Trang

Thứ Sáu, 24 tháng 11, 2023

CHẾ GIỄU BÀI BÁC TRÍ TUỆ

Vương Trí Nhàn

Một người bạn tôi bảo phần lớn truyện cười dân gian ở ta là những câu đùa cợt qua lại của mấy anh đói, nghe cũng có lý. Ở đây, đề tài ăn uống chiếm tỷ lệ khá lớn.
Nhiều truyện khác thiên về mô tả đời sống bản năng của con người. Chỉ có một bộ phận nhỏ truyện tiếu lâm đi vào ghi nhận các vấn đề nghiêm túc trong đó có tư duy của người Việt. Ở đó chúng ta hiện ra như những người thông minh nhưng nặng về khôn vặt, nông nổi mà lại kiêu căng về sự nông nổi của mình và khi đuối lý thì hay lý sự cùn.
Một số truyện còn cho thấy người nông dân xưa – tác giả các truyện tiếu lâm – cố ý đi vào chế giễu sự suy nghĩ của của con người và ngầm đề ra những triết lý bi quan theo đó cho rằng mọi cố gắng tư duy tư tưởng đều vô nghĩa.
Trời sinh ra thế là câu chuyện ông bố vợ với hai chàng rể, một làm ruộng và một học trò. Cuộc đối đáp của họ cho thấy người xưa đã muốn đi vào giải thích tại sao những sự vật quanh mình lại có đặc tính thế này thế kia. Tại sao con ngỗng cũng như con ễnh ương lại kêu to? Tại sao sao con vịt nổi mà cái thuyền cũng nổi?
Nhưng diễn biến của cộc đối đáp khá bất ngờ. Cứ mỗi lần anh con rể học trò đưa ra một sự cắt nghĩa thì anh làm ruộng bẻ lại ngay. Vì sự hiểu biết thực tếcủa người học trò là hạn chế nên sự bác lại có vẻ như là có lý.
Nhưng điều quan trọng hơn là sau đó, người ta – đây là các tác giả ẩn danh của truyện dân gian nói chung--đi tới kết luận “dốt đặc còn hơn hay chữ lỏng“.
Tức là thôi không bàn nữa, cũng như không nên học. Học mà làm gì, chúng ta sẽ chẳng bao giờ học đến nơi đến chốn, âu là nghỉ cho khỏe.
Đã đành biết cái gì dở dang thì chẳng hay ho gì. Nhưng lẽ nào vin vào cớ học hỏi hiểu biết rất khó, người ta từ bỏ luôn cả sự học?
Nhưng đấy là một xu hướng không hề che giấu toát ra qua mẩu truyện cười mà người nghe đa số đều đồng tình tán thưởng.
Nhiều truyện tiếu lâm khác cũng có thiên hướng hư vô tương tự, tức là phủ nhận mọi cố gắng tìm tới cái hoàn thiện. Cả sự cẩn thận lẫn sự lễ phép đều bị truyện Ba anh đầy tớ mang ra giễu. Anh đầy tớ nọ đang khiêng cáng cho ông chủ, được khen liền đặt cáng xuống để cám ơn. Sự lễ phép quá vô duyên và con người sao quá ngớ ngẩn. Truyện Nói có đầu có đuôi thì bịa ra cảnh một ông chủ bắt đầy tớ phải ăn nói cho mạch lạc, kết quả là cháy mất cái áo.
Cái gọi là suy nghĩ nghiêm túc ở đây bị coi là không thiết thực, là học đòi không phải lối, là có hại.
Nhiều người nước ngoài đến VN trước kia đã kín đáo nhận xét là người mình thích bài bác chế giễu những gì khác mình.
Những nông nổi hồ đồ đó là một biểu hiện trẻ con, như chữ Tản Đà đã dùng.
Trong sự bài bác nói chung thường có cái lối “tự kỷ trung tâm luận”, coi mình là cái rốn của vũ trụ, cái gì mà mình không biết tức là không cần và cũng chẳng ai biết hơn mình mà phải quản ngại.
Cũng tương tự như cái lối tinh ranh tinh tướng, cái gì không làm được thì không cho người khác làm, không ăn được thì đạp đổ.
Riêng việc chế giễu bài bác trí tuệ nó có liên quan đến những khó khăn trong việc đặt trí óc vào công việc, từ đó tạo nên bản năng tự phát trong suy nghĩ và hành động người Việt.
Đời sống khó khăn khiến cho người ta luôn luôn sống trong chen chúc cạnh tranh. Song không sao tìm ra cách cạnh tranh lành mạnh.
Một cách tự nhiên, nẩy sinh ý hướng không muốn tuân thủ lối sống chuẩn mực, kiếm sống bằng đủ loại thủ đoạn, cũng như sinh ra thói cạnh khóe chê bai nhau.
Đây là đặc tính của lớp người mà xã hội học gọi là những
kẻ chầu rìa.
Theo các nhà xã hội học, lớp người này không có khả năng làm giàu về vật chất. Trong sự bất mãn, họ liền tự khẳng định bằng cách tỏ thái độ khinh miệt đối với nhân tố trí tuệ đạo đức và tinh thần con người. Đối với nhưng chuẩn mực đã định hình về sinh hoạt và ứng xử, và nói chung đối với kiến thức và sự uyên bác nói chung họ thù ghét ra mặt.
Chúng tôi đã có lần nói rằng văn hóa Trung Hoa có truyền thông tôn trọng những người có văn hóa. Nhưng ở đây cũng có một dòng nước ngược.
Người Trung quốc tự trào (sách đã dịch ra tiếng Việt ở Nxb Văn học 2000) cho biết người Trung quốc không chỉ xu thời, cầu an, sẵn sàng hối lộ thần thánh hoặc rúc đầu vào cánh, cam chịu trước cuộc đời bất công... mà còn “coi nhẹ trí thức văn hoá, thù hằn tri thức văn hoá “.
Theo những người viết sách, “giảo hoạt là sự kết tinh thông minh tài trí của người Trung quốc, khuyết điểm lớn nhất của nó là đối lập chủ nghĩa lý tưởng với chủ nghĩa hành động, nó cười giễu mọi cố gắng của nhân loại...”
Nhìn lại dân ta thì sao?
Do hoàn cảnh riêng của người Việt, những thói xấu này càng ăn sâu vào tâm lý, trở nên một căn bệnh dai dẳng khó chữa và nhiều khi bộc lộ ra một cách trơ tráo.
Sang thời hiện đại, đặc tính “cái gì cũng xem thường“ “khinh thế ngạo vật” “ghét sự suy nghĩ dùng đến sách vở”… còn được công khai tiếp nối. Một người như nhà văn Nguyễn Công Hoan trong hồi ký của mình đã hồn nhiên cho thấy mình thực quả là một thứ tập đại thành của lối suy nghĩ đó.
Ông đã diễn tả cho thấy tình trạng này đã ăn sâu vào nhiều người Việt để trở thành một cách cư xử tự nhiên như thế nào.
Trong Đời viết văn của tôi, nhà văn kể, từ nhỏ ông ham chơi và ngại học. Vừa thi tốt nghiệp xong là ông bẻ bút và cho hết sách vở để khỏi ngó ngàng gì đến chúng nữa.
Hồi còn đi học, có lần làm bài bàn về hy vọng, ông viết ở đời tôi không có hy vọng gì, rồi đem nộp thày.
Cái lò gạch bí mật của ông kể một anh theo dõi một người có học sống ở một làng quê, ra cái vẻ đang điều tra khoa học lắm, rút cục chỉ bắt gặp một anh ỉa bậy.
Truyện thường bị kêu là tục tằn, nhảm.
Nhưng phải nói cái chính là nó muốn chế giễu một lối sống nghiêm túc có tìm tòi suy xét điều tra nghiên cứu trước mọi sự kiện xảy ra chung quanh.
Sự thống trị gần như tuyệt đối của tinh thần bài bác trí tuệ để lại nhiều hậu quả nặng nề. Suốt thời trung đại chúng ta không hình thành nổi một tầng lớp trí thức đủ mạnh đóng vai trò dẫn dắt đám đông đại chúng trong cộng đồng.
Trên nhiều phương diện, văn hóa Việt Nam kể cả văn hóa quyền lực văn hóa chính trị như còn đang ở vào một tình trạng tiền văn hóa chứ chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của xã hội.
(Theo tôi đọc được, ở nhiều nước trên thế giới, kể cả Trung quốc, văn hóa dân gian bao gồm văn học truyền miệng, hoặc các loại nghệ thuật không có tác giả -- chỉ mới có yếu tố văn hóa chứ chưa thể là văn hóa theo nghĩa đầy đủ của chữ này. Và một nền văn hóa mà hàm lượng folklore quá cao là một nền văn hóa chưa trưởng thành).
VTN - 2007


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét