấy thủa đợi chờ, luống đằng-đẵng cỗ xe
hư-tả,
Thế mà trông người, người càng vắng ngắt,
vẫn mịt-mù như kẻ vọng dương,
Thế mà tự ta, ta phải lo toan, thêm
vội-vã như khi chửng nịch,
Phần thì giận hung-đồ ngang-dọc,
Phần thì lo quốc-bộ khó-khăn,
Khi Linh-sơn lương hết mấy tuần,
Khi Khôi-huyện quân không một đội,
Có lẽ trời muốn trao cho gánh nặng, bắt
trải qua bách chiết thiên ma,
Cho nên ta cố gắng gan bền, chấp hết cả
nhất sinh thập tử.
Múa đầu gậy ngọn cờ phất-phới, ngóng
vân-nghê bốn cõi đan hồ,
Mở tiệc quân chén rượu ngọt-ngào, khắp
tướng-sĩ một lòng phụ-tử.
Thế giặc mạnh, ta yếu mà ta địch nổi,
Quân giặc nhiều, ta ít mà ta được luôn.
Dọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung-tàn,
Lấy chí nhân mà thay cường-bạo.
Trận Bồ-đằng sấm vang sét dậy,
Miền Trà-lân trúc phá tro bay,
Sĩ-khí đã hăng,
Quân-thanh càng mạnh,
Trần Trí, Sơn Thọ, mất vía chạy tan.
Phương Chính, Quý An tìm đường
trốn-tránh.
Đánh Tây-kinh phá tan thế giặc.
Lấy Đông-đô thu lại cõi xưa,
Dưới Ninh-kiều máu chảy thành sông,
Bến Tụy-động xác đầy ngoài nội.
Trần Hiệp đã thiệt mạng,
Lý Lương lại phơi thây.
Vương Thông hết cấp lo-lường,
Mã Anh khôn đường cứu-đỡ
Nó đã trí cùng lực kiệt, bó tay không
biết tính sao,
Ta đây mưu phạt tâm công, chẳng đánh mà
người chịu khuất.
Tưởng nó đã thay lòng đổi dạ, biết lẽ tới
lui,
Ngờ đâu còn kiếm kế tìm phương, gây mầm
tội-nghiệt.
Cậy mình là phải, chỉ quen đổ vạ cho
người,
Tham công một thời, chẳng bỏ bày trò
dở-duốc.
Đến nỗi đứa trẻ con như Tuyên-đức, nhàm
võ không thôi.
Lại sai đồ nhút-nhát như Thạnh, Thăng đem
đầu chữa cháy.
Năm Đinh-mùi tháng chín,
Liễu Thăng tự Khâu-ôn tiến sang,
Mộc Thạnh tự Vân-nam kéo đến.
Ta đã điều binh thủ hiểm, để ngăn lối
Bắc-quân,
Ta lại sai tướng chẹn ngang, để tuyệt
đường lương-đạo.
Mười-tám, Liễu Thăng thua ở Chi-lăng,
Hai-mươi, Liễu Thăng chết ở Mã-yên,
Hai-mươi-lăm, Lương Minh trận vong,
Hai-mươi-tám, Lý Khánh tự vẫn,
Lưỡi dao ta đang sắc,
Ngọn giáo giặc phải lùi,
Lại thêm quân bốn mặt vây thành
Hẹn đến rằm tháng mười diệt tặc.
Sĩ-tốt ra oai tì-hổ,
Thần-thứ đủ mặt trảo nha.
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn,
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Đánh một trận sạch không kinh-ngạc.
Đánh hai trận tan-tác chim-muông.
Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê cũ.
Thôi Tụ phải quỳ mà xin lỗi,
Hoàng Phúc tự trói để hàng.
Lạng-giang, Lạng-sơn, thây chất đầy đồng,
Xương-giang, Bình-than, máu trôi đỏ nước.
Ghê-gớm thay! sắc phong-vân phải đổi,
Thảm-đạm thay! sáng nhật-nguyệt phải mờ.
Binh Vân-nam nghẻn ở Lê-hoa, sợ mà mất
mật.
Quân Mộc Thạnh tan chưng Cần-trạm, chạy
để thoát thân,
Suối máu Lãnh-câu, nước sông rền-rĩ,
Thành xương Đan-xá, cỏ nội đầm-đìa.
Hai mặt cứu-binh, cắm đầu trốn chạy,
Các thành cùng khấu, cởi giáp xuống đầu.
Bắt tướng giặc mang về, nó đã vẫy đuôi
phục tội,
Thể lòng trời bất sát, ta cũng mở đường
hiếu sinh.
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm
chiếc thuyền, ra đến bể chưa thôi trống ngực,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn
cỗ ngựa, về đến Tàu còn đổ mồ-hôi.
Nó đã sợ chết cầu hòa, mở lòng thú-phục,
Ta muốn toàn quân làm cốt, cả nước
nghỉ-ngơi.
Thế mới là mưu-kế thật khôn,
Vả lại suốt xưa nay chưa có.
Giang-san từ đây mở mặt,
Xã-tắc từ đây vững-bền.
Nhất-nguyệt hối mà lại minh,
Kiền-khôn bĩ mà lại thái.
Nền vạn thế xây nên chăn-chắn.
Thẹn nghìn thu rửa sạch làu-làu.
Thế là nhờ trời đất tổ-tông khôn-thiêng
giúp-đỡ cho nước ta vậy.
Than ôi!
Vẫy vùng một mảnh nhung-y, nên công đại
định.
Phẳng-lặng bốn bề thái-vũ, mở hội
vĩnh-thanh,
Bá cáo xa gần,
Ngỏ cùng nghe biết.
Nguyên trước Nhà-vua kinh-doanh việc bốn phương, Bắc đánh giặc Minh, Nam
đuổi quân Lào, mình trải trăm trận, đến đâu được đấy, chỉ dùng có quan võ là
bọn Lê Thạch, Lê Lễ, Lê Sát, Lê Vấn, Lê Lý, Lê Ngân, ba mươi lăm người; quan
văn là bọn Lê văn Linh, Lê quốc Hưng; cùng những quân-thân như cha, con; hai
trăm thiết-kỵ, hai trăm nghĩa-sĩ, hai trăm dũng-sĩ và mười bốn thớt voi. Còn
bọn chuyên-chở lương-thảo, cùng già yếu đi hộ-vệ vợ con, cũng chỉ hai nghìn
người mà thôi.
Trước đó có tên Hồ Ông, là con đứa ăn-mày, đổi tên là Cầm Quý, nhận bảo
là con-cháu vua Trần. Khi ấy người trong nước khổ vì những chính-lệnh
ngặt-nghèo của giặc, mong tìm được người làm chủ. Mà Nhà-vua thì nóng lòng muốn
diệt giặc cứu dân, bèn sai người đón dựng làm vua, để quyền-nghi công-việc một
thì, nên ban đầu cũng chẳng kén-chọn gì hiền hay ngu, thực hay giả. Sau khi
giặc yên, các quan đều dâng sớ cố sức can. Cho là Hồ Ông không có công gì với
dân, sao đáng ăn trên ngồi trước mọi người, nên trừ đi cho sớm.
Nhà-vua biết thế là phải, nhưng lòng còn không nỡ, lại càng hậu-đãi
thêm. Hắn tự biết người trong nước không phục, trong lòng hổ thẹn, bèn ngầm
cùng tên giặc là Văn Duệ thông mưu làm phản, để cho mau đáng tội chết! Chẳng
phải "tự mình làm mình" thì đâu đến nỗi thế! Trong khi muôn việc có
rỗi, Nhà-vua thường cùng các quan bàn-luận về duyên-cớ thịnh suy, được, mất từ xưa
đến nay. Cùng là giặc Ngô sở dĩ thua, Nhà-vua sở dĩ thắng là vì cớ làm sao?
Các quan đều nói rằng:
- Người Ngô hình-phạt tàn-ác,
chính-lệnh ngổ-ngược, mất hết cả lòng dân. Nhà-vua làm trái lại đạo của chúng,
lấy nhân mà thay bạo, lấy trị mà thay loạn, vì thế cho nên thành công được
mau-chóng là thế!
Nhà-vua phán rằng:
- Lời các thầy nói, tuy là đúng
lẽ, nhưng cũng còn có điều chưa biết. Trẫm trước gặp lúc loạn-ly, nương mình ở
Lam-sơn, vốn cũng mong giữ toàn được tính-mệnh mà thôi! Ban đầu cũng không có
lòng muốn lấy thiên-hạ. Đến khi quân giặc càng ngày càng tàn-ác, dân không sao
sống nổi! Bao nhiêu người trí-thức, đều bị chúng hãm-hại. Trẫm đã chịu
khánh-kiệt cả gia-tài để thờ-phụng chúng! Vậy mà chúng vẫn đem lòng muốn hại
Trẫm, không chịu buông tha! Vieệc khởi nghĩa, thực cũng là bất-đắc-dĩ mà Trẫm
phải làm! Trong lúc ấy, Trẫm thân trọ quê người, vợ, con, thân-thích, đều
tán-lạc hết! Cơm không đủ hai bữa! Áo không phân Đông, Hè! Lần gặp nạn ở núi
Chí-linh, quân thua, lương hết! Trời kia bắt lòng ta phải khổ, trí ta phải mệt,
đến thế là cùng! ... Trẫm thường dụ bảo các tướng-sĩ rằng: "Hoạn-nạn mới
gây nổi nước! Lo-phiền mới đúc nên tài! Cái khốn-khổ ngày nay là trời thử ta đó
mà thôi! Các thầy nên giữ vững lòng xưa, cẩn-thận, chớ vì thế mà
chán-nản". Vậy mà tướng-sĩ cũng dần dần lẩn trốn! Theo Trẫm trong cơn
hoạn-nạn, mười người không được lấy một, hai! Còn bỏ Trẫm mà đi, thì đại-loại
là phường ấy cả! Kể như lúc ấy, nào ngờ lại có ngày nay! May mà Trời chán đứa giặc!
Phàm lúc giặc làm cho Trẫm cùn, trí Trẫm lại càng thêm rộng! Phàm cách giặc làm
cho Trẫm khổ, lòng Trẫm lại càng thêm bền. Trước kia quân-lính đói thiếu, giờ
lại nhờ lương của giặc mà số trừ-súc của ta càng sẵn! Trước kia quân-lính
lẩn-trốn, giờ lại mượn binh của giặc, mà trở giáo để chúng đánh nhau! Giặc có
bao nhiêu mác, mộc, cung, tên, ấy là giúp cho ta dùng làm chiến-cụ! Giặc có bao
nhiêu bạc, vàng, của báu, ấy là cung cho ta lấy làm quân-lương! Cái mà chúng
muốn dùng để hại ta, lại trở lại làm hại chúng! Cái mà chúng muốn dùng để đánh
ta, lại trở lại để đánh chúng! Chẳng những thế mà thôi: Kìa như nước Ai-lao,
với Trẫm là nước láng-giềng, trước vẫn cùng nhau giao-hảo. Khi Trẫm bị giặc vây
khốn, đem quân sang nương-nhờ.
Nghĩ rằng môi hở, răng lạnh, thế nào chúng cũng chứa ta! Nào ngờ quân dạ
thú, lòng lang, thấy ta bị tai-vạ, thì lấy làm vua-sướng! Rồi thông tin với
giặc, ngầm chứa mưu gian, muốn để bắt vợ con của quân ta! Vậy mà ta tìm cách để
đối-phó với chúng, thật là thong thả có thừa! Nó vốn trông vào quân giặc để
đánh-úp ta! Ta cũng nhân vào thế nó, để đánh lui giặc! Nó vốn lấy khách đãi ta!
Ta cũng lấy khách mà xử nó! Phàm ý nó muốn làm gì, ta tất biết trước! Vẻ nó
muốn động đâu, ta tất chẹn trước! Cho nên có
thể lấy đất đai của nó, làm nơi chứa quân
cho ta; lấy hiểm-trở của nó, làm nơi lừa giặc của ta! Binh-pháp dạy: "Lấy
khách làm chủ, lấy chủ làm khách", có lẽ là như thế chăng? Thế nhưng Trẫm
đối-đãi với ai cũng hết lòng thành-thực. Thà người phụ ta, ta chớ phụ người!
Phàm kẻ bất bình vì một việc nhỏ, mà đem lòng kia khác, Trẫm thường tha thứ,
dong cho có lối đổi lỗi. Tuy nhiều khi chúng trở mặt làm thù ngay, nhưng Trẫm
thường tin-dùng như gan-dạ! Biết đổi lỗi thì thôi, không bới lông tìm vết làm
gì! Ấy cũng là bởi Trẫm trải nhiều lo nghĩ, nếm đủ gian-nan, cho nên biết nén
lòng nhịn tức, không lấy việc nhỏ mà hại nghĩa lớn, không lấy ý gần mà nhãng
mưu xa. Trong khoảng vua, tôi, lấy nghĩa cả mà xử với nhau, thân như ruột thịt,
có gì mà phải ngờ-vực. Thế cho nên có thể được lòng người, mà ai ai cũng vui
lòng tin theo. Tuy vậy, trong khi hoạn-nạn, mười chết, một sống, kể lâm vào
nguy-hiểm là thường! Ngày nay may được thành công, là do Hoàng-Thiên giúp-đỡ,
mà Tổ Tiên Trẫm chứa nhân tích đức đã lâu, cũng ngấm-ngầm phù-hộ, cho nên mới
được thế. Đời sau kẻ làm con-cháu Trẫm, hưởng cái giàu-sang ấy, thì phải nghĩ
đến Tổ, Tông Trẫm tích-lũy nhân-đức đã bao nhiêu là ngày, tháng; cùng công-phu
Trẫm khai sáng cơ-nghiệp bao nhiêu là khó khăn! Mặc những gấm-vóc rực-rỡ, thì
phải nghĩ đến Trẫm ngày xưa áo, quần lam-lũ, không kể Đông, Hè! Hưởng những
cổ-bàn ngon-lành, thì phải nghĩ đến Trẫm ngày xưa hàng tháng thiếu lương, chịu
đói nhịn khát! Thấy đền-đài lộng-lẫy, thì phải nghĩ đến Trẫm ngày xưa ăn mưa,
nằm cát, trốn lủi núi rừng! Thấy cung-tần đông, đẹp, thì phải nghĩ đến Trẫm
ngày xưa thất-thểu quê người, vợ con tan-tác! Nên nhớ rằng Mệnh Trời nào chắc
được không thường, tất phải suy-tính nỗi khó khi mưu-toan việc dễ. Nghiệp lớn
khó gây mà dễ hỏng, tất phải cẩn-thận lúc đầu mà lo tính về sau. Phải đề-phòng đầu
mối họa-loạn, có khi vì yên-ổn mà gây nên. Phải đón-ngăn ý-nghĩ kiêu-xa, có khi
vì sung-sướng mà sinh sự! Có như thế thì họa là mới giữ-gìn được. Nên Trẫm nghĩ
làm ra bộ sách này, thực là rất trông-mong cho con-cháu đời sau!
PHỤ LỤC
Lam Sơn Thực L ụ c
Phụ Lục
Lời bình
Âm không cùng thì Dương không nẩy. Loạn không cực thì đức không sinh. Đó
là lời bàn thôngthường xưa, nay! Nước Việt ta từ nhà Nhuận-Hồ trái đạo, trong
nước mất trông mong. Người Minh nhân dịp ấy đem quân sang lấn. Giả-vờ làm quân
nhân-nghĩa; ngấm-ngầm tính việc xâm-lăng! Tàn-hại nhândân; cướp lấy của báu.
Rồi đó gồm nuốt nước ta, chia đặt quận, huyện. Thay-đổi phong-tục của ta; hiếp
trao quan-tước của họ. Dân ta trong lúc ấy, đã khổ về chính-lệnh nhà Hồ
nghiêm-ngặt, lại thảm nỗi quan-lại bên Minh rút-bòn! Quần-chúng thở-than, không
kêu-gọi vào đâu cho được! Dù đương-thời có những trang quyền-biến, trí-thức,
cũng chẳng qua náu hình, lẩn bóng, tránh tiếng, trốn đời để giữ mình cho khỏi
bị hại mà thôi! Ví không có bậc Thánh-nhân ra, thu lại đám dân tan-tác, cứu cho
vận nước long-đong, thì ngôn ngữ ta đã nói theo Tàu; áo-mũ ta đã mặc theo Tàu,
dân-chúng biết lấy ai nương-nhờ? Ngôi nước biết bao giờ khôi-phục?
Trời giúp nước ta, đốc sinh ra đức. Thái-tổ Cao hoàng-đế chúng ta, lấy
tài thông-minh, trí, dũng; làm việc hỏi tội, cứu dân. Trong lúc mới cất quân
khởi nghĩa; Không để cho quan-tước dụ nổi; không để cho oai-thế hiếp nổi. Tuy
gặp lúc nhiễu-nhương, mà lòng càng vững; trải cơn cùn-quẫn mà chí càng hăng.
Tới khi tiếng nghĩa đồn dậy, gươm thần vung dài, mà các dũng-tướng, mưu-thần
xúm lại như mây họp! Tướng võ thì bọn Trịnh Khả, Lê Xí, thường lập được công
to. Tướng văn thì bọn Nguyễn Trãi, Văn Linh, hằng bày ra kế giỏi ... Cho nên có
thể lấy được ít mà địch được nhiều, lấy yếu mà chống nổi mạnh! Vả chăng trong
lúc xông-pha hàng trận, không quên nghiên-cứu lược-thao. Có khi đặt mai-phục mà
dùng kỳ-binh. Có khi nó định lừa mà ta phản lại! Tiến quân Vua như chẻ cây nứa!
Phá lũ giặc như bẻ cành khô! Các tướng bên Minh, dùng hùng-hổ như bọn Liễu
Thăng, Lương Minh, đều thua trận mà mất đàu! mưu-trí như bọn Thôi Tụ, Hoàng
Phúc, cũng hết kế mà dương mắt! Lũ giặc hơn hai mươi năm, quét trừ trong một
sớm! Mặt non sông từ đó đổi mới! Ánh Nhật, Nguyệt, từ đó lại trong! Đất-cát lại
đất-cát nước Nam!
Nhân-dân lại nhân-dân giống Việt! Áo-xiêm, phong-tục, lại đúng như xưa!
Nền-nếp, mối-giềng, lại sáng như cũ! Nhà-vua đã làm xong việc đuổi trừ quân
tàn-bạo, lại suy rộng tấm lòng "không ham giết người". Phàm những
quân, tướng người Minh bị bắt, đều cấp thuyền cho đưa về nước, khiến cho hơn
mười vạn người được đội đức tái sinh. Nếu chẳng phải bậc Thần Võ không cần giết
người, có sao được thế? Gia-dĩ hiểu đạo giao-hảo láng-giềng, rõ nghĩa tôn-trọng
nước lớn. Liền sai sứ-thần, sửa lại việc hòa-hảo cũ. Tỏ ra rằng: công-việc
thuận trời, giữ nước, nếu chẳng phải bậc người hiểu sâu về nghĩa-ý của
Thánh-hiền, có dễ được như thế đâu!
Xin xét về đời cổ mà bình-phẩm chuyện đó: Vũ-đế nhà Triệu cùng vua Hán
đều tự làm vua nước mình, gồm có đất ở ngoài Ngũ-lĩnh, đóng đô ở Phiên-ngu,
thật là vua anh-hùng. Thế nhưng chẳng qua cũng là một người Tàu sang cai-trị
nước ta, chưa được chính-thống. Vua Tiên-hoàng nhà Đinh, đánh tan mười hai
Sứ-quân, thống nhất được bản-đồ, dựng nên nước ta, thực là vua chính-thống. Thế
nhưng lỡ vì không cẩn-thận đề-phòng việc nhỏ, gây ra sự chẳng lành, mà nước
cũng mất theo. Vua Thái-tổ nhà Lý, nhân vua Ngọa-triệu thất đức, bèn có
Thiên-hạ. Nhưng về nghĩa vua, tôi, sai, trái danh-phận, không thể không mang
thẹn ở trong Trời, Đất! Vua Thái-tông nhà Trần, nhân vua Chiêu-hoàng quá yêu,
bèn chiếm ngôi báu; nhưng về trong buồng-the, ở lỗi đạo hằng, không thể không
để cười mãi đến muôn đời! Còn Nhà-vua thì từ núi Lam mà khởi nghĩa, giận giặc
Tàu mà cất quân. Rút lại có thể lấy nhân mà giết lũ bất nhân; lấy chính mà đánh
phường bất chính; khôi-phục nước ta sau hồi giặc Minh; gồm lấy thiên-hạ ở tay
người Minh ... Tới khi mảnh giáp dẹp yên, bốn phương phẳng-lặng, ban lời
đại-cáo, để lên ngôi vua. Được nước như vậy kể rất là chính-đáng. Sách dạy
rằng: "Người quân-tử trọng sự ở cho chính".
Lại nói rằng: Bậc vương-giả trọng sự nhất-thống". Nhà-vua đã được
như thế vậy! Lại rõ mực-thước trị nước, biết phép-tắc truyền nhà, soạn ra sách
Thực Lục, bày-tỏ nỗi khó-khăn gây nên vương-nghiệp, để răn-bảo con-cháu đời
sau: chớ lấy giàu-sang mà sinh kiêu-xa; chớ lấy yên-vui mà nhãng phòng-ngừa.
Ấy, dựng nghiệp, để mối là thế! Kìa những việc làm của các vua Triệu, Đinh, Lý,
Trần, có sánh bì đâu được một phần muôn?
Công-đức của Nhà-vua to-tát: đất rộng, trời dài!
Ân-trạch của Nhà-vua thấm-nhuần: non cao, biển cả!
Vậy thì Tông-miếu được bền. Đế-nghiệp
được vững, cho đến ức, vạn năm, đều là nhờ ở công, đức của Nhà-vua gây nên vậy.
PHỤ LỤC
Lam Sơn Thực L ụ c
Phụ Lục
Lời bình
Âm không cùng thì Dương không nẩy. Loạn không cực thì đức không sinh. Đó
là lời bàn thôngthường xưa, nay! Nước Việt ta từ nhà Nhuận-Hồ trái đạo, trong
nước mất trông mong. Người Minh nhân dịp ấy đem quân sang lấn. Giả-vờ làm quân
nhân-nghĩa; ngấm-ngầm tính việc xâm-lăng! Tàn-hại nhândân; cướp lấy của báu.
Rồi đó gồm nuốt nước ta, chia đặt quận, huyện. Thay-đổi phong-tục của ta; hiếp
trao quan-tước của họ. Dân ta trong lúc ấy, đã khổ về chính-lệnh nhà Hồ
nghiêm-ngặt, lại thảm nỗi quan-lại bên Minh rút-bòn! Quần-chúng thở-than, không
kêu-gọi vào đâu cho được! Dù đương-thời có những trang quyền-biến, trí-thức,
cũng chẳng qua náu hình, lẩn bóng, tránh tiếng, trốn đời để giữ mình cho khỏi
bị hại mà thôi! Ví không có bậc Thánh-nhân ra, thu lại đám dân tan-tác, cứu cho
vận nước long-đong, thì ngôn ngữ ta đã nói theo Tàu; áo-mũ ta đã mặc theo Tàu,
dân-chúng biết lấy ai nương-nhờ? Ngôi nước biết bao giờ khôi-phục?
Trời giúp nước ta, đốc sinh ra đức. Thái-tổ Cao hoàng-đế chúng ta, lấy
tài thông-minh, trí, dũng; làm việc hỏi tội, cứu dân. Trong lúc mới cất quân
khởi nghĩa; Không để cho quan-tước dụ nổi; không để cho oai-thế hiếp nổi. Tuy
gặp lúc nhiễu-nhương, mà lòng càng vững; trải cơn cùn-quẫn mà chí càng hăng.
Tới khi tiếng nghĩa đồn dậy, gươm thần vung dài, mà các dũng-tướng, mưu-thần
xúm lại như mây họp! Tướng võ thì bọn Trịnh Khả, Lê Xí, thường lập được công
to. Tướng văn thì bọn Nguyễn Trãi, Văn Linh, hằng bày ra kế giỏi ... Cho nên có
thể lấy được ít mà địch được nhiều, lấy yếu mà chống nổi mạnh! Vả chăng trong
lúc xông-pha hàng trận, không quên nghiên-cứu lược-thao. Có khi đặt mai-phục mà
dùng kỳ-binh. Có khi nó định lừa mà ta phản lại! Tiến quân Vua như chẻ cây nứa!
Phá lũ giặc như bẻ cành khô! Các tướng bên Minh, dùng hùng-hổ như bọn Liễu
Thăng, Lương Minh, đều thua trận mà mất đàu! mưu-trí như bọn Thôi Tụ, Hoàng
Phúc, cũng hết kế mà dương mắt! Lũ giặc hơn hai mươi năm, quét trừ trong một
sớm! Mặt non sông từ đó đổi mới! Ánh Nhật, Nguyệt, từ đó lại trong! Đất-cát lại
đất-cát nước Nam!
Nhân-dân lại nhân-dân giống Việt! Áo-xiêm, phong-tục, lại đúng như xưa!
Nền-nếp, mối-giềng, lại sáng như cũ! Nhà-vua đã làm xong việc đuổi trừ quân
tàn-bạo, lại suy rộng tấm lòng "không ham giết người". Phàm những
quân, tướng người Minh bị bắt, đều cấp thuyền cho đưa về nước, khiến cho hơn
mười vạn người được đội đức tái sinh. Nếu chẳng phải bậc Thần Võ không cần giết
người, có sao được thế? Gia-dĩ hiểu đạo giao-hảo láng-giềng, rõ nghĩa tôn-trọng
nước lớn. Liền sai sứ-thần, sửa lại việc hòa-hảo cũ. Tỏ ra rằng: công-việc
thuận trời, giữ nước, nếu chẳng phải bậc người hiểu sâu về nghĩa-ý của
Thánh-hiền, có dễ được như thế đâu!
Xin xét về đời cổ mà bình-phẩm chuyện đó: Vũ-đế nhà Triệu cùng vua Hán
đều tự làm vua nước mình, gồm có đất ở ngoài Ngũ-lĩnh, đóng đô ở Phiên-ngu,
thật là vua anh-hùng. Thế nhưng chẳng qua cũng là một người Tàu sang cai-trị
nước ta, chưa được chính-thống. Vua Tiên-hoàng nhà Đinh, đánh tan mười hai
Sứ-quân, thống nhất được bản-đồ, dựng nên nước ta, thực là vua chính-thống. Thế
nhưng lỡ vì không cẩn-thận đề-phòng việc nhỏ, gây ra sự chẳng lành, mà nước
cũng mất theo. Vua Thái-tổ nhà Lý, nhân vua Ngọa-triệu thất đức, bèn có
Thiên-hạ. Nhưng về nghĩa vua, tôi, sai, trái danh-phận, không thể không mang
thẹn ở trong Trời, Đất! Vua Thái-tông nhà Trần, nhân vua Chiêu-hoàng quá yêu,
bèn chiếm ngôi báu; nhưng về trong buồng-the, ở lỗi đạo hằng, không thể không
để cười mãi đến muôn đời! Còn Nhà-vua thì từ núi Lam mà khởi nghĩa, giận giặc
Tàu mà cất quân. Rút lại có thể lấy nhân mà giết lũ bất nhân; lấy chính mà đánh
phường bất chính; khôi-phục nước ta sau hồi giặc Minh; gồm lấy thiên-hạ ở tay
người Minh ... Tới khi mảnh giáp dẹp yên, bốn phương phẳng-lặng, ban lời
đại-cáo, để lên ngôi vua. Được nước như vậy kể rất là chính-đáng. Sách dạy
rằng: "Người quân-tử trọng sự ở cho chính".
Lại nói rằng: Bậc vương-giả trọng sự nhất-thống". Nhà-vua đã được
như thế vậy! Lại rõ mực-thước trị nước, biết phép-tắc truyền nhà, soạn ra sách
Thực Lục, bày-tỏ nỗi khó-khăn gây nên vương-nghiệp, để răn-bảo con-cháu đời
sau: chớ lấy giàu-sang mà sinh kiêu-xa; chớ lấy yên-vui mà nhãng phòng-ngừa.
Ấy, dựng nghiệp, để mối là thế! Kìa những việc làm của các vua Triệu, Đinh, Lý,
Trần, có sánh bì đâu được một phần muôn?
Công-đức của Nhà-vua to-tát: đất rộng, trời dài!
Ân-trạch của Nhà-vua thấm-nhuần: non cao, biển cả!
Vậy thì Tông-miếu được bền. Đế-nghiệp
được vững, cho đến ức, vạn năm, đều là nhờ ở công, đức của Nhà-vua gây nên vậy
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét