Trang

Thứ Sáu, 10 tháng 5, 2024

Nhật ký chiến trường của chiến binh Phan Huy Khánh

Chiến binh Phan Huy Khánh

Hồi tưởng lại thuở xa xưa… một thời bom đạn Mỹ

Bốn cánh tên lửa này đã cùng đồng đội kéo mình đi

Bươn chải Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây theo tiếng gọi

Đất Phương Nam tung tẩy thấy mây trời

Đây Vùng Ven, đây những dòng kênh bơi chèo xuôi ngược

Khắp dải Miền Đông, Miền Tây, đôi chân này trải bước

B72 ! B72 ! Bạch Tuộc !

Bảng điều khiển, ba lô, súng dồn chân lên phía trước

Cơm nắm, rau rừng, trận địa ngắm sao khuya

Sốt rét run người, mẩu thuốc lá sẻ chia…

Ai đã từng điều khiển trái đạn bay

Một chút lặng thinh không… buổi sáng mai này.

 

25/11/2021   Ngẫu hứng tặng Vũ Tiến.

 


CHÉP LẠI MỘT PHẦN NHẬT KÝ ĐÃ MẤT

11/03/1972 – Thứ Bảy

MỎ CHÉN, THẠCH THẤT, HÀ TÂY.

Sáng sớm ngày 11/03/1972, Đại đội 4, vẫn gọi là C4, của Tiểu đoàn D371 tên lửa chống tăng B72, thuộc Bộ Tư lệnh Pháo binh 351 bắt đầu cuộc trường chinh vào chiến trường B2. Cả Tiểu đoàn tập trung trên bãi cỏ sân vận động trước cửa Tiểu đoàn bộ nghe Tiểu đoàn trưởng đọc mệnh lệnh hành quân và hô to nhiều khẩu hiệu. C4 gồm 3 Trung đội B1, B2 và B3. Mỗi Trung đội có 3 Tiểu đội, được đánh số từ A1 đến A9. Tôi ở Tiểu đội 9, thuộc Trung đội 3 của ông Tất Tưởng người Nghệ An. Chiến trường B2 ở phương Nam xa xôi, tôi đã được nghe lõm bõm trong cuộc sống ở Miền Bắc, chỉ biết ở đâu đó rất gần Sài Gòn. Tôi cũng biết rằng còn có các chiến trường khác, B1, B3, B4 và B5, tính lần lượt từ cực Nam Cà Mau ra đến vĩ tuyến 17, Quảng Trị. Hết buổi mit-tinh lên đường, chúng tôi lỉnh kỉnh ba-lô, súng đạn trèo lên đoàn xe Vọt Tiến đang nổ máy chờ. Những cái bắt tay và những ánh mắt. Bụi cuốn mù lên xa dần Mỏ Chén, nơi suốt gần ba tháng qua, chúng tôi được huấn luyện sử dụng tên lửa chống tăng B72. Tôi được huấn luyện làm trắc thủ, trực tiếp điều khiển tên lửa.

Tên lửa (hay pháo lủi) B72 là một trong hai loại tên lửa mới do Liên Xô viện trợ năm 1972. Để phân biệt, loại trang bị cho bộ đội phòng không tiêu diệt máy bay bay thấp, đ­ược gọi là A72. Loại trang bị cho bộ đội pháo binh tiêu diệt xe tăng, lô cốt, tàu xuồng…, đ­ược gọi là B72. Tên lửa B72 tên thật là 9M14 “Малютка” được điều khiển bằng hữu tuyến.

Ô-tô đổ quân ở ga Giáp Bát vào lúc trời đã chiều. Lính tráng nằm ngồi la liệt ở sân ga. Khoảng 8 giờ tối, chúng tôi lên tàu vào Vinh. Tôi tranh thủ mua 10 quả trứng luộc để ăn cho bõ. Từ nhỏ đến giờ chưa lúc nào được ăn nguyên một quả trứng luộc ! Cả thời gian đi học, lúc nào thấy trứng cũng thèm. Mờ sáng thì tàu đến ga Vinh. Cả đoàn lục tục xuống tàu, theo giao liên, đi bộ vào một trạm dừng chân ở Hưng Nguyên. Cả đoàn được phân lẻ theo tiểu đội ở trọ nhà dân. Nghỉ ở đây để chờ xe ô tô đến đón vô Nam. Ngày ba bữa tập trung ở nhà Trung đội ăn cơm. Thức ăn chính là đồ hộp, ruốc thịt và mỡ thùng Trung Quốc. Không ai được phép đi đâu khỏi nhà trọ.

Những ngày này, tôi bắt đầu làm thơ hành quân. Chẳng biết làm gì trong những ngày chờ đợi. Chúng nó chơi bài ù (Tiến lên) nói cười inh ỏi. Thỉnh thoảng tôi cũng xía vô chơi vài ván, lúc được điểm, lúc thua. Có lúc thua miết, lại có cảm giác nghiện ù !

17/03/1972

Chập tối, cả đoàn lên ô tô đi vào Hà Tĩnh.

Qua cầu Bến Thuỷ, nhìn sông Lam uốn lượn bàng bạc trong đêm. Ngồi chật chội kẹp chân ba-lô trong thùng xe tải Vọt Tiến (người ta bố trí thêm hai hàng ghế gỗ đặt giữa hai hàng ghế gập dọc khung xe). Đường xấu, xe lắc đủ cung bậc, nẩy cả mông chồng cả người lên nhau. Lúc thì dồn cả đống về phía trước, lúc dồn cả về phía sau. Mà rồi ai cũng ngủ gà ngủ gật, mắt nhắm tít, chẳng buồn kêu. Thỉnh thoảng tôi lại bị thằng ngồi bên rơi bịch vào lòng, hắn còn thụi khuỷu tay vào mặt đau điếng. Nhưng rồi tôi lại mê ngủ mệt.

Gần sáng đang lơ mơ thì nghe gọi xuống xe. Đến nơi rồi.

Chỗ đóng quân là một làng nhỏ cạnh sông Son, một nhánh của sông Gianh, thuộc xã Sơn Trạch, huyện Bố Trạch, Quảng Bình… Chúng tôi đóng quân tại đây ba ngày. Quân nhu cấp đồ hộp (toàn Made in China), ruốc bông… Chúng tôi chia nhau nhét cứng vào ba-lô, sẽ dùng ăn dần trên đường hành quân.

Từ Trạm 5 (gọi tắt T5, lúc bấy giờ là một địa điểm trên đường HCM thuộc vùng đất Phong Nha, Kẻ Bàng ở Quảng Bình), chúng tôi bắt đầu hành quân bộ vượt Trường Sơn.

Kể từ ngày lên đường, 11/03/1972, cho đến lúc này, mình đã có 9 bài thơ :

Tập bắn trên xe bộ luyện

Anh tập hành quân

Mùa xuân lên đường

Gác đêm

Anh viết về em

Những ngày chờ đợi

Lên đường

Sông Lam

Qua Đèo Ngang

BẮT ĐẦU NHẬT KÝ PHƯƠNG NAM


23/03/1972

Ta đau xót biết bao khi phải biết nhật ký vào cuốn sổ này. Vì sao thế ? Đường hành quân trên dãy Trường Sơn hùng vĩ đã hút hết sức ta, ta chỉ còn đủ sức mang những thứ đồ dùng cần thiết mà thôi… Bởi thế, khi đốt cuốn nhật ký thân yêu (mà không thể gửi về đâu được ?) cháy đi mỗi trang, lòng ta thêm đau đớn. Vậy là kể từ ngày nhập ngũ, 06/09/1971, cho đến lúc này, mọi ghi chép hàng ngày của ta không bao giờ còn nữa. Ta biết sẽ hối hận suốt cả cuộc đời về sau, nhưng ở giây phút bồng bột, ngây ngô pha chút tự ái bi quan ấy, không hiểu sao, ta cứ điềm nhiên bật diêm châm lửa. Giờ đây, ngồi viết mỗi dòng này, những sự việc dồn dập trong gần nửa tháng qua mỗi lúc một cuồn cuộn trước mắt ta mà ta không thể nào ghi hết được…

Suốt một chặng đường hành quân vừa qua đã làm ta quá sức, nhưng có bao giờ ta kêu ca. Phải hoàn thành nhiệm vụ ! Lời nói đó, suy nghĩ đó luôn luôn vang vang trong đầu ta mỗi khi gắng gượng trèo lên một cái dốc cao mất hàng tiếng đồng hồ. Không ai có thể tưởng tượng nổi con đường hành quân vào tiền tuyến. Có lẽ sau này về kể lại chưa chắc người ta đã tin. Nhưng đối với ta, cuộc vạn lý trường chinh này sẽ là một kỷ niệm vô cùng sâu sắc, suốt đời ta không bao giờ quên được.

Rừng Trường Sơn. Rừng Trường Sơn. Âm u và đẹp biết bao ! Ta đi tưởng như một cuộc du ngoạn tuyệt vời. Chỉ mỗi cái là mếu máo vì dốc cao mang quá nặng mà thôi. Mỗi ngày chỉ đi độ trên dưới 10km trên bản đồ thế mà kinh khủng biết bao. Một cuộc đi thăm nước bạn : Lào, và sắp tới là Campuchia, mà không cần giấy tờ ! Rừng Lào và con người Lào, bấy lâu vẫn xa lạ, giờ đây quá quen thuộc đối với ta.

Hôm qua, ta gặp mấy o bộ đội đồng hương. Cuộc gặp gỡ và tâm sự đã làm ta nhớ quê hương da diết. Giờ này ba mẹ ta và mấy đứa em ta đang làm gì ? Có nhớ đến ta không ? Riêng ta, lúc nào ta cũng mong mỏi hoàn thành nhiệm vụ để có ngày đoàn tụ và tiếp tục con đường học hành mà ta vừa bước mấy bước sơ khai.

24/03/1972

Hôm nay là ngày thứ năm mình vượt Trường Sơn. Không biết còn đủ sức vượt hết 64 ngày đêm không (Tiểu đoàn phổ biến sau 64 ngày đêm hành quân sẽ đến đích B2) ? Chỗ trú đêm bây giờ nghe nói cách T9 trên một giờ đường. Có thể ngày mai sẽ đi ngắn hơn. Hai hôm nay không có giao liên dẫn đường. Cả Đại đội 4 của tôi, có mật danh là Đoàn 2069, cứ theo đường mòn thẳng tiến. Mình đã qua 5 trạm. Cả 5 trạm đều phải leo ít nhất vài ba cái dốc, dốc xoàng cũng phải mất 15 phút. Hôm nay phải lên xuống một cái dốc mà mình phát tởm, chân đi không vững nữa. Thật kinh khủng. Mình mang một ba-lô quần áo đồ đạc và đồ hộp (gạo, thức ăn khô trong tuần – chủ yếu đồ hộp, ruốc thịt, mỡ…- chia đều cho cả Tiểu đội cùng mang), cộng thêm 3 quả đạn B40 nặng 10kg. Mình phải mang cả đằng trước, đằng sau. Mồ hôi vã ra đầy người. Bắt đầu vào vùng địch, máy bay phản lực gầm rít trên đầu không lúc nào ngớt. Thỉnh thoảng nghe tiếng rì rì của VO-10 xa xa. Mình phải mắc võng sát xuống đất. Không biết ở đây có “phỉ”, biệt kích không.

26/03/1972

Hôm nay là ngày nghỉ hành quân. Mình nghỉ tại T10. Bắt đầu từ T10 trở đi mới thực sự là lửa đây. Suốt ngày VO-10 và phản lực rầm rít bầu trời. Thỉnh thoảng lại nghe tiếng bom xa xa. Nghe nói đây thường có “phỉ” và thám báo bắt cóc, hoặc giết bộ đội.

Bắt đầu từ đây, việc nấu nướng vô cùng khó khăn. Có khi không nấu được mà ăn là đằng khác. Ban đêm mà nấu ăn, hễ có ánh lửa là bom đạn. Ban ngày hễ có khói là đạn bom.

Từ 23/03/1972 cho đến hôm nay, mình viết liền tù tì được hai bài thơ :

Đêm Trường Sơn

Vượt sông nước bạn

31/03/1972

Đi liên tục bốn ngày, hôm nay được nghỉ ngơi một ngày lấy sức. Trưa nay đang ngủ, Thìn, A trưởng mình, hét mình choàng dậy vì có chất độc hóa học Mỹ thả ở đâu theo gió bay về làm cay sặc cả mũi, hắt hơi liên tục.

Đến trạm này là T31, lính kháo nhau đã đi được khoảng 1/5 quãng đường rồi. Nghe nói từ giờ trở đi không phát đường sữa nữa. Vừa thiếu rau, vừa thiếu chất ngọt, không biết sức khỏe sẽ ra sao. Bây giờ mình đuối lắm rồi, gân cốt mỏi nhừ. Chân tay mình mẩy đau ê ẩm. Nói chung, tinh thần mình vẫn còn tốt, còn sức chịu đựng được. Mình sẽ cố gắng không để rớt lại dọc đường bất kỳ giá nào. Hôm qua, thế nào mà vừa lên đến đỉnh dốc, hai chân tự nhiên chùng xuống, cứng đờ, làm mình phải bỏ cuộc hành quân. Thế mới tai hại. Lần đầu tiên mình rớt đấy. Cả tiếng đồng hồ sau mới thất thểu lê bước đến bãi nghỉ. Mình thấy rất ghét mấy tay thiếu cố gắng. Họ chỉ kêu ca rồi ỉ lại vào tập thể, bắt mấy thằng khỏe hơn gánh vác, mang hộ…

12/04/1972

Hôm nay, mình ở T44. Nghe nói hình như ngày mai vào T51 trèo qua một cái dốc mất một tiếng rưỡi. Kinh khủng !

Hơn một tuần nay, từ 31/03/1972, không viết nhật ký, chỉ toàn làm thơ.

Mình viết được đúng 10 bài.

Nghe tiếng hát quê hương

Ai hơn

Gặp cô gái Lào

Chỗ hẹp của dòng sông (vượt sông Xê Băng Hiêng)

Gặp cây phượng trên rừng Trường Sơn

Một chiều mưa Trường Sơn

Viết về đường ra mặt trận

Đêm trăng Trường Sơn

Rừng dày và bãi trống

Lá bứa

Đã chớm đến mùa mưa. Mấy hôm nay, buổi sáng trời nóng hừng hực. Chiều lại, trời lác đác cơn mưa. Mưa chưa to lắm. Đi vào mùa mưa thì nguy lắm. Tha hồ bơi lội, ướt át.

Mình đã quen với chuyện ăn rồi đi, rồi lại ăn. Duy mệt mỏi thì vẫn chẳng quen cho. Nhiều lúc chân cứng đờ chỉ bước theo phản xạ. Vai đau nhức trong xương.

Hôm qua trong Tiểu đội xảy ra nguyện buồn cười. Số là Tiểu đội mình có Long, cũng đã lớn tuổi (chắc chưa đến 30), bọn mình gọi là Long “già”. Long “già” tính hâm không chịu được, tuy nhiên rõ nét nhất vẫn là tính khôn. Thực chất là khôn vặt, khôn lười. (Mình nhiều lúc ức quá chỉ coi Long là người thừa, sống theo bản năng). Tiểu đội phân công cho hắn ta mang xoong. Sáng sớm hành quân, ra khỏi Trạm một quãng, hắn vứt xoong ngay dọc đường. Động viên rồi doạ nạt mãi, hắn mới chịu mang. Hai bận thế, chiều qua bọn mình quyết định không cho Long “già” ăn cơm. Hắn khóc hu hu như trẻ con. Đến tức cười. Gần tối mình thổi cơm cho hắn. Sáng hôm nay hắn ta mới mang cơm ra ăn. Tối hôm qua, Chính trị viên đã cho hắn chén đẫy bụng rồi rít say thuốc lào. Hắn có vẻ hối hận và tích cực hơn. Đến những Trạm sau, vừa bỏ ba-lô xuống, hắn lo lắng nấu nước và nấu cháo.

Mình định làm một bài thơ về hắn nhưng khó quá. Thể hiện tính cách nhân vật thế nào cho hay cho rõ nét mới được đây.

Mình sẽ cố gắng làm thơ nhiều nữa.

Dạo nay chuyện Ái Tình cứ làm mình luẩn quẩn.

Trên Trạm T76.

Từ 12/04/1972 đến nay, không viết nhật ký, chỉ làm thơ. Mình viết được 5 bài !

Vượt dốc

Mùa mưa

Qua rừng thông Trường Sơn

Những căn hầm Trường Sơn

Bẵng đi năm hôm không cầm bút

29/04/1972

KHÁT

Chúng tôi đi rất lâu trên một cánh rừng vô cùng bằng phẳng, hay nói đúng hơn là một “sa mạc” của Trường Sơn. Chỉ mới rời khỏi những cánh rừng dày âm u đâu trên một tiếng đồng hồ mà tôi cảm thấy như đã lâu lắm rồi. Bước ra khỏi cửa rừng dày, một bãi rừng thưa, hết sức thưa, bày ra trước mắt tôi. Chỉ toàn một loại cây. Tôi rất lấy làm ngạc nhiên tại sao giữa sa mạc này lại có những loại cây như thế. Nhẽ ra, theo tôi đọc trong sách vở thì giữa sa mạc là những loại cây có gai, lá nhỏ như kim…, để tránh bay hơi nước, hay đại khái là thế nào đấy. Thế nhưng lại hoàn toàn khác. Tôi trông những gốc cây con : những cây mới lớn thẳng tắp, vỏ sù sì, nứt nẻ. Mỗi cây có đâu khoảng 3 hay 4 lá gì đó. Và một cái lá thì chao ôi, to đến phát khiếp. Hệt như những cái mâm con xúm quanh một cái gậy vậy. Còn những gốc cây già thì cao to, cành lá xòe ra thoải mái, hệt như một lùm cây. Loại này về nhà mà làm cảnh thì tuyệt, tôi nghĩ vậy. Sau này tôi mới biết đó là loại cây dầu rái.

Chịu khó đưa mắt đi xa, thưa các bạn, rất đẹp. Có lẽ cả dãy núi Trường Sơn hùng vĩ chỉ dành cho một bãi trống phẳng lì như thế này đây ! Thấp thoáng phía xa xa về bên phải, bên trái, những dãy núi xanh biếc lượn sóng dưới ánh nắng gay gắt, những cái nắng chỉ có xứ Nghệ quê tôi trong những ngày giữa hè rào rạt gió Lào. Thảng hoặc, một cơn gió từ phía Tây-Nam thổi lại, những cái lá như những cái nón lắt lay. Đầu tiên là cảm giác một luồng khí nóng bốc cát tạt vào mặt mũi. Sau đó là một cảm giác khác hẳn, mát mẻ và dễ chịu, sực nức lên mùi lá, mùi cỏ khô và hương đưa thoang thoảng từ một vài khóm hoa rừng. Trước mặt tôi vẫn chỉ là một bãi rừng bằng phẳng. Một con đường mòn nhỏ quanh co bụi bặm lượn khúc dưới bước chân. Trời xanh cao mênh mông. Tiếng con chim gì rất lạ hót khắt khe đến chối tai. Bỗng chốc cả khu rừng như nín thở, tuyệt không nghe một tiếng động. Thế rồi, cả không gian dậy lên tiếng nhạc rền rĩ inh tai của ve sầu. Xa lắm, một tiếng chim “bắt cô trói cột” (mà chúng tôi thường nhại lại một cách lạc quan là “khó khăn khắc phục”) lại dấy lên lạc lõng…

Chúng tôi vẫn bước, bước những bước rất dài. Bụi cát tung lên theo sóng nhấp nhô của đoàn quân. Ngụy trang vẫy lá lao xao (từ lúc xuất phát ở Trạm, chúng tôi được phổ biến ai cũng chuẩn bị vòng lá nguỵ trang). Mặt người nào người nấy đỏ gay. Mồ hôi nhễ nhại. Quần áo lính vải ka-ki Trung Quốc vừa dày vừa ướt nhẹp, nặng rát rạt cả lưng, cả mông. Ướt rồi lại khô mấy lượt chẳng biết. Bi đông nước mang theo đã dốc ra những giọt cuối cùng. Nắng. Nóng. Khát ran ran cả cổ họng. Vậy mà, vẫn chỉ gặp những cái suối khô cằn, đá dăm lởm chởm. Đã hành quân được khoảng ba hay bốn tiếng. Ở T68, họ bảo, còn phải đi gần một tiếng nữa mới tới khe nước. Thật đến chết ! Tôi bây giờ chỉ bước lê theo quán tính. Hai chân cứng đơ. Đôi vai chín rạn đến nóng bỏng. Khẩu B40 kềnh càng sau lưng.

Tôi le lưỡi liếp những giọt mồ hôi quanh mép. Mặn chát. Thế nhưng cũng đỡ khát. Chao ôi vẫn nắng, vẫn cảnh cát bụi, bãi cỏ và rừng thưa. Đến bao giờ mới tới khe nước đây ? Theo lệnh đại đội trưởng, cả đại đội ùa vào cạnh đường nghỉ giải lao, ăn cơm. Mặc dầu khát cháy họng, tôi vẫn cảm thấy ăn rất ngon. Hôm qua Tiểu đội tôi đổi được một ít sắn của người Lào. Họ mang mọi thứ ăn được ngồi cả dãy bên đường chờ bộ đội đi qua để đổi lấy quần áo, tư trang hay đồ hộp. Họ đổi lấy mọi thứ mà chúng tôi “thừa” (thực chất là bóp ruột, nặn đáy ba-lô) : quần đùi, áo lót, bật lửa, đá lửa, pin Con Thỏ Văn Điển… Sáng nay anh nuôi độn thêm sắn vào cơm, nén được một ăng gô đầy. Tôi tạm chén một nửa số cơm với ruốc khô, bụng vẫn còn thòm thèm. Ăn xong không có nước súc miệng. Nhìn ra cánh rừng, nắng vẫn mênh mông. Lâu lắm không có một làn gió. Hơi nóng từ mặt đường mòn quyện với cỏ cây bốc lên một mùi hắc sặc sụa. Mùi mồ hôi chua ngoét. Trông lại, đoạn đường vừa qua mà kinh khủng. Ngót nghét 10Km rồi.

Khoảng 2 giờ chiều, bọn tôi lại tiếp tục lên đường. Đi quãng gần 40 phút bỗng nghe tiếng chó sủa lạ tai : gặp bản rồi !

Và chỉ khoảng 5 phút sau, người đi đầu đoàn quân đã kêu lên mừng rỡ : Suối rồi, nước rồi ! Nước rồi ! Như một mệnh lệnh, truyền xuống người đi cuối đoàn quân nhanh hơn dòng điện. Chúng tôi sà cả xuống suối. Suối khá là to, nước trong vắt, trông rõ từng hòn đá cuội, những đàn cá nhau nhau bơi lội tung tăng. Tôi vục đầu xuống suối. Một cảm giác lạnh tê tê truyền lan khắp người. Bỗng bao nhiêu mệt nhọc đều tiêu tan ! Việc đầu tiên sau đó là tôi đỡ chiếc xoong từ ba-lô của Long “già” và vục một xoong đầy nước bắc lên ba hòn đá kê tạm bên bờ suối.

Bỗng trong đại đội xôn xao hẳn lên. Tôi nhìn ra. Một toán người Lào ăn mặc đủ kiểu đang gánh gồng, mang xách đồ lỉnh kỉnh đi vào khu vực nghỉ chân của Đoàn. Họ đến đây đổi chác đây. Tôi thấy toàn là đàn ông. Có người mặc váy hoa sặc sỡ kiểu dân tộc Mường, có người mặc quần ống tuýp. Có người đội mũ nồi kiểu Pháp, rất “dân chơi”. Da dẻ họ đen cháy. Họ có thuốc lá mua từ Campuchia, thịt khô và gạo nếp… Lâu lắm, hơn một tuần hành quân, nay mới có người đổi đấy ! Chộn rộn ồn ào có đến nửa tiếng, rồi họ kéo nhau đi.

Gần tối, chúng tôi đến bãi. Bãi nghỉ nằm bên bờ sông Xê-Kông hùng vĩ và rất đẹp. Tối nay là 16 tháng 3 Âm lịch. Trăng sau Rằm rất sáng. Sau bữa cơm chiều, chúng tôi lội ào xuống sông Xê-Kông, bơi lội vô cùng sảng khoái.

01/05/1972

Chiều nay đến bãi, mấy đứa xúm xít làm thịt bốn con gà to bự. Tiểu đội tôi đánh chén một bữa thịt gà luộc ra trò. Có lẽ từ nhỏ đến giờ, lần đầu tiên mấy đứa tôi mới được mỗi đứa cầm cả nửa con gà mà thổi, mà cắn xé, vừa nhai nuốt, vừa hít hà sảng khoái. Sáng nay, thất thểu phì phò gần lên đến đỉnh dốc, đã nghe tiếng ồn ào phía đỉnh dốc. Lên đến nơi, chúng tôi nhìn thấy khoảng vài chục người Lào, cả đàn ông, đàn bà đang ngồi trên vệ cỏ hai bên đường mòn bày các lồng gà, thịt nai, voi… khô, măng, rau rừng… chào mời bộ đội mang đồ đến đổi. Họ rít rít thuốc Lào, phun khói mù lên. Tôi thấy nhiều người ghé miệng rít ống điếu thuốc lào bằng tre vừa to vừa dài cả nửa mét, một tay họ xoay xoay cái nỏ điếu, một tay cầm que chọc chọc vào đó. Cái nỏ điếu của họ sao mà to đến thế, cứ như là miệng chén tống. Trong nỏ điếu, thuốc lào cháy lập loè. Mùi thuốc lào khét lẹt, mùi Lào đặc trưng, mùi mồ hôi của lính tráng, mùi đủ thứ đồ lề hai bên đường… ngột ngạt xông lên. Tôi thấy nhiều bộ đội không cùng Đoàn với tôi tháo ba-lô, đặt vội xuống, rồi nhào vô đám người Lào. Tiểu đội tôi cũng dừng. Ông Loát hỏi tôi :

– Khánh có gì đổi gà không ?

– Có.

Tôi trả lời ngay và vội moi trong ba-lô ra chiếc áo bộ đội cộc tay màu xám hãy còn mới tinh, chưa mặc. Mấy đứa trong A tôi cũng hì hụi lấy ra mấy cái áo mới nữa. Đang vuốt vuốt gấp gấp lại cái áo cho phẳng phiu thì thấy một chú lính không thuộc Đoàn tôi từ đâu nhào đến cái lồng nhốt mấy con gà của một bà già người Lào ngồi trước mặt tôi. Chú ta cởi vội cái áo cộc tay đang mặc còn đẫm mồ hôi trong khi hai vai vẫn còn mang ba-lô và súng. Thật nhanh, chú ta đã cởi được ba-lô và kéo được cái áo ra, một tay đưa áo cho bà người Lào, một tay chú thò ngay vào lồng của bà ta để bắt gà. Tôi thấy ông Loát cũng ngay lập tức nhào đến thò tay vào lồng gà. Hai cái tay ngoáy ngoáy trong lồng giữ những chân gà và một lát sau, người nào cũng lôi ra được một con. Mấy con gà đập cánh kêu quang quác. Tôi đưa cái áo mới cho bà người Lào và cảm ơn. Mấy thằng tiểu đội tôi lúc này cũng đã mỗi đứa ôm một con gà. Chúng tôi đổi được bốn con, hí hửng. Trên đường đi, ông Loát bảo : Tao phải nhanh lắm mới bắt được con gà to đấy. Đ… mẹ cái thằng kia. Ông chửi. Nó cứ giật tay tao ra, mà tao cứ giữ bằng được chân con gà. Ai cũng cười khoái chí. Người Lào vui thật. Tôi thầm nghĩ. Họ cứ một đổi một. Một cái áo đổi một con gà, chả cần biết áo cũ hay mới (mà cái áo của thằng cha kia thì khác gì áo Trùm Sò, tôi nhớ lại phim “Ngêu Sò Ốc Hến”). Thậm chí cái gì cũng một đổi một. Đèn pin, sổ tay, bút bi…, lính mình đều đổi được một thứ vừa ý cả hai bên. Như hôm nay, chú lính kia mang cả áo đang mặc ra đổi gà. Tôi nghe chuyện có lính ở mấy Đoàn đi trước hoặc đi sau chúng tôi mang ảnh ca sĩ Ái Vân, thần tượng cửa giới trẻ Hà Nội bấy lâu nay, ra đổi. Thậm chí có người còn cả mang ảnh vợ, nói dối là Ái Vân, để đổi. Người Lào cũng tin và chịu đổi. Có khi đổi được cả gà, vịt… Tiểu đội tôi thì chỉ đổi gà, đổi sắn.

03/05/1972

NẮNG TRƯỜNG SƠN

Liên tục mấy ngày liền, chúng tôi đi trên những cánh rừng bằng phẳng của đất Nam Lào. Chỉ có mấy ngày mà đại đội chúng tôi đã “bạc nhược” về thể chất biết bao nhiêu ! Đến hôm nay, số quân gửi lại Trạm vì ngã bệnh sốt rét của Đoàn đã lên tới 17 người ! Sắp tới sẽ lên tới con số 20. Đối với tôi, không còn gì đau khổ bằng là bị sốt rét bệnh tật quật ngã trên đường đi. Còn mấy ngày nữa đây ? Giao liên bảo chỉ còn đúng 20 ngày nữa là chúng tôi đi hết đường dây 559 này. Có đủ sức để đến trạm T81 nhận cấp phát đường, thực phẩm không ? Người tôi đã mệt lắm rồi. Trả lời câu hỏi này là rất gay go.

Chao ơi cái nắng Trường Sơn ! Chả gì mà người Lào họ đen như cột nhà cháy thế kia, kể cả đàn ông, đàn bà, trẻ con. Nắng nóng làm bọn tôi vô cùng điêu đứng. Đi đèo dốc ở rừng âm u thì ước ao đi đường bằng phẳng. Đi đường bằng phẳng thì ao ước đường râm. Đường nào cũng làm tôi sởn gai ốc. Mỗi đêm, tôi căng tăng, mắc võng thất nhanh, thả mình duỗi chân dài trên võng, rồi mong ngủ thật nhanh để có thêm phút nghỉ ngơi.

06/05/1972

SỐT RÉT

Hôm nay, sau 56 ngày hành quân (từ 11/03/1972, Mỏ Chén, Hà Tây), chúng tôi được nghỉ một ngày tại T81. Trạm T81, cái trạm mà bấy nay, chúng tôi hằng ao ước và là một cái đích, một niềm hi vọng của chúng tôi. Tới T81, tôi vô cùng phấn khởi. Quãng đường từ T80 vào T81 đi mất 8 tiếng đồng hồ. Tôi được cử đi tiền trạm và tới T81 lúc 16 giờ 10’. Háo hức là thế nhưng thực tế, T81 đã làm chúng tôi vô cùng chửng hửng và thất vọng. Mỗi người chỉ được cấp phát một lạng đường, một lạng vừng, một lạng đậu xanh và một lạng thịt … trâu ướp ! Và hôm nay, sốt rét vẫn đang hoành hoành 

Đại đội chúng tôi đã gửi lại các trạm dọc đường mất hơn 20 người. Hôm nay gửi lại thêm ba, bốn người nữa, trong đó có Trung đội trưởng Tất Tưởng, người được biên chế vào Tiểu đội chúng tôi ngay từ ngày lên đường (B trưởng Tưởng, da trắng trẻo, cùng quê Nghệ An với tôi, hình như ở huyện Đô Lương, hay kể về chuyện cưới vợ trước lúc lên đường, giọng Nghệ đặc sệt, chúng tôi hay gọi là “ông Tất Tưởi” !).

“Quyn” ! “Quyn” ! Tiếng gọi nhao nhác. 400C ! 3908 ! 3905 ! … Tiếng rên rỉ nổi lên khắp trong đại đội. Đối với tôi, không còn gì gay go và nhục nhã bằng sự đổ ngã của tôi. Tôi sẽ đến trạm nào mới bị sốt rét quật ngã đây ?

10/05/1972

TẠI T85

Tôi không biết ngày mai có được nghỉ giải lao không. Tiểu đội chúng tôi còn lại 6 người. Trung đội trưởng Tưởng đã “đổ” ở T81, với cơn sốt 4006.

Tôi đã chớm một cơn sốt. Đau khổ ! Quảng đường đi hôm nay, tôi thấy thật vất vả. Tôi là người lê gót cuối cùng đến bãi. Một cảm giác đau đớn, mỏi ra rời choán khắp cả người tôi. Tôi mang nhẹ hơn (do đã ăn gần hết đồ dự trữ trong ba-lô). Tôi cố lết chân cắm cúi đi mà không nói với ai.

Khi ngồi viết những dòng này, cơn sốt đang hoành hoành dày vò tôi. Tôi không dám nằm. Chưa biết nhiệt độ là bao nhiêu ?

Tôi cố gắng đi khiêng nước với anh em. Nhìn anh em khiêng nước quá vất vả, tôi không đành lòng ! Khiêng nước mất khoảng hơn một tiếng cả đi cả về (mỗi lần cần hai người, chặt một cây gỗ nhỏ suôn làm đòn, buộc túm hai đầu một cái tăng vào đòn để đựng nước). Khiêng được nươc về, tôi cảm thấy đỡ mệt hơn. Thế nhưng ngay sau đó, cơn sốt lại tràn đến. Có thể vượt được T85 này hay không ?

15/05/1972

Hôm nay là ngày thứ hai tôi cất cơn sốt. Suốt ba ngày trước, tôi sốt li bì, phải nhập Viện ngay ở T85. Ngày mai tôi quyết định ra Viện. Tay bác sĩ của Viện đã đồng ý. Tuy đỡ sốt nhưng đầu tôi vẫn còn nặng chình chịch.

16/05/1972

Sáng nay tôi ra Viện, trở lại T85, một cảm giác phấn khởi nhưng không kém phần lo lắng đã choán hết người tôi. Biết bao giờ lại đuổi kịp Đoàn đây ! Đồng đội họ đã đi xa lắm rồi !

Số tôi vẫn còn “may”. Vào Viện còn có hai tay ở B1, B2 cũng sốt như tôi. Nằm Viện một mình có khi bao-lô, đồ đạc trang bị… chả còn !

Từ 17 đến 24/05/1972

Tôi đi dọc sông Xê-Kông hùng vĩ và xinh đẹp suốt từ T87 vào T93. Đường đi khá mát mẻ. Chịu bảy hay tám mũi tiêm Quinine vào mông làm tôi rất khó đi. Suối thời gian này chúng tôi đi liên tục, mỗi ngày một trạm. Tại T87 tôi gặp lại Long “già”. Trông hắn ta bơ phờ và ngớ ngẩn lạ. Lính thu dung đi khá là đông. Đoàn quân sốt rét đi thất tha thất thểu, chẳng lấy gì làm khỏe mạnh.

Trên đường đi, tình cờ tôi gặp Đồng (nhà Đồng ở phía sau nhà tôi hồi còn ở Chợ Rộc xưa kia, nay gia đình tôi đã đi khai hoang trên Chọ Bùi, cách Chợ Rộc khoảng chừng 4 Km) đang làm y tá tại một Trạm Xá bên bờ sông Xê-Kông. Gặp nhau nói chuyện một lúc rồi chia tay đồng hương.

Tôi làm được bài thơ Tiếng tắc kè.

04/07/1972

Ở U5.

Hôm nay tôi mới lại bắt đầu cầm bút ghi chép. Quả thật là :

Sách bút mốc meo nằm chết gí

Để tháng ngày trôi chẳng đoái hoài

Đáng chê trách !

Thôi được, để dành đấy !

Buổi sáng, mình ăn cơm khá là no. Cơm cũng bình thường thôi : rau muống luộc vắt chanh với cá khô hầm. Mình bảo dạo này bụng mình hơi to hơn dạo trước. A trưởng Thìn giải thích : Ăn rồi lại ngồi chả thế !

Cả buổi sáng mình hí hoáy may lại quai bi-đông, đau ê ẩm cả lưng. Bính nấu chè đậu xanh, cả lán xúm xít ăn. Đến bữa trưa, mình vẫn còn no anh ách.

B trưởng Tưởng, ông Luân và thằng Hàn ở Viện về để chuẩn bị xuống đường.

Ngủ dậy, thằng Đ. sốt, A trưởng lại điện mình xuống làm anh nuôi thay. Cái ông này lúc nào cũng chỉ sai mình trong cơn “tức” của ông ta mà thôi. Mình chả thèm nói lại. Ông B trưởng thật lắm chuyện. Việc mắc võng giá lôi thôi. Thằng Tiến tháo võng đến mắc cạnh chỗ mình. Chỗ ấy bị dột. Nó bảo. Tránh “không khí căng thẳng”. Mình hỏi nó sao lại thế. Nó bảo chỉ nói đùa. Mình định ”phát biểu” nhưng nén lại được. Sinh chuyện ở đây làm gì.

Tối nay vẫn mưa. Mùa mưa đến U5 đã hơn một tuần này. Ngồi viết mà tối quá, chả nhìn ra chữ gì.

08/07/1972

Mở cuốn thơ, nhẽ ra bầu thơ chan chứa, thế nhưng từ 29/04 (T76) đến nay chỉ toàn ghi nhật ký. Điều đó như thế nào nhỉ ?

Sốt rét ! Sốt rét ! Mình chỉ kịp kêu lên như thế rồi bất thần, một con quỷ, vâng đúng như thế, nó màu vàng, lồng lộn trong người mình, quật mình nằm xuống mê man trong cơn rét cầm cập với thân nhiệt ngót nghét 400C. Con quỷ đó không cho tôi hành quân tiếp. Nó để lại cho tôi một sức khỏe ra trò : da tôi xanh mét, mắt hõm sâu, xương và da tranh nhau ra ngoài tua tủa. Còn nữa, đầu tôi đau đến đến tê dại. Nhìn ra ngoài lán, rừng cây quay cuồng đảo lộn. Và từ đó, cây bút xa lánh tôi, cuốn sách xa lánh tôi. Tôi không nghĩ ra gì hết. Đau. Chao ơi là đau. Mỗi một tế bào trong đầu tôi, trên mình tôi đều nhảy nhót, nhảy nhót như chữ nghĩa mỗi khi tôi run rẩy cầm cây bút nghuệch ngoạc trên trang sách cố viết giữa hai cơn sốt rét hàng ngày. Đến tệ, lúc thì ”mình” lúc thì ”tôi” nghĩa là thế nào ? Có lẽ mình tâm thần (điên) chăng ? Nhưng mà, vừa ”mình” vừa ”tôi’ cũng được. Đến hôm nay, con quỷ vàng đã tha tôi được sáu, bảy ngày. Nó có cho tôi ngày mai hành quân không biết ?

Ngày mai, chúng tôi sẽ hành quân vào hậu cứ, vào cái nơi mà xuất phát từ đó, chúng tôi sẽ được tung hoành trên chiến trường. Thế là tôi đã ở U5 gần một tháng. Một tháng đại đội tôi thu quân góp tướng. Con số hành quân thật là ít ỏi, trung đội tôi được 9 người. Chiều nay họp trung đội, nhiều vấn đề làm tôi phải suy nghĩ và “hành động”.

Trên lán đại đội bộ đã lảnh lót tiếng đài. Thằng Tiến bảo : người sốt rét, đài cũng sốt rét, chắc hôm nay nó đã cất cơn.

Mấy hôm nay, mình ăn cơm rõ khỏe. Điều đó làm mình phấn khởi vô cùng, có lẽ mình phải “phấn đấu hoàn thành” đợt hành quân cuối cùng này.

– ”Anh yêu em đã lâu rồi, muốn nói… nhưng lại thôi !”

Mấy từ đầu, tôi hát rất là lâm li, tha thiết, chậm rãi. Còn ba từ sau cùng, tự nhiên đổi giọng, tôi nói tuy nhẹ nhàng mà nhanh như quát, khiến thằng Tiến khoái chí cười ha hả. Đó là câu hát tôi nhớ lại từ hồi còn ở trường. Chà, ”bọn ấy” bây giờ đã rục rịch nghỉ hè rồi, nghiễm nhiên là đại học năm thứ tư. Xa tất cả những cái đó biết bao nhiêu ! Không, tuyệt nhiên tôi không hề tiếc rẻ, trước mắt tôi : Cuộc chiến đấu thực sự sắp sửa bắt đầu !

09/07/1972

Hôm nay, tôi đã nghiễm nhiên ngồi ở T1 đường dây “giải phóng”. Chóng thật, mới sống một cách vô tư ở căn cứ U5 mà thoáng một cái, cuộc sống cách đây hơn một tháng lại bắt đầu tiếp diễn rồi, đó là ăn, rồi lại hành quân bộ. Với đôi giò sau khi sốt rét, chuyến đi của chúng tôi có phần gay go và vất vả. Thế nhưng khi nghĩ đến vào một ngày mai đây, rất gần, chúng tôi sẽ thực sự sử dụng kỹ thuật và khẩu AK của mình tung hoành trên chiến trận, điều đó làm tôi phấn khởi và mỗi một cột số trên Đường 19 tưởng như ngắn lại, chân tôi bước nhanh hơn…

Mưa vẫn xối xả ngày đêm trên đường chúng tôi đi. Mùa mưa, đầu tiên tôi hy vọng, vẫn có những ngày nắng ráo. Nhưng khí hậu ở phương Nam không chiều ý muốn. Bầu trời đen kịt tụt sầm sập trên đầu. Tiếng sấm xa rền rã. Cây đổ ngổn ngang trên đường. Những con suối hiền lành bỗng trở nên ngang tàng và hung dữ. Bộ đội ni lông kín mít bước lép nhép dưới trời mưa. Tiếng nói chuyện hòa trong tiếng sấm.

Ở T1 tôi được biết cách đây vài ngày, một toán thám báo đã nhảy dù xuống khu rừng cách đây vài tiếng trên đường chúng tôi đi. Bộ đội ở trạm đang truy lùng ráo riết.

Mang tiếng đã vào tại chiến trường mà tuyệt nhiên, từ Trạm 5 đường dây 559 vào đây, tôi cảm tưởng như chả có gì nguy hiểm cả. Máy bay Mỹ lồng lộn trên đầu mà đường Trường Sơn, bộ đội và xe cộ vẫn ung dung hành quân.

Vào đây, đi trên đường 19, Honda và xe đạp của mình chạy như mắc cửi. Thực phẩm của chúng tôi mua từ thị xã StrungTreng, từ Krachie. Mỗi ngày tiền ăn của chúng tôi là 10 Rịa (R, Rien, tiền Campuchia).

Ở U5, rau muống có nhiều, chúng tôi ăn thoải mái. Hạt tiêu và mì chính ở đây thật rẻ, hành những củ to như cái chén (lần đầu tiên tôi thấy hành Tây)… Chúng tôi được phát phụ cấp mỗi tháng 80R, chỉ mua được một hộp sữa hay vài thứ vớ vẩn. Tiêu pha ở Campuchia phải bạc trăm bạc chục, ghê thật. Tuy nhiên sinh hoạt của bọn tôi cũng khá là ”tươi” nhờ có thực phẩm mua được. Trên đường hành quân, tôi bắt chước tụi nó hái ớt chỉ thiên rừng mọc hai bên đường, quả nhỏ tý như đầu đũa, quả xanh, quả đỏ, rồi muối chua trong một lọ nhựa nhỏ xin được ở Viện. Bỏ ba-lô, mỗi bữa cơm lấy ra cắn mấy quả ớt cay chua chua thật thú vị.

18/07/1973

Sáng. Cái T7 này thật cơ hàn. Buổi sáng, đã có lệnh báo thức, lính tráng vẫn nằm ì trên võng. Có tiếng rên rỉ. Một chốc sau, tôi ngồi nhỏm dậy. Chao ôi mệt quá chừng. Người đau như bị ai đánh. Đêm qua, mãi đến 9 giờ tối, bọn tôi mới lần mò đến bãi. Lục cục, chuẩn bị ăn uống đến trên 10 giờ đêm mới nhảy lên võng. Đến bãi, tôi theo mấy ông : Nhời (cảnh vệ đi theo đoàn tôi), H. (Chính trị viên đại đội), Đ. (C phó) và Nhâm (Quân lực U5 theo đoàn tôi) kéo nhau đi rửa chân. Cái trạm này chó má ! Đi tê cả chân. Mò mãi trong rừng tối om mà vẫn không thấy suối. Các ông chửi um cả lên. Cả bọn sì sục trong một vũng nước đục ngầu bùn đến ngang bắp chân rồi chửi rủa ra về. Tôi cởi quần dài ướt đẫm nước mưa rồi nhảy vội lên võng. Mặc mẹ nó, xem nó bẩn đến đâu. May mà bãi này có nhà lán lợp lá Trung Quân. Căng tăng ra ngoài mắc võng thì chó nữa.

Lại cái chuyện nước nấu ăn sáng nay. Ba bếp của ba trung đội chuẩn bị củi bếp xong rồi, lính tráng ngồi nhìn nhau xem thằng nào lấy nước ở đâu. Chúng nó nguyền rủa trạm, chửi um lên. Mùa mưa mà xa nước thế này, không biết mùa khô, chúng nó (bọn T7) cho lính “biện” (ăn, từ lóng) chỗ nào.

Các ông có trách nhiệm chạy lăng xăng. Ba ông H., Đ. và Nhâm chạy vào trạm, chắc có chuyện đấy.

Tin mới : Ô Tấn (B trưởng B1) đã tìm ra suối. Lập tức, cả bọn nhao lên, phấn khởi ! Tôi bê nồi đi vo gạo (gạo phải vo đến 9 lần nước vì mốc : mốc đen bò lổn nhổn) và xách hai ăng gô nước về, tê dại cả cánh tay. Thế cũng tạm ổn, chỉ mỗi tội cơm nước chả ra sao, thức ăn quá chán : canh rau rừng với tương đậu khô (món thường trực từ khi vào đây).

Từ T3B đến giờ, tự nhiên sinh ra chuyện đi buổi chiều để tránh… máy bay ! Mà có tránh được gì cho cam. Đường xa, rừng thưa thớt, nhiều quãng đường đi buổi chiều cùng chẳng khác gì đi buổi sáng ! Buổi chiều khoảng 3, 4 giờ xuất phát thì gặp tối giữa rừng và gặp mưa, gió. Chao tôi là gian khổ. 

Ai mà tưởng tượng được lúc đó. Trời tối om. Mưa gió rào rào. Rừng cây đen ngòm rít gào nghiêng ngả. Lính tráng bước nghiêng nghiêng, lần mò theo đường mòn chả lấy gì làm dễ đi. Suối sâu sần sùi nhả bọt, muốn xô băng cả bọn tôi. Hai vai mang nặng ba-lô đau tê đau dại. Đá hòn lăn lộc cộc dưới chân. Lính tráng nhấp nhô hoà biến vào bóng tối.

Dạo này có món măng tươi. “Hết rau rồi anh có món măng tươi”. Có thể luôn mồm như thế. Măng xào lạc ăn khá thích. Các bữa cơm tôi đều thấy ngon miệng.

Trung đội của đoàn “lớn” 28 người chúng tôi bây giờ chỉ còn lại năm, chưa đủ quân của một tiểu đội. Gồm : ba thằng Tiểu đội phó (ở ba tiểu đội cũ), thằng Phượng A7 và tôi, không tính tay cảnh vệ đi theo. Thìn, A trưởng của chúng tôi, nay làm làm B trưởng. Còn thằng Muôn (người Thanh Hoá) to khoẻ đã gửi lại T4. Chúng nó đi, nhất là thằng Muôn, thì bọn mình đến vất. Mình đến ghét thằng Muôn, khoẻ mà lúc nào cũng vờ như muốn chết.

Tôi đã qua một cơn sốt rét thứ tư. Mấy ngày đó, tôi như gần đất xa trời. Không ăn, nằm li bì trên võng. Người mệt muốn đứt hơi. Tôi rên rỉ mỗi khi trở mình. Đến bữa, tôi vẫn cố gắng hành quân mặc dù sốt 380, 390. Gạo bọn nó mang giúp. Tôi bước thất thểu, quãng đường dài lê thê, mịt mờ và vô tận. Tôi chưa sốt đến 400 bao giờ. Chỉ sốt mấy ngày thế mà người tôi sút đi trông thấy, chúng nó phải kêu lên. Từ chỗ gầy, má tôi hóp lại, hai hố mắt sâu hoắm, mắt trắng dã môi thâm sì lại, làng nhàng như chú nhện. Cũng may mà tôi trở lại nhanh. Hôm nay tôi đã bình thường như cái nghĩa của nó.

26/07/1973

Thế là tôi lại vào Viện. Không ngờ đời tôi lại xuống dốc đến thế ! Còn gì trên thân thể tôi nữa mà bệnh tật cứ hủy hoại thêm lên ?

Tôi phải xa đoàn hôm 22/07. Suốt cả ngày hôm đó, tôi không hề rời võng. Người mệt chao ơi, là mệt. Thân nhiệt lên tới 3905. Có lúc tôi rét run cầm cập, bọn nó phải kéo màn, kéo chăn phủ kín cho tôi. Thế mà vẫn rét ! Tôi rên rỉ tưởng như chẳng còn muốn sống nữa. Có lúc người tôi ra mồ hôi đầm đìa như tắm. Đầu đau như búa bổ. Cả người tôi nằm trong tình trạng đê mê, chẳng thiết gì ăn uống, chỉ toàn uống nước. Nước ! Nước nữa ! Vẫn khát !

Tôi trở lại cơn sốt từ T7A, người tôi đã mệt lắm thế nhưng tôi vẫn cố gắng theo đoàn. Trung đội tôi chỉ còn … 4 người nên mang vác khá nặng, chẳng san sẻ được gì cho nhau. Thế là vừa đi vừa sốt, khất khừ kéo mãi đến T7C thì tôi kiệt hẳn. Đại đội quyết định gửi tôi ở lại.

Vào Viện suốt ba ngày, tôi chẳng đi lại được. Cứ nằm dính bết trên võng. Đến bữa, hộ lí phải mang cơm đến tận nơi cho tôi. Cơm nước ở Viện này chả ra làm sao nên tôi chả hề nuốt nổi mấy miếng. Hôm nay, người tôi đã đỡ, đi lại vẫn còn run rẩy ngả nghiêng. Tôi cố gắng lết đến nhà ăn. Thức ăn có rau muống nên tôi ăn được chút ít. Từ lán 6 tôi chuyển xuống lán 1 ăn tiêu chuẩn 2 (34 rịa một ngày). Ở đây nước nôi thật hiếm, tắm giặt rất xa. Người hôi thối không chịu được. Còn một bộ quần áo chưa giặt hãy còn nhét đáy ba-lô.

Không biết giờ này bọn nó đã vào tận đâu. Ra Viện, tôi phải đáp ca-nô trên sông Mê Kông sáu tiếng rồi hỏi đường vào trực Đoàn 75 (hay Đoàn pháo binh Biên Hoà). Không biết ở đó có người đến đón tôi không ?

Nằm Viện, tôi làm bài thơ Lá reo.

28/07/1972

Hôm nay, sức khỏe tôi đã bình phục. Đó là một điều làm tôi rất phấn khởi. Đến bữa, tôi đã thấy đói và ăn được cơm. Dạo này, cơm có rau muống, có cá tươi nên mỗi bữa tôi có thể ăn được lưng ca (ca nhôm lót đáy bi-đông dùng làm bát ăn hay đựng nước uống). Hôm nay thì có vẻ ăn nhiều rồi. Buổi chiều, có mấy tay cải thiện được măng muối chua, rau húng, bữa cơm thật thú vị.

Từ lán 6, tôi chuyển về lán 1 ăn cơm tiêu chuẩn 2 hơn bốn hôm nay. Mỗi ngày tôi được bồi dưỡng thêm 1/4 hộp sữa. Họ phát sữa lúc không có nước sôi, bọn nó ăn sữa đặc đêm đau bụng kêu ầm ĩ cả lên. 

Hôm qua đến giờ, trạm xá này có phái đoàn đến kiểm tra. Lính tráng phản ánh tình hình hậu cần phục vụ tồi quá. Hôm qua và hôm nay có vẻ tiến bộ tợn, cơm nước ngon hơn và trưa nay, y tá tập trung bọn ăn tiêu chuẩn 2 lại pha sữa uống chung. Không biết những tiến bộ này sẽ kéo dài được bao lâu ? “Mèo nào rồi cũng giống mỉu nào !”. Thằng B. nhận xét. “Được vài ngày rồi chứng nào lại tật nấy cho mà xem !”.

Ngày mai, thằng Ph. có thể ra Viện. Thằng này chỉ trốn Đoàn mà thôi. Từ trước, tôi thấy hắn ốm xoàng xoàng nhưng lúc nào hắn cũng rên rỉ, ăn rất ít cơm, chỉ độc nằm co ro trên võng. Khi hành quân, hắn tìm cách mang vác ít, toàn tụt lại sau. Hắn vào Viện chả sốt một tí gì, đến buồn cười. Thằng Ch. có thể còn nằm lâu. Mình ghét hắn mỗi tội rên rỉ khiếp quá, sốt một tí đã kêu trời kêu đất, tưởng như chả còn ai biết cho hắn.

Thế là mình đã xa đoàn gần một tuần, có thể xa đến nửa tháng. Bọn ấy đã vào hậu cứ rồi cũng nên.

Đầu vẫn còn đau như búa bổ. Hai mông vào đây chịu 10 phát đâm kim hôm nay đau nhừ đi chả được (hai chỗ tiêm mỗi khi sờ vào tôi thấy cứng ngắc, nóng ran và đau buốt). Đêm lại nằm võng nó kẹp vào khiến tôi đau đớn không chịu được. May ra thì không bị áp-xe.

Tôi vẫn cố gắng làm thơ. Thơ đã xa tôi khá là lâu rồi. Không biết lần này gặp lại, Nàng Thơ có giận tôi không ?

29/07/1972

TẠI C23B

Một buổi chiều ảm đạm. Trời đang động mưa. Thỉnh thoảng, một cơn gió mạnh chẳng biết từ đằng nào thổi lại làm lá tre rơi rào rào. Bụi, lá rụng bay đầy lán. Sấm vẫn rầm rì xa xa. Tiếng ca-nô từ sông Mê Kông vọng lại nghe rõ mồn một. Tối nay lại một chuyến chở bộ đội nữa vào trong kia. Nó đang chờ mình !

Hai hôm nay vắng tiếng chị Thanh hộ lí của trạm xá. Chị ta đã mang cơm cho tôi mấy ngày mới đến và giặt hộ bộ quần áo, thật quý hóa. Tiếng chị ta lanh lảnh khắp trạm. Giọng Nam Bộ nghe thật ngọt ngào và lạ tai với tôi. Phải nói là chị ta thật chịu khó. Tôi khá là thương chị ta. 

– Lán 6 đồng chí nào khi đêm đi bậy ra đây bây giờ không chịu dọn, hai bận rồi đó nghe. Cứ để hộ lí dọn mãi sao ? Giọng Nam Bộ chị nói “dọn” thành “gioọng”.

– Không phải lán 6 đâu bà chị ạ ! Biết đâu người lán khác đến bậy ra đó thì sao. Vả lại gần lán nào cứ bảo người ta ỉa bậy là gì vậy ? Thằng Long có khuôn mặt rỗ nhằng rỗ nhịt, trông rất bẩn tướng, khuềnh khoàng đôi cẳng trên võng đung đưa nói vọng ra.

Chị Thanh lại nhẫn nhục hốt phân. Tôi thấy mấy lần như thế nữa ở các lán. Bọn nó cứ ban đêm “tiện” luôn ra đầu lán. Cái mùi không lấy gì làm dễ chịu bám theo gió sáng ra bay lên sặc sụa.

Thế mà hai hôm nay chị ta đi công tác, trạm xá thấy im lặng hẳn. Chỉ nghe tiếng gọi tiêm, gọi cơm bữa bữa. Đứa con chị ra khoảng hai tuổi khá là kháu khỉnh nghịch ngợm dưới nhà ăn.

Hôm nay ra Viện 24 người. Thằng S. lán tôi khỏe rồi. Buổi sáng y sinh khám cho hắn và cho hắn ra Viện. Buổi chiều hắn dở trò. Hắn kêu chóng mặt nhức đầu, mệt mỏi. Y tá cặp nhiệt độ : 3605 ! Hắn ăn ít cơm và quyết định không ra Viện. Y tá đành nhượng bộ và cho hắn chuyển lán.

Lán 1 tôi chiều nay chuyển lại. Tất cả bọn ăn tiêu chuẩn 2 về một chỗ như bữa trước. Tôi không biết còn được ăn bao lâu ? Cố gắng để thứ Bảy tuần sau ra Viện.

Tôi đã làm xong bài thơ Người đàn bà Miên. Bài thơ chưa được trau chuốt lắm.

31/07/1972

NHỮNG CÁNH RỪNG MIÊN

Tôi xa quê hương đến nay đã gần sáu tháng. Sáu tháng đó, tôi sống trong rừng đã năm tháng rồi. Năm tháng sống trong rừng, tôi khát khao nghĩ về những cánh đồng rộng rãi, thẳng cánh cò bay ở quê hương, những buổi chiều bên bờ hồ phẳng lặng… Trước mắt tôi chỉ giới hạn bởi những hàng cây. Đi đâu, ở đâu, nhìn ra trước mắt, sau lưng, hai bên và trên đầu, chỉ toàn thấy màu xanh sần sùi của cây và lá. Có nhẽ rừng thu hẹp con mắt tôi lại chăng ? Nhưng không, sau một rừng cây, tôi vẫn thấy một không gian hoàn toàn trống trải và bao la, nó không giới hạn mắt tôi. Một không gian hoàn toàn cho tôi hưởng thụ những cái gì thoải mái và thú vị trong tâm hồn. Mỗi khi tôi ngồi trầm tư suy nghĩ, tình cảm của tôi như không gian đó.

Tôi đã đi hàng mấy ngày liền dưới những cánh rừng Miên khá là xinh đẹp. Hơn nữa, nhiều chặng, nó làm bọn tôi thật là điêu đứng. Rừng chỉ toàn một loại cây, cây dầu (sau này tôi biết là cây dầu rái). Chúng mục thưa thớt và thẳng tắp, vỏ cây sù sì nứt nẻ không chịu được. Đi trong rừng, trông những hàng cây bạc trắng, tán lá xòe ra, mênh mông vô tận, tôi cảm thấy choáng ngợp. Cỏ tre bận bịu dưới chân. Câu dầu và cây cỏ tre, có lẽ chúng đánh bạn với nhau thật là khăng khít. Những bãi cỏ tre phẳng lì, những cây dầu mọc thoải mái được đặt trong một nền trời xanh mênh mông quả thật là thi vị.

Trời nắng, nắng rừng dầu. Chúng tôi đi mồ hôi nhễ nhại. Thỉnh thoảng chúi vào một bờ khe tre mọc rậm. Bí gió, muỗi hàng đàn bay theo. Khi đó thì chao ôi, mệt lử mà hai tay phải khua khoắng trong không khí để đuổi muỗi. Qua những bãi cỏ tre rậm rạp, nhìn phía trước, chỉ thấy những chiếc mũ tai bèo trôi lềnh bềnh trên cỏ. Cỏ đã mọc che hết đường. Cành lá quất vào da, mặt mũi rát bỏng. Con đường đi bỗng thấy dài vô tận. Khát hơn bao giờ hết. Qua khỏi bãi cỏ tre, bầu trời lại hiện ra xanh cao. Tiếng chim bồ câu trời gáy buồn thiu. Vẫn một rừng dầu thưa thớt, những bãi cỏ hoang rậm rạp.

Bất thần, từ một phía nào đó, thông thường là phía tây, mây đen dựng thành và trong chốc lát, gió lạnh nổi lên. Bầu trời tối sầm lại. Bắt đầu mưa. Mưa như chưa bao giờ được mưa. Chúng tôi ướt lướt thướt chui trong những lùm cỏ, lội trong những búng lầy, vượt qua con suối hung dữ mà vừa rồi nó rất khô cằn. Xách dép, thế này nghĩa là thế nào ? Sì sụp. Kia rồi, đường lại đầy cát và đá dăm. Qua những cánh đồng lúa nước của người Miên. Rừng tạm thời lùi ra xa. Lúa mới cấy được mưa rung rinh đắc chí. Có bờ vùng bờ thửa. Đường giao liên đi trên bờ ruộng. Rồi qua sóc (phum) người Miên thưa thớt nhà sàn. Tôi thấy người ngồi lố nhố. Họ đen như đồng hun. Lửa trong bếp hắt ra bập bùng. Trâu bò đánh mõ. Qua sóc lại gặp rừng dầu, bãi cỏ tre và mưa. Những cánh rừng Miên ấy, tôi chưa đi hết và bây giờ, tôi tạm thời ngồi trong bệnh Viện. Viết về những cánh rừng Miên, tôi nghĩ thà chửi nhau còn hơn nhưng mà chao ôi, sao có lúc tôi thấy thích đi trong rừng Miên như thế ?

01/08/1972

Tôi làm được bài thơ Ngán tiêm.

05/08/1972

Sáng nay chúng tôi chưa hành quân. Dũng và tôi định vào Viện “chơi” nhưng Viện cách đây những hơn 2 tiếng nên cũng ngại. Nghe nói Viện mới thành lập nên rất ít bệnh nhân, ăn uống tương đối khiến anh nào cũng muốn vào để “tranh thủ”. Không biết hôm nay có ai vào không. Các đoàn sáng nay đã đi lấy gạo và thực phẩm để mai hành quân.

Ở trạm này, mùa mưa thế mà nước nôi hiếm hoi và bẩn thỉu không chịu được. Mới chiều qua, con suối bên cạnh nhà ăn nước còn nhiều, bọn tôi còn rửa mặt rửa chân được. Mấy tay anh nuôi khoét cạnh bờ một cái giềng con thông ra suối để lấy nước ăn. Giếng cũng trong. Thế mà sáng nay, thế mà sáng nay, suối đã trơ cát và lá, que khô, xác cá chết. Giếng ăn bỗng trở nên đục ngầu, cơm thừa, rau muống, bùn đen thối inh cả lên. Ruồi nhặng bay loạn xạ khi chúng tôi xuống suối. Chúng tôi đi trong lòng suối một quãng. Cũng còn một vài vũng nước hiếm hoi gọi là uống được. Chà, ăn uống thế này thì còn gì bằng. Không biết mùa khô thì chúng nó ăn bằng cái cóc khô gì. Rừng này chẳng khác gì rừng Trường Sơn, rậm rạp và âm u. Thế mà trạm này đã bị đánh bom. Cách lán tôi không xa, bom giạt đi một góc rừng… 

Người tôi vẫn còn mệt không chịu được. Hai mắt thâm quầng. Ngủ li bì một ngày qua, một tối qua mà vẫn chẳng ăn thua gì. Bù thế nào mỗi một đêm hành quân thức trắng nhỉ ? Tôi phải viết lại quãng đường hành quân từ T7C sau khi ra Viện đến đây dẫu bằng cách nào vì dù sao, nó cũng đã để lại cho tôi nhiều cái lí thú và đầy gian khổ mà tôi đã chịu đựng.

Tôi sống trong Viện vừa đúng được mười ngày. Mười ngày hoàn toàn nằm rồi lại ăn, ăn rồi lại nằm. May mười ngày đó, tôi đều được ăn bồi dưỡng thêm, tuy chẳng được bao lăm, nên người tôi có đỡ, không bơ phờ như trước. Người hãy còn mệt thế nhưng nằm mãi, tôi phát chán, tôi quyết định ra Viện. Và thế là chiều ngày mồng 2 tháng 8, tôi rời Viện vào T7C, tiếp tục xuống đường. Chiều hôm sau, tôi nhập vào đoàn thu dung hành quân. Đoàn đi có ba cô nữ dân chính tuổi đã ngoài 20. Có nhẽ họ vào làm bác sĩ hay dược sĩ gì đó. Bọn lính thấy gái cứ nhao nhao cả lên, trêu cợt làm ba cô ả đỏ mặt. Thực ra trông ba cô ả, tôi chả có tí cảm tình.

Vượt qua một con sông nhỏ, chúng tôi đi trên những thửa ruộng người Miên. Lúa mới cấy được mưa lên xanh mơn mởn. Con mắt tôi như được giải phóng, tôi thấy tâm hồn thoải mái vô cùng. Mùi vị quê hương những năm tháng nào xa xôi cứ lần lượt hiện về thoảng qua trong trí nhớ. Đời bộ đợi đã cho tôi quen với những sự đổi thay và nhìn phong cảnh của đất nước người ta, tôi không cảm thấy gì xa lạ.

Bọn tôi rong ruổi trên đường lộ 13, con lộ dẫn về Sài Gòn. Hai bên đường, nhà cửa người Miên, người Hoa san sát. Những căn nhà sàn, những rặng dừa, vườn cây ăn quả… như sống trong một cảnh thanh bình mà trên bầu trời, tiếng máy bay hãy còn gầm rít.

Trẻ con ra đổi thuốc lá khá là đông. Hầu hết, da dẻ chúng đen nhánh như chì trừ một vài chú Hoa kiều ăn mặc sạch sẽ, da dẻ trắng trẻo, hồng hào. Chúng đuổi theo níu chân, níu áo chúng tôi gạ đổi thứ này thứ nọ trong lúc chúng tôi vẫn đi.

– Tao chả có cái cóc khô gì mà đổi. Có đổi cái mệt thì tao đổi cho. Tôi hai tay huơ huơ trong không khí nói với một thằng bé đầu bù xù, mắt sáng, vai vác một cái bọc đầy thuốc cuộn. Mày có chuối chín không ? “Chay tun” ! “Chay tun !” “Oóc Miên” à !

Những cô gái Miên tóc hoe ngắn mặc váy viền đỏ e lệ đứng bên đường nhìn chúng tôi hành quân. Da dẻ họ cũng đen làm sao. Chỉ có hàm răng là trắng.

– Có ưng bộ đội Việt Nam không. Một tay tạt ngang hỏi đùa khiến bọn tôi cười ồ. “Ôn khơ lanh boòng tê ?”(Em có yêu anh không ?). Đó là những câu tiếng Miên đầu tiên mà chúng tôi truyền miệng cho nhau.

Trời đã gần tối, chúng tôi đến bến ca-nô. Sông Mê Kông rộng mênh mông. Bờ bên kia chỉ thấy một dải rừng xanh sẫm lờ mờ trong sương. Bầu trời cũng khá nhiều sao. May ra thì đêm này không mưa. Bộ đội ngồi đứng tùm lum trên một thửa ruộng cày nhấp nhổm. Thuốc lá lập lòe, tiếng nói chuyện lao xao… Chúng tôi dở cơm nắm ra ăn và chờ ca-nô. Nhìn ra sông, một vài chiếc ca-nô chở hàng thấp thoáng xuôi ngược, tiếng xình xịch vọng vào trong đêm. Chờ đã khá lâu, có tiếng chửi rủa, tiếng ồn ào.

– Ai kem đây ! Nước chè nóng giòn đây ! Tiếng một tay nào đó bông đùa, giọng Hà Nội. Cả đoàn rộ lên cười.

– Máy bay ! Tắt thuốc lá đi ! Rõ khỉ ! Mẹ kiếp, giờ vẫn chưa có ca-nô, bắt bố nó chờ đến bao giờ ?

Tôi mệt lử, đầu gối lên ba-lô, nằm xoãi ra trên ruộng cỏ. Mặc kệ, cho nó bẩn. Thằng Dũng cũng như tôi. Hai đứa nhìn lên bầu trời trông mảng mây đen phía Đông Nam lớn dần lên đầy lo ngại. Mọi người lim dim ngủ…

Ca-nô ! Ca-nô ! Bỗng cả đoàn nhốn nháo đứng dậy. Chúng tôi xuống thuyền, tiếng máy rộ lên xình xịch. Ca-nô rời bến. Ra đến giữa dòng, mưa bắt đầu nặng hạt. Tiếng mưa lộp bộp trên ni lông. Rồi cũng tạnh. Sông Mê Kông trong đêm đầy yên tĩnh. Chỉ nghe tiếng máy ca-nô đều đều. Gió trên sông mát lạnh. Trời nước mênh mang. Hai bên sông rừng lổn sổn đen sì. Thỉng thoảng có vài ánh đèn le lói. Tiếng chó sủa nghe thật xa xăm. Tâm hồn tôi vô cùng thoải mái mặc dầu ngồi chật, hai chân cứng đờ, tê dại.

Lên bến, bọn tôi phải đi trên bốn tiếng nữa mới vào trạm này. Một đêm hoàn toàn thức trắng. Mặt trời lên khá cao, tôi mới được thả mình trên võng. Một cơn ngủ dữ dội dìm tôi.

10/08/1972

Có ngờ đâu sự đời lại oái ăm đến thế, giờ đây, tôi đã lạc đoàn. Chờ đến bao giờ, đại đội mới cho người đến đón tôi đây ? Suốt mấy ngày này, tôi đầy lo lắng. Mà thực ra lo cũng chỉ bằng thừa. Tôi tự trách mình sao lại chủ quan đến thế. Vào đây để ăn đói, rèn luyện, chờ đợi, thế thì về đơn vị có hơn không  

– Ai chả muốn về đơn vị, tớ cũng thế, nằm đây nhục nhã thế này anh nào rồi cũng muốn xuống đường. Riêng cậu, thế nào họ cũng đón thôi.

Anh Trương nằm cùng lán với tôi an ủi vậy, tôi mới nguôi ngoai. Số tôi thật là xúi quẩy.

Từ hôm lên ca-nô về cái trạm quỷ sứ, tôi không biết tên này, hỏi tay trạm trưởng, ông ta bảo tôi cứ yên chí, đi trạm nào hỏi trạm ấy xem. Thế là mấy trạm sau, tôi đều hỏi, đoàn 2069 có qua đây không và đường vào trực đoàn 75 chỗ nào ?

Đến trạm cuối cùng, tôi lại chẳng hỏi. Nghe mấy tay vô công rỗi nghề, tôi đi thẳng vào đây, không biết rằng đoàn tôi rẽ từ trạm ấy. Tôi xoắn vào mấy tay quân lưu hỏi, họ bảo tôi cứ yên chí. Mà yên chí thế nào được (mặc dầu họ nói đúng), tôi cứ vào trực đoàn 75 có hơn không ?

Nơi tôi vào là một tiểu đoàn toàn lính thu dung. Đến đây, chính là nơi tập kết. Khi nào công trường (sư đoàn) nào cần đến, họ sẽ lên đây lấy quân và binh chủng nào về binh chủng đó.

May cho tôi, hôm qua họp đại đội, tôi gặp Quế duy nhất của đoàn tôi ở C3 này. Mừng quá, hai đứa ngồi nói chuyện. Quế cùng anh May và anh Đương đã lạc đại đội tôi từ C18. Họ cũng đến đây và chờ đợi. Anh May và anh Đương ở C1. Ở đó còn có Bồng, Phượng (cùng vào Viện T7C với tôi). Thế là ổn, ở đây đông, thế nào đại đội cũng lên đón.

22/08/1972

Mùa mưa đang chuyển nhanh. Dạo này thời tiết đầy những ngày nắng ráo. Nắng trong rừng. Gió đưa từng đợt mát rượi, ánh nắng xôn xao. Tiếng chim kêu giữa những cơn gáy dài của mấy chú gà Trung đội nuôi. Nhiều hơn hết, trội hơn hết vẫn là tiếng chặt cây, tiếng đóng cọc, tiếng đục đẽo,… của chúng tôi.

Tôi sống ở đây đã trên mười ngày. Những ngày chờ đợi xuống đường. Hằng ngày, tôi lao động kiến thiết đơn vị như bao anh em thu dung đủ các binh chủng khác nhau, vì sốt rét tụt tạt lại sau, đã vào đây. Lao động cũng nhẹ nhàng. Cuộc sống ở đây có thể nói, vui cũng không có một cơ sở nào để nói là vui. Còn buồn thì, chao ơi, tùy anh đấy, cứ cho là không buồn chán đi.

Tôi vẫn bị sốt rét mấy ngày, dạo này người tôi có đỡ. Tôi bây giờ cân nặng chỉ còn 47 kg, sụt mất gần 5kg. Ăn uống ở đây chẳng ra gì. Lúc nào tôi cũng thấy đói. Mang tiếng ăn bồi dưỡng 18R ngày mà chả ra sao.

01/09/1972

Đêm qua trời lại mưa. Sáng nay, mặt trời lên rạng rỡ. Những giọt nước mưa từ trên cây gặp gió rơi lộp độp trên mái lán trung quân. Có lẽ ngày hôm nay bọn tôi được nghỉ cả ngày.

Tôi vừa đi cáng thương ở Tà-Pao về. Người hãy còn mỏi nhừ. Về đây, cả Trung đội hầu như vắng hẳn, chỉ còn lại mỗi A chừng năm, sáu người.

Đón 2/9, đêm qua bọn tôi được xem phim “Vừng Hồng” của Trung Quốc.

02/09/1972

Ngày Sinh Nhật Tuổi Hai Mươi

Có lẽ bây giờ đã hơn 12 giờ đêm. Khí trời hơi lành mạnh. Ngoài kia, tất cả đều im lìm trong bóng tối. Chỉ có những giọt mưa tí tách rơi. Không ngủ được. Tôi với Muôn ngồi loay hoay nhóm lò tán gẫu. Hàn cùng uống trà với chúng tôi đã về lán bên kia từ lâu. Không biết anh ta có ngủ được không ? Suốt cả buổi tối, ba đứa bọn tôi ngồi pha trà hút thuốc tùm lum, khói cứ um cả nhà. Gói trà “Củ Măng” nhẽ ra chỉ pha một nữa, thế nhưng chúng tôi pha “cắm tăm” uống ráo trọi, thế mới kinh khủng…

Tôi hình như bâng quơ và sống một cách “vô tư”. Hôm nay tôi tròn hai mươi giữa một cánh rừng Miên xa xôi. Tôi không hề có một nỗi niềm hay tình cảm gì, không suy nghĩ gì cả. Mà, như một ngày thường, tôi với Muôn đung đưa chiếc võng chờ bữa liên hoan buổi chiều nay (!).

(Bữa liên hoan thật là buồn tẻ, chả có một lời giáo đầu. “Bàn cỗ” đã dọn xong. Lính tráng kéo lại và chỉ sau một chốc, hết 2/9 ! Chỉ có thế thôi ư ? Tối đến là tiệc trà của chúng tôi).

Tuổi thanh niên, giữa cái lúc “hoàng kim” của cuộc đời, tôi như bị trói buộc, giam giữ trong bốn bức tường dày của rừng Miên. Những ngày rèn luyện và bồi dưỡng sức khỏe để lên đường cứ lặng lẽ nối tiếp theo nhau. Dẫu ngày ngày “công tác”, những chiều mưa, tôi thấy thật là “buồn tẻ”. Tôi đang chờ đợi ngày lên đường. Chờ đợi và để cho thời gian trôi qua. Những câu chuyện, những trò chơi chốc lát, và tôi, lại sống “vô tư” !

Không hiểu sao, những cái gì xảy ra vừa qua, dù mới đây, rất gần, tôi đều hình như lãng quên. Tôi cảm thấy cuộc sống thật đơn giản và con người tôi như bất lực trước những ước mơ. Không thể được, từ những tháng ngày tăm tối này, tôi vẫn phải vươn lên. Tôi phải sống sót, còn phải về quê hương. Tôi không dám nghĩ về tuơng lai. Tương lai, hay ngày mai ? Tôi rùng mình không dám nghĩ. Tôi nhìn những mầm măng nhô lên khỏe mạnh ngoài kia và con người tôi trở lại vui tươi. Tôi rất tiếc và hơn thế nữa, rất đau khổ, khi trình độ, kiến thức văn hóa của tôi ngày càng mất đi dữ dội. Đầu tôi rỗng dần. Lấy đâu để đền bù vào. Có phải lấy khẩu AK và cái xẻng ở góc lán hay không. Rất nhiều vốn sống để tôi sáng tác, viết văn, làm thơ từ ngày vào lính. Những lúc thất vọng, tôi cứ nghĩ não nề mình không có một ai ở bên để động viên, giúp đỡ. Không một ai giúp tôi mở mang tầm nhìn. Thế thì… Song tôi vẫn cố gắng cầm bút viết nhật ký và làm thơ !

Nhưng may mắn là cùng Đại đội 4 với tôi có Vũ Tiến (hắn lấy bút danh là Anh Vũ) làm bạn “văn chương”. Tiến người Quảng Bình. Tôi và Tiến cùng vào học Đại học một lớp (K14 Toán-Lý, trường ĐHBK Hà Nội) từ tháng 9/1969, rồi cùng nhập ngũ (06/09/1971) huấn luyện ở Bắc Ninh, rồi cùng về Tiểu đoàn 371 ở Mỏ Chén, cùng lên đường vào đây (11/03/1972), ở cùng đơn vị. Tiến đa tài, đa tình, có năng khiếu văn chương, làm thơ hay đáo để. Thỉnh thoảng Tiến vẫn đưa tôi đọc những bài thơ mới của hắn…

Có lẽ lúc này Tiến của tôi đã xuống đường !

Giờ này, chắc gia đình tôi đang ngủ say sưa, các em tôi có nhẽ đang mơ những giấc mơ thần tiên. Ba tôi không biết đang dạy ở đâu ? Mẹ có mơ tôi về thăm nhà hay không ?

Tôi viết xong bài thơ Ở 1.20.

12/09/1972

Mười ngày đã trôi qua với biết bao đổi thay ! Giờ đây, không phải đung đưa chiếc võng nghêu ngao ở 1.20 mà nghiễm nhiên ngồi ở hậu cứ thân yêu. Như những con chim bấy lâu lạc bầy, tất cả C4 chúng tôi đã về tụ họp và đã lên đường làm nhiệm vụ. Mỗi một ngày ở 1.20 dài bao nhiêu thì ở đây ngắn lại biết bao nhiêu.

Những bắt tay, những lời thốt ra từ trái tim và những nụ cười trên môi đã bắt đầu đỏ lại. Hôm ấy là trời mưa, chúng tôi không cần áo mưa. Chỉ còn 45 phút là đến nơi. Đi như bay. Cây và cỏ cây, lùi lại hết. Hậu cứ đây rồi, bấy lâu ta vẫn hằng ao ước. Đồng đội ta đã ở đây rồi.

Đúng sáu tháng trời đằng đẳng, nửa năm chứ ít ỏi gì, chúng tôi mới vào nơi mong muốn. Sáu tháng đã trôi qua, sức khỏe của chúng tôi đã có phần giảm đi. Nhưng dù vậy, đôi chân đã vô cùng rắn chắc, con người đã lớn cao lên. Sáu tháng trời chỉ có đi và đi. Đi miết. Sốt vẫn đi. Bao nhiêu km đường rồi nhỉ ? Không biết.

Lại nghe tiếng máy phát điện quen thuộc. Lại chiếc xe bộ luyện thân yêu. Mùi máy gợi lại những ngày ở hậu phương Mỏ Chén, Hà Tây xa xôi.

Thời gian thật là quý báu, gấp rút biết chừng nào, giờ lập công đã tới…

15/09/1972

Trời đang tối dần, cơn mưa từ giữa chiều vẫn còn ào ạt. Hơi nước từ bốn bên lán (chỉ có bốn cột gỗ, không tường che) bay trắng vào nhà. Tôi tưởng như mái lán bị dẹp xuống bởi nước mưa. Hoàn toàn lán tôi bị đe dọa. Bể nước ghép bằng cây rừng lót ni lông đã đầy tràn. Thằng T. khoái chí tấm tắc, chà tha hồ đánh răng, rửa mặt, pha trà nhé. Tôi và Tiến chỉ tủm tỉm cười. Chúng tôi nằm đung đưa chiếc võng hát nghêu ngao và nhìn ra ngoài trời. Cây lá đẫm nước mưa rung rinh. Gió đưa từ ngoài vào mát lạnh.

Đang ở độ cuối mùa mưa. Mấy ngày rày, chúng tôi đang huấn luyện gấp rút. Đơn vị phổ biến ngoài 20 tháng 9, chúng tôi sẽ bắn đạn thật. Không biết kết quả thế nào. Đôi tay của tôi bẵng đi sáu, bảy tháng không cầm cần điều khiển nhưng bây giờ không đến nỗi run lắm. Tôi cố gắng không bao giờ trượt để phát đạn đầu. Giữa hai lần lên xe bộ luyện, chúng tôi chả phải làm gì mấy. Thỉnh thoảng tập thao tác lắp ráp tên lửa và lấy củi. Hậu cứ chúng tôi ở đây khá an toàn. Không còn nghe những loạt B52 làm rung cả mái nhà như ở 1.20 nữa. Một con suối chảy qua nước khá là trong.

24/09/1972

Sau 4 ngày nắng chảy cả mái nhà lợp ni lông, tối nay trời mưa dữ dội. Sáng dậy chúng tôi không tập thể dục tập thể. Mấy thằng thoải mái lấy nước ở mấy bọng nước đọng đầy trên mái nhà đánh răng, rửa mặt, hát ngêu ngao.

Chỗ ở chúng tôi vẫn chưa được tu bổ. Giá ba-lô chưa làm xong. Ở đây xa suối nên bọn tôi nhất quyết phải làm một bể đựng nước mưa và có thể, đóng một bộ bàn ghế nữa. Tôi vừa mới được đơn vị cử phụ trách A trưởng, A5, từ chiều qua. Tiểu đội tôi có năm người. Chỉ có tay Hàn ở bộ phận mới về làm A phó là lính lạ, còn lại toàn lính cũ của đơn vị tôi. Chả là đơn vị tôi vừa được bổ sung trên 20 người ở chiến trường lên vào đây để tập sử dụng tên lửa B72. Nghe nói có thể bổ sung thêm 35 lính thu dung nữa. Toàn A chúng tôi ở một nhà, kể ra cũng vừa khít khao chỗ mắc võng và vừa đủ chỗ sinh hoạt.

09/10/1972

Tôi làm bài thơ Bài ca về anh tiếp phẩm tặng Bảy, lính anh nuôi của đơn vị

Ngày 10/10/1972 nhận lệnh đi chiến đấu lần đầu tiên.

Ngày 09/101972, biết tôi sẽ lên đường, Tiến làm bài thơ và lưu bút vào cuốn sổ của tôi.

Khánh ơi,

Thế là mai mày xuống chiến trường

Còn tao thì ở lại “hậu phương”

Cứ tưởng cùng nhau chung sống mãi

Đâu ngờ giờ mỗi đứa một đường

Khi gần có lúc khô khan thật

Giờ xa sao lưu luyến vấn vương

Thôi nhé, mày đi cho may mắn

Hẹn gặp lại nhau nhé, Khánh thương

Hai năm chung lớp chung trường

Một năm vào lính vẫn thường bên nhau

Giờ đây mày trước, tao sau

Chiến chinh, e khó gặp nhau nữa rồi

Chia li, lưu luyến, bồi hồi

Biết bao kỷ niệm trào sôi dạt dào

Xa mày, ai đọc thơ tao

Thiếu mày, tao sống làm sao bây giờ

Từ nay, cứ mỗi vần thơ

Có bao giờ gặp để nhờ nhau xem

Nhắc nhiều càng nhớ nhiều thêm

Bao nhiêu kỷ niệm êm đềm, thân thương.

Khánh thân yêu !

Ba năm rồi, những ngày đầu chúng mình gặp nhau ở một căn nhà nhỏ trong mái trường Đại học Bách Khoa. Từ đó, qua những ngày chung thầy chung lớp, chung đơn vị, cùng hành quân ra chiến trường. Thời gian đã ghi vào trang đời hai đứa mình những dòng kỷ niệm. Giữa hai đứa, cũng có những khi không hợp nhau lắm, có phải không mày ? Đôi lúc tao với mày cũng cãi cọ, hờn dỗi với nhau. Nhưng bên trong cái tình cảm bình thường khô khan ấy, chưa nói đến kỷ niệm của thời gian, ngoại cảnh chắc mày cũng thấy được những cái “hợp” nhau giữa tao với mày. Có phải chăng hai đứa cùng một tâm hồn mơ mộng, cùng là bạn văn chương. Có phải chăng là tình cảm của những tháng ngày chung sống, chung học tập, chung những kỷ niệm của tuổi thanh niên chung rèn luyện…, tình đồng chí ! 

Giờ đây, cái mơ ước chung sống với nhau mãi, cái nguyện vọng mà tao đã có lần gặp trong mơ, bây giờ bị gián đoạn mất rồi. Có lẽ số mệnh đã bắt chúng ta xa cách từ đây. Ôi bệnh tật và hoàn cảnh tai ác đã bắt tao ở lại trong lúc mày và các đồng đội thân thiết khác xuống đường đi chiến đấu. Luyến tiếc, buồn thương… Li biệt là lẽ thường của đời lính, nhất là ở giữa chiến trường thế này. Muộn quá rồi, tao đã không còn cách gì để được đi với chúng mày, với mày đợt này nữa…

Thôi Khánh nhé, hãy giữ lấy những kỷ niệm giữa chúng ta. Có những lúc tao đã có những thiếu sót với mày chắc mày cũng đã hiểu và thông cảm.

Trên đường đời, rồi nếu may mắn có ngày gặp lại, đó là một hạnh phúc. Nhưng, trong những ngày xa nhau, đừng quên nhau mày nhé. Mai kia gặp lại, như mày nói, mỗi thằng sẽ trong một cương vị hay hoàn cảnh sống khác nhau. Song tình cảm giữa chúng ta thì tao vẫn là tao, mày vẫn là mày, Khánh nhé. Đẹp đẽ biết bao nếu qua thử thách, tình cảm vẫn vững bền.

Mày đi mạnh khỏe, may mắn và lập chiến công. Dĩ nhiên tao cũng sẽ gắng để thi đua với mày. Mong ngày gặp lại, gắng làm nhiều thơ, Khánh nhé. Biết đến bao giờ, mày với tao chúng ta lại đọc thơ của nhau, thích thú với những vần thơ hay, và cùng nhau ôn lại chuyện cũ.

Địa chỉ có rồi, nếu trong chiến tranh không gặp lại nhau, ngày trở lại hậu phương gắng đến nhà chơi, mày nhé. Có gặp lại các bạn cũ ôn lại chuyện xưa, sẽ lại nhớ nhau. Tính tao vẫn vậy, cảm xúc nhiều khó mà viết cho có văn có vẻ, mày thông cảm chứ. Miễn sao chúng mình hiểu nhau, nhớ nhau.

Tao của mày đây,

Nguyễn Vũ Tiến

Đồng Hới, Quảng Bình

 11/10/1972

Tôi đung đưa chiếc võng trong trạm gác của sư bộ chờ C trưởng Thanh Bình. Buổi sáng, cơm nước tại Z5 xong, tôi với ông ta lên “chùa” (gọi Sư/F bộ) công tác. Vào trạm gác này, tay cảnh vệ giữ tôi lại, chỉ cho một mình C trưởng của tôi vào Sư bộ. Buổi trưa, tôi ăn cơm tại đội cảnh vệ. Ở đây thật lắm muỗi. Ngồi một chốc mà hai tay, hai chân tôi đã bị muỗi đốt đỏ tấy lên, ngứa ran cả người…

Giờ này không ai có thể tưởng tượng nổi, tôi đang làm gì. Chỉ có một mình tôi trong một trạm gác đơn sơ. Bao nhiêu sự việc dồn dập, bao nhiêu suy nghĩ, trầm tư giờ đây mới trổi dậy trong tôi mãnh liệt. Tôi biết viết những gì trên trang giấy này ?

Thế là tôi đã xa Anh Vũ, xa thực sự, không còn là tưởng tượng. Trên trang đời của tôi, lần này mới có thể viết được rằng : tôi bắt đầu đọ lửa và thử thách, bắt đầu phải xa những người thân, trong đó có Vũ của tôi đây. Cái ước mơ cùng đi với nhau, cùng chung một chiến hào giờ đã tan tành mây khói : Vũ phải xa tôi. Tôi xuống đường trong khi Vũ còn bị giày vò bởi cơn sốt rét quái ác. Những dòng chữ của Vũ đã viết cho tôi, tôi đọc đến thuộc lòng.

Thế là hết bạn “văn chương” trên đường tôi đang đi. Biết bao giờ gặp lại Vũ ? Chia tay với Vũ, tôi vô cùng đau xót bên cạnh một niềm vui : tôi được đi chiến đấu. Cái đau của một tình cảm khi hai đứa đã hiểu nhau. Trong đơn vị này, có ai thân bằng tôi với Vũ. Tôi khó mà quên được những khi hai thằng ngồi bình luận thơ nhau, cùng “mơ mộng” sau một ngày hành quân vất vả. Mặc dầu đường xa vác nặng “lưng túi gió trăng”, của chúng tôi vẫn “đuề huề”, vẫn tìm thấy cái hay, cái đẹp trong mỗi vần thơ.

14/10/1972

Chỗ trú đêm của chúng tôi bây giờ cách E28 gần 30 phút và cách sông Sài Gòn khoảng một tiếng đồng hồ. Sáng mai, bọn tôi lại lên đường đi tiếp, có thể phải bơi qua sông cũng nên. Máy bay OV-10, trinh sát T-28 bay lượn khá nhiều, chưa chắc đã có đò vượt sông.

Thế là bọn tôi đã xa đơn vị năm ngày. Giờ đây đã ở trên đất Miền Nam, cụ thể là đất Bình Long đây. Mũi chiến đấu của bọn tôi gồm 16 người, biên chế thành một trung đội, B trưởng là ông Tất Tưởng và C trưởng Thanh Bình đi cùng để chỉ huy.

Quãng đường hôm nay chúng tôi đi rất trống trải. Nắng chan chan. Một quãng vùng rừng rộng hàng trăm mẫu gần biên giới CamPuChia bị chất độc hóa học làm trơ trụi. Những gốc cây to cháy đen sừng sững giữa mây trời. Chúng tôi bước nhanh trên Lộ “Đỏ”, rồi rẽ vào lộ “Trắng”. Thỉnh thoảng máy bay bay qua kiểm soát. Bọn tôi rợn cả người. 

16/10/1972

Tôi mắc võng duới một cây sim già. Ánh nắng chênh chếch chiếu qua tầng trên của cánh rừng thành những giọt vàng tròn xoe trên chiếc võng vải nylon xanh biếc của tôi. Từ ngày vào đến hậu cứ, điểm tập kết cuối cùng từ Miền Bắc vào, chúng tôi được trang bị mới toàn đồ “giải phóng”, bỏ hết đồ lính Miền Bắc. Ai cũng mang bồng (túi vải có quai) thay ba-lô. Quần áo, mũ tai bèo, võng bằng vải nylon mỏng màu sắc đủ loại (không còn màu xanh lá cây đặc thù như trước). Hay ho là chúng rất nhẹ và dễ gấp, dễ bỏ, mà thường là vò lại nhét gọn vào bồng.

Xung quanh tôi, lính cười nói râm ran, tiếng bông đùa.

– Thằng Quế ăn đã no chưa. Mắt mày thế không khéo “cá rô”, “cá lẹp” nó “nhặt’ lên thì “ăn cám”. Thằng Hòa cằm nhọn, mặt “bẹp”, to mồm nhất (miệng cá ngao) và hài hước nhất đại đội (bọn tôi thường gọi hắn là cái “kẻng” của D371) cười khấc khấc trên chiếc võng… Một số lính cười hùa theo. Quế cười hiền lành không nói gì.

Rời chỗ ngủ đêm qua, nơi có con suối trong vắt chảy từ ấp Minh Hòa ra. Bọn tôi đi ba tiếng đến kho gạo tiền phương này nghỉ trưa và thổi cơm ăn. Nghe nói còn đi bảy tiếng nữa mới tới cứ (căn cứ tiền phương). Bọn tôi phải đi trọn một ngày mai nữa kia. Đợt đi này, bọn tôi thay cho một mũi của C1 chốt chặn ở Đường 13. Mũi (đơn vị đi tập kích) của tôi có Kỳ và Thiện đi theo (vốn là lính của mũi C1 trước). Thiện, mà tôi gọi là “anh vợ”, dân “cá gỗ”, khá là béo tốt, trắng trẻo và vui tính.

Tôi nhìn lên gốc sim già. Cây khá là cao to. Những quả sim còn sót lại đã chết khô, thỉnh thoảng rơi lộp độp trên chiếc võng. Bảy tháng rồi đây (kể ra còn hơn), lần này tôi mới thấy lại cây sim quen thuộc giữa một cánh rừng phương Nam. Chợt tôi nhớ đến mấy câu thơ của Quang Huy (tôi đã từng gặp mặt khi ba tôi mời ông ta về nhà tôi chơi mà tôi quên mất tự lúc nào). Tôi khe khẽ ngâm :

Nhớ hồi lên chín, lên mười

Chiều chiều hai đứa lên đồi hái sim

Tiếng B52 rầm rì xa xa. Một vạch trắng thẳng ro lấp ló sau màn rừng.

21/10/1972

Tôi lại bị sốt, thế có khổ cho tôi không. Suối từ sáng đến giờ, tôi nằm mê man trên võng. Mũi chúng tôi có năm người, do B trưởng Tất Tưởng chỉ huy. Năm mà đã sốt mất ba người. Chiều hoặc tối nay, bọn tôi đã phải chiếm lĩnh trận địa và ngày mau đã phải “húc” rồi. Nhẽ ra bọn tôi đi phối thuộc với E97 ở Lái Thiêu, nhưng đến E98 này bọn tôi dừng lại, và phối thuộc với E98. Thế là hết hi vọng về Lái Thiêu, nơi nghe nói có nhiều đồng lạc (trong này gọi đậu phộng !) và cách Sài Gòn khoảng 12km ! Có thể Lái Thiêu dễ cho chúng tôi “làm ăn” hơn. Ở đây, E98 này chỉ cách đường 14 đâu gần một tiếng. Suốt cả đêm qua máy bay AD-6 hoạt động dữ dội làm chúng tôi không ngủ được. Pháo từ các mạn dưới bắn lên hú rít trên đầu chúng tôi.

28/10/1972

– Khánh đã khỏe chưa ? Anh Tưởng hỏi tôi như vậy khi cùng thằng Trường (trắc thủ đạn) nhận lệnh ở Trung đoàn về. Nhìn thấy Quế và Thiện hãy còn trùm chăn kín mít rên hừ hừ trên võng, Anh cau mày nói :

– Thế này thì gay thật, lệnh chiến đấu đến nơi rồi mà bọn mày hãy còn thế này thì đánh đấm ra làm sao ? Dậy cả đi để tôi sinh hoạt tí. Chuẩn bị đồ đạc để nhận nhiệm vụ. Khẩn trương.

Sau khi bộ đội đã ngồi gọn. Anh nói :

– Hôm nay, tôi sinh hoạt các đồng chí. Nôi dung chắc các đồng chí đã phần nào nắm được. Nhiệm vụ đến với chúng ta rất khẩn trương. Đối với tôi, khi nhận nhiệm vụ của cấp trên giao, tôi rất phấn khởi, hăng hái. Về đây, nhìn tình hình sức khỏe của các đồng chí, tôi rất là lo lắng. Anh còn nói nhiều về tinh thần nhiệm vụ, sự mong mỏi chiến đấu như thế nào, phục vụ cách mạng ra sao, tình hình trong giai đoạn mới thế nào… (thời gian mới nhập ngũ, tôi thấy khó chịu và buồn cười mỗi khi nghe ai nói những từ ngữ kiểu “bộ đội” này, nhưng rồi đến lúc này đã quen tai và biết chắc người ta định nói gì !). Cuối cùng anh nói :

– Cụ thể, ngày mai, tôi với một đồng chí trắc thủ sẽ đi chọn trận địa (hay gọi là “điều nghiên”). Sau đó về báo cáo lên trên. Được lệnh, chiều mai bốn đồng chí trong số chúng ta (kể cả tôi) sẽ đi chiếm lĩnh trận địa. Nếu Thiện mệt quá, Quế sẽ đi với tôi. Thiện ở nhà trông coi đồ đạc. Sinh hoạt xong tôi với đồng chí Quế sẽ lên trung đoàn ngủ, ngày mai đi sớm.

Và sau đó, là những trận chiến đấu đầu tiên của chúng tôi. Tôi chưa kịp viết lại những cuộc đọ lửa thú vị này.

03/11/1972 – Thứ Năm

NGOÀI TRẬN ĐỊA

– Hầm chật thế này mà vẫn đàng hoàng nhỉ ? Chúng mình có cách mắc võng “thông” thật ! Anh Tất Tưởng, B trưởng B3 của chúng tôi, vui vẻ tán gẫu (mỗi khi anh thấy gì lạ cũng bảo “thông”, chắc là “thông minh”) !

Chúng tôi ăn cơm nắm với cá khô buổi sáng xong ngồi nằm tùm lum trong các hầm nhỏ vững chãi chờ lệnh chiến đấu. Hầm này bọn tôi đào tối hôm qua. Chiếc hầm cũ bọn tôi đào trong đợt chiến đấu trước đã sập mất. Khi tôi và Quế đến chiếm lĩnh trước, nhìn thấy căn hầm đã sập tèm lem, bọn tôi vô cùng ngao ngán ! Chỉ mang được hai xẻng và một cưa dự phòng. Cũng may ! Hai đứa tôi sì sụp giữa trời mưa moi bùn, móc gỗ. Mưa từ chiều đến giờ vẫn chưa tạnh. Quần áo chúng tôi đã ướt đến trên một lượt rồi. Đêm cuối tháng trời tối mịt, ngửa không thấy lòng bàn tay. Thỉnh thoảng, pháo sáng trong chốt của địch bắn ra, trên máy bay ném xuống. Cả một vùng trận địa sáng bừng lên. Khi đó chúng tôi tranh thủ đào bới. Cơm ăn từ hai giờ chiều, bây giờ thấy bụng đói meo. Một lát sau, anh Tưởng và Trường đi móc đạn tên lửa B72 đã ra. Không thấy đạn, tôi hỏi :

– Đã có đạn chưa anh ?

– Ô, hầm sập rồi à, bọn mày làm gì vậy ? Hai người nhìn chúng tôi ngạc nhiên.

– Báo cáo Anh. Quế nói. Bọn em đến thì hầm đã sập mất. Bây giờ bọn em định đào lại như thế này, anh xem được không ? Lúc nãy, anh Đức (trưởng ban pháo của E) và anh Thúy (trợ lý E bộ) có đi qua đây. Các anh ấy bảo sáng mai, mình bắn cả hai quả một lúc vào lô cốt cũng được. Sau đó về A4 hay về 120 báo cáo !

– Thế à, ông Đức có nói gì nữa không ? Hè, căng quá nhỉ, thôi được, đào lại thôi. Bây giờ hai đứa mày lại lộn vào trong đó móc đạn. Bọn tao định chờ ở 120 nhưng ra đây xem tình hình thế nào đã. Xắn quần áo lên, quần thả cũng được, tích cực đào đi, bắt đầu Trường. Chúng mày đi đi.

Tôi và Quế đưa hai quả đạn B72 ra cùng với mấy tay súng của Trung đoàn. Hậu cần bảo quản đạn không tốt. Quế cứ lảm nhảm chửi, trách móc um lên. Hồi huấn luyện ở Mỏ Chén, tôi thấy mỗi quả đạn được bảo quản trong một thùng gỗ thông vỏ ngoài sơn màu xanh quân sự dài đến hơn một mét, được gá cố định trong những thanh gỗ gắn cao su bọc vải nỉ rất chắc chắn và có rất nhiều túi chống ẩm silicagel. Thế mà khi đến kho đạn của Trung đoàn, tôi và Quế chỉ thấy một chồng đạn khoảng hơn chục quả B72 đã được bọc nylon kín mít đặt trên sàn gỗ của kho đạn, lẫn với các loại đạn dược khác. Tay coi kho bảo lấy các ông lấy đi hai quả. Chúng tôi hỏi thùng gỗ đựng đạn đâu. Hắn cười nham nhở : Thùng thót gì. Chuyển được đạn vô đến đây là may mắn lắm rồi. Chúng tôi vác lên vai mỗi thằng một quả, nhận ra sự quen thuộc của quả đạn trên vai. Quế cũng là trắc thủ như tôi. Hắn học ở trường ĐH Kinh tế, cạnh trường ĐHBK, cùng nhập ngũ một đợt với tôi nhưng đơn vị huấn luyện bộ binh và ngày về D371 khác tôi. Có bốn tay súng của Trung đoàn đi theo bảo vệ chúng tôi.

Bốn chúng tôi hì hục đào hầm suốt đêm. Thỉnh thoảng, đạn 12 ly 7 từ bốt bắn ra đỏ lòe. Tiếng cối, tiếng pháo nổ đì đụp. Chiếc hai thân to lượn rát trên đầu thả pháo sáng, bắn đạn lung tung.

Trận địa chúng tôi cách chốt độ 1200m, ngay bìa lô cao su. Trước mắt chúng tôi là đồng lạc mênh mông. Lác đác là các gò đất cát nhỏ xen lẫn các buị cây rừng lúp xúp. Con lộ 13 vắt qua chỉ thấy xe ô tô, xe máy của dân chạy thấp thoáng, mờ mờ. Nơi này thuộc Bông Trang – Nhà Đỏ. Các vườn lạc đã úa vàng. Củ lạc đã bắt đầu chín mà chưa thấy dân thu hoạch. Bọn tôi nhổ ít bụi ngay miệng hầm đập đập cho sạch đất cát rồi bóc vỏ bỏ miệng nhấm nháp chơi. Ngoài xa có sắn (củ mì), khoai sọ, đậu, dưa chuột… Các đơn vị vây quanh chốt thỉnh thoảng “cải thiện” nhổ trộm về luộc ăn đêm, mang tiếng (lấy lý do) là “bom pháo nó phá” (!).

Dân vẫn ở trong chốt. Thỉnh thoảng họ ra đồng, đến gần chỗ chúng tôi. Tôi thấy họ mặc áo lụa mỏng màu trắng, đầu đội nón. Vác cuốc đi qua hầm, họ thấy hai quả tên lửa nhỏ màu xanh ngóc lên phủ tạm lá cây. Họ chào và nhắc chúng tôi : Các chú khéo bắn vào dân đấy. Dân đây sợ lắm ! Có một chú lớn tuổi còn nói : Các chú có nhổ khoai sọ ăn thì đừng lấy chỗ kia. Ổng giơ tay chỉ. Để làm giống đó. Chúng tôi vâng.

Tối qua, bọn tôi ngủ ở trận địa cối 120. Sáng nay bọn tôi mới ra chiếm lĩnh. Hai quả đạn theo kế hoạch chiều mới bắn. Tôi bắn một quả, thằng Quế bắn một quả. Chắc sau đó rút quân luôn (tập kích mà).

Lúc ăn cơm, quen như lệ thường chúng tôi đánh mấy trận trước, pháo từ mạn Bàu Bàng bắn lên, nổ cách hầm chúng tôi chỉ khoảng từ ba đến bốn mét. Chúng chỉ bắn vu vơ thôi. Mọi hôm, khi bắn xong hai quả B72, bọn ấy phản pháo lại ác lắm. Ngớt đạn pháo, chúng tôi mới rút quân. Cứ là chạy bở hơi tai. Tai hại nhất là máy bay trinh sát “đầm già”, cứ suốt ngày ù ù trên đầu, chỉ điểm lung tung. Những bụm khói điểm trắng nhợt nhạt bay vật vờ.

– Bọn mày xem lại ngụy trang đã kín chưa, đưa hai quả đạn xuống hầm đi. Anh Tưởng nhắc.

Cái chốt này thật là gan lì. Chúng tôi bủa vây có đến hơn nửa tháng mà vẫn chưa giải quyết xong. Trong bốt nghe nói chỉ toàn lính dân vệ. Tuy nhiên hỏa lực của họ khá mạnh, công sự kiên cố. Họ cứ nằm lì. Đạn DK, cối 120, cối 82 của các mũi xung quanh ngày nào cũng rót vào mà chẳng ăn thua. Lần trước, tôi đã điều khiển một quả trúng cái lô cốt mẹ, phá gần hết. Thế mà bây giờ lại nó lại được đắp cao lên, gỗ cát chất đầy bên ngoài. Sáng hôm qua, Quế bắn quả đầu nhắm vào lô cốt nhưng điều khiển thế nào lại trượt ra phía sau, rồi nổ đâu đó. Nhìn lô cốt cứ ngạo nghễ, tôi tức lắm. Mày phải chết với ông. Tôi đã điều khiển tên lửa chạm vào đúng mép trên của lô cốt mà vẫn chẳng ăn thua. Hôm nay lại tiếp tục rót hai quả vào đó. Tên lửa chúng tôi bắn vào lô cốt cát thế này thì chẳng ăn thua. Chúng tôi đã phát chán. Mấy anh ở 17 bảo bọn này chỉ sợ xe tăng của mình thôi. Bây giờ chúng đó chờ ngày đình chiến. Cũng chẳng ra hàng. Cứ ngoan cố cố thủ ở trong.

Suốt mấy ngày nay, bọn tôi luôn ở bên máy thu thanh nghe tình hình thời sự. Tình hình kể ra cũng căng thật.

08/11/1972

Tôi đang ngồi trong những lùm cây thưa thớt giữa cánh đồng Phú Chánh thuộc đất Bình Dương (Thủ Dầu Một). Cái nắng miền Nam làm tôi như phát điên lên. Ở ngoài trời khéo nhiệt độ lên đến 400C. Có thể chiều nay hành quân tiếp vào sâu trong kia chừng ba, bốn tiếng. Chúng tôi vượt sang đường 14 từ hôm 06/11 và không còn phối thuộc với E98 nữa. E97 đây ! (Trung đoàn 38 cũ). Vào đây chỉ có những cánh đồng hoang bát ngát và thỉnh thoảng là nương rẫy của dân. Hoa trái đang đến mùa thu hoạch. Thế nhưng ba, bốn ngày nay (các anh E16 ở đây nói), dân không còn ra đồng nữa. Bọn địch trong ấp cấm dân riết. Vả lại, đang khi đánh nhau bom pháo thế này. Vào sâu ở đây, ít B52 nhưng máy bay trinh sát bay lượn suốt ngày. Thỉnh thoảng đạn trong ấp bắn ra chát chúa.

Các hầm đào cách nhau khá xa. Ở đây thật hiếm gỗ làm nắp hầm. Vào sâu nữa, làm công sự chiến đấu tha hồ vất vả đây. Tôi vẫn còn bị sốt lai rai. Thật tai hại. Hôm qua ở trạm trực E, tôi bị sốt nhừ tử suốt một buổi sáng. Buổi chiều, anh em san sẻ dụng cụ giúp tôi và 4 giờ chiều xuất phát.

Không ăn được mấy tí. Rời E98, chúng tôi không kịp dự trữ ít thực phẩm. Chỉ có một ít mỡ, muối, mì chính và thêm nước lã (hay gạo rang vào) là xong bữa cơm. Đến chết cái là chúng tôi lại mang  tiền Rịa. Vào đây chịu, không tiêu được. Tiền miền Nam tiêu xài như rác. Một kí đường có giá đến 200Đ.

– Các cậu còn mang tính chất Bắc Việt nhiều. Chúng tớ vào đây tùm lum hết. Anh B trưởng ở E16 nói.

Bọn tôi cười.

Buổi sáng ở đây họ rang gạo sấy (lấy được của lính VNCH) trộn đường, pha trà hút thuốc khá là rôm rả.

Hàng hóa phải vào ấp mua cách khoảng ba tiếng. Địch cấm ngặt, không cho dân mua nhiều. Thành ra bộ đội vào ấp ki kóp góp từng nhà lại để mua. Chủ yếu tụi tôi gửi họ mua cá khô, bột ngọt, trà, thuốc lá. Dân cũng tốt. Họ không chỉ điểm chúng tôi.

Vào đây, bọn tôi sẽ đánh xe pháo (như tay trưởng Ban pháo E97 nói). Ở E98, đánh vào chốt, chả ăn thua gì. Lô cốt cát, ban ngày chúng tôi đánh bung ra rồi, buổi tối, lính bảo an lại đắp cao lại. Ba bốn bận thế.

Bắn tên lửa B72 không lo bị lộ lắm, nhưng phía bên kia, họ phản pháo lại ác liệt thật.

Vừa nhấn nút trên bảng điều khiển, nghe xẹt… một tiếng, tôi vừa kịp nhìn thấy tên lửa rời bệ phóng, chưa kịp để mắt vào kính tiềm vọng, chưa kịp chộp tay lên ốp cao su của cần điều khiển, thì đã tầng ! tầng ! tầng, tầng ! tầng ! tầng, đạn trong ấp bắn ra dữ dội. Một chập, pháo 105 ly từ Lai Khê phản đến hàng chục quả. Hôm gần nhất, hai quả pháo nổ cách hầm tôi khoảng 2m, thường thường là cách trên 10m.

Thực ra, như chúng tôi nói, may ra thì đạn pháo trúng hầm, còn thì, nhí nhăng hết…

– Buổi chiều “Bạch Tuộc” hành quân à ? Anh D ở E16 hỏi tôi.

– Vâng, buổi chiều chúng tôi chiếm lĩnh. Lúc 2H, anh Tưởng phụ trách bọn tôi đã đi chọn trận địa rồi. Có thể trận địa cách đây gần hai tiếng.

Cái tên Bạch Tuộc đã gắn bó với chúng tôi không biết từ bao giờ. Khi vào đến đây, lần đầu tiên nghe tên này, tôi rất ngạc nhiên. Nhưng rồi suy nghĩ về quả đạn tên lửa B72, tôi thấy có lý. Có thể trong chiến trận, khi trắc thủ như tôi nhấn nút phóng quả đạn, sẽ có một sợi dây điện màu trắng đục liên tục tuôn ra từ đuôi quả đạn, rải loằng ngoằng, vươn từ bệ phóng đến mục tiêu như con bạch tuộc chăng ?

Hãy nói một chút về tên lửa B72. Đầu tiên là hộp đựng quả đạn để pháo thủ (lính thao tác) mang vác hành quân. Hộp đựng đạn làm bằng nhựa cứng ê-pô-xi, giống như một cái va ly, có quai cho pháo thủ đeo khi hành quân. Pháo thủ bẻ đôi tên lửa làm hai bỏ gọn vào hộp đạn. Một nửa là đầu đạn, một nửa là thân và đuôi đạn. Phía sau thân quả đạn có 4 cánh hình chữ nhật được gập gọn lại (khi chiến đấu thì bẻ xoè ra) và một liều (nến) vạch đường gắn dọc theo thân. Bên trong thân quả đạn, có hơn ba ngàn mét dây điện, rất nhỏ mảnh nhưng rất dai, gồm ba lõi dây đồng quấn hết xung quanh ống thuốc phóng. Cuộn dây điện được mặc nhiên tởi dần ra khi đạn vừa quay tròn vừa bay đến mục tiêu. Độ dài cuộn dây điện cũng là cự ly bắn tối đa của tên lửa B72 (500-3000m). Thân đạn được gá sẵn vào một bệ phóng nhỏ. Gọi là “bệ phóng” cho oai, chứ thực ra là một khung sắt nhỏ hình chữ nhật như cái thang có gờ làm bệ để quả đạn trượt theo rãnh trên hai gờ dọc đó. Khi thao tác chiến đấu, bọn pháo thủ tháo nắp hộp rời ra, úp sâu xuống đất làm nền bệ phóng. Đầu cuối khung (bệ) có một ổ cắm điện để cắm vào đuôi đạn B72, rồi nối dây điện đến bảng điều khiển của tôi. Khi hành quân, cuộn dây điện dài khoảng 5m này được cuốn lại bỏ trong hộp đựng đạn. Pháo thủ “gá” (cơ chế bản lề, quay tròn được) đầu khung này vào nắp hộp đựng đạn. Đầu khung bên kia có sẵn một cái càng thép hai chân, pháo thủ bóp lại rồi gá (móc) vào phần rãnh trên nắp hộp (bệ phóng trông như ống điếu hút thuốc lào). Có thể điều chỉnh góc bắn (nâng đầu đạn ngóc lên ngóc xuống) bằng cách vừa bóp vừa xê dịch chân càng thép trên phần rãnh…

Còn trắc thủ như tôi thì tháo bảng bảng điều khiển và cục acquy 12V từ túi đeo ra rồi lắp khớp vào nhau. Sau đó lấy kính tiềm vọng hình chữ Z gá vào một ống thép nhỏ lắp sẵn trên bảng điều khiển rồi dựng đứng lên. Sau khi tên lửa lắp đặt xong, tôi là người kiểm tra tất cả, điều chỉnh lại góc bắn, cắm nối dây điện từ đuôi tên lửa đến bảng điều khiển và sẵn sàng nhấn nút phóng.


Tôi thầm nghĩ, suốt cuộc đời về sau này của mình, sẽ không bao giờ quên những kiến thức có được này về tên lửa chống tăng B72 – “pháo lủi”, Bạch Tuộc, về những kỷ niệm ở Phương Nam xa xôi…

Mũi chiến đấu C1 trước đây từ Bình Long lên đất K (Miên) đã được mang tên Bạch Tuộc rồi. Bây giờ thì cái tên Bạch Tuộc đã trở nên quen thuộc với chúng tôi.

– Bộ phận nào đấy ?

– Bạch Tuộc đây !

– Bạch “Trượt” ! Tiếng bông đùa trong hàng quân vội vã đi ngược chiều chúng tôi…

30/11/1972

VÙNG VEN

Một ngày nắng đã trôi qua. Chiều lại đến. Gió từ mạn Tây Bắc thổi về mát rượi. Đầy trời, mây đã bắt đầu đen sẫm lại rồi chuyển sang màu xanh. Có những chiều, trời chỉ mưa lác đác, nhưng nói chung, như trời tháng Năm ngoài Bắc, những cơn giông rào rạt cuộn về. Chúng tôi ngồi ở miệng hầm nhìn ra tán gẫu.

Đây là vùng ven (Sài Gòn). Bốn phía chúng tôi : Bình Mĩ, Bình Cơ theo Lộ 15 xuôi về An Lợi, Phú Chánh, hay từ Chính Lưu sang mạn Biên Hòa. Địch đóng chốt lung tung, đánh nhau cắc bụp suốt ngày. Chúng tôi đang nằm trong lòng địch. Suốt một vùng đất trung du này, E97 này chọn hậu cứ và hoạt động.

Mũi chúng tôi phối thuộc với E97 này đã gần một tháng. Thực ra, gần một tháng trời chúng tôi chỉ nằm lì ở K16 (đại đội cối 82 của Trung đoàn). Những hôm mới đến, chúng tôi được chuyển ngay ra Chính Lưu đánh tăng trên Lộ 2. Chưa bắn được quả nào. Vì chúng tôi sốt mệt nên E lại kéo về nghỉ ngơi ở 16. Từ hôm 11 đến giờ chưa lúc nào cả năm người chúng tôi đều khỏe mạnh. Hết người này sốt đến người khác sốt. Không khí nhiều lúc buồn thiu. Bộ phận A72 đi cùng chúng tôi từ Z7 đã về hôm nay. Họ bắn 3 quả tên lửa đất đối không nhưng chẳng rụng được chiếc máy bay nào. Họ cũng bị sốt rét liên miên.

Chỗ chúng tôi ở này là một vùng thung lũng chạy dài từ Lộ 15 vào Chính Lưu, nằm giữa hai quả đồi thấp. Chắc chỉ khoảng hơn chục mét là cùng. Hầm chúng tôi nằm ẩn trong những lùm cây nhỏ. Suốt ngày chẳng dám đi đâu. Chiều tối mới là lúc chúng tôi chui lên sinh hoạt (như thú ăn đêm), hay nói chung cả vùng này đều vậy. Giếng nước rộn rịp người cáng nước và tắm giặt. Bộ đội vào ra thường xuyên đi qua chỗ chúng tôi. Cơm xong, nhiều hôm “cải thiện” được, chúng tôi ngồi tùm lum chén lạc luộc hay sắn, khoai sọ, khoai từ. Những ruộng lạc, ruộng khoai của dân chỉ cách chúng tôi không đầy 100m. Những cánh đồng lạc mênh mông. Thỉnh thoảng dân mới ra làm. Nhiều hôm vừa ra, họ đã bị pháo của chúng nó bắn từ ấp ra cấp tập đuổi về. Họ chạy te tác.

Những hôm chúng tôi mới đến vùng ven này, tình hình chiến sự có vẻ khá an toàn, rất ít B52. Chúng tôi khấp khởi mừng. Thế nhưng gần hai tuần này, bom pháo dội đến dồn dập suốt ngày, không lúc nào ngớt hết. Những hố pháo sâu hoắm choán hết cả đường đi, nằm lùi lũi bên ruộng cỏ, nhiều quả cách hầm không đầy 10m. Miểng pháo đã phạt cỏ cây sần sùi, đặc đen khói thuốc, bốc mùi khét lẹt. Tôi ngóc lên nhìn thấy choáng cả đầu, cảm giác lờ lợ muốn nôn, lại gây gây sốt, miệng đáng chát…

– Thôi, đi lũ quỹ ơi ! Để cho chúng ông yên. Có bắn trúng đâu mà bắn lai nhai mãi. Những đêm nằm dưới hầm nghe pháo bắn choảng tai, hầm run lên bần bật, vách hầm sáng lập loè. Thằng Trường thốt lên như vậy. Mà ai cũng lẩm bẩm, rủa thầm. 

Nhưng tôi nhìn những con người ở vùng ven đây, những “chiến sĩ giải phóng” vẫn lầm lũi mà sống sót. Đã bao lâu rồi nhỉ ? Chín tháng trời trong chiến dịch ! Họ vẫn kiên trì chốt chặn, bám trụ sống còn với địch, lớn lên trong đạn pháo.

Bao nhiêu công sự đã đào. Bao nhiêu ngày ăn cơm vắt. Họ vẫn tiếp tục sống, căng mình bền bỉ, trực chiến bên hầm chờ lệnh tiến công. Đôi vai của họ đã nổi u lên vì hành quân mang vác. Đôi tay họ chai sạn, cầm chắc gọn khẩu súng AK đạn đã lên nòng. Đôi chân đi dép cao su, chẳng mũ nón, bương bải trong rừng xấu hổ đầy gai, lội suối, đi men bờ ruộng chênh vênh… Hình ảnh họ nổi lên lồng lộng trong đêm.

31/12/1972

VIỆN

Một tháng trời đã trôi qua, cuốn sổ và cây bút đỏ của tôi nằm chết gí trong bồng. Sáng nay, người hãy còn mệt lắm. Giật mình nghĩ lại, tôi đành phải miễn cưỡng lôi ra viết viết. Hừ, tưởng là quên hết cả chữ nghĩa rồi. Cũng may chỉ có cái đầu là hơi lẩm cẩm một tí thôi. Nhưng thế là đủ đau khổ lắm rồi.

Đây là trạm lót (trung chuyển) ĐT13. Cái con số 13 bao giờ cũng là con số đen đủi và xúi quẩy. Tôi đã nằm đây 12 ngày rồi. Chờ xe ! Suốt ngày, tám người trong lán này, có cả thương binh (có người cụt cả tay, cụt cả chân, mất một mảng đầu…) và bệnh binh như tôi, chỉ ăn rồi lại ngủ. Giữa hai giấc ngủ là chuyện ăn và chuyện … gái. Sau đó là :

– Mẹ kiếp, đến bây giờ mà vẫn chưa có xe đưa đi Viện. Làm ăn như cái đầu b… Đi Viện năm 72 mà năm 73 chưa có xe đến đón. Vào đến Viện không khéo vết thương đã khỏi rồi cũng nên.

Hay là những câu chửi, than phiền đại loại như thế. 

Mà thật tôi đã ngán lắm rồi, ngán cả việc chờ xe lên Viện K11. Những đêm nằm co ro trên võng, nghe gió rít thê lương, sương lộp độp ngoài rừng, tôi lại nghĩ về quê hương với biết bao nỗi nhớ nhà và lại chán chê với cuộc sống hiện thời.

Đời thanh niên của tôi mới nhìn qua cửa sổ mà thôi và bây giờ là muôn vàn cay đắng và thử thách. Tôi ước mơ những cái ước mơ cỏn con như Chí Phèo ước mơ làm người lương thiện vậy. Tôi sống một cách đờ đẫn và đau khổ trong bệnh hoạn. Ngoài kia, cuộc sống đang đầy ánh nắng chan hòa. Tôi thèm lắm. Tưởng như chưa bao giờ được sống như thế. Thế mà cách đây một tháng, tôi có bao giờ suy nghĩ thế đâu. Quanh tôi, những tiếng rên rỉ, khóc lóc của đồng đội bị trọng thương không dứt. Mùi hôi thối của vết thương xông lên nồng nặc. Gió đưa lá khô bay lầm lỳ vào lán làm không khí vô cùng lạnh lẽo. Lại còn tiếng máy bay gầm rú gần xa, cái tiếng độc ác như đưa con người ta vào cõi chết. Ngày cứ trôi, cứ trôi…

Nửa tháng xa đồng đội, không biết bây giờ mũi Bạch Tuộc của tôi ở đâu. Biết bao giờ lại được sống lại với bảng điều khiển, với viên đạn thân yêu. Tất cả đã lùi xa, lùi xa. Trước mắt tôi lại cuộc sống ở ĐT13, đau đớn, nặng nề với nỗi ngóng chờ xe đến đón đi Viện, với bao nỗi trầm tư.

Chán chường, tôi gấp cuốn sổ.

06/01/1973

Đây là ĐT15. Chúng tôi đặt chân đến đây lúc 12H. Đó là một trạm lót nữa để đưa thương bệnh binh vào hai Viện K11 và K13. Không biết tôi sẽ được đưa vào K nào vào sáng mai hay ngày nào không biết đây ?

Thế là đã rời ĐT13, cái trạm lót có chữ số “xúi quẩy” (mà thực ra chả “xúi quẩy” một tí nào) nằm bên bờ suối giạt chảy ra sông Bé, đêm ngày gầm gừ sủi bọt trắng xoá. Xa chị Nuôi, một đề tài rất sôi nổi của bọn thương bệnh binh chúng tôi trong những ngày nằm chực chờ ở đó, biết bao xa rồi. Nơi đây, cái đất Phước Long này, chỉ là những cánh rừng trơ trọi vì chất độc hóa học của Mỹ và ngay phía sau đó là những cánh rừng âm u như Trường Sơn còn sót lại chứa chất, hay nói đúng hơn, tiềm tàng một cách mãnh liệt, bệnh sốt rét với những chú muỗi, đủ loại hoa vằn, chổng đít (Muỗi A-nô-phen)… Muỗi châm chích chân tay, đầu cổ làm chúng tôi giãy nãy lên suốt đêm, suốt ngày. Nơi đây đã xa Sài Gòn ít nhất trên 100km rồi và đã xa đất Rịa (Campuchia), xa hậu cứ thân yêu của tôi ở Kà-Chay nửa tháng đường đi, chứ ít ỏi gì.

Tôi vẫn còn trên đường đi Viện !

Kì thật, Viện với “vung” gì mà đi hàng tháng. Đến hôm nay, tôi đã xa mũi Bạch Tuộc của tôi ở Chính Lưu 22 ngày rồi mà chưa đến được Viện. Những ngày trước đây ở ĐT13, những cơn sốt rét ác tính thỉnh thoảng kéo đến làm tôi co ro rét run. Nằm võng, tôi lôi hết chăn màn quần áo phủ lên người, quấn tròn cả võng, mà răng vẫn đánh lập cập. Miệng rên rỉ, khát khô. Hết mỗi đợt sốt (thường là một đến hai ngày), tôi nằm khuỳnh chân bất động. Đầu đau như búa bổ. Miệng đắng mà mỗi lần nuốt nước bọt lại đau rát cả vòm miệng. Khát khô cổ họng mà chỉ uống được từng ngụm nước nhỏ. Không thể ăn được, dù cháo loãng. Đến bữa cơm thì thôi rồi. Cả một cực hình nhai nuốt. Thế mà người tôi tự nhiên béo đẫy ra, mắt húp híp. Đi lại rất nặng nề, khó nhọc. Hầu như tôi chỉ nằm lỳ trên võng. Hộ lý ở ĐT13 bảo tôi bị phù thũng do sốt rét biến chứng. Họ bấm ngón tay vào giữa mu bàn tay tôi, thấy in hằn một vết lõm bỏ lọt cả hạt ngô. Họ động viên tôi rằng chỉ là do tôi bị thiếu vi-ta-min B1 thôi, khi đến Viện sẽ có Bác sỹ điều trị, đừng lo. Họ dặn tôi ăn thật nhạt và cho tôi vi-ta-min B1 để uống. Tôi chợt nhớ lại dạo còn đi thu dung, khi nằm ở viện 1.20, tôi thấy một bệnh nhân sốt rét lại bị chứng teo cơ (trong khi người tôi lại phồng lên). Người ta đặt anh ta trên cái chõng tre tạm bợ, hai đầu chõng gác lên hai thanh gỗ ngang dùng mắc võng. Anh ta nằm bất động. Mặc quân phục mà vẫn thấy rõ chỉ còn da bọc xương. Nhìn khuôn mặt anh ta, chỉ là một cái đầu lâu. Bây giờ tôi lại bị phù. Tôi rất lo lắng. Khi nguôi ngoai, tôi chật vật ngồi dậy, dùng ngón cái ấn ấn di di vào cánh tay, cẳng chân, mu bàn tay, mu bàn chân. Chỗ nào, tôi cũng nhìn thấy những vết lõm sâu mà rất lâu, rất lâu mới “phẳng” lại bình thường, mà vẫn còn lằn vết móng tay. Mà cũng chẳng bình thường : da dẻ tôi xám ngoét, chân tay mình mẩy béo căng như xác trương phềnh… Đã thế, tôi còn bị sa lá lách (tôi biết triệu chứng này những ngày mới bị sốt rét rồi đi thu dung cuối đường dây 559). Bụng phình to anh ách. Mỗi lần di chuyển, tôi phải lấy tay đỡ nhẹ vùng bụng bên phải lúc nào cũng âm ỉ đau. Gần nửa tháng trời ăn cơm với đường, với sữa luộc (bỏ hộp sữa đặc vào nồi nước sôi). Đến bữa cơm tôi như lợm mửa. Tôi thấy cuộc đời đã xuống dốc biết bao nhiêu. ĐT13 hết đường, hết sữa, tôi ăn cơm với cá nhạt. Đến bữa, chị Nuôi bớt trong hộp ra cho tôi một ít cá và tôi cố gắng ăn thật nhạt. Tôi cố gắng thật đấy và đến hôm nay, cá hộp, cá hộp, tôi lại phát ngấy lên rồi… Trời ạ !

Sau mấy đợt sốt kéo dài, dẫu không ăn uống được là bao, căn bệnh phù nề do sốt rét biến chứng của tôi đã sợ tôi và người tôi có vẻ đã thu nhỏ (xẹp) lại nhiều lắm rồi. Tôi đã nhìn thấy ngững khớp xương thân yêu nhô ra dữ dội trên cơ thể tôi và thời gian đến bữa cơm sao mà dài thế. Ăn uống ở ĐT13 dở thậm tệ. Buổi sáng, mỗi bệnh nhân được một bát cháo. Bữa trưa, chiều  thường xuyên là có ba món chủ đạo : cá khô kho tương (bốc mùi khăn khẳn), rau muống, rau rừng luộc chấm nước tương (sao tương khô nhiều thế không biết) và canh là nước luộc rau có bột ngọt (mì chính). Lâu lâu nhà bếp cải thiện bữa ăn, có đồ hộp thịt heo, hay cá mòi VNCH. Nhưng khi đang cơn sốt hành hạ, tôi đành phải bỏ bữa. Thỉnh thoảng, đi lại được, tôi mang đường, sữa hộp xuống nhà bếp xin nước sôi để pha. Trong lán, tôi thấy mấy tay tự đun nước sôi pha sữa, pha trà. Họ lấy vỏ hộp sữa bò kê lên ba cục đá nhỏ. Củi thì nhặt ngoài rừng. Tôi đã có vẻ hứng thú hơn với sinh hoạt hàng ngày và con đường đến trạm ĐT15 này mặc dầu mệt muốn chết nhưng tôi cảm thấy thật là thú vị.

Chúng tôi rời ĐT13 lúc 12H đêm. Cái đêm ấy, ngồi tính ra, chỉ còn một tháng tròn nữa là đến Tết rồi. Suốt từ sau bữa cơm tối đến lúc nghe tiếng xe ô tô rú ga ngoài đường xuống bến sông, như có linh tính báo trước, chúng tôi nằm trằn trọc không ngủ được. Tiếng con tắc kè, tiếng chim đêm và tiếng nước ào ào ngoài sông Dạt bỗng dưng lúc đó chìm ngỉm vào bóng đêm. Tự nhiên thấy yên ắng đến lạ thường. Mà những âm thanh quen thuộc đó, từ trước đến nay, vốn không bao giờ ngớt.

Xóc ! Xóc ! Chiếc xe tải GMC của Mỹ như con trâu rừng bật đèn lên sáng quắc bò chồm chỗm giữa rừng cháy đen vì chất độc hoá học. Thỉnh thoảng nó lại gầm lên phạch, phạch. Luồng sáng hung dữ nhấp nhổm quét lên quét xuống muốn chọc thủng màn đêm đen thẫm. Cây cối hai bên đường đánh công công vào thùng xe, cành lá quẹt dữ dội không xót thương bọn thương bệnh binh chúng tôi. Chúng tôi cúi rạp cả đầu xuống, lắc lư. Chốc chốc lại “tự động” đập ngay vào thành xe đau điếng. Ai cũng mắt mở chong chong. Một vài tiếng rên khe khẽ. Bầu trời đêm đầy sao. Khu rừng xanh tươi cao vút ban ngày giờ đây đập vào mắt tôi như những cột gỗ khổng lồ đen thui đâm thẳng vào trời sao. Hãy đâm thủng hết lũ chó trời hung ác kia đi, đốt cháy những chiếc cá-rô, kì-đà (lính gọi những chiếc trực thăng trinh sát, chiến đấu) dữ tướng và hung ác kia đi. Cho chúng mày cháy bùng lên như những đám lửa mà chúng mày đã đốt cháy kia đi !

03/02/1973

CÁI TẾT Ở K11

– Thế là hết Tết nhé !

Chúng tôi cùng kêu lên như vậy sau bữa liên hoan chiều qua. Và hôm nay, buổi chiều ngày mồng một Tết, đang lụi dần. Dù sao, tôi vẫn còn nhớ là “hình như” còn một bữa liên hoan ngọt và văn nghệ tối nay nữa.

Tôi tưởng sẽ “ăn Tết” ở ĐT15 vì không hiểu sao, tay y sĩ ở đó định giữ tôi lại. Hắn ta bơ (ngó lơ) bệnh tật của tôi đi như củ ráy củ khoai : hắn ta chả khám xét gì cho tôi cả. Cứ là Quinine, đa sinh tố bịt vào. Tôi ý kiến. Tất nhiên hắn ta phải đẩy tôi đi. Tối đến bệnh Viện K11 sau đúng một tháng tròn kể từ lúc đến ĐT13!

Giờ đây, tôi đang phân vân không biết có nên viết cảm tưởng và suy nghĩ của tôi về cái Tết Quý Sửu này không ? Một cái Tết đầu tiên xa nhà, một cái Tết trên giường bệnh này không ?

Tôi biết những ngày này ba mẹ tôi, các em tôi và tất cả những người thân của tôi đang nhắc đến tên tôi. Mặc dầu tôi, một cái thằng đã chai sạn, khô cong những giọt nước mắt mỗi khi phải xa nhà, xa nơi chôn rau cắt rốn, thế mà lúc này tôi vẫn thấy trào lên một cái gì đó nghẹn ngào khó tả thành những giọt lệ lăn trên gò má. Ba mẹ kính mến của con ơi, các em thân yêu của anh ơi, nhớ biết chừng nào ! … Giờ đây, con đang thổn thức “từ một cánh rừng xa…” và “con muốn hóa thành chim để bay về thăm mẹ, khi tháng ngày đã rạo rực mùa xuân và đất trời khói súng đang tan…”.

18/02/1973

Ở K11, tôi viết xong bài thơ Trên đường anh đi… với ngẫu hứng “lạc quan” trong những ngày hom hem bệnh tật.

20/02/1973

Ở K11, tôi viết xong bài thơ Giếng vùng ven để kỷ niệm những ngày ở E97.

21/02/1973

Sau một tháng trời nằm Viện K11, sáng nay tôi lên đường trở về đơn vị. Mặc dầu mới cắt sốt đâu được vài ngày, người hãy còn yếu và xanh. Được dịp có lính công trường 7 (mật danh của Sư đoàn 7) ra Viện, tôi cũng quyết định ra Viện theo. Cái mơ ước được trở về đơn vị bao giờ cũng thôi thúc thôi, làm cho tôi không sống yên ổn ở cái nơi này được khi mà đất nước đã “hòa bình” (chúng tôi đã nghe về Hiệp định Paris 1973 chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam chỉ mới ít ngày, mặc dù đã nghe kháo nhau suốt dạo cuối năm 1972). Và hôm nay đã thành sự thực !

Tuy nhiên tôi biết rằng sau ngày đình chiến có hiệu lực, cuộc chiến đấu vẫn còn đang tiếp diễn. Đường tôi đi chắc đã an toàn đâu. Kể ra mấy kỳ đụng độ sau ngày đình chiến, mình “hao con” thật. Bên Ban Ngoại của K11, con số thương binh đã lên tới gần 200 người rồi.

Đường hành quân hôm nay của tôi kể ra vất vả thật. Chúng tôi phải đi gần sáu tiếng mới tới đây, bãi khách của trực đoàn 814. Đường đi hầu như toàn vượt qua bãi trảng. Nắng như thiêu. Những khu rừng già của Tây Ninh với những cây cổ thụ cao hàng hai ba chục mét giờ đây hầu như đã bị cháy đen trọc trụi. Ngổn ngang là cỏ tranh, cỏ tre, cây dại nhìn xót mắt cháy xém lẫn giữa những trảng tro. Những cây gỗ đổ ngang dọc bong tróc hết vỏ đang âm ỉ cháy ngày đêm để lại tro than, thỉnh thoảng gió lại cuốn bốc lên. Những lùm le, lùm lồ ô còn sót lại lác đác từng chặng như muốn ôm, muốn bấu víu chúng tôi suốt trên đường đi. Lâu ngày hành quân, hôm nay đi một bữa giữa mùa khô, tôi cảm tưởng như người đã bị bốc hơi gần hết, bước cứ  nhẹ tâng tâng.

Chỗ nghỉ (bãi khách) nằm bên một con suối nước trong vắt. Ngày mai, bọn tôi phải cố gắng đi sớm. Hình như đến đội 6 nghỉ chân thì phải.

Tôi viết xong bài thơ Giếng vùng ven (bắt đầu đặt bút hôm 20/02/1973 ở K11) để kỷ niệm những ngày ở E97.

22/02/1973

Đây là lộ Lệ Xuân () mà người ta vẫn gọi là lộ Ủi nằm vắt vẻo giữa những khu rừng già đã bị chất độc hóa học và bom cháy đốt trơ trụi. Khi thì con lộ chui âm thầm giữa những rừng lồ ô non choét vừa ló lên sau mùa mưa trước, khi thì leo hun hút lên những quả đồi trọc nắng có những khúc gỗ to cháy ngun ngút dưới ánh nắng mặt trời…

Chúng tôi trú đêm bên một con suối nhỏ nước khá là trong. Ô tô GMC của mình chạy cuốn bụi mù lên ngoài đường. Chúng tôi sẽ chờ ô tô ở đây. Tay giao liên vào liên hệ ở Hỏa Tốc ra nói rằng khả năng đi ô tô rất mỏng manh.

Thế thì xác định là tiếp tục cuốc bộ thôi !

Ngày mai, như vậy sẽ nghỉ lại tại đây. Hai ngày cuốc bộ, hôm nay hai chân tôi đã đau tê dại. Quả thật ăn với nằm ở Viện sinh ra cái bịnh … lười rồi.

Tôi đang còn lo cái chuyện về đơn vị. Đến trạm trực E97, coi như tôi sẽ phải quốc bộ “một mình” rồi. Nhưng dù sao, tôi phải bám vào ông Chính (trưởng Ban pháo E97) để ông ta “móc” cho về, chứ không thì gay.

23/02/1973

Hôm nay bọn tôi nghỉ lại một ngày để sáng mai hành quân tiếp. Cái hi vọng lên xe đã hầu như thất vọng. Tính, tay giao liên dẫn bọn tôi đến đây, đã quay về K11 từ sáng sớm. Chúng tôi ra đón xe ở lộ không biết có được không. Từ sáng đến giờ mới chỉ thấy một chuyến xe chạy qua.

Ở đây thật hiếm rau. Cái rừng tre, rừng lồ ô này nhiều lúc cũng thật “bất tiện”. Chúng tôi lùng sục cả sáng mà không hề có một thứ rau cỏ gì. Nếu là mùa mưa thì còn nói gì nữa, tha hồ mà bẻ măng.

Bên cạnh con lộ, một chiếc xe tăng M41 hay M48 gì đó bị bắn cháy đổ kềnh đổ càng ra rìa suối. Đạn 37 ly, 12 ly 7… vung vãi tứ tung ra đường. Bọn tôi nhảy lên nghịch ngợm đánh gõ coong coong.

Tôi viết bài thơ Bài thơ về một bãi nghỉ chân và xong bài thơ Cầu trượt (bài này đặt bút viết từ hôm 21/02).

27/02/1973

Vượt qua đường 14, chúng tôi về đến bờ Sông Bé. Chỉ còn hai ngày nữa là về đến Trung đoàn 97. Nghe tin mũi chiến đấu của tôi đã lên đường về Rịa cách đây khoảng mười ngày. Thế là tôi còn phải đi thêm gần mười ngày nữa mới về đơn vị. Hôm qua tôi lại bị sốt. Trước đó vài ngày, người tôi đã gây gây, đầu đau váng vất, đến bữa không nuốt nổi lưng cơm vắt. Mắt như nhoè đi, nhưng tôi vẫn cắm cúi cố lê bước với toàn người lạ. Nghỉ trưa xong, chiều lại tiếp tục hành quân. Sức khỏe tôi sao mà chó thế. Sốt rét miết.

Tối qua, vừa đến bãi, chúng tôi gặp người của các đơn vị E97 đi tìm hậu cứ. Đồng đội cũ lâu ngày gặp nhau tay bắt mặt mừng, buồn buồn tủi tủi. Riêng tôi, cũng lại gặp a Hạnh là C trưởng C16 mà mấy tháng trước, chúng tôi ở nhờ. Đi với anh Hạnh còn có Đức và Chiến là liên lạc. Toàn những người quen. Nhưng ngay sáng hôm sau, khi ngủ dậy, rời khỏi võng, tôi đã không còn thấy họ nữa. Hỏi, mấy người bảo họ đã hành quân từ hai giờ rưỡi sáng rồi. Thế mà tôi không hề biết. Dù sao, thế là tôi cũng phấn khởi rồi.

Về Rịa, tôi còn phải vào Viện nữa cùng nên : lá lách hãy còn sa, tuy đã hết phù nề. Còn sốt rét thì không biết đến lúc nào mới hết. 

Từ Viện K11 về đây thực phẩm mang theo quá ư tồi tàn : 5 lạng ruốc khô, 4 hộp cá mòi, mấy lạng mì chính và muối trắng. Kiếm được rau rừng còn đỡ. Không kiếm được rau, chín người chúng tôi phải hầu như ăn cơm với muối. Người tôi cứ khô đét như cá mắm. Không biết có cần cân nặng được 45 kg nữa không ?

Từ 21 đến 28/02, tôi làm xong bài thơ Về đơn vị.

03/03/1973

Vui sướng biết bao khi tôi lại gặp những con người, những đồng chí cùng đơn vị. Mấy tháng ròng rã rồi tôi lưu lạc đất xa. Trong lòng tôi lúc nào cũng tâm niềm phải về đơn vị, phải trở về chỗ đứng của tôi. Và giờ đây, tôi đang sống giữa Trung đội chiến đấu ở phía sau của anh Đương. Ơi những con người thân, sao tôi cảm thấy họ đáng yêu đến thế. Như trong một gia đình. Tôi về đơn vị như về gia đình vậy.

Đã trải qua mười ngày hành quân từ Viện về. Mười ngày đội trời đạp đất, ăn cơm muối dầm sương. Lúc nào tôi cũng mong sao chóng về đơn vị. Tôi lại tiếp tục cầm khẩu súng AK báng gấp và mang bảng điều khiển trên vai. 

Từ 04-12/03/1973, tôi viết được hai bài thơ Mùa khô và Trăng buồn (kỷ niệm những ngày ở Viện K11).

13/03/1973

Viết xong lá thư về cho gia đình, tiếng đàn bầu của Trường đã cất lên. Một buổi tối đầy bóng trăng ngoài rừng và ào ạt gió.

Ơi đất Kà Tum, cái xứ sở cách biên giới Việt-Miên không quá một tiếng này, sao mà nóng thế. Dưới những lùm lá, những gốc bằng lăng trụi lá, thưa thớt và thấp thoáng những ngôi nhà lợp lá trung quân của hậu cứ chúng tôi. Dân Kà Tum ở cách chúng tôi chưa đầy 15 phút và sau kia là sân bay, Lộ Đỏ bụi đỏ mù trời.

Tôi về đây hôm 10/03. Sau mấy ngày hành quân từ Dầu Tiếng cùng với ông Đương và nhất là sau ba ngày chè chén tùm lum ở đất Cà Chay, tôi trở về với chiếc bồng lép kẹp, với đất đỏ bám đầy người. Ở Cà Chay, tụi tôi mang gạo ra đổi bún ở mấy tiệm người Việt. Một cân gạo đổi ngang một cân bún. Có bún rồi, mấy ông mua thủ heo (đầu lợn), mấy chai bia La-De, trà, thuốc lá… Rau thì hái ngoài rừng. Vậy là đánh chén no nê.

B1 chỉ còn lại mỗi ông Tất Tưởng. Nghe nói ông ta đã nằm một mình giữ “chùa” cho đến ngày mọi người trở về, chờ ngày xuống đất miền Nam. Tôi về lại gặp lại tất cả những người thân và có cả người lạ nữa.

Về đây, cuộc sống ở hậu phương đã làm tôi thoải mái và phục hồi trở lại với những bữa cơm rau cải hay một vài miếng mỡ, củ hành. Một con suối khá trong chảy lờ đờ ngoài rìa trảng…

Có lẽ tôi còn ở lại một vài tuần nữa để nghỉ ngơi, sau khi ông Tất và mấy tay vừa trở về “móc” thực phẩm cùng kéo nhau xuống chiến đấu ở dưới kia.

Tôi sẽ ở lại một mình với một đàn gà tấm bé của Trung đội và ngoài ra là giữ “chùa”. Chắc là buồn đây.

May cho tôi, Hùng – anh nuôi của B1 – đi đến núi Bà Đen đột nhiên bị sốt rét, lại phải về. Thế là hai chúng tôi nghiễm nhiên là “chủ nhân” cả một “gia sản” không phải là nhỏ đâu nhé.

16/03/1974

TÙY TAY

Chỉ còn non hai tháng nửa là hết mùa khô. Tuy nhiên nắng vẫn như trút lửa xuống đất miền Nam này. Suốt ngày không biết gió thổi ở đâu trên cảo trên cao, mà nhìn ra chỉ thấy cả tứ bề lặng gió. Nhìn lên trời, những đám mây nặng trĩu chìm dần xuống phương Tây. Chắc dạo này trời đang góp mây. Cả một dải đất miền Đông chỉ có cỏ tranh, những lùm le vàng ruộm và những gốc bằng lăng kếch sù thân loang lổ như bị lang ben trơ cành trụi lá. Bom đạn B52 và chất độc hoá học đã cướp đi cái màu xanh vốn dĩ đã từ bao lâu rồi.

Ngoài Lộ 4, mà bọn tôi vẫn gọi là L ộ Đỏ, bụi, đất bột lội đến mắt cá chân.Tiếng còi ô tô vẫn inh ỏi suốt ngày, dội vào tận hậu cứ chúng tôi. Bụi bay lên đỏ cả một vùng trời.

Đã gần hai tháng sau ngày đình chiến, thế mà những cuộc tranh chấp vẫn còn tiếp diễn. Đêm nào cũng vậy, giữa hai giấc ngủ say, tôi lại nghe những loạt B52 đánh gần biên giới, rung chuyển ràn rạt cả mái nhà. Ban ngày, máy bay phản lực gầm thét, máy bay trinh sát rình mò. Thỉnh thoảng lại nghe tiếng pháo xa xa. Hậu cứ chúng tôi chưa phải là an toàn.

Tôi vừa ở Dầu Tiếng về cùng với Trung đội 2. Khi tôi đến, mũi này đang có một tiểu đội còn đang chốt chặn ở đường 13 khu vực Bầu Bàng. Nghe nói xe tăng, xe quân sự của địch vẫn khiêu khích hàng ngày, hòng nhổ cờ của ta. Những cuộc chiến giữa bộ binh ta (E97) với lính VNCH thỉnh thoảng lại tiếp diễn. Lá cờ Mặt trận vẫn tung bay trên đường 13, con đường lịch sử. Khi ở Bình Dương về, đi ban đêm vượt qua đường 13, nhìn sang hai bên đường, tôi tưởng như đi trên sa mạc. Cả một vùng rộng lớn cách đường hơn một tiếng rưỡi về hai bên đều bị đốt trơ đốt trụi. Con đường 13 nổi lên sừng sững trong đêm.

Đại đội tôi vừa chuyển đạn xuống mũi đang cứ ở núi Bà Đen. Ở đấy, những đồng đội của tôi “làm ăn” tương đối là khấm khá. Nghe nói xứ sở này lắm chuối mỗi tội thiếu lipit thôi. Nói chung các mũi của chúng tôi, đi chiến đấu nhưng khẩu phần ăn cũng thật thiếu thốn, đạm bạc. Gạo 5 lạng một ngày.Thực phẩm khan hiếm không “móc” được. Thế nhưng, những quả đạn B72 mỗi lần rời bệ phóng là mang về chiến thắng. 

Không khí sau những ngày đình chiến là không khí “chồm lên, quyết giữ, quyết giành giật lấy từng tấc đất, quyết giữ lấy lá cờ mặt trận thân yêu”. Tôi nghe Chính trị viên Thiều (người Thái Bình) tuyên bố vậy mỗi lần sinh hoạt. Trong mắt ông, “Lá cờ màu vàng có ba sọc đỏ như là một bóng ma lởn vởn”. Ông tiếp tục : “Kẻ địch vẫn còn ngoan cố và trắng trợn vi phạm hiệp định. Chúng vẫn ồ ạt mở những cuộc hành quân lấn chiếm vùng giải phóng, đại đội ta phải chia nhỏ từng tiểu đội đi phối thuộc”… 

Bạch tuộc ! Bạch tuộc ! Nghe tiếng gọi quen thuộc của lính bộ binh. Chúng tôi bắt tay nhau cùng hò hẹn lập công. Những chiếc va ly 9П11П đựng tên lửa B72, nắp dùng làm bệ phóng) lại lộp bộp trên lưng pháo thủ. Chiếc bảng điều khiển trên đôi vai của trắc thủ như tôi, cùng khẩu AK, băng đạn… Tất cả, tất cả đang cùng lính tráng dồn ra phía trước.

03/04/1973

Từ 26/03 đến giờ tôi đang ở Viện, cái trạm xá T28 của Đoàn 

Vì sốt còn kéo dài và bị áp xe mông (mông phải của tôi sưng đỏ tấy lên, mung mủ, đau nhức cả ngày đêm, tôi chỉ nhảy lò cò được một chân), ông y tá Thuyết đã đẩy chúng tôi đi. Ở T28 này, riêng đơn vị tôi đã chiếm tới 7 trên 50 bệnh nhân rồi. Đến ớn.

Ở Viện, tôi đã quen với cái cảnh ăn, ngủ, giải trí rồi tiêm thuốc, từ mông trái qua mông phải, từ bắp tay phải qua bắp tay trái. Mà có gì hơn ngoài bộ Tu-lơ-khơ giải trí. Ở T28 này, tôi gặp lại anh Ninh, người cùng huyện Yên Thành, trước ở U5, bây giờ về làm quân y sĩ ở T28 này. 

Do mới chuyển về ở hậu cứ đây, mọi sự đều còn tạm bợ và thiếu thốn. Suối ở rất xa, đi lấy nước mất khoảng 10 phút. May mắn nhân viên của T28 vừa đào xong chiếc giếng cạnh bếp. Nước đã trong và bắt đầu dùng được.

Tất cả cũng chỉ có thế thôi. Dạo này tôi lại lười làm thơ. Thật chán chường mỗi khi cầm cuốn sổ này và chiếc bút bi. Chiếc bút bi Bic này của tôi vừa mới mua 100R cơ đấy. Chiếc bút bi tím xanh mang từ Miền Bắc vào hết mực, tôi phải dùng bút bi đỏ. Viết bút bi đỏ từ lúc nhận lệnh đi chiến đấu lần đầu tiên đến giờ, đã hơn nửa năm rồi, cũng vừa hết mực.

30/04/1973

MÙA MƯA !

Mùa mưa thứ hai lại đến rồi. Tôi đang bồi hồi nghĩ đến những ngày hè năm xưa. Ngoài kia, có lẽ trên con lộ (tôi đã dùng từ ngữ Nam Bộ từ lúc nào không biết) giữa hai hàng hoa phượng đỏ au, trẻ con đang ríu rít chuẩn bị nghỉ hè. Những chiếc xe đạp phóng nhanh về một khu trường cấp 3 nào đó. Những cô thiếu nữ xinh tươi. Và tất cả, tất cả những hương vị của mùa hè đang bừng dậy trong tôi.

Vào tầm này gia đình tôi đang chờ tôi về nghỉ hè. Những hàng cam, hàng chanh trong vườn nhà tôi sai hoa từ dịp Tết chắc đang trĩu quả. Ơi những hàng cây nặng tình của ba tôi, của mẹ tôi, năm nay có lẽ đang mọng quả. Những mùa hè êm dịu và đẹp đẽ đã trôi qua.

Tôi đang sống giữa vùng “giải phóng”. Ơi đất Kà Tum với những rừng le, rừng săng lẻ bạt ngàn. Màu xanh đặc biệt của một khu rừng nhiệt đới, đã bị chất độc hoá học Mỹ chôn vùi. Con Lộ 4 đỏ chói chang vắt vẻo, bò lên những lô cao su Mimốt. Mùa mưa tới, những đám mây trắng xốp hùng vĩ dựng thành. Gió reo lồng lộng. Đất rừng phương Nam đang đón một mùa mưa.


Cây săng lẻ, hay bằng lăng.

Tôi đã cắt sốt gần được một tháng. Sức khỏe có vẻ đã trở lại. Không biết đợt đi tới sẽ ra sao. Thế là tôi lại chuẩn bị một cuộc chiến lần thứ hai. Lần này sâu hơn. Vùng ven Thành (Sài Gòn) đang chờ đón. Đất thép Củ Chi đang chờ đón.

06/05/1973

Hôm nay Ký và Bân đã lên đường đi Dầu Tiếng. Còn lại ba chúng tôi. Đêm nay, sau một bữa trà không đặc lắm, chúng tôi nằm đung đưa tán gẫu. Muôn kêu nhớ nhà. Anh Khang người Nam Định đang kể một câu chuyện về anh ta. Còn tôi, tôi biết viết những gì, khi bao cảm xúc hừng hực trong lòng.

Tôi viết những sự việc của chúng tôi, xảy ra thường ngày chăng ? Những bữa trưa, những bữa liên hoan, những câu chuyện buồn cười của lính… ?

Viết những suy nghĩ của tôi chăng ? Viết thế nào được nhỉ. Mà đã lâu rồi, tôi lại chẳng làm thơ. Sao có lúc tôi làm được nhiều thơ như thế. Có lúc, hàng tháng, tôi không viết được chữ nào ? Sốt rét đã tấn công lòng kiên trì của tôi sao ? Rõ ràng chiến trường B2 không như người ta thường nói “cuộc sống ở chiến trường” chung chung. Sau những đợt “đột kích”, “thọc sâu”, “phối thuộc”, chúng tôi trở về hậu cứ. Chúng tôi lại trở về cuộc sống có vẻ “nhàn cư”, mua trà, mua thuốc lá ngồi tùm lum nói chuyện đàng hoàng sau mỗi bữa cơm. Khi đó bao câu chuyện vui buồn lại tuôn ra. Thời gian cứ trôi. Ngoài Bắc có bao giờ có thời gian mà ngồi lê la như thế. Họ gọi là “cụ”, là “già”. Nhưng với chúng tôi lại khác.

Những bữa cơm rõ ràng là “đàng hoàng” vì có “tiêu chuẩn”. Tuy tiền ăn ít ỏi nhưng tăng cường cải thiện, bữa cơm trở nên khá là “sang trọng”, với những món lùng sục ngoài rừng. Thỉnh thoảng tụi nó bẫy được mấy con cheo (tôi nhìn giống con chuột cống nhưng nặng cỡ 7 hay 8 lạng), bắn được voọc (hay vượn, khỉ gì đó). Những bữa đó, chúng nó chạy ra tiệm ở Kà Tum mua mấy gói “Ngũ Vị Hương”, rồi hạt tiêu… về ướp thịt, kèm thêm mấy chai La De. Thỉnh thoảng lại xúc gạo đi đổi bún. Vậy là chúng tôi được dịp đánh chén tèm lem, hể hả.

Chúng tôi tiêu tiền Rịa (tiền Campuchia). Mấy chục đồng phụ cấp, chúng tôi mua những thứ cần dùng (mà tôi thường bị thâm đến tháng sau, nợ thằng Bảy tiếp phẩm).

Ngoài những cơn sốt rét làm chúng tôi kiệt sức, nhưng sau đó chúng tôi lại khỏe mạnh, sốt mãi cũng quen đi, tiếp tục chiến đấu và công tác.

26/06/1973

ĐI TỐNG LÊ CHÂN

Bài viết về Tống Lê Chân của Phan Nhật Nam.

Có lẽ từ lúc đi mũi Tống Lê Chân này và thực ra cả trước đó nữa, tôi không hề cầm bút viết lấy một chữ. Thời gian theo những sự việc dồn dập bên ngoài cứ thế trôi đi. Tôi không hiểu sao, thời gian này, tôi lại biếng lười đến thế ?

Đến bây giờ, chúng tôi đã hoàn toàn cảm thấy bình thường cuộc sống sau ngày đình chiến lần thứ hai. Những ngày trực chiến ở chốt Tống Lê Chân. Những ngày ở nhà (Cứ tiền phương) tăng gia, trồng trọt chăn nuôi cải thiện bữa ăn cho đơn vị. Biết bao những sự việc dồn dập, những chuyến đi đầy nguy hiểm và lí thú của chúng tôi. Không biết tôi có viết hết được ra những trang giấy này không ? Có lẽ lúc này tôi cảm thấy hối hận vì có những sự việc nhẽ ra cần viết, nhưng rồi cứ thế qua đi, rồi rơi vào quên lãng. Tôi viết đây như cảm thấy có một điều gì trói buộc. Cái thoải mái khi cầm bút không biết nó đã đi đâu ? Tôi cố gắng giữ gìn cuốn sổ và cây bút trong ba lô, rồi bồng, hai vật bất ly thân, theo tôi trên mọi nẻo đường.

Mũi tôi lúc này tương đối phức tạp. Hai A là hai tiểu đội khác nhau của hai C. Cánh C1 họ có 7 người, phụ trách là tay B trưởng Nuôi người Thanh Hóa. Anh ta có cái đầu to không cân xứng với thân thể gầy gò vì sốt rét. Da dẻ đen trũi với bị râu quai nón dữ tướng. Anh ta cũng vui tính. Trong 7 người C1 có 3 tay người cùng tỉnh Nghệ An với tôi. Họ chuyện trò “trọ trẹ” như bọn ngoài Bắc thường đùa khiến tôi cũng cảm thấy buồn cười.

Riêng A2 của tôi lúc đầu có những 8 người, trong đó có đại đội phó Bút người Hà Tây, nhưng bây giờ chỉ còn 6 người. Châu và Oánh đã về tăng gia từ hôm qua. Họ về tận hậu cứ Kà Tum cơ đấy. Nhưng rồi, không thể khỏi sốt rét, thằng H. vừa ở Kà Tum xuống lại tiếp tục về tăng gia nữa, vậy chỉ còn lại 5. Vấn đề này làm bọn tôi khá bất bình. Mũi đã ít người lại còn rút về, lấy người đâu trực chiến ? Căn bản là ở nhà, việc tăng gia be bét quá. Điều này lại liên quan tới đại phó Bút chúng tôi đấy (ổng phụ trách hậu cần mà). Thôi được, phải chịu thôi. Làm lính “húc” mà.

Tôi, Hàn và Châu trực chiến ngoài trận địa về chỗ trú quân này hôm kia. Hôm qua, cả năm người (có cả đại phó Bút đấy) lại ra suối, “quần nhau” (tát cá ở con suối chảy qua) một bữa từ sáng đến giữa chiều. Chúng tôi bắt được gần 5kg cá khá đủ loại. Có một chú tôm to kếch xù, bằng cổ tay. Buổi chiều, chúng tôi “xi” (ăn, tiếng Miên) một bữa cá rán đến sướng miệng. Sáng nay, chúng tôi phát rẫy tăng gia trồng rau củ cải thiện thêm. Chúng tôi tìm những khoảnh đất kín đáo nhưng cũng có ánh nắng để không bị máy bay phát hiện. Rau, cà… ở hậu cứ không mua lên kịp. Mà thực ra, chúng tôi đâu còn người để về mua thực phẩm chứ. Chỉ có tương khô, cá khô, mỡ và mì chính mang theo. Hơn một tháng từ hôm đi Cần Lê đến giờ, chưa bữa nào chúng tôi không có cá tươi ăn. Con suối bên cạnh chỗ đóng quân chảy quanh co, âm thầm, nho nhỏ nhưng có nhiều nhánh. Có nhiều đoạn to và sâu. Thỉnh thoảng, chúng tôi lại ra “đầm” như rái cá. Cá ở đây không nhiều lắm nhưng có đủ loại. Mùa mưa đến, không be bờ tát nước được, chúng tôi lại cắm câu.

29/06/1973

Hôm nay, lần thứ tư, chúng tôi lại ra trực chiến. Lần này có thêm Hợp. Hợp đã đỡ sốt. Còn tôi và thằng Hàn thì chẳng bao giờ vắng mặt.

Chiều qua, chúng tôi đi ra trận địa khá muộn. Tối đến, cơm nước rất tèm lem. Mồ hôi mồ kê nhễ nhại. Trời lại oi bức muốn mưa khiến chúng tôi nóng nực không chịu được.

Đêm lại, chốt địch lại bắn cối sáng vàng rực. Lần này mỗi viên bắn lên, tôi thấy cháy sáng lâu hơn lần trước.

– Mai đi lấy măng ! Hàn bảo tôi.

– Ừ !

Cơm sáng nay xong, chúng tôi đang rang sâm cau để uống (dọc quanh suối ở chỗ trú quân mọc rất nhiều cây sâm cau, chúng tôi đào lấy củ về thái lát rồi rang vàng hạ thổ) thì thấy bọn 12 ly 7, thông tin… đang lục tục đi qua.

– Đi đâu các boòng (anh, tiếng Miên) ?

– Kiếm ăn thôi.

– Cánh này theo với ! Đi mày ! Tôi với Hàn cầm một con dao tông và chiếc bồng theo họ ra bờ sông Sài Gòn. Từ chỗ chúng tôi chọn làm trận địa đến bờ sông, đi nhanh phải mất đến 30 phút. Lấy đồ đến gần trưa, chúng tôi sà xuống sông Sài Gòn tắm. Đồ mà chúng tôi lấy được là đồ hộp, nào giò ba khoanh, cá mòi, mứt đào hay mận gì đó, cơm sấy, đồ lặt vặt… Số là thỉnh thoảng, máy bay vận tải C130 bay đến thả dù đồ tiếp tế cho lính VNCH đang chốt ở Tống Lê Chân. Lính mình đang vây quanh chốt thấy máy bay bay đến lập tức nã pháo lên dày đặc khiến một số dù tiếp tế rơi tọt ra ngoài rừng.

30/06/1973

Ai dè cái tắm ở sông Sài Gòn trưa hôm qua, làm tôi sốt nhừ tử suốt từ sáng đến giờ.

Đau đầu không chịu nổi. Tôi như phát điên lên.

04/07/1973

Sáng nay, tôi đã đỡ mệt, tuy đầu hãy còn choáng. “Đầu tàu xình xịch” trong tai tôi chừng giảm tốc, giờ chỉ nghe “u u u”. Hợp và Hàn định đi tát cá nhưng đêm qua mưa quá nên lại thôi. Họ người thì ngủ, người thì hát ngêu ngao trên võng. Đêm qua mưa dữ dội, có lẽ là trận mưa lớn nhất từ khi chúng tôi đến Tống Lê Chân cho đến nay. Sau trận mưa này, chắc măng le trồi lên nhiều lắm. Trời đã hửng nắng và có gió. 

Mấy bữa nay, cứ sau hai bữa cơm sáng và chiều, anh Thanh y tá lại gọi tôi tiêm thuốc. Anh ta đun nước sôi rửa xilanh, kim tiêm trong cái nắp ăng gô. Cái ăng gô của anh ta được sử dụng đa năng : đựng cơm, muối măng chua, làm mẻ, nấu nước sôi pha trà, rửa dụng cụ hành nghề y tá : kéo, dao, xilanh, kim tiêm… Tôi nhìn anh ta cầm cán nắp ăng gô đun nước sôi trên ngọn lửa đèn cồn, rồi hý húi soạn đồ lề, nét mặt thật chăm chú, cử chỉ thật chậm rãi.

– Cởi quần ra, được rồi đấy. Anh ta nhắc tôi. 

Tôi kéo đai quần xuống trên đầu gối rồi nằm úp sấp dạng chân trên võng để anh ta chọc kim tiêm vào mông. Tôi hứng chịu cơn đau buốt dội đến cùng cảm giác gãi gãi đều đều trên da của ngón tay trỏ anh ta bên cạnh mũi tiêm.

– Xong rồi. Thanh kêu lên.

– Cảm ơn anh. Hôm nay em chưa kịp “ái”, anh đã tiêm xong rồi.

Thanh có món mẻ nấu thịt rừng, thịt rùa, thịt ba ba mà chúng tôi kiếm được. Anh ta gói mấy viên thuốc bổ B1 vào một tờ giấy, lấy cán dao găm nghiền đi nghiền lại gói giấy rồi rắc đều bột lên nắp ăng gô đựng sẵn cơm nguội và nước cơm, sau đó trộn đều. Chỉ sau vài ngày, chúng tôi đã có món mẻ thơm mùi thật lạ. Trong câu chuyện, thỉnh thoảng anh ta lại nói : Mẻ không ăn mẻ cũng chết.

Tiếng máy bay C130 vẫn ì ì phía chốt Tống Lê Chân. Chiều qua có lẽ chúng lại ném xuống nhiều dù. Hôm trước trên đường từ trận địa về, chúng tôi thấy chúng rải xuống chín cái. Chín cái dù màu nâu sẫm xanh, mỗi cái treo lủng lẳng một khối hàng vuông vức, rơi nghiêng, rơi ngả xuống phía chốt. Nhưng rồi chỉ đâu vài ba cái là rơi hẳn vào được trong chốt. Còn sáu, bảy cái, thì hoặc rơi vào hàng rào dây thép gai và tường bao cát, hoặc rơi hẳn ra ngoài rừng. Chốt của lính VNCH đóng trụ trên một mỏm đồi, cách trận địa chúng tôi khoảng trên 1000m. Chúng tôi có thể nghe được những âm thanh hỗn loạn từ chốt phát ra. Đêm lại đèn đuốc trong chốt sáng trưng.

Chỉ một cái chốt Tống Lê Chân này, diện tích không quá một km2, thế mà lính VNCH lồng lộng lên suốt từ khi đình chiến dạo tháng Giêng đến nay. Thỉnh thoảng cách mươi ngày gì đó, máy bay C130 lại bay đến ném dù, vào chốt cái được cái không. Chúng tôi nghe tiếng la ó rùm trời trong chốt. Bộ đội ta vây kín hết bên ngoài. Lính bộ binh đã đào hầm, tới sát hàng rào thứ nhất. Thỉnh thoảng lại gọi loa, phía trong chốt lại gọi lại. Nghe nói có tiếng con gái. Lính thông tin chun mũi bảo chắc là gái “Hippie” chính cống rồi.

Họ cũng nói trong chốt này hầu hết là lính người Trà Vinh vốn khét tiếng. Họ mang cả vợ con đến ở trong chốt. Quân số đâu khoảng một tiểu đoàn. Họ bị lính ta giam hãm, nên tù túng, bị pháo đạn ta tấn công, rót vào dữ dội, nên vô cùng hoảng sợ. Họ muốn rút quân đi mà nghe nói phía ta không cho họ rút. Ban đêm thì máy bay trinh sát “hai thân to” quần đảo, ban ngày thì máy bay phản lực, AD-6 vòng vo trên trận địa. Bị súng 12 ly8, đại bác 37ly, 57ly phía ta bắn lên quyết liệt, chúng hốt hoảng ném bom vung vãi xuống từ tít trên cao. Bom liểng xiểng rơi tùm lum khắp mọi phía, xung quanh chốt. Đồi cỏ tranh đối diện với chốt, gọi tên là cao điểm 62, là trận địa trực chiến của mũi B72 chúng tôi phối thuộc cùng các cánh 12 ly 8 Đoàn 200, thông tin, trinh sát Đoàn 75. Bom đạn cày xới nhưng, như lính thông tin vẫn tự hào, cao điểm 62 vẫn đứng vững hiên ngang. Họ còn kể chuyện có lần, bom lại rơi ngay gần bờ ủi của chốt, “quân ta đánh quân mình”, khói lửa tèm lem. Lính trong chốt la lối chửi bới om xòm :

– Đ… mẹ ! Ném như con khỉ, chỉ cách chỗ ông không quá 30m.

Thằng trên không xin lỗi xuống rối rít : Nhầm đám mây với khói điểm. Bỏ qua cho anh em nghen ! Tôi tự nhủ thầm chắc các hắn bịa ra để cười chơi.

Cánh rừng thưa cạnh chốt không biết cơ man nào là dù. Bọn trực chiến cũ ở đây đi lùng sục, phát hiện được khá nhiều món bở béo ! Ngoài các món đồ hộp, cơm sấy, thuốc men, họ còn kiếm được đầy đủ kiểu vải dù thả hàng : dù hoa họ làm tấm đắp  (chăn), dù xám họ căng nhà, rải hầm che chắn tùm lum. Thật sang. Cánh B72 của tôi chả anh nào có lấy một manh dù. Lúc mới đến trực chiến, thấy vậy, chúng tôi than thở “trâu chậm uống nước đục” rồi. Tức khí, hôm nọ Hàn rủ tôi đi kiếm dù. Tôi đồng ý. Hai thằng định hướng. Ăn uống xong, khi mặt trời vừa lặn khuất sau bìa rừng, hai đứa bắt đầu xuất phát. Vào giữa rừng thưa, lúc này có lẽ cách chốt còn xa, Hàn trèo lên một ụ mối cao quan sát.

– Thấy gì không mày ?

Hàn nhẩy xuống bảo tôi :

– Cứ đi theo hướng này.

Hai thằng chui luồn trong những lùm le kín mít, muỗi bay ra cắn đốt như điên. Bỗng một con “toe toe tù oắt” bay vụt lên trên đầu chúng tôi kêu ầm ĩ. Hai đứa giật mình.

– Đ… mẹ mày ! Có câm cái họng đi không !

Cả hai chúng tôi cùng chửi, đầy tức tối và lo lắng. Tôi bảo Hàn :

– Cái con chim chó chết này. Cứ thấy người là kêu. Nguy lắm. Vào đây đã…

Con “toe toe tù oắt” càng kêu già.

Trời gần tối hẳn, chúng tôi mò mẫm khắp rừng mà chẳng thấy tăm hơi bóng dáng dù. Rừng le kín như bưng. Chúng tôi bò lồm cồm như nhái, mắt lấm la lấm lét. Đây thật lắm suối. Thực ra chỉ có một con suối nhỏ, thế nhưng nó chảy ngoằn ngoèo, ngoằn ngoèo qua lại như con rắn, khiến chúng tôi trèo lên nhảy xuống mỏi chồn cả cẳng. Hàn nhảy lên ụ mối mấy lượt. Tôi cũng leo lên theo hắn.

– Đâu nhỉ ? Hồi chiều, mình lấy cây này làm mốc cơ mà. Ngay tại hai cây cháy đen này đây. Đúng là bọn kia khoác lác, dù xám cứ như là rác ấy. Tìm trợn mắt.

– Đi tiếp ! Hàn bảo.

Chốt đã thấy lờ mờ trong sương. May đêm nay có trăng thượng tuần nên chúng tôi cũng dễ tìm kiếm…

– Mìn ! Hàn thì thào.

Tôi lạnh gáy.

Lần theo sợi dây điện, chúng tôi mò đến chỗ nguồn pin. May sao, bánh mìn định hướng Claymore M18 (bọn tôi gọi là rơ-mo) bọn nào đã lấy đi từ lâu. Chúng tôi hú vía.


 Mìn định hướng Claymore M18.

Vừa lúc đó, Hàn chỉ cho tôi một mảng dù to treo phất phơ trên cây ở quả đồi bên kia, cách chốt không quá 200m. Tôi ước lượng thế. Chúng tôi mừng húm như vớ được vàng.

Lần mò sang đến nơi. Đầu tiên chúng tôi nhào đến kiện hàng đang treo lủng lẳng gần như chạm đất. Dưới ánh trăng lờ mờ, kiện hàng chẳng còn gì ngoài giây bồi và bạt lùng nhùng. Chắc dù hàng này đã thả xuống từ lâu. Bọn lính bộ binh nhà mình đã đến lấy hết đồ lúc nào rồi. Chúng tôi tiếc ngẩn ngơ. Ngước nhìn lên, mảng dù xám xịt quấn vào ngọn cây cao, dây vắt lòng thòng rủ xuống quanh kiện hàng. Hàn bảo khẽ :

– Đây chắc là hàng quân y, tao nghe mùi thuốc. Mũi tôi thì tắc tị lo ngay ngáy mong sao lấy được dù rồi chuồn. Trong chốt, chúng tôi nghe tiếng người nói ầm ầm, tiếng con gái nheo nhéo : anh Ba ! anh Ba ! Anh Ba cái con khỉ, chúng nó lại đú đởn với nhau, chưa biết chết. Thằng Hàn lẩm bẩm. Tôi đang lắng tai nghe hắn nói gì thì đã thấy Hàn nhảy tót lên bụi le bên dưới ngay cạnh cây gỗ mắc dù.

– Thế nào mày !

Hàn kéo dây dù nhảy lên nhảy xuống và nói xuống :

– Miếng dù to lắm nhưng vướng cây cao. Bọn nào đã hớt đi miếng dưới rồi. Trời mà kéo được.

Tôi thất vọng.

Chờ một lúc, tôi leo lên cạnh Hàn. Đêm trăng sáng hơn. Gió thổi về mát rượi. Rừng cây rì rào rùng rợn. Tiếng côn trùng, tiếng chim đêm kêu khe khắt. Miếng dù bay phần phật, chúng tôi thèm quá mà không làm gì được.

– Chỉ có trèo thôi. Hàn nói.

– Cây to thế này trèo sao được ?

– Để tao trèo thử xem. Mày đỡ tao nhé. Hàn bắt đầu quặp lấy cây leo lên. Hắn ta mặc quần dài nên chân tay cứ loặp quặp như nhái. Cây vỏ trơn quá. Hàn trèo lên tuột xuống mấy lượt. Tôi vừa buồn cười lại vừa lo. 

Một chốc hắn ta tuột xuống nằm phịch trên bụi le, thở hồng hộc : Chịu tôi, mày thử trèo xem. Tao chịu.

Đến nước tôi phải trèo à ? Kiểu này gay đây. Nhìn miếng dù trên cao cứ bay bay, cứ thách thức, mời gọi. Thôi quyết định trèo. Liều một phen. Tôi cởi giày (đôi giày lính mới tinh tôi nhặt được ngoài chiếc xe chờ đạn 37ly bị lật mìn, cỡ 38, tôi đi không có tất mà vẫn chật cứng, bó bết hết cả chân), rồi cởi quần dài, xắn tay áo, sờ thấy lưỡi dao lam còn trong túi áo và bắt đầu trèo lên. Cây to quá, trơn truột. Tôi phải nghỉ mấy đợt, thở hồng hộc, tim đập thình thịch, tưởng như đứt hết cả hơi. Lên đến nửa cây vừa chạm dù. Tôi đã mệt lắm rồi, muốn tuột xuống, chả dù dì gì nữa. Mẹ kiếp. Trời hại chứ chẳng chơi. Tôi tức lộn ruột, vừa mệt vừa chửi thầm.

– Cố lên một tí nữa mày. Hàn nằm ngữa, từ dưới nhìn lên động viên tôi.

Gió lúc này càng thổi mạnh. Tiếng gõ búa, tiếng người hỗn độn trong chốt đưa ra nghe rõ mồn một. Tôi bỗng nghe tiếng thằng “hai thân to” rì rì bay đến và từ trong chốt, “bụp” một phát, liền đó nghe một tiếng “cắc”. Một chiếc pháo cối sáng sáng bừng lên. Thôi chết rồi, thế có hại ông không ? Từ đây tôi nhìn vào chốt rõ mồn một. Lúc này chân tay tôi đã mỏi lắm rồi. Người như muốn rụng cả xương. Chỉ cần động đây một cái là mất mạng. May mà chiếc pháo cối sáng chỉ sáng một chốc rồi tắt ngấm. Tôi mừng quá.

Tiếp tục leo lên đến chạng cây gần ngọn, tôi bám người ngồi lên. Tôi hầu như không thở được nữa. Ngồi nghỉ mệt đã. Lâu lắm (chắc Hàn ta nóng ruột lắm) mà tôi vẫn ngồi kẹp chân giữa hai hay ba chạng cây.

Lấy dao lam từ túi ngực, ì ạch mãi, tôi mới xén tách ngang được một mảng dù. Cả đống dù lùng nhùng đang phủ lên ngọn cây. Miếng dao lam tôi phải bẻ đôi, lại rơi mất một nửa, còn nửa kia, tôi cắt đến cực, đứt rát cả ngón tay.

Khi cả miếng dù to tướng rơi ùm xuống, tôi thở phào. Ngồi trên cao rợn thật, rơi xuống cữ là vỡ lách chết toi. Nhờ trời phù hộ. Không hiểu sao lúc đó, tôi “dũng cảm” và liều lĩnh đến thế. Về đến nhà, tôi vẫn còn hú vía với chuyến đi nguy hiểm ấy.

Tôi thề từ đó về sau, dù có vàng (vàng hẳn hoi đấy) tôi cũng cóc thèm. Dù sao thì thì cũng có một manh dù phủ xác khi mùa khô đến !

Thế đấy !

08/07/1973

Mấy hổm rày mưa liên tiếp. Thế là hỏng “mẹ” nó kế hoạch của Hợp và Hàn rồi. Chỉ còn rủng rẻng hai ba con cá trê lóc bóc đựng trong thùng phi (chúng tôi nhặt được ở hàng rào chốt) nữa mà thôi. Tất nhiên là tôi cũng phải “treo” miệng thôi. Tôi đã ngấy cái món măng chua xào mỡ rồi, đến cồn cả bụng.

May mà hôm nọ, khi tôi đang lên cơn sốt, Hợp và Hàn mò vào rừng lấy được một ít măng, không thì chết. Chẳng biết ăn cơm với gì. Nhẽ ra lấy được nhiều, nhưng thế này :

– Hả ? Tôi giật mình thấy thằng Hàn vừa về.

– Gặp cờ !

– Mìn hả ?

– Không.

Vừa lúc ấy Hợp về : Ô hô ! Hay “nắm’ ! Suýt nữa về với chú Sáu nhé (Hợp ám chỉ Sáu Thiệu, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu).

Đầu đuôi thế này :

Hôm trước đó, tôi và Hàn lấy măng bên này sông. Măng nhiều nhưng bị lính ta lấy hết, đào cứ là tận củ ấy. Lấy măng xong, tôi với Hàn mới nhảy xuống sông tắm ! Hóa ra sông Sài Gòn cũng cạn, nước đục ngầu. Có lẽ bọn ấy sang sông lấy măng rồi kiếm dù cũng nên, quần áo còn vắt kìa. Chúng tôi nói với nhau khi thấy mấy bộ đồ lính ta.

Mấy hôm sau, Hợp và Hàn lại kéo nhau đi kiếm măng, còn tôi ở nhà sốt rên hừ hừ.

Họ rủ nhau qua sông. Dọc theo suối cạn, gặp một bụi tre to lắm măng quá, họ hì hục đào. Lên khỏi suối, vượt qua búi le dầy, nhìn xéo ra, bỗng nhiên Hàn thấy một lá cờ vàng ba sọc đỏ đã ngả bạc đang bay bay giữa trảng.

Ngạc nhiên, rồi bủn rủn cả người, Hàn ta vội khẽ né vào bụi le. Ngay đó, hắn lại thấy một lá cờ sọc đỏ choét nữa phất phơ bay ở bìa rừng, cách lá cờ trước một quãng.

Ngay ngáy, Hàn vừa thụt lùi thì phát hiện thấy một con đường đè xéo lên cỏ tranh dấu hãy còn mới lắm. Hắn đoán là mới chỉ sáng nay.

Im lặng và rùng rợn.

Hàn nhẹ nhàng rút lui xuống chỗ Hợp đang ngồi thản nhiên bóc măng nói không ra hơi :

– Tao… tao … thấy có hai cái cờ vàng ba sọc đỏ cắm phều phệu giữa trảng. Lúc đầu tao định đến nhổ nhưng sợ mìn. Lại thấy thêm một cái cờ nữa ở bìa rừng. Hàn đứng ngỡ ra một lúc. Ừ đúng rồi, hai cái thôi. Hắn ú ớ. Không khéo có biệt kích. Có đường vừa mới có ai đi nữa. Hàn nói mà răng vẫn va vào nhau lập cập.

– Sao ? Hả ? Hợp cầm con dao tông lồm cồm bò lên lại phát hiện thêm một lá cờ nữa cắm gần búi le mà Hàn không thấy.

– Lạ quá ! Hai người thì thào.

– Nó không dám bắn đâu.

– Nó bắt sốn

– Tao có dao tông đây, thằng nào vào tao chém.

Bỏ vội măng vào bồng, hai người lẹ làng rúi lui, mắt lấm la lấm lét.

Một đợt gió từ ngoài trảng thổi thốc xuống dòng sông. Mấy con bìm bịp rên một tràng dài đến rợn người hòa vào tiếng rì rào của cây rừng…

Lội sang đến bờ sông bên kia, họ mới hoàn hồn.

Trên đường về, họ còn phát hiện ra một cái dù pháo sáng màu trắng treo lở lửng trên một ngọn cây cao. Hàn đang định đẵn một cây tre vác đến trèo lên cây, khoèo kéo miếng dù xuống, nhưng nghĩ thế nào rồi lại thôi.

Họ kéo một mạch thẳng về nhà…

Hóa ra mấy cái cờ ấy, lính VNCH cắm từ lâu, hồi còn tranh đất với Công trường (Sư) 9. Bọn 12 li 8 bảo thế đấy.

Mấy thằng cứ cưới như nắc nẻ.

10/07/1973

Viết tếu : MỘT GIẤC MƠ !

Tôi với nàng vào một quán bia. Tiệm rất đông người. Các “nhân vật” cứ trố mắt lên nhìn chầm chập vào người nàng. Tôi phát ghen lên. Nhìn gì kia chứ.

Chọn một cái bàn có hai chỗ trống ở bên góc, tôi nhẹ nhàng bảo nàng :

– Em ngồi yên đấy nhé. Đừng có đứng dậy họ tranh mất chỗ ngồi đấy. Anh lại xếp hàng (Lúc nào tôi cũng nghĩ đến cảnh xếp hàng dài chờ chực, chen lấn mua đồ ở các hợp tác xã mua bán ở Miền Bắc trước đây).

– Vâng. Nàng đáp khẽ rất đáng yêu.

Tôi mua hai chai bia (tôi đang tưởng tượng đến bia La-De mà tôi đã được thưởng thức khi ở hậu cứ), một tảng bánh ngọt và cầm hai chiếc cốc lại bàn. 

Tôi phải đi hai lần mới hết. Nàng âu yếm nhìn tôi :

– Em uống đi, ăn bánh đi.

Tôi nốc một hơi hết chai bia, quên cả rót ra cốc. Nàng nhìn tôi cười, mồm ngỏn ngoẻn nhai bánh.

– Ô ! Em không uống bia à ? Để anh rót cho em uống nhé !

– Cay ! Ai uống nổi ?

– Không cay đâu, ngọt lắm cưng ơi. Em làm một hớp đi.

Nàng lắc đầu nguầy nguậy. Tôi rót ra hai cốc rồi nhẹ nhàng đẩy một cốc đến trước mặt nàng.

– Nào, bắt đầu. Để anh cất đĩa bánh đi. Tôi uống một hớp. Chao ơi, ngon dữ. Cứ như là đường phèn ấy.

Thấy nàng vẫn ngồi yên lặng, tôi khẽ luồn tay qua người nàng rồi kéo nàng sát vào người tôi, ghế kêu đánh két, một tiếng. Đồng thời tay phải tôi nhấc cốc bia lên đưa vào miệng nàng. Nàng nhăn nhó cầm lấy cốc bia từ tay tôi. Đôi môi hồng hé mở, nàng uống một hơi hết cốc bia. Liền đó nàng vội vàng cắn luôn miếng bánh để đưa cay.

Tôi thả nàng ra và vỗ tay hoan hô. Nãy giỡ, hai gã ngồi ở bàn cạnh chúng tôi cứ há hốc mồm xem nàng uống, thấy vậy cũng vỗ tay theo, cười ha hả, vẻ khoái chí lắm :

– Con gái biết uống bia mới tốt. Phải biết hút thuốc nữa này. Ha ! Ha !

Hai gò má nàng đã đỏ rậy lên, đôi mắt long lanh, trông đến là xinh, cứ như là một bông hoa vậy. Chuyến này tôi phải mau “đăng kí” để tôi với nàng “xáp vô nhau hạnh phúc mới được”. Từ bữa bia đó, tôi với nàng cứ ríu rít bên nhau. Tôi ghì sát người nàng vào tôi, xương sống nàng kêu răng rắc :

– Em nói là em yêu anh đi.

Đôi mắt nàng lim dim chịu đựng. Tôi ghé sát vào đôi môi nàng. Ôi đôi môi chúm chím đỏ tươi như một quả đào. Hạnh phúc là đây. Hai hàng nước mắt long lanh trên đôi má ửng đỏ của nàng, đáng yêu làm sao. Tôi hôn nàng một hồi lâu, thật nồng nàn, thật yêu đương, vào đôi môi ấy. Người nàng nhũn ra trong người tôi. Tất cả thớ thịt đường gân trong tôi bừng dậy, rất tươi tắn trẻ trung. Trái tim tôi như ngừng đập. Dòng máu trong người tôi như ngừng chảy. Tôi yêu nàng biết bao.

– Anh yêu em “quá xá” em ơi. Em có hiểu cho lòng anh không.

Nàng trong lòng tôi. Nàng vẫn đó, như một bông hoa đang lứa dậy thì. Có bao giờ tình yêu giữa chúng tôi lại bị rứt ra được không ? Không bao giờ, tôi đã thề với nàng, nàng ơi. Rồi trước mắt tôi, những năm tháng ở chiến trường lần lượt hiện lên. Những quá khứ của một thời huy hoàng của tuổi thơ đã qua đi. Tôi lắc đầu xua đuổi. Không, không thể nào quay lại nữa, tất cả là dĩ vãng, tất cả chỉ còn lại em, em ơi. Tôi lại nhớ đến lời của I. Rốt-sin trong cuốn tiểu thuyết dịch từ tiếng Nga “Hai chị em” của Alexei Lép-Tônxtôi mà tôi đã đọc hồi còn học Đại học) : “Những cuộc chiến tranh sẽ chấm dứt, những cơn bão táp cách mạng sẽ thôi gầm thét. Chỉ còn lại bất diệt, tấm lòng dịu dàng, trìu mến và đầy tình thương của em”.

22/07/1973

Tôi đã được một tấm đắp vải dù hoa. Hai múi gốc đàng hoàng. Thật là một điều khoái chí. “Khao khát trăm năm mãi đợi chờ. Hôm nay vui đến ngỡ trong mơ”… (tôi mượn lời thơ “Việt Nam máu và hoa” của Tố Hữu).

Dù sao đi chiến đấu đợt này, trời đã phú cho tôi một số “của chìm” tươi phát điên lên được. Này nhé : chiếc bồng bằng loạt bạt dù chính gốc, chiếc tấm đắp vải dù hoa thứ thiệt nè. Lại còn cái đèn Aneon “automatic” của đồng hương tặng nữa chứ. Còn cái gì nữa nhỉ ?

Thôi được, bằng ngần ấy thứ cũng đã hả hê lòng dạ tôi lắm rồi. 

Viết thêm về đèn Aneon “automatic”

Lính tráng ở Miền Đông tự chế ra đèn thắp dầu hoả (dầu hôi) để đi đêm trong rừng. Chỉ cần kiếm một cái lọ to vừa phải có nắp vặn để đựng dầu, một ống inox hay sắt làm ống ty giữ bấc và một vỏ loong sữa bò còn nguyên đáy. Đục nắp lọ để gán cố định cái ống ty giữ bấc. Đục một lỗ thủng hình tròn vừa bằng đường kính cổ lọ ở khoảng giữa thân vỏ loong để đút cổ lọ vào rồi vặn nắp chặt lại. Điều chỉnh ống ty sao cho ngọn lửa nằm ở vị trí trung tâm trong vỏ loong. Bỏ bấc vải vô ống ty và rót dầu. Vậy là có ngay một cái đèn “Hoa Kỳ” thật tiện dụng để hành quân đêm trong rừng. Không sợ gió thổi tắt. Không sợ máy bay trinh sát phát hiện. Mấy tay tiếp phẩm đi xe đạp ban đêm có thể buộc đèn vào cổ ghi-đông, đạp xe nhảy ổ gà thoải mái trên đường rừng.  Đèn Aneon “automatic” của tôi thì “đặc biệt” hơn, chỉ dùng thắp dưới hầm, hay trong nhà lán. Ống ty được thiết kế vào ngay cổ lọ đựng dầu, có hệ thống lò xo để có thể nhấn ống ty lên xuống theo cơ chế hoạt động giống cái bút bi. Khi không thắp đèn, chỉ việc vặn nắp vào lọ kín cả ống ty. Bỏ đèn vào bồng, hoặc làm thêm cái móc treo treo vào đai quần đang mặc để đi đường. Khi dùng, mở nắp ra, ống ty giữ bấc tự động bật lên. Châm lửa. Thật là “automatic” ! Cái tên “Aneon” chắc ông lính đồng hương, mà tôi quên tên, lấy tên hiệu từ ống ty inox, hay từ cái lọ, mà tôi cũng quên nốt, thì phải.

Còn một điều nữa, dạo này chúng tôi “cải thiện” món chiến lợi phẩm khá được việc (bí mật đấy) nhưng gây ra bao nhiêu điều rắc rối. Cấp trên cấm tiệt không cho chúng tôi bén mảng đến những chỗ dù rơi có kiện hàng. Bọn bộ binh đoàn 200 gầm gừ giữ rịt những kiện hàng béo bở. Bọn tôi bị lộ tẩy đấy. Tai hại thật. “Thủ trưởng”, cùng tên Khánh với tôi, đã đến hầm trực chiến của bọn tôi kiểm tra.

Đại khái hòm đựng gạo sấy làm lộ beng hết rồi. Thì để hơ hớ thế kia. Còn trong chiếc ăng gô, ông ta thấy ngay mấy khoanh giò đỏ loét. Hàn chuẩn bị cho lên bếp thì ông ta xịch đến, chẳng kịp đậy nữa.

– Thịt chúng em xin được mấy hộp đấy thủ trưởng ạ ! Tôi đỡ lời ông ta nhắc nhở trong lúc ông ta vẫn nhìn chăm chú nhìn nồi cơm sấy.

– Các đồng chí học chính sách chiến lợi phẩm rồi chứ. Phải chấp hành thật nghiêm chỉnh… Vân vân và vân vân… 

– Thủ trưởng ra xem trận địa ạ.

Tất nhiên là chúng tôi không muốn kéo dài thời gian chẳng hay hớm một tí nào.

Cuối cùng thì Hàn cũng phải làm một bản tự kiểm điểm không tránh khỏi. Chán thật.

Đường từ trận địa về đã có lính canh.

– Ồ ! Đâu cũng sẽ vào đấy thôi.

– Còn ăn được đến hết tháng (số đồ hộp, cơm sấy… chúng tôi kiếm được).

– Dù sao bọn này cũng chẳng cần (!).

29/07/1973

SÁNG

– “Ù” đi đại phó (Chơi bài Tiến lên) !

– Ù Ù cái gì ! Để làm ván cờ (Tướng). Chốc nữa khô sương còn đi chặt cây làm bàn, san nền chứ. Ù được một hội thì hết toi buổi sáng.

Ông ta gọi anh Thanh y tá (người Đông Sơn, Thanh Hoá) của mũi chúng tôi lên đấu chọi. Cái món cờ thì tôi chẳng thích. Tôi đã từng tập nhưng cuối cùng chẳng có một “nước” mẹ gì.

Đêm qua trời lại mưa. Chúng tôi kéo nhau đi chơi đồng hương bên mũi Hậu cần 12 ly 8 mãi đến 9 giờ khuya mới về. Mưa ướt lướt thướt. Chúng tôi được đồng hương thết đãi một chầu bắp luộc. Đã lâu rồi, nay mới được ăn bắp luộc, tôi cảm thấy ngon quá chừng. Tôi còn nhớ cũng tầm này năm ngoái, hồi chúng tôi còn hành quân trên đường dây Giải phóng, qua trạm T7B, tôi với Nhời cảnh vệ đem một bộ dây võng bố (võng vải ka-ki được trang bị trước lúc vào Nam mà tôi vẫn ém kín dưới đáy ba-lô) đổi cho dân Miên được gần ba chục cái bắp, sau đó đem về luộc, đánh chén tùm lum. Mới một năm trôi qua thôi mà tôi cảm thấy đã lâu đến hàng thế kỉ.

Không biết chúng tôi có được hướng ngô tăng “ra” (lính thường nói tếu táo tăng “ra”, tăng “vào”) của đơn vị hay không ?

Từ Kà Tum, Vũ Tiến viết thư cho tôi bảo rằng ngô vừa ra bắp thì đã ngập chìm trong nước và được bắp nào, kà-héc (một loại khỉ) đã thu hoạch hộ. Dù rằng Long ”già” có khua kẻng hò la suốt ngày. Nuôi Long “già” thì chỉ lấy phân bón ruộng mà thôi. Nói ra thì mất quan điểm. Nghe anh Thanh y tá vừa ở Kà Tum về (mang thư tay của Tiến cho tôi) nói chuyện, khiến chúng tôi phì cười.

Đơn vị vẫn tăng “ra” quá sá. Các B đều có người về từ các mũi chiến đấu. Một điều mới mẻ là khắp nơi đã bắt đầu “tiến lên” “chính quy” “huyện đội” (hiện đại, lính nói tếu). Đơn vị tôi cũng thế. Bếp ăn đã tổ chức ăn kiểu tập trung (thay vì tự do, tuỳ tiện theo tiểu đội xưa nay) : khi có kẻng cơm, trực ban xếp hàng lính tráng, lần lượt chỉ chỗ vào bàn. Áo phải bỏ vào quần. Xếp đồ đạc ngăn nắp vuông thành sắc cạnh, v.v… “Chính quy” “huyện đội” ghê thật ! Anh Thanh vừa kể vừa pha trò. Riêng mũi chúng tôi còn tiếp tục trực chiến dưới này thì vẫn cứ tùm lum. Chẳng cần “chính quy”. Cúng tôi đã quá quen với sự tự do, bệ rạc. Một đội quân chẳng khác gì dân công. Quần áo loang lổ, nhàu nát. Trang bị ngoài vũ khí ra, tất tật tư trang, nhét hết cả vô bồng. Ở thì chui rúc trong rừng sâu. Thức ăn thì gần như tự kiếm, tự cải thiện… Nghe phổ biến rằng từ bây giờ trở đi, đơn vị sẽ phải “tiến lên” “chính quy” “huyện đội”, cảm thấy gay go !?!

Chính quy “huyện đội”, tôi lại triền miên với những dòng suy nghĩ trầm tư. Đời tôi không biết sẽ trôi dạt đến nơi đâu. Năm tháng cứ trôi qua, những cơn sốt rét thỉnh thoảng lại hành hạ. Tôi khao khát một tình thương, một tình yêu. Xung quanh tôi chỉ có các chiến hữu và núi rừng hiu quạnh. Liệu tôi có bị khô héo hay không. Người ta đồn rằng các cô gái Bắc Kỳ đã vào nườm nượp ở Sa Mát, Thiện Ngôn. Có phải như Điện Biên những năm trước hay không ? Tôi lắc đầu xua đuổi. Tôi đang nghĩ về quê hương, những người thân, bè bạn ở chốn xa. Hi vọng và “bi vọng”…

Tống Lê Chân, có lẽ chúng tôi còn phải trực chiến ở đây lâu dài. Những ngày đình chiến, dù sao chúng tôi cũng cảm thấy một không khí êm đềm thật sự. Dù thảng hoặc, máy bay phản lực, trinh sát và máy bay ném dù tiếp tế đồ vào chốt vẫn bay qua.


02/08/1973

Cứ 42

Chiều đang lại gần. Sấm chớp phía trời Nam vẫn ầm ì đe dọa một cơn mưa. Chúng tôi ngồi quây quần quanh bếp. Oánh và Châu đang xắng lên lo bữa cơm buổi chiều. Không biết ngày mai chúng tôi sẽ hành quân hướng nào. Đạn dược mang vác sẽ ra sao.

– Có lẽ ngày mai mình đi qua Minh Thạnh cũng nên.

– Tao bảo thế nào cũng phải qua hậu cứ “Lông Mễn” vượt đường 13.

– Theo đường Lộ Cây Trường tức là mai phải đến cầu Thị Tính chứ gì. 

– Không khéo phải mang đạn.

– Mang thì mang, ai đâu chẳng biết. Tao là đếch phải đến phần rồi. Anh Thanh y tá nói dứt khoát.

Chúng tôi rời Cần Lê với một mệnh lệnh khẩn cấp và như “b… ”, theo lính tráng nhận xét. Thế là phải rời căn nhà ăn lợp cỏ gianh vừa hoàn thành xong với đầy đủ bàn ghế, giàn củi, bếp nước đàng hoàng cho bảy người. Phải rời con suối đã cho bao nhiêu ngày “xi” cá sướng miệng và nước đến là trong. Phải rời cái chốn kiếm chác được miếng hay trong những đợt máy bay ném dù tiếp tế. Phải rời bỏ tất cả… Chúng tôi méo mó trước những đống đồ lề lỉnh kỉnh. Tiếc ngẩn ngơ.

Cuộc hành quân mới vài ngày đường đã làm tôi mệt lử, cảm thấy cơ khổ đến tột cùng. Nắng, nắng và mang vác nặng đến chảy máu vai. Bẩn thỉu, nhếch nhác đến lúc phải kêu trời.

– Từ đây trở đi là hết cái ăn rồi đây.

– Cơ khổ quá sá rồi đây.

– Bọn núi Bà Đen sướng thật.

Tiểu đội của tôi phải để Hợp về bổ sung vào C1 hiện đang thiếu quân, để thành (gần) một đại đội, do đại phó Bút và chính trị viên phó Thiều chỉ huy.

TRỞ LẠI BÌNH DƯƠNG LẦN THỨ HAI VỚI SỰ CƠ KHỔ NHƯ THẾ NÀO 

19/08/1973

Lại một đợt “không vận” nữa bay qua. Tiếng “phạch phạch” ầm ầm của trực thăng “cán gáo”, “cẩu bay” (trực thăng CH-47 Chinook của Mỹ) làm rung động cả cánh rừng, như muốn bốc cả mái nhà lợp lá trống quân mỏng dính của chúng tôi. Xen vào đấy, là tiếng rú ném bom của phản lực. Tiếng “cắc đùng” chỉ điểm của “đầm già”. Tiếng pháo, tiếng súng con của một cuộc đụng độ từ hướng Đồng Xoài vọng lại. Tất cả những âm thanh ấy như muốn chứng minh cái gọi là “hòa bình thực sự” sau ngày đình chiến lần thứ hai. Đất Phú Giáo Bình Dương đây ! Công trường (Sư đoàn) Bảy (… ”Bể”) đây ! Chúng tôi đang ở đấy. Những trái đạn B72 của chúng tôi đang chuẩn bị mở hòm.

Thế là đã xa Tống Lê Chân hơn nửa tháng rồi. Giờ đây là một cứ địa hoàn toàn mới. K22, tiểu đoàn cối 120ly của công trường “Bể” mà chúng tôi tạm thời phối thuộc, dành cho chúng tôi một thời gian đủ dài để xây dựng cứ. Nhà cửa hầm hố đã làm xong, nói chung là tạm ổn. Đời lính của tôi chưa từng làm một cứ nào như thế này.

Còn ăn uống ?

Chao ơi là một sự kham khổ ? Tép khô rát lưỡi với 405 Đ miền Nam một kí. Rau bướm phải tận dụng cả lá sâu, lá già, mà phải sục sạo lùng tìm trợn cả mắt trong rừng. Măng thì… hiếm lắm mới được một bữa gọi là. Đang về cuối mùa mưa mà. Thỉnh thoảng đổi món lá giang nấu canh chua tép khô với tương khô …

Tôi nhăn nhó viết lại lần thứ hai :

ĐÂY LÀ ĐẤT BÌNH DƯƠNG ! 

02/09/1973

Lại đến ngày mồng 2 tháng 9. Cái ngày lễ và đồng thời là cái ngày Sinh Nhật của tôi đang cựa quậy trong một cánh rừng sâu của đất Bình Dương với một khí hậu độc địa vô cùng nối liền với khu Bà Giá.

Tôi tròn 21 tuổi và có lẽ đang sang ngưỡng cửa thứ hai của cuộc đời.

Xung quanh tôi là “chính quy” và “hiện đại”. Những khu nhà lá, hầm thùng bị vây trong rừng muỗi. Còi xung quanh thổi tí toét…

Cũng ngày này năm ngoái, tôi đang nằm ở thu dung. Thế mà đã một năm rồi. Bao sự đổi thay. Bao sự kiện xảy ra. Những ngày đánh nhau và những ngày sốt rét vắt kiệt sức người đã đẩy tôi đến nơi đây. Tôi vẫn bị sốt rét và dịch cúm tự đâu lại vẫn đập búa vào đầu tôi. Những dung dịch đặc sệt màu xanh vẫn kéo hết từ đôi hố mũi đến cổ họng của tôi ngày tháng. Và hơn thế nữa, dạ dày tôi lại bị thủng rồi, bao nhiêu cơm nước nắm gạo rang cũng sạch “lì’.

– Bọn mày ạ, tao đi đến đâu cũng thấy bộ đội kêu đói. Bốn vừa nói vừa cười nhăn nhở. Bộ mặt đầy trứng cá của hắn đỏ phừng phừng.

08/09/1973

Hôm nay là chủ nhật, môt ngày đẹp trời và nắng ráo. Nắng chảy lênh láng xuống mái nhà, xuống sân cươi. Cả khu rừng lấp lánh vàng…

Đơn vị tiến lên “chính quy” nên chúng tôi được nghỉ cả ngày Chủ Nhật. Tuy nhiên mấy anh chàng tìm măng về độn vào cơm vẫn đang quanh quẩn ngoài rừng. Chúng nó đi về kể rằng măng khan hiếm, bói không ra. Chặt phạt cả bụi tre lớn đầy cành gai mới khoèo được một vài ngọn măng đã mọc cao nhăng nhẳng. Mặt mũi chúng nó bơ phờ. Từ tiêu chuẩn ăn một ngày năm lạng gạo, bắt đầu từ hôm qua, đơn vị cho rút xuống chỉ còn hai lạng một ngày ! Tất nhiên, cái đầu chúng tôi đã được “quán triệt” nhiều và cái miệng không kêu ca gì. Nhưng cái bụng thì chẳng biết điều, cứ cồn cào, làm bộ mặt nhăn nhó suốt ngày.

Từ sáng đến giờ, ngồi quanh bàn trong lán tôi, mấy hắn đánh cờ tướng. Đánh kiểu gì mà mồm miệng cứ la chí tỏi, ầm ầm như kẻ cướp. Không biết ăn gì mà các hắn lớn miệng thế. Cứ là phồng má trợn mắt cãi nhau. Chỉ tội nghiệp mấy quân cờ.

Tôi đã viết xong mấy khẩu hiệu dán hội trường và đung đưa chiếc võng chờ cơm. Chiều hôm qua cả C chúng tôi vào tiểu đoàn K22 nghe thời sự miền Bắc. Ôi chao nghe chuyện mà “phấn khởi” đến thế. Này nhé, năm triệu lao động mà chủ yếu là nữ ngoài Bắc sắp sửa sẽ vào đây. Những anh lính cực lâu năm ở trong này cỡ tuổi 65, 66 gì đó sẽ “được” kết hợp với họ xây dựng công trường, nông trường ở miền Nam, xây dựng làng mới như “làng pháo Kà Tum” chẳng hạn. Gái Bắc Kỳ đang ở Sa Mát, Thiện Ngôn kia kìa. Cứ yên chí là bưu điện sẽ thông thương. Được ở lại xây dựng quê hương mới là “khoái” rồi…

Quay lại vấn đề năm lạng còn hai lạng, chúng tôi dài cổ chờ xe đạp chở ngô, sắn “tăng ra” ở Kà Tum xuống độn cơm chứ. Cả đơn vị ở Kà Tum chỉ có một chiếc xe đạp, nghe nói hiện còn đi mua thực phẩm. Tính ra phải mất nửa tháng nữa mới có cái ăn thêm…

Thời gian cứ trôi đi vùn vụt. Đời tôi sẽ trôi dạt đến một hoàn cảnh nào đây ?

13/09/1973

ĐÓI ! ĐÓI !

Chưa bao giờ cái đói hành hạ chúng tôi, đến thế. Và lần đầu tiên trong cuộc đời, tôi cảm thấy miếng cơm đã trở nên quyết định số phận và cuộc sống bi đát hiện thời của tôi. Tôi cảm thấy bất lực trước sức khỏe đang giảm xuống. Xung quanh tôi, vấn đề hai lạng đã trở thành một tiền đề để từ đó, đẻ ra những cuộc bàn cãi, những cái ước vọng, thèm khát cỏn con, những câu nói cửa miệng suốt ngày, mà nội dung không ngoài chuyện đói.

Sáng nay tôi đi đào củ về. Người mệt nhoài. Quần áo lấm lem bẩn thỉu. Cái việc “đào củ” đã trở nên cấp thiết đối với đại đội chúng tôi. Những củ nho, củ mài, bất kể là cũ hay mới, hễ còn “xem xem” được là vất tùm lum vào nồi để cõng cơm, độn vào cho đầy ruột ! Những củ mài còn đỡ. Chứ củ nho thì ăn sượng quá chừng (đã đến mùa của nó đâu cho cam). Nhưng theo được củ mài mà đào thì kiết xác, hố sâu hoắm. Đến công trường “Bảy – Bể” này, đi ra giữa trảng không khéo sập hố củ mài không leo lên được mà chết. Một buổi sáng, hai chúng tôi đào mãi mới được khoảng lưng bồng.

Mỗi buổi sáng đi như vậy, chúng tôi đều được chính trị viên Thiều quán triệt chi li. Tôi vừa hì hục đào được một hố nông choèn choèn cạnh đường bò (đường cho xe bò kéo đi), đất ướt dính kết vào xẻng, ướt át tùm lum, thì gặp một số người vai mang bồng bị đi qua :

– Đào củ a các “boòng” (anh, tiếng Miên) ?

– Ô củ mùa này mà độn cơm thì ngon phải biết ! Tôi chẳng trả lời.

– Nè, về 22 nhớ mang thêm cái xẻng nghen !

Tiếng cười, tiếng hỏi lần lượt đi qua. Tôi đang nghĩ về việc tăng gia ở hậu cứ. Thế là phải xa những nương ngô, nương sắn bạt ngàn hai bên Lộ Đỏ dẫn về Kà Tum. C1 còn đỡ, chứ tăng gia của C2 chúng tôi thì bê bết quá xá. Ngô trồng “nhiều quá”, nên “nhường” bắp hết ráo cho kà-héc, “không thèm” lấy lại vốn. Khoai sắn thì cho mưa ngập “bớt” đi. Đại khái là ở hậu cứ mà hai lạng ngày thì cũng đói meo. C1 thì ra trò rồi. Họ đang bàn cách chở lương thực xuống đây cơ mà. May ra bọn tôi cũng được nhờ.

Cái việc năm lạng, hai lạng của chúng tôi cứ ám ảnh, đẻ ra mọi cái tư nhân nhỏ mọn trong cuộc sống hàng ngày. Các hắn đói quá, cứ trưa hay chiều lại, khi rảnh “việc nhà nước” là xách xẻng đào măng hay đào củ, hoặc kiếm một vài cọng rau rừng, “xi” thêm. Tiểu đội tôi cũng vậy, ai cũng “tự giác” kiếm thêm. Khi kiếm được nhiều thì mượn nhà bếp cái nồi to. Kiếm được ít, chúng tôi nhét hết ráo vào cái xoong cỏn con bằng lòng bàn tay mà thằng Hàn nhặt ở đâu về rồi đưa ra sau nhà nổi lửa. Hai ba hắn xúm xít phồng má thổi phù phù. Khói lửa tèm lem.

– Chưa chín lắm ! Mỗi người đã vón một củ chả biết củ gì, nóng quá, miệng xuýt xoa, cười nhăn nhở.

– Ê củ này sượng quá, chỉ toàn nước.

– Củ mài ăn “khá” thật. Ha !

– Chẳng bõ bèn gì.

(Tôi nghĩ thầm, nếu “em” mà tới lúc này thì đẹp nhé. Quân “giải phóng” có lúc cũng phải thế này thế nọ, em thông cảm chứ).

Thế mà tôi đã gặp trường hợp như thế đấy. Tôi với Hùng đào được ít củ xong, hai thằng đang hí hoáy rửa dao, rửa xẻng ở hố nước nông cạnh đường bò. Tôi đào được toàn củ nho, hắn Hùng chả được mấy củ. Hắn ta vơ mấy nắm lạc tiên mọc leo trên mấy bụi cây nhét dứ vào bồng. Tôi nhón tay vào bồng chọn một củ nho vừa ý và cầm dao gọt :

– Tao đã ăn sống mấy củ trong kia rồi mày ạ. Ngọt đứ đừ. Đói quá !

– Ô, có con gái mày ơi. Hùng xách vội chiếc bồng ném tạt vào trảng tranh.

Tôi nuốt vội miếng củ nho đang nhai dở và cũng thủ luôn củ nho gọt dở vào bụi rồi né tránh. Hai chiếc xe thồ lỉnh kỉnh đi qua suýt đâm sầm vào người tôi, bùn nước té lên. Bọn địa phương (du kích ở Bình Dương) lại hành quân đi đâu, tôi nghĩ bụng. Sau hai chiếc xe thồ là mấy người đi bộ, chỉ có một hắn là con trai. Cô gái đi đầu bước vội qua người tôi, một chân sỉa luôn vào hố nước. Cô ta vội vã khỏa chân và đi luôn, miệng kêu : Ô, sụt bùn rồi ! Chính cống Bắc Kỳ ! Tôi khẳng định. Chỉ một giây lát trôi qua, ánh mắt cô gái nhìn lên, tôi vội vàng nhìn xuống : chiếc áo màu xanh lá cây bạc phếch, chiếc quần nâu mốc thếch, rách vá víu tèm lem đầy bùn đất của tôi. Và cũng chỉ giây lát ấy, tôi cảm thấy như cuộc đời thụt xuống vực thẳm. Bao nhiêu nỗi cấu xé lòng tôi. Tôi vẫn đứng lặng bên chiếc bồng củ nho bẩn thỉu. Đoàn người đã đi qua. Tôi thẫn thờ :

– Hai đứa đầu Bắc Kỳ mày ạ. Nó bơ (ngó lơ) mình đi. Tôi nói với Hùng.

– Thông cảm cho nó chứ. Vào đây nó cũng như mình thôi.

Hắn nhăn nhở cười

Tôi tìm lôi củ nho gọt dở ra và cho vào miệng.

– Về đi mày !


28/09/1973

HẬU CỨ 42

Tôi lại trở về hậu cứ 42.

Chúng tôi nhận được lệnh giữa lúc còn làm trận địa ngoài Lộ 14 cách hậu cứ K22 gần 6 tiếng. Mới khoảng 8 giờ sáng, đã thấy Bốn và Thiện, hai chân bước như chạy từ hậu cứ ra, quần áo ướt tèm lem. Vừa đến đã bô bô :

– Về, về ! Về hết !

– Bọn mày được về hậu cứ (Kà Tum) đấy, tiểu đội anh Tín đã lên thay.

Bốn hý hửng nói với chúng tôi.

– Thật không ? Ô sướng quá. Về đi mày ơi, đừng đào măng nữa !

Chả là tôi với Hàn buổi sáng được cử đi lấy măng. Mấy thằng tiểu đội kia đã nhón xa. Chúng tôi lười, chỉ tìm quanh quẩn chỗ trú chân. Mới được vài ba củ măng tòng teng, nghe vậy, vội reo ầm ĩ và kéo về nhà.

Thế là sau bữa cơm trưa lúc 10 giờ, no vỡ bụng với bao là măng với bí, chúng tôi kéo nhau rời trận địa đường 14 khí thế tưng bừng. Sau mấy ngày làm trận địa, chúng tôi đã mệt lắm rồi, bụng đói chang giữa nắng trưa. Mà thật ra, làm trận địa này, tôi chẳng ưng ý thế nào. Cự li quá gần và xạ giới toàn bị vướng. Để bắn tên lửa B72, từ nơi đặt đạn và bảng điều khiển (thường cách đạn khoảng 1m50 để cắm dây nối) đến mục tiêu có cự ly trong khoảng 500m đến 3000m. Xạ giới yêu cầu bằng phẳng, không có vật cản đường đạn bay. Với cự ly và xạ giới hiện tại, may ra thì đánh được mùa khô. Mùa mưa cây lá lên nhanh rồi các ụ kiến, ụ mối phát triển, cao nhấp nhô, chắc chắn làm vướng đường đạn. Biết vậy, nhưng mình là lính lác thấp cổ bé họng, làm thế nào cự (phản đối) được.Tôi nghĩ vậy. Biết được tin rời khỏi nơi này, tôi sướng quá.

Về lại hậu cứ K22, gặp lại anh Đề, C phó, đi cùng để chỉ huy và những người bạn cũ sau gần một năm cách xa. Tiểu đội anh Tín lên thay gồm 5 người. Anh Tín, A trưởng, vẫn sốt, người rất yếu. Bính thì khỏe quá, từ đầu năm tới giờ chẳng sốt.

Thế nhưng, chưa kịp chuẩn bị về Kà Tum, chúng tôi lại nhận được mệnh lệnh gấp. Toàn bộ đơn vị phải có mặt tại hậu cứ 42 ngày 27/09 để nhận lệnh mới. Thế là sau hai ngày chuẩn bị gạo nước và gửi đạn lại K22, chúng tôi lên đường. Hai tiểu đội của C1 chúng tôi ở đây thành một trung đội. Tiểu đội của Thiện do đi Viện gần hết nên phân bổ số lính còn lại cho toàn đại đội.

Trưa hôm nay, chúng tôi đặt chân đến hậu cứ 42. Phải chậm lại một ngày. Tối qua chúng tôi ngủ lại xã Minh Thạnh, một xã của huyện Chơn Thành đã được “giải phóng”. Minh Thạnh đã có một trường cấp một mới dựng. Đặc biệt, chúng tôi gặp một cô gái kháu khỉnh lúc tôi và thằng Hàn, thằng Chính đi lang thang trên đường sau bữa cơm chiều.

– Phải rời công trường “Bể” à  

– Thoát khỏi cảnh đào củ ở K22 rồi á !

– Đi đâu cũng được, miễn là ra khỏi khu vực Phước “bẩn” này.

03/10/1973

VỀ ĐƠN VỊ Ở KÀ TUM

– A ! đã về đấy à !

– Khỏe không Khánh ơi ? Sao mày đen thế.

– Ô ! Thằng Vũ, thằng Hàn, thằng Châu… Bọn mày đen quá xá !

Tiếng reo hò, tiếng chào hỏi rộn lên khi chúng tôi bồng bị đồ lề lếch thếch kéo nhau về đến hậu cứ. Một cảm giác xúc động trào lên tràn ngập người tôi. Bao tháng trời cách xa, nay tôi lại về đơn vị, lại gặp những người đồng đội thân yêu. Tiến của tôi đâu rồi ? Chiến đâu ? Những nụ cười, những bắt tay, những câu chào nhau ríu rít làm nhộn lên cả một khu hội trường.

Đây là hậu cứ mới. Tôi hoàn toàn cảm thấy xa lạ, cảm thấy một sự choáng ngợp trước những công trình kiến thiết của đơn vị.

Những hàng rào mắt cá chạy thẳng tắp. Những căn nhà lợp lá trống quân chói nắng. Kia xe bộ luyện. Lại nhớ những ngày huấn luyện trắc thủ ngoài Bắc thân yêu.

Lần thứ hai, tôi lại đặt chân về đến hậu cứ sau những đợt chiến đấu dài ngày. Mỗi lần một hậu cứ mới, kể từ khi rời hậu cứ Chân To. Hậu cứ này cách hậu cứ trước chỉ một con suối. Bên này là đất cát, bên kia là đất đỏ. Mùa mưa nước ngập đỏ tèm lem. Xe máy sục trong bùn. Tăng gia cũng ngập nước. Tiếng máy phát điện nổ ầm ầm trong hậu cứ rền xa.

Thế là tôi không gặp Tiến. Tiến đã đi Bù Đốp diễn tập rồi tham gia chiến dịch luôn từ 25/09. Tôi về quá muộn. Đến bao giờ mới gặp lại Tiến đây ? Còn Phạm Chiến đã “tham gia xây dựng Viện” mất rồi. Không còn ai quen biết hơn nữa để cùng trò chuyện. Tôi ngao ngán quá.

Bắt đầu là những ngày rèn luyện ở đơn vị và tăng gia.

Bắt đầu là những ngày tạm rời cây súng.

10/10/1973

“RA BẮC”

Một tuần đã trôi qua, tôi trở về hậu hậu cứ Kà Tum, lúc mùa mưa đang hết. Dạo này trời rất nắng ráo nhưng vẫn còn những cơn mưa rải rác suốt ngày. Trời trở lạnh, đêm đã phải trùm chăn. Tôi đã đỡ rức đầu vì chiếc máy phát điện ngừng làm việc mấy hôm nay ở nhà quân khí cạnh B chúng tôi. Xe bộ luyện đang kì cạch chữa. Tôi về mới tập bắn được hai bận. Lâu không bỏ mắt vào ống nhòm, lại đau yếu, cầm cần điều khiển tự nhiên thấy gượng gạo. Đạn trong máy nhảy tùm lum.

– Ông chọc tôi đấy à !

Tôi ngó mắt vào khối tính, rồi nhìn Sâm “già”. Hắn nhe răng cười :

– Bắn đi, ai tăng nhiệt độ đâu (để thay đổi cự ly và chế độ bắn). Máy nó thế đấy.

Ngồi trên xe bộ luyện, tôi có một cảm giác nôn nao cả người. Chính quy “huyện đội” nên trên xe gắn thêm một bảng nội quy kếch sù…

Tôi đã tham gia trồng khoai. Mấy hôm rày mưa liên tiếp nên không biết khoai sắn ra sao. Riêng hai ngày hôm qua, nước suối tràn lên ngập từ B1 đến suốt B3. Nước lênh láng trong nhà ăn, nhà bếp, phòng quân y. Tôi thấy mấy chú cá chui cả vào lò bếp. Nước ngập đến quá đầu gối. Bọn anh nuôi không có củi khô nấu kêu quá sá. Lợn bơi sì sụp trong nhà ngoài sân.

Về hậu cứ, chúng tôi đỡ đói vì đã ăn sáu lạng, nhường cho lợn một lạng. Nhưng thức ăn thì chẳng có gì nhá, ngoài mấy con cá khô rát cổ với đĩa nước mắm gạo rang “không cần gì nhiều” mì chính. Thỉnh thoảng mới được một bữa rau tươi, mỗi anh một thìa cà phê bí đỏ xào, hoặc một vài cọng rau muống già.

Thế nhưng ở hậu cứ, tôi vẫn thấy thoải mái. Đêm, hoặc trưa lại, là những tiệc trà mà tiêu đề chính không ngoài chuyện “ra Bắc !”. Đơn vị tôi vừa khám sức khỏe cho một đợt đi A (A Bắc, B Nam) khoảng chục người. Không biết có thật không nhưng thế là phấn khởi rồi. Đây là một buổi chuyện vợ con :

– Thôi ông đừng nói thế, vợ ông có viết cho ông bảo là còn chung thủy nhưng nó để cho thằng khác đ… rồi.

– Ha ha ! Nó lấy chồng thì mình về vớ con khác chứ.

– Này ông H. mà ra thì tha hồ mà yêu đương nhé. Các bà già có mõ thì theo đứt đuôi.

Chúng tôi cười típ mắt.

19/10/1973

Trời đang chuyển sang mùa khô. Nắng kéo dài bốn, năm hôm nay. Chiều nay phía Tây Nam trời sấm động ồn ào nhưng rồi cơn mưa lại tan đi. Tôi đang dấn bước một mình trên con đường đất đỏ Kà Tum. Nắng đã làm khô dần những đống bùn mà xe cộ và người đi lại làm nham nhở trên đường.

Ngã ba Kà Tum bây giờ vắng ngắt. Thảng hoặc một vài người qua lại. Nhà cửa ở đây đã dỡ đi để lại cơ lại cơ man nào là bã mía, vỏ cam trắng trẽn. Hai quả bom thả xuống dạo vừa rồi đã làm dân ở đây bạt vía bỏ đi chỗ khác. Dấu ấn còn đó là hố bom sâu hoắm và đất đá bắn tung lên lòng đường.

Hàng hóa dạo này mắc quá, tiền tiêu xài như rác.

– Trà “Củ Măng” bao tiền một gói thím ?

– Tám chục rịa chú ạ.

– Còn bịch thuốc kia.

– 40 !

– Thím cho một gói trà và hai bịch thuốc đi. Chà hàng “mắc” quá.

Tôi phải lội bộ lên quá cầu Kà Tum để mua hàng. Cầm tờ 500R của anh Khang nhờ mua mà cảm thấy như cầm một tờ giấy.

Giá hàng lên nhưng tiền ăn chúng tôi vẫn 10 rịa một ngày, tiền Miền Nam là 28Đ.

Trên đường về, đang lững thững suy nghĩ vẩn vơ thì một chiếc xe Honda chạy vụt qua. Xe đi thêm một quãng ngắn thì bỗng dưng tạt sang vệ đường rồi dừng lại ngay trước mặt tôi. Một ông trạc tứ tuần đội mũ vải đen, quần áo xám đen kiểu Nam Bộ, vẫn ngồi trên xe, quay đầu lại nhìn tôi ra ý chào rồi hỏi tôi :

– Chú đi không, lên xe, tôi cho quá giang một đoạn ?

Tôi ngạc nhiên và ngay lập tức, tôi nhào đến trèo lên ngồi sau lưng ông ta :

– Vâng. Anh cho em đi nhờ về đơn vị. Cảm ơn anh.

Xe lăn bánh, tôi thấy êm ái lạ thường. Lần đầu tiên tôi được ngồi trên một chiếc Honda, hai bàn chân đặt vững chãi trên hai cái gác chân chắc chắn ở hai bên trục xe. Hai cái đùi tôi cảm nhận sự lạ lẫm nhưng thật khoan khoái dễ chịu phần nửa sau cái ghế bọc da đen đã sờn. Tôi không cảm nhận được đường xấu, xe xóc lên xuống, bụi đỏ mù lên, mà chỉ có cảm giác gió ào ào hai bên lỗ tai. Một tay tôi cầm túm cái mũ vải đựng gói trà và hai gói thuốc kẹp giữa hai đùi, tay kia nắm chặt khung thép mạ phía sau lưng, tôi nhìn mọi thứ hai bên đường, cây cối, người, xe… đang vùn vụt lướt qua.

– Đơn vị chú kia rồi. Ông ta dừng xe.

Tôi giật mình, xuống xe và không quên cảm ơn ông ta.

Bữa cơm của chúng tôi quá ư là tồi tệ. Cơm sáu lạng đói đã đành, thức ăn không ngoài mấy miếng cá khô chát cổ và nước mắm gạo rang đắng nghét mà rau muống hay bí đỏ chỉ là thảng hoặc. Vét nốt những miếng bí nhỏ còn sót trong đĩa, anh Thanh y tá than thở :

– Không biết rồi ăn cái gì để khỏi thâm đây (chúng tôi hay nhắc đến chữ “thâm” một cách bôi bác).

– Tăng gia ! Tôi nói một cách hài hước.

– Hừm ! Tăng gia của mình không đủ cho heo “mới” gà. Thanh bĩu môi.

Tôi phì cười và nhìn ra ngoài sân. Ba chú heo hai nhớn một nhỡ đang hì hụi ủi dọc hàng rào, thở phì phì dưới nắng. Hôm qua đã thịt đi một chú nhớn để liên hoan cho chính trị viên Luân lên đường, đồng thời làm thực phẩm. Hôm nay còn ba chú, nhưng Kế, phụ trách nuôi heo của đơn vị, có cái bụng sa lá lách to phệ, suốt ngày hò hét : Bai ! Bai ! (tiếng Miên : cơm ! cơm !). Kế lúc nào cũng nhăn nhó vì heo đói nên phá phách quá chừng. Nền nhà, sân cươi, bàn rửa… bị ủi tung cả lên. Còn trong nhà ăn, gà nhảy cả lên bàn đuổi không lại. Có bữa nó làm đổ ráo cả một rá cơm. Mấy cậu chàng đứng nhìn nhau ngán ngẩm.

04/12/1973

LONG “GIÀ”

Vào những ngày cuối năm này, cả Đại đội chúng tôi đang xắng lên. Tất nhiên, tôi, một thằng văn thư đại đội vừa mới lóp ngóp bò lên này, cũng phải làm ra vẻ lo lắng : tôi còn phải làm một tờ báo tường và một bản tổng kết thành tích chiến đấu hai năm của hai C nữa chứ.

Cái việc lên cán bộ của tôi cũng khá là (mặc nhiên ?). Cũng chẳng biết “nhà nước lớn” suy nghĩ thế nào mà giữa lúc như thằng tôi, một cái thằng lính “húc” đại khái bắn chác có uy tín, lại nhảy tót lên làm chân phục vụ, để cái thằng Giang lác mắt (mắt hắn một cái như cái cốc, mắt còn lại như lá liễu, lính tráng trêu hắn, cứ lấy tay nhứ vào mắt lác của hắn mà gọi : Giang ơi, mày thấy không Giang ơi, hắn tức sùi bọt mép) lại xuống B. Thôi cũng được. Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng. Bọn nó bảo tôi như vậy. Riêng tôi ghét cái món lúc thằng Hoạch lỏi con đi vắng thì nhiệm vụ “xắng” của thằng liên lạc lại lây sang tôi. Hoạch đã là Hạ sĩ và là Đảng viên (kết nạp lúc với thằng Giang, do ông Luân “giúp đỡ”) nhưng chẳng khác gì con nít. Thỉnh thoảng tôi bảo hắn là “ấu trĩ”. Hắn có tật xấu hay ton hót và mách lẻo. Chúng nó ghét lắm. Thằng Hòa bô bô :

– Gớm, cái ông tướng Hoạch, cứ cho xuống B mà “rè…è…èn”.

Tiếng “rèn”, hắn ta kéo dài, chiếc cằm nhọn cũng dài ra, khiến chúng nó cười ha hả. Hòa bắt chước cường điệu tiếng “rèn” của ông Tất Tưởng đấy.

Và tôi ở C bộ dần dần cũng quen đi. Thế là đã hơn hai tháng ở hậu cứ. Mùa khô đã bắt đầu xao xác cả đất trời. Nắng suốt một dạo nay. Tăng gia trồng rau ở đại đội đang “dậy thì” phát triển. Các B trồng riêng. Sáng ra, họ lo đi tưới rau sớm. Đại trưởng Thanh Bình hò hét mà chẳng có ma nào lại sân bóng tập thể dục. Ông tức tối bảo : “Thôi mặc mẹ nó”. Thế là thôi. Bãi rau của ban chỉ huy gồm năm, sáu người chúng tôi thì rau ria chẳng được chăm sóc là bao lăm, ngoài tôi và thằng Hoạch (các ông ấy chỉ thỉnh thoảng). Mấy luống cải thìa, đậu đũa, do tưới chẳng được đủ nước, nên vàng khè. Tôi vẫn khoái tăng gia, nhưng không có người làm với mình nên cũng chán. Có luống đất, tôi cấy tùm lum các loại rau. Sáng nay tôi cũng ở ngoài khu tăng gia về đấy. Để có đất tăng gia, chúng tôi phải chặt phát cây cỏ rồi đốt lấy tro ở các bãi rừng thưa gần suối. Thằng Hùng lái xe bộ luyện lưng hơi gù gù thì chẳng biết thế nào các ông ấy lại đưa lên Ban chỉ huy nằm. Hắn ta cũng lỏng dỏng (lười). Tôi bảo hắn vào tăng gia chung với bọn tôi, hắn cũng chỉ trả lời bâng quơ. Tự nhiên hôm nọ, hắn lại ra tưới rau với bọn quân khí (bọn này có luống đất gần nặng rau chúng tôi), tối mịt mới về. Chẳng biết có bữa thứ hai nữa không, hay là bữa cuối cùng.

Long “già” dạo này ho khù khụ suốt ngày. Đã thế lại nghiện thuốc lào nặng (hắn nghiện từ hồi còn huấn luyện ở Mỏ Chén cơ). Hắn hút thuốc lào thật xấu kiểu. Gặp hắn lúc nào, tôi cũng đều ngồi chăm chú xem hắn hút. Hồi còn hành quân trên đường dây 559, tôi đã quan sát hắn hút thuốc lào theo cách rất riêng của hắn. Hắn chậm rãi ngắt một cái lá rừng tươi, to cỡ lá mít, quấn tròn cái lá lại bằng cỡ ngón tay, buộc dây cẩn thận, làm ống điếu. Rồi hắn vê vê một nhúm nhỏ thuốc lào từ cái túi vải nhỏ hôi hám, xám xịt vẫn thường nhét túi quần, vo viên lại cỡ hạt ngô, nhét nhét vào một đầu cái điếu lá. Bỏ đầu điếu lá kia vào mồm bập bập, hắn lục tìm bao diêm. Sau khi quẹt lửa, tay trái đưa lên miệng kẹp giữ điếu thuốc, tay phải châm lửa phía đầu điếu có viên thuốc lào. Hắn rít ọc ọc, má tóp lại, khi que diêm vẫn còn cháy. Viên thuốc lào cháy đỏ rựng lên, rồi vụt hết. Hằn vội vã ném mẩu que diêm, rút cái điếu lá ra khỏi miệng, ngửa mặt lên trời, há miệng nhả khói cuồn cuộn. Ngay sau đó, hắn cúi xuống nhổ đánh toẹt một bụm nước đen sì từ trong miệng ra (hắn đã kịp tu một ngụm nước rồi ngậm trong miệng trước lúc vê cái lá làm điếu rồi). Rồi hắn chụp lấy bi đông, ngửa cổ, tu một ngụm nước. Mặt hắn đỏ phừng phựng. Hai con mặt lờ đờ, đục ngầu, ngây dại. Hắn phê thuốc lào. Rồi đó, hắn ôm ngực ho sù sụ một lúc.

“Chậc… mờ… ”. Khi hắn lên cơn thèm thuốc, mắt hắn chớp chớp, cái đầu gật gật vẻ xu nịnh và nũng nịu, chặc lưỡi và kéo dài tiếng “mờ” või vĩnh vào một anh nào đấy có thuốc. Có hôm không xin được điếu thuốc nào, hắn đi lang thang vật vờ khắp các xó xỉnh trông đến buồn cười. Hắn đi tìm mẩu đấy. Hắn tìm được mẩu và trốn lủi vào một góc hút theo cách của hắn. Nghe tiếng hắn ho, tôi biết hắn đã qua cơn ghiền. Tôi cũng hút thuốc nhưng thường rít cho kỳ hết điếu thuốc, không để lại đầu mẩu. Tôi thấy bọn chúng nó tích trữ, dấu diếm các đầu mẩu thuốc lá vào một chỗ. Khi hết thuốc, lên cơn thèm, chúng nó cặm cụi gỡ thuốc vụn từ các đầu mẩu thuốc ra (mà tôi ngửi hôi rình), tìm giấy báo cuộn thành điếu sâu kèn hút ngon lành. Đã vậy, chúng nó chỉ hút một ít, lại tiếp tục tích trữ mẩu, lúc này bé tý còn hơn kén sâu kèn, dán chi chít lên cột lán. Hôm nào túng quẫn, thèm thuốc, chúng nó lại bóc bóc gỡ ra vấn vấn, bập bập rít rít cho bõ cơn thèm…

– Thằng già ! Ho như là mễn ấy. Hừ, của nợ ấy “đ…” ai hở ra cho mà xin. Thằng Hòa trợn mắt quát. Long nhăn nhở cười :

– Em thèm lắm. Anh có không cho em xin điếu. Hắn đã lớn tuổi nhưng gặp ai để xin xỏ, cũng gọi người ta là anh.

Long “già” bây giờ làm nghề chăn lợn, thay thằng Kế. Kế với cái bụng to bự đã đi ra Bắc. Hắn nhiều lúc giữa bữa cơm, cả đại đội đông đủ, bắt đầu liến thoắng :

– Em nói thật với các anh chứ cái miếng cháy, tôi không giữ lấy tôi ăn. Hắn bắt đầu cáu. Mặt bắt đầu đỏ phừng phừng. Hai tay chống nạnh. Tôi lấy cháy cho lợn, các anh lại ném cháy vào mặt tôi ! … Các anh lại ghét tôi. Tôi giữ cháy tôi ăn à ?

– Ê ! Thằng già ! Câm cái mồm. Như là mễn ấy. Thằng Hòa trợn mắt.

– Ứ ừ ! Tôi biết là anh hơn tôi rồi mà. Anh có cái đài hai băng kia. Tôi là tôi biết phận tôi rồi mà. Hắn lại nhăn nhở cười.

Không biết thằng Hoà kiếm đâu ra được cái đài (radio) National Panasonic hai băng/kênh. Cứ ăn xong, tối lại, chúng nó lại đến chỗ nó xúm xít xung quanh vặn nhỏ nghe thời sự đài BBC, thỉnh thoảng nghe đài Quốc gia (VNCH), nghe tân cổ giao duyên… Đại đội cấm nghe “đài địch” nhưng chúng nó chứng nào tật ấy.

Nghe Long “già” đãi cái môi ra, cả đại đội cười ran. Đại trưởng Thanh Bình lại phải lên tiếng. Anh Long ra ngoài ! Mau !

– Long “già” nói câu nào là “búa bổ” câu ấy đấy.

Thanh y tá nói với chúng tôi. Đừng khinh vào !

(… Tôi nhiều lúc cũng thật là vớ vẩn, suy nghĩ tùm lum. Tự nhiên đi qua gốc cây to dưới ánh trăng lai láng, tôi nghĩ thầm : Chà ! Nếu ở ngoài Bắc, mình đã đi chơi với một cô ả nào đấy. Qua gốc cây như thế này, mình cứ đè dứ cô ta vào cây. Thú vị nhé. Đêm cũng vậy. Tôi mơ tùm lum… Đến bẩn thỉu).

Đại trưởng Thanh Bình của chúng tôi mấy hôm nay vì sốt quá nên đâm ra tâm thần. Ổng nói chửi tùm lum. Sáng nay chúng tôi đã phải xúm xít cáng ông ta đi viện T28.

– Đ… mẹ cho cái thằng Thiệu. Đ… mẹ nó chứ. Nó ngu như con lợn. Làm người Việt Nam mà ngu như chó. Nó bắt anh em mình phải thế này. Phải đói rét bệnh tật cơ khổ như thế này. Trời ôi là trời ơi. Tôi mệt quá. Giọng ông nhỏ dần. Tôi chết mất thôi. Giọng ông thì thào. Đ… mẹ cha cái thằng Thiệu. Ông lại chửi to. Chủ nghĩa Mác-Lênin người ta sáng như đèn ấy mà không biết. Lại đây, bảo nó lại đây tôi dạy cho nó cách làm người. Ông nhắc câu này rất nhiều lần, lúc to lúc nhỏ. Mà học cách làm người. Chúng nó ngu lắm, ngu lắm. Trời ơi. Địa vị cái gì. Đài, đồng hồ cái gì. Người ta giết nhau kia kìa. Trời ơi. Cái đại đội 2 này bi bét lắm. Tút ta tút tớt vừa vừa chứ. Tăng gia thì lười, đi làm thì nhác. Sắn không có mà ăn kia kìa. Tỵ tỵ cái gì. Anh em đói mà được mấy luống cải ranh lại lại … (ổng nói lắp) đề nghị bán thế này, bán thế nọ cái gì. Đi mà làm mà ăn đi chứ. Ngồi đấy thì lấy cứt ra mà ăn à. Tôi chửi đấy. Trời ơi, tôi đâm loạn óc mất rồi. Trời hỡi tôi chết mất đây. Trời ơi là trời…

– Ông chửi ai đấy ! Thôi ăn cháo đi. Đến nỗi chính trị viên Thiều cũng nóng mặt cáu. 

Chúng tôi thiếu nỗi phải trói gô ông ta lại để nhét vào võng. Liều thuốc ngủ thằng Đức tiêm cho ông ta vẫn chưa ngấm một chút nào. Tôi chợt nhớ hồi còn nằm Viện ở C23B, có mấy bệnh nhân sốt rét dữ quá bị chứng tâm thần. Viện để những bệnh nhân này ở một khu riêng, khá xa chỗ chúng tôi, đâu gần một con suối. Tôi nghe nói họ la hét mắng chửi đánh nhau ầm ĩ cả ngày, không ai can ngăn được. Thường phải tiêm thuốc ngủ để họ khỏi phá phách. Có người kể họ tỉnh dậy họ cãi nhau rồi rồi bốc cứt ném nhau. Thậm chí có người còn mò đến khu lán đặt xác chết rồi vác ra suối, tắm gội rất chu đáo. Vừa khoát nước vừa nói với xác chết: tôi tắm rửa sạch sẽ cho đồng chí nhé. Đồng chí ngủ cho ngon nhé. V.v… (Tôi thường rùng mình mỗi khi lên cơn sốt, cứ nghĩ mình có sống nổi không khi nghe rất nhiều lính tráng bị chết vì sốt rét trên đường hành quân)

– Đại trưởng còn khỏe lắm. Thằng Hòa hất cái cằm nhọn nhận xét.

Giọng ông ta xa dần…

Bài thơ báo tường của tôi như sau :

17/12/1973

Những ngày này, tôi dường như sống trong một nỗi buồn mênh mang. Không hiểu sao, cuộc sống đối với tôi thật là tẻ ngắt và hoàn toàn vô vị. Ngày cứ trôi, ngoài những công việc chiếu lệ, những công tác “chuyên môn’ của tôi, là những bữa cơm, những tiệc trà rồi giấc ngủ. Cuộc sống cứ quẩn quanh như thế hàng ngày. Tôi không biết rồi mình sẽ ra sao. Không khéo rồi sẽ chết đi trong một sự âm thầm, một xác thịt dần dần trở nên bụ bẫm. Không thể suy nghĩ gì hơn được ngoài những cái nhỏ mọn, vặt vãnh mà nhẽ ra không bao giờ lại nghĩ đến. Tôi đã bị lẩm cẩm mất rồi. Không thiếu những ước mơ dằn vặt tôi. Có cả những ước mơ thật là tội nghiệp. Ơi thời gian, nhẽ ra tôi phải là thế nào. Hiện tại đối với tôi đã làm chết dần quá khứ. Mọi cái trôi qua đều lùi về dĩ vãng, không mảy may sống lại. Tôi chỉ biết làm theo bản năng. Ơi ! những chất nhựa tươi đẹp của tôi đang dần bị khô đi.

Không hiểu sao tôi có lúc nghĩ mình đã bước sang giai đoạn khác của cuộc đời rồi. Buồn thật. Thèm khát. Tôi như điên lên trong một sự giam hãm tù đày.

… HẾT NĂM 1973 !

29/01/1974

TẾT GIÁP DẦN

Tết thứ hai xa gia đình đã trôi qua một cách “ngẫu nhiên”. Bây giờ đã là mồng Sáu mồng Bảy gì rồi. Bỗng dưng tôi nghĩ đến cuốn sổ của tôi vẫn nằm chết gí ở ba-lô. Hơn một tháng rồi còn gì. Quả thật tôi quá lười, lười thật. Không ai trách tôi nhưng tôi tự thấy đấy quả là một sự đáng buồn.

– Lâu lắm rồi tớ chả viết được một cái gì cả, nói gì đến thơ.

Tôi bảo với Vũ Tiến thế, khi Vũ vừa đi chiến đấu ở Bàu Bông, Kiến Đức về.

Vũ được diện khám đi A. Khám hôm kia. Không biết được đi A hay không, nhưng Đại đội không sắp xếp Vũ đi an dưỡng ở T23. Mấy hắn (có Long “già”) đi T23 từ sáng, bỗng dưng gần tối, lại lếch thếch kéo nhau về. Họ bảo T23 sắp chuyển cứ, nên họ không nhận. Quả thật dạo gần Tết đến nay, tin chuyển hậu cứ (hiện đang ở) làm C2 chúng tôi xôn xao hẳn lên. Lính tráng cứ đánh tiếng đại phó Bút :

– Thôi khỏi trồng thêm rau đại phó ạ. Biết khi nào đi.

– Buồn cười thật. Đã có lệnh “lọt” gì đâu ? Thấp thỏm “goài … ài”.

Nhất là tôi với Hoạch, chả thiết gì ra tăng gia nữa. Nếu không có trận mưa lớn đêm mồng Ba Tết thì rau cũng chết khô.

Hai cái Tết xa gia đình, Tết Giáp Dần năm nay tôi cảm thấy ăn ngon miệng và vui vẻ. Cả Đại đội tôi về đông đủ, chỉ thiếu mỗi C trưởng Thanh Bình và hai tay nữa còn đi Viện. Hai chú heo hơn 80kg thịt lọc được lên đĩa. Hôm mồng 4 Tết vừa rồi, C trưởng Thanh Bình bỗng dưng lóc cóc đạp xe về thăm đơn vị từ trại an dưỡng cán bộ ở Sa Mát.

– Không mượn được xe, đáng nhẽ tôi về hôm mồng Một, mồng Hai kia. Đại trưởng Thanh Bình thanh minh.

– Ông ta về bây giờ thì còn cái cóc khô gì. Sao lại về dở dang thế. Chính trị viên Thiều có vẻ trách móc khi C trưởng đi chơi vắng.

Và sau một cuộc họp chóng vánh, Hội đồng quân nhân của C nhất trí bắt chú lợn (nấy lâu nuôi ở tăng gia C1) về xẻ thịt. Chú lợn này là tiêu đề bàn cãi rôm rả của đại đội xem nó có chửa hay không có chửa. Cô lợn nái 30kg bạc bạc, ghẻ lở, có cái “hoa” “bự”, đã được quyết định số phận (được mổ ra).

Thằng Cạnh, mà đại đội vẫn gọi hắn là “phỉ Vàng Pao”, có dáng cao lêu nghêu, quần dài mặc cộc dưới gối. Hắn đi chiến đấu ở Kiến Đức (cùng Vũ Tiến) về, vớ đâu được chiếc áo cộc tay trắng sọc xanh cũ nhưng trông vẫn rất sặc sỡ. Hắn ta diện vào trông cà-lơ và đểu “đéo” chịu được (!). Thằng Hoà bĩu môi nhận xét. Mặt hắn ta rỗ chằng chịt, lại đỏ phêu phêu. Hắn và Hoà được cử giết con lợn đó. Chúng tôi bu lấy hai thằng quần con lợn nái cười ha hả, khoái chí lắm.

Thằng Hoà giật lấy con dao phay sáng loáng từ tay thằng Cạnh (hắn đã hì hụi mài rất lâu trước đó).

– Để tao chọc tiết cho.

Thằng Hoà chọc tiết trúng đích. Một dòng máu đỏ tươi tuôn ra phì phì từ cổ cô lợn. Cô lợn nái la hét dẫy dụa.

– Ngoáy đi, ngoáy lưỡi dao đi. Thế. Thế. Lui ra, lui ra. Thằng Cạnh xô vào. Quần áo, mặt mũi hắn lấm bê bết máu. Hắn cười hề hề. Mặt hắn trông thật man rợ.

Lạ thay, con lợn đang có chửa. Có ba con đàng hoàng. Nó sắp đẻ. Có tiếc không ! Chúng tôi xuýt xoa. Con chó Ních của thằng Cạnh bắt đâu ở Kiến Đức về sủa gâu gâu, chạy lăng xăng và được thằng Cạnh cho những miếng ngon bự. Đó là con chó con duy nhất ở C tôi được Tân và Cạnh nâng niu hết biết.

Mấy ngày Tết mà tôi tiêu cũng dữ : ba bao thuốc lá ARa, một bao Casptan, và mấy gói trà BLao.

(Tôi nghe nói lính VNCH đọc xuôi, đọc ngược tên thuốc Casptan thành :

Cho Anh Phát Súng Tim Anh Nát / Nhưng Anh Tin Số Phận Anh Còn

Con Anh Phá Sản Tại Anh Ngu (Nghèo) / Nên Anh Tin Sẽ Phải Ăn Chực (Cám)

Chiếc Áo Phơi Sương Tình Anh Nặng / Nặng Ân Tình Số Phận Anh Cho)

Tôi nghĩ về gia đình tôi mà đau thắt lòng. Biết đến bao giờ tôi mới được về ăn Tết với quê nhà đây. Mẹ và em tôi có khóc không, có nhớ thương tôi không. Ba tôi công tác ở đâu. Tôi nhớ mùi cam chín vàng đến chảy nước mắt. Tôi nhớ đến những miếng chả thơm ngậy mẹ tôi dúi cho tôi mỗi khi tôi xuống bếp. Tôi nhớ cốc cà phê ngọt ba tôi để dành cho tôi. Các em tôi xúm xít reo hò quanh tôi mỗi khi tôi được về phép. Con chó Vàng nhẩy lên gâu gâu mừng rỡ. Tôi không còn được nếm những hương vị của quê hương tôi, của gia đình tôi, đến cả một lá thư nữa rồi. Tôi còn ở một phương trời xa…

10/02/1974

L.

Trưa nay tôi không ngủ được. Cái lí do giặt vọng cũng chẳng phải là lí do chính đáng cho lắm. Ăn trưa rồi uống xong cốc nước, tôi lượn xuống nhà y tá. Bọn nó đã bắt đầu đi nghỉ trưa. Ở nhà ăn, tôi thấy L. và T. đang nói chuyện cười cợt với một tay ở trong đoàn Văn công. Hút mấy hơi ARa với Bảy, tôi lại lững thững ra về. Hơi buồn buồn vì không được như ý nghĩ. Buổi tối nay, tôi lại nằm trằn trọc. Bây giờ mới là giây phút của tôi. Tuổi thanh niên của tôi đang qua. Tôi cảm thấy bất lực và bị đầy trói buộc. Hình ảnh một cô gái ngây thơ lứa tuổi 17, 18 trong đoàn Văn công cứ lởn vởn trong đầu óc của tôi. Tôi khuỳnh tay, duỗi chân, cọ mình soàn soạt trong chiếc võng ni lông đã bạc màu nhìn ra vừng trăng lấp lánh bạc ngoài rừng với những ý nghĩ phiền muộn. Tôi cảm tưởng mình giống như chàng Kim Trọng trong Truyện Kiều, “một ngày bằng ba thu dọn lại”. Cô ta đến trước con mắt chúng tôi, những thằng lính khô cằn tình cảm, một cách bất chợt. Cuộc sống bỗng dưng như có một cái gì khang khác so với mọi ngày trước đây.

Nhẽ ra chúng tôi chuyển cứ. Đoàn Văn công sẽ đến tiếp quản hậu cứ chúng tôi. Họ biểu diễn cho hai C chúng tôi một đêm văn nghệ tối hôm 06/02 vừa rồi. Vào đây, lần đầu tiên chúng tôi được xem văn công. Gọi là “văn công”, thực ra đây cũng chỉ là một đội văn nghệ của Đoàn Pháo 75 (Biên Hoà). Chúng tôi đã được nghe nhiều lời đồn đại về đội này, hay có, dở có. Chúng tôi nghe bôi bác nhiều nhất là từ ông “Bô-lô-si-kham”, một nhân vật hài hước không tiện nói ra ở đây. Chúng tôi chưa chuyển cứ. Thế là hai đơn vị có trai, có gái ở lẫn lộn tùm lum. Kể ra thì vui thật (theo ý của chúng tôi) nhưng phức tạp. Tất cả đồ lề lỉnh kỉnh, họ xếp đầy hội trường của chúng tôi.

L. mà tôi “hình như” bị “tương tư”, là một cô gái kháu khỉnh, Việt Kiều ở Miên. Quê gốc ở miền Nam. Cô ta chỉ còn một người anh và một người chị ở Lộc Ninh. Bà mẹ đã mất khi hai mẹ con lên đấy năm 1972. Bố cô ta còn ở Nam Vang (Pnôngpênh). Thân hình cô bé nhỏ với hai bím tóc nhỏ xíu. Bữa đầu làm quen, tôi nhờ cô ta may hộ chiếc ruột tượng đựng gạo. Bọn nó thấy vậy liền đổ xô vào trêu tôi. Trông cô ta cũng dễ thương. Nếu như ở hoàn cảnh khác, tôi nghĩ, dù sao cũng sẽ có một cái gì tốt đẹp giữa tôi với cô ta.

Thế nhưng…

15/02/1974

HẬU CỨ MỚI

Đã đến vị trí hậu cứ mới. Ở nơi đây có những lô cao su và đồi đất đỏ, cách xã Trà Thanh khoảng một tiếng đồng hồ. Chúng tôi được đưa vào một khu rừng lồ ô kéo thành vệt dài mà bên trong, có một con suối bờ lởm chởm đá, nước khá là trong. Ngoài kia là trảng dầu. Những bãi cỏ tranh cháy trụi chỉ còn tro than xơ xác. Bốn ngày hành quân, tôi đã cảm thấy mệt lử. Mang vác nhẹ vì có hai xe thồ và hai chiếc ôtô chở giúp đồ lề. Mãi đến chiều hôm nay, bọn đi ôtô mới đến đông đủ.

Thế là xa Kà Tum “làng pháo” rất đỗi thân quen và tấp nập người lại qua ven vùng biên giới. Trên này là rừng cao su đất đỏ, rừng tre, nứa, lồ ô và rừng dầu khô cằn. Bắt đầu những ngày làm cứ. Thiếu rau đến chát cổ.

Chúng tôi tìm đến tiểu đoàn bộ, chưa biết là tiểu đoàn nào, hỏi chỗ làm cứ với một sự nhăn nhó. Họ chỉ chúng tôi ra đây : chỉ có rừng. Thế thôi.

Chúng tôi xúm xít thổi cơm ăn. Đậu xanh độn đỏ lừ cơm. Không có rau. Gà ngoé nhảy tùm lum. Lợn eng éc ngồi nằm xơ xác sau mấy ngày hành quân. Người thì cũng chẳng kém gì.

Suốt mấy ngày hành quân, lòng tôi đầy phiền muộn. Chỉ vui lên chút xíu khi nằm toòng teng trên võng nói chuyện với Vũ và Lộc. Lên đây chuẩn bị đón những cơn rét sốt ác liệt đây. Tôi nghĩ bụng. Lại những tháng ngày dằng dặc…

Tôi muốn làm thơ những chả nghĩ được chữ nào. Buồn quá. Cuộc đời sẽ kéo đến những sự kiện gì đây. Trời đã tối.

23/02/1974

Tôi viết xong bài thơ Làng pháo Kà Tum.

25/02/1974

Chợp tối, trời đổ cơn mưa. Cơn mưa báo hiệu cho một mùa mưa thứ ba lại đến. Trời mát lạnh. Cơn mưa nhỏ chỉ làm đủ ướt lá lợp trên mái nhà. Ngoài sân đàn gà con kêu chiếp chiếp.

Năm người chúng tôi ngồi uống trà, ăn kẹo và hút thuốc. Mùi thuốc lá bay lên, vị trà đậm đặc và hương kẹo thơm ngọt. Chúng tôi ngồi hồi tưởng lại những kỷ niệm êm đềm của mình ngoài Bắc, về quê hương yêu dấu. Mỗi người theo đuổi một ý nghĩ sau một chập chuyện trò râm ran. Ngoài kia tí tách những hạt mưa. Căn nhà mới còn thơm mùi lá, gỗ, toát lên một không khí thật là ấm cúng.

Đây là lần thứ hai chúng tôi nhận được quà từ ngoài Bắc gửi vào kể từ hôm ăn Tết Giáp Dần. Hôm đó cả C chúng tôi, mỗi người nhận được 13 điếu Điện Biên, 4 chiếc kẹo mềm Hải Châu. Mấy hôm sau, khi ông Doãn Tuế vào đây thăm đơn vị, mỗi người lại được quà là một gói thuốc lào Thống Nhất. Thế mà đã thấy phấn khởi lắm rồi.

Hôm nay, chính trị viên Thiều vào tiểu đoàn và nhận được quà Tết từ hậu phương miền Bắc chính thức gửi vào : Mỗi người nhận hẳn một bao Tam đảo, 2 người chia nhau 3 cái kẹo mềm Hải Châu và cả C được 3 gói trà Ba Đình. Đêm nay chắc các nhà đều đỏ lửa.

Những ngày sống ở chiến trường, những lúc thế này tôi không thể nào quên được. Vào đây, tuy phụ cấp ít ỏi, hàng hoá “mắc”, nhưng chúng tôi vẫn đầy đủ (ít ra) thuốc và trà. Trừ mấy hôm mới đến hậu cứ trên Trà Thanh này.

Lên đây, chúng tôi phải xây dựng lại một hậu cứ hoàn toàn mới. May mắn rất sẵn lồ ô, nứa, gỗ… Chúng tôi dỡ lá trống quân từ mấy lán bỏ hoang vốn là hậu cứ của mấy C thuộc D6, nay trở thành tiểu đoàn B72. Đỡ phải ra rừng lùng sục ! Chúng tôi khuân ráo cả mái nhà, bàn ghế, giường chõng và chuồng gà, khiến D bộ cũng phát hoảng. C2 chúng tôi cách D bộ bởi một trảng dầu cháy khô. Con suối cạnh chỗ ở chảy ra suối Đa không xa lắm nước tương đối trong và nhiều bờ đá. Tôi tắm nước suối cứ nổi mẩn lên cả người, ngứa ngáy không chịu được. Đất miền Nam xa xôi này đi đâu cũng gặp hố bom, sắt thép và suối thì chẳng sạch sẽ gì. Nó chảy qua những vùng đất đã xảy ra các cuộc đụng độ sinh tử mặc đầu trông nước rất là trong.

Nhà cửa vẫn chưa làm xong. Cuộc sống cứ thế này mà kéo dài theo. Anh Đề đã đi chiến đấu và nghiễm nhiên thay ông Bật ở C1 làm C trưởng. Ông Bình đi an dưỡng sắp về. Ở nhà chỉ còn một trung đội và cán bộ (chiếm khoảng một nửa quân số). Phần lớn lính tráng của tiểu đoàn chia thành hai mũi đã đi chiến đấu. Nghe nói “thọc” rất sâu xuống đồng bằng, vùng T2 : Kiến Tường, Kiến Phong. Nếu họ xuống đấy thật mà tôi còn ở lại hậu cứ thì kể ra cũng tiếc. Tôi chưa xuống vùng Đồng Tháp Mười một lần nào. Lần sâu nhất mới xuống đến đất Củ Chi. Tôi còn nhiệm vụ làm “quân lực” và tất nhiên, vẫn còn lèng èng ở hậu cứ.

Không biết việc “phấn đấu” của tôi thế nào, tôi cảm thấy buồn. Có những cái buồn không có căn cứ. Dù sao tôi cũng phải cố gắng để đạt được nguyện vọng của mình, tỏ rõ bản lĩnh và bản thân vốn dĩ là sinh viên cầm súng của mình. Từ lúc nhập ngũ, rồi hành quân vào đây, xung quanh chúng tôi, từng là sinh viên như Vũ Tiến, Quế, Phạm Chiến, anh Tín…, là lính chủ yếu được tuyển từ các vùng nông thôn. Lính của đại đội tôi hầu hết người Ninh Bình (Yên Khánh, Yên Mô, Gia Viễn…). Họ chỉ học hết cấp 2 hoặc cấp 3. Có người còn chưa học hết cấp 1 (như Long “già”, tôi nghĩ hắn còn viết chữ chưa thạo). Tôi chợt nghĩ đến Vũ Tiến. Vũ Tiến lên đây trong bối cảnh bổ sung vào E28 có lẽ sẽ khó có điều kiện ra Bắc.

Đến hậu cứ mới và được bổ sung vào E28 anh hùng này, chúng tôi cũng cảm thấy được “thơm lây”. Chả biết sau này thì thế nào nhưng những ngày mới đến, chúng tôi chưa thấy sự nhiệt tình của D6. Chúng tôi đói muối đến ba, bốn ngày. Hôm nay Giao anh nuôi mới vay họ được mấy cân muối.

Tôi làm bài thơ Những ngày làm cứ. Định viết dài hơn nhưng rồi dừng bút…

03/03/1974

ĐI ĐỒNG BẰNG

Hai mũi chiếu đấu của đại đội chúng tôi xuống đường chưa được bao lâu thì mũi thứ ba, gọi là “mũi vét”, cũng bắt đầu đi tiếp. Nhà cửa dựng chưa xong, đường sá đồ lề còn tum lum cả lên. Thế mà “đành” phải tạm rời xa, không biết lúc nào quay lại. Chúng tôi tiếc nuối công sức bỏ ra mà chưa được “hưởng thụ” bao lăm. Xe ôtô chở đến những chiếc hòm bệ 9Õ11Õ, những bảng điều khiển, súng đạn… rồi được dỡ xuống, trang bị đến từng tiểu đội.

Ở nhà bây giờ, cả tiểu đoàn chỉ còn 26 người. Để lập “mũi vét” , cả ban chỉ huy đều huy động hết. Chỉ để lại hai người trông coi hậu cứ, một cán bộ đại đội và một người đang sốt khật khừ. Phải kéo cả thằng Hoạch liên lạc và thằng tôi văn thư, mà vẫn chưa đủ biên chế.

Hôm nay chúng tôi đã đi đến bờ sông Vàm Cỏ Đông thuộc vùng Lò Gò. Hai hôm đi xe ôtô tải, ngồi xóc nẩy đến sưng vù cả đít. Ngày mai, họ giao quân cho Phân khu 2 và bắt đầu hành quân bộ.

Đợt này, chúng tôi “thọc” rất sâu, xuống vùng T2 Kiến Phong, Kiên Tường, Mĩ Tho…

Suốt một chặng đường dài hành quân xa, chúng tôi mỏi mắt nhìn những cánh rừng đã trở lại màu xanh, những dãy nhà lá mới đựng lên hai bên đường. Dân khắp nơi đã lục tục kéo về. Vườn tược đã ra hoa. Trẻ con ríu rít kéo đến trường. Những cái cổng chào đề “Uỷ ban Nhân dân Cách mạng”. Những cột cờ Mặt trận… Những quán hàng treo lủng lẳng trà, thuốc lá. Những cậu chàng bộ đội trẻ măng còn thơm phức mùi quần áo chính quy Bắc Kỳ.

08/03/1974

Ngày Quốc tế Phụ nữ đã trôi qua. Thế là sang ngày thứ hai, chúng tôi đến đây, làm tạm cứ để ở, mà chưa biết sẽ ở lại bao lâu trước khi xuống T2. Cứ nằm trên một gò đất nhỏ chạy dọc theo một con sông nhỏ nước đục ngầu ngầu, thuỷ triều lên xuống. Trên gò là các bụi le, những bụi cỏ, cây dại mọc lúp xúp, những những bụi cây con không cao lắm mắc võng được.

Đây là một vùng đồng bằng Miên. Chỗ chúng tôi đóng quân gần một phum của người Miên, mà tôi chả biết là phum gì, thuộc thuộc tỉnh Xoài Riêng (Svayrieng). Suốt ngày trẻ con Miên da dẻ mặt mày đen trũi và trâu bò hò hét, lội ùm ùm trên sông.

23/03/1974

CỨ LÔNG GÀ

Đã nửa tháng chúng tôi làm cứ đóng quân ở đây.

Từ cứ vào nhà Miên khoảng 10 phút đi bộ. Chúng tôi phải vào đấy lấy nước ăn. Nước sông chịu không ăn được. Từ hôm đến đây, lính tráng mang quần áo, đồ tư trang… vét bồng đổi gà liên tục. Mỗi tiểu đội đổi được ngót nghét 10 con. Riêng tiểu đội tôi đổi được một chú vịt cạn, béo ngậy, “xi” ngay ngày hôm nay. Đường thốt nốt ở đây thật rẻ, chỉ 100 riạ một kg. Nghe nói từ đây đi cửa khẩu Tà Nông, Chang ThRay mất chỉ độ một tiếng rưỡi, hai tiếng gì đó.

Chúng tôi đặt tên đây là cứ Lông Gà. Tất cả những cái gì “thừa”, hoặc bớt xén được như tấm đắp dù, quần áo, v.v…, chúng tôi đều tận dụng ráo để vào phum Miên đổi (đô) lấy gà (mon), lấy vịt (tia). Đến bôi bác và chết cười. Nhiều hôm đi rất xa, tìm những phum mới, cà lê thất thểu qua những cánh đồng khô trải ra mênh mông tít tắp, nắng bụi đến thở không ra hơi. “Cung cấp quân trang” cho Miên đấy ! Có thịt gà, chúng tôi làm ruốc khô để dành sắp tới mang đi ăn dần. Làm được nhiều ruốc khô đáo để.

Ở lâu, chúng tôi cũng học được mấy câu thông dụng tiếng Miên : “Lục thum” (ông sư lớn), “Lục tà” (ông sư nhỏ), “Boòng ôn côn tap Việt Nam” (Anh em bộ đội Việt Nam). “Đâm bai xi” (Nấu cơm ăn). “Ngọp hơi chà rờn” (Chết nhiều nhiều)… Nhưng lính tráng thuộc nhiều nhất vẫn là các từ ngữ tục tĩu, trêu chọc mà tôi không tiện viết ra.

Một hôm đi xa đổi gà, chúng tôi được thưởng thức nước cây thốt nốt. Đang dạo cuối mùa khô, nắng nóng và gió thổi thông thốc cuốn bụi mù trời lên trên những cánh đồng rạ mênh mông khô nước, đất nứt nẻ như đan lưới. Nhìn ra hút tầm mắt, những phum người Miên loang loáng ẩn hiện cùng những mái chùa cong cong màu đỏ sẫm, màu vàng đan xen, những hàng cây thốt nốt sum suê trồng rải rác ở bìa ngài phum, hoặc rải rác trên cánh đồng, dưới bầu trời thật xanh trong. Thỉnh thoảng, chúng tôi gặp một vài bác nông dân người Miên quần đùi, cởi trần, đầu trần hoặc quấn khăn rằn ri đỏ bạc phếch, tay cầm dao quắm, khoác vai một vòng dây lôông bôông xâu chuỗi mấy vỏ bầu khô hay can nhựa. Họ đi lấy nước thốt nốt đấy. Chúng tôi tò mò đứng xem họ trèo lên cây. Cây thốt nốt trông giống cây dừa, hay cây cọ, tán lá xoè tròn, thân cao mốc thếch (nhiều cây đã buộc sẵn một cây tre khô có các nhánh làm chạng tua ra cho dễ trèo). Dưới gốc nhìn lên, tôi thấy các chùm quả thốt nốt nhỏ màu nâu và các ống tre đã treo lủng lẳng trên ngọn cây. Họ trút nước thốt nốt từ một ống tre vào can, hay quả bầu khô, buộc bên hông, rồi treo ống lại ngay dưới một chùm quả, sau khi lấy dao quắm gọt gọt phần đầu cuống cho nước rỉ ra. Cứ lần lượt như vậy cho đến khi trút hết, họ tụt xuống. Lúc này các ống tre không còn nước thốt nốt, cứ loòng toong trên đầu. Chúng tôi ra hiệu xin uống. Một ông lớn tuổi gầy đét, tóc bù xù, cười răng trắng loá, đưa chúng tôi một ống tre. Tôi nhận lấy, nhìn vào thấy nước thốt nốt sóng sánh đùng đục, có mùi khen khét bồ hóng. Nước chỉ đến lưng ống tre. Tôi với thằng Quế thay nhau uống. Một vị ngọt thanh thanh lạ lạ khó quên rạo rực trong miệng. Thằng Quế bảo dân Miên thường đốt lửa trấu lấy tro nóng rối treo ngược ống tre lên phía trên để hong, lấy mùi bồ hóng chống kiến, chống gián. Tôi gật đầu tán thưởng vì khi đi qua những phum người Miên, vẫn thấy những đống tro trấu cháy dang dở, đang âm ỉ khói bên đường.

Trên đường về, chúng tôi tò mò ghé thăm một ngôi chùa. Xung quanh chùa là các bãi đất rộng rợp mát bóng cây. Chúng tôi gặp trẻ con và mấy “anh sư” đang ngồi chơi trên mấy cái chõng tre, có người nằm võng. Tôi gọi là “anh sư” khi viết những dòng này vì thấy họ trẻ, tuổi thanh thiếu niên, hầu hết đầu trọc lóc, có người tóc lởm chởm, ai cũng chỉ quàng xéo qua vai một tấm vải màu vàng xỉn bạc màu, nhàu nát, vừa làm áo, vừa làm quần. Họ đi chân đất. Họ nhìn chúng tôi xách cái lồng gà với vẻ thân thiện nhưng dè dặt. Chúng tôi ngó nghiêng một lúc rồi ra về. Nghe nói ở đất Miên, sóc nào cũng có một ngôi chùa, nơi nam thanh thiếu niên đến học lễ nghi, học chữ… suốt ba hay mấy năm gì đó, trước khi về nhà lấy vợ. Các sư mỗi sáng thay nhau đi khất thực, mỗi người mang một cái bát bằng sành sứ hay bằng đồng đến các gia đình trong phum (thỉnh thoảng chúng tôi vẫn gặp). Người ta có thể cho cơm, thức ăn… Trong ngày, các sư ăn chính chỉ mỗi buổi trưa, còn buổi chiều, họ uống nước chè với đường thốt nốt.


Ở đây chúng tôi cũng biết được món mắm bò-hoc của người Miên. Nghe nói họ để nguyên cả cá sạch (đánh bắt được ngoài đồng như cá lóc, cá rô…) mà không đánh vẩy, đem ướp muối, sả… và cơm nguội rồi nén chặt trong vại cho nhừ nát. Chúng tôi không thể ăn được. Nhìn thấy đĩa bò-hóc giống bùn non, xâm xấp nước màu nâu đen, cái mùi khăn khẳn dậy lên, chúng tôi lắc đầu chào thua. Câu chuyện là thế này. Chúng tôi vẫn vào phum lấy nước, thường đến nhà một ông bà người Miên có thằng Lơng trạc độ bảy hay tám tuổi, là cháu hay con, tôi chẳng biết. Ông bà có cái giếng đào ngay trước nhà sàn, nước khá trong. Thành giếng chỉ là đất bùn nện chặt, nhưng đã sần sùi cứng như sành do mưa nắng. Gàu múc nước làm bằng bẹ cây thốt nốt. Bên cạnh giếng là hai cái giàn, một cái giàn nhỏ bỏ bát đĩa lộn xộn, còn cái giàn kia đắp đất, cỡ hơn 1 m2, trồng hành, rau thơm… Hành lên xanh mơn mởn. Hôm ấy, tôi với thằng Tính vào đây lấy nước. Đang loay hoay tìm cách gác cây đòn cáng để múc nước giếng đổ vào tăng (chúng tôi buộc túm hai đầu cái tăng nylon vào một cây gỗ dài vừa vai làm đòn, phải hai người khiêng như vác cáng vậy), tôi thấy thằng Lơng chạy cà tưng cà tưng từ ngoài đồng về, hai tay giữ chặt đầu một con cá lóc đang ngoe nguẩy đuôi. Nhìn thấy chúng tôi, thằng Lơng nhảy dựng lên, vấp ngã đánh huỵch, con cá lóc văng ra. Tôi bỏ cáng, chạy đến giúp nó bắt lại con cá. Ông bà già từ trên sàn bước xuống nhìn, rồi đứng cười. Mấy hôm sau, trở nên quen, ông bà mời chúng tôi lên nhà họ chơi. Hôm ấy không thấy thằng Lơng đâu. Tôi với thằng Tính rụt rè trèo lên cầu thang gỗ bước vào trong nhà. Tôi thấy cái sàn nhà lát gỗ ván khá rộng rãi nhưng hầu như trống trơn. Ở một góc nhà là một mớ đồ lề lộn xộn, quần áo vắt chồng đống trên một sợi dây căng ở phía trên. Mấy cái gùi, cái giỏ đan, dao rựa.. vất lăn lóc một góc. Góc mà chúng tôi ngồi bết xuống sàn nói chuyện với ông bà là khu vực bếp. Tôi thấy trong nồi cơm đít tròn xoe đen bồ hóng đã mở nắp là cơm chín đã xắn đi một góc. Dân Miên không xới tơi cơm như ngoài mình. Họ xắn nguyên cả tảng cơm bỏ vào đĩa rồi bốc ăn. Tôi nghĩ vậy. Ngồi khoa chân múa tay ra hiệu, nói chuyện trên trời dưới đất (mà chắc ông bà chỉ hiểu đôi chút) một lúc, chúng tôi làm dấu xin phép ra về. Bà chủ theo chúng tôi xuống cầu thang. Bà ra hiệu chúng tôi đứng chờ, rồi bà đến bên giếng lấy một cái đĩa, tất tưởi lên nhà. Một lát sau, bà bước xuống trao chúng tôi một đĩa bò-hóc. Khi chúng tôi cầm đĩa và cảm ơn, bà vặt vội một nhúm lá hành ngay giàn đất, rồi ngắt vụn rắc rắc lên đĩa. Tôi với thằng Tính thay nhau, một tay cầm đĩa bò-hoc, một tay giữ đầu cáng nước, khiêng túc tắc về cứ. Chúng nó trố mắt, nếm thử bò-hoc và thằng nào cũng khịt mũi ầm ầm như đã nói. Cuối cùng chúng tôi phải đổ đi.

 Ở cứ Lông Gà, tôi bắt đầu viết Bài thơ dài.

21/04/1974

Ở KIẾN TƯỜNG

Hôm nay, chúng tôi dừng lại bên bờ kênh Bảy Ngàn. Phía đông là kênh Bằng Lăng. Phía Bắc là kênh Sáu Ngàn, Năm Ngàn. Hơn hai tuần hành quân từ đất Miên xuống đồng bằng, chúng tôi đã lội gần khắp các tỉnh miền Tây Nam bộ, thuộc vùng T2 phía Bắc lộ 4 : Kiến Phong, Kiến Tường, Mĩ Tho. Hôm nay chúng tôi ở Kiến Tường thuộc vùng chiến lược 4.

Tất cả các buổi hành quân, chúng tôi đều phải đi đêm. Ngày lại ngày, nấu ăn hai bữa và ngủ khì. Ngủ dậy đi kiếm cá. Dưới này về cuối mùa khô, những đìa, kênh cạn nước thật lắm cá. Chúng tôi kiếm về ăn đã. Gạo phát tiền và phải mua. 

Tôi vẫn nhớ mãi ba đêm hành quân vượt “Đồng Chó Ngáp” (Đồng Tháp Mười). Đêm đầu tiên, trước khi xuất phát, giao liên (họ đã đổi phiên, sau khi qua biên giới Miên) phổ biến (quán triệt) đặc điểm và cách xử trí các tình huống gặp phải trên quãng đường chúng tôi phải vượt qua. Họ dẫn chúng tôi đi suốt đêm trên những quãng đường ghập ghềnh, có chỗ khô, có chỗ nước lội xăm xắp, giữa những vệt cỏ năn, cỏ dại, có nơi cỏ cao vượt quá đầu người. Buồn ngủ. Vừa đi vừa ngủ. Thỉnh thoảng, tôi lại bị vấp một bụm cỏ, khuỵu chân chực té nhào. Mệt muốn đứt cả hơi, nhưng ngước lên thấy bầu trời đầy sao, le lói trăng non đầu tháng, gió rạt rào, nên cũng tạm gọi là nguôi ngoai. Gần hết đêm đầu tiên, giao liên cho chúng tôi nghỉ lại trong một cánh rừng tràm bên bờ một con kênh. Nghiêng vai thả đồ lề xuống, căng tăng mắc võng vội vội vàng vàng giữa hai gốc tràm vỏ bong tróc sần sùi, tôi thả mình vào võng đánh huỵch, rồi ngủ thiếp đi. Tôi giật mình tỉnh giấc khi nghe tiếng hò reo. Mở mắt vẫn còn cay xè, tôi thấy mấy tay ở tiểu đội 1 đang hì hụi bắt cá dưới kênh. Ngạc nhiên, nhưng lập tức, tôi cùng mấy thằng nữa cũng mắt nhắm mắt mở bỏ võng lội ào xuống. Hơi bùn bốc lên tanh tưởi. Nước đục ngầu, lội ngang đầu gối. Nhiều chỗ nước sâu đến bụng. Lục bình, lá tràm túm tụm thành từng mảng. Lội được vài ba bước, tôi có cảm giác cá thúc cục cục vào cẳng chân. Nhớ lại ngày xưa hồi học cấp 2, đầu cấp 3, gia đình tôi còn ở Chợ Rộc, tôi theo bọn thằng Nghi, thằng Tuyền đi tát cá sau buổi học, làm bộng nhạy rồi thăm cá háo hức suốt đêm. Cái cảm giác cá thúc lóc bóc vào chân khi tát gần cạn một khoảnh ruộng nước đầy rạ của hợp tác xã vừa gặt lúa xong, tôi vẫn còn nhớ. Nhưng lần này, cá thúc rất mạnh, rất nhiều. Tôi thả hai tay xuống nước bắt chước chúng nó bắt đầu mò cá. Cá nhiều thật. Một lúc, tôi bắt được cả cá rô, cá sặc thật to. Mấy đứa tiểu đội tôi nhảy vội lên bờ lấy cái bồng mang xuống để bỏ cá vào. Chúng nó bảo cứ bắt cá ngay hố bùn mà chân vừa nhấc lên. Tôi nghe theo và ngay khi rút một chân lên, tôi bỏ cả hai tay chụp vào đúng chỗ bùn đang khép lại, tóm được một chú cá sặc. Cả ngày hôm đó, chúng tôi đánh chén hai bữa cơm cá ra trò. Đứa nào cũng khoái. Thật gặp may khi ruốc gà mang theo từ cứ Lông Gà vừa hết.

Hết đêm thứ hai, chúng tôi nghỉ ngay trong một mảng rừng tràm như ốc đảo nằm giữa cánh đồng khô. Tìm chỗ lót tăng, kê đầu lên bồng, lăn xoài ra ngủ. Tôi thức dậy khi ánh nắng buổi sáng đã đâm xiên qua ngọn tràm xuống võng. Chúng nó lục tục chuẩn bị bếp củi nấu ăn. Bếp là một cái rãnh có thể bắc lên một lúc hai cái xoong. Trong khi chúng nó chọn chỗ đào bếp và kiếm củi, tôi cầm cái xoong đi kiếm nước. Tôi theo mấy thằng ra bìa rừng tràm, gặp một con kênh nhỏ chiều ngang chưa đến 2m, nhưng khá sâu. Nước trong vắt, nhìn thấy tận đáy. Hai rìa bờ kênh, đất đóng váng đỏ như gạch cua. Mỗi đứa vục một xoong mang về bếp, vừa vo gạo, nấu cơm, vừa nấu nước pha trà. Tự nhiên thằng Đ. hét ầm lên : Trà gì lạ thế này ? Hắn mở nắp ăng gô chỉ thấy nước trong veo, trà thì xoắn xuýt lại nổi lềnh phềnh. Không ngửi thấy mùi vị gì. Hắn bê ăng gô rót một chút ra nắp, vừa thổi phù phù, vừa nhắp nhắp miệng. Mặt hắn nhăn nhó : Chát ! Chát chua lòm cả họng ! Tôi cũng giành lấy cái nắp ăng gô nếm thử. Quả thật tôi chưa bao giờ gặp cảm giác vừa chua vừa chát cấu xé cổ họng như thế. Thằng Quế vội dở nắp xoong cơm. Hắn hét lên lạc cả giọng : Cơm sống nhăn, vừa đen vừa vàng khè, lại bốc mùi nữa ! Mấy đứa vội vàng chạy sang xem mấy bếp bên kia thế nào. Thằng Tính trở về bảo : Do nước phèn đấy. Thế phải làm sao ? Chúng tôi nhao lên hỏi. Thì tìm nước sạch thôi. Hắn bảo. Vừa lúc đó, tay giao liên bước tới. Hắn vừa cười vừa nói : Nước mà các đồng chí lấy ngoài kênh mùa này đã bị nhiễm phèn, không nấu ăn được đâu. Các đồng chí ra ngoài đồng tìm nước ở mấy cái hố đem về mà lọc lấy nước ăn. Hôm trước tôi đã dặn kỹ rồi mà. Đúng là hắn ta đã nói khá nhiều nhưng hầu như chúng tôi chẳng để ý. Cứ nghĩ giống như những lần hành quân trước đây, giao liên “quán triệt”, “thao thao bật tuyệt”, toàn những cái đã biết, chúng tôi nghe mà như chẳng nghe gì. Nay nghe tay giao liên, cả tiểu đội tôi như bừng tỉnh, vội chạy đi tìm những vũng nước còn sót lại cuối mùa khô. Hầu như chỉ có các vũng nước bùn đục ngầu giữa vùng cỏ lác. Chúng tôi hỳ hục mãi mới có cơm ăn.

Ăn xong, tôi theo chúng nó đi kiếm cá. Chúng tôi đi khá xa ra ngoài đồng tìm thấy những đìa nước khá rộng và sâu. Dưới đìa, cá nhiều vô kể. Đứa nào cũng cởi quần dài, buộc túm ống rồi bỏ cá vào. Cả ngày hôm đó, cả đoàn lo làm cá, luộc chín, rồi phơi nắng, để mang đi ăn dần.

Qua ba đêm hành quân, chúng tôi xuống đến đất Kiến Phong. Qua vùng kênh Cái Lân, kênh Đào ăn đã xoài tượng : xoài chưa đến mùa thu hoạch nên hãy còn chua dơn dớt. Thế nhưng quả nào quả nấy to bự chảng, từng chùm, từng chùm sum suê trĩu cành. Dưới ấy thật lắm hoa quả : những rừng xoài, chuối, dứa, mận, chôm chôm… nhìn hút mắt.

Chúng tôi lại lộn về vùng Kiến Tường. Lên đây không bói ra một quả xoài. Chỉ có chuối, trâm bầu và rừng tràm.

03/05/1974

Sáng nay trời nắng đẹp, tiếng chim hót líu lo trong những rặng trâm bầu. Đêm qua, lúc chập tối trời đổ cơn mưa. Mấy ngày nắng được một trận mưa, đất trời mát mẻ hẳn lên. Riêng tôi ngủ thì chả ngon một tí nào. Hôm qua rục rịch hành quân nhưng hoãn. Khi tôi đi chơi về thì chiếc ni lông nhét ở bảng điều khiển (bỏ túi vải ka-ki như một ba-lô nặng 14kg cả cục pin, tôi thường phải mang theo người suốt thời gian ra trận) đã “không cánh mà bay”. Tôi đoán có nhẽ mấy tay “bộ đội mình” đi tìm chỗ ngủ đã nhón mất. Không còn ni lông rãi chỗ nằm, tôi phải xin H. một miếng ni lông màu trắng. Tôi lấy thêm miếng ni lông bọc bảng điều khiển rồi trải cả hai miếng nằm tạm. Chiếc màn bố mới phát, đã mục vá víu tèm lem, sau một đêm đã mở cửa cho hàng chục con muỗi chui vào hành hạ tôi.

Tôi đã cảm thấy “ớn” đất đồng bằng mặc dầu đang mùa khô. Đến mùa mưa thì chắc là tha hồ ướt át và chịu muỗi (bay như ong) đây, nếu như vẫn bộ quân phục vải “chiềm bâu” miền Đông cũ rích này.

 Chúng tôi không có một cái hậu cứ thực sự. May ra thì tìm được nhà dân bỏ trống. Nhà của dân chỉ là nhà tạm. Đó là một cái lều khổ lớn gồm hai mái trước sau, dựng trên nền đất đắp khá cao trên bờ kênh. Diện tích làm nhà khoảng trên dưới 20m2. Vật liệu chủ yếu làm khung nhà là gỗ trâm bầu, gỗ mù u, tre… Nhà nào cũng lợp lá dừa nước. Xung quanh nhà cũng che chắn bằng lá dừa nước. Tất tần tật phòng ngủ, gian thờ, bếp đều ở trỏng. Bếp thì họ kê cao bởi mấy chân gỗ chôn xuống nền nhà.

Không tìm được nhà bỏ trống thì rặng trâm bầu, rừng tràm, và bờ kênh… là chỗ ngủ đêm và nghỉ ngơi chờ lệnh. Hoàn toàn màn trời, chiếu đất.

Dưới này chạy càn liên tục, cứ thấy “cán gáo” phạch phạch trên đầu là bắt đầu cha con… “lủi”. Dân cũng vậy. Họ ở thưa thớt trên các bờ kênh, chôn gạo thực phẩm dưới đất. Nhiều hôm  chạy càn, họ không kịp móc gạo lên, chỉ chạy lấy người.

Hàng hoá tương đối mắc.

Một lần tình cờ, chắc có đám giỗ hay nhân dịp gì đó, một nhà dân cho chúng tôi ăn canh quả mướp đắng, họ gọi là quả khổ qua. Họ nhồi thịt lợn băm hành làm nhân vào trong quả mướp cắt thành từng khúc ngắn. Lần đầu tiên được ăn, tôi chỉ ăn mỗi nhân thịt, húp nước, phần vỏ tôi nhai thấy đắng nên lè ra. Những ngày sau, trên đường hành quân, bọn nó lùng sục tìm ngắt ngọn non, lá non làm rau nấu canh, hay để ăn sống, từ đủ các loại cây mọc hoang dại ven đường. Nào ớt, lạc tiên, khổ qua, nào cọng sen, cọng súng, bèo tây (phải tước bỏ vỏ), hoa điên điển, lá xoài, lá me… Nhưng ăn nhiều nhất vẫn là rau muống dại, hầu như bờ kênh, bờ đìa nào cũng có. Rau muống mọc hoang nên cọng nhuốm màu đỏ phèn, lá dày, luộc hay nấu canh đều có vị chan chát. Ăn canh rau muống dại, tôi lại ước thầm được ăn canh quả khổ qua.

Tôi cũng thường thấy dân ăn cơm với nước mắm khô quẹt. Cả gia đình họ ngồi xổm xúm xít xung quanh một nồi cơm và chỉ vỏn vẹn một nồi khô quẹt nhỏ. Nồi khô quẹt cứ là xoay tròn như bánh xe. Thằng Gia nhận xét.

Xuống đây, tôi cũng bắt chước ăn trái ô môi. Cây ô môi sáng tươi chiều héo. Cây to như cây phượng vĩ nhưng quả dài, nặng nặng và vỏ rất cứng. Lá giống lá me nhưng to và dày hơn. Chúng tôi nhặt quả ô môi rụng xuống đất, tách đôi vỏ, rồi nhá phần ngọt như mật dạng keo bám xung quanh dãy hạt bên trong. Tôi nhớ hôm nghỉ ở một nhà dân, bên ngoài có cây ô môi. Đêm ngủ, tôi cứ ngửi thấy mùi khăn khẳn hăng hắc như mùi nước mắm hôi, mà không biết mùi gì. Sáng ra, mới biết là mùi quả ô môi rụng.

Chúng tôi đã tham gia một trận. Bắn 4 quả B72. Tôi bắn 2 và Quế bắn 2. Nhưng cả 4 quả đều “gục” (trật lất). May không nổ quả nào trước khi đến mục tiêu. Một quả Quế điều khiển được nhưng “tìm cò”. Đạn bay vụt lên cao, khói trắng ra xoắn xuýt và tên lửa rơi xịt đâu đó mất hút ngoài cự ly điều khiển được. Còn 3 quả (hắn 1 tôi 2) thì “lủi” ngay xuống ruộng sau khi rời bệ phóng một vài giây, chỉ cách chỗ chúng tôi một vài trăm mét. Tên lửa phải bay được trên 500m, khi đó con quay ba bậc định hướng ổn định đường bay thì mới có thể điều khiển được. Theo lý thuyết, tốc độ đạn (bảo quản tốt) bay trong điều kiện bình thường là 120m/giây. Mỗi quả đạn B72 có đường kính gấp cánh 25cm, dài 58cm, sải cánh khi chiến đấu là 32cm, nặng gần 12kg, được đặt cố định trong một thùng gỗ to nặng cỡ 18kg. Nhưng ở dưới này, đạn thường bị ẩm mốc (tôi nghe nói lính hậu có thể đã bỏ thùng gỗ thông đi cho gọn, rồi phải sấy khô đạn sau một chặng dài vận chuyển khó khăn từ kho xuống đây). Thuốc đẩy mà không cháy được thì đạn không thể bay xa. Đầu đạn không nổ có thể do đường bay ngắn, kim hoả chưa được giải phóng, hoặc tên lửa rơi nghiêng, không kích hoạt đuợc bộ phận gây nổ mồi của đầu đạn. Cơ chế gây nổ đầu đạn B72 tương tự đạn B40, B41 : các vấu răng cưa ở đầu chót mũi phải bám được vào chỗ gờ nào đó của mục tiêu để lực bay kích nổ.

05/05/1972

“BẠCH TRƯỢT”

“Bạch trượt” ! Cách gọi mỉa mai này thực ra chỉ ở dưới T2 này mới chứng minh được hùng hồn. Còn ở Miền Đông thì chỉ là câu pha trò vui vẻ của bọn lính bộ binh gặp trên đường hành quân, hay của lính của đơn vị mà chúng tôi đến phối thuộc.

Tôi không biết khi tên lửa nổ có gây chết người không ? Qua ống nhòm thì thấy “rất đã” : chấm đỏ loét liều vạch đường vừa giữ gắng được một vài giây ở vị trí mục tiêu, thì một quầng lửa bùng loé lên, rồi khói, sau đó một nghe tiếng nổ khá đanh và trầm vọng lại. Mỗi lần bắn xong hai quả là a-lê-hấp, “cha con” chúng tôi “lủi” (rút lui) thật nhanh. Nếu còn lừng khừng, ngay lập tức, đạn pháo và đạn cối từ phía bên (VNCH) kia bắn đến ngay lập tức. Có cả đầu đạn 12ly7 nổ chí chát trên đầu (bọn tôi nói là bị phản pháo). Hầu như tôi chỉ kịp tóm bổng “cổ ngỗng” của ống kính tiềm vọng lên (kính và bảng điều khiển trông giống một con ngỗng) rồi cứ thế là chạy nhảy băng băng. Đồ tư trang (bồng tăng, võng…) và súng đạn (ngoài bảng điều khiển, tôi luôn phải mang theo người một khẩu AK báng gấp và một băng đạn 32 viên) thì đã quàng sẵn vào người trước khi nằm xuống bắn. Mỗi lần pháo thủ lắp đạn xong (thường 2 quả mỗi trận), tôi phải cắm nối dây điện và kiểm tra đâu đó cẩn thận. Tối đa mỗi lần chỉ bắn 4 quả vì chỉ có 4 ổ cắm điện. Một khi đã yên tâm, tôi nằm sấp xuống sau bảng điều khiển, đưa mắt phải vào ống kính (mắt trái nheo lại) và hai bàn tay chụp vào ốp cao su của cần điều khiển, ở tư thế chuẩn bị bắn. Sau một lúc quan sát mục tiêu, tôi quyết định bắn. Tôi nhấc tay phải khỏi cần, bắt đầu nhấn nút ở quả đạn tương ứng. Mấy thằng kia sau khi thấy tôi đã sẵn sàng bắn thì cũng ở tư thế chờ và sẵn sàng … chạy. Chúng nó nằm sấp bên cạnh hồi hộp nhìn tôi nhấn nút bắn. Ngay sau đó, thường nghe đánh xoẹt một tiếng, quả tên lửa rời bệ phóng lao lên. Cứ bắn (nhấn) xong hai quả tiêu chuẩn là chúng nó một tay tóm ngay khung sắt gá trên nắp hộp lôi lên thật nhanh (sau khi tôi kịp rút jack cắm điện khỏi bảng điều khiển trả cho chúng nó), một tay xách quai nửa nắp hộp kia, thế là … chạy.

Trận địa và cách chọn vị trí trận địa nói chung của chúng tôi, phía bên kia (lính VNCH) đã dò biết qua những lần càn. Chỉ vừa ra khỏi bệ phóng, quả đạn đã không thể bay tiếp được nữa (!). Cậu “lủi” ngay xuống ruộng, chỉ cách bệ khoảng đâu trên dưới 100m. Nến chỉ đường (là một cái bu-gi lắp cố định ở một trong bốn chân cánh) cháy lên đỏ loè. Bình thường, vệt cháy đỏ của nến nhấp nháy trong ống kính viễn vọng giúp trắc thủ như tôi điều khiển quả đạn lên/xuống, qua trái/phải. Thuốc phóng đẩy còn lại trong quả đạn tiếp tục cháy, khói trắng um lên. Đấy là mục tiêu cđạn 12ly7, DK và pháo bầy. Bắn xong 2 quả, mấy chiếc xe bọc thép M113 ở ngoài đồng, mà chúng tôi thấy rất rõ bằng mắt thường lính và súng ống chiễm chệ ở trên xe (nói gì đến kính viễn vọng của tôi), phản pháo dữ dội. Oác ! Oác ! Oác ! … Cùng ! Cùng ! Cùng ! Cùng. Từ ngoài xa, chúng lia 12ly7 rất dữ dội vào trận địa chúng tôi. Cành trâm bầu, lá chuối…, rơi lả tả sau lưng chúng tôi. Khói um lên khét lẹt. Lúc ấy, chúng tôi, tôi thì bảng điều khiển, bọn kia thì bệ phóng, kéo dây lòng thòng, lủi dọc bờ cây đã được một đoạn xa. Có hôm, tất cả hoảng hốt nhảy ráo xuống hầm vừa đào suốt đêm hôm trước. Chưa kịp nguỵ trang mà xe đã gần vào đến nơi.

– Mẹ kiếp ! 12ly7 nổ trên đầu tao. Tao tưởng lính (VNCH) đã tràn vào ngay ở bờ trâm bầu. Tao hốt quá nhảy đại xuống đìa lục bình, nước bùn đến cổ. Sợ quá, tao định rúc xuống lấy lục bình phủ lên người. Sợ chúng bắt sống. Sau mới nhớ ra là 12ly7 nổ hai lần. Đến chết cười. Dưới đìa, nghe bọn mày nói chuyện rì rào ở trên, tao mới yên tâm bò lên.

Nhấc bồng và bảng điều khiển lên, nước bùn từ trong chảy ra tùm lum. Tôi vừa nói vừa thở hào hển, tim vẫn còn đập loan xạ. Chúng nó rộ lên cười.

Những trận đánh phục kích của chúng tôi thường là thế…

07/05/1974

Hơn một tuần nay, chúng tôi chưa có đạn nên nghỉ ở đây.

Kênh Bùi “đứng” dân đã bắt đầu về. Đã có mấy tiệm bán đồ tạp hoá.

Hàng hoá thật “mắc”… Chỉ có tiền ngàn mới tiêu xài được ở xứ sở này.

08/05/1974

CHUỘT

Tiểu đội tôi lại có thêm một tay mới nữa về. Như vậy con số tiểu đội lên đến 7 người. Không bù cho mấy hôm chạy càn ở kênh Mỹ Lợi : Chỉ còn 4 người mà vẫn một bảng điều khiển, hai hộp bệ đựng đạn (mỗi hộp nặng khoảng 9kg, cả đạn nữa là 20kg), hai súng AK, mấy cơ số đạn và bao đồ lề lỉnh kỉnh khác. Chúng tôi vừa chạy vừa nhăn nhó.

Không khéo trung đội lại đùn khẩu B40 ở A5 sang cũng nên, A5 có sáu người và Uỷ vẫn mang B40 bấy nay.

Chúng tôi vẫn được nghỉ ngơi vì “chưa”, hay là “không”, có đạn gì đấy. Đại khái là không hành quân đêm là được rồi. Trừ mấy hôm lại phải cử một vài anh đi lấy gạo một lần ở Kênh Ba Ngàn cách đây khoảng hai tiếng ra, còn thì cứ ngày ngày chén đẫy hai bữa, sau đó giữa hai bữa là ngủ… khì. Cũng khoái, chỉ mỗi cái là dạo này hết cái ăn. Mấy rường chuối ở ngã tư Kênh Bùi, Kênh Sáu Ngàn, mà dân đã bỏ chạy càn chưa về, chúng tôi ra phá sạch bách (!). Cứ buồng chuối nào có vẻ già già là … “phất” hết “trơơng” hết “trọi”. Ngày nào cũng chỉ món chuối quả nấu nước lình phình, rau muống dại (cọng đỏ) hái dọc bờ kênh luộc chát cổ, món rau sống gồm cây chuối, rau má… chấm nước gạo rang, hoặc tương khô (thỉnh thoảng) vớ vẩn mà thôi. Hôm nào kiếm được cá thì còn tươi. Dưới này chỉ mới mưa vài hôm mà nước đã nổi tràn lên đầy ruộng. Mấy đìa cá là chịu chết, không thể mò, tát tiếc gì được như mùa khô.

– “Ót miên ây xi” (không có gì ăn, tiếng Miên), đi dận chuột !

Đấy là “khẩu hiệu” tôi đặt ra khi mấy buổi sáng hôm trước, cả A vừa ngủ dậy là hò hét nhau kéo ra ngoài đồng cù chuột. Tay C. không ăn được thịt chuột nên ở nhà nấu cơm.

Cù chuột, đấy là một hình thức tập thể dục. Chúng tôi lội đến một vùng ruộng hoang, chọn một lùm cỏ năn rộng khoảng vài ba chục mét vuông, tốt ngang đầu gối, hơi có nước lắp xắp. Cả mấy thằng nối nhau đi vòng tròn, vừa đi vừa dùng chân dậm đạp bẹp dí hết cỏ năn hướng vào trong, không cho chuột chạy ra. Vòng đi cứ khép dần, nhỏ lại. Khi chỉ còn một bụm cỏ bằng độ cái nia, hai ba thằng xúm lại dùng hai tay bươi cỏ ra. Mấy thằng đứng ngoài đều sẵn sàng ở tư thế… vồ. Chú nào nhảy vọt ra, lập tức … choé ! Chú chuột bị tóm, bị túm đuôi đập đánh chát xuống đất rồi bị bỏ tỏng vào túi mang theo. Ngoong heng !

Nhưng có những lần cù, chẳng bắt được con nào. Có hôm may mắn cù được 15, 16 con.

Chuột đồng ở đây thật lắm mỡ. Mỡ chiếm nửa trọng lượng con chuột. Chúng tôi làm thịt, rồi chiên vàng, lấy mỡ nó chiên nó. Ăn sướng miệng đáo để. Dư mỡ, thằng Gia rót vào bi đông mang đi ăn dần.

Dân tình ở đây cũng chỉ có món thịt chuột là “đắc sách”. Có tiệm họ còn bán cả thịt chuột đã phơi khô treo từng chùm từng chùm lủng lẳng. Họ dùng thịt chuột làm mồi nhậu. Họ còn bày cho chúng tôi cách làm bẫy. Thế làm hôm qua và hôm nay chúng tôi hí hoáy làm bẫy. Sì sục đi thăm suốt đêm. Có bẫy sập mà không có chuột. Có bẫy sập chuột chết bẹp dí. Một đêm như vậy cũng bẫy được dăm bảy con. Chúng nó sướng rơn lên. Bẫy chuột làm rất đơn giản. Đan một tấm mành hình chữ nhật bằng cành trâm bầu, chiều ngang chiều dọc cỡ trên một gang tay. Sau đó đắp lên trên khối đất ướt lùm lên như cái mu rùa đủ nặng làm chết chuột. Chỉ việc mang ra đặt vào những nơi đoán chuột có thể chạy qua. Cắm một cái cọc chắc chắn phía trước bẫy. Dùng một sợi dây dù, một đầu buộc vào đầu giữa mành đất kéo dựng nghiêng lên, đầu kia dây dù buộc vào đầu một thanh trâm bầu ngắn làm đòn bẩy, điểm giữa thanh đòn bẩy gá lên đầu cái cọc. Đầu phía bên kia đòn bẩy cũng buộc một sợi dây nối với một cành trâm bầu chọc vào phía trong mành đất đi qua một cái “lẫy”. Chúng tôi rải mấy hạt lúa, hoặc gạo phía dưới mành đất. Đêm chuột vào ăn mồi, động vào lẫy, làm mành đất sập xuống đè chết chuột.

– Hôm nào được nhiều chuột, chúng mình phải làm ít xị rượu (đế) mới được !

– Hay !

15/05/1974

ĐI LẤY ĐẠN

Hôm nay chúng tôi hết gạo ăn. Ba bốn hôm nay rồi, chúng tôi vẫn cứ luẩn quẩn ở quanh bờ Kênh Hai Hạc, thuộc huyện Cai Lậy, Mĩ Tho. Chúng tôi đang bí đường ! Hai tay dẫn đường thì không “rành” đường cho lắm. Họ không muốn dẫn chúng tôi đi. Chiều trời lại mưa. Tiến thoái lưỡng nan.

22/05/1974

A6 chúng tôi được ở lại nghỉ ngơi trong mấy căn nhà dột nát của dân bỏ lại mà xung quanh, bom pháo đánh cây cối gẫy ngổn ngang trên bờ kênh Năm Ngàn. A5 với 3 trái đạn đã xuất kích. Cũng chẳng biết họ đi hướng nào.

Ngay chiều hôm chúng tôi vác đạn về (18/05), A1 xuất kích ngay. Lý do căn bản là được cấp trên mê tín. Hôm vừa rồi, trong trận phục kích xe “Jép” (M113) ở kênh Tè, kênh Giữa, Thành A trưởng A1 bắn 4 trái đạn, diệt được 3 xe. Sau đó đạn về. Tiểu đội của Thành được kéo đi. Hai ba cậu chàng vừa đi 9, 10 ngày tải đạn về mệt lử cũng được mê tín kéo đi luôn…

Còn A tôi vẫn được nghỉ ngơi và làm bẫy chuột. Sáng nay đã mần một bữa thịt chuột đã đời. Sau đó là tiệc trà.

Xuống T2 cho đến giờ, chúng tôi vẫn chưa được cấp tiền quân trang. Lính tráng chửi om sòm cả lên. Nếu nhận được tiền, chúng tôi sẽ phải gửi dân mua vải, thường là vải phin màu, trả tiền may cho họ. Mùa mưa đã đến. Bộ quân phục vải “diềm bâu” thô, sặc sỡ của Miền Đông, vốn không hợp với xứ sông nước này, đã bắt đầu mục bã ra rồi.

25/05/1974

VIẾT TẾU : Ở GA SI

– Thôi cậu về nhé ! Nhớ viết thư cho cháu !

– Cháu đi mạnh khoẻ nghe cháu !

Nhìn cậu tôi đắt chiếc xe đạp đi dọc đường tàu và cho đến khi bóng dáng nhỏ bé của cậu tôi trên chiếc xe đạp Phượng Hoàng xanh rêu quá cỡ đã khuất dần sau dãy phi lao cao vút trên đường 538, tôi mới khoác chiếc ba-lô vuông quân đội đã bạc màu bước vào nhà ga.

Phòng đợi trong nhà ga chật ních những hành khách. Đồ lề, bồng bị cứ tùm lum cả lên. Tiếng hò hét, tiếng chửi rủa, tiếng rao hàng, tiếng trò chuyện nhỏ to, tiếng cười khúc khích của một cặp vợ chồng trẻ,… tất cả các âm thanh ấy hỗn hợp với nhau cứ như là vỡ chợ.

Tôi đảo mắt quanh tìm người quen, nhưng không thấy ai. Tôi miễn cưỡng ngồi vào một chỗ trống mà một bà hành khách đã bỏ đi.

Trời đã gần tối, chiếc đèn bão duy nhất treo trên trần nhà ga đã bật sáng. Ánh sáng vàng vọt lờ mờ không đủ soi hết các xó xỉnh đã đầy rẫy những người nằm, người ngồi. Trong buồng người trưởng ga, tiếng a lô, tiếng gọi điện, tiếng lạch cạch in vé cũng ồn ào không kém.

Vất vả chen lấn lắm, tôi mới mua được một chiếc vé ra Hà Nội qua ô cửa nhỏ. Chiếc áo trắng kẻ ka rô ngã màu cháo lòng và chiếc quần ka-ki xanh Trung Quốc cũng đã bạc màu của tôi đều đã ướt đẫm mồ hôi. Nhờ có giấy phép học sinh, tiền vé được giảm 15%. Tay tôi nắm chặt chiếc vé bằng bìa nhỏ dài như một quân cờ Tam Cúc thoảng lên mùi mực in mới.

– Cái nhà anh này, đi đâu mà như ăn cướp vậy, dẫm ráo cả lên đầu người ta rồi này.

Một bà già nằm còng queo bên những gồng gánh, bị cói, ngồi bật dậy chửi om lên.

Tôi khoác chiếc ba-lô đi những bước như nhảy giữa những người nằm người ngồi, đồ lề lủng củng, cố thoát ra ngoài sân ga. Theo sau là tiếng hò hét, tiếng chửi rủa còn đầy ngái ngủ.

Tôi hít một hơi dài khí trời mát lạnh cảm thấy tỉnh hẳn cả người. Bầu trời đầy sao. Gió từ ngoài đồng thổi rào rạt vào sân ga.

Trong bóng đêm những toa tàu đứng im lìm. Những nhân viên đường sắt xách đèn bão chạy đi chạy lại rối rít. Một  đầu tàu vừa xịch đến thở phì phì. Tiếng đập, tiếng gõ chan chát ở một góc nhà ga.

29/05/1974

TÊN LỬA A72

Đêm nay chúng tôi nghỉ lại bên bờ kênh Bằng Lăng, trong một căn nhà dân mà tiểu đoàn bộ tiểu đoàn Tư Hải đóng.

Chúng tôi được lệnh xuất kích lúc 7 giờ tối hôm qua, giữa lúc mưa gió đầy trời. Sáu người chúng tôi với hai quả đạn B72, một bảng điều khiển, một hộp bệ đựng đạn và một khẩu AK, đi dò dẫm từng bước chậm chạp trên bờ kênh. Đường trơn hơn đổ mỡ, đi cứ ngã xoành xoạch. Quần áo ướt lướt thướt đến mấy bận. Mấy cây cầu khỉ chỉ bắc độc một cây gỗ giữa các cặp cọc buộc chéo chữ X chon von lơ lững trên kênh về khuya mới thật là tai hại. Có lần tôi đã bị té nhào từ một độ cao khoảng 3m, rơi đánh bõm xuống lòng kênh. Quả đạn tôi vác trên vai lúc đó cũng rơi theo như một khúc gỗ. Hậu quả của việc quả đạn B72 “tắm nước” sẽ là mục tiêu tới đây của đạn nhọn (12ly7) trên xe “Jép”, trở thành “Bạch trượt”. Biết vậy nhưng “Mặc mẹ nó” ! Cũng may kênh nước không sâu, lội bùn mà nước chỉ dưới rốn. Tôi lóp ngóp ôm đồ đạc lên bờ. Chẳng kịp lau bùn đất dính tèm lem, tôi mệt mỏi xốc quả đạn lên vai rồi đi tiếp kịp mọi người.

– B72 đấy à, sao đến muộn thế. Tôi chờ các bạn từ 3 giờ chiều đến giờ đấy.

Cứ mỏi cả mắt.

– Thì chúng tôi vừa có lệnh là đi ngay mà lị. Ông Vũ cáu. Lệnh gì mà khỉ thế. Đi đêm muốn chết luôn.

– Nghỉ một lúc rồi đi luôn thôi. Tay trinh sát E320 đang chờ sẵn để dẫn chúng tôi đi nói. Đây ra đến Kênh Dương Văn Dương còn xa lắm. Lội liên tục đến bụng đấy.

Sấm chớp nhì nhằng đầy trời. Dưới lòng kênh Bằng Lăng, xuồng bơi loang loáng. Tiếng dầm khua lạo xạo trong đêm.

Bộ đội đứng ngồi tùm lum dọc bờ kênh chờ xuồng. Tiếng khua muỗi phì phạch. Thuốc lá lập loè. Chuyện trò rôm rả.

– Trung đoàn được mấy cái xuồng chở hết xiết. Hồi đêm đến giờ mới được một chuyến.

– Mình hổng có xuồng ra đến Dương Văn Dương. Chắc phải rạng sáng.

Phía kênh Dương Văn Dương, mấy quả pháo nổ rậy lên. Chắc từ mạn quận Kiến Bình bắn xuống. Đêm nay chắc ở Nhà Thờ Lá lại có tao ngộ chiến đấy. Mai bọn tôi sẽ phục kích bắn xe đâu ở đoạn đó.

Sáng hôm nay, chúng tôi vừa ăn cơm xong đang chuẩn bị quay về lại kênh Bảy Ngàn (vì không có xe địch đi qua như cấp trên dự kiến) thì được chứng kiến một cảnh đẹp mắt. Chiếc cần cẩu “sâu róm” vừa lạch phạch bay qua đỉnh đầu chúng tôi thì “Ca … ảo … Đùng”, một quả tên lửa đất đối không A72 từ hướng kênh Năm Ngàn bắn lên trúng chóc. Chiếc máy bay bị làm gãy làm hai, bốc lửa, rồi rơi lảo đảo xuống ngay đầu chúng tôi. Chúng tôi hết hồn nhảy ráo cả xuống hầm (vừa đào đêm trước đó) miệng vẫn không ngớt hò la và nhìn lên. Quả đạn bắn lên rất “đẹp”. Xác chiếc cần cẩu rơi cách chúng tôi chưa tới 100m, ngay bờ kênh Tân Lập. Khói và bùn đất mù lên. Hôm qua một chiếc “cào cào” L19 cũng bỏ xác ngay ở bờ kênh Bảy Ngàn bởi trái đạn A72 thần kỳ. Dân lính bàn tán xôn xao.

🌺🌸📖🖍🌼🗓⏳💐🤖👁🌹

Tôi nghe bọn bộ binh đi theo bảo vệ lính A72 kể chuyện bắn máy bay, chẳng biết sai đúng ra sao. Mà cũng hay, làm tôi tò mò. A72 là tên lửa cá nhân vác vai đất đối không (còn B72 chúng tôi là đất đối đất) sử dụng hồng ngoại, có tầm bắn ngắn. Mỗi quả đạn, kể cả ống phóng dài khoảng 1m và bộ phận dẫn đường hồng ngoại chạy acquy, nặng khoảng trên dưới 10Kg. Khi bắn, lính ta chỉ việc vác lên vai như vác B40, chóc mũi tên lửa hướng máy bay mà chừng chừng rê theo. Ước lượng khoảng cách từ tên lửa đến máy bay để bấm nút kích hoạt bộ phận dẫn đường hồng ngoại. Trong khoảng 10 giây gì đó, khi tên lửa bắt được mục tiêu, bộ phận dẫn đường kêu re re lên báo hiệu, lính bắn sẽ quyết định thời khắc bắn tên lửa. Nếu không bắn kịp, hoặc không bắt được mục tiêu, về nhà phải thay mới bộ phận dẫn đường (?) Tôi mới ngộ ra vì sao thỉnh thoảng máy bay bay qua vùng chúng tôi, khi bay thấp, để tránh tên lửa A72 bắn lên, chúng thường rải pháo sáng (hoả châu) thành chùm cách quãng. Chắc bộ phận dẫn đường hồng ngoại bị pháo sáng phát nhiệt đánh lừa, sẽ không còn có thể điều khiển tên lửa được nữa…

29/06/1974

TƯỞNG TƯỢNG

Rõ khỉ !

Tôi làu bàu buông một tiếng chửi. Chiếc cầu khỉ bắc bởi một cây gỗ trâm bầu có gai sù sì cập kênh không cho tôi qua khỏi rãnh nước thông từ đìa ra bờ kênh. Nó hắt tôi té nhào xuống. Bùn đất bám loe nhoe đầy người. Bồng, bảng điều khiển ướt tèm lem. Chúng nó đứng sau cười ha hả.

Vất vả lắm, tôi mới thoát khỏi tai hoạ. Tôi xốc lại quai bồng và vượt lên bám sát đội hình. Chiếc gậy tre kéo lệt xệt theo sau. Phía trước bỗng tiếng cười nói nổi lên léo nhéo. Linh tính như báo cho tôi biết điều gì. Tôi ngẩng đầu lên bất giác nóng bừng cả mặt. Thật là lúng túng làm sao.

Trước mặt tôi, một cô gái mặc áo màu trứng sáo vừa bước đến. Tôi nhận ra H. Cô nghiêng nón mỉm cười hỏi tôi :

– Đi công tác ư “anh Sáu” ?

– Vâng. À, ờ. H. đấy à. Em đi đâu đây. Tôi luống cống. Tôi vội quá.

– “Người tình” của Khánh đấy, bọn mày ơi !

– Đứng lại nói chuyện với người tình, đã nào !

Chúng nó đứng sau trêu chọc um lên. Tôi chỉ kịp cười với H. như chữa thẹn, ra hiệu rồi vội vã đi luôn.

– Hôm nào “dìa” qua nhà tui chơi ư “anh Sáu”. H. nói với theo.

 

03/07/1974

– Thìn đâu ?

Ông Bút hớt hơ hớt hải kéo lẹt xẹt chiếc gậy tre, ở đâu bỗng xuất hiện trước ngưỡng cửa hỏi tôi :

– Kia, Thìn còn ngủ kia.

Nhìn vẻ mặt của ông ta, tôi đoán chắc có sự chẳng lành.

– Này, dân người ta kiện đấy. Bây giờ anh cho người ra lấy xác thằng L. đem cất lại vào nghĩa trang ở Bằng Lăng đi. Chôn vào nền nhà người ta, bây giờ người ta bắt đào lên là phải làm rồi.

– Thế nào ? Thìn ú ớ ngồi dậy, vẻ mặt ngơ ngác, ngái ngủ. Đấy, trách nhiệm của người cán bộ là thế đấy. Mọi hôm người ta làm thì chẳng bảo. Thìn cáu. Bây giờ biết làm sao.

– Thì tại các anh. Hôm nọ cứ chê là nghĩa trang thấp, ngập nước. Bây giờ thì ngập nước cũng phải đào mà chôn lại. Ông ta vừa nói vừa lau mồ hôi trên khuôn mặt còn trẻ nhưng gầy gò, đỏ au. Vẻ khó nghĩ đến lạ kỳ.

Suốt một buổi chiều hôm đó, lính tráng kẻ bàn ra, kẻ bàn vào, nhớn nhác, xôn xao. Người thì bảo đã chôn rồi mà lại móc lên thì có tội, gia đình ngoài Bắc người ta kiện kia kìa, sợ gì trong này. Người thì bảo kiên quyết không chôn lại, mặc mẹ nó… Tóm lại, ai cũng ớn. Buổi sáng nghe ông Bút bảo có con quạ bay qua kêu mấy tiếng, lại ớn nữa.

Tay P. ở ban chính trị J25 chạy lên chạy xuống nhà chúng tôi. Hết lời “quán triệt”, an ủi lại doạ dẫm. Khuôn mặt lão cũng nhăn nhó, phiền muộn giống hệt thảy chúng tôi lúc đó.

Cuối cùng thì cũng phải làm !

Lúc 5 giờ, ăn cơm chiều xong, Thìn, B phó làm B trưởng phụ trách B1, bắt đầu hò hét. Hắn chửi rủa ông Bút đáng thương. Buổi sáng ông ta đã bị hắn chửi như tát nước vào mặt về “cái tội”… lầng khầng khi chôn cất tử sĩ. Nào là “ngơ ngơ như bò đội nón” , nào là “như bò xem phim” nào là “hạng ông chả làm được con c… gì”. Vv.v… và .v.v… Những lúc khác thì ông Bút cười hềnh hệch. Nhưng lúc đó, mặt ông ta đỏ gay, tức tối : anh Thìn, anh im mồm đi.

Bên kia, B1, chẳng anh nào đi. Chỉ có ba tay nữa cộng với Thìn, đều là đảng viên và “cán bộ” cả. Bên này chỉ có Đ. là A trưởng và tôi. Tôi đi mượn xẻng ở nhà Ba H. về và kiên quyết với Thìn :

– Tôi là tôi chỉ đi đào huyệt thôi.

Thế mà tôi với hắn đã xảy ra xô xát với nhau đấy. Cả hai bên đều đã “lửa hờn” lên mặt. Chúng nó phải xúm vào can. Quả thật nghe tiếng cuốc xẻng đào bới, người tôi cứ run lên. Tôi ngồi chờ cho các bố đào ở trong gần xong mới đi ra nghĩa trang với thằng Hàn.

Làm xong công việc, anh nào cũng nhẹ nhõm cả người.

Đêm đến, một con cú lại đến sau hai nhà chúng tôi kêu cu ú… ! cu ú !.. Sợ quá, chúng nó vác đất ném lên cây rào rào, rơi xuống đìa bõm bõm.

Suốt đêm, hầu như anh nào cũng vậy, không ngủ được tí nào. Nghe tiếng cú kêu, gió rít lại càng ghê rợn. Hình ảnh thẳng L. lúc nào cũng chập chờn lởn vởn.

Sáng hôm ấy, cách đây ba đêm, đúng ngày đầu tháng 7, thằng L. và mấy tay ở A tôi ra cái đìa phía sau nhà dọn đường, đơm cá. Trước đây, phía sau mấy nhà chúng tôi là chốt của lính bộ binh Tám Thổ. Họ gài lựu đạn tùm lum phòng lính lợi dụng đìa tấn công. Sau khi họ rút đi, trái vẫn chưa dọn hết. Tôi nghe tiếng cười nói đang léo nhéo thì “Đùng …”, một tiếng nổ rền rĩ chát chúa vang lên phía sau nhà. Mảnh bay rào rào. Tôi chạy ra : thằng L. đã sặc sụa dưới đìa. Khói thuốc khét lẹt. Thằng Tu cùng làm với hắn sợ quá đã chạy biến. May mắn hắn không hề hấn gì. Tôi với Đ. kéo L. lên. Hắn thở hừ hừ : toàn mảnh ăn vào đầu và nửa trên người. Dám không ổn lắm, tôi nghĩ bụng và cuống lên. Đ. chạy vội lên nhà đại đội báo hung tin. Xung quanh bộ đội nghe tiếng nổ, biết đụng trái, kéo đến đông nghịt. Băng bó xong, chở đến Viện tỉnh ở Bằng Lăng thì L. qua đời.

– Câu chuyện “giật gân” như thế đấy

19/07/1974

ĐỒNG BẰNG

Viết về đồng bằng, tôi chẳng còn một tí hứng thú gì, mặc dầu, tôi còn nhiều nặng nợ với nó. Cũng như tôi viết cái tiền đề ở trên vậy. Thế nhưng dù sao, tôi cũng phải viết.

Có lúc sao tôi thích viết đến thế ? Nhưng nói chung, hầu hết, tôi lười. Vũ bảo tôi :

– Mày cố gắng viết đi, càng nhiều càng tốt. Sau này còn khối việc bổ ích cần đến nó đấy.

Tôi hiểu như vậy nhưng có lúc, tôi không làm chủ được bản thân tôi nữa. Thời gian cứ buông trôi. Ngày hôm nay không làm sống lại ngày hôm qua. Ngày hôm qua bị lãng quên. Mọi cái lẽ dĩ nhiên sẽ lùi về dĩ vãng, không mảy may thương tiếc…

Rồi mình sẽ bị chết dần chết mòn mất trong sự hiu quạnh, cô buồn. Tôi nghĩ vậy.

📖🖍

Đại đội tôi xuống đây đã được 4 tháng. Bốn tháng sống trên đất Đồng Tháp Mười. Biết bao là sự kiện, những thay đổi và xáo trộn tèm lem. Từ quân số trên 40 người, bây giờ cả hai mũi chiến đấu Bắc và Nam Lộ 4, chỉ còn khoảng trên 20 người. Ba đợt lên Miền Đông đã kéo gần hết quân số của chúng tôi. Bây giờ bộ phận bắc lộ chúng tôi chỉ còn hai tiểu đội. Một tiểu đội, tiểu đội thằng Gia, đi phối thuộc với E320 non tháng nay vẫn chưa về. Mang đi 4 quả đạn chắc là vẫn chạy rông, vác đi vác về thôi.

Còn A tôi thì bị xoá sổ. Đ., A trưởng đã lên Miên. Ba thằng tôi bị kéo về A2 của B1. Toàn B1 dồn lại được một A do N. làm A trưởng. Non tháng nay, chúng tôi ăn no ngủ khoèo ở Kênh Bùi cũ. “Nhàn cư vi bất thiện”. Sau bữa ăn, chỉ có chuyện gái là rôm rả.

Trên C bộ, chỉ còn lại cụ Thiều chính trị viên phó vừa đi Viện về. Còn cụ Bút đã đi Miên.

Có lẽ chỉ viết đến đây là cụt ý (? !).

05 .. 09/08/1974

DU “KỨC”

 Anh Hai Xã, vâng, đúng là anh ta mà hai tay du kích vừa chỉ cho tôi đến đây, đang ngồi với bà vợ (hình như thế) trên bộ vạt ghép bằng những thanh tre đóng đinh, đang chuyện trò gì đấy. Anh ta ngước cặp mắt trắng dã nhìn tôi tỏ vẻ ngạc nhiên :

– Tôi là Hai Xã đây, chú hỏi chi “dậy” ?

– Thưa anh. Tôi vừa nói vừa bỏ khẩu AK sang bên cạnh, giật chiếc khăn mặt đội đầu lau mồ hôi. Tụi em vừa đi công tác về. Lúc qua đường Thống Nhất từ kênh Bằng Lăng về kênh Bích này ấy mà, tụi em bị lạc mất một người. Hình như anh ta đi về phía bót Bằng Lăng. Anh ta bị sốt, bị bệnh ấy mà, lại say nắng nữa. Sợ có chuyện gì, tụi em định nhờ các anh đi cùng tụi em đi tìm anh ta, không thì nguy hiểm quá. Ở đây tụi em chưa rành địa hình, được không anh ?

– Sao ? Các chú đi đông không mà lại lạc ?

– Tụi em chỉ có 4 người.

– Trời đất quỷ thần ơi ! Có 4 người mà lại để lạc nhau là làm sao. Lạc ở quãng nào ?

– Chỉ cách tiền duyên kênh Bích này khoảng ba trăm thước thôi. Anh có biết cái cầu bắc xeo xéo qua cái đìa sâu sâu ấy không…

– Có phải kênh số 7 không ? Anh ta ngắt lời tôi.

– Em không biết số mấy, nhưng ở chỗ đường quẹo ấy. Thế là anh ta đi thẳng. Sợ anh ta nóng đầu nên đi vào bót thì khổ lắm. Bót Bằng Lăng chỉ cách khoảng độ một ngàn thước thôi mà. Phải không anh ?

– Không, còn xa hơn… Anh ta cúi đầu xuống lộ vẻ suy nghĩ. Đôi lông mày rậm nhíu lại. Sau lưng, bà vợ ông ta, trong bộ đồ bà ba đồng màu in hoa sặc sỡ nom vẻ còn trẻ, cứ chăm chú nhìn tôi. Một lúc sau, búi lại mớ tóc bị soã, bà ta hỏi :

– Đã lâu chưa em ?

– Vừa xong thôi chị. Địa hình ở đây em không rành mà. Nhờ mấy anh du kích đi tìm hộ, giúp tụi em.

– Như thế này. Mãi một lúc sau, anh ta mới ngẩng đầu lên. Bây giờ chú đến nhà mấy anh du kích ở đằng kia. Anh ta chỉ về phía kênh Năm Ngàn. Chú bảo các anh ấy đi tìm giúp. Chứ tôi thì bịnh quá chú ơi. Anh ta than phiền. Mấy hôm nay ốm suốt mà. Có chị đây này. Hổng ăn uống chi được.

– Tôi bịnh, không đi cùng chú được. Anh ta nhắc lại, vẻ mặt thiễu não.

– Anh Hai đây bị bịnh thật đấy. Người đàn bà phụ hoạ.

– Không. Tôi nói một cách ngây thơ. Em chỉ cần nhờ anh cắt cử cho một vài anh du kích nào đấy đi cùng tụi em là được. Nếu anh bịnh thì em cũng không muốn làm phiền anh.

– Tui bịnh quá chú ơi. Nếu khoẻ thì tôi đi chứ cắt cử gì. Bây giờ chú cứ lại đằng đó đi. Họ đi giúp chú. Chứ tôi không cắt được họ đâu. Đầu anh ta gật gật : đi tìm anh em đi, tội nghiệp…

Đến bây giờ tôi mới cáu sùi bọt mép. Tuy nói nhẹ với lão ta nhưng giọng đầy châm chọc :

– Hừ, thì tôi vừa qua chỗ mấy ông du kích lại đây. Tôi đã đặt vấn đề nhờ họ thế nhưng, ông thì bảo tôi bị thương, ông thì cáo bịnh. Cứ tùm lum cả lên. Có ai chịu đi đâu. Họ chỉ tôi lại anh Hai Xã đấy. Họ bảo anh sẽ cử người đi cùng tui tôi mà.

Mặt Hai Xã cứ đần ra.

– Xung quanh đây không có trái đâu. Mà lại, ông bị lạc cũng không đi đâu xa đâu mà. Cứ lại chỗ cũ tìm sẽ thấy đấy…

– Nếu vậy thì tôi đã không vào đây nhờ các anh. Hừm…

Tôi giận dữ vớ lấy khẩu AK đứng dậy đi thẳng ra ngoài.

Nắng chiều vẫn nóng rạt chiếu xiên hông. Hai bờ kênh Bích, khói như bốc lên từ mặt nước, từ cả cỏ cây và từ cả con người tôi nữa.

(… viết tiếp 09/08)


22/08/1974

Mỗi năm khi vụ cày cấy đến, ngửi mùi đất mới xông lên, tớ lại nghĩ về quê hương với một nỗi nhớ nhung tha thiết.

– Chỉ vậy thôi à ? Tôi nhìn thằng Kh. cười. Khi ngồi nói chuyện với hắn, tôi đã vô tình hỏi hắn một câu khá dí dỏm : Cảm tưởng của anh sau mấy năm trời vào đây thế nào ?

Thằng Kh. nói đúng : Sinh ra và lớn lên trên một làng quê Việt Nam, cuộc sống gắn liền với chiếc cày thửa ruộng. Cũng như bao người nông dân khác, anh ta có cái chất phác thật thà, cái gắn bó thiết tha với những tháng ngày lao động. Chiến tranh, đã đến lúc chán ghét lắm rồi. Cũng như tôi, khi mùa mưa đến, tôi lại nhớ về những ngày hè sau những năm học hành bận rộn. Đối với tôi, không còn gì đau khổ hơn là phải xa sự học vấn, xa sự hiểu biết. Khi ấy cuộc sống sẽ thế nào

Vào đây, giữa hai lần “húc”, thời gian trôi qua thật vô vị. Nhiều khi, tôi tẩn mẩn đứng đọc những “mảnh” báo Sài Gòn nhàu nát cũ kỹ nhặt được dọc đường mà dân họ bọc đồ rồi vất đi. 

05/10/1974

Hôm nay, một ngày đáng ghi nhớ trong đời tôi. Có lẽ cho đến khi nhắm mắt xuôi tay, tôi sẽ không quên được ngày này :

Ngày mồng Năm tháng Mười năm Một Nghìn Chín Trăm Bảy Mươi Tư.

Rời bỏ mái trường Đại học Bách khoa, rời bỏ những ước mơ hoài bão tốt đẹp với những kỷ niệm êm đềm của tuổi thơ, tôi bị ném ra ngoài xã hội đang bị đe doạ vì chiến tranh. Sau hai năm học miệt mài, sáng mồng 6 tháng 9 năm 1971, nhận công lệnh gọi nhập ngũ của Khu Hai Bà Trưng, Hà Nội, tôi lên đường nhập ngũ (cùng 4 bạn học cùng lớp : Vũ Tiến, Thành Sự, Thiều Tiến và Nguyên Huân) . Trong bộ đồ áo lính, từ miền Bắc thân yêu, tôi vào Nam chiến đấu. Qua Trường Sơn hùng vĩ, những năm tháng thử thách bắt đầu. Làm một cuộc trường chinh suốt chín tháng trời theo bề dài của tổ quốc, và cho đến ngày hôm nay, lúc nào tiếng gọn quê hương cũng thôi thúc tôi. Sốt rét, bịnh tật đã quật ngã tôi không thương xót trên con đường ấy.

Một anh bộ đội, đúng hơn vẫn còn tính chất một anh sinh viên, tôi len lỏi trong các chiến hào ở miền Đông, và bây giờ ở Đồng Tháp Mười. Tất cả những gì xa lạ của chiến tranh, của những miền đất xa xăm mà tôi đã đi qua, của những khuôn mặt người, đã trở nên qua ư quen thuộc đối với tôi. Và những gì cản trở chân tôi, bây giờ tôi đã cảm thấy bình thường. Chỉ có một điều duy nhất, tôi sẽ trở về chỗ đứng của tôi. Các chỗ đứng mà ba mẹ tôi, gia đình tôi và bạn bè tôi vẫn hằng mong muốn.

Sống giữa tình đồng đội, cuộc chiến đấu sôi nổi, đã làm cho tôi trưởng thành, dày dạn trong cuộc sống.

Tôi phấn đấu vất vả. Quả vậy, nhẽ ra tôi sẽ gặp những cái may mắn hơn. Thế nhưng, những xáo trộn cứ làm tôi luẩn quẩn trong những sự hạn chế. Ý nguyện của tôi luôn luôn bị những khách quan tác động, nó thay đổi, “biện chứng” quá chừng.

Bảy năm sống trong Đoàn, nay tôi là Phó bí thư Chi đoàn. Sự phấn đấu không mệt mỏi đã cho tôi những “quyền lợi” thích đáng. Tôi được cấp trên cho vào Đảng Nhân dân Cách mạng Việt Nam.

Tôi không thích viết chính trị vào cuốn sách tội nghiệp này,

thế nhưng tôi cũng phải viết.

Hôm nay, ngày mồng 5 tháng 10 năm 1974.

Buổi lễ kết nạp Đảng hết sức sơ sài, giản dị, nhưng ấm cúng.

Cấp uỷ chỉ còn mỗi anh Thiều. Các đảng viên trong chi bộ đến đầy đủ.

Hội trường là một căn nhà lá nhỏ xíu trên bờ kênh Trâm Bầu, rải ni lon chỉ đủ ngủ được 5 người mà A tôi vừa tiếp quản sáng nay. Bọn A72 đã rút đi mấy hôm nay. Giăng hai tấm tăng nylon làm nền phông. Ba khẩu hiệu nhỏ tôi viết ngày hôm qua. Toàn thể chi bộ ngồi quây quần.

Sau khi anh Thiều tuyên bố lí do, tôi là người đầu tiên lên đọc đơn xin vào Đảng. Tôi hết sức cảm động. Giọng đọc run run, nhỏ nhưng rõ ràng, mạch lạc. Đinh Văn Vụ là người giới thiệu thứ nhất cho tôi vào Đảng. Hiện nay anh là B trưởng chỉ gồm một tiểu đội của chúng tôi và là Tổ trưởng Tổ Đảng 3. Người giới thiệu thứ hai là K. nhưng đi công tác vắng. Anh Thiều đọc quyết định của Đảng uỷ 835 và dặn dò.

Kết nạp cùng tôi chỉ có T. ở B1. Có cả Suốt (biên chế ở C1 cũ) nữa nhưng hiện vắng mặt.

Sau buổi lễ kết nạp là buổi sinh hoạt Chi bộ đầu tiên.


08/10/1974

Hơn một tháng nay, chúng tôi vẫn ở chung nhà với dân trên bờ kênh Trâm Bầu. Dạo này đã trời bắt đầu khô ráo nhưng thỉnh thoảng vẫn còn những cơn mưa. Có hôm nhà dân đông người, chúng tôi phải căng tăng dã ngoại, mắc võng ngủ ngoài sân phơi lúa.

Cô Tám Gần, đi dân y của xã về có thân người béo lùn, xấu, là tiền đề bôi bác của tụi tôi. Cô ta khiêu khích thể xác tôi một cách dữ dội và sỗ sàng. Tôi đã đọc được trong đôi mắt và những cử chỉ thèm khát của cô ta đối với tôi. Nhưng than ôi, “rất tiếc”. Tôi vẫn hay nói vậy. Tôi cứ để mặc nhiên (!) và không thèm đếm xỉa đến. Tôi sợ có thể đó là một lý do, nhưng là lý do này : tôi không có một tý cảm tình gì với cô ta cả. “Xào khô” tôi mần được. Nhưng lỡ may mà “ướt”, bị bà Tư già (dì ghẻ của cô ta) “tóm giò”, thì khốn nạn lắm.

Tội nghiệp cho bà Tư già. Bà già đau khổ. Bà ta ưng tôi lắm. Cứ nằng nặc hẹn tôi quay trở lại khi chia tay.

15/10/1974

Hai vợ chồng ông Tư – chủ nhà, dậy lịch kịch một lúc lâu, tụi tôi mới lục tục dậy. Tôi ngồi trên “tăng xê” là một ụ đất đắp nổi sù sụ trong nhà, mà tôi vẫn ngủ hai đêm nay, chờ cho bọn nó lúi húi gấp màn gói đồ lỉnh kỉnh nhét gọn vào bồng, tôi mới bắt đầu kéo cái đầu dây màn. Đêm qua tôi ngủ ngon. Không biết mơ những cái gì mà cũng chẳng nhớ rõ nữa. Còn thì đêm trước vẫn mơ về Bé Tám. Sáng ra kể lại, tụi nó cười chế tôi.

– Hồi gần sáng, tao nghe bà già nằm mơ nói gì với ông ấy kia mà. Thằng Gia phân bua khi thằng L. bảo hắn hôm nào gần sáng cũng ngủ như trâu chết, gọi mới biết.

– Thôi đi ông nội ơi. Thằng Quế liến thoắng. Ông già mơ nói gì ấy, thế rồi bà già mới đập ông già dậy, bảo gì đó tao nghe không rõ. Nhưng mà rõ ràng thế cơ mà, phải không thím, thím Tư ? Mày đúng là chỉ phét lác.

Chúng nó cười nói nhốn nháo lên một lúc nữa mới chịu đánh răng rửa mặt.

Sáng nay, chúng tôi mua gia đình một con vịt độ nửa ki-lô giá 250Đ VNCH. Mấy hôm trước, ông bà già cứ khăng khăng đòi bán 300Đ một con. Mấy thằng ở Z14 đến mua cự nự rùm lên. Tụi tôi cũng đã định chọn mua một con vịt trong đàn vịt ông bà nuôi quây lưới cạnh nhà hôm mới đến. Thấy mắc quá, đang chần chừ chưa định mua. Chiều hôm qua, đang giữa bữa cơm của chúng tôi, nhìn một rổ rau sống bự chảng, nào là hoa chuối thái nhỏ, cọng rau muống chẻ do tôi và thằng L. chuẩn bị suốt cả buổi chiều, hoa điên điển vàng choé, rau tai tượng, v.v… và một bát nước chấm trong veo, mà chẳng ngó thấy gì khác, bà già Tư tuyên bố :

– Mai các cậu bắt “dịt” mần ăn. Tui lấy 250Đ một con thôi. Chà ăn cực không cà !

– Vâng, được rồi thím ạ. Mai tụi cháu bắt. Nhưng mỗi cái là thịt vịt còn tanh lắm.

Xong bữa cơm và tiệc trà pha đặc chát (cắm tăm được, ấy là kiểu lính tráng vẫn nói), đến nỗi ông bà già Tư, chị Hai cứ đứng ngoài nhìn, lắc đầu ngán ngẩm. Ông bà già cũng uống trà B’Lao vỏ vàng choé như chúng tôi. Nhưng mỗi bữa, họ chỉ bỏ một nhúm trà rất nhỏ trực tiếp vào một giỏ ấp lớn rồi chế uống cả ngày.

Thằng Gia bảo :

 – Hôm nay, mấy thằng ra ngoài kia kiếm ít gì về ăn. Hôm trước bọn tao đã ngược lên kênh Bằng Lăng, hướng lộ 30 và xuôi về gần kênh 28 mà chẳng có gì mấy. Hôm nay bọn mày thử đi thẳng kênh Kỳ Đà xem sao. Hắn nhìn tôi thăm dò.

– Được rồi, tao đi. Thằng nào đi nữa ? Tôi hỏi.

– Tao đi với. Thằng Quế nói.

Hai chúng tôi bơi xuồng dọc lên kênh Kỳ Đà một đoạn mà chẳng tìm thấy cái cóc khô gì để lấy. Ngán ngẩm, tôi với thằng Quế mới bơi ngược về hướng kênh 28. Gần trưa, chúng tôi mới rủng rẻng bơi về. Trong xuồng là củi, toàn những nhành gáo tươi vừa bẻ vừa chặt, 2 cây chuối và 2 cái hoa chuối. Thằng Quế làm gãy đôi cái dầm lái lúc bơi qua một đám lục bình. Tôi với hắn đã phải to tiếng với nhau đấy.

Mới vài tuần đây thôi, mỗi tiểu đội chúng tôi được cấp phát một chiếc xuồng be chín tấm cỡ lớn (tôi thấy ngoài Bắc gọi là thuyền tam bản, trong này gọi là xuồng ba lá), kèm bốn cái dầm và một cái sào tre, tất cả còn mới cáu, thơm mùi gỗ, để hành quân. Thật tiện. Chúng tôi chất tất cả người ngợm, đồ lề lên xuồng, để dọc cái sào theo xuồng và chỉ việc lên đường, ngắm cảnh Miền Tây sông nước, nhà cửa, vườn tược, cây trái qua hai bên bờ kênh. Chúng tôi thay nhau ngồi cầm lái ở phía đuôi xuồng. Phần đầu xuồng họ làm đai gỗ thon dài ra và cao hơn hẳn. Cái việc lái dầm, chống sào cũng mất nhiều ngày tập, mãi mới quen đấy. Bơi trên kênh, thấy dân tình đánh dầm xuống nước thật nhịp nhàng, thật ngọt, xuồng cứ đi băng băng, chúng tôi cứ trố mắt mà thán phục. Ham nhất là gặp mấy tay du kích. Mỗi hắn vai mang bồng, vai mang súng, ngồi xếp bằng ngay ngắn trên một chiếc be ba lá (nghe gọi ghe câu) nhỏ xíu, vừa bơi vừa thỉnh thoảng chống dầm lên bờ (trên những con kênh nhỏ chỉ vừa đi lọt một chiếc xuống). Hầu như không nghe tiếng dầm trải nhanh thoăn thoắt xuống nước. Không thấy bọt nước văng lên. Chỉ thấy hắn đều đặn khua tay. Nước sóng sánh cuộn lên trôi lặng lẽ dọc theo hai mạn xuồng. Những âm thanh như lắp bắp lạt rạt khe khẽ vọng lại. Còn chúng tôi thì hỳ hục đổ mồ hôi suốt cả tuần, thay nhau bơi, thằng ngồi trước mũi, thằng ngồi sau, vung dầm cãi nhau chí choé. Bơi gì mà xuồng cứ quay tròn, chòng chà chòng chành chẳng chịu đi. Nhiều lúc xuồng chực lật úp. Mà có tiểu đội bị lật úp thật đấy. Chúng nó lóp ngóp, ướt lướt thướt vớt xuồng, vớt đồ trên dòng kênh đục ngầu phù sa, bèo lục bình trôi xả lả mà chửi um cả lên. Cấp xuồng nhưng chẳng có ai hướng dẫn bơi lái cho cả. Lính tráng tự mò mẫm mà bơi, mà chèo thôi. Đầu tiên tự bơi từ chỗ cấp phát đến chỗ đóng quân. Nghĩ đến cảnh trước đó, mang vác hành quân bộ, trời mưa gió, đường trơn, leo cầu khỉ cả đêm…, mà tôi rùng cả mình. Bây giờ sướng nhá. Bơi quen, tôi mới ngộ dần ra. Khi bơi xuồng một mình, tôi ngồi thẳng lưng ở cuối xuồng, trên cái bệ gỗ ván làm ghế, hai tay cầm dầm. Ngồi xếp bằng hoặc thả hai chân xuống đáy . Nếu bơi dầm bên phải xuồng, tay trái cầm mẫu gỗ tròn ngang đầu cán dầm, tay phải cầm phần giữa của dầm. Thả dầm xuống nước phải vung nghiêng lưỡi dầm, từ trước ra sau, thuận theo đà để lưỡi dầm chìm xuống nước rồi nâng vòng cung lên tiếp tục nhịp chèo sau. Cứ vậy một cách đều đặn, nhịp nhàng, không để dầm va cạch cạch vào mạn xuồng, hay nhấp nhổm đít làm xuồng tròng trành. Nhớ chèo ngược chiều kim đồng hồ. Khi muốn bơi dầm bên trái xuồng, chuyển tay phải lên cầm mẫu gỗ đầu cán dầm, tay trái cầm phần giữa dầm, vung xuôi chiều kim đồng hồ. Để xuồng đi theo hướng nào là trước khi nâng lưỡi dầm lên khỏi mặt nước, hai tay cuộn cây dầm và giữ dầm chìm một lúc để thuyền tiến tới theo hướng mong muốn, chưa vội nâng dầm lên ngay. Cuộn vào trong (trên xuống) để hướng xuồng sang phải. Cuộn hắt ra (dưới lên) để hướng xuồng sang trái. Dầm ở bên trái hay bên phải mạn xuồng đều có thể chỉnh hướng đi của xuồng. Bình thường đi thẳng thì lúc dầm còn ở dưới nước, cuộn qua cuộn lại cây dầm để làm lực đẩy xuồng lên phía trước. Còn bơi xuồng hai người thì việc lái hướng chủ yếu do người ngồi sau. Người ngồi trước chủ yếu móc dầm thẳng và sâu xuống nước để xuồng đi cho nhanh, như đâm thọc ngoáy dầm xuống dòng kênh vậy. Thỉnh thoảng chống dầm lên bờ để đẩy mũi xuồng ra khi có nguy cơ xuồng đâm sầm vào bờ kênh. Tôi chưa thử cách bơi xuồng một mình mà ngồi đầu mũi như dân ở đây.

Vậy là chúng tôi có phương tiện hành quân miền kênh rạch chi chít ở T2.

18/10/1974

Tuỳ tay : ĐỒNG THÁP MƯỜI

Thế mà gần bảy tháng trời đã trôi qua, tôi sống và chiến đấu trên vùng Đồng Tháp Mười. Chúng tôi đã lội gần khắp các tỉnh Kiến Tường, Kiến Phong, Mỹ Tho, của Phân khu II. Bảy tháng trời sao mà nhanh thế ? Bây giờ chúng tôi đang nhận lệnh quay về Miền Đông củng cố lực lượng, đang chờ cánh anh Hai Chúc (C trưởng mới của C tôi) đón món dưới Nam Lộ 4 lên. Lại quay về nơi khỉ ho cò gáy với những cơn sốt rét ác liệt, rèn luyện chính quy và tăng gia, tôi cảm thấy luyến tiếc cảnh đồng bằng làm sao. Tuy rằng về trên ấy, lại được gặp gỡ các bạn cũ, đỡ vất vả ác liệt, đỡ cảnh chạy lính re kèn cả quân lẫn quan (!). Lại chuẩn bị một chuyến hành quân vượt cánh đồng “chó ngáp” của Đồng Tháp Mười, vượt một quãng dài trên đất K (Miên) trở về Lộc Ninh, Trà Thanh đấy. Chao ôi sao mà ngán ngẩm.

Tuy sống ở đồng bằng không được bao lăm, thế nhưng đối với tôi, thật là những ngày đáng ghi nhớ. Mới những ngày nào bỡ ngỡ hành quân bộ đêm đêm trên những cánh đồng hoang, hương sen đêm thơm ngát. Lúc chạy, lúc chui luồn trong những cánh rừng tràm, rặng trâm bầu trải dài bát ngát. Đeo nặng mướt mồ hôi lưng. Lò dò trên những chiếc cầu khỉ bắc cheo leo trơn trượt trên những đường kênh. Có lúc ngã té nhào. Phải nói có lúc đã hết lời chửi rủa, nhăn nhó. Thế mà đến nay, tuy hành quân xuồng giữa mùa mưa, những cảnh đó đã trở nên quen, mọi cái đã đi qua… Chúng tôi đã có thể khiến con xuồng một cách mau lẹ bằng chiếc dầm bơi, bằng chiếc sào tre dài chống nghiêng trên đồng nước, trên sông Vàm Cỏ Đông, sông Vàm Cỏ Tây.

Tôi nhớ lại chuyện tập chống sào. Hồi mới nhận xuồng về, tập bơi dầm đã khó, tập chống sào lại càng khó hơn. Đúng dạng chân giữa xuồng, hai tay cầm sào chọc quẹt xuống kênh, cong người cố sức đẩy sào, nghĩ rằng vậy là đẩy xuồng đi. Thế nhưng hổng phải chỉ đơn giản vậy. Nhiều hắn bặm môi đẩy mạnh quá xá, xuồng lướt đi bỏ hắn lại. Hắn ôm chèo khoeo cây sào rồi đổ sầm xuống kênh. Nhưng chống riết rồi quen. Khi qua sông rộng, nước sâu, không chống sào, mấy hắn ngồi giữa xuồng, hai tay cầm sào bơi vung vẩy qua hai bên như bơi trải, miệng hát ngêu ngao. Khi cần chống xuồng, mấy hắn đứng dậy vung hai tay quẹt sào sâu xuống nước rồi hắt lên trông rất diệu nghệ. Lúc chống bên này, lúc chống bên kia. Xuồng cứ là rẽ nước băng băng. Mấy hắn còn tiện sào khoèo lên cọng súng dài loằng ngoằng từ đáy sông, rồi chọc hoa điên điển nở vàng ruộm bên bờ kênh. Vậy là có món rau. Trong này, thân cây hoa sen, hoa súng đều có thể tước vỏ đi để cắt khúc nấu canh, hay ăn sống.

“… Miền Nam, tiếng ai hò ơ… man mác dòng kênh… “

Lớn lên ở miền Bắc, tôi đã được nghe nói, hay đọc qua sách vở, về Đồng Tháp Mười, với những cánh đồng bát ngát hoa sen, lúa trời vươn theo con nước và chi chít những dòng kênh… Vào đây, tôi đã được sống thật, từ hít thở những luồng gió trong lành, ăn rau đồng, ăn cá đủ kiểu loại, ăn cả thịt chuột…, đến lăn lộn trên những bờ kênh, lúc xung trận, lúc chạy trối chết, lúc toòng teng trên võng dưới những rặng trâm bầu, rừng tràm… Cho đến bây giờ, con người và phong cảnh Đồng Tháp Mười đã im đậm trong tâm hồn tôi. Dòng nước nâu đục lững lờ trôi cuốn những mảng lục bình (bèo Tây) dình dàng bọt nước. Hai bên bờ kênh, chuối, xoài, dừa… xanh biếc còn sót lại qua những năm tháng phũ phàng, ác liệt của chiến tranh. Trâm bầu, gáo, tràm, những vườn cây, kéo dài vô tận, xẻ dọc xẻ ngang trên đồng nước. Chúng tôi đã sống “rất lâu” trên tuyến kênh Năm Ngàn ở vùng Bốn, trên kênh Cống Trâm Bầu của Kiến Phong. Những đường kênh đã cho tôi một vài kỷ niệm êm đềm. Những buổi chiều bơi xuồng dạo chơi, mua đồ trên kênh Bà Phủ, kênh Trâm Bầu, thật vui vẻ. Có lẽ khó mà quên được những kênh rạch này khi rời khỏi đất miền Nam. Ở đấy, những chú Tư, thím Tư, chị Hai, anh chị Bảy…, những Bé Tám, Bé Chín, những con người đã trở nên thân quen trong cuộc sống của chúng tôi.

Tôi vẫn còn nhớ từ ngã ba cống Trâm Bầu, bơi xuồng ngược về ngã Sáu, trên kênh Nguyễn Văn Tiếp rộng mênh mông, bơi qua ba lùm cây ăn quả ra sông, là đến nhà cô Bé Tám, Bé Chín và anh chị Năm nay đã mở nhà tiệm. Rồi từ ngã tư Bà Phủ, bơi xuôi về là tiệm Năm Chiếc. Ngã tư là tiệm chị Tư Lục Bình. Ngược lên là cua Bà Phủ. Qua Sáng Phèn là tiệm Ba Nhanh, tiệm Hai Phụng, những cửa tiệm bán đủ thứ đồ tạp hoá. Những cô gái ngộ nghĩnh luôn là tiêu đề chuyện gẫu của tụi tôi. Bây giờ đã qua hết cả rồi. Khó có ngày trở lại những ngày ăn nằm dạo chơi rỗi rãi ấy.

Cho đến lúc chúng tôi xa kinh Trâm Bầu, mấy gia đình mà chúng tôi nghỉ nhờ buồn hết chỗ nói. Họ hẹn hò chúc tụng chúng tôi, tránh móc chúng tôi sao không cho họ biết sớm hơn. Ôi những gia đình nghèo, đậm chất nông dân Nam Bộ. Họ chả giúp được gì về vật chất cho chúng tôi, những thằng lính gầy gò xác xơ lúc nào cũng đói, nhưng họ dành cho chúng tôi mái nhà, khoảnh sân và những câu chuyện đủ các chủ đề về mảnh đất xứ sở của họ. Chúng tôi nhận được tình cảm chân thật của họ. Thảng hoặc, chúng tôi giúp ít nhiều cho họ. Từ đó tình cảm lại càng đậm đà, ấm cúng.

Nhớ những đêm đập lúa, xem họ giăng câu, đặt lợp đánh cá, những bữa uống nước trà hút thuốc, có cả những bữa nhậu rượu đế, thịt gà, thịt vịt lăn chiêng. Chuyện trò cười nói sặc sụa hơi men. Tôi thấy chú Tư cầm đũa gõ gõ nhịp vào cái xoong (mà gõ lúc trúng lúc không, toàn gõ xuống chiếu) ca vọng cổ ngêu ngao. Say mèm, mắt lờ đờ, cổ gióng cao, giọng chú khàn đặc thuốc rê, nhừa nhựa, chẳng nghe được chú ca câu gì.

Nhớ hôm tôi với thằng Gia chống xuồng ra ngoài ruộng cắt lúa giúp anh chị Bảy, lúc anh ta chở lúa về rồi quay ra, anh đưa cho hai đứa tôi một bao thuốc lá thơm “Rubi Quen” Quân Tiếp Vụ màu xanh. Hai đứa mừng quá cảm ơn cười nói hỉ hả. Trưa về lại ăn cơm nhà anh chị ta. Mấy đứa nhỏ con anh chị cứ quấn quýt lấy tụi tôi. Cứ chú Hai, chú Ba ! Chả là họ vẫn gọi tôi là thứ Ba. Có hôm đi công tác một ngày về, tôi cũng mua cho mấy đứa nhỏ một gói kẹo, anh chị rất cảm động. Chị Bảy hứa hẹn làm mai cô Bảy Khắp (em chị ta) cho tôi. Mỗi tội cô ta xấu quá. Tôi cười bảo chị :

– Trời ơi, chỉ sợ cô ấy không chịu em thôi, chị à !

– Xờ … ơi, chú không chịu thì có. Chú chê gái miền Nam chứ gì ?

– Không phải đâu chị ơi, gái miền Nam đâu có thích trai Bắc Kỳ. Đâu có biết đào đìa, phát phảng, không biết giăng câu, đặt lợp này, không biết bổ củi này, lại hút thuốc thơm, uống trà sạt cả cơ nghiệp này. Mà tụi em đâu có tiền hàng trăm, hàng ngàn để cưới vợ kia chứ, phải không chị ?

– Thì các chú đi “làm cách mạng” đâu có tiền mà “tuyên bố” chớ. Chị ta vừa nói vừa cười. Chú kiếm cớ “dậy” thôi. Chú chê gái miền Nam dốt mà. Phải hông ?

– Đâu dám chị, tụi em “thiệt…tình…”. Tôi chu mỏ kéo dài “thiệt tình” khiến cả nhà cười ha hả.

– Con gái miền Nam không “chịu” các chú bộ đội Bắc Bộ là đúng. Đến khi thống nhất, các chú bỏ người ta về xứ chứ sao. Ai mà tin được. Thím Sáu (má chị Bảy) bĩu môi. Ai mà đi theo níu áo các chú lại được.

– Ô thím chưa biết đấy thôi. Thằng Gia phân bua.

Tôi nghe thím nói “Bắc Bộ” mà không nói “Bắc Kỳ” thì cảm động nghĩ rằng thím có hiểu biết. Tôi vẫn nghe mấy tay du kích nhậu cả ngày mấy can rượu đế (nghe nói còn nhúng cả thuốc trừ sâu Patox vào rượu cho đậm) với xoài tượng xanh vẫn nghêu ngao hát chế chúng tôi :

Trên trời có đám mây xanh

Ở giữa rau muống xung quanh Bắc Kỳ…

🌺🌸📖🖍🌼🗓⏳💐🤖👁🌹

Kênh Trâm Bầu, con kênh nhỏ nối kênh Nguyễn Văn Tiếp B với kênh Bà Phủ chỉ với bảy tám nóc nhà chạy giữa hai đồng lúa. Dân làm nhà rải rác giữa đồng. Trước kia, khi lính sư 7, sư 9 bên VNCH chưa càn qua đây, họ ở hai bên bờ kênh Nguyễn Văn Tiếp (còn gọi là  kênh Sáng). Sau đợt càn, nhà cửa hai bờ kênh Sáng bị đốt hết. Cây cối xác xơ. Họ phải dời ra ngoài đồng. Kênh Trâm Bầu sáng nước ròng, chiều nước lên. Khi nước bạc, khi nước phèn. Bọt nước và từng mảng, từng mảng lục bình trôi dình dàng trên mặt nước. Đủ các loại xuồng, có gắn máy Cô-le (Kohler), hoặc không, xuôi ngược tấp nập, khá là vui. Chúng tôi nghỉ ngơi ở đây gần hai tháng.

Chúng tôi ở nhờ nhà chú Ba. Gặp buổi triều dâng, nước trong nhà chú lênh láng. Gà, heo nhảy tùm lum. Trẻ con chí choé. Gia đình chú chỉ có một cái giường nằm và một bộ vạt. Đêm đến không có chỗ ngủ, tụi tôi phải “sơ tán” lung tung tìm chỗ mắc võng, mắc màn. Ở Miền Tây muỗi bay như ong. Tôi thường xuyên bị muỗi chích sưng tấy khắp người thế mà không hiểu sao lại không bị sốt rét suốt thời gian ở dưới này. Việc sơ tán ấy đã đẻ ra lắm chuyện, đặc biệt là chuyện “Chàng Tư Cung” của chúng tôi. Những ngày sau, chúng tôi “dời đô” hậu cần xoong chảo về bên nhà chị Tư và ở đó cho đến hôm đi. Thỉnh thoảng tụi tôi lại bơi xuồng ra sông lấy củi, lấy chuối cây, chuối quả, rau ria vớ vẩn, kể cả thân bèo lục bình về làm thức ăn. Chỉ vậy thôi. Vài ba hôm lại chống xuồng ra tiệm mua cá khô, muối, bột ngọt, trà, thuốc lá… Thỉnh thoảng mượn câu, mượn lưới dăng cũng kiếm được một vài con cá rô, cá sặc, cũng có cá lóc. Nói chung, chả có cóc khô gì ăn cho ấm miệng. Thế nhưng A tôi hàng tháng phải xài tới 15, 16 gói trà B’Lao bự, đến hơn chục gói bột ngọt 50gr đấy. Thuốc điếu thơm Rubi, Casptan, rồi Cotab, phì phèo liên tục. Ngoài ra còn bia La-De, rượu đế nữa chứ. Sau đó là đi “quạt” gái chiều chiều (nói vậy thôi chứ chẳng có gì). Tối lại ngủ khì đến sáng.

Tôi với thằng Uy ở nhờ nhà bà Tư già. Bà ta là vợ thứ hai của ông Tư hiện làm Kinh tài của xã. Ông bà chỉ có mỗi đứa con gái là bé Út Ngọc năm nay 11 tuổi. Cô Tám Gần, con út bà trước của ông Tư, đi dân y xã được hơn một năm, không hiểu sao lại về, về luôn. Cái lý do không được hay cho lắm. Bà Tư, dì cô ta, định … ấy cho tôi đấy. Bà Tư, tội nghiệp cho bà già, cứ thủ thỉ nói chuyện với tôi. Bà thích một thằng rể hiền ở với bà, rể ngoài Bắc cũng được (!). Bà không có con trai. Bà hỏi thăm tôi về gia đình tôi, về cuộc sống riêng tư của tôi. Bọn kia cứ chế tôi là con rể của bà. Thế là bà khoái chí, cười típ cả mắt lại. Thế nhưng khổ quá, em Tám Gần với dáng người mập lùn, lủn củn, giọng ngọng níu, ngọng no, chuyện trò thì nhát gừng, câu được, câu chăng, chả vừa mắt tôi tí nào. Bà Tư già không biết cho tôi điều ấy, cứ hẹn hò tôi liên tục, đến là buồn cười. Chuyện cô Tám Gần, có hôm cô ta nhờ tôi vẽ mẫu thêu. Ngồi trên giường, chỉ mỗi tôi với cô ta. Tôi thấy đôi má cô ta cứ đỏ phây phây. Một lúc “vô tình”, cô ta gác mẹ đùi vào đùi tôi. Tôi thấy nóng rực, nhưng mặc kệ. Kể ra thì “xào khô” được đấy, nhưng tôi cứ tỉnh bơ. Mấy bận như vậy, chỉ tôi với cô ta. Cô ta cứ kiếm cớ đụng chạm vào người tôi, mặt cứ đỏ dại đi. Năm nay em mới 18 tuổi, một hai, anh Khánh, anh Khánh. Nếu được vậy mãi thì tôi cũng thích. Thế nhưng sau lúc đó, tôi hỏi chuyện, cô ta cứ câm tịt, không nói năng gì. Tôi cáu lắm. Có hôm cô ta ngồi may áo, thằng Gia đi qua hỏi :

– Cô Tám may gì mà khéo quá ?

Cô ta chưa kịp trả lời, tôi đã chêm vào một câu :

– Hỏi cô Tám làm gì, cô ấy đâu có mồm mà hỏi.

Cô ta lia một cái liếc cau có vào tôi. Lập tức tôi cũng ném một cái liếc nhìn dí dỏm trả lại. Bốn mắt gặp nhau. Không chịu được, cô ta cúi xuống phụng phịu. Thằng Gia đứng cười ha hả.

Hôm tôi viết lách vào cuốn sổ này, cô ta sấn đến đòi xem. Tôi không cho. Tôi bảo cuốn sổ này chỉ có một người thứ hai được xem thôi, người đó phải là người yêu của tôi cơ. Cô ta giận giữ bỏ đi, và giận, và ghét tôi từ đó. Ôi thật tội nghiệp, tại cô ta cơ mà. Có mồm sao mà lắm lúc như không mồm thế.

Mà lập trường tôi cũng vững, nếu không cẩn thận, láng cháng, dính với cô ta, bà Tư “tóm giò”, thì khốn nạn lắm. Giữa cái lúc tôi sắp kết nạp. Bọn nó lại chả coi cô ta ra gì, khích bác cô ta liên tục cơ mà.

 Nhưng mà tôi đang thầm yêu trộm nhớ cô Bé Tám thợ may. Mặc dầu trong một đêm tối trời, một mình cô ta ở nhà, cô ta đã cự tuyệt tôi (chuyện ấy không ai biết). Tôi vẫn đeo đuổi. Tiếc quá không còn lúc nào còn có dịp nói chuyện riêng tư với cô ấy nữa kể từ tối hôm đó. Từ kênh Trâm Bầu, hai chị em cô ta chuyển ra kênh Sáng cùng ở với anh chị Năm. Từ đó trở đi, thỉnh thoảng, đi kiếm củi, hoặc buổi chiều cơm nước xong, tôi với mấy thằng lại ghé vô nhà anh chị Năm uống nước chơi. Tụi tôi sẽ không quên anh Khánh và các anh đâu. Hai chị em tuyên bố vào đêm cuối cùng, khi chúng tôi đến nhà chia tay.

Ôi những kỷ niệm êm đềm bên kênh Trâm Bầu. Có những cái tôi chưa viết hết, “sống để dạ, chết mang đi”, tôi thầm nghĩ.

Cho đến hôm nay, tình yêu, tình yêu… thèm khát đã dày vò tôi đến là khổ sở. Tôi không hiểu tôi là một con người thế nào ?

Tạm biệt Đồng Tháp Mười.

20/10/1974

Không ngờ tôi lại nhận được thư của em Tám Gần. Bức thư viết “sít” lại trên ba mặt giấy và với một câu đề ngoài phong bì : em Nguyễn Thị Gần, người duy nhất của anh (!).

Dù sao tôi cũng cố gắng giữ lấy bức thư ấy, một kỷ niệm đáng ghi nhớ trong những ngày sống ở Đồng Tháp Mười, ở xã Thanh Mỹ bé nhỏ của quận Mỹ An, bên bờ kênh Sáng Nguyễn Văn Tiếp phẳng lặng, êm đềm này.

Em Gần ơi ! Dù sao, anh cũng có lỗi với em. Anh đã có những cái không phải đối với em. Bởi vì trong thâm tâm anh, từ những ngày đầu gặp gỡ rồi cùng sống trong nhà dì Tư với đồng đội anh, và cho đến khi chia tay ở kinh Cống Trâm Bầu, em có những nét, những “cái” mà anh không có cảm giác… thích rồi… yêu (?). Phải nói, em đã không quyến rũ được lòng anh. Em chưa hiểu cho anh điều đó. Phải chăng em cũng bị áp lực của Bà Tư già tội nghiệp, dì ghẻ của em ? Phải chăng em cũng mến, rồi thương anh, theo một sự nông thổi, bộp chộp của tuổi xanh ? Em đã từng nói với Năm Tho (cô này cũng đeo đuổi thằng Tố y tá của Đại đội tôi) : bộ trai Nam Bộ chết hết rồi sao mà phải lấy trai Bắc Kỳ cơ mà (?). Không, anh nghĩ rằng em nói vậy thôi, chớ không phải là có ác cảm với các anh. Về vấn đề này thì cũng còn liên quan đến nhiều yếu tố nữa, chẳng hạn : thời gian… Phải không em ? Nhưng anh tìm thấy ở em những cái chất phác thật thà của nông dân Miền Nam, cái hạn chế về trình độ quan hệ, cư xử… Anh thông cảm cho em điều đó. Anh tin những lời em viết trong thư là chân thật tự đáy lòng em… Em đã yêu anh.

Còn anh, thì như một cánh chim, anh vẫn còn bay, bay đi rất xa nữa cơ, em Gần ạ. Anh sẽ xa em rất lâu, rất lâu. Cái điều kiện sẽ quay lại gặp em, gặp gia đình em, rồi thực hiện lời nguyện ước của em, lời hứa của dì em.., anh cảm thấy rất khó, có thể nói là hơi… viễn vông một tí nữa. Anh vẫn nhớ đến em. Anh sẽ viết thư cho em (không biết có gửi cho em được không) để rồi xa em. Gần ơi.

21/10/1974

Sáng nay, sau bữa cơm thức ăn chẳng có gì ngoài rau tai voi luộc đắng nghét chấm nước mắm, canh ngọn cây ớt vớ vẩn và món cây chuối sống thái lát (mà không bữa nào thiếu được), là tiệc trà đắng chát cổ pha bằng hai cái bát sứ úp lại với nhau. Khi mấy hắn chuẩn bị rót trà ra một cái bát khác để quay vòng uống chung, tôi rút từ trong túi ngực ra gói thuốc “Rubi Queen” đã nhàu nát mua từ tối hôm qua và tuyên bố :

– Đây, “xông” chiếu (tôi mới mua một chiếc chiếu nylon) và lá thư Tám Gần đây. Rubi đỏ đàng hoàng nhé (thuốc Rubi Queen có hai loại, loại vỏ bao màu xanh có giá rẻ hơn là của Quân Tiếp Vụ VNCH).

Chúng nó khoái chí cười ha hả. Chỉ còn 6 điếu mà những 7 đứa nghiện.

– Thôi hút chung vậy nhá, tôi bảo thằng Cung.

Chả là tụi tôi vẫn có cái “tập quán” dở hơi là mua được cái gì mới đều phải “xông” thuốc lá. Có “xông” thì mới giữ được lâu bền (!?!). Tối qua, đi với thằng Quỳnh lên tiệm bà Năm lấy chiếu gân nylon màu lính khổ 90 phân về, nhớ ra, tôi lại phải lộn trở ra mua nửa gói Rubi đấy. Hôm trước lúc nhận thư Tám Gần, tôi cũng còn nợ tụi nó nữa. Bởi vì chúng nó đi công tác ở Trâm Bầu về cứ bô bô : Thuốc ! Thuốc ! Có thuốc là có thư. Thằng Khánh đâu, mua thuốc đi không thì ông giữ… “để cho tình cảm chúng mày ra sao”. Ha ha ha.

(Tôi nhớ chúng nó kể ở ngoài Bắc, thỉnh thoảng nhận được thư qua đường Bưu điện, có hai câu thơ ai đó viết tay nguệch ngoạc trên phong bì (có phải người đưa thư viết không thì không biết) :

Thư này ông đ… chuyển ngay

Để cho tình cảm chúng mày ra sao

Tôi cũng có lần nhận được thư của mẹ tôi viết : Thư của con còn lênh đênh trên những thùng thư nào mà mẹ không nhật được…”.)

Khói thuốc khói trà tuôn ra phào phào. Ừ, kể rả cũng buồn cười thật. Nhìn vào, trông bộ đội “sang” ghê. “Bộ đội có đồng ga (ra) đồng dô (vô) mà”. Tôi nhớ lời thím Tư khi thấy chúng tôi trà thuốc tùm lum. Thế mà cơm thì chỉ muối ớt, rau dệu, nước mắm. Đến chết cười. Lên voi xuống chó. Ở hai nút ấy của cuộc đời, cái gì thằng lính cũng “nhất”. “Sướng” nhất và khổ cũng … nhất.

Sau đó là chuyện tán gái và chuyện lính tráng Bắc – Việt bị bà giá (bà goá) bắt làm tù binh hết sức rôm rả. 🌹

Kênh Kỳ Đà, con kênh nước phèn trong hết sức, có thể nhìn thấy rõ mặt dưới của lòng kênh và những đàn cá lòng tong bơi lội tung tăng, chảy ngoằn ngoèo giữa cánh đồng. Thỉnh thoảng mới có những lùm tre, rặng gáo, tràm và trâm bầu xanh ngắt. Dòng nước đưa đẩy vật vờ những mảng bèo tây, rau mác xanh rờn. Hai bên bờ kênh lốm đốm hoa điển điển vàng xuộm. Hoa điển điển cũng hết dần vì lính tráng vặt về nấu canh, ăn sống (hoa điển điển giống như hoa cây điền thanh, ăn cứ như là giá đậu xanh, ăn quen cũng ngon). Chỉ có mấy căn nhà lèo tèo trên bờ kênh. Hầu hết dân làm nhà sâu vào trong cánh đồng, giống như kênh Trâm Bầu vậy. Mỗi tội nhà tiệm bán tạp hoá quá nhiều, đến 3 hay 4 cái gì đó. Nhà nào ở đây cũng đều là nhân vật trong các câu chuyện tán dóc của lính D14. Họ ở đây đã ba hay bốn tháng gì rồi cơ mà.

Lúc chiều qua, khi tôi và thẳng Quỳnh bơi xuồng dưới kênh, thấy cô Năm nhà bà Tư đang ngồi giữa sân cắn quả chuối xanh ăn ngon lành. Lập tức :

– Trời ơi, sao không sang tụi tôi lấy muối ớt về mà ăn chớ. Mấy tay lính D14 bên kia bờ kênh nói vọng sang. Cô Năm ơi.

– Các anh nói chi. Cô ta vẫn cắm cúi ăn.

– Bộ cô điếc hả. Tụi tôi thấy cô ngồi ăn có duyên quá mà. Ha … ha.

– Mèng… ơi. Kệ người ta chớ. Cô ta cũng cười.

Tôi nhớ lại câu chuyện kịch nói nghe qua radio đêm thứ Bảy vừa rồi. Trời ơi, bao giờ lại trở về Bắc, nghe lại những lời nói tình tứ như chuyện cô Hà B. hồi đêm nhỉ. Trò chuyện với các cô gái Miền Nam (chỉ riêng những vùng tôi đã đi qua thôi nhá) cứ như là nhai khoai sống vậy. “Tà la gì mà…” ngán ngẩm quá chừng, “mèng ơi”.

23/10/1974

TẠM BIỆT ĐỒNG BẰNG

Sau mấy ngày ăn chực nằm chờ ở kinh Kỳ Đà, mặc dầu bộ phận Nam Bộ chưa về, C tôi vẫn quyết định xuất phát. Biết chờ đến bao giờ, nhất là sắp hết mùa mưa rồi, đẩy xuồng thì khốn nạn lắm. Và thế là sáng hôm nay, chúng tôi xuất phát. Sau bữa cơm và tiệc trà chia tay với bọn D14, tôi còn kịp tìm gặp tay Vinh ở D bộ D14 (cùng xã với Sâm “già”) để chia tay và gửi cho Tám Gần lá thư viết hồi chiều qua, tranh thủ khi tụi nó kéo nhau xuống B1 dự tiệc nhậu.

Với 8 chiếc xuồng be chín, chúng tôi lềnh bềnh, khi thì chống tắt qua những ruộng lúa đang thì con gái, khi thì len lỏi giữa những đường nước cỏ sậy um tùm vượt sang vùng 4. Lại về gặp Ba Hồng, cô gái mới quen biết hồi xưa ở Kinh Tè, kinh Bùi Đừng. Lòng tôi vừa xen lẫn một niềm vui háo hức vừa dậy lên một nỗi buồn nao nao, thật là khó tả. Sắp phải xa rồi những gì vừa mới nên quen mà chưa được bao lăm, đã phải chia lìa.

Nắng chói chang. Bầu trời xanh trong bập bềnh những áng mây trắng xốp. Nắng Đồng Tháp Mười. Nắng như đổ lửa. Không một gợn gió. Chúng tôi bơi mãi miết. Chỉ nghe tiềng dầm khua nước, tiếng sào chống lõm bõm, tiếng nước cuộn hai bên mạn xuồng rột roạt. Một vài tiếng ho húng hắng. Có những lúc không ai nói gì. Áo quần ướt đẫm mồ hôi. Có lẽ đã trên một lần, tôi chợt nao nao nhớ về Tám Gần và bà Tư già tội nghiệp.

Những túp nhà lúp xúp nước vây quanh. Lợn, gà, trâu bò lầy lội. Những đôi mắt đen tò mò của mấy đứa trẻ con lem luốc nhìn chúng tôi thoáng qua, rồi lại lùi xa. Bỗng từ hướng Ngã Sáu dậy lên những tiếng nổ đề ba và mấy giây sau, những tiếng nổ rền rĩ loang dài trên mặt nước.

Chiến tranh hãy còn tiếp diễn trên mảnh đất này. Chúng tôi lại về Miền Đông. Không biết có gì mới không mà trên Miền báo gọi gấp thế chứ. Đời lính chiến, tôi mơ màng và triền miên trong những suy nghĩ trầm tư. Những quá khứ và những gì vừa mới qua đây cứ lần lượt hiện lên thật là lẫn lộn. Lại trở về Miền Đông, chốn xưa rừng cũ. Tôi giật mình vì chợt nhớ lại những ngày trùm chăn mà lạnh buốt xương, rên hừ hừ, lập cập gõ răng, đánh lưỡi mà sốt mê man trong cơn sốt rét. Tôi biếng bả gạt gạt những mảng lục bình đã tả tơi, dạt lại hai bên mạn xuồng. Nước reo lên nhè nhẹ. Thằng Gia và thằng Cung bơi đằng trước mũi, chẳng biết chuyện trò gì mà cứ khúc kha khúc khích tôi cũng chẳng biết nữa. Thằng Tuỳ ngồi bơi lái sau tôi khe khẽ hát. Không. Chúng nó có những suy nghĩ không giống tôi.

Một chiếc xuồng bơi ngược chiều tiến đến. Nước rẽ ra reo réo. Ngồi trên xuồng là hai cha du kích mặc đồng phục đen bạc phếch, một cha đội mũ tai bèo nhàu nát, cùng với một cô gái áo trắng đội nón. Không thấy súng nhưng thấy mấy thùng đạn đại liên US (du kích thường dùng đựng gạo, đồ ăn..), bồng, đồ lề lỉnh kỉnh. Họ tò mò nhìn chúng tôi rồi chợt nghe tiếng ré lên cười cợt nhau sau lưng khi chúng tôi đã bơi được một quãng xa.

Đã ra đến kinh Nguyễn Văn Tiếp B. Hai bờ kinh cây cối mọc um tùm, vắng vẻ. Những hoa bắp chuối đỏ thờ ơ rũ lõng thõng từ trên bờ xuống gần mặt nước. Thỉnh thoảng, một cơn gió hiếm hoi từ đâu kéo đến làm lung lay những bụi cây. Những nhành hoa điên điển như muốn sà xuống kinh. Nghe vài tiếng bìm bịp đâu đó, rồi tiếng rền rã của chim chóc, ếch nhái, tiếng cá đớp lóc bóc, tiếng thả dầm, tiếng người đông lộn xộn. Những âm thanh hỗn độn (mà tôi nghe cứ o o), có lúc giật cục, có lúc như rộn ràng, loang dài trên sóng nước trải rộng ra nham nhở của đoàn xuồng chúng tôi. Thoang thoảng một mùi tanh tanh đặc trưng của miền Tây, pha trộn mùi bùn, mùi cá, mùi các loài hoa cỏ lúc gần lúc xa.

Lúc bên bờ trái, lúc bên bờ phải, thảng hoặc tôi thấy cắm những cái bảng gỗ có vẻ trơ trẽn vẽ nguệch ngoạc một trái lựu đạn tháo chốt, một cái đầu lâu với hai khúc xương bắt chéo, những chữ viết cẩu thả đã bạc màu theo mưa nắng. Những trái bình bác xanh còn sót lại sau mùa mưa nhõng nhãnh lắc lư theo ngọn gió tự nhiên thổi thốc xuống lòng kinh. Những chùm lá chuối khô buộc treo lủng lẳng lòng thòng trên một sợi dây thép vắt căng qua kinh để ngăn chặn tầu lính cũng kêu lên xào xạc.

Đã quá trưa, chúng tôi khát nước. Đứa nào cũng vươn người qua xuồng vục mặt xuống lòng kinh hớp nước. Không mũ nón (trước khi xuống đồng bằng T2 này, tụi tôi đã đổi hết mũ tai bèo cho dân Miên lấy gà, lấy vịt hết ráo trọi rồi), mặt ai cũng đỏ gay lên vì nắng nóng, hệt như vừa nhậu xong một chầu rượu vậy. Tiếng dầm lại vẩy xuống nước chao lên, va vào mạn xuồng thành những âm thanh đều đều liên tục.

Từ xa xa đã thấy thấp thoáng những chiếc xuồng và tiếng máy cô-le. Sắp về đến chỗ tụi tôi ở trước kia, hồi mới ở Tà Nu xuống rồi. Đã bắt đầu thấy các nhà tiệm, thấy những két nước cam, két la de đỏ rực và những túm trà, thuốc, kẹo bánh… treo thấp thoáng trong nhà. Tiếng trẻ con bơi lội dưới bến, tiếng người cười nói lần lượt diễu qua. Có lẽ chúng tôi sẽ nghỉ nghơi ở đây, chiều đi tiếp.

– Ở đây có bán lu không cô ? Tôi hỏi một cách hài hước.

Ngẩn ra một lúc, cô gái có cặp mắt xanh rất “Mỹ” trên một khuôn mặt nhỏ có duyên, cơ thể đẫy đà nhưng cân đối khoẻ mạnh (tuy vậy tôi vẫn cố ý chọc ghẹo), ngước mắt lên nhìn tôi, tay vẫn thoăn thoắt xếp củi.

– Đây có lu bằng “dàng” (vàng). Coi bộ anh không đủ khả năng mua được quá.

Á. Tôi giật mình. Tôi đang gặp phải một đối thủ không vừa đấy nhé. Tôi ngồi xuống bờ kênh nói nhỏ :

– Bằng ấy đã ăn thua gì. Chỉ bằng sức thuyết phục thôi, đây cũng có thể mua được đấy.

– Khánh đâu ? Tôi giật mình quay lại, đã thấy thằng Gia ve vẩy điếu thuốc, mắt nháy nháy khêu gợi. Tôi gật đầu.

 – Chào cô nhé.

– Không dám.

Bộ đội ngồi đứng đông nghẹt trên bờ kinh chờ lệnh xuất phát. Tối nay chúng tôi tiếp tục sang vùng 4.


05/11/1974

Từ Tà Nu, chúng tôi trở về Miền Đông Nam Bộ.

Tôi đã viết đến trang cuối cùng theo đúng nghĩa trong cuốn sổ đã theo tôi suốt từ Mỏ Chén vào đây, trên mọi nẻo đường. Tôi chỉ còn nửa cuốn vở kẻ ca rô, không hiểu sao tôi đã rọc đi một nửa trên đường Trường Sơn (?). Không biết về đến hậu cứ ở Miền Đông, tôi có tìm được cuốn sổ mới nào không đây.

15/11/1974

Thế là bây giờ, đồng bằng Đồng Tháp Mười và những cái gì thuộc về kỷ niệm nhỏ to trong cuộc đời chinh chiến, những cái gì mà có thể gọi là “tươi” và “ướt át”, đối với tôi, đã hoàn toàn lùi về dĩ vãng. Tất cả dường như, khi mà những lúc này tôi chợt nhớ lại, đều đã trở thành một ký ức xa xôi. Xung quanh tôi, bây giờ là “rừng sâu lá thấp”. Những sự việc cũ và những khung cảnh quen thuộc của Miền Đông, nhẽ ra là quá ư xa lạ và khó chịu đối với tôi, nhưng mà rồi cũng qua đi theo thời gian, qua đi trong đời tư anh “lính khổ xa nhà” (tôi mượn những từ ngữ “ướt át” trong những bài hát Bô-lê-rô nghe được trên đài Sài Gòn). Tiếng chim hót, vượn kêu, rừng cây xì xào lao chao lá úa vào những buổi chiều dài dằng dặc đã thay cho khung cảnh hoàng hôn trời hồng nhạt với chiếc dầm bơi, xuồng chúng tôi lững thững trôi trên những dòng kênh lững lờ bèo lục bình giữa hai bờ cây xanh biếc, rộn rã tiếng nói cười trong cửa tiệm, tấp tập xuồng ghe với tiếng máy cô-le ở Đồng Tháp Mười. Những buổi chiều như thế bây giờ cũng đã dần dần quen thuộc…

– Mai này với thằng Uỷ đi bắt heo về liên hoan Khánh nhé, mang gạo đi hai ngày đấy. Còn thằng Tu sáng mai nấu cơm ăn thật sớm cho tụi nó đi lấy gạo nhé. Thằng Gia bấm đèn pin chạy sang nói với tôi giữa lúc tôi đang ngồi võng kê tập vở lên đùi mà viết.

– Ừ, chỉ sợ bọn mày không dậy sớm mà ăn thôi.

Thằng Tu vừa đung đưa chiếc võng vừa cười. Chiếc radio trên bụng hắn đang vang lên một giọng ca quen thuộc Kim Hà trong đài Phát thanh Giải phóng. Tôi chợt chú ý lắng nghe, tiếng ca thánh thót về một “tội ác” của chính quyền VNCH ở xã Chánh Tâm gần Sài Gòn, sao mà ngọt đến thế (?) Lâu nay tôi và gần như hầu hết tụi nó nữa, “nghiện” ca cổ cải lương. Mà nhất là tiết mục cổ nhạc, tân cổ giao duyên, trong đài Sài Gòn (chỗ này bí mật đấy nhé). Thời gian trước, kể cả ngoài Bắc, tôi chúa ghét giọng ca lài nhài, lôi thôi này trên đài. Chỉ khoái nghe tân nhạc thôi. Thế mà bây giờ, đã quen. Nói một cách khác, không khéo đã hoá … “Tây” (từ khi xuống T2, tôi vẫn nghe lính tráng gọi dân ở miệt dưới đồng bằng là “dân Tây”) !!!

 Hôm mồng 6 vừa rồi, chín thằng B3 chúng tôi lếch thếch kéo nhau về đến hậu cứ giữa tiếng hò reo chào đón của tụi Đội II. Bây giờ, hai đại đội C1 và C2 cũ trước đây hợp lại thành lập một tiểu đoàn, tiểu đoàn B72. Mang tiếng tiểu đoàn nhưng quanh đi quẩn lại, mấy hôm xem phim, xem “dăng (văn) công” của đoàn 75 phục vụ cho Đội III đi chiến đấu, tôi nhìn lại thì cũng chỉ lính nhà cả. Chỉ có mấy tay ở tiểu đoàn bộ trông hơi lạ lạ một chút thôi. Tiểu đoàn trưởng, không ngờ, trái hẳn ý chúng tôi vẫn suy đoán từ trước, lại là… “dân Tây”, tên là Tư Tỏi, Tư Giỏi gì đấy. Tư “Tỏi” chắc chúng nó nhạo thôi.

– Thằng “Tây” bây giờ lại lọt vào đơn vị mình mày ạ, lại chỉ huy “tối cao” mới chết chứ. Thằng Chiến có cái cằm nhọn lại phẳng bảo với tôi, khi mà tôi vẫn loay hoay tìm hộp quẹt châm mẩu thuốc “dê” (rê) quấn bằng giấy bọc trà. Chả hút được mấy tí. Tắt ngóm liên tục. Chả là tôi vẫn ghét thuốc rê đen Miền Nam này lắm. Hút hôi rình. Nhưng mà về đây, phụ cấp ít ỏi, hết “đồng dô đồng ga”. Hết khả năng xài thuốc thơm “Rubi Queen” vốn dĩ quen miệng rồi. Tôi đành phải quấn tạm “dê” đen vậy. Hỏng, hỏng hết, thằng Chiến vẫn than phiền. Lâu nay hắn (Tư Giỏi đấy) cứ về thăm bà xã hắn liên tục. Nghe đâu bà xã hắn bự con lắm. Hình như là lính Lệ Xuân ngày trước. Chả mấy khi hắn có mặt ở Tiểu đoàn. Lính tráng nhưng mà thấy hắn không thèm chào. Mày thấy chưa ?

– Ồ ! Dân Tây ấy à… Tôi nhún vai. Mặc mẹ nó chứ. À nhưng mà mày có nhận được lá thư Bắc nào không đấy ? Tôi hỏi Chiến.

– Được ba lá. Chiến cười hí hửng. Mày được bốn lá chứ gì. Thằng Tiến cầm cho mày đấy. Hắn còn đi Viện. Hình như hắn gửi thư lại cho thằng Hợp cầm thì phải. Trong đơn vị hầu như thằng nào cũng có thư nhà hết. Thế mày đã lấy chưa ?

– Tao lấy rồi, từ hôm qua kia.

Bọn tôi về sau, bây giờ ở Đội IV. Đội II do ông Tất Tưởng làm đội trưởng cũng chuẩn bị xuống đồng bằng. Thế là bọn tôi đã hết hy vọng trở lại chốn cũ. Chắc là chuyến này lại đi vùng ven Sai Gòn thôi. Lại Đồng Xoài, Bến Cát cho mà xem. Chuẩn bị cái xẻng con thật sắc nhé. Tôi hài hước nói với tụi nó.

Hôm qua, tự nhiên Đội II lại mổ heo làm một bữa ăn tươi vào buổi chiều. Họ mời hầu hết đội IV tôi vì trước nay, hai đội vẫn là một đại đội. Không may một điều, Đội II cử Bính “già” đi mua rượu, thuốc, trà và linh tinh ở khẩu Trại Bí lại không thấy về. Thế mới chết chứ. Cơm thịt đã dọn ra ê hề, thế mà chờ mỏi cả mắt. Ông Tưởng và lính tráng gắt ỏm xì ngầu lên mà Bình “già” vẫn chưa thấy đâu. Bữa cơm đành phải trôi qua và sau đó là “bạch thuỷ” và “dê đen”. Tôi với thằng Uỷ và thằng Quỳnh ngủ lại sáng nay mới về. Lúc về, tụi nó đã đi làm đường xe ở tiểu đoàn hết, chỉ còn mỗi thằng Tu nằm ở nhà. Ngày mai đi bắt heo rồi.


17/11/1974

– Ái chà chà ! Họ đã về tụi mày ơi.

– Ố, heo to quá. Ơ ơ. Bên kia lại heo nhỏ à ?

Tiếng cười nói rộn lên một góc rừng, khi sáu thằng tụi tôi áo quần nhếch nhác, xúm xít đẩy chiếc xe thồ chở hai chú heo, một nhớn một nhỡ, về đến nhà. Lúc đó trời đã nhá nhem tối. Lấy tay quẹt mồ hôi trán, ông Thanh y tá hý hửng bảo tụi nó :

– Đấy, chúng mày thấy không. Heo đẹp phải biết. Tụi tao chọn mãi đấy. Nằn nì thằng kho mãi, chúng nó mới cho bắt đấy.

– Thế sao con kia gầy còm nhom vậy ? Được ba chục ký không ?

– Thì muốn con ấy to hơn thì con kia phải nhỏ lại chứ. Tiêu chuẩn chỉ được 86kg hà. Ông Thanh y tá phân bua.


19/11/1974

Chúng tôi vẫn còn ăn bếp tiểu đội. Có lẽ khi ăn tập trung bếp Đội thì biên chế lại cũng nên. Mà biên chế lại thì chắc chắn rồi. Quên mất. Hôm nọ đi khiêng heo với ông Thanh y tá, ông ta bảo đã nhìn thấy danh sách biên chế rồi cơ mà. Hình như mình ở tiểu đội ông Vụ thì phải. Không biết có “phong phanh” gì nữa không đây ?

Chín thằng tụi tôi ở làm hai nhà. Hầu hết đã kê được giường và sạp nằm kết bằng những cây le thẳng. Khi dọn đến đây, bọn D bộ và C1 đã khiêng đi hết ráo cả giường. Cũng may là mỗi nhà còn lại được một bộ bàn ghế. Xung quanh nhà tôi, cây cối rậm rịt, chỉ chừa một khoảng sân nhỏ để phơi phóng quần áo. Một con đường mòn lá rụng lôm nhôm vắt từ sân đến nhà tiểu đoàn bộ. Không còn “chính quy” mấy nữa nên thỉnh thoảng chúng tôi mới quét dọn sân cươi. Trong nhà, đồ lề, quần áo bày biện tùm lum. Nhà bên kia là nhà hậu cần. Sân phía sau kê hai chiếc bếp. Mỗi bếp là 3 cọc cành cây tươi cắm chéo. Ông bếp này thọ ít lắm. Nấu được vài bữa đã cháy toi rồi.

Sáng nay tôi phải dậy sớm để nấu cơm cho tụi nó học chính trị. Mang tiếng dậy sớm nhưng nhen chưa được bếp đã thấy thằng Hùng trực ban hò hét bội đội dậy dọn vệ sinh rồi.

 

28/11/1974

Mở cuốn vở ra nhưng tôi cũng chả viết được một chữ cóc khô nào. Tôi bắt đầu rời hậu cứ lên đường đi “húc” tiếp.

Tôi đã viết đến trang cuối cùng của cuốn sổ bìa nâu đen ước chừng 100 trang. Lúc đầu, tôi chỉ dành cuốn sổ này để lưu bút những bài thơ tôi đã viết và dự định sẽ viết tiếp trong suốt chặng đời chinh chiến. Tôi đã có một cuốn sổ nhật ký khác. Tôi đã chăm chỉ viết, gần như thường ngày, viết khá nhiều, vào cuốn sổ đó, từ ngày nhập ngũ 06/09/1971, rồi huấn luyện bộ binh ở E320, huấn luyện điều khiển tên lửa B72 ở D371, rồi hành quân từ Mỏ Chén, Hà Tây…, cho đến Trạm 5 (T5) đường dây 559 Trường Sơn Đông. Từ T7, sau hai ngày hành quân, trong những giây phút bi quan, chán nản và bồng bột, tôi đã đau đớn đốt đi cuốn sổ nhật ký đó với suy nghĩ giản đơn là mong nhẹ được đôi vai. Thế nhưng từ đó về sau, lúc nào tôi cũng hối tiếc (và có lẽ sẽ hối tiếc mãi mãi đến hết cả cuộc đời). Từ đó, tôi đành phải viết nhật ký và làm thơ trong cuốn sổ bìa nâu đen. Tôi đã cố gắng giữ gìn nó cho đến lúc này. Không còn cuốn sổ nào, nhưng may mắn tôi vẫn còn giữ một nửa quyển vở 50 trang còn “mới” (thực ra đã nhuộm nước phèn mấy lần trong những con kênh, con rạch hồi ở T2), vẫn để dành kỹ trong ba-lô, rồi trong bồng cho đến bây giờ. Những ngày về đến hậu cứ Miền Đông, tôi bắt đầu viết trong quyển vở kẻ ca rô này.

02/12/1974

Đây là cứ 24 chứ không phải là cứ 42. Cứ 24 này nằm đối diện với cứ 42 bởi con lộ đỏ chạy về Minh Hoà, Minh Thạnh.

Hôm nay, chúng tôi nghỉ lại chờ ngày nhận lệnh đi phối thuộc với các sư đoàn bộ binh, Sư 7 hoặc Sư 9, của quân đoàn 301.

Thế là đã hơn một năm, nay tôi lại trở về đây. Ơi đất Bình Dương, ta lại xuống với người lần thứ ba !

Lần này đi, sẽ hứa hẹn những gì ? Bóng dáng những ngày đói ăn đi đào củ mài, củ chụp ở Đồng Xoài lại lần lượt hiện lên đe doạ. Tôi lắc đầu thầm nhủ :

– Không, những cảnh ấy sẽ chấm dứt, từ đây mình sẽ không muốn trở lại Đồng Xoài một lần nữa.

07/12/1974

Đây là cứ D22 của Tiểu đoàn cối 120 li và ĐK 75 của Sư 9, Quân đoàn 301. Tay giao liên của trung đoàn 42 dẫn tụi tôi đến đây lúc 6 giờ tối hôm qua, sau một ngày trời hành quân mệt lử dưới nắng cháy gay gắt mùa khô. Trưa nay, anh Nuôi, đội trưởng đội chỉ gồm hai A tụi tôi và hai ông A trưởng đã đi điều nghiên “trận địa”. Theo tôi được biết, mồng 9 tháng Giêng tới này, bắt đầu tham chiến trận đầu tiên. Mục tiêu là đánh cụm xe và tiêu hao sinh lực địch. Có thể tôi sẽ là người ấn nút phóng viên đạn đầu vì trong tiểu đội, tôi là người duy nhất đã bắn tham chiến. Tôi đã bắn tổng cộng 21 quả tên lửa rồi (ngoài Mỏ Chén, nghe cấp trên bảo giá thành mỗi quả đạn B72 tương đương với một xe Vonga). Không biết đợt đi này có thành công không đây ? Nếu gặp trường hợp như đã bắn 4 trái ở đồng bằng Đồng Tháp Mười, thì “ăn cám” lắm. Cả 4 chú đều “lủi” bụi, dụi gốc trâm bầu cả (“trậc lấc”).

Cứ đây tương đối khô ráo. Nước nôi lấy ở giếng đào ven thung lũng. Căn cứ nằm trong một khu rừng chồi. Đêm mắc võng ngắm được những khoảnh trời đầy sao. Ngoài kia là một bãi sình đã khô mà dân và bộ đội đã trồng rau, trồng sắn… Mấy hôm nay tụi tôi ăn được ít cơm. Hành quân mệt nhọc cả ngày nhưng cơm chẳng có thức ăn, ngoài vài ba miếng cá khô mặn chát. Đã thế gạo lại đỏ lòm, hôi rình. Chả bõ cho cơm gạo ở đồng bằng, cứ là thơm dẻo và trắng nõn nà. Bữa bữa, lính lác lại chui lồm cồm trong rừng tìm lá chua, lá chát về nấu canh. Gai nhọn quào rách cả mặt. Thế mà những của “ăn được” ấy, lại hiếm mới chết chứ !

Dạo nầy tụi tôi được phát quân trang miền Bắc. Đóng bộ chính quy vào trông cũng oai, dễ coi. Không còn kiểu quần áo tùm lum tà la nhếch nhác đủ kiểu màu sắc như dạo trước nữa. Tuy nhiên thằng nào cũng vêu vao xanh xám mặt mày, gầy gò như que củi khô. Đã thế, lúc nào cũng đói ăn mà bụng tôi cứ phình to, nung núc. Có lẽ là dư chấn của chứng sa lá lách hay phù thũng do sốt rét trước đây. Tôi nghĩ vậy. Hơn nửa năm “tẩm bổ”, “an dưỡng” ở đồng bằng T2 vừa qua thật chẳng bõ bèn gì. Mà cũng may mắn, lâu lâu từ dạo đó, tôi vẫn khoẻ. Mong rằng tôi sẽ không bị sốt rét nữa. Chỉ mỗi tội là “hổng” có tiền xài. Được dăm ba đồng phụ cấp, không biết thế nào lại “lỗ hà ra lỗ hổng” mất. Mà ở đây, thuốc rê cũng hiếm.

– Mày còn tiền không, mua thuốc hút đi mày.

Thằng Uỷ với chiếc áo lót cộc tay nylon xanh (kiếm được hồi đi T2 với tôi), áo bộ đội khoác vai, đi lững thững cùng tôi dọc đường mòn trong những buổi chiều tà hỏi tôi vậy. Miệng hắn chép chép thèm thuồng rõ to. Tôi lơ đãng nhìn về núi Bà Đen nổi lên xa xa, dần khuất trong sương chiều, rồi nhún vai thất vọng.

– Thâm đến tháng 2 rồi mày ơi ! Tôi biết hắn hỏi chơi chơi vậy thôi.

Hai đứa trở về nhà lúc bóng chiều đã hết…


19/12/1974

Trời vẫn rả rích mưa, những giọt mưa lây rây nhỏ tí tách trên mái hầm căng nylon kéo dài thành những đường ngoằn ngoèo như rắn lượn. Trời hơi se lạnh. Ngoài kia cây lá cũng im lìm. Chỉ chốc chốc, một vài cụm lá lắc lư nhè nhẹ khi chịu những bụm nước từ trên đổ xuống bất chợt. Thỉnh thoảng vọng lại tiếng cười reo của bọn C2 ở phía bên kia. Hôm nay D22 đón văn công của Sư 9 về biểu diễn, nhân tiện họ mổ heo và ăn liên hoan “22/12” luôn. Chúng tôi được “chia phần” trên 3 kg thịt heo. Chiều nay các bếp chúng tôi cũng liên hoan. Riêng A tôi, 6 mống, cũng “chơi sang” một gói Rubi Queen đỏ. Bữa cơm gồm dưa cải củ muối chua, lá chát kinh cang ăn sống, củ cải xào tóp mỡ và một đĩa thịt luộc lớn chấm nước gạo rang. Có thịt, thằng Gia phụ trách hậu cần tiểu đội lọc ra một ít rán thành mỡ rồi cất cẩn thận trong chiếc bình toong nhôm Bắc mà lúc nào hắn cũng khư khư mang theo. Số thịt còn lại đem ra dùng hết. Bữa cơm khá thú vị. Sau đó là tiệc trà và thuốc lá Rubi, mỗi thằng ve vẩy một điếu.

Mấy hôm trước, chúng tôi vẫn ở nhờ cứ C3 cách đây chừng 3, 4 phút đi bộ. Hôm nay họ đi chiến đấu về, chúng tôi phải di chuyển qua đây. Giao liên chỉ chỗ hậu cứ E3 cũ đã có sẵn hầm hố, không phải đào mới. Còn nhà cửa, bàn ghế, bọn lính đi tăng gia của E3 đã dỡ, đốt và lấy hết cả rồi. Mang tiếng sang ở cứ cũ nhưng chúng tôi phải hì hục dọn dẹp, cưa gỗ cất lều căng mái nylon suốt một ngày dưới trời mưa rả rích mới có một chỗ nằm tạm đủ gọi là.


22/12/1974

Hôm nay, là ngày lễ Quân đội, cũng đúng vào ngày Chủ Nhật.

Trời nắng ráo và đầy gió. Các căn cứ bên cạnh, bộ đội E3 đang hò reo làm bò, làm lợn, cãi cọ nhau vì một món tiết canh (chắc là tiết canh không đông chứ mẹ gì). Họ chuẩn bị liên hoan chè chén rôm rả. Còn chúng tôi thì sau bữa cơm sáng chỉ có sắn xào mỡ (sắn, trong này gọi củ mỳ, có được là do hôm qua, mấy thằng đi móc trộm ngoài rẫy của dân về đấy), mấy thằng túm tít lại ở nhà Tiểu đội anh Tín nghe đài (cái đài Hitachi của thằng Quế thì khậm khịt, ọ … oẹ, ọ … oẹ, nghe chẳng rõ gì). Được mấy lạng thịt, hôm nọ đã ăn trước mẹ nó rồi. Hôm nay rõ ràng là chẳng có cóc khô gì ăn cả. Đã thế tiểu đội lại ăn thâm. Khi thằng Tu, anh nuôi tiểu đội, đang bắt đầu cho bột ngọt vào nồi sắn xào, thằng Gia phụ trách hậu cần tiểu đội nhảy vội đến căn dặn :

– Cho in ít thôi mày nhé. Cái lọ ấy là một lạng đúng, chứ không phải 7 “lai” đâu. Hôm qua, tao đã đong lại rồi đấy. Từ giờ đến cuối tháng, mình chỉ còn một ít cá khô đang treo bếp đấy nữa mà thôi. Liệu liệu mà ăn chứ hết ráo tiền ăn rồi.

– Xờ … ơi, hết thì cả mấy thằng cùng chịu chứ lo mẹ gì mày. Tôi an ủi hắn. Trông mặt hắn cứ quạu lại. Đến chết cười.

Chỗ ăn ở của tụi tôi đã tạm ổn. Không biết ở đây chừng được bao lâu. Đi chiến đấu mà như thế này thì cũng tạm được. Hình như ngày mai họ lại đi điều nghiên trận địa tiếp thì phải. Hôm nọ, tôi đã dúi hai quả B72 vào cụm xe trên Lộ 7 từ một độ cao 11m nhưng trật lất. Đạn cũng xịt chỉ cách chỗ bắn khoảng hơn 100m mà không phát nổ. Bỏ mắt được vào ống kính mà tôi chưa kịp điều khiển gì. Bắn hết hai quả, chúng tôi có đủ thời gian rút lui yên lành mà không bị phản pháo dữ dội như những đợt trước.


29/12/1974

Thật đúng là những ngày ăn nằm rỗi rãi, buồn lê thê. Ngoài hai bữa cơm sáng và chiều (bọn tôi đã quen ngày ăn hai bữa), chúng nó ngủ khì khì trên võng, nói mơ lảm nhảm. Thảng hoặc, chúng nó túm tụm nhau lại chuyện gẫu, tục tằn, cười ha hả. Còn tôi, hết mang võng qua nhà thằng Tố y tá (hắn được bổ sung vào Đội từ hồi xuống T2 và từ đó luôn đi chiến đấu cùng A tôi) nghe đài, lại lộn lên ngồi trầm ngâm ở A anh Tín, hoặc đi lang thang vào rừng hái lá kình cang đem về ăn sống. Cây kình cang thuộc loại cây dây leo. Lá to giống lá trầu, mặt trơn. Lá non có màu hồng nhạt, ăn chan chát nhưng có vị dơn dớt chua.

Hái rau rồi, chả còn việc mẹ gì làm gọi là để giải buồn cả. Nằm toòng teng trên võng cạnh thằng Tố, hai thằng trầm trồ lắng nghe những giọng ca tân cổ nhạc, ai oán sầu bi trong đài Sài Gòn, bàn tán những giọng ca hay Thanh Kim Huệ, Lệ Thuỷ hoặc Chí Tâm… với một sự rung cảm nào đó. Nghe đài Sài Gòn mãi cũng chẳng đỡ buồn một tý nào. Sao cuộc đời tôi cảm thấy chán nản, hiu quạnh và lặng lẽ trôi một cách vô ích như vậy. Nhẽ ra tôi phải là thế nào. Tôi suy nghĩ hết sức vẫn vơ. Xung quanh tôi, chúng nó nô đùa, nói tục nói tĩu, bàn cãi những trò gì ở đâu đâu, chả có nghĩa lí gì cả. Dạo này tôi hay theo dõi đài BBC Luân Đôn nghe thời sự chiến cuộc mà những tin tức này, đài mình ít nói đến. Vậy thôi, biết làm gì bây giờ nhỉ. Ấy thế mà tôi vẫn cảm thấy thời gian trôi nhanh. Tôi định trở lại tập viết nhưng cứ hễ cầm lấy cây bút và quyển vở, tôi lại thấy chán ngán làm sao. Chẳng biết viết cái con khỉ gì cả. Thơ hả ? Viết tếu hả ? Đại khái là còn khối đề tài ra đấy, thế nhưng tôi chẳng có một hứng thú nào. Viết được một lúc, mồ hôi mồ kê vãi ra như tắm. Tay mỏi nhừ, nghuệch ngoạc. Đến là chán.

Không hiểu đời tôi sẽ trôi dạt về đâu, với cương vị trong cuộc sống như thế nào nhỉ ?

Trời mà biết được 

Lại bữa cơm chiều và ngày cứ vô vị trôi qua.

Hết năm 1974.

03/01/1975

HỒI TƯỞNG ĐƯỜNG TRƯỜNG SƠN

 – Dậy mà ăn cơm rồi hành quân Khánh ơi !

Thìn A trưởng gọi tôi dậy rồi quầy quả trở lại bếp. Ở đó, tôi thấy bọn Bính “già”, Bảy và Cường đang hý hoáy chèn nắp phụ đựng ruốc thịt chiên khô vào các ăng-gô cơm nén để A ăn dọc đường. Long “già” xin đâu được một mẩu thuốc lào đang cẩn thận gỡ thuốc vụn ra rồi quấn sâu kèn vào một cái lá rừng. Xong anh ta khật khà khật khừ vào bếp tìm đóm châm lửa, suýt đá vào nồi canh.

– Anh Long ra ngoài đi. Ho khù khụ ra đó giờ.

Thìn quắc mắt ngó Long “già” rồi xách ăng gô cơm lại chỗ tôi :

– Tớ lấy ăng-gô của Khánh nén cơm vào đây rồi. Còn mệt không. Hành quân được chứ !

– Được, tôi gật đầu. Chỉ hơi rức đầu và mỏi một tý thôi. Ấy, để võng màn tôi gấp cho, tôi tự gấp được mà.

Khi tôi và Thìn cầm bát lại bếp, cơm canh đã dọn ra. Mấy hôm nay, chẳng có gì ăn cơm cả. Chiều hôm qua đến đây lúc mắc võng dọn chỗ ngủ cho tôi, Thìn phát hiện thấy một cây lá bứa ở ngay đầu võng. Anh ta vội trèo lên hái một nắm lá non mang xuống hý hửng khoe :

– Thế là mai có món canh chua rồi đấy nhé.

Bữa cơm có canh chua lá bứa Thìn hái nấu ruốc thịt lợn và một đĩa ruốc chiên khô. Mùi cơm do gạo bị hôi mùi bì nặng nề xông lên, khiến tôi có cảm giác chẳng buồn ăn một tý nào. Bọn nó động viên mãi, tôi mới ăn hết được lưng một ca cơm, miệng cứ đắng nghét lại. Xong bữa cơm, thằng Đoán y tá đưa tôi hai viên Quynine và bốn năm viên Vicomplex rồi dặn :

– Mày uống làm hai đợt nhé. Uống Vicomplex trước cũng được. Chiều đến trạm rồi tao tiêm cho. Đồ đạc có nặng bảo chúng nó mang bớt đỡ cho mày. Ơ kìa, mày gài lệch cúc áo kìa.

– Ờ nhỉ. Hồi đêm nóng quá, tao phải cởi phanh áo mới chịu được đấy.

Phía gần suối đã vang lên tiếng gắt gỏng đặc sệt giọng Nghệ của ông Tất Tưởng, B trưởng B3 chúng tôi.

– Các A cho bộ đội tập trung lại đây mau. Các anh có biết chậm mấy phút rồi không ?

– Báo cáo Trung trưởng, A8 có mặt. Vũ khí trang bị đầy đủ.

Thằng Trường, A trưởng A8, có cái đầu “bốc xờ” ngộ nghĩnh, “dân cá gỗ” chúng tôi, tập giọng Bắc trọ trẹ báo cáo.

– Được, còn A7, A9 đâu.

– A7 báo cáo, vũ khí trang bị đầy đủ.

– Được. Đồng chí Tín cử cho một người mang AK đi lên trước với đại đội

 – A9 báo cáo, tất cả đầy đủ. Thìn hớt hải báo cáo.

– Hôm nay, A chúng ta tiếp tục hành quân vào T80. Chặng đường tương đối dài. Các tiểu đội phải bám sát vào nhau mà đi. Những đ/c yếu, tiểu đội phải cho người đi sau kèm. Hôm qua hành quân là chệch choạc lắm đấy. Đồng chí Đôi, mất trật tự.

Giọng đại đội trưởng Thanh Bình đã vang lên :

– B3 lên đi, khẩn trương 

– Thứ tự 8, 7, 9. Thường ! Bước ! Rồi quay lại nhìn tôi, anh Tưởng nói :

– Hôm nay cố gắng bám sát Khánh nhé. Có mệt lắm không. Đơn vị đi trước rồi quay lại đón em. Đường hôm nay lắm dốc tương đối khó đi đấy.

 – Vâng ạ.

Bãi khách trở lại sự vắng vẻ của núi rừng. Chỉ có tiếng chim rừng khe khắt. Những cơn gió sớm mai lạnh lẽo của rừng Trường Sơn xộc đến. Qua bãi phụ nằm bên suối, tôi thấy một bếp lửa kê bằng ba hòn đá hãy còn âm ỉ khói. Xung quanh vất bề bộn những mẩu giấy bọc lương khô và vỏ bao thuốc lá Điện Biên. Chúng tôi bắt đầu leo lên một quãng dốc đầu tiên.

(… còn tiếp)


06/01/1975

NGOÀI TRẬN ĐỊA

Một cơn gió lạnh thổi thốc từ hướng chuồng cu lại, lá cao su reo lên ào ào. Những bông hoa cỏ hôi trắng xoá đáp nhẹ vào người tôi. Tôi dụi mắt lim dim rồi lại co người chui vào tấm đắp dù hoa nhỏ xíu định nhằm mắt ngủ nữa. Thằng Tố y tá đã gọi giật giọng :

– Dậy đi Khánh ơi. Thằng ngủ ghê thật.

– Ơ sáng rồi kìa à. Tôi ngồi phắt dậy. Tao cứ tưởng còn sớm.

Mấy ông “cốm” bộ binh vẫn còn quằm quắp nhau ngủ ngon lành, dạt vào một góc. Tấm tăng nylon của tôi co dúm dó lại, đất cát tèm lem. Đêm qua tôi ngủ ngon. Lúc gần sáng, hình như trời có mưa thì phải. Ờ, đúng rồi, cây lá, mặt đất ướt lướt thướt kia kìa. Chà, thế mà tôi vẫn cứ ngủ. Giấc ngủ lì bì, thỏn lỏn trong tấm dù hoa để lại bây giờ một sự đau mình ê ẩm. Tôi vặn mình, xương sống kêu răng rắc. Hít một hơi dài, tôi đứng phắt dậy nhìn ra phía đài quan sát. Thằng Tố đang ngữa cổ cầm bình tông Mỹ súc miệng òng ọc. Ông Tờ, ông Vụ đang chăm chú quấn thuốc rê thầm thì nói chuyện với nhau rồi cùng bật quẹt châm lửa hút. Khói trắng phả ra phào phào. Bất giác tôi phì cười khi chợt nhớ lại giấc mơ tối qua. Giấc mơ êm đềm đưa tôi lại những ngày ở kinh cống Trâm Bầu với cô Tám Gần tội nghiệp. Chà, thế mà đã hơn hai tháng rồi đấy nhé. Biết bao là sự đổi thay…

– Ăn cơm đi ! Thằng Toan xách bọc cơm nắm ra dục.

– Lên đây, lên đây mày. Dưới ấy để đường cho họ đi. Ông Tờ gọi.

– Dao con đâu ? Ông Vụ hỏi Tố.

– Ờ, để tôi đi lấy.

– Lấy bọc đường trong túi mìn của tao nữa mày ơi, Tố ơi ! Ông Tờ gọi với xuống (ổng xin ở đâu được một cái túi đựng mìn Claymore, vải ka-ki xám, màu quần áo của lính VNCH, mà tay bộ binh nào cũng đeo túi khoác vai đựng đồ lặt vặt).

– Vừa chấm muối trộn bột ngọt, lại chấm đường nữa ?

Ông Vụ tủm tỉm cười hóm hỉnh nhìn ông Tờ.

(Vụ người Gia Viễn, Ninh Bình, tính tình vui vẻ. Hắn có biệt tài cắt tóc. Tất thảy lính tráng ở Đội tôi đều nhờ đến hắn. Hắn mang giữ theo mình cái kéo và một hộp dao cạo Đức Croma sắc lẻm. Tôi khoái cách hắn bẻ cong nửa lưỡi dao cạo Croma cạo kỹ lưỡng trong ngoài vành tai cho tôi.)

 – Thằng nào thích ăn với cái gì thì ăn !

– Chúng tôi vừa ăn vừa nói chuyện. Mấy bữa đều ăn cơm nắm nên bây giờ đã thấy “quen quen” và ăn được nhiều.

Bỗng từ hướng chốt Đồng Sổ, tiếng “tróc … oành” của M79 và tiếng cối tép nổ rậy lên. Sau đó là mấy loạt AK kêu giòn giã. Từ dưới hố bom, giọng ông Thuỳ, Chính trị viên phó tiểu đoàn 1 vang lên :

– Thằng Tăng đâu, trèo nhanh lên đài quan sát xem mày.

 – Bộ binh mình lại đánh lẻ rồi. Ông Tờ bảo, tụi nó đi từ lúc 3 giờ sáng kia đấy. Lúc tụi nó đi, tao biết.

– Tụi nó đánh vào chốt dã ngoại ở ngã ba anh Thuỳ ơi. Tiếng tay trinh sát ở trên đài vọng xuống.

– Chú ý thằng địch xem nó triển khai, thế nào. Ông Thuỳ nói

– Chờ nó phản cối xong mình đi. Ông Tờ nói. Mang một quả đạn thôi mày nhé, Vụ nhé (từ ngày về lại Miền Đông, mỗi lần đi tập kích phối thuộc với bộ binh, tụi tôi chỉ mang đúng một quả tên lửa, gọn nhẹ vậy cũng hay). Hôm nay để tao với thằng Toan tìm thêm một trận địa dự bị nữa. Tụi mày thấy ngon, cứ bắn nhé.

Chúng tôi hành quân ra trận địa. Còn đường mòn nhỏ chạy ngoằn ngèo giữa những bãi cỏ tranh xen lẫn cây cao su, gai mắc cỡ và cỏ hôi cháy sém, khét lẹt. Thảng hoặc ở những gốc cao su chết khô, tổ mối đùm lên từng đụn nhỏ. Bát sứ, bát sành đựng mủ cao su vỡ đôi, vỡ ba, lăn lóc tùm lum. Xưa kia, như bọn bộ binh nói, nơi đây là đồn điền cao su. Bom đạn và chất độc hoá học đã dọn gần như phẳng “lì” mất rồi. Bây giờ chỉ còn cây cỏ dại. Lác đác có những cây cao su còn sống sót khẳng khiu, thân cành mốc trắng loang lổ. Đường 13 chạy dài theo hướng Bắc Nam, ngoặt khúc ở Ngã ba là con Lộ 30 chạy về Lai Khê. Trên bàn đồ, chốt Bàu Bàng nằm giữa, cách chốt Đồng Sổ độ chừng 3 cây số. Các chốt dã ngoại nằm rải rác xung quanh ngã ba. Phía bên trái trảng tranh, có một chuồng cu, trước đây ít lâu là vọng gác của lính VNCH, cao lêu nghêu chắn nửa phía trước mặt chốt Bàu Bàng. Thỉnh thoảng gió đưa từ phía chốt lại tiếng hò la ỏm tỏi của lính VNCH. Một nửa phía trước mặt và bên phải chúng tôi là hai vệt rừng xanh. Một doi cao su tươi tốt vươn dài ra đến gần ngã ba. Sau bìa cao su đó là Chi khu Quân sự Lai Khê. Mấy hôm nay trực thăng vẫn thường lên xuống bốc quân. Chắc chúng nó đang điều quân lên Phước Long đấy. Mấy hôm nay, chúng tôi nghe tin bộ đội mình đánh lớn vào thị xã. Trung đoàn gửi điện chiến thắng xuống động viên.

– Các “công trường” bạn “làm ăn” ghê thật. Mấy ông cốm bộ binh nhận xét. Còn mình thì thật đến chán, đánh lẻ “goài…”.

Đi theo bảo vệ tụi tôi là ba tay bộ binh : Ngụ (chắc là Ngũ), người Hà Tĩnh, trạc tuổi tôi, vai vác B41 kềnh càng đã lắp sẵn đạn, tay kia còn xách kèm thêm một quả nữa. Lâm và Thanh, mỗi người mang một khẩu AK, bao xe đạn căng đầy trước ngực. Họ vừa đi vừa trò chuyện với tụi tôi. Thanh, tụi nó vẫn gọi là Thanh “già”, kể :

– Bọn tớ ở đây hôm nay là ngày thứ 9 rồi đấy. Hôm nào cũng đánh lẻ cả. Hôm đầu đánh xuất kích ở ngoài ngã ba. Các bố ấy “máu” quá. Tiểu đoàn 1 như vậy là chỉ còn mỗi C3 của bọn tớ. Còn C1 và C2 bị thương gần ráo, bây giờ đang về phía sau củng cố. Hôm nọ, xe tăng, xe thiết giáp kéo đến đây nhiều lắm. Chúng nó đậu ngổn ngang dọc đường 13. Trên đài, mắt thường bọn tớ cũng nhìn thấy kia mà. Khi bọn tớ nhào vào đánh, thiết giáp đằng sau quặp lại, vừa chạy vừa bắn như đổ đạn. May mắn C3 bọn tớ còn ở phía sau, không thì khốn. Chạy một bữa gần chết. Ông Tâm đại trưởng bị thương đi Viện rồi. Ông ấy đánh gan lắm. Lúc bọn lính chạy re trên lộ, ông ta kê khẩu đại liên ngay trên mặt lộ bắn xối xả. Lính cứ lăn kềnh ra như rạ. Khoái thật.

 – Thế bây giờ xe rút rồi à ?

– Nó khôn lắm. Nó nằm âm xuống đất. Tụi lính xếp bao cát lên trên. Mấy hôm nay, mình chỉ đánh lẻ nên tình hình cũng êm êm. Nếu nó biết có tụi các ông ra (có tên lửa B72) chắc lính nó hốt lắm nhé !

Một chiếc L19 è è, bay tròng trành qua trận địa. Từ hướng chốt, một tiếng đề ba của cối 81 lại bật lên nghe đánh “cạch”. Trời bắt đầu nắng dữ. Gió thổi ào ào. Cả không gian như chìm trong một không khí căng thẳng. Mặt đất cỏ cây nhang nháng nắng. Mùi cỏ cây cháy bốc lên, dữ dội. Mấy ông cốm Ngụ, Thanh, Lâm nằm la liệt, đạp tấm nylon dạt sang một bên. Súng ống, túi đạn vất tèm lem. Tóc tai, râu ria họ bờm xờm. Da dẻ, quần áo đen nghít cáu bẩn. Đã gần chục hôm rồi mà có tắm giặt gì được đâu. Ngụ vừa gãi đầu vừa nhăn nhó nhìn tôi :

– Ngứa thật, người nổi mẩn lên hết đây rồi này. Hắn lăn lộn vén áo chỉ cho tôi xem những vệt đỏ đầy lưng, đầy bụng.

– Thế đại đội không cho người ra thay à ? Tôi hỏi hắn.

– Thay con khỉ. Lâm nhe răng vàng ra. Cả đại đội bây giờ chỉ còn 15 tay súng. Ngày nào cũng có một tổ đánh lẻ, một tổ ra ngoài này trực chiến với các ông. Bịch thuốc đâu rồi mày ? Hắn vỗn bộp bộp vào Thanh “già” và chồm người ngồi dậy.

– Không có giấy. Thanh “già” nhăn nhó ngái ngủ trở mình. Mặt hắn lọ lem trông đến buồn cười. Đây này. Thanh “già” một tay đưa gói thuốc bọc nylon, tay kia vẫn kê đầu nằm ngủ.

– Anh có giấy không ? Lâm hỏi tôi.

– Không, không có. Tôi lắc đầu.

– Đây, giấy đây. Thằng Tố rút trong túi y tá ra một tờ giấy lớn đã nhàu nát, miệng chóp chép, gật gù :

– Các công cũng tài chịu thật. “Dê” Miền Nam a ?

– Ừ !

– Tôi xem họ quấn thuốc. Mùi thuốc bay lên hôi rình. Đã lâu rồi, tôi chẳng có lấy một mẩu thuốc thơm Rubi Queen nào. Thèm thật. Thuốc rê Miền Nam vừa nặng vừa hôi, hút cứ xói lói, móc cồn cào cả họng. Thỉnh thoảng buồn lắm tôi mới quấn một điếu hút chập chập, váng vẩy cả đầu. Phụ cấp tôi không khéo đã thâm sang tháng 3. Hôm họp chi đoàn ở cứ 22, chúng nó nháo lên gạ tôi mua thuốc đãi…

– “Phó” bí thư chi đoàn mà. Thế là tôi đành phải chi ra một gói Quân Tiếp Vụ mua chịu. Thằng Hùng xăng xở đi mua. Hắn còn mua kèm thêm một gói trà nữa. Lính tráng khoái chí cười ha hả. Đã thế, hôm đi lấy gạo, tôi lại ngoặc thay ngoéo trà với thằng Hùng chỉ vì cãi cọ nhau về đường đi. Xúi quẩy cho tôi, tôi bị thua. Được thể, thằng Giang, quản lí đội tôi, cười há há nhào luôn một gói trà B’Lao mất 200Đ. Thế là năm thằng pha luôn một ấm trà đặc chát, mất nửa gói một lúc, với mấy điếu thuốc Rubi ngay chỗ lấy gạo. Phè phỡn xong, tụi tôi khệnh khạng cõng 100kg gạo (mỗi thằng cõng 20kg) và 3kg muối ra về. Nhá nhem tối, tụi tôi mới về tới nhà. Đi gần 4 tiếng đồng hồ trên đường mà chẳng phải uống thêm một hụm nước nào nữa cả.

(Ở đất Bình Dương, các kho gạo, muối nằm sâu hút trong rừng, không có người trông coi. Giao liên dẫn đường chúng tôi đến kho một lần đầu thôi, những lần sau nếu còn phải đi lấy gạo nữa thì tự đi. Chúng tôi mang ba lô, hay bồng, đựng đủ 20Kg gạo mỗi chuyến một cách tự giác.)

 – Xe Khánh ơi ! Lên đây xem này.

Nãy giờ, ông Vụ vẫn ngồi trên giàn bắn bắc trên cây cao su dùng ống nhòm quan sát. Giọng ông ta đột ngột vang lên làm đứt dòng suy nghĩ của tôi.

– Hả, có xe à. Được để tôi lên. Tôi nói với lên và mở túi bảng điều khiển lấy vội ra cái ống kính tiềm vọng, rồi trèo lên đài.

– Cẩn thận đấy các ông “nội” ơi, lính ở Bàu Bàng nó nhìn thấy đấy. Thanh “già” nhắc.

Mặt chốt Đồng Sổ trải rộng ra trước bìa lô cao su. Hiện ra trong ống kính trước mắt tôi những u đất, bao cát và rào kẽm gai bùng nhùng, san sát. Mấy thằng lính mang súng, mũ sắt nháng nắng đang đi đi lại lại. Những thằng khác chắc đang túm tụm nhau dưới những chiếc bạt xám bay phấp phới trong gió, căng bên cạnh những ụ bao cát, tôi phỏng đoán vậy. Thỉnh thoảng, dưới một gốc cây xanh cao và từ mấy bụi cây vàng vàng, một bựng khói xanh lét lại phả lên rồi tan nhanh. Tôi bắt đầu đếm 1, 2… cho đến khi nghe tiếng nổ để đoán cự li nhưng rồi một lúc, chả nghe ra một tiếng gì. Không biết chúng nó làm cái con khỉ gì vậy.

– Mày nhìn về phía bên trái lô cao su đi, xe đang chạy cuốn bụi lên hai bên đường đó. Đếch phải tăng đâu.

– GMC phải không, anh Vụ ? Tôi vừa nhìn ống nhòm vừa hỏi. Lúc này mồ hôi ra đã làm mắt tôi cay xè.

– Đúng rồi, Vụ đáp.

Chiếc xe GMC đã chạy qua mấy ngôi nhà lợp tôn, qua hai cột ăng ten cao ngất nghểu, rồi bắt đầu từ từ đi chậm lại vào chốt Đồng Sổ. Đây chắc là trận địa pháo 105ly. Tôi vừa quan sát vừa tự nhủ. Một lúc sau, tôi thấy chúng nó xúm xít quanh xe chẳng biết khiêng cái gì trên xe xuống và chuyển những gì lên. Chừng 15 phút sau, chiếc xe chạy lùi ra lộ và chạy biến, để lại một đám bụi vàng bay tạt vào lô cao su.

Bỏ ống nhòm ra khỏi mắt, ông Vụ có vẻ cáu kỉnh :

– Đấy, chỉ có xe GMC. Bắn thì bắn thôi. Mấy thằng cha ở trên làm ăn thật chán. Xe cộ đâu chẳng biết (ý là xe tăng, xe M113).

Từ dưới đài quan sát, Thanh “già” ngước mắt nhìn lên phụ hoạ :

– Đúng thật, hôm nọ xe nó cứ đậu san sát. Ngon lắm cơ. Không khéo các ông về đây, nó sợ, nó rút rồi cũng nên. Mẹ sư ba “thằng Tây” (Thanh “già” chửi ẩn ý miệt mấy cha Miền Nam ở Trung đoàn đấy). “Điệp” (gián điệp) không biết chừng.

– Thì các ông thử xin bắn GMC đi. Cũng được đấy. Lâm có vẻ dò hỏi :

– Cứ bắn “đa… ai… đại” đi. Tố y tá bọn tôi trễ cái cằm dài ra phụ hoạ rồi nhăn nhở cười.

Tôi vẫn chú ý quan sát. Trong chốt Đồng Sổ có ba hay bốn cái ụ bao cát tôi vẫn nghi là xe tăng quá chừng. Cái tháp pháo và chiếc nòng ngất nghểu chỉ trông như một khẩu 12 ly7 giá lên. Không khéo tụi nó nguỵ trang bao cát lên xe tăng cũng nên. Tôi hỏi ông Vụ. Ông ta bảo nhìn cũng chẳng rõ lắm. Có thể xe cũng nên.

Nắng trưa chói chang, gió càng thổi mạnh. Hơi nóng của bãi cháy bay qua hầm hập. Phía Đông Nam, mấy chiếc cần cẩu và HU1A bay lạch phạch. Một lúc sau, chúng tôi xuống đài ăn cơm nắm.

Thằng Tố lấy bọc cơm ra. Ba cục cơm nắm gạo đỏ hoe, vỏ ngoài đã cứng ngắc, được đặt lên tấm nylon vừa được vuốt lại phẳng phiu. Ba ông bộ binh cũng đang hí hoáy dùng một sợi ruột dây dù (lính tráng chúng tôi vẫn dùng dây dù của Mỹ để làm dây buộc võng, căng tăng, bên trong lớp vỏ bọc, là một bó 8 sợi dây dù nhỏ mảnh và dai) để tét cơm ra thành những lát nhỏ. Thằng Tố gật gù khen ngợi :

– Các ông cắt cơm nghệ thuật thật. Mình cũng bắt chước. Ngay đó hắn mượn sợi dây.

– Các anh có gì ăn không ? Ngụ hỏi.

– Chỉ có muối trộn bột ngọt thôi. Còn các ông ?

– Cũng “rứa”.

– Thôi bắt đầu. Ông Vụ tuyên bố.

Giữa bữa ăn đột nhiên thằng Tố có vẻ xúc động :

– Lúc này mà em Năm Tho đến nhỉ ?

– Thì sao ? Tôi hỏi hài hước sau khi đã ngoạm một miếng cơm. Hắn cười :

– Chắc em lại chảy nước mắt ra.

– Thôi đi cha nội ơi, nó biết mẹ gì ông. Tôi cay nghiệt nói. Cả Tám Gần cũng “dậy”. Cứ cho tất cả đều là dĩ vãng đi.

– Biết đâu được đấy. 🗓⏳

Sáng hôm sau, chúng tôi lại ra trận địa. Lần này chúng tôi quyết định bắn GMC. Giữa đường, chúng tôi gặp một tổ bộ binh đi đánh lẻ về. Họ có 5 người. Quần áo mặt mày ướt đẫm, nhọ than, mủ cao su nhem nhuốc. Đi đầu là hai tay chung nhau vác khẩu cối 60 ly. Theo sau là một tay mang B40, một tay mang M79 và một tay AK. Vẻ mặt họ có vẻ hớn hở sau những giây phút căng thẳng chạy pháo phản túi bụi.

– Tác chiến về ư các “boòng” ?

– Các ông đi đánh xe à ?

– Xe nó rút mẹ đi rồi còn đâu.

– Đánh GMC ! Chúng tôi hớn hở đáp.

Chúng tôi đặt lại trận địa sang bên trái, cách trận địa cũ chừng 300m. Ngắm nghía địa hình, thế trận để kịp bắn xong rồi chạy ngay. Chúng tôi quyết định như vậy. Sau một hồi quan sát, Vụ và tôi phát hiện có xe tăng. Thật chẳng bõ công. Chúng tôi tin chắc lần này sẽ là cơ hội để bắn. Tôi chọn một ụ mối cao chừng một mét có năm, sáu chạng cây cao mọc lên làm nơi đặt bảng điều khiển. Tôi vác một bó cây và một mớ dây điện về buộc sơ sài thành một cái sàn vừa đủ chỗ nằm bắn, Từ đây có thể nhìn thấy xe tăng và điều khiển được tên lửa. Quả đạn được lắp ngay bên cạnh tôi, cách độ 1,5m. Thằng Toản bắt đầu lấy xẻng đào hố đặt nắp hộp đạn làm bệ bắn. Tôi cẩn thận đặt bảng điều khiển lên sàn và mở nắp túi vải bọc ra. Sau khi đã cố định ống kính tiềm vọng theo hướng thẳng của bảng, tôi di bảng vào hướng chốt Đồng Sổ. Trong ống kính, chiếc xe tăng được đặt gọn dưới vạch đứng dài và sau một trong ba vạch con có đánh số 1, 2, 3 tương ứng lần lượt với các cự li 1000, 2000 và 3000 mét (khoảng cách từ chỗ tôi đến mục tiêu là xe tăng). Tôi điều chỉnh đặt xe tăng vào ngay khoảng trống dưới vạch đứng trong ống kính làm mục tiêu cố định. Trời bắt đầu râm lại. Gió thổi nhẹ. Tôi có thể nhìn thấy rất rõ những thằng lính đội mũ sắt đang đi đi lại lại tíu tít trên sân chốt. Ông Vụ đứng bên cạnh chỗ tôi cầm ống nhòm quan sát chăm chú.

Thằng Toản vẫn cắm cúi đào. Đất rắn thật. Một lúc sau, chiếc nắp hộp đạn làm bệ được đặt úp vào hố theo hướng chốt Đồng Sổ. Khi thằng Toản lấp đất xung quanh, tôi đến hộp đựng đạn khệ nệ bê thân quả đạn đã lắp sẵn giá phóng để gá cố định vào nắp bệ. Tay trái, tôi gá phần đuôi quả đạn là một ốp cao su và nhựa eposy. Tay phải, tôi bóp hai càng trước (bóp mạnh vì thép cứng khó bóp) vào cuối hai hàng lỗ đục tại rãnh khấc phía trước của nắp bệ. Sau đó tôi mở nắp bọt nước quan sát (bọt nước đã được gắn sẵn trên giá phóng để điều chỉnh góc nghiêng của tên lửa). Thằng Toản chạy lại lấy tiếp đầu đạn lắp cứng vào thân. Hắn hỏi tôi :

– Lấy 1-30 à ?

– Ừ, tôi đáp.

Điều chỉnh vạch của bọt nước vào chỉ số 1-30 trên giá, tôi nâng quả đạn lên xuống và di chuyển hai càng trên hàng lỗ. Bọt nước chạy từ từ đến vạch giữa, tôi bóp hai càng vào hai lỗ tương ứng và đậy nắp bọt nước lại. Gương nốt bốn cánh ra, tôi nói :

– Xong, tớ chuẩn bị bắn đấy.

Tôi trèo lên ụ bắn và nhìn lại trái đạn một lần nữa. Trái đạn ngóc lên, đầu thuôn vát tròn trông thật dữ. Bốn cánh xoè ra y hệt một chiếc máy bay phản lực vậy. “Đi cho tao rồi nổ to vào mày nhé !”. Tôi nhìn trái đạn thầm nhủ và cho mắt phải vào ống kính. Chiếc xe tăng vẫn đứng im lìm. Khẩu pháo tự hành gắn trên tháp xe chỉ về hướng đông trông thật là ngứa mắt. Mấy thằng lính đang xúm xít quanh xe. Chắc chúng nó chưa biết sắp đến giờ tận số. Nhẽ ra chúng tôi chờ để bắn xe tải GMC, thế nhưng suốt buổi sáng quan sát, chúng tôi phát hiện ra có ba đến bốn chiếc xe tăng đang cụm lại ở chốt này. Chúng nguỵ trang xe thật là khéo léo. Không tinh mắt quan sát khó mà phát hiện được. Những bao cát và tấm vải bạt căng xung quanh xe nhìn xa y hệt nhau, giống như những lô cốt dã chiến. Không, chúng không thể che dấu, hết được. Những nòng pháo tự hành ngóc ra và lũ lính trèn lên trèo xuống đã phanh phui cái hung dữ và độc ác của những con quái vật thép ra rồi. Hiển nhiên, hình thù chiếc xe M41 đã in hằn trong con mắt của tôi. “Mày sẽ biết tay ông !”. Tôi căm phẫn nhìn nó. Từ những chiếc xe này, lửa đạn đã toe toét bốc ra. Bao nhiêu đồng đội tôi đã phải lùi lại và thương vong bởi nguồn hoả lực quái ác này trong những trận tập kích. Lời mấy “ông cốm” bộ binh luôn vang lên trong tai tôi : “Mấy chiếc xe tăng tai hại thật. Các ông và chúng tớ phải tìm diệt bằng được”. Đúng tai hại thật. Chỉ có vũ khí B72 của chúng tôi, con bạch tuộc, mới vươn vòi được đến chúng. Nằm sâu giữa chốt, mấy chiếc xe rất “an toàn”, không bị súng B40, B41 của bộ binh ta bắn tập kích vào. Thế nhưng, chúng nó không thề ngờ được.

Bỏ mắt ra khỏi ống kính, tôi nhìn sang Vụ :

– Tôi bắn nhé. Một thoáng hồi hộp vụt qua trong tôi rồi lãng đi rất nhanh.

– Ừ bắn đi, bình tĩnh vào mày nhé !

– Được rồi. Tôi quay sang nhìn thằng Toản: Tao bắn đấy nhé. Hắn gật đầu mỉm cười động viên tôi.

Tôi kéo cần điều khiển lên đánh “cấc” một tiếng và lắp phích cắm điện nối quả đạn với bảng. Xong, tôi quay công tắc bắn về vị trí “Ш” cắm điện tương ứng. Tôi chọn vị trí bắn là  “Ш2“. Đèn tín hiệu màu đỏ trên bảng điều khiển bật sáng lên. “Đã sẵn sàng !”. Tất cả như nói với tôi vậy. Tôi đặt tay vào nút phóng “Пуска”, chuẩn bị nhấn. Ông Vụ đứng dưới ụ mối quan sát không bỏ sót một hành động nào của tôi. Cho đến khi “xẹ … ẹt, một tiếng đề ba rền rĩ rít lên, quả tên lửa rùng mình rời hệ phóng, để lại một đám bụi nhỏ tan dần trong gió. Từ quả đạn, một vệt dây trắng ào ào tuôn ra. 

Rời tay khỏi nút phóng, như một phản ứng tự nhiên, tôi chụm hai tay rất nhanh vào ốp cao su hình chóp nón của cần điều khiển, trong khi mắt vẫn nhìn theo quả đạn. Liều vạch đường trên thân đạn đã nhang nháng cháy đỏ lử. Quả đạn đã vọt qua khỏi hàng cây trước mặt, cách chỗ chúng tôi bắn khoảng 400m mà trước đó, tôi dùng làm “vật chuẩn” hiện sẵn trong ống kính. Những tiếng rít xé gió vọng lại mỗi lúc một xa. Tôi căng thẳng bẻ cần điều khiển, khiến cho viên đạn đi thăng bằng, rồi một cách dứt khoát, bỏ mắt phải vào ống kính.

Trong ống kính tiềm vọng, tôi đã thấy chấm đỏ dao động nhoay nhoáy của quả đạn đang hiện lên, cách mục tiêu về phía trên và bên phải một quãng. Bình tĩnh và thận trọng, tôi bẻ cần lái đưa đạn về bên trái. Tên lửa ngoan ngoãn sang trái theo ý tôi. Chấm đỏ xích gần lại vạch đứng thẳng có sẵn trong ống kính. Tôi thoáng nghĩ ở bên ngoài, quả đạn vẫn đang lao đi vun vút. Tiếng kêu “xạch, xạch” đều đều vọng lại. Chỉ nhìn thấy một vết đỏ loè nhấp nháy của liều vạch đường và sợi dây điện trắng dập dềnh chao đảo rải nhẹ trên bờ cỏ, bụi cây, kéo dài hun hút theo đường bay quả đạn. Chắc những đồng đội đứng quanh tôi đang nhìn chấm đỏ dao động lên xuống qua lại mà hồi hộp lắm. Họ đang nhìn thấy khoảng cách nhỏ dần giữa viên đạn và mục tiêu. Cái hồi hộp dần dần được nâng lên, rất mãnh liệt, trong lúc quả đạn mỗi đi xa. Thời gian được tính thêm mỗi lúc bằng một phần mấy giây đồng hồ. Chắc trong ống nhòm của ông Vụ, lũ lính vẫn đi lại bình thường, chiếc xe vẫn đứng im lìm. Tất cả, chúng như chưa biết cái gì sẽ đến, chúng chưa biết sắp đến thời khắc chúng sẽ phải đền tội ác.

Quả đạn, tượng trưng bằng chấm đỏ, vẫn vun vút lao đi. Ở trong tình huống này, tôi chỉ là người xử trí theo phản xạ của thần kinh và bằng tinh thần quả cảm, điêu luyện sau những lần lâm trận thế này. Sự lo lắng và hồi hộp đang ở trong lòng những đồng đội có trách nhiệm đứng quanh tôi. Họ mới là những người vỡ ra cái vui sướng bất ngờ đầu tiên, đáp ứng được cái hồi hộp trước tôi. Tất cả những công sức mà đồng đội tôi đã đổ ra, tôi là người cuối cùng ghi kết quả. Nếu như tôi điều khiển quả đạn trượt ra ngoài mục tiêu, cái gì sẽ xảy ra ? Một câu hỏi ? Không, thực ra đấy chỉ là một sự thất vọng hoàn toàn. Nói một cách khác, tôi đã đổ đi tất cả những gì thuộc về giai đoạn đầu của một cuộc đột kích. Những quả trượt trước đây bị “lủi đất” chủ yếu thường do tên lửa bị ẩm, hư hỏng các linh kiện điện tử… sau những chặng đường dài vận chuyển gian khổ từ Bắc vô đây. Nhưng cũng có quả bay được tới gần mục tiêu nhưng cũng “lủi đất” quay lơ do vướng vật cản. Tôi không nhớ thực sự đã bắn trượt bao nhiêu khi những quả tên lửa đó nổ tung lên trước khi bay gần đến mục tiêu. Giờ đây, sự điêu luyện về kinh nghiệm và kỹ thuật cá nhân đang thử thách tôi. Tôi đang xử trí bằng phản xạ, bằng lý trí. Tôi có cảm giác như quả đạn đi thật lâu (thực ra là không đầy một phần ba phút đồng hồ). Người tôi đã cảm thấy rấm rức mồ hôi. Trách nhiệm chiến thắng đang đổ dồn vào đôi tay tôi, lan truyền từ con mắt và thần kinh đang căng thẳng đổ xuống cần điều khiển. Tôi sẽ là người chiến thắng. Một tiếng nói đâu đó vang lên động viên tôi, thúc đẩy tôi… Bằng sự im lặng và căng thẳng, chắc đồng đội quanh tôi cũng đang động viên tôi.

Tôi bẻ nhẹ cần điều khiển vế phía trước, hạ dần chấm đỏ của quả đạn. Quả đạn nhích gần xuống chiếc xe tăng. Chấm đỏ đã trùng lên tháp pháo. Xuống, xuống một tý nữa. Thế, giữ thế. Đâu phải dễ dàng để giây phút đó kéo dài. Quả đạn như muốn vọt lên và sang phải. Phía dưới quả đạn đang vừa bay vừa quay tròn nhả dây, cỏ cây cũng chạy rạp theo luồng gió. Tôi phải giữ ở độ cao ổn định không cho cỏ hay lá cây quấn vào quả đạn. Sắp đến mục tiêu, mà quả đạn nằm ịch xuống đất, không nổ như mấy lần trước nữa, thì “ăn cám” lắm. Tôi thầm nghĩ. Từ ý muốn truyền qua đôi tay, rồi truyền ra quả đạn đang bay ngoài xa kia đâu có dễ dàng gì. Ý muốn truyền qua đôi tay là linh cảm và phản xạ. Từ đôi tay ra quả đạn đang vun vút bay là kỹ thuật máy móc nhân tạo, sự linh hoạt và năng động tính thật kém xa : ý muốn đang được truyền đi trong một sợi dây điện nhỏ mong manh (!).

Trong khoảnh khắc, một tia lửa khủng khiếp loé lên. Một đám khói nâu sẫm trùm lấy con quái vật. Không còn trông thấy gì nữa. Tôi không trông thấy lũ lính quanh đấy hốt hoảng nằm rạp xuống, rồi bật dậy chạy tứ tung. Một lúc sau, “ùng…”, một tiếng nổ vang dội trải đến, chạy lan ra phía sau rừng và bãi trảng. Khói đen từ hướng chốt Đồng Sổ ngun ngút bốc lên.

– Trúng rồi. Tôi nghe tiếng ông Vụ vang lên.

(Viết xong, 08/01/1975)

17/01/1975

NHỮNG NGÀY RỖI RÃI

Đúng là những ngày rỗi rãi. Ngoài hai bữa cơm sáng và chiều, chúng tôi nằm dài trên võng. Giấc ngủ kéo dài lê thê. Ngủ sưng híp cả mắt lại. Riêng tôi, chả có gì giải trí ngoài cách viết lăng nhăng vào cuốn vở này, rồi tự đọc lấy cả. Chỉ có hôm nọ, đi ra suối tắm, suối khá là xa, giữa đường tôi nhặt được một mẩu báo cũ bị vò lại dúm dó, nhàu nát. Tôi đoán là báo “Dân Luận” của Sài Gòn vì đọc thấy một câu chuyện hình như phiêu lưu, mà không rõ đầu đuôi, không rõ đề mục, chữ được chữ mất, có đoạn “…đảm bảo thiệt của Dân Luận” (!?!). Xin lỗi, mẩu báo có lẽ lính mình chùi… đít rồi vất đi. Cũng chả rõ kẻ đó nhặt ở đâu ra mảnh báo đó để xài (mà tụi tôi thì thường kỳ bẻ que, bẻ lá). Thế nhưng tôi vuốt ra phẳng phiu, cầm đọc tẩn mẩn kỹ lưỡng một lúc lâu mới “nỡ” vất đi.

Trời ạ, sao tôi lại có sự đau khổ về thể xác và sự “có cái tôi” giữa lúc này nhỉ ? Giữa cái tuổi hăm ba ? … này ? Đang suy tư như vậy thì bỗng nhiên nghe tiếng gió ào ào, tiếng cây rừng rào rạt, rồi tiếng quạch quạch ngay trên đỉnh đầu. Tôi hốt hoảng nhìn lên và giật mình khi thấy thấp thoáng trong các ngọn cây một chiếc “cán gáo” đang nghiêng ngả đảo qua. Tôi vội vàng nằm lăn vào một bụi cây, mắt vẫn lo lắng ngước lên. Tôi thấy rõ một thằng lính mặc rằn ri ngồi ngay cửa máy bay, hai tay hắn cầm càng một khẩu súng lớn ngoay ngáy hướng xuống đất. Tôi nín thở. Máy bay đảo qua đảo lại hướng bên kia hậu cứ một lúc rồi bay mất hút. Hú vía. Tôi vội vã chạy về vẫn thấy chúng nó đang nằm.

– Chúng mày có thấy thằng “cán gáo” bay qua đây không ?

– Tao chỉ nghe tiếng phạch phạch của trực thăng một lúc thôi. Chắc là thằng “cán gáo” bay lẹ nên chúng nó không nghe. Tôi nghĩ bụng.

Đung đưa chiếc võng, thằng Gia than thở :

– Thế là chỉ còn hăm tư ngày nữa là đến Tết. Cha mẹ ơi, cha mẹ có biết con còn ở đâu không ?

Thằng Tố vẫn là một thằng ưa thực tế trả lời ngay :

– Ở tây Lộ 13, gần Bàu Bàng chứ còn ở đâu nữa !

Nhưng mà rồi hắn trở lại “thực tế” :

– Không, dù sao mình cũng phải làm một bữa ra trò. Sau đó thâm đến mấy thì thâm, phải không ?

Bằng chữ đầu câu rất tục, thằng L. tiếp lời :

– Tăng gia thì đã không có. Đơn vị nhà thì ở xa. Thằng Tiểu đoàn II (tiểu đoàn chúng tôi đang phối thuộc tác chiến) may ra thì nó cho được mấy lạng thịt ôi chứ mẹ gì.

Rồi hắn lập luận :

– Nhưng mà lấy tiền đâu ? Ngày hai bữa cơm với rau củ cải 70Đ một ký lô, hết muối chua đến luộc chấm muối trộn bột ngọt mà còn thâm ỉa ra quần.

– Mày tục quá đấy ! Tôi nhắc hắn. Hắn nhăn nhở cười rồi nói tiếp :

– Huống hồ đòi thịt heo, của lạ. Hứ.

– Thì cũng phải tình thế nào chứ ? Thằng Tố vặn lại.

– Tính thế nào được. À mà này, Tết này là cái Tết thứ tư tao xa nhà đấy.

– Còn bọn tao mới Tết thứ ba.


07/02/1975

HÀNH QUÂN VỀ HẬU CỨ

Tôi ôm bọc võng màn vừa ra đến trảng định xuống suối tắm giặt “tổng kết” để ăn Tết thì gặp anh Nuôi đại đội phó. Anh ta đang đi rất vội vàng. Mồ hôi, mồ kê nhễ nhại đọng thành từng giọt lớn trên bộ quai hàm râu ria quai nón đen trũi. Vừa gặp tôi đã hồng hộc nói lớn, giọng có vẻ hí hả :

– Về. Về chuẩn bị hành quân về hậu cứ ăn Tết !

– Sao ? Anh bảo sao ? Tôi ngạc nhiên.

– Còn không sướng hay sao. Tao vừa nhận lệnh ở E bộ (Trung đoàn) xong đây.

– Ô thế à. Tôi quay ngoắt lại theo sau anh ta và gọi lớn về nhà :

– Thôi, thôi tụi mày ơi. Ha ha ha. Chuyến này thì hết chuẩn bị rôm rả nhé.

Suốt cả buổi sáng, tụi tôi cưa củi, làm đủ thứ để chuẩn bị Tết : Một giàn củi “bành ky” (bự chảng) đun ngót nửa tháng mới hết này. Súc thớt to bự cưa ra từ thân cây dầu này. Bàn ghế dựa, bếp núc, bệ rửa ráy làm hùng hục suốt mấy ngày nay này. V.v…. và v.v… Lại làm một sọt đậu xanh ủ giá, chất một thùng lương khô dưa cải củ vừa muối chiều hôm qua này. Bao nhiêu là thứ. Tôi còn bắt chước chúng nó hỳ hục mấy ngày làm được hai đôi đũa gỗ dầu màu sậm đen trông như gỗ mun, đầu tròn, đầu vuông, mài bóng lộn, để ăn Tết. Nghe tin vậy, chúng nó dừng cả lại trố mắt ngạc nhiên, tiếc ngẩn ngơ. Nhưng dù sao, được trở lại hậu cứ ăn Tết, lòng chúng tôi lại háo hức trở lại.

Sau bữa cơm ăn vội vàng, chúng tôi cấp tốc hành quân về cầu Xình. Thật là lắm việc. Hai người phải đi nhanh về trước đón mấy ổng về hậu cứ lấy hàng Tết từ hôm đầu tháng. Họ có nhiệm vụ lấy xe đạp quay lại thồ heo. Chả là thằng Toản chở chú heo xuống đây sớm quá, từ hôm 17 Âm lịch cơ. Lại còn bộ phận mang gạo trả lại cho E bộ cách cứ đến 3 tiếng đi bộ. Thật là rối trí. A tôi chỉ còn lại hai thằng, tôi với thằng Gia. Hai đứa gánh gồng lỉnh kỉnh. Mỗi thằng mang ngót nghét trên 30kg chạy cà lệch cà tang về cầu Xình lúc đã 4h chiều. Thằng Gia còn phải quay trở lại đón chúng nó khiêng heo. Tôi ở lại cắm bếp nấu cơm canh chờ tụi nó đến.

 Nghỉ ngơi đến 12h khuya, chúng tôi đi nhờ được chuyến xe tải chở gạo về làng 18 ở Dầu Tiếng. Xe đi suốt đêm. Chiếc xe GMC to bự chạy xành xành, phun khói đen ầm ĩ, va rầm rầm vào hai bờ cây trên lộ Cây Trường, cành lá thi nhau quất tới làm chúng tôi nghiêng ngả. Mắt nhắm mắt mở ngái ngủ nhưng bụng anh nào cũng vui. Tôi đã nghỉ đến viễn cảnh hành quân bộ ngày mai : kiểu này nắng, nặng méo mặt cho mà xem… Hôm nay đã 27 Tết rồi.

08/02/1975

Đã bước sang ngày hôm sau. Trời lạnh và nhiều sương. Chúng tôi ngủ la liệt dưới một rừng cao su non ở làng 18. Chỉ chợp mắt được một tý. Chúng nó dậy đốt lửa sưởi nói chuyện rì rầm. Trong lúc mơ màng, mắt cay sè, tôi nghe hình như có một bà già ra ngồi nói chuyện với tụi nó. Nghe má, má, con, con… Cứ “ỳ xèo” một lúc lâu.

Trời sáng hẳn, sương mù dày đặc. Sương ướt hết cả võng màn. Chà. Tôi giật mình khi nhìn lại người. Chân tay quần áo lọ lem, đất cát bẩn thỉu, thế mà vẫn nhảy lên võng ngủ. Tôi gấp đồ gọn gàng để chuẩn bị hành quân. Bàn cãi một lúc, tụi tôi quyết định ở lại nấu cơm ăn xong rồi mới tiếp tục hành quân.

Suốt một ngày hành quân mệt lử, chúng tôi dừng lại ở Lộ Đỏ chạy về Suối Đá. Còn cách cứ nhà độ bốn tiếng. Chỗ dừng nằm bên cạnh con suối nước chảy lập lờ. Chúng tôi nấu cơm chiều, nghỉ ngơi và quyết định 4 giờ sáng ngày mai đi tiếp.

09/02/1975

VỀ ĐẾN NHÀ

Hăm Chín Tết. Khoảng 3h chiều, chúng tôi lếnh thếch kéo nhau về đến nhà giữa tiếng reo hò của tụi Đội 2. Tụi nó cũng vừa được lệnh trở về hậu cứ ăn Tết nhưng mồng Ba đã lại phải lên đường rồi.

Gặp lại Vũ Tiến. Nó đang bận rộn trang trí. Hai tờ báo đã làm xong. Tắm giặt xong, tôi nhào vào vẽ vời khẩu hiệu, trang trí nhà cửa đón Tết.

10/02/1975

ĂN TẾT Ở HẬU CỨ

Ngày 30 Tết, Đội 4 chúng tôi xắng xít lên. Bộ phận thì mổ heo. Bộ phận thì gói bánh. Bộ phận thì chuẩn bị nấu nướng. Ăn tập trung mà. Khoảng 3h chiều, tiệc bàn ê hề bắt đầu dọn ra. Cỗ Tết bắt đầu. Tiểu đội tôi chỉ còn lại bốn người. A trưởng Vụ đã đi đón thằng L. từ hôm qua. Cộng với thằng D. mới bổ sung về nữa là năm./.

NGUỒN BÀI ĐĂNG 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét